MINH THỊ

DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN  QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG  CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI  THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.  

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Một Trang Lịch Sử /details

֎ Một Trang Lịch Sử /djvu.txt

֎ Một Trang Lịch Sử /org/3

֎ Một Trang Lịch Sử/pdf

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

֎֎֎֎֎

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Secret Army Secret War

֎ CIA Giải mật

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế

 

 

♣♣♣♣♣♣

 

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008

֎ 10-2008 ֎ 11.2008 ֎ 11-2008

֎ 12-2008 ֎ 01-2009 ֎ 02-2009

֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009

֎ 09-2009 ֎ 10-2009 ֎ 11-2009

֎ 12-2009 ֎ 01-2010 ֎ 03-2010

֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010

֎ 10-2010 ֎ 11-2010 ֎ 12-2010

֎ 01-2011 ֎ 02-2011 ֎ 03-2011

֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011

֎ 10-2011 ֎ 11-2011 ֎ 12-2011

֎ 01-2012 ֎ 06-2012 ֎ 12-2012

֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014

֎ 03-2015 ֎ 04-2015 ֎ 05-2015

֎ 12-2015 ֎ 01-2016 ֎ 02-2016

֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016

֎ 12-2016 ֎ 01-2017 ֎ 02-2017

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government

v Associated Press v Congressional Record

v Reuter News v Real Clear Politics  

v MediaMatters v C-SPAN v.

v Videos Library v Judicial Watch v

v New World Order v Illuminatti News   

v New Max v CNSv Daily Storm v

v Observe v American Progress  v

v The Guardian v Political Insider v

v Ramussen Report  v Wikileaks  v

v The Online Books Page v

v American Free Press v

vNational Public Radio v

v National Review - Public Broacast v

v Federation of Anerican Scientist v

v Propublica v Inter Investigate v

v ACLU Ten  v CNBC v Fox News v

v CNN  v FoxAtlanta v

v Indonesian News v Philippine News v

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican?

v Roman Catholic  

v Khoa HọcTV  v Sai Gon Echo v

v Viễn Đông v Người Việt v Học Xá

v Việt Báo  v Việt List  v Xây Dựngv

v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu

v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv

v Việt Tribune v Saigon Times USA v

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v

v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v

vLao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Tấm Gương

vSài G̣n v Sách Hiếm v Thế Giới  v Đỉnh Sóng

vChúng Ta  v Eurasia  v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ

v Nguyễn Tấn Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh v TPBVNCH v1GĐ/1TPB v Bia Miệng ♣♣

 

 

 

TÂY SƠN

ĐẠI HUYNH

 

 

 

*truyện ĐỖ HÙNG

 

Hồ Phi Phúc số đẻ bọc điều. Những điều may luôn theo ông suốt cuộc đời.

Tự thuở lọt ḷng mẹ, sinh ra trong cửa nhà giàu có khác chi hạt giống đuợc ươm vào đất màu mỡ. Cái may kế tiếp, thân mẫu ông, bà Nguyễn Thị bàn với chồng là Hồ Phi Tiễn cải họ cho con, từ họ Hồ sang họ Nguyễn để thừa hưởng gia tài đồ sộ do ông ngoại để lại. Bà vốn là đứa con duy nhất trong gia đ́nh. Phi Phúc mang họ mẹ từ đấy.

Khi khôn lớn, ông nối nghiệp cha làm nghề buôn trầu. Cơ may lại đến. Sẵn vốn to, ông tung ra mua hàng với số lượng lớn, lăi tức càng cao. Ông trở thành phú gia có tiếng cả phủ Qui Nhơn.

Vừa giàu của lại giàu con, ông có đầy đủ cả trai lẫn gái. Quư nhất lại có con trai đầu ḷng.

Tổ phụ nhà ông vốn xuất phát từ làng Thái Lăo, huyện Hưng Nguyên, trấn Nghệ An. Chuyện hàng trăm năm trước, chúa Nguyễn là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai các danh tướng Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật chỉ huy thủy bộ tấn công Bắc Hà. Quân Nguyễn

tấn công như thác lũ chiếm luôn bảy huyện phía bắc Linh Giang. Sau này khi rút quân về nam, quân Nguyễn ép một số đông nông dân xứ Nghệ và các tù hàng binh Trịnh vào nam lập nghiệp v́ đàng trong dư đất thiếu người. Ông nội ông Phúc là Hồ Phi Long có trong đám người ấy. Để tỏ không quên đất tổ, ông lấy tên một ngọn núi lớn trong rặng Hồng Lĩnh là Đại Nhạc đặt tên cho con. Đứa bé có tên Nguyễn Nhạc là do thế.

Hơn mười lăm năm sau, ông có thêm con trai là Nguyễn Lữ rồi Nguyễn Huệ. Hai trai cùng mang tên Lữ Sơn và Huệ Sơn. Hai ngọn núi mà dân huyện Hưng Nguyên xứ Nghệ chẳng ai không biết. Ư ông Phúc muốn những con trai ông sau này chí khí phải cao như núi. Thân trai sống hèn nào khác chi cỏ cây.

Năm Nguyễn Nhạc lên bảy, ông Phúc cho con đi học. Nhạc học chữ chẳng mấy chăm, Nhạc bảo không có ǵ chán bằng cả ngày lải nhải thiên trời địa đất cử cất tồn c̣n tử con tôn cháu... rồi lại tiếp tục nhân chi sơ tính bản thiện, ấu bất học lăo hà vi... Nhạc xin cha học thêm nghề vơ. Ông Phúc bằng ḷng nhưng buộc con phải học cả chữ nghĩa thánh hiền.

Qui Nhơn vốn là đất vơ. Danh tiếng các đại vơ sư như cha con ông Trần Kim Hùng, Trần Kim Báu, nhất là Diệp Đ́nh Ṭng không những chỉ riêng trong phủ Qui Nhơn, mà c̣n vang dội khắp đàng trong. Giới giang hồ nể mặt.

Nhạc thụ giáo với vơ sư Trần Kim Báu được mười năm, trở thành đại đệ tử được bạn đồng môn kính nể v́ quyền cước điêu luyện.

Cuộc sống đang êm đềm bỗng đổi thay đột ngột. Gia đ́nh thầy gặp tai biến, hiền nội vơ sư Trần Kim Báu qua đời.

Sau khi vợ mất, như muốn trốn những kỷ niệm êm đềm luôn dằn vặt gợi nhớ, ông Báu bỏ xứ ra đi. Ông vào sâu phương nam, tới phủ Diên Khánh mở trường dạy vơ độ nhật. Vốn sẵn ḷng yêu mến Nguyễn Nhạc, thân phụ ông Báu là vơ sư Trần Kim Hùng tiếp tục thu Nhạc làm đệ tử, lại đem hết cả những tinh hoa kiếm thuật truyền cho Nhạc.

Ba năm sau, Nhạc trở thành kiếm sĩ lừng danh, giới vơ nghệ chưa ai dám một lần thách thức đọ kiếm. Ông Hùng đề nghị Nhạc kết hôn với cô Trần Thị Huệ, cháu nội của ông, cũng là con gái của vơ sư Báu. Nhạc nghe ḷng reo vui như mở hội. Nhạc hiểu ra v́ sao ông Hùng chọn ḿnh là người để trao bí quyết kiếm thuật họ Trần.

Khi thân phụ mất, Nhạc thừa hưởng gia tài tiếp tục nối nghiệp cha đi buôn trầu. Từ đấy, thiên hạ quen gọi Nhạc là Hai Trầu. Nhờ vợ đảm đang, việc làm ăn càng thêm phát đạt. Giữ vai tṛ của người anh cả “quyền huynh thế phụ”, Nguyễn Nhạc gửi hai em Lữ và Huệ đến học vơ với ông ngoại của ḿnh.

Vốn người hào hiệp, Nhạc giao du rộng răi với đủ hạng người, giới con buôn, giới vơ nghệ, người giàu, kẻ hèn... ngay cả những thương khách người Hoa. Căn nhà cũ cha để lại nay thành chật, Nhạc cho làm thêm căn nhà lớn năm gian để có thêm chỗ chứa khách. Nhiều người ví Nhạc như Mạnh Thường Quân, một người tài ba, nổi tiếng hào hiệp thời Chiến Quốc bên Tàu.

Cảnh nhà lúc nào cũng nhộn nhịp vui vẻ. Có khu riêng để luyện vơ, hoặc tổ chức những buổi thi đấu vơ nghệ, chỗ để chọi gà, thậm chí có cả nơi chơi bài bạc v́ chính Nguyễn Nhạc cũng thích tṛ chơi đen đỏ. Phong cách và vơ nghệ của Nhạc làm mọi người quư mến. Những người trẻ trong giới vơ lâm thường tôn Nhạc là Tây Sơn đại huynh.

Cuộc đời của người anh cả Tây Sơn tưởng cứ b́nh yên như sông Côn êm đềm. Nào ngờ có cuộc đổi thay như gịng sông chuyển ḿnh dậy sóng. Đó là ngày Nhạc gặp gỡ Trương Văn Hiến, người khách lạ đến từ kinh đô Phú Xuân.

Hôm ấy, Nhạc tổ chức buổi biểu diễn vơ thuật ngay trong sân rộng trước nhà. Dân trong phủ nô nức, đây là cơ hội ngàn năm để được xem tài xử dụng đại đao của Trần Quang Diệu, tráng sĩ nổi tiếng tay không đánh chết cọp dữ dưới chân núi Thuận Ninh. Sau này Diệu kết hôn với Bùi Thị Xuân, cô gái nổi tiếng giỏi vơ ở phủ. Gái Qui Nhơn yêu vơ nghệ chẳng thua cánh nam nhi. Diệu là đại đệ tử của vơ sư Diệp Đ́nh Ṭng, vị vơ sư để lại không biết bao nhiêu huyền thoại. Người ta kể rằng, sau mười năm truyền nghề cho Trần Quang Diệu, lúc ấy vơ sư đă gần trăm tuổi. Một hôm vơ sư ngồi tham thiền từ sáng sớm đến đúng nửa đêm, ngài tự ra quyền đánh trên đỉnh đầu tự sát. Hơn nữa, lại có cuộc tỉ thí quyền thuật của hai người em Nguyễn Nhạc là Lữ và Huệ. Hai đệ tử hàng đầu của đại vơ sư Trần Kim Hùng.

Giới vơ nghệ hầu như chẳng ai vắng mặt. Chủ nhân hào phóng đài thọ bữa ăn trưa cho tất cả những người tham dự nên số người đến càng thêm đông.

Nguyễn Nhạc tự tay thúc trống cổ vũ những cuộc tỷ thí. Nhạc để ư đến một người đàn ông dáng thanh nhă khoảng ngoài sáu mươi đến xem vào lúc quá ngọ. Ông ta chắc chắn là người phương xa. Phong cách khách điềm đạm trầm tĩnh, Nhạc đoán ông không phải hạng tầm thường. Nhạc định tâm sau buổi diễn vơ sẽ gặp ông.

Khách xưng tên Trương Văn Hiến, từ Phú Xuân vào đây t́m thăm họ hàng. Nhạc khẩn khoản lưu khách, ông Hiến bằng ḷng ở lại.

Tối hôm ấy, dưới trăng thu vằng vặc. Chủ và khách đối ẩm. Vốn sành đời, chỉ qua những giây phút tiếp xúc ngắn ngủi đầu tiên, ông Hiến nhận ra bản chất hào hiệp, tính chân thật chất phác ở con người Nguyễn Nhạc. Khi cho biết ông vốn xuất thân giáo học, lại sống một ḿnh, không có gia đ́nh. Nhạc thẳng thắn đề nghị:

-Tôi c̣n hai em ở tuổi thiếu niên là Lữ và Huệ. Khi năy thầy đă xem chúng đấu quyền, về vơ nghệ xét ra chẳng nhường ai, nhưng về chữ nghĩa th́ thiển lắm. Trước kia, ông ngoại tôi là cụ Trần lo phần dạy dỗ chúng nó cả vơ lẫn văn, nhưng về vơ th́ trội hơn. Nay cụ cũng vừa măn phần. Đất Qui Nhơn là đất vơ, người văn học xem ra thiếu. Nếu thầy không chê tôi quê mùa, nhà cửa chật chội. Tôi xin thỉnh thầy ở lại nhà dạy các em tôi. Chính tôi cũng muốn được thầy chỉ thêm chữ nghĩa thánh hiền. Tôi biết cái vốn hiểu biết của thầy lớn lắm. Thầy sống một ḿnh th́ bốn biển là nhà. Thầy thuận t́nh, tôi nhớ ơn, các em tôi cũng thế. Xin cho biết tôn ư để tôi định liệu.

Giáo Hiến trầm ngâm rồi trả lời:

-Người nói phải. Có vơ mà kém văn dễ trở thành cường bạo. Có văn mà thiếu vơ thường dễ nhu nhược. Ta bỏ nhiều năm nghiên cứu vơ thuật, sau khi xem Lữ và Huệ giao đấu, nhận ra cả hai đều là tay tinh thông nhưng vẫn chưa gọi là hoàn hảo. Huệ đi quyền chắc, thông minh. Lữ nhỏ người, yếu sức không hợp với lối đánh các đ̣n mạnh chắc. Trong nghề vơ, lấy nhu thắng cương là sự thường. Cảm cái chân t́nh, ta lưu lại đất này một thời gian...

Nhạc nghe cả mừng.

Giáo Hiến nguyên là bạn thân của quan Ngoại Hữu Trương Văn Hạnh. Hạnh là người cương trực, ghét kẻ xu nịnh. Ông lại được Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát trọng nể, chọn làm thầy dạy học cho Thế Tử Nguyễn Phúc Luân, người sẽ kế vị khi chúa qua đời.

Năm Ất Dậu 1765 Vơ Vương mất. Quyền thần Trương Phúc Loan ỷ quyền tự động đổi di chiếu, đặt công tử Nguyễn Phúc Thuần mới mười hai tuổi lên kế nghiệp hầu dễ sai khiến. Thuần lên ngôi xưng là Định Vương.

Ngoại Hữu Trương Văn Hạnh phản đối bị Loan lập kế độc giết đi. Trương văn Hiến bỏ trốn để tránh tai họa. Ông căm thù Loan, ra đi t́m người phục hận.

Biết Qui Nhơn là đất vơ, ông đến xem sự t́nh. Ngay khi gặp anh em Tây Sơn, ông nghĩ ḿnh có cơ may. Với đôi mắt tinh đời, Giáo Hiến nhận ra họ là những tay hào kiệt khó kiếm, những người có thể dựng nên cơ đồ, giúp ông báo thù cho bạn. Giáo Hiến để tâm đến Huệ. Huệ tướng mạo uy nghiêm kỳ vĩ, mắt sáng như sao, có giọng nói của người quyền nghiêng thiên hạ.

Ngay hôm sau, Nhạc làm thêm căn nhà ba gian phía sau vườn để Giáo Hiến dùng làm chỗ ở, vừa để dạy học.

Ở nhà Nguyễn Nhạc được ba năm, Giáo Hiến cố công hoàn chỉnh vơ thuật cho Lữ và Huệ, lại dạy thêm chữ . Cả hai học giỏi. Nguyễn Lữ có ư định xin anh đi tu theo Minh Giáo. Nhạc chiều ḷng em, cho rằng tu đạo cũng là điều hay. Tu là cơi phúc. Riêng Huệ vẫn chăm chỉ học hành. Sẵn có ư định, Giáo Hiến dạy Huệ thêm binh thư đồ trận. Được thầy dạy binh pháp, Huệ tỏ ra thích thú, trí thông minh của Huệ làm Giáo Hiến ngạc nhiên khâm phục. Nhạc thấy binh thư hay nên cùng học với em. Thỉnh thoảng có dịp ngồi tṛ chuyện với Nhạc, Giáo Hiến kín đáo chưa hề thổ lộ tâm t́nh. Ư ông muốn t́m hiểu, đánh giá đúng người ḿnh chọn mặt gửi vàng. Cách xét đoán chính xác nhất vẫn là phải có thời gian dài , ông cha vẫn dậy “cư cửu kiến nhân tâm”, ở lâu biết ḷng người.

Một lần muốn ḍ chí hướng Nhạc, Giáo Hiến hỏi:

-Tài vơ của người thiên hạ khó ai sánh kịp. Sao không thi vơ đỗ đạt làm quan?

Nhạc cười đáp:

-Dù có làm quan cũng chỉ làm tôi tớ cho người. Chi bằng cứ đi buôn trầu, đồng tiền do ḿnh làm ra, ḿnh làm chủ lấy ḿnh khỏi phải quỵ lụy ai chẳng thích hơn sao?

Mùa hè năm ấy, Nhạc rủ người bạn thân ở ấp Tây Sơn là Vơ Xuân Hoài đi Phú Xuân ngoạn cảnh kinh thành. Hoài là người giỏi văn chương, mê đọc sách nên Nhạc vị nể. Hoài thường nói với Nhạc, chỉ có cái vốn hiểu biết để trong đầu chẳng bao giờ mất, càng đem cho người lại càng giàu thêm khác hẳn của cải bạc tiền rồi cũng có lúc tận.

Lần đầu tiên đến đế đô, Nhạc choáng ngợp trước cảnh chợ búa nhộn nhịp, trên bến dưới thuyền. Bao thành quách huy hoàng tráng lệ, phố phường với những ngôi nhà tường vôi ngói đỏ mọc san sát. Rồi chùa chiền, những hàng phượng vĩ đỏ hoa ngả bóng trên gịng sông thơ mộng nước trong xanh màu ngọc, tiếng ve râm ran...

Đến đồi Hà Khê vào chùa Thiên Mụ. Nguyễn Nhạc đứng bên cái chuông đồng nặng trên ba ngàn cân, gần đó là tấm bia lớn ghi công đức chúa Nguyễn Phúc Chu trong việc chấn hưng đạo Phật. Bia dựng trên lưng con rùa chạm khắc cầu kỳ làm bằng đá cẩm thạch. Nhạc hỏi Xuân Hoài, sao gọi là chùa Thiên Mụ? Hoài giảng giải: Chùa do Tiên Chúa Nguyễn Hoàng ra lệnh xây đă trên trăm năm. Vốn là người yêu môn địa lư, chúa thường tuần du phương nam xem h́nh thể núi non. Một hôm, chúa đến ngọn đồi này, thấy ngọn đồi tựa h́nh con rồng xoay lại soi bóng trên gịng sông xinh đẹp, dân làng thưa với chúa chuyện thần kỳ ông cha kể lại, hàng đêm có bà già áo đỏ quần xanh từ trời xuống dạy rằng: Sẽ có chân chúa đặt bước đến đây để tụ khí thiêng cho bền long mạch. Nghe xong, chúa nghĩ đây là nơi trời dành cho họ Nguyễn, ngôi vị chân chúa chẳng ai khác ngoài ông. Chúa ra lệnh xây chùa Thiên Mụ tạ ơn trời đất.

