Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

NT Kiên, Kim Âu, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan, NT Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 Câu chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na

 

Câu chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na (tên chữ Hán là: Na Sơn tiều đối lục[1], viết tắt là: Truyện người tiều phu ở núi Na), theo bản dịch của nhà văn Trúc Khê, là truyện thứ 12 trong số 20 truyện của quyển Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ) của danh sĩ Nguyễn Dữ, sống vào khoảng thế kỷ 16 tại Việt Nam.

 

Đây là truyện duy nhất được chọn đăng trong bộ Tư liệu tham khảo Văn học Việt Nam (Tập 2) do Nxb Giáo Dục ấn hành năm 1979, khi giới thiệu về tác gia này.

 

Giới thiệu

Truyện người tiều phu ở núi Na, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối truyện có lời b́nh của tác giả. Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, th́ Nguyễn Dữ làm ra sách Truyền kỳ mạn lục trong khoảng thời gian ông đến ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh. Như nhiều truyện khác có trong tập, ở Truyện người tiều phu ở núi Na, tác giả cũng đă mượn một nhân vật có thật hay chỉ có trong huyền thoại, rồi tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt t́nh tiết, tu sức ngôn từ...để tái tạo thành một thiên truyện mới.

 

Theo GS Nguyễn Đăng Thục, lăo tiều núi Na, là một nhân vật có thật. Ông họ Trần tên là Tu, hiệu Hoàng Mi, người đương thời gọi là Cụ Tu Nứa, bởi gặp cuộc biến loạn đời Trần nên đến đó cất lều tranh ở ẩn [2].

 

Trong bộ sách Góp phần nghiên cứu Văn hóa Việt Nam (Tập 2) do GS.TS Nguyễn Văn Huyên biên soạn, cũng có đoạn viết: Đi theo vết Từ Thức, một vài người thành công. Tựa như ông lăo mang tên Tu Na (hoặc Khu Na). Ông tu hành đắc đạo dưới thời Xương Phù (1377-1388) đời nhà Trần, và đă lui về ẩn tại Na Sơn ở Thanh Hóa. Dưới thời nhà Lê, h́nh như có nhiều người cứ 10 hoặc 20 năm lại gặp ông ta.[3]

 

Nội dung sơ lược

 

Truyện người tiều phu ở núi Na, có cốt truyện khá đơn giản. Khởi đầu là một đoạn văn ngắn giới thiệu sơ lược cảnh núi Na cùng một lăo tiều đang ẩn cư ở nơi đó. Kế tiếp là bài ca (21 câu dài ngắn khác nhau) mà Hồ Hán Thương nghe được từ miệng lăo tiều, khi nhà vua cùng đoàn tùy tùng đi săn thú trên ngọn núi này. Ngay sau đó, viên quan hầu Trương Công được lệnh đi theo mời lại, nhưng đi một hồi th́ không thấy bóng dáng lăo tiều đâu cả, mà chỉ thấy một cái động sâu, phía trong có một cái am cỏ bên những khóm cây xanh tốt. Trong am, là một chiếc giường mây, trên giường để đàn sáo và chiếc gối dựa. C̣n hai bên vách có đề hai bài ca, một bài là Thích ngủ (25 câu dài ngắn khác nhau), một bài là Thích cờ (23 câu dài ngắn khác nhau). Đến lúc ấy, viên quan mới bắt gặp lăo tiều đang ngồi ngoài hiên đá, dạy con chim yển học nói, bên cạnh có mấy đứa nhỏ ngồi đánh cờ...

 

Kể từ đó cho đến hết truyện là những lời đối đáp của lăo tiều với viên quan hầu (xem đoạn trích bên dưới). Theo Từ điển Văn học (bộ mới), th́ đây là câu chuyện thể hiện quan niệm sống "lánh đục về trong" của kẻ sĩ lúc bấy giờ, trong số đó có tác giả [4].

