Chính Quyền Thuộc Địa Bắc Mỹ
Phạm Văn Tuấn
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ là một trong
các tài liệu có ý nghĩa nhất trong lịch sử của nước Mỹ. Không
những Bản Tuyên Ngôn này công bố Hoa Kỳ là một quốc gia độc lập mà
còn hùng hồn đề cập tới nhiều nguyên tắc trên đó hệ thống chính
trị của Hoa Kỳ được xây dựng.
Sự việc các nhà lập quốc Bắc Mỹ viết ra được
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 hay Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ năm 1787
không phải bỗng nhiên mà có. Người dân Bắc Mỹ vào thời kỳ đó đã bị
ảnh hưởng bởi nhiều sự kiện của các thời thuộc địa khá lâu dài và
trong gần 200 năm của nền lịch sử thuộc địa, từ khi thị trấn
Jamestown được thành lập năm 1607 tới Hội Nghị Lập Hiến năm 1787,
các thái độ chính trị và các hình thức chính quyền mới tại Tân Thế
Giới đã được thành hình.
Các truyền thống chính trị, luật pháp và chính
quyền của nước Anh đã được mang qua Bắc Mỹ, đã bị thay đổi để đáp
ứng các nhu cầu và nguyện vọng của cư dân sống trên lục địa này.
1/ Các di sản chính trị của nước Anh.
Từ năm 1066, thời của Vua William nhà chinh
phục (the Conqueror), các người cai trị xứ sở Anh đã cố công thiết
lập nên một chính quyền trung ương mạnh. Tuy nhiên, họ đã không
thể đạt được một vương quyền tuyệt đối với quyền lực không giới
hạn và toàn diện giống như các vua chúa của châu Âu bởi vì các nhà
quý tộc Anh và các gia đình chủ đất đã nắm giữ một số thẩm quyền.
Năm 1215, các nhà quý tộc Anh đã nổi dậy, bắt
buộc Vua John phải chấp nhận Bản Hiến Chương Lớn (the Magna
Charta) và bản văn này đã đặt ra các giới hạn xác định trên quyền
lực của nhà vua. Bản Magna Charta được coi là nền móng của các tự
do hiến định của người dân nước Anh. Theo bản văn này, Vua John
chấp nhận một số quyền quan trọng như sự tự do tôn giáo, sự bảo vệ
tài sản tư, việc xét xử trước một bồi thẩm đoàn và các giới hạn
trong việc đánh thuế. Mặc dù vào thời đó, Bản Hiến Chương Lớn chỉ
bảo đảm các quyền lợi cho các nhà quý tộc nhưng đây vẫn là một
bước quan trọng trong việc thiết lập nguyên tắc về chính quyền có
giới hạn (limited government).
Cũng vào thế kỷ 13 đó, có các thay đổi khác
trong việc tổ chức chính quyền của nước Anh. Quan trọng nhất là sự
xuất hiện của Nghị Viện Anh (Parliament) tức là cơ quan có quyền
lực để làm ra các luật lệ. Nghị Viện Anh phát xuất từ hội đồng các
tổng giám mục (bishop) và các nhà quý tộc, là những người cố vấn
cho nhà vua.
Tới cuối thế kỷ 13, các thành thị của nước Anh
đã phát triển và trở nên quan trọng. Tại các địa phương này, các
lãnh chúa hay các hiệp sĩ cùng các người dân giàu có đôi khi được
mời tham dự vào các buổi hội họp của Nghị Viện. Tập tục này được
tiếp nối và nhân viên của Nghị Viện phải họp riêng rẽ, tại hai
“Viện” (two Houses). Viện Quý Tộc (the House of Lords) hay Viện
Trên gồm có các tổng giám mục và các nhà quý tộc, họ là những
người thừa kế hay được chỉ định. Viện này đã chế ngự Nghị Viện cho
tới đầu thế kỷ 18.
Viện Dưới hay còn được gọi là Viện Dân Biểu
(the House of Commons) bao gồm các hiệp sĩ và các đại biểu. Việc
bầu ra đại biểu vào Nghị Viện thời đó chưa có tính phổ thông, chỉ
một số người có tài sản mới được phép đi bầu và những người này
thường là giáo dân của Nhà Thờ Anh Cát Lợi (the Anglican Church).
Như vậy, tuy việc chọn lựa đại biểu còn bị giới hạn, nhưng vào
thời kỳ đó, một số người dân Anh đã có quyền chọn ra người đại
diện tại Nghị Viện. Nguyên tắc chính quyền có đại diện đã được áp
dụng tại các định chế của các xứ thuộc địa Anh, để rồi sau này
dùng cho cách tổ chức chính quyền tại Hoa Kỳ.