Nhạc nh́n sông Dinh, con sông xuất phát từ dăy Trường Sơn hùng vĩ, hai gịng tả hữu vượt qua bao nhiêu ngọn thác, uốn lượn giữa vùng núi rừng trùng điệp mang hương thơm thảo mộc của loài sâm rừng, xương bồ từ thượng nguồn, của loài hoa thơm cùng hương đồng cỏ nội những thôn làng ven bờ như Kim Long, Vĩ Dạ, Đông Ba, Gia Hội... Gịng sông chảy chậm, uốn lượn như giải lụa mang lại cho Phú Xuân cái nên thơ trầm lắng, êm đềm như bản giao hưởng tuyệt vời của mầu sắc, của âm thanh, của trời mây cây cỏ. Người kinh đô yêu gịng sông quê ḿnh, gọi nó bằng cái tên Hương Giang mĩ miều. Đồng t́nh chôn kín cái tên sông Dinh vào bóng tối dĩ văng.

Nhạc đến núi Bằng, ngọn núi thấp nổi lên như tấm b́nh phong. Hai bên có Tả Bật và Hữu Bật, hai ngọn núi nhỏ tạo thêm vẻ cân đối cho núi Bằng. Những thế hệ sau, con cháu họ Nguyễn đổi tên núi Bằng thành Ngự B́nh. Phú Xuân thành đất của núi Ngự sông Hương.

Nhạc mải mê ngắm cảnh, hết lời khen Tiên Chúa có mắt tinh đời, chọn cho con cháu một nơi phong cảnh hữu t́nh. Hoài lại nói, đất này tuy đẹp nhưng sông không sâu, núi không cao, con người khó nh́n sâu rộng, chẳng phải địa linh nhân kiệt.

Đêm hôm ấy giữa cảnh trời mây lồng lộng, trăng thanh gió mát, Nhạc và Hoài ngồi trong khoang một con đ̣ lênh đênh trên sông Hương hưởng thú phong lưu. Có tiếng ca trầm bổng xa vời ai oán... Khi rượu say ngà ngà, Nhạc nói với bạn: Ca chi nghe năo ruột, nhà tan nước mất. Thà nói mụ chủ đ̣ kiếm cho cô gái đẹp...

Sáng hôm sau hai người đến chợ Dinh. Bỗng nghe tiếng la hét ồn ào, mọi người vội vă tránh dạt sang hai bên đường. Một toán đông binh lính, kẻ gánh người gồng cơ man thịt thà rau quả, kẻ cầm roi nói cười la hét vỡ chợ, nghênh ngang sẵn sàng đánh bất cứ ai vô t́nh cản lối. Hoài nhanh mắt kéo Nhạc nhảy sát lề đường, tránh ngọn roi vừa vụt tới. Hoài sợ bạn nóng giận có phản ứng không lợi nên đưa bạn vào quán ăn bên đường. Nhạc hỏi:

-Lính chi hung dữ, sao bọn hắn coi dân như súc vật ?

Hoài giảng giải:

-Đó là lính của Quốc Phó Trương Phúc Loan đi chợ.

-Đi chợ như đi ăn cướp. Trương Phúc Loan là thằng nào?

Hoài để ngón trỏ lên miệng nói nhỏ:

-Đừng nên hỏi nhiều. Ông về hỏi Giáo Hiến sẽ tường mọi sự.

Nhạc ngồi ăn yên lặng, ấm ức. Ra khỏi quán, Nhạc nói: Với cái thằng Quốc Phó hống hách này, chỉ cho nó một gươm là xong. Cũng tại dân ta hèn, cứ cúi đầu lặng yên nên chúng tha hồ đè đầu cưỡi cổ.

Trên đường về lại Qui Nhơn, khó quên chuyện Loan, Nhạc lại hỏi Hoài:

-Phúc Loan làm càn, sao chúa không quở phạt?

-Nói như ông th́ nào ra chuyện. Định Vương chỉ là bù nh́n, quyền hành cũng như việc triều chính một tay Loan định liệu.

-Ra bây giờ hắn là chúa tể đàng trong, nhưng hắn dùng chước chi để thâu quyền bính?

-Gian thần nhiều mưu sâu kế độc khó lường. Ngay Định Vương lên nối nghiệp cũng do Loan sắp đặt. Ông Giáo Hiến kể cho tôi nghe: Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát là cháu gọi Loan là cậu. Chúa có người vợ yêu là Chiêu Nghi. Bà lâm trọng bệnh, các ngự y bó tay. Khi bà mất, Vũ Vương nổi giận truyền đuổi tất cả các ngự y. Từ đấy chúa rầu rĩ bỏ phế việc triều chính. Lợi dụng cơ hội, Phúc Loan tạo điều kiện cho Ngọc Cầu gần gũi với chúa. Ngọc Cầu duyên dáng xinh đẹp, da mọng bồ quân, đôi mắt lá răm, nói năng lả lơi t́nh tứ. Loan nghĩ chỉ có cô gái này mới xóa được mối sầu đang dằn vặt vị chúa háo sắc đa dâm. Chúa mê muội đắm ḿnh trong cuộc t́nh loạn luân bất chấp Ngọc Cầu là vai em, là con gái Quận Công Nguyễn Phúc Điền, chú ruột của chúa. Nguyễn Phúc Thuần là kết quả của cuộc t́nh này. Khi Vũ Vương mất, lẽ ra công tử Nguyễn Phúc Luân là người nối nghiệp. Thấy Luân thông minh sắc sảo, tuổi ngoài ba mươi khó bề thao túng, Phúc Loan tự ư lập Thuần kế vị, bắt Luân giam vào ngục thất. Quần thần có kẻ phản đối đều bị Loan giết đi. Luân cũng buồn bực mà chết, để lại người con trai nhỏ tuổi là Nguyễn Phúc Ánh. Từ đó Loan một tay thao túng, mua quan bán tước, vơ vét tài sản nhà nước làm của riêng nên giàu nứt đố đổ vách.

Nhạc ngắt lời:

-Ông xem dân ngày càng bần cùng, đói cơm thiếu áo, nhất là xứ Quảng. Bọn vua quan lo xây cung điện nguy nga, ăn chơi xa xỉ. Vậy chúng thương chi dân, chỉ lo vét đầy túi tham. Thấy cảnh này tôi bất nhẫn...

Nguyễn Nhạc về nhà đem chuyện kể với Giáo Hiến. Giáo Hiến thổ lộ:

-Ta từng ở Phú Xuân, chứng kiến bao cảnh bất công áp bức. Ngoại Hữu Trương Văn Hạnh với ta là bạn thâm giao. Ông là người uy vũ bất năng khuất nên bị Loan dùng độc kế sát hại. Sau khi ông bị giết, ta bỏ ra đi những mong kiếm người tâm huyết như Kinh Kha thuở trước, một lưỡi gươm sang Tần quyết giết Tần Vương, rửa hận cho nước Yên.

-Nhưng Kinh Kha thất bại. Thái tử Đan dùng lầm người. Kinh Kha chỉ là tên đánh kiếm tồi, khoác lác. Theo ư tôi, giết được Trương Phúc Loan vẫn chưa xứng danh hào kiệt. Sao không diệt luôn cái cơ đồ họ Nguyễn? Xứ Nam Hà do tổ phụ họ Nguyễn dày công vun đắp. Nay con cháu vong ân phản bội công lao tổ tiên, thế loạn tất sinh anh hùng hào kiệt. Nhạc này dẫu hèn, xin nguyện xách kiếm theo pḥ người thế thiên hành đạo, mở kỷ nguyên thịnh trị thái b́nh.

Nhạc nói xong, Giáo Hiến yên lặng một lúc rồi bảo: Sao tin ở người lại không tin ở ḿnh?

Nhạc tỏ ra chưa hiểu ư. Giáo Hiến tiếp:

-Mỗi triều đại đều trải qua khi hưng thịnh, lúc bại tàn. Do vận nước suy vi biến loạn, bao kẻ biết khai thác thời cơ tạo dựng sự nghiệp. Nào Lư Công Uẩn dựng nghiệp nhà Lư. Thủ Độ dành quyền lực cho họ Trần. Lúc Trần suy, Hồ Quư Ly nắm cơ hội lập triều đại nhà Hồ. Rồi họ Lê, họ Mạc... Sử sách dẫn ra biết bao dời đổi. Ngay cơ nghiệp họ Nguyễn xứ đàng trong do Tiên Chúa dày công sáng lập. Đến đời con là Săi Vương sáng suốt thông minh, biết trọng hiền tài nên được Đào Duy Từ đắc lực phụ giúp, tạo nên thế lực mạnh ở phương nam đủ sức đối chọi với họ Trịnh ở Bắc Hà. Đó là lúc hưng. Nay Định Vương nhỏ tuổi, gian thần Trương Phúc Loan nắm quyền bính. Hắn càng giàu th́ nước càng nghèo, dân càng khổ. Oán vọng trời cao. Cái thế bại rơ như ban ngày. Cơ nghiệp họ Nguyễn sẽ sụp đổ. Nhưng ai sẽ đứng lên dựng cờ đại nghĩa? Thời thế tạo anh hùng, anh hùng tạo thời thế. Ta thấy ngươi vơ dơờng nghĩa khí, thấy chuyện bất b́nh dám ra tay can thiệp không kể hiểm nguy. Nay dân đàng trong bất b́nh, sao nỡ điềm nhiên thị tọa? Anh em Tây Sơn tài quán thiên hạ, sao không biết thụ mệnh trời thế thiên hành đạo?

Nhạc trọng Giáo Hiến, coi như sư phụ. Nhạc hiểu những điều ông vừa nói không phải bộc phát mà đă suy nghĩ từ lâu. Giáo Hiến thâm trầm cẩn trọng. Ông giải tỏa nỗi phân vân trong ḷng Nhạc từ hai tháng nay, khi Nhạc được người khách lạ tặng báu kiếm.

Hai tháng trước, sau chuyến đi chở trầu từ Tây Sơn thượng về nhà, bà Trần Thị Huệ trao cho chồng một cái hộp niêm phong kỹ, bảo của người khách từ đàng ngoài trước khi hồi hương gửi lại chủ nhân. Nhạc mở hộp thấy có thanh kiếm c̣n nằm trong vỏ. Rút ra xem, lưỡi kiếm tỏa sắc xanh rờn rợn. Nhạc múa thử vài đường thấy vừa tay, chém thử thanh sắt, lưỡi kiếm ngọt như chém thân chuối. Nhạc biết đây là báu kiếm. Ngoài thanh kiếm c̣n một lá thư đại ư như sau:

“...Tổ phụ nhà tôi vốn người Thanh Hóa, qua nhiều đời trở nên giàu có nhờ nghề rèn dao kiếm. Đến đời cha tôi, ông bỗng bỏ nghề. Tôi hỏi, cha tôi nói: Cha không muốn tiếp tục làm cái nghề tạo phương tiện cho con người tàn sát lẫn nhau, cha không muốn sống trên xác người, trên máu xương đồng loại.

Tôi muốn hỏi thêm, chưa kịp hỏi cha đă tiếp: Cái cơ nghiệp tiền của ông cha để lại, con cứ ngồi không hưởng vài đời chưa hết. Nay cha già yếu, gần đất xa trời. Trước tiên, cha muốn con bỏ nghề, đem thanh báu kiếm cuối cùng của gịng họ, đi về phương nam t́m người hào kiệt mà tặng. Con làm xong điều này, cha toại ḷng nhắm mắt.

Cha ngừng nói, trầm ngâm như tượng. Tôi định hỏi nhưng lại thôi, v́ biết cha đă biết điều tôi nghĩ. Người tiếp: Bảng nhăn Lê Quư Đôn với cha là chỗ thâm giao. Có lần người nói với cha, nước Nam ta rồi sẽ bước vào vận hội mới. Cơ nghiệp hai họ Trịnh Nguyễn sẽ suy tàn. Phương nam xuất hiện chân chúa, sông Gianh không c̣n là vết cắt phân chia. Cha nghĩ hiện nay, cái loạn đang nẩy mầm phát triển trong cung đ́nh Trịnh Nguyễn. Ở đàng ngoài, Chúa Trịnh chính sự bê trễ, đàng trong gian thần Trương Phúc Loan thao túng triều chính. Vậy con cấp lên đường.

Đến lúc này, tôi lên tiếng hỏi:

-Thưa cha, trời đất mênh mông, biết t́m đâu ra chân chúa?

-Con thường nghe bốn chữ địa linh nhân kiệt. Đó vẫn là nơi chân chúa xuất hiện. Hơn nữa, cha chỉ cần con chọn người xứng danh hào kiệt đủ làm cha măn nguyện. C̣n t́m được chân chúa th́ c̣n chi quư hơn. Hào kiệt hẳn nhiên tài cán hơn người, dám làm chuyện ngăn sông lấp biển. Nhưng tài chưa đủ, chỉ có tấm ḷng mới đáng quư. Đó là ư nghĩa tuyệt vời của chữ Tâm. Con hăy ghi nhớ.

Tôi tạ cha già, mang báu kiếm vào phương nam. Đến kinh đô Phú Xuân, tôi lưu lại hơn ba tuần trăng, ngày ngày lang thang hang cùng ngơ hẻm, mong t́m người đáng mặt trao kiếm. Nghe đồn cháu nội Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát là người tài đức, hiện ở tại Tĩnh Viễn Đường, căn nhà tĩnh lặng ven sông Hương. Đây là nơi tao nhân mặc khách thường lui tới thăm viếng, đàm đạo cùng chủ nhân.           Tôi lần tới nhà, biết được đôi điều về ông. Ông tên là Nguyễn Phúc Dục, tính khí ngay thẳng, chẳng sợ uy quyền. Ông ngang nhiên chống lại Trương Phúc Loan nên bị y hạ ngục. Sau bị Loan băi chức rồi cho về hưu. Từ đó chỉ vui với thơ văn, ông giỏi cả âm nhạc, làm ra cây đàn bầu gọi là Nam Cầm, gửi tâm sự vào những âm thanh năo nùng ai oán.     Nhận thấy Phúc Dục không phải người có chí lớn , tôi mang báu kiếm vượt Hải Vân Sơn vào địa phận Quảng Nam. Đến huyện Ḥa Vang, tôi gặp tay tráng sĩ quyền cước tuyệt vời, lại có tài bắn cung “bách bộ xuyên dương”. Ḷng mừng khấp khởi tưởng gặp trang hào kiệt, tôi theo tráng sĩ vào quán rượu bên đường. Quán đang đông khách, thấy tráng sĩ bước vào nhiều người đứng dậy niềm nở chào hỏi, có người lại mời tráng sĩ uống rượu. Trong lúc cao hứng, tráng sĩ biểu diễn vơ công thâm hậu, y lấy một chiếc đĩa sành đập vỡ đôi, chỉ với nửa chiếc đĩa sành trong tay, y dùng sức mạnh chặt đứt đầu một con chó. Ai nấy thán phục. Tôi nh́n y, hai tay bê bết máu, máu bắn dính cả trên ngực áo. Y cười khoái trá, đôi mắt lộ hung quang như bắn ra những tia máu đỏ ngời. Tôi đánh giá y chỉ là kẻ vũ phu khát máu, y là vơ quan đang chỉ huy toán vệ binh năm mươi người tại huyện. Sau tôi có t́m gặp thêm đôi người, nhưng chẳng có ai xứng để trao kiếm.

Tôi tiếp tục cuộc hành tŕnh vào Qui Nhơn, vùng đất của những tay vơ nghệ cao cường, hy vọng đạt ư nguyện. Nghe đồn ông Hai Trầu là người giàu có, giỏi vơ nghệ lại hào hiệp. Tôi giả làm khách thương lỡ độ đường xin đến trú ngụ. Đây là lần đầu tiên gặp ông, nhận ra ông tướng mạo khôi vĩ. Sau khi nghe tôi ngỏ ư, ông vui vẻ nhận lời, không hề thắc mắc. Lại dành cho tôi chỗ ở, bữa ăn ngày nào cũng cá thịt. Trong nhà ông lúc đó có vào khoảng vài chục khách. Hỏi ra họ thuộc nhiều giới. Giới vơ nghệ, giới buôn bán, giới vong mạng, lại có cả những người ông chưa hề quen, tôi đoán chừng họ là những người lợi dụng ḷng tốt của ông đến ăn nhờ ở đậu qua ngày. Với tôi, thành phần này chẳng có ǵ đáng tin cậy. Điều ngạc nhiên là ông xử sự tốt với tất cả, ai cũng kính trọng ông. Chính tôi cũng thế.

Có lần được xem ông biểu diễn Mai Hoa Kiếm Pháp, đường kiếm điêu luyện làm tôi càng thêm phục. Các tay cao thủ tôn ông làm huynh trưởng. Ông quả là người tài năng, đắc nhân tâm.

Hơn mười ngày ở nhà ông, tôi thường dạo xem phong thủy. Được biết ngôi mộ cụ thân sinh của ông táng tại núi Ngang. Đứng từ đó nh́n thấy ḥn Trung Sơn tại thôn Phú Lạc trông như tháp bút. Đối diện là Hội Sơn, trên núi có hồ nước lớn, trông tựa nghiên mực, nước hồ không bao giờ cạn. Dưới chân núi Ngang lại có hai ngọn núi nhỏ tượng h́nh chuông trống, dân trong thôn thường gọi tên ḥn Chung, ḥn Cổ. Thôn Trinh Tường có rặng núi thấp dài như lưỡi gươm gọi là ḥn Kiếm. Ḥn ông Đốc mang dáng cọp ngồi. Gịng sông Côn uốn khúc tựa giao long.

Một vùng gồm đủ bút nghiên chung cổ kiếm, lại có hổ phục thanh long quả là thế đắc địa.

Sau khi suy nghĩ kỹ, nhận ra vơ nghệ của ông không nhường ai, ông giao du đặt nặng nghĩa t́nh, ông nói lời ngay thẳng chân thật v́ tâm ông trong sáng, tôi quyết định tặng ông báu kiếm...”

Cầm thanh kiếm, ḷng Nhạc bâng khuâng. Nhạc không hiểu sẽ phải làm ǵ trước tấm ḷng của khách. Thanh kiếm không lẽ được cất kỹ làm bảo vật, hoặc dùng như một loại vũ khí tầm thường? Nay nghe Giáo Hiến nói, Nhạc hiểu được điều ông đang kỳ vọng ở anh em ḿnh. Nhạc không sợ hăi, Nhạc dám hành động, niềm tin thần quyền như kích thích thêm trong ḷng Nhạc niềm kiêu hănh dám nhận trách nhiệm cứu người lầm than. Nhưng biết bao trăn trở, công việc sẽ bắt đầu từ đâu, vào lúc nào?