 

Điểm qua một vài nét chính

Theo GS. Nguyễn Đăng Thục, th́ ba bài ca có trong truyện đều thuộc về loại văn chương lăng mạn của Đạo học, giàu tâm lư và nghệ thuật.

 

Bài thứ nhất bày tỏ cái lư tưởng sống ngoài ṿng lễ giáo phép tắc của nhân quần xă hội đă đặt ra để trói buộc con người, coi rẻ tất cả giá trị nhân văn, hoàn toàn buông thả theo thiên nhiên, không lo nghĩ tính toán "được-mất-sống-chết". Bởi có cái tâm trạng vô tâm, quên ḿnh vào thiên nhiên, không nghĩ việc đă qua, không mong việc sắp tới, không thắc mắc tính toán việc hiện tại nên:

 

...Ngẫm lại cổ kim bao đời khanh tướng,

Rêu phủ bia tàn.

Sao bằng ta: mặt trời đă cao ba thước,

Giấc điệp hăy mơ màng.

Đấy là tâm hồn của nhà xử sĩ[5] núi Na (tức lăo tiều), vừa đi vừa hát nghêu ngao, bài ra cảnh đối chiếu giữa hai hệ thống giá trị: "thiên nhiên với nhân văn, tự do và nghi lễ".

 

Đến hai bài sau (Thích ngủ và Thích cờ), đề trên vách am, th́ bày tỏ hai phương diện mâu thuẫn biện chứng của thực tại Sống: "tĩnh" và "động". Thích ngủ, nghĩa là muốn yên ổn, thư thái tâm hồn, thích hợp với bản tính tự nhiên. Nhưng nhà xử sĩ Núi Na c̣n thích cờ nữa, v́ thế sự chẳng khác chi cuộc cờ, biến hóa không thường như mây với gió. Đấy là phương diện động của thực tại. Theo đấy th́ nhà xử sĩ trên có lư tưởng muốn thể hiện cả hai phương diện của một thực tại sống, cả "thể" lẫn "dụng", chứ không hẳn một mặt thiên lệch mà quên đời...[6]

 

Kế tiếp là cuộc đối đáp giữa nhà xử sĩ với quan hầu Trương Công. Qua đoạn văn dài này đă thể hiện rơ tư tưởng và thái độ của Nguyễn Dữ, đối với nhà Hồ...Tuy nhiên, những ǵ tác giả để cho miệng lăo tiều phát ra (xem đoạn trích bên dưới) cùng lời tiên đoán cảnh diệt vong của triều đ́nh ấy, đă cho thấy Nguyễn Dữ (tức lăo tiều) không hẳn là người lánh đời, mà chỉ v́ ông không t́m được lối thoát trên con đường hành đạo, đành quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cơi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cơi đời...[7]

 

Cuối cùng là phần lời b́nh, tác giả có ư giải thích sự táng bại của nhà Hồ, chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, và chứng với ḷng người...

 

Rút lại, câu chuyện trên tuy có vẻ là thứ văn chương hoang đường (loại truyện thần tiên, truyện truyền kỳ), nhưng kỳ thực nó là lối văn chương ngụ ngôn của Đạo học Việt Nam, mang đậm tư tưởng Trang Chu. Cái tinh thần này là sự phản chiếu khuynh hướng chuộng huyền học lúc bấy giờ, và nó cũng chính là nét đặc trưng của tư tưởng xử sĩ thời Trần-Hồ trong sử Việt[8].

 

Trích đoạn cuối truyện

“          Sau khi nghe Trương Công ngỏ lời tuyên triệu...Tiều phu cười mà rằng:

-Ta là kẻ dật dân trốn đời, ông lăo già lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, t́m sinh nhai trong búa gió ŕu trăng; ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên ta là tuyết gió trăng hoa; chỉ biết đông kép mà hè đơn [9], nằm mây mà ngủ khói; múc khe mà uống, bới núi mà ăn; chứ có biết ǵ đâu ở ngoài là triều đại nào, vua quan nào?