Bản Hiến Chương Lớn của năm 1215 cũng đề cập
đến nguyên tắc về tự do cá nhân theo đó các thần dân của nước Anh
có một số quyền mà vương quyền không được vi phạm, chẳng hạn như
sự xác định sau: “không một người dân tự do nào bị bắt bớ hay cầm
tù mà không có sự xét xử theo luật pháp bởi các người đồng đẳng
với họ hay bởi luật pháp của đất nước“. Câu xác định “xét xử bởi
các người đồng đẳng“(peers) có nghĩa là một người quý tộc chỉ có
thể bị kết tội qua một bồi thẩm đoàn gồm các người cùng là quý
tộc. Quyền lợi này về sau được nới rộng ra cho mọi công dân Anh
khi có việc xét xử bởi bồi thẩm đoàn và khi cần tới việc bảo vệ
của luật pháp.
Trước vương quyền, Nghị Viện Anh đã tranh đấu,
đòi hỏi nhiều quyền lợi cho người dân và nhiều giới hạn đặt lên
vương quyền. Trong tiến trình này, “Bản Đòi Hỏi Quyền Lợi" (the
Petition of Rights) năm 1628 cũng là một thành công. Khi Vua
Charles I cho rằng nhà vua đã cai trị nước Anh do một thứ quyền
thiêng liêng (divine right) thì Nghị Viện Anh đã từ chối cung cấp
tiền bạc cho nhà vua, trừ khi nhà vua đồng ý với các đòi hỏi liệt
kê trong Bản Quyền Lợi kể trên.
Một số điều đòi hỏi được kể như sau:
Nhà vua không có quyền bắt giữ các nhân viên
Nghị Viện hay tống giam các công dân nếu không có lý do hợp pháp.
Không được đánh thuế nếu không có sự chấp
thuận của Nghị Viện.
Charles I
Vua Charles I đã ký vào Bản Đòi Hỏi Quyền Lợi
nhưng rồi đã không giữ lời hứa. Nhà vua còn tìm cách giải tán Nghị
Viện, cai trị nước Anh theo chế độ quân chủ tuyệt đối. Việc tranh
chấp giữa vua nước Anh và Nghị Viện cuối cùng đã phải bùng nổ
thành cuộc nội chiến năm 1642. Nhờ tài lãnh đạo của Oliver
Cromwell, các lực lượng hoàng gia đã thất bại, vua Charles I bị
chặt đầu vào ngày 27-1-1649 và một nước cộng hòa được thiết lập.
Năm 1660, nước Anh lại trở về chế độ quân chủ nhưng từ nay, Nghị
Viện Anh đã hoàn toàn có quyền hành tối thượng, hơn cả vương
quyền.
Tới năm 1688, một biến cố chính trị khác đã
xẩy ra và được gọi là “Cuộc Cách Mạng Rực Rỡ“ (the Glorious
Revolution). Vào lúc này, Nghị Viện Anh đã chọn ra Nữ Hoàng Mary
II và Vua William III và hai nhà vua này sẵn lòng ký tên vào Bản
Dân Quyền Anh (the English Bill of Rights).
Qua tài liệu lịch sử này, các nhà cai trị xứ
sở Anh công nhận một số quyền căn bản của người dân và những cam
kết gồm một số điều như:
quyền của người dân Anh được đòi hỏi vương
quyền trả lời các khiếu nại.
quyền của người dân Anh được che chở không bị
đóng tiền thế chân (bail) quá đáng và không bị trừng phạt tàn nhẫn
hay bất thường,
quyền của người dân Anh được xét xử nhanh
chóng và công bằng,
quyền của Nghị Viện, chứ không phải là nhà
vua, chấp thuận việc duy trì một đạo quân trong thời bình,
quyền tự do ngôn luận và thảo luận trong các
buổi hội họp của Nghị Viện,
quyền của một số thần dân nước Anh được giữ và
mang võ khí.
Trong việc điều hành chính quyền của nước Anh,
đã có nhiều thay đổi. Để cắt nghĩa và bênh vực cho các cải cách
này, triết gia John Locke đã cho xuất bản vào năm 1689-90 cuốn
sách có nhan đề là “Hai Khảo Sát về Chính Quyền“(Two Treatises on
Government). Qua tác phẩm này, John Locke đã làm phát triển hai ý
tưởng mà về sau đã ảnh hưởng lớn lao tới chính quyền Hoa Kỳ.