Đêm hôm ấy Nhạc khó ngủ. Khi gà gáy sáng, Nhạc thức dậy chuẩn bị lên Tây Sơn thượng gom trầu. Những câu hỏi quanh quẩn, phải bắt đầu ra sao, rồi cách tiến hành mưu đại cuộc. Vài ngày sau trở về, thầy tṛ lại tâm sự. Giáo Hiến nói:

-Ư ngươi đă quyết?

-Tôi không sống hèn như cây cỏ. Tôi từng gặp nhiều hạng người cao thấp sang hèn nên hiểu ḷng dân. Nhưng thầy hẳn sẵn kế hoạch?

-Hẳn nhiên. Việc tiến hành đ̣i hỏi bí mật, kiên nhẫn. Dục tốc bất đạt, ngươi luôn phải tâm niệm. Trước tiên phải chiêu mộ người, lo dự trữ lương thảo. Phải làm sao che mắt được quan quân, chờ thời cơ thuận lợi sẽ khởi sự. Cách làm kín đáo nhất, ta hăy giao cho Nguyễn Huệ công tác khẩn hoang tại Tây Sơn thượng, tuyển mộ phu trồng cây lương thực, làm sao cho bọn họ dần dần trở thành tay chân thủ hạ của ta. Phần ta sẽ đến ấp An Thái mở trường dạy học, vừa nghe ngóng t́nh h́nh, vừa tuyển mộ hào kiệt. C̣n ngươi, ta nghe phủ đang cần người làm chân Biện Lại coi việc thu thuế, tốt nhất ngươi tạm nhận chức đó. Đây là cách ẩn thân khá an toàn để tiến hành công việc, tránh cặp mắt nghi ngờ của quan quân.

Kế hoạch xúc tiến tốt đẹp. Giáo Hiến thuyết phục hai tay hào phú là Nguyễn Thung và Huyền Kiêu yểm trợ thêm lương thực nuôi nhân công trong giai đoạn đầu. Nhạc xin được chân Biện Lại. Chỉ sáu tháng, số nhân công tăng trên ngàn người, đa số nghèo khổ thiếu cơm áo. Bạn thân của Nhạc là Vơ Xuân Hoài vào phụ cho Huệ, làm công tác vận động biến nhân công thành những nghĩa quân đầu tiên của lực lượng Tây Sơn. Nguyễn Lữ đang đi tu cũng trở về giúp Huệ lo việc huấn luyện quân. Các tay hào kiệt như Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân và nhiều người khác lần lượt vào Tây Sơn thượng đầu quân.

Năm Tân Măo 1771, Nam Hà lâm nạn đói. Nguyễn Nhạc một lần ra Quảng Nam chứng kiến hàng ngàn người, như những bóng ma thất thểu trên đường, họ đi t́m bất cứ thứ ǵ có thể ăn được rồi cuối cùng gục chết. Xác chết trẻ con cũng trở thành thực phẩm quư, người ta đói đến độ giết cả trẻ con ăn thịt không đợi đến khi chúng chết, v́ nghĩ trước sau ǵ chúng cũng chẳng sống được, thà ăn lúc c̣n sống thịt ngon hơn. Nhạc nói với một người trong bọn: Hăy vào ấp Tây Sơn thượng sẽ có cơm ăn áo mặc. Thâm ư muốn chiêu mộ thêm quân cho Tây Sơn.

Người ta đồn nhau, lũ lượt kéo về phương nam t́m đất sống. Cả đoạn đường hàng trăm dặm ngập xác người, những kẻ không c̣n sức sống đi đến vùng mơ ước có miếng ăn. Mọi căm phẫn dồn cả trên đầu Quốc Phó Trương Phúc Loan. Nhạc bàn với Giáo Hiến cho rằng thời cơ đă tới. Giáo Hiến nói phải.

Vụ thuế năm ấy, Nhạc gom hết tiền bạc, lúa gạo chuyển thẳng vào chiến khu.

Nguyễn Nhạc bỏ đi hàng tháng, người chỉ huy là Đốc Trưng Đằng mới phát giác. Đằng hoảng sợ báo cáo Tuần Phủ Qui Nhơn Nguyễn Khắc Tuyên: “Tên Biện Lại Nguyễn Nhạc lấy tiền thu thuế đánh bạc thua hết đă bỏ trốn.”

Nguyễn Nhạc vào Tây Sơn thượng bắt tay ngay vào việc hoàn chỉnh lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa. Công việc rồi cũng bại lộ.

Mùa xuân năm Nhâm Th́n 1772, Tuần Phủ Qui Nhơn ra lệnh Tri Huyện Tuy Viễn tiến quân dẹp bọn giặc cướp Nguyễn Nhạc. Viên Tri Huyện đem vài trăm quân lên đường. Quân Nguyễn vừa đến chân đèo An Khê đă bị Trần Quang Diệu mai phục đánh tan tác t́m đường tháo chạy.

Sau chiến thắng đầu tiên, thanh thế Tây Sơn lớn như thổi. Nguyễn Nhạc công khai tổ chức những toán quân nhỏ hàng đêm tấn công các làng mạc lân cận. Quân Tây Sơn lấy của người giàu chia cho người nghèo, tiễu trừ bọn tham quan. Đám dân nghèo mến mộ theo Tây Sơn ngày càng đông, ước tính hàng vạn người. Tuần Phủ Tuyên cấp báo về kinh xin quân cứu viện. Trương Phúc Loan nhận tin giận lắm. Loan nói: Chỉ một tên Biện Lại thua bạc biển thủ công quĩ trốn đi làm loạn mà dẹp không yên lại c̣n đ̣i cứu viện.

Phúc Loan làm ngơ không lưu tâm. Coi Tây Sơn chỉ là đám giặc cướp tầm thường.

Tuần Phủ Tuyên sợ hăi. Từ đó không dám tâu tŕnh ǵ nữa dù trong ḷng ngày càng lo sợ. Biết thế, Nguyễn Nhạc yên tâm xúc tiến chỉnh quân chuẩn bị đại cuộc ...

 

 

Những chuyện thần bí liên quan đến thủ lănh Tây Sơn Nguyễn Nhạc lan truyền trong dân gian, từ Qui Nhơn ra tận xứ Quảng. Có người xác quyết tận mắt nh́n thấy câu “ Tây Sơn Nguyễn Nhạc vi vương” được khắc rơ trên những thân cổ thụ sâu trong vùng rừng núi. Người lại bảo có chứng kiến cảnh Nguyễn Nhạc nhận sắc mệnh, ấn kiếm của Ngọc Hoàng làm vua nước Nam. Dưới mắt người dân, quân Tây Sơn không phải là bọn trộm cướp tầm thường mà là những người thay trời hành đạo, cứu dân thoát cảnh lầm than cơ cực.

Không những người Kinh mà các sắc dân người Chàm, người Thượng cũng thần phục Tây Sơn. Tù trưởng Banard gọi Nhạc là “vua Trời”, ngưỡng mộ gả cho Nhạc cô con gái duy nhất. Quân Tây Sơn gọi bà là Cô Hầu.

Cô Hầu đảm đang giúp chồng đắc lực trong việc phá nương đốt rẫy. Vùng đồng lúa mênh mông do bà cai quản được dân đặt tên “Đồng Cô Hầu”. Nữ chúa Chiêm Thành là Thị Hỏa kéo quân đóng tại huyện Thạch Thành yểm trợ cho quân Tây Sơn.

Nhận ra Tây Sơn trung, vùng sơn cước từ chân đèo An Khê kéo về phía đông Hữu, Tả Giang là vùng hiểm trở, có cái thế “bách nhị sơn hà”, có nghĩa hai người dựa thế núi có thể chống lại trăm người. Phía nam có ngọn núi cao cây cối rậm rạp địa thế hung hiểm. Nhạc quyết định dời bản doanh về vùng này trấn giữ ngọn núi. Về sau dân gọi là “Núi Ông Nhạc”. Nguyễn Huệ trấn ngọn núi phía bắc để yểm trợ khi nguy cấp. Để tiện việc điều binh, Nhạc dùng tiếng trống.

Nguyên có lần được nghe người họ Nguyễn thuộc thôn Kiên Mỹ đánh trống. Nguyễn Nhạc thích lắm, cho là kỳ tài. Người này đánh trống như đi quyền, tập trung hết thần khí vào giàn trống gồm mười hai cái to nhỏ đặt tên theo các con giáp. Mỗi điệu trống đều có tên riêng. Trống xuất quân hào hùng, điệu hăm thành dồn dập, thôi thúc vang rền như đan lẫn tiếng quân reo ngựa hí, điệu khải hoàn tưng bừng, vui tươi náo nức ḷng người.

Nguyễn Nhạc nghe tiếng trống thấy ḷng rạo rực, như đang chiến đấu giữa sa trường với hàng hàng lớp lớp tướng sĩ.

Mùa đông năm ấy trời lạnh hơn mọi năm. Ban đêm quân sĩ tụ tập sưởi ấm quanh những đống lửa chuyện tṛ. Cái lạnh giá, cái cô liêu của núi rừng u tịch thường gợi ḷng người bao nỗi nhớ, nhất là những kẻ tha hương vẫn hằng mong có ngày về cố quận. Vơ Xuân Hoài bàn với Nguyễn Nhạc:

-Qua mùa đông, ông nên khởi binh là vừa. Tôi nghĩ quân đông, khí thế đang lên, để lâu không lợi. Nhất là lương thực, miệng ăn núi lở.

Nhạc trả lời:

-Tôi cũng nghĩ như ông. Theo ông, ta nên lấy danh nghĩa nào? Sẽ đánh đâu trước?

-Nay ḷng người hướng về ta chưa nhiều, chỉ mới từ Qui Nhơn ra đến Quảng. Muốn thu phục đa số, ta nên lấy danh nghĩa tôn phù Hoàng Tôn Nguyễn Phúc Dương, diệt Trương Phúc Loan. Nhân dân oán ghét Định Vương mà chỉ mến mộ Hoàng Tôn Dương, triều thần cũng thế, ta nên lợi dụng tiếng tăm của y. Chuyện khác không kém quan trọng. Ta phải tổ chức lực lượng quy củ. Ư tôi muốn nói ông phải xưng tước hiệu cho chính danh, đồng thời phong chức tước, có văn quan, có vơ quan, đặt người vào đúng vị trí để họ có trách nhiệm, dễ dàng điều binh, quân lệnh nghiêm minh, có công thưởng, có tội phạt. Ta phải đặt nặng vấn đề v́ một số đông vơ tướng và quân sĩ của ta xuất thân từ giới lục lâm thảo khấu, quen khuấy nước chọc trời.

Nhạc suy nghĩ cho là phải. Nhạc nói:

-Đặt chức tước là cần, nhưng phải giản dị. Ta không cần bắt chước ông vua ông chúa nào. Lúc nào tôi cũng coi mọi người như anh em một nhà đồng lao cộng khổ.

Mùa xuân năm Quí Tỵ 1773, Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn Vương, phong Nguyễn Lữ làm Tán Tương Quân Vụ lo lương thảo. Nguyễn Huệ làm Đại Tổng Quản chỉ huy doanh trại. Vơ Xuân Hoài làm Hiệp Biện Đại Học Sĩ, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân.... được phong đô đốc. Số c̣n lại được phong đề đốc... Nhóm chỉ huy gồm mười tám người cả văn lẫn vơ, có cả các nữ tướng họp thành “ Tây Sơn Thập Bát Cơ Thạch” là những người ṇng cốt của lực lượng Tây Sơn lúc ban đầu.

Việc huấn luyện quân sĩ, Tây Sơn Vương dùng bài Hùng Kê Quyền do Nguyễn Lữ dày công nghiên cứu sáng tạo ra.

Nguyễn Lữ thích xem chọi gà. Lữ thấy một con gà con đá thắng con gà có sức vóc lớn hơn, nghĩ ra thế vơ lấy yếu thắng mạnh, lấy nhu thắng cương... Cũng từ con gà lớn, Lữ tạo những thế đánh công phá. Do vậy, Hùng Kê Quyền có những miếng luồn lách tránh đ̣n, những cú đánh chắc, hung hiểm kết thúc vô cùng lợi hại.

Có lần, một thiền sư cũng là đại vơ sư từ Phúc Kiến đến Qui Nhơn thách đấu với Lữ. Thiền sư ngạo mạn nói: Đến như cọp beo c̣n chưa dám xưng hùng, huống nữa là kê...

Trận đấu giữa thiền sư và Nguyễn Lữ kéo dài đến gần một khắc. Lữ dùng đ̣n hiểm đánh trọng thương đại vơ sư nam phái Thiếu Lâm làm giới giang hồ nể mặt.

Mùa thu năm ấy, đại quân Tây Sơn khởi binh. Đạo quân thứ nhất do Tây Sơn Vương đích thân chỉ huy tiến đánh huyện Tuy Viễn. Chỉ trong buổi sáng quân Tây Sơn chiếm xong huyện. Dân chúng vui mừng mang thực phẩm khao quân. Hai đầu lănh thảo khấu vùng núi An Tượng là Nhưng Huy và Tư Linh xin về hàng phục.

Đạo quân thứ hai do Đô Đốc Trần Quang Diệu và Phó Đô Đốc Vơ Văn Dũng chỉ huy chiếm hai huyện Bồng Sơn và Phù Ly dễ dàng, không bị thiệt hại nào v́ quân Nguyễn nghe quân Tây Sơn kéo đến đă bỏ chạy. Tây Sơn Vương tăng cường cho Diệu thêm quân lương, cử Nguyễn Lữ theo trợ chiến, ra lệnh nam tiến chiếm cứ Phú Yên, Diên Khánh rồi B́nh Thuận.

Phần Nguyễn Nhạc trực tiếp chỉ huy tấn công bao vây Qui Nhơn. Muốn thử sức toán quân mới hàng phục, Tây Sơn Vương ra lệnh Nhưng Huy và Tư Linh làm tiền phong chỉ huy công thành.

Thành Qui Nhơn tức thành Đồ Bàn, vốn là kinh đô Chiêm Thành cũ. Thành xây bằng đá tổ ong rất kiên cố nằm trên vùng đất cao có hào bao bọc. Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên đóng cửa thành cố thủ không dám giao chiến. Quân Tây Sơn công thành, quân Nguyễn bắn cung tên, ném đá...

Sau ba ngày không hạ nổi thành, Nhạc nói với Nguyễn Thung: Công thành là hạ kế, tôi ra lệnh đánh là muốn thử sức bọn lính mới. Ta hăy tạm lui binh ém quân vào rừng, tôi đă có kế lấy Qui Nhơn.

Nói xong ra lệnh lui binh.

Thấy Tây Sơn rút binh, Tuần Phủ Tuyên chưa lượng giá được t́nh h́nh. Tuyên đoán Tây Sơn không đánh được thành nên rút lui về căn cứ.

Vài ngày sau, tin đồn lan khắp: Nguyễn Nhạc đă bị quân Nguyễn phục kích bắt sống khi rút lui. Đây là sự thật. Ngay chiều hôm đó, khi trời mờ tối, người ta thấy Nguyễn Nhạc bị trói nằm trong cũi do đám quân sĩ hộ tống đưa vào thành. Dân chúng đổ xô ra xem chật ních đường phố. Có người cảm thương anh hùng mạt vận, hùm thiêng sa cơ.

Cửa thành mở rộng. Tuần Phủ Tuyên đứng trên thành hoan hỉ đă bắt được tên tội phạm nguy hiểm, gỡ mối lo canh cánh bên ḷng.

Bỗng tiếng pháo nổ vang, quân Tây Sơn trà trộn trong dân reo ḥ tiến vào thành như thác lũ. Nguyễn Nhạc ra khỏi cũi cưỡi bạch mă chỉ huy cuộc tấn công chiếm thành.

Biết ḿnh trúng kế, Tuần Phủ Tuyên lên ngưạ đào thoát.

Lá cờ mang chữ Tây Sơn Vương phất phới tung bay. Qui Nhơn thất thủ. Dân hoan hỉ khi Tây Sơn Vương ra lệnh băi bỏ nhiều thứ thuế, lại giảm một nửa thuế điền thổ.

Dành vài ngày ổn định t́nh h́nh, quân Tây Sơn tiến đánh Quảng Ngăi, dừng quân tại bờ nam sông Trà Khúc. Bọn cướp biển người Quảng Đông thường quấy phá vùng Quảng Nam nay kéo về hàng phục Tây Sơn. Hai thủ lĩnh Tập Đ́nh, Lư Tài được nhận chức tiền phong.

Đám quân người Tàu gồm những người lực lưỡng, khi xung trận thường uống rượu, ḿnh trần, đầu quấn khăn đỏ, cổ đeo bùa, xử dụng khiên và đại đao, chiến đấu hung hăn.

Có thêm quân, Tây Sơn Vương xua quân chiếm Quảng Ngăi. Toán năm ngàn quân Nguyễn cứu viện do Tiết Chế Tôn Thất Hương chỉ huy bị phục binh Tây Sơn phá vỡ tại núi Bích Kê. Tiết Chế Hương và bộ chỉ huy bị Tập Đ́nh Lư Tài giết chết.

Tây Sơn chiếm xong Quảng Nam, một mặt chuyển hết của cải lấy được về Qui Nhơn, mặt khác cho pḥng thủ các nơi hiểm yếu. Nhạc nói với tướng sĩ: Ta chiếm xứ Quảng, triều đ́nh Phú Xuân bị nghẹt cổ họng v́ tắc đường chuyển lương thực, thế nào cũng t́m cách chiếm lại. Phải thắng trận này mới có cơ bắt được Trương Phúc Loan.

Tin Quảng Nam thất thủ làm Phú Xuân kinh hoàng. Nhiều vơ tướng hối lộ để khỏi ra trận. Định Vương bối rối không biết chỉ định ai cầm quân đối địch. Sau cùng, Trương Phúc Loan cử Quận Công Tôn Thất Thăng đem một vạn quân vào Quảng Nam.

Nghe tin Thăng chỉ huy, Nguyễn Nhạc cười ngất nói với Nguyễn Thung:

-Vận Nguyễn mạt mới đề cử tên này cầm quân. Thăng là tay chân thân tín của Loan, cháu nội Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu. Thăng bất tài hèn hạ. Hắn đến đây, nếu qui hàng ta tha, bằng kháng cự chỉ cần một trận th́ Thất Thăng sẽ kêu thất thanh tức khắc.

Thung nghe cả cười. Hai người bày rượu uống đến khuya mới nghỉ.

Mùa xuân năm Giáp Ngọ 1774, Nhạc nhận tin Tôn Thất Thăng dẫn quân đi chinh phạt nhưng dọc đường bỏ trốn mất. Định Vương cử Tiết Chế Nguyễn Cửu Thống thay thế đem quân tiếp tục vượt Hải Vân Sơn vào Quảng Nam. Nguyễn Nhạc nhử quân Nguyễn vào sâu đến Phố Hội mới tổ chức phản công cả hai mặt thủy bộ. Quân Nguyễn bị phá vỡ hoàn toàn, Tiết Chế Thống dẫn khoảng ngàn tàn quân tháo chạy thoát ra khơi về lại Phú Xuân.