Bèn mời Trương ở lại làm tiệc thết, cơm thổi bằng hạt điêu hồ, canh nấu bằng rau cẩm đái, lại c̣n có mấy món rau suối khác nữa. Canh khuya chuyện tṛ, đều là những nghĩa lư đáng nghe cả, nhưng không một câu nào đả động đến việc đương thời. Hôm sau, Trương lại mời:

 

-Những bậc quân tử đời xưa, không phải là không muốn giúp đời hành đạo; khi ẩn kín ở một chỗ, chỉ là c̣n đợi giá mà thôi. Cho nên tất có bức tiếu tượng đi t́m, rồi sau đồng Thương mới thấm nước[10], tất có cỗ hậu xa đi chở, rồi sau nội Mục mới thành công [11]. Nay phu tử lấy tấm thân vàng ngọc, ôm một bọc kinh luân, ngoài ṿng vinh lợi, vùi lấp tiếng tăm trong đám người đánh cá hái củi, giấu tài giúp vua cứu dân, náu ḿnh chốn rừng suối, vang tiếng đến cửu trùng; đốt nón lá, xé áo tơi, nay chính là đến lúc rồi đó. Dám xin bỏ bờ đập Phó Nham, ném cần câu sông Vị, đừng để uổng hoài khát vọng của bao kẻ thương sinh.

Tiều phu nói:

 

-Kẻ sĩ ai có chí nấy, hà tất phải vậy! Cho nên Nghiêm Tử Lăng [12] không đem chức Gián nghị ở Đông Đô đánh đổi khỏi sóng sông Đồng Thủy. Khương Bá Hoài[13] không đem bức tranh vẽ của thiên tử làm nhơ non nước Bành Thành. Tài ta tuy kém, so với người xưa chẳng bằng được, nhưng may lại giàu hơn Kiềm Lâu[14], thọ hơn Vệ Giới [15], no hơn Viên Tinh[16], đạt hơn Phụng Thiến [17], kể th́ cũng đă được trời đất ban cho khá nhiều. Nếu lại c̣n tham cầu những cái ở ngoài phận ḿnh, len lỏi vào đường làm quan, chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiền, lại c̣n phụ bạc với vượn hạc ở trong núi. Vậy xin ông đi đi, đừng nói lôi thôi ǵ nữa.

Trương nói:

 

-Ngài cho là thời nay không đủ để cho ngài làm việc hay chăng? Nay có đấng thánh nhân trị v́, bốn bể đều ngóng trông, người Chiêm dâng đất mà xưng thần, quân Minh nộp lễ để xin lui. Lăo Qua, Đại Lư các nước cũng tranh nhau quy phục. Hiện chỉ c̣n thiếu các bậc ẩn dật ở rừng núi ra giúp rập, khiến cho huân đức của chúa thượng được sánh cùng các vua Nghiêu, Thuấn ngày xưa. Ngài nếu định trọn đời ẩn lánh, bắt chước như Vụ Quang, Quyên Tử [18] th́ cứ như vậy không sao. Nhưng nếu c̣n để ư chút nào đến đám dân chúng, mà bỏ lỡ dịp này không ra th́ tôi sợ rằng sẽ mục nát cùng cỏ cây, không bao giờ lại có dịp gặp gỡ hay này nữa.

Tiều phu biến sắc nói:

 

-Như lời ông nói, há chẳng phải là khoe khoang quá khiến cho người nghe phải thẹn thùng sao! Vả vị vua ngự trị bây giờ có phải họ Hồ không?

-Chính phải.

-Có phải là đă bỏ khu Long Đỗ[19] về ở đất An Tôn[20] không?

-Phải.