John Locke đã đề cao mục đích của chính quyền
qua lý thuyết “Khế Ước Xã Hội” với mục đích của chính quyền là
phải bảo vệ các quyền căn bản của người dân, đó là đời sống, sự tự
do và tài sản. Nếu một chính quyền nào không làm tròn nghĩa vụ đó
thì người dân có quyền nổi dậy và lật đổ chính quyền đó. Các tư
tưởng rất tiến bộ vào thời đó của John Locke đã ảnh hưởng rất mạnh
đến các nhà lập quốc Hoa Kỳ, đặc biệt là các ông Thomas Jefferson,
James Madison và Benjamin Franklin và được phản ánh trong Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập.
Đồng thời với việc phát triển sự tự do cá
nhân, nền luật pháp của nước Anh cũng được bắt đầu cải tiến tại
Bắc Mỹ. Từ đầu thế kỷ 12, một hệ thống luật pháp đã thành hình
trên toàn thể nước Anh với luật tập tục (the common law). Loại
luật pháp này không căn cứ trên các điều lệ do cơ quan lập pháp
thông qua, mà được xây dựng dần dần do các quyết định của các quan
tòa, đặt căn bản trên các phong tục và tập quán. Những quyết định
pháp lý này đã trở thành các mẫu mực, các tiền lệ (precedent) cho
các công cuộc xét xử về sau.
Tại nước Anh vào thời đó, Nghị Viện là cơ quan
lập pháp chính thức nhưng quan tòa lại là nhà diễn giải và áp dụng
luật pháp. Luật tập tục từ gốc đã không do các lệnh của nhà vua mà
được căn cứ vào các tập quán, vì thế người dân nước Anh cho rằng
luật tập tục là thứ bảo vệ các quyền lợi của họ. Nguyên tắc căn
bản của luật tập tục là luật pháp được áp dụng cho cả nhà vua lẫn
thần dân và nguyên tắc này đã ở trong các văn kiện như Bản Hiến
Chương Lớn, Bản Đòi Hỏi Dân Quyền và Bản Dân Quyền Anh.
Khi các người dân Anh di cư qua Bắc Mỹ, họ đã mang theo
niềm tin tưởng vào việc cai trị bằng luật pháp, và tại các xứ
thuộc địa, các nguyên tắc của luật tập tục đã đóng một vai trò
quan trọng.
2/ Chính quyền tại các thuộc địa Bắc Mỹ.
Vào thế kỷ 16, các nước Pháp, Tây Ban Nha, Hòa
Lan và Anh đã tranh giành nhau đất đai tại lục địa Bắc Mỹ. Người
Anh sau đó đã kiểm soát được toàn thể phần bờ biển Đại Tây Dương.
Dưới triều đại Nữ Hoàng Elizabeth I, công ty Virginia của thành
phố London đã được Nữ Hoàng Anh cho thẩm quyền thiết lập các xứ
thuộc địa tại Tân Thế Giới, rồi vào năm 1607 thị trấn Jamestown
được thành lập. Sau đó là các thuộc địa thiết lập tại vùng
Massachusetts do nhóm người Pilgrims (1620) và nhóm người Puritans
(1628). Đây là những người muốn rời khỏi nước Anh, di cư qua vùng
đất mới để được hưởng thụ tự do tôn giáo. Việc thuộc địa hóa phần
đất Bắc Mỹ được tiếp tục trong 125 năm và xứ thuộc địa cuối cùng
Georgia được thành lập vào năm 1732.
Các thuộc địa tại Bắc Mỹ đã lôi cuốn nhiều
loại người dân của châu Âu, không chỉ từ nước Anh hay các xứ Tô
Cách Lan, Ái Nhĩ Lan, Wales, mà còn từ các vùng đất khác của châu
Âu như nước Pháp và nước Đức. Có những người đã tình nguyện ra đi
do bị đàn áp tôn giáo, do nợ nần không trả nổi, do muốn mưu tìm
một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng cũng có những người dân bị bắt
cóc và bị bán làm nô lệ, họ từ phía tây và phía bắc của châu Phi.
Mặc dù có các nguồn gốc khác nhau, các người định cư tại các xứ
thuộc địa Bắc Mỹ đều bị ảnh hưởng bởi di sản chính trị của nước
Anh.