Trong cơn bối rối, vận may lại đến như liều thuốc bổ giúp Phú Xuân vững lại tinh thần. Định Vương vừa nhận tin chiến thắng từ mặt trận phía nam. Kính Quận Công Tống Phúc Hợp chỉ huy quân Nguyễn đă chiếm lại B́nh Thuận, Diên Khánh buộc Tây Sơn rơi vào thế pḥng thủ. Có tin đoàn thuyền chuyển lương thực của Mạc Thiên Tứ từ Hà Tiên sắp về đến kinh thành càng làm chúa tôi nhà Nguyễn vững dạ. Phú Xuân đang thiếu lương trầm trọng.

Quân dọ thám Tây Sơn nhận tin báo cáo với chủ tướng. Nhạc vội ra lệnh Nguyễn Lữ đem chiến thuyền đợi sẵn ngoài khơi Qui Nhơn. Quân Nguyễn không pḥng bị để mất hàng trăm thuyền lương vào tay địch.

Ở vào thế không c̣n chần chờ được. Cuối tháng bảy, Định Vương thân chinh dẫn quân tái chiếm Quảng Nam. Quân Nguyễn vào đến Tư Dung, Định Vương phải gấp rút trở lại kinh thành v́ nhận tin đại quân Trịnh do Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc đang trên đường nam tiến. Du Quận Công Nguyễn Cửu Dật thay Định Vương nắm quyền quyền chỉ huy.

Thấy thế quân Tây Sơn rất mạnh, Dật khôn ngoan không dàn trận lớn, chia quân thành nhiều toán nhỏ, tổ chức đột kích bất ngờ đẩy quân Tây Sơn vào thế bị động. Toán quân người Tàu của Tập Đ́nh và Lư Tài thua trận liên tiếp. Giữa mùa đông, quân Tây Sơn bị đẩy lùi khỏi Quảng Nam, Nguyễn Nhạc cho rút quân lập pḥng tuyến tại Châu Ổ, Quảng Ngăi.

 

 

Tại Bắc Hà, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm được báo cáo đầy đủ về t́nh h́nh Nam Hà. Vốn giàu tham vọng, chúa hoan hỉ triệu tập quần thần hội nghị. Chúa nói:

-Cuộc chiến giữa ta và họ Nguyễn ngừng cho đến nay tính đă trăm năm. Chẳng phải các tiên chúa hủy hẳn cuộc chinh phạt Nam Hà, nhưng v́ nghĩ chưa có lợi nên không động binh. Nay Phú Xuân rối loạn, quyền thần Trương Phúc Loan gian tham tàn ác, Nguyễn Phúc Thuần nhu nhược phó mặc việc triều chính cho Loan. Lê dân căm phẫn v́ mất mùa đói khổ. Bọn giặc cướp Tây Sơn thừa cơ dấy loạn đang tiến quân ra Quảng Nam. Đây là cơ hội ngàn năm để ta động binh diệt Nguyễn, lấy danh nghĩa diệt loạn thần.

Quần thần cho là phải. Chúa phong Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc làm B́nh Nam Đại Tướng, các vơ tướng danh tiếng Bắc Hà như Hoàng Đ́nh Bảo, Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đ́nh Thể, Nguyễn Hữu Chỉnh có mặt trong đoàn quân chinh phạt.

Tháng chín năm Giáp Ngọ 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh. Bắc quân dễ dàng chiếm các lũy Trường Dục, lũy Thầy tiến vào Ái Tử. Quân Nguyễn hầu như chỉ đầu hàng hoặc bỏ chạy. Hoàng Ngũ Phúc sai Nguyrễn Hữu Chỉnh phổ biến bài hịch kể tội Quốc Phó Loan:

“...Tả Tướng Trương Phúc Loan là người tiểu khí tà tâm, chuyên dùng kẻ gian nịnh hăm hại người trung lương, ly cựu gián thân, giết kẻ này lập kẻ khác. Hắn chẳng khác giống sài lang, thích điều cay việc độc, lấy thuế dân nặng như hút máu mủ, bớt lương lính như nhổ răng nhổ móng, cách cai trị nguy cấp như lửa cháy lông mày, các h́nh phạt thâm độc như chọc thủng con ngươi. Ḷng dân hận oán ngút trời khiến quân Tây Sơn kết tụ bọn gian manh làm đồ đảng, đông như ong kiến, lùng chạy khắp chốn như sói beo, chiếm cứ Quảng Nam.

Vậy muốn cho dân sống lại. Ta vâng mệnh chúa Tĩnh Đô Vương cất quân dẹp loạn tặc, khử cường thần, duy tŕ việc tế tự Tiên Vương. V́ nghĩa cứu nguy tuyệt không có ư thừa lúc gian nan mà lợi dụng.”

Cuối tháng mười, Phúc cho người mang tối hậu thư vào Phú Xuân buộc Định Vương đầu hàng và giao nộp Trương Phúc Loan.

Nhận thư, Định Vương khiếp hăi ư muốn đầu hàng để bảo toàn mạng sống. Chúa cùng các hoàng thân và một số thân tín mật nghị. Chúa nói:

-Nay quân Trịnh đă vào Ái Tử, thế mạnh như vỡ đê. Ta chống nó chẳng khác lấy trứng chọi đá. Ta lại nghe tin đích thân Trịnh Sâm cầm quân chuẩn bị vào nam tiếp ứng. Ư ta muốn hàng Trịnh để giữ lấy cơ đồ rồi sau sẽ liệu cách ứng phó.

Các Hoàng Thân Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Chất, Tôn Thất Dinh phản đối quyết liệt. Thiệp nói:

-Ư đồ chính của họ Trịnh là chiếm Nam Hà. Nay ta làm theo ư nó chẳng khác chi cho chân vào bẫy, đưa đầu cho chém, tự động mở cửa rước lang sói vào nhà, lúc chết c̣n mắt nào nh́n tiên chúa nơi chín suối. Thiệp này hèn xin quyết một trận tử chiến, dẫu nát thây cũng ngậm cười.

Các vơ tướng thề quyết bảo vệ chúa đến giọt máu cuối cùng. Tôn Thất Chất bàn:

-Phúc Loan chính là đầu mối loạn, đây là cơ hội tốt ta nhờ tay Trịnh diệt nó. Vậy ta lập mưu bắt nó giao cho Trịnh, lại tặng thêm vàng bạc, coi như thỏa măn yêu sách. Nếu Trịnh quyết đánh, ta chống. Giang san họ Nguyễn vẫn c̣n từ Phú Yên trở vào nam, vùng này đất đai mầu mỡ trù phú, dân c̣n hàm ân tổ tiên ta mở đất gầy dựng cho họ. Dẫu ta bỏ mất Phú Xuân, Trịnh sẽ phải đối đầu với Tây Sơn. Hai cọp tranh nhau, ta ở phía nam tọa sơn quan hổ đấu, chờ cơ hội tạo dựng lại cơ đồ.

Mọi người cho là diệu kế.

Cuối cùng Trương Phúc Loan bị bắt giải sang Trịnh. Định Vương c̣n tặng quân Trịnh bảy trăm lượng vàng và nhiều phẩm vật khác, yêu cầu Trịnh lui binh.

Hoàng Ngũ Phúc nhận tặng vật xong trả lời sứ giả: Tuy đă bắt được Loan nhưng Tây Sơn chưa diệt. Ta sẽ tiến vào Phú Xuân hợp với quân Nguyễn chinh phạt Tây Sơn.

Quân Trịnh tiếp tục tiến. Tướng Nguyễn Tôn Thất Thiệp đem năm trăm quân và hai mươi thớt voi chặn tại phá Tam Giang. Quân Nguyễn đại bại. Ngày hai mươi bảy tháng chạp năm Giáp Ngọ 1774, tướng tiên phong Trịnh là Hoàng Phùng Cơ đem đại binh vào Phú Xuân. Chúa tôi nhà Nguyễn dùng đường biển thoát chạy vào Cửa Hàn, Quảng Nam. Ngồi trong thuyền, Định Vương than vắn than dài, có khi rơi lệ. Ở đầu thuyền, thiếu niên khoảng mười bốn, mười lăm ngồi yên như tượng, nét căm hận lóe trong ánh mắt. Đó là Nguyễn Phúc Ánh, cháu nội Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, con trai Nguyễn Phúc Luân, người bị Phúc Loan ám hại đă bỏ ḿnh.

Tại Quảng Ngăi, quân Nguyễn hoang mang v́ nghe tin quân Trịnh đang tiến đánh Phú Xuân. Lợi dụng cơ hội, Tây Sơn tổ chức phản công. Hai tướng Tập Đ́nh Lư Tài theo đường thủy tiến ra cửa Hàn, Nguyễn Nhạc chỉ huy bộ binh. Quân Nguyễn lùi dần. Nguyễn Cửu Dật kéo quân về cửa Hàn gặp Định Vương. T́nh h́nh nguy ngập. Định Vương theo đề nghị của quần thần chính thức phong Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương làm Đông Cung, truyền ở lại Quảng Nam đối địch. Chúa và một số cận thần xuống thuyền chạy vào Gia Định.

Nghe tin Đông Cung Dương ở lại, Nguyễn Nhạc mừng lắm. Nhạc đă nghĩ ra kế lợi dụng danh nghĩa Đông Cung như lá bài chiến lược quan trọng trong sự nghiệp của ḿnh. Nhạc ra lệnh hai tướng Tàu vây chặt các đường rút quân của địch. Cuối cùng Đông Cung bị bắt. Nhạc sai thủ hạ bí mật đem Đông Cung về giam lỏng tại Qui Nhơn.

Phần quân Trịnh sau khi chiếm Phú Xuân, Hoàng Ngũ Phúc chiêu an dân chúng nhưng không quên chuyên chở hết tài sản đoạt được của chúa Nguyễn ra bắc. Phúc nhận lệnh chúa Trịnh chuẩn bị tiến chiếm Quảng Nam. Quân Tây Sơn ở thế chuẩn bị đối đầu. Nhạc bàn với Nguyễn Thung:

-Thế quân Trịnh vừa đông lại mạnh. Ngũ Phúc là danh tướng. Dưới tay hắn c̣n bọn Bảo, Cơ không phải tầm thường. Tôi lại nghe Trung quân có Nguyễn Hữu Chỉnh là tay mưu lược. Trịnh vào Phú Xuân dễ dàng như trở tay. Theo ông, ta nên đối phó cách nào?

-Bắc Hà lương thảo không dồi dào, Quảng Nam chẳng khá ǵ hơn. Theo tôi cứ để địch vào , ta giữ các nơi hiểm yếu, tránh tác chiến, lại t́m cách thu trước lương thực không cho địch chiếm, dùng khinh binh cắt đường vận lương. Tôi tin quân Trịnh không dám ở lâu, sẽ t́m cách rút.

-Tôi cũng nghĩ như ông, nhưng bước đầu nên đánh một trận để thử sức quân địch. Sau đó ta rút nhưng cho bọn Lư Tài luôn ẩn nấp quấy phá gây cho địch hoang mang sợ hăi. Chủ đích của tôi vẫn là ḥa Trịnh diệt Nguyễn. Ta t́m cách giao hảo, nếu Trịnh rút quân th́ tốt, bằng không ta sẵn sàng có cách đánh tan địch.

Nhạc ra lệnh Tập Đ́nh làm tiên phong dẫn quân ngăn địch tại cửa Hàn. Nhạc nói:

-Ngươi ra quân trận đầu phải đánh lấy thắng cướp tinh thần quân địch. Không làm được là phạm quân lệnh.

Nguyên đám quân Tập Đ́nh quen thói vô kỷ luật, hay sách nhiễu làm mất ḷng dân. Nhạc muốn nhân cơ hội này trừ khử.

Toán tiên phong Trịnh do Hoàng Phùng Cơ chỉ huy tiến vào cửa Hàn gặp quân Tập Đ́nh. Quân Tập Đ́nh đổ ra đánh rất hăng. Lần đầu tiên gặp đội quân kỳ lạ, ḿnh trần, quấn khăn đỏ, đeo bùa ngăi... quân Trịnh nao núng. May viện binh kịp đến làm gọng ḱm tiến đánh, quân Tập Đ́nh rút chạy ra biển. Tập Đ́nh xuống thuyền chạy về Quảng Đông. Nguyễn Nhạc theo đúng kế hoạch từ từ rút quân về Châu Ổ, Quảng Ngăi lập pḥng tuyến. Quân Trịnh tiến chậm v́ bị toán quân Lư Tài bám sát quấy phá. Đến Quảng Ngăi, Hoàng Ngũ Phúc ra lệnh dừng quân. Quân Tây Sơn mở cờ gióng trống, dàn thế trận giữ các cao điểm như sẵn sàng nghênh chiến. Ngũ Phúc hỏi Nguyễn Hữu Chỉnh:

-Theo ngươi, Nguyễn Nhạc tính kế ǵ?

Chỉnh đáp:

-Nhạc rút khỏi Quảng Nam là ư muốn dụ quân ta vào sâu, sau đó t́m cách cắt đường chuyển lương thực buộc ta rút quân. Theo tiểu tướng, hắn mới cầm quân nên cẩn thận, vẫn sợ thế mạnh của quân ta. Hơn nữa, quân Nguyễn ở phía nam vẫn bảo toàn lực lượng sẵn sàng tấn công Qui Nhơn, ư Nguyễn Nhạc muốn ḥa hơn chiến.

-Nếu ta quyết chiến?

-Ta đánh buộc hắn phải kháng cự. Nhạc là tay đa mưu túc kế, Thượng Công thấy hắn dùng kế chiếm Qui Nhơn dễ dàng. Dưới tay hắn hiện có trên hai vạn quân, thủ hạ nhiều tay vơ nghệ cao cường. Ta đánh sẽ ở vào thế bất lợi v́ phải giao tranh trên đất địch, dân vùng này lại ủng hộ hắn. Chi bằng ta làm nghi binh, giả như sắp tấn công, lại loan tin quân tiếp viện đang từ Bắc Hà tiến vào dọ xem phản ứng hắn thế nào.

Ngũ Phúc cho là phải, ra lệnh bố pḥng cẩn mật, chỉnh đốn đội ngũ.

Bấy giờ trời nắng gắt. Những cơn gió tây thổi mang theo cả cái nóng oi bức của núi rừng Nam Lào. Quân Trịnh bắt đầu nhiễm bệnh thời khí. Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm bệnh nặng phải chuyển gấp về bắc đă từ trần trên đường ra Phú Xuân.

Tại mặt trận phía nam, Tiết Chế Tống Phúc Hợp tập trung một vạn quân đánh chiếm Phú Yên. Nhạc lo sợ mật lệnh cho Nguyễn Huệ đem quân đoàn trên vạn người từ hậu cứ Tây Sơn thượng xuống giữ thành Qui Nhơn.           Trước t́nh h́nh cấp bách, Nhạc cử Học Sĩ Phan Văn Tuế mang lễ vật và thư sang gặp Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc xin cầu ḥa. Trong thư, Nhạc nói ḿnh chỉ là người dân áo vải, v́ bị ức hiếp buộc phải t́m đường sống bằng cách khởi nghĩa diệt loạn thần Trương Phúc Loan, thâm tâm vẫn muốn tôn phù nhà Lê. Nhạc t́nh nguyện làm bề tôi vua Lê ra sức diệt họ Nguyễn.

Hoàng Ngũ Phúc tiếp sứ giả Tây Sơn tử tế. Tuy thâm tâm muốn ḥa, thu dụng Tây Sơn để thêm vây cánh đánh Nguyễn nhưng Phúc giữ thể diện, hẹn sứ giả tháng sau sẽ trả lời v́ c̣n chờ lệnh Bắc Hà.

Nguyễn Nhạc trở về Qui Nhơn gặp Huệ. Huệ nói:

-Từ ngày khởi nghĩa, anh giao đệ nhiệm vụ giữ hậu cứ. Đành rằng đó là việc trọng yếu nhưng đệ nghĩ, bao năm rèn luyện vơ nghệ, nghiên cứu binh thư đồ trận, nay cứ ở măi đất này th́ sức cũng mỏi, trí cũng cùn. Nay quân Nguyễn đă chiếm Phú Yên, anh cho đệ cầm quân chỉ huy giết giặc lập công. Làm được điều đó th́ tướng sĩ cũng kính phục, lại chia sẻ với anh trách nhiệm ngoài chiến trường đồng lao cộng khổ. Đó là ước vọng của đệ.

Nhạc vỗ về:

-Tôi vẫn biết tài chú. Nhưng trước khi giao trọng trách, tôi phải tạo cho chú những thuận lợi, sau đó chú xuất quân mới nắm chắc phần thắng.

Thi hành kế hoạch, một mặt Nhạc bắn tin cho Tống Phúc Hợp biết Đông Cung Dương hiện ở trong thành Qui Nhơn, một mặt Nhạc nói với Đông Cung:

-Mục đích anh em chúng tôi chỉ là diệt loạn thần và tôn phù Đông Cung v́ nghĩ Định Vương nhu nhược, thiếu quyết đoán, không xứng ngôi vương. Nay quân Trịnh đă tiến đến Quảng Ngăi. Định Vương trốn chạy. Xin Đông Cung cho gọi Tống Phúc Hợp về Qui Nhơn để chúng tôi cùng hợp sức cho rơ cái nghĩa tôn phù, trấn an dân chúng.

Đông Cung hiểu rơ thân phận ḿnh chỉ là tên tù giam lỏng, làm vẻ vui nhận lời.

Nhạc biên thư cho Hợp nói rơ ư định của Đông Cung. Hợp nhận thư ḷng rối rắm, không biết xử trí ra sao v́ Đông Cung hiện trong tay Nhạc, nếu động binh sẽ nguy hiểm đến tính mạng Đông Cung. Cuối cùng, Hợp hẹn sẽ cho người ra Qui Nhơn thương nghị.

Để củng cố ḷng tin của Hợp, Nhạc gả con gái của ḿnh là Thọ Hương cho Đông Cung. Nhạc nói: Đông Cung ở một ḿnh cũng buồn. Nếu ngài không chê phận hèn, con gái tôi là Thọ Hương sẽ t́nh nguyện nâng khăn sửa túi hầu hạ ngài.

Mọi việc xong, Nhạc ra lệnh Nguyễn Huệ tấn công tái chiếm Phú Yên.

Bị đánh bất ngờ, Tống Phúc Hợp không kịp trở tay rút quân tháo chạy. Quân Tây Sơn hoàn toàn kiểm soát Phú Yên. Nhạc hỏi Trần Quang Diệu:

-Huệ dụng binh ra sao?