-Ta tuy chân không bước đến thị thành, ḿnh không vào đến cung đ́nh, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ là người thế nào. Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu[21], dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai; phao phí gấm là, vung văi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, h́nh ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay th́ giết, kẻ nói điều nịnh th́ thưởng; ḷng dân động lay, nên đă xảy ra việc quân sông Đáy[22] bờ cơi chếch mếch nên đă mất dải đất Cổ Lâu[23]. Vậy mà các kẻ đ́nh thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết. Duy có Nguyễn Bằng Cử[24] có lượng nhưng chậm chạp, Hoàng Hối Khanh[25] có học nhưng lờ mờ, Lê Cảnh Kỳ[26] giỏi mưu tính nhưng không quyết đoán, Lưu Thúc Kiệm[27] quân tử nhưng chưa được là bậc nhân; c̣n ngoài ra phi là đồ tham tiền th́ là đồ nát rượu; phi là đồ chỉ lấy yên vui làm thích th́ là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát nhau; chứ chưa thấy ai biết những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả. Nay ta đương náu vết ở chốn núi rừng, lo lảng tránh đi chẳng được, há lại c̣n xắn áo mà lội nữa ư? [28] Xin ông vui ḷng trở về, làm ơn từ chối hộ kẻ cư sĩ này. Ta không thể đem ḥn ngọc Côn Sơn cho nó cùng cháy trong ngọn lửa Côn Sơn được[29].

Trương nói:

 

- Sự xuất xử của bậc người hiền lại cố chấp đến như thế ư?

Tiều phu nói:

 

- Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đă đắm ḿnh vào trong triều đ́nh, vẩn đục, rối loạn lại c̣n toan kéo người khác để cùng đắm với ḿnh.

Trương lặng im không trả lời, trở về đem hết những lời của tiều phu tâu lại với chúa. Hán Thương không bằng ḷng nhưng c̣n muốn đem cỗ xe êm để cố đón ra kỳ được, sai Trương lại đi vào lần nữa. Nhưng vào đến nơi th́ rêu trùm cửa hang, gai góc đầy núi, dây leo, cành rậm đă lấp mất cả lối đi rồi. Chỉ thấy ở trên vách đá có hai câu thơ đề bằng nhựa cây như sau:

 

Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn,

Cao Vọng sơn đầu khách tứ sầu.

Dịch:

 

Kỳ La cửa bể hồn thơ đứt,

Cao Vọng đầu non dạ khách buồn[30].

Ư lời như giọng trào phúng của họ Nguyên họ Bạch[31]. thể chữ như lối triện lệ của ông Lưu ông Tư[32], nhưng rút lại chẳng hiểu định nói ǵ. Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi; núi cháy hết vẫn không thấy ǵ, chỉ thấy con hạc đen lượn trên không bay múa. Sau cha con họ Hồ gặp phải tai họa đều đúng như lời thơ.

 

Người tiều phu ấy có lẽ là kẻ sĩ đắc đạo đó chăng?[33]

 

Xem thêm

Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục

Chú thích

^ Núi Na tục gọi là Nưa (hay Nứa), tên chữ là Na Sơn, đỉnh cao nhất 538m, trên có một ngôi chùa cổ tên Am Tiên. Xưa, núi Na thuộc làng Cổ Định, nay thuộc xă Tế Thắng, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Chính nơi đây, bà Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa chống quân nhà Đông Ngô năm 247-248 sau Công nguyên. Hiện nay núi Nưa c̣n có đền thờ bà. Thời Pháp thuộc, nhà cách mạng Nguyễn Thượng Hiền cũng đă đến đây làm nhà ở ẩn, sau khi ông đỗ đầu kỳ thi Hội (năm 1885), nhưng chưa kịp xướng danh th́ kinh thành Huế thất thủ.

^ Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Tập 5), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr. 135.

^ Nguyễn Văn Huyên, Góp phần nghiên cứu Văn hóa Việt Nam (tập 2). Nxb KHXH, 2003, tr. 229.

^ Từ điển Văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004, tr. 1124.

^ Xử sĩ: kẻ sĩ không ra làm quan, ẩn dật, trái với xuất sĩ là đi thi làm quan.

^ Lược theo Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Tập 5), tr. 146-149.

^ Theo PGS.TS Trần Thị Băng Thanh: [1].