Các người thuộc địa tại Bắc Mỹ đã mang theo từ
nước Anh 4 nguyên tắc quan trọng để về sau trở thành 4 căn bản cho
tư tưởng chính trị Hoa Kỳ. Các nguyên tắc này là:
chính quyền có giới hạn,
chính quyền có đại diện,
tự do cá nhân,
việc cai trị bằng luật pháp.
Đây là những tư tưởng và kinh nghiệm được phát
triển trong nhiều trăm năm của lịch sử nước Anh.
Khởi đầu, những người dân Anh nào qua sống nơi
xứ thuộc địa Bắc Mỹ đều do sự cho phép của vương quyền Anh qua
hình thức một văn bản pháp lý hay hợp đồng (charter). Các công ty
mậu dịch Anh đã được phép lập nên các thuộc địa tại miền Tân Anh
Cát Lợi và tại xứ Virginia và căn bản pháp lý kể trên đã cho cư
dân khá nhiều quyền tự trị. Đối với các phần đất miền trung và
miền nam, việc khai thác được giao cho các cá nhân hay các bạn bè
và bà con của nhà vua. Những cá nhân này được gọi là “chủ nhân“
(proprietors), đã tổ chức các thuộc địa theo ý của họ. Do sự cho
phép từ các hợp đồng, nên vào đầu thế kỷ 18, phần lớn các công ty
mậu dịch đã bị rút đi các giấy phép và các thuộc địa được đặt dưới
quyền của hoàng gia.
Từ nay, phần lớn các thuộc địa đều có một
thống đốc, một hội đồng cố vấn và một hệ thống tòa án. Thống đốc
là một nhà quý tộc được nhà vua Anh chỉ định hay là một chủ nhân
được sự chấp thuận của nhà vua. Vị thống đốc sau đó chọn ra các cố
vấn, là những người có cùng quan điểm chính trị. Thống đốc và các
cố vấn là sợi dây nối với chính quyền Anh và thi hành các chính
sách của nước Anh. Dần dần, Hội Đồng Cố Vấn trở thành Viện Trên
của cơ quan lập pháp thuộc địa đồng thời cũng là tòa án cao cấp
nhất.
The House of Burgesses
Trong khi vị thống đốc và hội đồng cố vấn của
ông ta đại diện cho thẩm quyền của nước Anh thì người dân thuộc
địa lại đòi có quyền bầu ra các hội đồng đại biểu. 12 năm sau cuộc
định cư tại Jamestown, một hội đồng đầu tiên làm ra luật pháp được
thành lập năm 1619 tại xứ thuộc địa Virginia. Từ mỗi miền định cư
nhỏ, các đại biểu hay burgesses được bầu vào hội đồng, vì vậy nghị
viện của Virginia được gọi là Tòa Nhà Burgesses (the House of
Burgesses) và mặc dù vài năm sau, khi nhà vua nước Anh hủy bỏ bản
hợp đồng với công ty Virginia, Tòa Nhà Burgesses vẫn còn tồn tại.
Truyền thống về tự quản trị cũng được duy trì
tại phần đất Tân Anh Cát Lợi. Ngày 21-11-1620, các người Pilgrims
đã lên bờ tại Princetown, Mass., và trước khi đổ bộ, họ đã đồng ý
lập ra và ký tên vào “Bản Điều Lệ Mayflower” theo đó mọi người đều
bằng lòng sống dưới một chính quyền mà sau này sẽ “làm ra các luật
pháp đúng đắn và công bằng… dùng cho các điều tốt lành của thuộc
địa”, và một người trong bọn họ được bầu làm thống đốc.Tập quán có
đại diện tại các hội đồng quản trị địa phương được thấy tại mọi xứ
thuộc địa và vào các thời kỳ đó, chỉ những người da trắng, có tài
sản mới được bầu làm đại biểu. Điều kiện để được bầu cử thay đổi
từ xứ này qua xứ kia nhưng thông thường thì đại biểu phải là những
người có một nông trại nhỏ hay các cơ sở thương mại tại miền Bắc
và các đồn điền lớn tại miền Nam.
Năm 1636, hai thuộc địa Rhode Island và
Connecticut được thành lập. Ông Roger Williams và các người bất
đồng tôn giáo đã bị nhà thờ Anh bắt buộc phải rời khỏi miền
Massachusetts của nước Anh, và do vậy, ông Williams và các đồng
chí đã thành lập ra một thứ chính quyền tách biệt khỏi nhà thờ.