Diệu trả lời:

-Huệ dụng binh thần tốc, bí mật, ,kỷ luật nghiêm minh, dùng người đúng chỗ. Người thấp cầm giáo mác, cao cầm cung nỏ, mạnh cầm cờ xí, tiến thối nhất nhất, không do dự chần chừ. Huệ dũng cảm dẫn đầu xung trận nên tướng sĩ một ḷng quyết thắng.

Nguyễn Nhạc nghe cả mừng, yên tâm lên đường ra Quảng Ngăi tiếp tục thương nghị với Trịnh.

Vừa đúng hẹn, Ngũ Phúc sai Nguyễn Hữu Chỉnh sang thương nghị với Nhạc. Gặp Chỉnh, Nhạc đon đả:

-Nghe danh ông đă lâu nay có cơ gặp gỡ. Ông làm quân sư lại đỗ đến hương cống, sở học lớn hơn các Đại Học Sĩ của tôi.

Chỉnh cười:

-Chữ nghĩa vốn quư nhưng chỉ là những điều cổ nhân truyền dạy. Xưa nay, bậc hào kiệt trên đời lập nên sự nghiệp không nhất thiết là người học rộng. Ví như Đinh Bộ Lĩnh khai sáng cơ nghiệp nhà Đinh chỉ là đứa trẻ chăn trâu, gịng họ Trần vốn dân chài lưới , như vua Lê Lợi chỉ là nông dân đất Thanh Hóa...

Nhạc nghe lấy làm vui, bày tiệc khoản đăi. Các tướng Tây Sơn cũng cùng dự tiệc. Chỉnh tỏ ra mến tính hào sảng của Nhạc.

Tiệc tan, Nhạc mời Chỉnh đi xem doanh trại, cách bố trí đội ngũ. Mục đích Nhạc muốn phô trương thanh thế. Chỉnh nhận ra Tây Sơn là lực lượng mạnh không phải tầm thường. Nhạc nói:

-Ông về thưa với Việp Quận Công, Nguyễn Nhạc hằng kính trọng ngài. Nay em tôi là Nguyễn Huệ cũng vừa chiếm xong Phú Yên, tôi xin dâng ba vùng Quảng Ngăi, Qui Nhơn, Phú Yên cho nhà Lê. Chỉ xin làm người lính tiền phong diệt Nguyễn.

Chỉnh trở về tŕnh lại với Hoàng Ngũ Phúc. Chỉnh cũng không quên nói những nhận xét về Tây Sơn. Mấy hôm sau, Phúc sai Chỉnh đem ấn kiếm, sắc phong Nguyễn Nhạc làm Tráng Tiết Tướng Quân, Tây Sơn Hiệu Trưởng. Lại phong Nguyễn Huệ làm Tiền Phong Tướng Quân v́ có công chiếm Phú Yên. Phúc lại dùng lời lẽ mềm mỏng phủ dụ Nguyễn Nhạc.

Mọi việc xong, quân Trịnh chuẩn bị rút về Phú Xuân.

Lợi dụng lúc Trịnh rút, đám tôn thất nhà Nguyễn lại đem quân quấy phá Quảng Nam. Phúc ra lệnh cho Huệ đánh dẹp. Chẳng bao lâu, Nguyễn Huệ kiểm soát được luôn Quảng Nam. Quân Trịnh chỉ c̣n giữ Thuận Hóa, từ Hải Vân Sơn trở ra bắc.

Trở lại Phú Xuân, Hoàng Ngũ Phúc tổ chức cách cai trị như Bắc Hà, lại dâng biểu tâu chúa Trịnh cẩn thận đề pḥng Tây Sơn v́ bọn này chỉ trá hàng. Ít lâu sau, Phúc bị bệnh rồi mất. Chúa Trịnh Sâm thương tiếc nói với quần thần: Việp Quận Công quả là bậc đại công thần, rường cột xă tắc, đến chết c̣n lo cho vận mệnh nước non.

Chúa truyền mang thi hài về mai táng tại quê nhà thuộc Kinh Bắc, lại truyền Ngô Th́ Nhậm đọc điếu văn. Nhậm viết hai câu rất cảm động, mọi người đọc phải ngậm ngùi:

Đông Hải mênh mông, nắm xương gửi quê người, dồn dập lênh đênh sóng gió.

Hoành Sơn hiu quạnh, mảnh hồn vương đất khách, héo hon thảm đạm cỏ hoa.

 

 

Phía bắc đă yên, Nguyễn Nhạc tăng cường lực lượng thủy bộ lên đến trên mười hai vạn lính. Mở các cơ xưởng đúc súng theo cách của người Tây Phương, làm thêm các chiến thuyền lớn, mỗi chiếc trang bị nhiều súng đại bác có tầm bắn xa, công phá mạnh.

Tháng năm năm Bính Thân 1776, Nhạc ra lệnh Nguyễn Lữ chỉ huy thủy binh, danh tướng Tây Sơn Đô Đốc Phan Văn Lân làm phụ tá vào đánh Gia Định v́ biết Định Vương đang đóng quân ở thành Sài Côn.

Lữ chiếm được Sài Côn đuổi Định Vương chạy xuống miền tây nam. Quân Tây Sơn tiếp tục truy kích. Định Vương phải nhờ các giáo sĩ Tây Phương mới thoát khỏi bị bắt.

Tuy thua trận nhưng lực lượng Nguyễn lại tập trung lại được. Các tướng Nguyễn là Đỗ Thành Nhân, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt... tổ chức phản công đẩy lùi Tây Sơn.

Thấy khó giữ Gia Định, Nguyễn Lữ dùng hai trăm chiến thuyền chở đầy lúa gạo cướp được rút binh về Qui Nhơn.

Mùa thu năm ấy, Đông Cung Dương lập mưu trốn thoát vào Gia Định. Nhạc chẳng mấy quan tâm v́ lá bài Đông Cung đă cháy. Bọn Lư Tài đang trấn đóng Phú Yên cũng làm phản chạy vào nam theo chúa Nguyễn. Nhạc tự trách ḿnh không biết người bằng Trần Quang Diệu. Diệu vẫn thường khuyên Nhạc không nên giao trọng trách cho Lư Tài v́ biết Tài sẽ phản bội.

Đông Cung đi bỏ Thọ Hương ở lại. Trong hàng thủ hạ của Nhạc có Vũ Văn Nhậm. Nhậm vốn người Quảng Nam, làm vơ quan tại huyện phạm tội giết người trốn theo Tây Sơn. Nhậm là tay vơ nghệ giỏi, tài bắn cung vô địch, lại sống một ḿnh. Nhạc gả Thọ Hương cho Nhậm. Nhạc nói với Nhậm: Trước ta đă gả Thọ Hương cho Đông Cung. Nhưng hắn ngu muội không biết thưởng thức đàn bà. Hương vẫn c̣n con gái, vẫn mới nguyên không phải của thừa. Nay ta mến tài ngươi nên nhận làm rể.

Nhậm bái tạ chủ tướng. Người con gái thứ của Nhạc là vợ Trương Văn Đa, con trai Giáo Hiến. Đa là người có tài kiêm văn vơ được Nhạc quư mến.

Lư Tài vào Gia Định hợp với quân Tống Phúc Hộp thành lực lượng lớn. Hợp chết, Tài nắm binh quyền nhưng đối chọi kịch liệt với Đỗ Thành Nhân. Quân Tài mạnh, Nhân chống không lại. Tài muốn tôn phù Đông Cung. Cuối cùng, Định Vương nhượng bộ giải ḥa. Đông Cung Dương trở thành Tân Chính Vương, Định Vương lên làm Thái Thượng Vương.

Muốn ḍ xét Bắc Hà, mùa xuân năm Đinh Dậu 1777, Nguyễn Nhạc cử Vơ Xuân Hoài ra Thăng Long dâng biểu xin vua Lê cho trấn thủ luôn Quảng Nam. Nhạc nói với Hoài:

-Công việc của ông chuyến này hệ trọng, xin chức tước chỉ là phụ. Cái chính ông xem t́nh h́nh Bắc Hà xem họ có đủ mạnh đánh ta.

Nhận sớ của Nguyễn Nhạc, chúa Trịnh bàn với vua Lê Hiển Tôn cử Phan Huy Ích làm sứ thần vào nam phong Nhạc làm Trấn Thủ Quảng Nam tước Cung Quận Công. Hoài nói với Nhạc:

-Một tháng ở Bắc Hà, tôi biết rơ một số t́nh h́nh. Việc triều chính hoàn toàn do nhà chúa quyết định, vua Lê chỉ làm v́. Triều thần chia rẽ v́ một phe pḥ Trịnh Tông là con trai trưởng nhà chúa, một phe ngả theo Đặng Thị Huệ muốn phế Tông lập Trịnh Cán là con của Thị Huệ. Lính Trịnh lâu ngày không chinh chiến bê trễ huấn luyện. Bên ngoài dân chúng ta thán v́ mấy năm mất mùa, có nơi bị đói. Việc Bắc Hà nhanh chóng chấp thuận đề nghị của ta càng chứng tỏ thế lực của họ không đủ mạnh để ta lo ngại.

Nguyễn Nhạc tin tưởng lời nói của Vơ Xuân Hoài, cho gọi hai em đến bàn việc. Nhạc nói:

-Mặt bắc kể như tạm yên, ta lo phía nam. Tôi nghe quân Nguyễn đă tập trung khá đông tại Gia Định, lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa Lư Tài và Đỗ Thành Nhân. Đây là cơ hội tốt để ta thanh toán quân Nguyễn.

Nguyễn Huệ nói:

-Muốn nắm chắc phần thắng, ta mở nhiều mặt trận không cho quân Nguyễn tiếp cứu nhau. Đệ nắm thủy binh đánh thẳng vào Sài Côn diệt Lư Tài, sau đó sẽ đánh Đỗ Thành Nhân hiện đóng bản doanh tại Trấn Biên (Biên Ḥa). Anh Tư (Lữ) sẽ đánh Diên Khánh và B́nh Thuận.

Nguyễn Nhạc khen hay.

Cuối xuân, Nhạc cử Huệ thống lĩnh thủy binh, Trương Văn Đa làm Trung quân tiến vào nam. Lại cử Nguyễn Lữ, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân đánh Diên Khánh và B́nh Thuận.

Thủy binh Tây Sơn hạ thành Sài Côn. Lư Tài thất trận lui quân bị phục binh của Đỗ Thành Nhân giết chết. Cuối cùng, quân Nguyễn ở Trấn Biên cũng tan ră. Thái Thượng Vương rút chạy về Long Xuyên. Tây Sơn truy nă bắt sống Vương và Nguyễn Phúc Đồng, em ruột của Đồng là Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát xuống vùng Cà Mau.

Tân Chính Vương sau khi thất trận tại Sài Côn bỏ chạy về Định Tường. Dần dần, các tướng Nguyễn bị Tây Sơn truy kích tử trận khá nhiều. Tiết Chế Tống Phúc Ḥa tự sát. Trước t́nh thế bi đát, Tân Chính Vương nói với tướng sĩ: Thế giặc mạnh, ta không c̣n sức chống cự. Chi bằng chịu đầu hàng để cứu mạng quân dân. Vương cùng mười tám tướng ra đầu hàng. Trương Văn Đa đối xử tử tế, đem tất cả về Sài Côn.

Khoảng tháng chín, Nguyễn Huệ ra lệnh hạ sát cả hai vương và Phúc Đồng. Văn Đa được tin có ư trách. Đa nói với Huệ:

-Đông Cung Dương (tức Tân Chính Vương) dẫu sao vẫn là rể nhà ta, lại tin ta mà hàng phục, cớ sao sát hại. Ta làm thế sau này khó thu phục kẻ khác.

Nguyễn Huệ nghiêm nghị trả lời:

-Làm cỏ chớ quên nhổ rễ. Làm việc lớn mà cứ bận tâm điều nhân nghĩa nhỏ nhen th́ sẽ nuốt hận cay đắng suốt đời.

Văn Đa lặng yên.

Cánh quân Nguyễn Lữ cũng đạt chiến thắng. Quân Tây Sơn trở lại Qui Nhơn vào giữa mùa thu, để Trương Văn Đa ở lại trấn giữ Gia Định.

Chiến thắng làm Nguyễn Nhạc tự măn. Nhạc nói với Hoài:

-Bọn Nguyễn kể như bị tận diệt, nay ta có thể yên tâm gối đầu cao mà ngủ. Mọi dự tính của ta thành công, ngang nhiên xưng hùng một cơi.

Thâm tâm Nguyễn Nhạc muốn xưng đế. Một hôm, Nhạc lại hỏi Xuân Hoài:

-Vua Lê Lợi thuở xưa, chỉ một lưỡi gươm diệt giặc dựng nước?

Hoài nói phải.

-Như Hán Cao Tổ cũng ba thước gươm mà dựng nghiệp?

Hoài đồng t́nh. Nhạc tiếp:

-Như đất Nam Hà, chúa Nguyễn nhu nhược, Phúc Loan ác nghiệt, dân ta thán nhưng chỉ biết cúi đầu chấp nhận thân phận yếu hèn. Nhạc chỉ là dân áo vải dám đứng lên đương đầu trừ gian diệt bạo cứu dân. Vậy Nguyễn Nhạc xưng đế được chăng?

Hoài trả lời:

-Ông can đảm thụ mệnh trời thế thiên hành đạo. Nay thay trời trị dân cũng là hợp lẽ.

Nguyễn Nhạc vui vẻ, truyền xúc tiến nhanh việc sửa sang lại thành Qui Nhơn cho xứng với qui mô quốc gia, xây đàn Nam Giao phía nam, lại sai Hoài nghiên cứu cách tổ chức triều chính và lễ nghi theo nghi vệ thiên tử.

Thường buổi tối, Nhạc cùng Hoài đối ẩm. Nhạc muốn Hoài kể cho nghe chuyện cung đ́nh vua chúa, Nhạc bảo: Hỏi cho biết cách làm vua kẻo mang tiếng thiên hạ chê cười.

Nhân có tên thái giám phục vụ trong cung cấm vua Thanh Càn Long, v́ bị tội trốn sang làm nghề buôn ở Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc gọi vào hỏi chuyện. Nhạc hỏi:

-Thái giám là chức chi?

Viên thái giám cung kính trả lời:

-Bẩm đại quan, thái giám là những người hầu cận, phục dịch trong cung. Họ đều bị thiến dịch hoàn, không làm được việc t́nh ái. Đó là loại người “lục căn không toàn vẹn”, mặt mũi nhẵn nhụi không râu, yết hầu không nổi lên, nói tiếng như đàn bà ... cúc cung hầu hạ vua, lại không gây phiền phức cho các cung nữ.

Nhạc cười:

-Th́ ra thái giám chẳng phải ông lẫn bà. Vậy trong cung có mấy thái giám?

-Trong cung Hoàng Đế nước tôi là Càn Long, số thái giám ước tới trên hai ngàn...

-Vậy Càn Long hẳn nhiều vợ?

-Không kể xiết, những bà vợ chính đều có chức vị. Nào là Hoàng hậu, Quí phi, Tần phi, Trang phi, Cẩn phi, Trân phi... Rồi cơ man cung nữ. Tôi đoán hàng ngàn.

Nhạc nghe lắc đầu. Thái giám tiếp:

-Như thế c̣n ít, cuối thời nhà Minh, vua có tới chín ngàn cung nữ phục dịch.

-Đông gái quá chơi sao xiết. Xa hoa phung phí quá độ chỉ làm khổ dân, quá lo ăn chơi trác táng sao đủ sáng suốt trị nước. Người đời thường nói, sướng con cu mù con mắt là vậy. Ta lại nghe, mỗi bữa ăn của vua th́ nào sơn hào hải vị đến vài chục món. Tiền một bữa ăn của vua bằng nhà dân ăn hàng năm trời...

Mùa xuân năm Mậu Tuất 1778, Nguyễn Nhạc chọn ngày lành lên ngôi báu, tế cáo trời đất tạị đàn Nam Giao. Nhà vua thắp nhang khấn:

“Nguyễn Nhạc chỉ là người dân áo vải đất Tây Sơn, gặp buổi chính sự nhiễu nhương, quyền thần loạn nước, sinh linh đồ thán. Nhạc thụ mệnh trời ba thước gươm dẹp loạn an dân. Nay thần dân nài ép lên ngôi vương trị v́ trăm họ. Xin trời đất chứng giám, giáng phúc cho nhà nước hưng thịnh trường tồn.”

Vua đặt niên hiệu Thái Đức, đổi tên thành Qui Nhơn thành Hoàng Đế thành, lại giảm một nửa tiền các loại thuế, cho phép dân vui chơi thỏa thích mười ngày.

Vua phong mẹ làm Thái Hậu, vợ cả làm Hoàng Hậu, bà vợ thứ là Cô Hầu người Banard làm Thứ Phi. Phong Nguyễn Lữ làm Tiết Chế. Nguyễn Huệ Long Nhương Tướng Quân. Các tướng đều được phong chức. Hàng văn quan phong Vơ Xuân Hoài làm Trung Thư Lệnh, chức vụ coi như Tể Tướng trong triều. Vua ban thưởng cho cả dân thường, những người có công với quân Tây Sơn. Truyền lập đàn tế những người hy sinh v́ đại cuộc.

Vua giữ thân t́nh với các quan. Thường mời bạn bè vào cung yến ẩm xem tuồng hát. Ai cũng khen vua chân t́nh. Riêng Giáo Hiến, vua mời thầy vào cung. Vua nói:

-Công danh sự nghiệp nay có được chính nhờ ở thầy. Nhạc coi ḿnh phận dưới, không dám phong chức bề trên. Vậy thầy muốn ǵ, Nhạc xin chiều ư.

Giáo Hiến cười:

-Làm việc nghĩa quản chi chức tước lợi lộc. Nay đă xưng đế hiệu, ta mong ngươi lo an dân trị nước. Đó là ư nguyện của ta.

Vua biết ư Giáo Hiến nên không nài ép.

Vài tháng sau Giáo Hiến từ trần. Vua truyền mai táng trọng thể.

Thời gian qua. Men say quyền lực ru vua trong giấc ngủ êm ái cung đ́nh. Khi cuộc cờ, khi chén rượu và những cuộc chơi... Vua nghĩ không c̣n ai đủ sức dành quyền lực trong tay ḿnh khi họ Nguyễn đă bị tận diệt.

Vua lầm, họ Nguyễn chưa tận v́ c̣n người thanh niên mười bảy tuổi tên Nguyễn Phúc Ánh. Nhờ Giám Mục người Pháp tên Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) che chở, Ánh trốn thoát cuộc truy lùng của Tây Sơn, hiện ở một vùng gần kinh đô Vọng Các của vương quốc Xiêm La.

Tại miền nam, sau khi quân Nguyễn Huệ trở về Qui Nhơn, nhóm tàn quân Nguyễn do Đỗ Thành Nhân chỉ huy lại tụ tập lại được.