^ Căn cứ vào bài minh viết năm 1321 đời Trần Minh Tông và được khắc trên quả chuông đồng ở Thông Thánh quán, một quán đạo giáo đời Trần ở Bạch Hạc (hiện nay quả chuông được treo trên gác cổ đ́nh làng Bạch Hạc, thuộc Phú Thọ) th́ tư tưởng này được biểu hiện rơ nét kể từ khi đạo sĩ Hứa Tông Đạo từ Tống sang. Sau, Ngô Sĩ Liên cũng đă tái xác nhận rằng: Nhâm Dần, (Hưng Long) năm thứ 10 (1302), bấy giờ có đạo sĩ phương Bắc là Hứa Tông Đạo theo thuyền buôn sang ta, cho ở bến sông Yên Hao. Phép phù thủy, đàn chay bắt đầu thịnh hành từ đó. (Đại Việt sử kư toàn thư [Tập 2]. Nxb KHXH, 1985, tr. 85).

^ ư nói mùa đông mặc 2 áo, mùa hè 1 áo, toàn câu văn ngụ ư đời sống đơn giản

^ Vua Cao Tông nhà Thương nằm mơ thấy Thượng đế ban cho một người phù tá giỏi. Tỉnh dậy bèn vẽ một bức tranh giống người trong mộng rồi sai người mang tranh đi t́m. Sau t́m được Phó Duyệt (ẩn ở đất Phú Nghiêm) đang đắp tường ở Phó Nham, liền đón về làm tướng. Cao Tông nói: "Ví như năm đại hạn, ta dùng người làm mưa rào".

^ Vua Chu Văn Vương đi săn gặp Khương Tử Nha (tức Lă Vọng) câu cá ở sông Vị, mời lên chiếc xe sau chở về, tôn làm bậc thầy. Sau Lă Vọng giúp nhà Chu thắng nhà Ân ở Mục Dă.

^ Nghiêm Tử Lăng tức Nghiêm Quang, một cao sĩ đời Hán, hồi nhỏ là bạn học của Hán Quang Vũ; khi Quang Vũ lên ngôi, ông bèn đi ở ẩn, thường đi cày ở trong núi Phú Xuân và câu cá ở bến sông Đồng.

^ Khương Bá Hoài tức Khương Quảng người đời Hán Hoàn Đế, quê ở Bành Thành. Vua nghe tiếng là người hiếu thuận mời ra làm quan, Quảng không chịu ra. Vua lại sai thợ vẽ đến vẽ chân dung, Quảng che mặt không cho vẽ. Ông từng nói: "Quốc chính hiện nay ở trong tay bọn hoạn quan, đó là thời nào mà ḿnh lại ra làm quan?"

^ Kiềm Lâu: một hiền sĩ nước Tề, đời Xuân Thu, ở ẩn, không chịu làm quan. Nhà rất nghèo, khi chết chỉ có một cái chăn để liệm, hễ che kín đầu th́ hở chân, kín chân th́ hở đầu.

^ Vệ Giới: danh sĩ đời Tấn, người đẹp, tính ôn ḥa nhưng chết trẻ, khi mới 27 tuổi.

^ Viên Tinh: Theo sách Lă thị Xuân Thu, Viên Tinh Mục, một kẻ sĩ ở phương nam, đi giữa đường bị đói, nằm lả đi. Một tên ăn trộm trông thấy, đưa cơm cho ăn. Tinh Mục tỉnh lại, biết người cho ăn là kẻ trộm, liền nói: "Ta không thèm ăn miếng cơm bất nghĩa của người". Rồi gượng dậy cố nôn ọe ra nhưng không được, sau đó gục đầu xuống chết.

^ Phụng Thiến: tên tự của Tuân Xán đời Ngụy. Ông có vợ đẹp, nên rất yêu quư. Mùa đông vợ bị bệnh phát nhiệt, Tuấn Xán ra sân dầm hơi lạnh để vào ấp cho vợ được mát. Sau vợ chết ông cùng chết theo.