Khi vương quyền Anh được phục hồi năm 1660, Vua Charles II đã cấp
cho xứ Rhode Island một hợp đồng qua đó các người thuộc địa được
quyền chọn ra vị thống đốc và các phụ tá cũng như các đại biểu, và
vị thống đốc không có quyền cấm đoán các hoạt động của hội đồng
đại biểu, một hành động thường xẩy ra tại các xứ thuộc địa khác.
Còn tại xứ Connecticut, thuộc địa này được
thành lập do hợp đồng của Vua Charles II vào năm 1662 và một loại
hiến pháp đầu tiên được viết ra tại Bắc Mỹ, đó là văn bản mang tên
là “Các Lệnh Căn Bản“ (the Fundamental Orders). Văn bản này đòi
hỏi một chính quyền có trật tự và hợp lý, công nhận các người dân
tự do (freemen) của các thị trấn là giới thẩm quyền cao cấp nhất.
Người dân tự do có quyền triệu tập hội nghị, bầu ra thống đốc và
các viên chức tòa án. Như vậy, cho tới thập niên 1750, chỉ có hai
xứ thuộc địa được quyền tự lựa chọn các thống đốc, đó là 2 xứ
Rhode Island và Connecticut và hai xứ này đã sửa đổi một phần bản
hợp đồng thuộc địa ban đầu để trở thành các hiến pháp của tiểu
bang.
Qua các thống đốc thuộc Hoàng Gia Anh, các hội
đồng được chỉ định và qua các cách kiểm soát khác, có vẻ như nước
Anh đã chi phối mọi sinh hoạt chính trị của các xứ thuộc địa Bắc
Mỹ. Nhưng từ năm 1760, người dân thuộc địa đã dùng các hội dồng
được bầu ra, tức là các Viện Dưới, để chi phối nền lập pháp tại
mọi địa phương.
Có ba lý do khiến cho việc chuyển quyền xuống
các Viện Dưới được thực hiện.
Thứ nhất các nhà làm luật địa phương đã được
sự ủng hộ của dư luận dân chúng, bởi vì dân chúng đã coi các đại
biểu của họ là chính quyền chính thống, hợp pháp.
Thứ hai, do truyền thống đặt ra từ Nghị Viện
Anh, các hội đồng dân cử địa phương có quyền quyết định về lương
bổng của vị thống đốc và ấn định các thứ thuế địa phương. Các đại
biểu của dân chúng thường đòi hỏi được những thứ gì họ cần, bằng
cách cắt giảm ngân quỹ của vị thống đốc.
Thứ ba, một số các hội đồng địa phương đã được
chính quyền Anh cho phép quyết định về các chính sách thuộc địa.
Mặt khác, xét về phương diện kinh tế, các
thuộc địa Bắc Mỹ là một thị trường của hàng hóa sản xuất từ nước
Anh, là nơi cung cấp các tài nguyên cho các nhà máy đặt tại nước
Anh và người dân thuộc địa phải trung thành với nước Anh. Đó là
nguyên tắc, nhưng thực tế lại khác.
Nước Anh ở xa, cách các thuộc địa 3,000 dặm
nên việc liên lạc và các mệnh lệnh từ London đã phải mất cả tháng
trường mới đến được Bắc Mỹ và vì vậy, vương quyền Anh không thể
kiểm soát được các biến cố xẩy ra hàng ngày tại các xứ thuộc địa.
Trong khi đó, các người dân thuộc địa cũng bắt đầu lập ra các cơ
xưởng, các cơ sở mậu dịch để cạnh tranh với các hàng hóa của nước
Anh. Do ở xa, các
người thuộc địa đã được hưởng khá nhiều tự do và chỉ phải trả thuế
rất thấp.
Sự liên lạc giữa các thuộc địa Bắc Mỹ và chính
quyền Anh đã không bị thay đổi cho tới thập niên 1760, khi xẩy ra
cuộc “Chiến Tranh Pháp và Da Đỏ“ (the French and Indian War), dẫn
tới cuộc “Chiến Tranh 7 Năm“ (the Seven Years’ War), lan rộng khắp
châu Âu và tới cả Ấn Độ. Kết quả của cuộc chiến này là nước Pháp
phải ký Hòa Ước Paris năm 1763, công nhận nhường hết đất đai tại
Bắc Mỹ cho nước Anh.