Ít lâu sau, quân Nguyễn chiếm Long Hồ (Vĩnh Long). Thừa thắng, Nhân kéo quân tấn công chiếm Gia Định. Các tướng khác như Dương Công Trừng, Châu Văn Tiếp kéo quân về tăng cường. Đỗ Thành Nhân chiếm luôn vùng Trấn Biên, lại cho người sang Xiêm đón Nguyễn Phúc Ánh về Gia Định, tôn Ánh làm Nguyên Súy Nhiếp Chính Vương.

Qui Nhơn được tin mất Gia Định. Nguyễn Huệ bàn với vua cho ḿnh vào đánh dẹp. Vua Tây Sơn nói: “ Dao phay không dùng cắt cổ gà. Nay ta mới xưng đế nên cho quân nghỉ ngơi. Bọn Nguyễn Ánh ta cứ vỗ béo, chừng ấy chú xuất quân làm thịt cũng chẳng muộn”. Huệ nghe bất măn nhưng không biết nói sao.

Tại Gia Định, Nguyễn Ánh phong Đỗ Thành Nhân làm Phụ Chính Thượng Tướng Quân. Nhân nói với Ánh: “Tây Sơn chưa động binh là thời cơ tốt cho ta phát triển lực lượng”. Ánh ra lệnh cho Nhân toàn quyền hành động.

Hai năm sau, đầu năm Tân Sửu 1781, Nguyễn đă có trên ba vạn quân thủy bộ, gần năm trăm chiến thuyền đủ loại. Được sự trợ giúp tích cực của Giám Mục Bá Đa Lộc, thủy quân Nguyễn có thêm nhiều chiến thuyền kiểu Âu Châu do thuyền trưởng người Pháp là Mạn Ḥe (Manuel) chỉ huy.

Trong khi quân Nguyễn phát triển nhanh chóng, vua Tây Sơn vẫn b́nh thản. Nhà vua tỏ ra coi thường quân địch.

Cuối xuân, tướng Nguyễn là Đỗ Bang về qui hàng Tây Sơn. Vua hỏi:

-Tại sao về hàng?

Đỗ Bang trả lời:

-Chủ tôi là Thượng Tướng Đỗ Thành Nhân dày công hăn mă xây dựng lực lượng quân sự. Nhưng Nguyễn Ánh vong ân dùng độc kế hạ sát. Tôi theo đức vua để báo thù cho chủ.

Vua biết Bang nói thật, cười nói với Nguyễn Huệ: Ta có thể động binh được v́ nội t́nh địch chia rẽ. Đỗ Thành Nhân là danh tướng, nay hắn chết, quân Nguyễn cũng chỉ như đàn chuột. Đỗ Bang cho vua biết về lực lượng quân Nguyễn. Vua hỏi:

-Nguyễn Ánh là người thế nào?

Bang trả lời:

-Ánh là con Nguyễn Phúc Luân. Khi Vơ Vương mất, lẽ ra Luân kế nghiệp nhà chúa nhưng bị Trương Phúc Loan phế đi để lập Định Vương Thuần. Luân bị Loan hạ ngục, sau lo buồn mà chết. Trưởng thành và chịu đựng nhiều đau đớn nghịch cảnh, gịng họ bị tướng quân Nguyễn Huệ tiêu diệt. Kinh nghiệm xương máu biến Ánh thành con người cương quyết, tham lam, ích kỷ và tàn nhẫn.

-Chủ người chết cũng chỉ v́ thế?

-Đức vua dạy phải. Chủ tôi ơ hờ không nh́n ra mưu thâm của Ánh, hắn rất sợ một khi quyền bính năm trong tay chủ tôi, hoặc bất cứ ai. Hắn lừa gọi người vào bàn việc, sai bọn thủ hạ mai phục giết chết.

-Sau khi chủ ngươi bị sát hại, nội t́nh Nguyễn ra sao?

-Đám thuộc hạ cũ của chủ tôi bỏ đi. Có người như Vơ Nhàn kéo quân về đánh Nguyễn Ánh. Nếu đức vua động binh chắc sẽ có người làm nội ứng.

Vua ra lệnh Huệ chuẩn bị hai trăm chiến thuyền và trên vạn quân. Lại nghe quân Nguyễn do Châu Văn Tiếp và Dương Công Trừng đă đánh B́nh Thuận, Diên Khánh. Vua hạ lệnh vợ chồng Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở gấp rút tiến quân chận đánh.

Vài ngày sau, đích thân vua và Nguyễn Huệ chỉ huy thủy binh vào thẳng Gia Định.

Nguyễn Ánh dàn toàn bộ thủy binh đón đánh Tây Sơn tại cửa Cần Giờ. Trong khi đang giao tranh dữ dội, đội ngũ quân Nguyễn bỗng rối loạn v́ đám thuộc tướng của Đỗ Thành Nhân làm phản đốt chiến thuyền Nguyễn. Không bỏ lỡ dịp may, Nguyễn Huệ đứng trên thuyền ra lệnh đánh gắt. Vua Tây Sơn thúc trống cổ cơ. Quân Tây Sơn đánh ch́m thuyền Mạn Ḥe. Thuyền trưởng người Pháp chết theo tàu. Nguyễn Ánh rút chạy về Thất Kỳ Giang bị Huệ đuổi theo đánh tan tác. Cuối cùng, Ánh theo tàn quân thoát chạy ra đảo Phú Quốc.

Toàn thắng, vua Tây Sơn và đại quân trở về Qui Nhơn.

Chỉ một tháng sau. Các tướng Nguyễn là Dương Công Trừng, Châu Văn Tiếp lại tụ tập quân tấn công chiếm thành Gia Định. Châu Văn Tiếp đích thân ra Phú Quốc đón Nguyễn Ánh trở về. Giám Mục Bá Đa Lộc và một số giáo sĩ khác được tin cũng về lại Gia Định. Quân Nguyễn tăng nhanh. Nguyễn Ánh sai sứ thần sang Xiêm La cầu viện.

Tháng hai năm Quư Măo 1782, vua Tây Sơn lại cử Nguyễn Huệ chinh nam. Vua nói với Huệ: Chú lại phải ra quân. Lần này quyết bắt cho bằng được Nguyễn Ánh. Tôi sẽ cho Trương Văn Đa chận các đường sông biển hiểm yếu. Nguyễn Ánh chỉ có cánh mới thoát được.

Đại quân Tây Sơn vào Gia Định thắng như chẻ tre. Quân Nguyễn cứ nghe tên Nguyễn Huệ là hồn xiêu phách lạc chỉ lo kiếm đường tẩu thoát.

Nguyễn Ánh chạy ra vùng biển Phú Quốc. Trương Văn Đa đuổi theo rất gấp. Bấy giờ tướng Nguyễn là Lê Phúc Điển liều ḿnh cứu chúa. Điển mặc quần áo giống Nguyễn Ánh kéo ra nghênh địch. Quân Tây Sơn bị lầm nên Ánh thoát chạy sang đảo Cổ Long. Trương Văn Đa phát hiện mưu của địch kéo quân sang Cổ Long quyết bắt Ánh. Trời nổi giông băo bất ngờ, Đa buộc phải rút quân về Hà Tiên. Nguyễn Ánh lại một lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Từ đó, Ánh quanh quẩn trốn tại các đảo nhỏ.

Mùa xuân năm Giáp Th́n 1784, nghe tin Châu Văn Tiếp đang ở Xiêm La, Nguyễn Ánh t́m đường sang Xiêm, nài nỉ vua Xiêm cho viện binh trở về đánh Tây Sơn. Vua Xiêm La nuôi tham vọng muốn bành trướng lănh thổ sang Chân Lạp bèn nhận lời.

Tháng sáu năm đó, gần ba vạn thủy binh và bộ binh Xiêm do các tướng Chiếu Sương, Chiếu Tăng chỉ huy lên đường. Phía quân Nguyễn, Nguyễn Ánh phong Châu Văn Tiếp làm B́nh Tây Đại Nguyên Soái thống lĩnh quân đội theo quân Xiêm về nước.

Liên quân đánh lùi quân Tây Sơn tại nhiều nơi. Đến Vĩnh Long, quân Tây Sơn lập pḥng tuyến ngăn địch. Châu Văn Tiếp bị Trương Văn Đa giết tại trận. Tuy giết được Tiếp nhưng Đa phải lùi về giữ Mỹ Tho v́ thế địch rất mạnh. Văn Đa cố tử thủ, tránh giao tranh lớn chờ viện binh Qui Nhơn.

Thắng được vài trận nhỏ, quân Xiêm La tỏ ra hống hách coi thường quân Nguyễn cũng như Tây Sơn. Nguyễn Ánh biết nhưng không dám can thiệp, thậm chí làm ngơ trước cả cảnh quân Xiêm cướp bóc, hăm hiếp dân.

Cuối năm 1784, hai vạn thủy bộ binh Tây Sơn cùng hai trăm chiến thuyền lên đường vào nam. Vua Tây Sơn cử các tướng Vơ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân cùng đi với Huệ. Danh sĩ Bắc Hà Nguyễn Hữu Chỉnh, người vào nương nhờ vua từ năm 1782 ư muốn theo quân. Chỉnh nói với vua:

- Tôi nương nhờ hoàng thượng đă gần hai năm. Hoàng thượng xem tôi như thượng khách, tiếp đăi ân cần dù biết tôi chỉ là người lánh nạn. Nay nhân dịp nam chinh, xin cho tôi theo lập chút công đáp đền ơn hậu đăi.

Vua trả lời:

-Ư tôi không muốn ông lao nhọc cầm quân ra trận, e thiên hạ dị nghị muốn lợi dụng ông trong cơn hoạn nạn. Nhưng nếu ông muốn, tôi chỉ nhờ ông làm một việc là xem xét dân t́nh. Tại sao quân Nguyễn nhiều phen tan tác mà chúng vẫn tụ lại được để chống ta. Sao dân lại ủng hộ chúng?

Chỉnh lĩnh ư. Vua lại gọi Huệ dặn ḍ:

-Chú ra quân, tôi tin chú chiến thắng. Nhưng chiến thắng đừng phải trả giá quá cao. Theo tôi, bọn Xiêm La là lũ mọi rợ không thạo chinh chiến. Chú dùng mưu mà hạ chúng là thượng kế.

Tháng chạp, quân Tây Sơn vào thẳng Mỹ Tho. Nguyễn Huệ một mặt cho thăm ḍ địa thế. Đây là vùng hiểm trở, sông ng̣i chằng chịt thuận lợi cho việc tổ chức phục binh. Huệ chọn được khoảng sông nằm giữa Rạch Gầm và Rạch Xoài Mút. Nơi đây có thể dùng bộ binh yểm trợ cho thủy binh. Mặt khác, Huệ biết quân Xiêm khinh địch, bèn cho sứ giả sang nhún nhường xin ḥa hiếu. Sứ Tây Sơn gặp Chủ soái Chiếu Tăng. Sứ giả nói:

-Chủ tôi là Long Nhương Tướng Quân Nguyễn Huệ phái tôi đến tŕnh bày các điều với ngài. Tây Sơn và Nguyễn xung đột dành quyền cai quản đất nước, thế không thể đứng chung. Nay nước ngài và nước tôi cách xa ngàn dặm, trâu ḅ chẳng đánh hơi được nhau, ngài cần chi phải nhọc nhằn chinh chiến. Vậy việc chúa Nguyễn, ngài để chúng tôi tự giải quyết với nhau, ngài đừng động binh giúp họ. Thành sự rồi, hai nước sẽ ḥa hiếu. Nước tôi sẽ hàng năm cống lễ nước ngài. Ngài chấp nhận, chủ tôi vô vàn cảm tạ, thực hiện lời cam kết.

Chiếu Tăng nghe nói thích chí, nói với Phó soái Chiếu Sương:

-Ta nghe Huệ dùng binh thần tốc, kẻ địch sợ hăi, nghe tên hắn là bủn rủn tay chân. Nay ta mới đến hắn đă sợ uy muốn ḥa. Ra hắn tài hèn chỉ giỏi khoa trương. Đây là cơ hội chúng ta lập công lớn.

Chiếu Sương nghe cũng đồng t́nh.

Đêm mồng chín tháng chạp năm Giáp Th́n 1785, đoàn chiến thuyền do Vơ Văn Dũng chỉ huy đến trại quân Xiêm khiêu chiến. Quân Tây Sơn đốt pháo reo ḥ tấn công. Chiếu Tăng nổi giận dàn thủy binh và chiến thuyền xung trận. Quân Tây Sơn giả thua lùi dần. Quân Xiêm đuổi theo đến đầu sông Mỹ Tho gặp Soái thuyền Tây Sơn, Nguyễn Huệ mặc giáp đỏ đứng trên mũi thuyền đánh trống thúc binh.

Thấy Huệ, Chiếu Tăng ra lệnh tiến nhanh quyết giết bằng được chủ tướng Tây Sơn. Quân Tây Sơn chạy tản mác vào các rạch nhỏ dụ địch. Quân Xiêm tưởng thắng cứ tràn nhanh vào. Quá nửa đêm, quân Xiêm hoàn toàn lọt vào vùng mai phục. Chiến thuyền Tây Sơn từ nhiều phía đổ ra đánh rát, trên bờ đại pháo nă như mưa. Quân Xiêm chết như rạ tháo chạy ngược lại t́m sinh lộ. Hai tướng Xiêm xuống thuyền nhỏ bỏ quân tẩu thoát.

Trời rạng sáng, trận chiến tàn. Bộ binh Tây Sơn cũng toàn thắng. Tư lệnh bộ binh là Lục Côn bị Bùi Thị Xuân chém tại trận. Năm vạn quân Xiêm nay chỉ c̣n vài ngàn chạy trốn về nước. Quân Nguyễn Ánh cũng tan ră. Ánh lẩn trốn ở các đảo, cuối cùng lại sang Xiêm. Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Hữu Chỉnh: Nguyễn Ánh là phường táng tận lương tâm, rước voi cơng rắn. Hắn dám đem cả vận mệnh dân tộc làm vốn trong canh bài dành ngôi vương bá. Sẵn sàng xây vinh quang trên điếm nhục. Hắn là hiểm họa,tôi chỉ tiếc chưa giết được hắn.

Cuộc nam chinh thành công. Nguyễn Huệ trở về Qui Nhơn để Trương Văn Đa ở lại giữ Gia Định.

 

 

Nguyễn Hữu Chỉnh người Nghệ An. Từ thuở nhỏ nổi tiếng thông minh, giỏi thơ nôm. Năm mười sáu Chỉnh đỗ hương cống nên người đời thường gọi Cống Chỉnh. Là người có chí lớn, Chỉnh ham luyện vơ trở thành tay vơ nghệ có hạng. Sau này, Chỉnh làm thuộc hạ của Hoàng Ngũ Phúc được Phúc tin yêu. Tại kinh thành Thăng Long, Chỉnh nổi tiếng phong lưu công tử, thường có mặt ở những nơi ăn chơi tửu quán trà đ́nh, làm thơ xướng họa trong đám tài tử văn nhân. Vốn tính hào hiệp, Chỉnh có đông bạn hữu. Khi Việp Quận Công mất, Chỉnh làm dưới trướng Huy Quận Công Hoàng Đ́nh Bảo. Chỉnh có tài chỉ huy thủy binh, chuyên đánh dẹp bọn giặc biển ngoài khơi Đông Hải. Giặc nghe tiếng Chỉnh sợ lắm. Chỉnh tự ví ḿnh như chim bằng, vỗ cánh bay vút chín tầng mây.

Cuộc biến loạn trong cung đ́nh Bắc Hà xảy ra sau khi Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm qua đời. Trịnh Cán, con trai Bà Chúa Chè nối nghiệp chúa tức Tôn Đô Vương. Huy Quận nắm giữ quyền bính trọng dụng Nguyễn Hữu Chỉnh.

Chỉ tháng sau, con trai cả chúa Trịnh là Trịnh Khải cấu kết với bọn ưu binh lật đổ Trịnh Cán, giết chết Huy Quận. Khải xưng là Đoan Nam Vương.

Chỉnh nghe tin sợ hăi muốn làm phản nhưng không thành. Cuối năm Nhâm Dần 1782, Chỉnh trốn vào nam nương nhờ vua Tây Sơn.

Gặp lại Chỉnh, vua mừng đăi như quư khách, thường cùng Chỉnh bàn luận chính sự ư hợp tâm đầu. Chỉnh lại giúp vua tổ chức việc cai trị thêm qui củ.

Tuy được ưu đăi, ḷng Chỉnh vẫn khắc khoải nỗi đau của kẻ sa cơ. Chỉnh hằng mong ngày trở về cố quận. Chỉnh muốn dựa thế lực Tây Sơn diệt họ Trịnh. Chỉnh sẽ thuyết phục Tây Sơn bắc tiến, Chỉnh lại trở về trong vinh quang của kẻ chiến thắng. Những lúc rảnh, Chỉnh để tâm nghiên cứu binh thư. Chỉnh thân Nguyễn Lữ, thường nhờ Lữ truyền thêm nghề vơ. Từ Gia Định về, Chỉnh nói với vua:

-Vùng Gia Định và phía tây nam là đất cũ của Chân Lạp. Thành phần dân gồm đủ hạng. Người ta, người Tàu, người Chiêm, người Chân Lạp... việc học chưa mở mang, dân trí thấp kém nhưng đất đai mênh mông mầu mỡ, thóc gạo dư thừa, tôm cá dầy như đỉa trong rạch, dân sống sung túc. V́ xa Phú Xuân nên không bị họa quyền thần. Với họ, Nguyễn làm chúa cũng được, Tây Sơn làm vua cũng xong. Ai mạnh họ theo, ai thua cũng kệ. Muốn giữ đất ấy, ta phải lấy dân làm đầu, t́m cách thu phục họ để họ trung thành.

Vua nghe cho là phải, truyền con rể là Trương Văn Đa mở chiến dịch vận động thu phục nhân tâm. Lại sai các Học Sĩ ợ Triệu Đ́nh Tiệp, Cao Đắc Tựu vào Gia Định giúp Văn Đa.

Vua lại hỏi Chỉnh:

-Ông xem em tôi hành binh ra sao?

Chỉnh đáp:

-Ông Huệ dụng binh thần tốc, bí mật khiến địch không kịp trở tay. Thật quả danh tướng xưa nay ít ai b́.

Vua lại hỏi:

-Tài của Huệ có so được với các danh tướng Bắc Hà như Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đ́nh Thể ?

Vốn có dụng ư, Chỉnh trả lời:

-Cơ như con ngựa già sống bằng hào quang quá khứ. Thể vũ dũng nhưng thiếu đảm lược. Các danh tướng Bắc Hà không ai sánh với ông Huệ được.

Vua cười:

-Ông quá yêu mà nói thế chăng?

Chỉnh nói đùa: Ḷng tôi là bánh sẽ bẻ cho hoàng thượng xem.

Cả hai cười x̣a.