^ Vụ Quang: người đời nhà Hạ. Vua Thành Thang đánh được vua Kiệt (nhà Hạ), đem thiên hạ nhường cho Vụ Quang. Ông không nhận đeo đá gieo ḿnh xuống sông giả cách tự tử rồi ẩn náu biệt tích. Quyên Tử: người nước Tề, ở ẩn tại Nham Sơn, học được đạo tiên, tương truyền có tài làm mưa làm gió. Đây có ư nói đó là những người ẩn dật vĩnh viễn.

^ Long Đỗ: tức Thăng Long (tức Hà Nội ngày nay)

^ An Tôn: tên làng nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Nhà Hồ cho xây Tây Đô ở đây.

^ Kim Âu: cung Kim Âu tức cung Bảo Thanh ở làng Kim Âu. Hồ Quư Ly xây dựng cung điện này tốn kém nên bị đời sau phê phán.

^ Tháng 8 năm Kiến Tân thứ 2 (1399) đời Trần Thiếu Đế, Nguyễn Nhữ Cái nổi dậy ở vùng sông Đáy chống triều đ́nh, quân đông đến hàng vạn. Sau bị Nguyễn Bằng Cử đánh tan. Nguyễn Bằng Cử người Bắc Ninh, làm đến chức Đông lộ yên phủ sứ đời Trần.

^ Cổ lâu: Hồ Quư Ly cắt đất 59 thôn ở khu Cổ Lâu cho nhà Minh. Chưa rơ Cổ Lâu thuộc tỉnh nào.

^ Nguyễn Bằng Cử: xem chú thích bên trên (sông Đáy).

^ Hoàng Hối Khanh: đậu Thái học sinh đời Trần, sau làm quan với nhà Hồ.

^ Lê Cảnh Kỳ: trước làm quan với nhà Trần, sau làm quan cho nhà Hồ đến chức Hành khiển.

^ Lưu Thúc Kiệm: đậu đầu khoa Thái học sinh cuối đời Trần

^ Lấy ư trong câu nói của Vi Trung, ẩn sĩ đời Tấn. Trương Hoa mời Vi Trung ra làm quan, ông nói: "Ta c̣n đương lo con sóng rớt ở cái vực sâu kia tràn đến, há lại c̣n xắn áo mà lội nữa ư?"

^ Chữ ở thiên Thuấn điển trong Kinh Thư: "Hỏa viêm Côn sơn, ngọc thạch câu phần", nghĩa là: "Lửa đốt núi Côn, ngọc đá đều cháy" (Núi Côn Sơn có tiếng sản sinh ra ngọc quư. Dẫn ra điển này ư nói theo nhà Hồ rồi sẽ bị khốn đốn cùng nhà Hồ).

^ Cửa bể Kỳ La ở làng Kỳ La, huyện Kỳ Anh nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1407, Hồ Quư Ly bị bắt ở đấy. Núi cao Vọng ở làng B́nh Lễ, cùng huyện, là nơi Hồ Hán Thương bị bắt, cũng vào năm 1407.

^ Nguyên, Bạch: tức Nguyên Chẩn, tự Vi Chi và Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên là hai nhà thơ nổi tiếng đời Đường.

^ Lưu là quan Thái sử nhà Chu, họ Lưu, người chế ra lối chữ đại triện. Tư là Lư Tư (nhà Tần), chế ra lối chữ tiểu triện. Xem trang thư pháp Trung Hoa.

^ Chép theo bản dịch Truyền kỳ mạn lục của Trúc Khê. Sách do Nxb Văn nghệ và Hội nghiên cứu giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh hợp tác tái bản và ấn hành năm 1988, tr. 139-145. Phần chú thích cũng căn cứ theo sách này. Toàn văn truyện có thể t́m đọc trên internet.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

http://www.chinhnghia.com/

http://www.kimau.com

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

NT Kiên, Kim Âu, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan, NT Sám