George III
Nước Anh tuy thắng trận thật nhưng đã mang nợ
vì các chi phí chiến tranh trong nhiều năm. Và quan trọng hơn nữa,
quân đội Anh vẫn phải bảo vệ các thuộc địa Bắc Mỹ tránh khỏi sự
quấy phá của binh lính Pháp, các bộ lạc da đỏ và các toán quân Tây
Ban Nha ở phía nam. Phí tổn bảo vệ các xứ thuộc địa đã làm cho các
người chịu thuế tại nước Anh phản đối, họ đòi hỏi ngưới dân Bắc Mỹ
phải gánh chịu thứ phí tổn quốc phòng đó. Năm 1760, Vua George III
lên ngôi khi 22 tuổi, đã cùng Nghị Viện Anh thông qua một số luật
mậu dịch để thu lợi tức từ các xứ thuộc địa Bắc Mỹ, nơi thường xẩy
ra các vụ buôn lậu, trốn thuế.
Sáu năm về trước, người Anh đã kêu gọi các đại
biểu thuộc địa hội họp tại Albany, New York, để thảo luận về các
hậu quả của chiến tranh. Chính trong cuộc hội họp này, ông
Benjamin Franklin đã đề cập tới một chương trình đoàn kết lại các
xứ thuộc địa, được gọi là “Kế hoạch thống nhất Albany“ (the Albany
Plan of Union) qua đó có gợi ý một chính quyền liên minh thuộc địa
để giải quyết các vấn đề thuế vụ, vấn đề người da đỏ và việc thiết
lập nên quân đội với hải quân. Kế hoạch Albany đã bị các hội đồng
thuộc địa bác bỏ vì họ e sợ một chính quyền trung ương mạnh và các
nhà chức trách Anh cũng e ngại ban cho các thuộc địa quá nhiều
quyền lực. Dù sao, kế hoạch Albany cũng đã là một trong các bước
đầu của phương cách đoàn kết các thuộc địa.
Sau đó, chính quyền Anh đã thông qua Đạo Luật
Tem Thuế năm 1765 (the Stamp Act of 1765), đánh thuế vào mọi ấn
phẩm kể cả báo chí, hóa đơn, văn bản tư pháp, các thứ lịch và các
cỗ bài. Quyết định bất công này đã làm cho người dân thuộc địa Bắc
Mỹ bất mãn. Họ đòi hỏi rằng chỉ các đại biểu do họ bầu lên mới có
quyền quyết định về thuế vụ dùng tại các xứ thuộc địa.
Sau đó, đạo luật Townshend thông qua năm 1767
của nước Anh đánh thuế vào mọi hàng hóa như giấy, thủy tinh, sơn,
trà… làm cho các xứ thuộc địa Bắc Mỹ cùng đứng lên phản đối. Đạo
luật Trà được Nghị Viện Anh thông qua năm 1773, để cứu nguy công
ty Đông Ấn, đã gây ra “Biến Cố Trà Boston“ (the Boston Tea Party),
đã giúp cho sự đoàn kết của các xứ thuộc địa.
Quốc Hội Lục Địa Lần Thứ Nhất
Ngày 5 tháng 9 năm 1774, các đại biểu của 12
xứ, trừ xứ Georgia, đã hội họp tại thành phố Philadelphia để cứu
xét các liên hệ với nước Anh. Quốc Hội Lục Địa Lần Thứ Nhất này đã
gồm các nhà chính trị xuất sắc như các ông George Washington, John
Adams, Samuel Adams, Patrick Henry, John Jay, Richard Henry Lee,
John Rutledge và Roger Sherman…
Nước Anh đã đối phó với Quốc Hội này bằng các
biện pháp mạnh mẽ hơn. Tháng 4-1775, quân đội Anh được phái tới
hai thị trấn Lexington và Concord để phá hủy các kho võ khí của
dân quân thuộc địa và bắt giữ hai ông John Hancock và Samuel Adams
vì tội phản nghịch. Chiến tranh địa phương đã bùng nổ và vào ngày
10-5-1775, Quốc Hội Lục Địa Thứ Hai hội họp tại Philadelphia, để
rồi trở nên chính quyền Mỹ đầu tiên, tồn tại tới năm 1781.
Ngày 7 tháng 6 năm 1776, Quốc Hội Lục Địa Thứ
Hai đã cứu xét nghị quyết của ông Richard Henry Lee đòi gián đoạn
hoàn toàn mọi liên hệ với nước Anh và sau đó, đồng thanh chấp
thuận “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ” vào ngày 4 tháng 7 năm 1776.
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.;
Britannica Encyclopedia, Western Civilizations by Robert E.
Lerner, Standish Meacham & Edward Mcnall Burns, W.W. Norton & Co.,
Inc., 1993.
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.