Mùa xuân năm Bính Ngọ 1786, nhân buổi chiều xuân ngồi uống rượu với vua trong hoa viên hoàng cung. Thấy vua vui, Chỉnh dọ ư:

-Tên gia nhân vừa từ Nghệ An vào cho tôi biết rơ nội t́nh Bắc Hà. Uy quyền vua chúa nay không c̣n, bọn kiêu binh làm loạn. Hoàng thượng muốn tính kế lâu dài phải lợi dụng thời cơ chiếm lấy Thuận Hóa. Vùng này địa thế hiểm trở, lại có các lũy Thầy, lũy Trường Dục kiên cố, nhờ vậy mà Nguyễn chống được Trịnh.

Vua hỏi t́nh h́nh Phú Xuân, Chỉnh đáp:

-Trấn thủ Phú Xuân là Phạm Ngô Cầu. Y là người thượng đội hạ đạp, chẳng tài cán ǵ, chỉ quen ḥ hét ra uy. Phó Tướng Hoàng Đ́nh Thể là tay vũ dũng, khẳng khái nên Cầu ghét thậm tệ, c̣n Thể th́ khinh Cầu. Nếu đánh Phú Xuân, Chỉnh hiến kế phản gián, cam đoan chiến thắng. Việc quân như cứu hỏa, hoàng thượng quyết định nhanh kẻo lỡ thời cơ.

Thực tâm vua muốn chiếm Phú Xuân từ lâu nhưng chưa có dịp. Nghe Chỉnh bàn, vua đă quyết nhưng làm vẻ do dự. Chỉnh cố thuyết dăm ba bận mới xong. Vua giao Nguyễn Huệ và Chỉnh toàn quyền tính kế hoạch.

Tháng tư xuất quân, Huệ tổng chỉ huy vượt Hải Vân Sơn theo đường bộ, Vũ Văn Nhậm chỉ huy đạo quân thứ hai theo đường thủy, hẹn cùng phối hợp với Huệ tấn công thành Phú Xuân. Chỉnh chỉ huy chiến thuyền đánh từ phía sông Gianh vào nam, không cho quân Trịnh tiếp ứng. Trước khi động binh, Chỉnh đă làm xong kế ly gián Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đ́nh Thể. Cầu ngờ Thể sẽ làm phản theo Tây Sơn nên thay v́ pḥng địch, Cầu lại pḥng ngay phó tướng của ḿnh. Thế bại vong đă rơ.

Quân Tây Sơn công thành, dùng hỏa hổ (súng phun lửa) bắn tràn vào quân Trịnh đẩy đàn voi trận phải lùi. Hoàng Đ́nh Thể chỉ huy quân kháng cự mănh liệt bẻ gẫy nhiều đợt xung phong. Chờ đến khuya, lợi dụng nước lên, Huệ cho chiến thuyền vào sông Hương nă đại bác công thành. Quân Trịnh thiệt hại nặng, Cầu đóng cửa thành không tiếp cứu. Đợt tấn công cuối thành công, Cầu kéo cờ trắng xin hàng. Hoàng Đ́nh Thể quyết không hàng, dùng kiếm tự vận.

Quân Vũ Văn Nhậm tràn vào thành mặc sức tàn sát. Phú Xuân tắm máu. Gịng Hương giang trong xanh nay đỏ như phù sa. Khoảng hai vạn quân Trịnh bỏ xác tại trận, chỉ một số rất ít thoát được. Văn Nhậm chiến bào nhuộm máu nói với tướng sĩ : Phải giết như thế cho bọn Trịnh vỡ mật kinh hồn.

Chỉnh thấy Nhậm hiếu sát nên gờm mặt. Có giáo sĩ người Phú Lang Sa (Pháp) tên La Bartette lúc ấy ở Phú Xuân. Sau này tả lại

như sau:”... Tất cả những người trong thành Phú Xuân, cả quan lớn, cả binh sĩ không có người nào thoát được. Người ta giết nhau một cách rùng rợn không thể tả xiết...”

Thật ra, giáo sĩ viết chưa đúng hẳn. Sử nhà Nguyễn sau này ghi rằng:” Hai vạn quân Trịnh bị tàn sát sạch, chỉ có một số ít sống sót chạy về Dinh Cát báo tin bại trận.”

Chiến thắng. Huệ khao quân. Trong tiệc vui, Chỉnh nói lời xưng tụng lấy ḷng Huệ. Chỉnh kể t́nh h́nh Bắc Hà, cuối cùng Chỉnh nói: Đây là cơ hội ngàn năm trời dành cho Thượng công. Nếu ông không lấy Bắc Hà, người khác sẽ lấy, lúc ấy hối không kịp. Trang sử đă mở sẵn chờ ghi chiến công lừng lẫy của Thượng công. Người đầu tiên xóa sạch lằn ranh phân chia đất nước. Chỉnh xin lấy thủ cấp ḿnh bảo đảm lời nói.

Chỉnh khôn ngoan khơi dậy tham vọng của Huệ, gây cho Huệ niềm tin. Huệ chỉ huy chưa hề chiến bại. Qua trận đánh Phú Xuân, Huệ cũng đánh giá được sức mạnh của quân Trịnh. Nỗi lo ngại mất dần. Huệ quyết định bắc tiến, sai Chỉnh dâng sớ về vua Tây Sơn. Chỉnh viết:”... Lũ thần vâng mệnh đem binh ra đi, nhờ oai trời thiêng liêng, Thuận Hóa đă yên, thiên hạ rúng động. Nay ở Bắc Hà quân kiêu tướng lười, thế có thể chiếm. Thần xin theo lẽ tiện nghi, cử Hữu Quân Nguyễn Hữu Chỉnh đem tiền bộ thủy binh đi trước thẳng tới Sơn Nam. Thần đang thu thập nhân dân các xứ ven biển , chọn binh tráng, hẹn trong ít ngày sẽ dẹp yên Bắc Hà..”

Theo đúng kế hoạch, khoảng đầu tháng sáu, Chỉnh chỉ huy hơn một vạn thủy binh và bốn trăm chiến thuyền ra bắc. Chỉnh chia quân làm hai. Cánh thứ nhất tấn công các đồn quân Trịnh từ Nghệ An, Thanh Hóa và các nơi khác dọn đường cho đại quân Nguyễn Huệ. Cánh thứ hai do Chỉnh chỉ huy ra thẳng Sơn Nam, chiếm kho lương Vị Hoàng.

Sơn Nam thất thủ. Kinh Đô Thăng Long rúng động. Chỉnh ngầm cho người liện lạc trấn an vua Lê Hiển Tôn, phổ biến hịch “ Phù Lê diệt Trịnh”. Bài hịch kể tội Trịnh Khải coi thường phép vua luật nước, làm việc soán nghịch bất tuân di chiếu phụ vương, bất lực để kiêu binh làm loạn nước, dân lầm than khổ cực.

Đại quân do Huệ chỉ huy đánh tan thủy binh Trịnh tại Sơn Nam Thượng. Tại Thăng Long, quan lại dân chúng chôn dấu của cải, dắt díu gia đ́nh t́m đường lánh nạn v́ cuộc tàn sát của quân Tây Sơn tại Phú Xuân gây nỗi kinh hoàng. Dân bắc nguyền rủa Nguyễn Hữu Chỉnh, kẻ cơng rắn cắn gà. Mọi tội ác đổ trên đầu Chỉnh. Tội ác phải trả bằng máu.

Quân Tây Sơn tiến đến Thăng Long. Hoàng Phùng Cơ kéo lực lượng về bảo vệ kinh thành cũng bị đánh tan tác. Đoan Nam Vương Trịnh Khải đích thân chỉ huy chống cự nhưng quân Trịnh mất tinh thần, chỉ tính kế thoát thân. Cuối cùng, chúa bỏ kinh thành chạy về hướng bắc. Đến làng Hạ Lôi, chúa bị Nguyễn Trang bắt nộp Tây Sơn. Chúa đâm cổ tự sát. Thi hài đem về Thăng Long. Nguyễn Huệ cho chôn cất tử tế theo vương lễ.

Chiếm xong kinh thành, Huệ nghiêm lệnh binh sĩ không được sách nhiễu, cướp bóc của dân. Huệ bái yết vua Lê theo đúng lễ nghi cho vua yên tâm. Huệ nhún nhường:

-Tôi là dân áo vải, v́ thời thế mà dấy lên. Tuy ở cơi xa nhưng hằng kính mến thánh đức. V́ họ Trịnh vô đạo, tôi mượn uy trời dẹp được cũng nhờ oai đức nhà Lê. Nay được diện kiến bệ rồng, ḷng này thỏa măn.

Vua ủy lạo:

-Chỉ tướng quân mới tạo được chiến thắng, quả nhân nào tài cán ǵ.

Huệ lại nói:

-Tôi một dạ tôn phù, kể chi công lợi. Đó là ư trời muốn dựng một cơi thống nhất, bệ hạ thụ mệnh cầm cân nẩy mực khiến trong ngoài êm ấm, phận tôi cũng được nhờ.

Theo lời bàn của Chỉnh, Huệ xin vua thiết lễ đại triều tại điện Kính Thiên. Tướng Tây Sơn đệ tŕnh vua sổ bộ quân dân. Vua vui vẻ nhận, phong Huệ tước Đại Nguyên Súy Uy Quốc Công.

Huệ về phủ hậm hực nói với Chỉnh:

-Ta cất quân, chỉ một trận đánh tan quân Trịnh. Vào Thăng Long như đi dạo. Đất bắc là của ta, muốn ǵ chẳng được. Cái chức nguyên súy, quốc công với ta vô nghĩa. Vua Lê phong tước là có ư lung lạc ta. Hoặc đặt ta ở vào thế khó nghĩ. Chê th́ ra vẻ kiêu căng. Nhận th́ bảo ngu dốt.

Chỉnh biết Huệ giận, nhanh ư trả lời:

-Thượng công ra bắc lấy danh nghĩa tôn phù. Việc nhận chức là làm sáng tỏ chính nghĩa. Có lợi cho uy tín cá nhân.

Chỉnh gặp vua Lê đề nghị gả Ngọc Hân công chúa cho Huệ để tỏ thân t́nh ḥa hiếu. Vua thuận.

Thắng trận lại được giai nhân, Nguyễn Huệ đắc ư.

Vài ngày sau vua mất. Hoàng tôn Duy Kỳ lên ngôi tức Lê Chiêu Thống.

 

 

Tại Qui Nhơn, vua Tây Sơn nhận tin Huệ tiến quân ra bắc. Vua vừa giận vừa sợ, vội sai Tể Tướng Vơ Xuân Hoài mang chiếu chỉ thượng khẩn ra Phú Xuân gọi Huệ về.

Hoài đến Phú Xuân th́ Huệ đă ra đi đành trở lại Qui Nhơn. Vua kịp nhận ra tham vọng của người em, cho rằng Huệ ra bắc càng lún thêm vào bất trắc. Vua đem năm trăm quân tinh nhuệ và một trăm voi trận lên đường. Đến Phú Xuân, vua lấy thêm hai ngàn binh thẳng tiến ra Thăng Long. Tại Nghệ An, có đám dân đến chúc tụng vua, lại dâng thực phẩm, cá tươi rượu nồng. Vua vui vẻ cám ơn nhưng không nhận lễ vật. Ngay đêm đó, có đám dân khoảng vài trăm người bất ngờ tấn công quân Tây Sơn. Tên bắn như mưa, vài chục lính vua tử trận. Vua nổi giận ra lệnh quân tiến theo h́nh chữ nhất phản công. Vua múa kiếm xung trận, vài chục người rơi đầu dưới lưỡi kiếm. Đám dân rút chạy vào rừng. Vua thu quân, tạm chôn lính tử trận rồi tiếp tục lên đường. Vua biết ḷng dân Bắc Hà oán ghét Tây Sơn nên cẩn thận đề pḥng.

Tin vua Tây Sơn ra bắc làm rúng động Bắc Hà. Tại triều đ́nh, vua Lê và đám quần thần bối rối không biết xử trí ra sao. Có kẻ khuyên vua Lê ra hàng, kẻ đề nghị cắt đất dâng nạp. Vua hỏi Huệ. Huệ bảo chờ vua anh ra sẽ tính.

Huệ dẫn Hữu Quân Chỉnh, Tả Quân Nhậm ra tận ngoại thành đón vua. Lê Chiêu Thống và quần thần tập trung ở cửa nam đón khách. Các tụng quan quỳ hai bên đường.

Vừa thấy bóng con ngựa trắng do vua Tây Sơn cưỡi xuất hiện, Nguyễn Huệ quỳ giữa đường cúi đầu tạ tội.

Thấy em, vua xúc động xuống ngựa. Cầm tay Huệ, vua nói:

-Mừng chú lập đại công. Tướng nơi biên cương làm theo ư ḿnh là chuyện thường. Huống chi chú làm chuyện đích đáng. Tôi ra bắc là muốn cùng chú lo công việc.

Vua không tiếc lời ngợi khen Chỉnh và Nhậm. Trông thấy đám người lố nhố phía xa, vua hỏi. Huệ nói đó là vua Lê và quần thần ra đón. Vua nói với Chỉnh: Ông ra bảo họ về, mai tôi tiếp kiến.

Đêm hôm đó, vua tôi Tây Sơn vui vẻ yến tiệc. Chỉnh cho gọi các ca nhi Thăng Long đến đàn hát. Vua Tây Sơn khen gái Bắc Hà tuyệt đẹp. Mừng Huệ có thêm vợ, Ngọc Hân tuyệt sắc giai nhân. Vua vui đùa nói với Chỉnh: Ông kiếm cho tôi cô gái bắc. Tôi ưa gái Bắc Hà.

Hôm sau, Huệ tâu vua mọi việc. Từ đó, mọi mệnh lệnh do vua. Vua nói với Huệ:

-Chú cho chuyển hết tài sản nhà chúa lên các chiến thuyền.

Huệ trả lời:

-Mọi việc đệ đă liệu xong.

Vua vui lắm, nói:

-Chú liệu việc thật tài. Ta c̣n hàng trăm thớt voi để tải đồ. Chú lấy thêm đàn voi trận của chúa Trịnh, cả ngựa càng tốt. Rút quân , ta gom thêm các vật đúc bằng đồng về đúc tiền. Bắc Hà là đất giàu c̣n nhiều của.

Hôm sau, vừa hừng đông, Chiêu Thống và các cận thần đă sang chào vua Tây Sơn. Vua Lê nói:

-Nhà Lê bao năm bị họ Trịnh ngỗ nghịch lấn áp. Anh em đức vua v́ nghĩa cả nhọc công bắc phạt trừ khử loạn thần, ḷng tôi vô cùng cảm kích. Các tiên vương nơi chín suối ngậm cười. Nay tôi xin dâng lễ vật, một số đất đai, đức vua coi đó là lễ mọn bày tỏ ḷng thành.

Vua Tây Sơn vỗ về trấn an Chiêu Thống. Vua nói:

-Nếu đất họ Trịnh một tấc không từ. C̣n của nhà Lê một tấc cũng không lấy. Tôi chỉ mong vua trị nước an dân, giữ ḥa hiếu giữa hai nước.

Vua Lê c̣n ngỏ ư xin quân Tây Sơn ở lại thêm một thời gian để b́nh định yên các nơi. Vua Tây Sơn nghe xong cười huề ḥa.

Thời gian ở Thăng Long, vua nhận ra mối bất ḥa trầm trọng giữa Chỉnh và Nhậm. Vua biết Nhậm là người tiểu tâm, Nhậm ghen tức với Chỉnh, cho Chỉnh khinh thường ḿnh. Về Nguyễn Huệ, vua nh́n ra tham vọng của người em. Vua biết Huệ muốn triệt Chỉnh nhưng chưa có cớ xuống tay. Qua cuộc hành quân bắc phạt, Huệ nhận ra con người tài năng ở Chỉnh. Vua biết tính Huệ kiêu ngạo, ai tỏ ra hơn tài Huệ kể như tự sát!

Vốn tinh tế, Chỉnh hiểu Huệ và Nhậm không ưa ḿnh. Chỉnh xử sự tế nhị tránh đào sâu bất ḥa. Để tránh sự nḥm ngó của Nhậm, Chỉnh và thủ hạ đến ở tại chùa Tiên Tích. Mối lo khác khi Chỉnh nhận ra dân Bắc Hà căm thù ḿnh, coi Chỉnh là phản quốc, là cơng rắn cắn gà. Chỉnh biết chắc vua Tây Sơn sẽ ra lệnh rút về nam nên cho thủ hạ theo dơi sát t́nh h́nh bên trại Tây Sơn. Chỉnh phải về lại Nam Hà. Chỉnh không thể t́m chốn dung thân trên chính quê hương ḿnh.

Chỉnh đoán đúng. Vua Tây Sơn bàn việc rút binh. Nguyễn Huệ đem chuyện Chỉnh ra bàn. Huệ nói:

-Nay ḷng dân oán Chỉnh. Ta nên bỏ hắn ở lại.

Vua nói:

-Chỉnh theo ta lập nhiều công trận. Lại chưa bao giờ có ư phản, ta nỡ nào bỏ hắn.

Huệ không thuận:

-Làm việc lớn không để ư nhân nghĩa nhỏ. Giữa việc tranh nhân tâm và Chỉnh, anh chọn ai?

Tả Tướng Vũ Văn Nhậm muốn giết Chỉnh ngay, để lâu sinh biến. Lại có ư khuyên vua nên chiếm Bắc Hà.

Vua bác ư Nhậm, ra lệnh Huệ bí mật xúc tiến việc rút quân, t́m cách lừa Chỉnh ở lại. Vào một đêm thu, quân Tây Sơn rút khỏi Thăng Long. Măi đến sáng Chỉnh mới biết. Chỉnh hoảng hốt cùng thủ hạ thuê thuyền đuổi theo. Bọn lái đ̣ nhận ra Chỉnh, đă không cho thuê lại ḥ nhau dùng gậy gộc vây đánh. Chỉnh nổi giận đàn áp, cướp thuyền xuôi nam.

Thuyền ra khơi bị gió lớn thổi dạt. Hai tuần sau mới bắt kịp chiến thuyền Tây Sơn ở cửa Hội Thống, Nghệ An.

Thấy Chỉnh, Huệ giận lắm nhưng làm vẻ ôn tồn. Huệ nói:

-Chúng tôi rút quân gấp nên chưa kịp nói ǵ với ông. Ư đức vua muốn để ông ở lại v́ chỉ có ông mới trị được bọn Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng.

Nói xong ra lệnh cấp cho Chỉnh một ngàn quân, ít vàng và tiền. Chỉnh chỉ nhận tiền và vàng, từ biệt anh em Tây Sơn cho thuyền ra khơi. Ư Chỉnh chỉ muốn chứng tỏ cho Tây Sơn biết Chỉnh không có ư phản nên chạy theo. Nay cơ sự đă thế, Chỉnh giận trong ḷng, tự nhủ: Huệ sợ ḿnh nên muốn t́m cách hăm hại. Ḿnh cũng là tay hào kiệt dễ ǵ sợ hắn. Chỉnh quyết tâm dựng lại cơ đồ.

Sau khi Chỉnh ra đi, Huệ bàn với vua:

-Nghệ An là đất tổ của gịng họ ḿnh, lại như hàng rào chắn bắc quân một khi xẩy ra chiến trận. Vậy ta nên chiếm lấy.

Vua ngần ngừ:

-Ta có hứa với vua Lê không nhận đất. Nay nuốt lời coi sao được?

Huệ nói:

-Đệ đă tính kỹ mới dám nói. Việc giữ Nghệ An, ta cứ làm như tạm đóng quân để bảo vệ giặc cướp. Vua Lê đă ngỏ ư nhờ ta ở lại Thăng Long giúp hắn. Nay thay v́ ở Thăng Long, ta ở Nghệ An kể cũng hợp lư.

Vua thuận. Ra lệnh cho Nguyễn Văn Duệ trấn giữ Nghệ An. Lại cử Nhậm đóng quân ở Động Hải xem chừng hành động của Chỉnh. Nhậm phải cấp báo cho Huệ biết ngay một khi thấy Chỉnh có ư khác.

Vài hôm sau, quân Tây Sơn rút về Phú Xuân. Dùng hàng trăm thớt voi chở đồ đồng, hầu hết là chuông chùa và tượng Phật. Về đến Phú Xuân, Huệ nói với vua:

-Anh cứ về Qui Nhơn trước, đệ ổn định công việc xong sẽ về.

Vua dặn:

-Chú phải chuyển luôn hết các thứ lấy được.

Huệ nói xin vâng.

Về lại Qui Nhơn, vua mở đại tiệc mừng chiến thắng. Tiệc vui, không biết bao nhiêu rượu thịt. Vua có quá nhiều tài sản c̣n ở Phú Xuân sẽ được chuyển về nay mai. Lại nghĩ công lao các em đồng lao cộng khổ nay nên chung hưởng vinh hoa phú quư. Vua xưng là Trung Ương Hoàng Đế, sắc phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương trấn giữ từ B́nh Thuận vào nam. Nguyễn Huệ làm Bắc B́nh Vương trấn giữ từ Quảng Nam ra bắc. Dĩ nhiên, uy quyền của Huệ khống chế luôn Bắc Hà. Anh em Tây Sơn chia ba giang san.

Vua gọi Huệ về kinh, Huệ lấy cớ chưa ổn định nên chưa thể về. Vài lần nữa, vua ra lệnh triệu. Huệ t́m cách thoái thác. Vua giận. Biết em tham vọng, không muốn bị ai bị chi phối quyền lực, muốn chiếm đoạt hết số báu vật cướp được từ Bắc Hà. Vua nghĩ lung, nếu không ra uy th́ c̣n chi phép vua luật nước, nếu trừng phạt c̣n chi t́nh anh em cốt nhục, đó là chưa kể tài dụng binh của Nguyễn Huệ. Hơn nữa, v́ tin em, vua cho các vơ tướng theo Huệ đánh Thuận Hóa. Tất cả các vơ tướng nay dưới tay Huệ, làm sao họ có thể cưỡng lệnh một khi Huệ muốn xử dụng họ? Vua nhún nhường lần chót, cử Tể Tướng Vơ Xuân Hoài ra Phú Xuân triệu Huệ về.

Hoài gặp Huệ chuyển ư vua trách móc. Huệ giận dữ trả lời:

- Ông về nói với đức vua. Đánh chiếm Bắc Hà là công lao của tôi, nào phải của ông ấy. Đất bắc tiền của c̣n nhiều, ông ấy có giỏi th́ ra mà lấy. C̣n phần lấy được là của tôi, tôi có quyền giữ.

Vơ Xuân Hoài phân trần mọi lẽ thiệt hơn nhưng Huệ cương quyết khước từ. Biết không thể thuyết phục được Huệ, Hoài buồn bực trở về Qui Nhơn cho vua biết mọi việc, kể cả chuyện Nguyễn Huệ tự ư phong tước, ban thưởng tướng sĩ không cần lệnh vua. Vua nghe giận lắm, hiểu ḷng người em tham vọng quên t́nh cốt nhục. Vua ra lệnh chuẩn bị hưng binh trừng phạt. Triều thần biết tính vua, cho rằng vua chỉ nóng giận chốc lát rồi nguôi, chưa nỡ dứt t́nh huynh đệ.

Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lợi dụng cơ hội ra lệnh tuyển binh từ Phú Xuân ra sông Gianh. Thanh niên tuổi từ mười sáu đến bốn mươi lăm buộc phải ṭng quân. Số quân của Huệ nay tới sáu vạn người. Huệ trọng đăi nhân tài, phong Trần Văn Kỷ làm Quân Sư, tước Trung Thư Lệnh.

Trần Văn Kỷ nguyên người gốc Bắc Hà sau dời vào huyện Phong Điền Thừa Thiên. Đỗ Giải Nguyên khoa thi hương năm Đinh Dậu 1777. Huệ nghe tiếng Kỷ bèn mời hỏi han việc an dân trị nước, thời loạn thời b́nh. Kỷ tỏ ra thông suốt khiến Huệ cảm phục, trọng đăi hết mức. Huệ thường nói với bộ hạ: Ta được Kỷ khác nào Tề Hoàn Công có Quản Di Ngô, lo chi việc lớn chẳng thành.

Phải chăng việc lớn mà Huệ đang mưu đồ là ngôi Hoàng Đế? Sau này, cũng chính Kỷ giới thiệu với Huệ các danh tài Bắc Hà như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp, Ngô Th́ Nhậm, Phan Huy Ích.

Nguyễn Huệ quyết hạ thành Qui Nhơn, kế hoạch hành quân tối mật chỉ có người em vợ là Bùi Đắc Tuyên và Trần Văn Kỷ biết.

Mùa hạ năm Đinh Mùi 1787, Huệ bất ngờ kéo đại quân vây thành Qui Nhơn, để Tuyên ở lại giữ Phú Xuân.

Thành Qui Nhơn rúng động, dân nhốn nháo chẳng hiểu chuyện ǵ.

Bị vây bất ngờ, vua Tây Sơn truyền đóng cửa thành cố thủ. Vua đau ḷng không ngờ Huệ nỡ xóa t́nh cốt nhục. Quan quân trong thành hoang mang, không lẽ gà nhà bôi mặt đá nhau?

Quân lính của Huệ toàn tân binh, nhất nhất tuân lệnh chủ tướng tấn công quyết liệt. Quân trong thành buộc phải đánh trả, quăng gỗ đá, xử dụng cung nỏ ngăn địch. Quân Huệ không làm ǵ nổi v́ thành quá kiên cố.

Tại Gia Định, Đông Định Vương Nguyễn Lữ được tin Huệ vây khốn Qui Nhơn. Lữ khóc nói với Thái Bảo Phạm Văn Tham: Ôi Ba Thơm (tức Nguyễn Huệ), sao chú ấy ngỗ nghịch làm vậy. Tôi là kẻ tu hành, xem sự thế phù vân chẳng muốn vướng nợ. Cũng v́ t́nh ruột thịt phải giúp anh em, xông pha nơi ḥn tên mũi đạn, sát hại sinh linh mà ḷng đau như xé. Cái chức tước, bổng lộc vua anh ban cho tôi thật chẳng màng. Ḷng chỉ ước mong bốn phương b́nh định, thiên hạ thái b́nh, tôi lại rũ áo từ quan, trở về cuộc đời tu tŕ cho cơi tâm thanh tịnh. Nếu chỉ v́ hai chữ danh lợi mà anh em xâu xé, đành đoạn dứt nghĩa t́nh th́ thà đừng có c̣n hơn.

Ngay hôm sau, Nguyễn Lữ ra lệnh bộ tướng Đặng Văn Trấn đem năm ngàn quân khẩn cấp về cứu viện Qui Nhơn. Lữ dặn Trấn: Ông cầm quân ra đi mục đích chính không phải giao tranh mà chỉ mong anh em ḥa giải, Bắc B́nh Vương rút về Phú Xuân, anh em chung lưng gánh vác giang san, vỗ yên trăm họ. Khi ra đến Phú Yên, ông cho dừng quân, t́m cách chuyển thư của tôi cho đức vua và Bắc B́nh Vương. Ông chớ làm sai lời dặn.

Trấn bái mạng lên đường. Đến Phú Yên, Trấn làm theo lệnh Nguyễn Lữ, cử người gặp Huệ nhưng Huệ không trả lời. Trấn không biết làm sao đành án binh chờ.

Tấn công măi không hạ được thành, Nguyễn Huệ nôn nóng lo sợ các tướng ở Phú Xuân kéo quân về tiếp ứng cứu vua. Huệ lo sợ nhất là vợ chồng Trần Quang Diệu Bùi Thị Xuân là những người rất thân với vua, chưa kể Vũ Văn Nhậm c̣n nắm hàng vạn quân ở Nghệ An.

Huệ đánh chiếm núi Long Cốt, dùng súng đại bác bắn tới tấp vào thành. Lại ra nghiêm lệnh công thành ngày đêm, kẻ nào lùi bước sẽ bị người sau giết chết.

Quân trong thành núng thế. Vua Tây Sơn thấy thất bại sẽ xảy ra sớm chiều. Vua đứng trên vọng lâu lược trận, thấy phía xa Nguyễn Huệ mặc giáp đỏ đang ḥ hét chỉ huy. Vua lấy mảnh giấy viết vài chữ buộc vào mũi tên bắn ngay đầu ngựa người em. Huệ lượm tên. Mảnh giấy ghi hàng chữ :”B́ ca cốt nhục, đệ tâm hà nhân.” Có nghĩa là: Nồi da xáo thịt, ḷng em sao nỡ? Đọc xong, Huệ cầm tờ thư định ṿ nát liệng đi. Rồi như ngần ngại, cuối cùng Huệ gấp bỏ trong áo giáp.

Trời tối dần, Huệ ra lệnh Trung Quân Trần Văn Kỷ đánh trống thu quân. Chiến trường không c̣n tiếng súng nổ, tiếng reo ḥ, chỉ nghe văng vẳng tiếng rên la kêu khóc của thương binh la liệt dưới chân thành. Huệ ngước mắt nh́n trên vọng lâu thấy mờ mờ dáng người anh, vua Tây Sơn đứng bất động.

Bữa cơm tối hôm ấy, Huệ cùng ngồi ăn với Kỷ. Hai người cùng yên lặng. Huệ uể oải như muốn bữa ăn chóng qua. Bỗng Huệ cắn phải lưỡi, bảo Kỷ vịnh thơ. Trần Văn Kỷ không nghĩ, ngâm rằng:

Ngă kư sinh tiền, nhĩ hậu sinh

Nhĩ ưng vi đệ, ngă vi huynh

Lư ưng cộng hưởng trân cam vị

Hà nhẫn tương vong cốt nhục t́nh?

Bài thơ có nghĩa: Ta sinh ra trước mới tới chú. Vậy ta là anh, chú là em. Lẽ ra cùng chung hưởng ngon ngọt. Nỡ nào vong t́nh cốt nhục? Huệ nghe xong không nói ǵ. Buông đũa, Huệ nói mệt bước vào pḥng trong, Kỷ c̣n một ḿnh.

Sáng hôm sau, quan quân trong thành Qui Nhơn dậy sớm chuẩn bị cho ngày giao tranh mới. Lạ thay, nh́n ra ngoài thành thấy vắng lặng. Không bóng người lẫn bóng cờ. Quân của Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ đă rút đi hết tự bao giờ!

Kể từ ngày đó, vua Thái Đức không c̣n vui vẻ linh hoạt như xưa, trầm ngâm ít nói. Vua uống rượu nhiều hơn. Có ngờ đâu trong men say chiến thắng vẫn lẫn vị cay đắng. Vua ngồi trên tuyệt đỉnh vinh quang lại mang nỗi đau vật vă trăm năm! Cái giá phải trả cho sự thành công chẳng rẻ chút nào.

Tại Gia Định, chuyện bất ḥa trong anh em khiến Đông Định Vương Nguyễn Lữ buồn phiền rồi sinh bệnh. Những cơn nóng lạnh, nhức đầu hoa mắt xảy đến không ngớt, thuốc men nhiều nhưng mức thuyên giảm chẳng là bao. Lữ để Thái Bảo Phạm Văn Tham trấn giữ Gia Định rồi về Lạng Phụ nghỉ ngơi tịnh dưỡng.

Người biết triệt để khai thác cơ hội không ai ngoài đối thủ nguy hiểm nhất của Tây Sơn là Nguyễn Phúc Ánh.

Bấy giờ Ánh đang sống nương nhờ vua Xiêm La tại một làng nhỏ gần Vọng Các. Bỗng có sứ giả người Bồ Đào Nha đến gặp cho biết 56 chiến thuyền sẵn sàng cập bến tăng cường quân Nguyễn. Ánh mừng rỡ cùng đám bộ hạ đưa đoàn thuyền về vùng đảo Phú Quốc.

Tháng bảy, Lănh Binh Tây Sơn tại Long Xuyên Nguyễn Văn Trương chịu về hàng phục Ánh cùng với 15 chiến thuyền và ba trăm binh sĩ. Ánh chiêu mộ thêm được vài ngàn quân mở cuộc tấn công chiếm Cần Thơ. Quân Tây Sơn ở thế bị động không mở cuộc phản công. Một số tướng Tây Sơn đem quân và chiến thuyền về qui hàng. Tháng sau, Ánh tấn công thành Gia Định, dùng kế ly gián Thái Bảo Tham và Nguyễn Lữ. Lữ đang bệnh nặng ra lệnh thủ hạ đưa ḿnh về Qui Nhơn. Quân Tây Sơn vẫn giữ được Gia Định nhưng mất quyền kiểm soát hầu hết miền tây nam.

Nguyễn Lữ về Qui Nhơn bệnh ngày càng trầm trọng. Các danh y bó tay. Lữ mê man mấy ngày liền. Khoảng canh ba, một đêm trăng thu vằng vặc, Lữ bỗng tỉnh dậy. Nh́n thấy vua vẫn đứng bên giường, Đông Định Vương nắm tay anh thở hắt ra rồi từ trần. Vua Tây Sơn đeo thêm nỗi buồn nặng trĩu.

Những biến cố xảy ra tại triều đ́nh Tây Sơn và Bắc Hà giúp Nguyễn Ánh thêm yên tâm củng cố lực lượng. Ánh nghĩ rồi đây, Nguyễn Huệ sẽ phải dồn mọi nỗ lực đối phó với mặt bắc. Với Ánh, Huệ là mối đe dọa lớn nhất chứ không phải Nguyễn Nhạc. Tin vui và hy vọng càng nung nấu trong con người đầy ư chí Nguyễn Ánh niềm tin phục hồi vương quyền, chiếm lại toàn bộ mảnh giang san tổ phụ xây nên.

Cuối năm, Giám Mục Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh từ Pháp trở về. Giáo Sĩ cho biết đă thay Ánh kư với Bá Tước Montmorin, đại diện Pháp Hoàng Louis thứ 16 hiệp ước Versailles, chấp nhận những điều khoản nhường đứt đảo Côn Sơn và cảng Hội An cho Pháp. Đồng ư cho Pháp buôn bán độc quyền tại nước Nam...

Đổi lại, Pháp giúp Ánh kỹ thuật quân sự, bốn chiến hạm, vũ khí đạn dược và trên một ngàn sáu trăm thủy bộ binh.

Vua Tây Sơn biết tin, vua nói với quần thần: Nguyễn Ánh bao phen bị ta đánh tơi tả, làm ǵ có đất mà nhường. Nó hèn hạ hết cầu cứu với bọn mọi rợ Xiêm La, nay lại đến phương tây. Chẳng qua vua Phú Lang Sa ở xa không biết rơ t́nh h́nh nên bị nó và giáo sĩ người Tây Dương bịp. Ta cứ vỗ cho nó mập rồi càn quét một trận là xong.

Vua chủ quan coi thường Ánh, nguyên nhân đầu tiên dẫn đến thảm bại sau này.

Tháng tám năm sau, năm Mậu Thân 1788. Tổng Nhung Vơ Tánh đem quân tuyển mộ được ở Kiến Ḥa kéo về trợ lực quân Nguyễn. Ánh cả mừng phong Vơ Tánh làm Tiên Phong, lại gả con gái trưởng là Nguyễn Thị Ngọc Du cho Tánh để lấy ḷng. Quân Nguyễn lại mở cuộc tấn công hạ thành Gia Định. Thái Bảo Tham chống không lại buộc phải rút quân về Bến Tre. Cuối cùng bị vây khốn ngặt nghèo phải hàng phục quân Nguyễn. Nguyễn Ánh ân cần phủ dụ cho Tham yên ḷng. Tham đâu ngờ chỉ một thời gian ngắn sau, chính Tham cũng bị Ánh giết chết. Kể từ đó, Ánh chiếm lại toàn bộ vùng đất từ Gia Định vào nam. Rút kinh nghiệm đau thương của bao lần thất bại, Ánh chăm lo tuyển binh và huấn luyện, lại tổ chức cai trị tại những vùng chiếm được. Ánh chưa vội mở tiếp các cuộc hành quân tiến chiếm, cốt ư xây dựng hậu phương vững làm điểm tựa tính kế lâu dài.

Tin Gia Định thành thất thủ về đến Qui Nhơn. Triều thần hội nghị bàn mưu tái chiếm. Vua Tây Sơn chỉ nói: Đợi xem t́nh thế ra sao rồi sẽ liệu.

Chờ măi chẳng thấy vua có quyết định ǵ. Triều thần dị nghị. Có kẻ cho vua chán nản trở nên nhu nhược sau những chuyện đau ḷng xảy ra. Bệnh nhu nhược không có thuốc chữa. Người lại nghĩ vua vốn túc kế đa mưu, đang t́m cách gọi quân của Trần Quang Diệu, Vũ Văn Nhậm trở về Qui Nhơn rồi mới tính chuyện hưng binh đánh Nguyễn Ánh. Điều hiển nhiên nhất: Cái thế chân vạc của ba anh em Tây Sơn nay gẫy mất một.

 

 

Trở lại chuyện xảy ra tại Phú Xuân. Sau khi ḥa giải với anh, Nguyễn Huệ kéo quân về. Thế là từ đấy, Huệ làm vua một cơi, hoàn toàn không c̣n ǵ lệ thuộc Trung Ương Hoàng Đế. Mục tiêu Nguyễn Huệ đang lưu tâm là đất bắc. Huệ chú tâm theo dơi t́nh h́nh Bắc Hà.

Mùa thu năm trước, sau khi anh em Tây Sơn bí mật rút quân về nam, t́nh h́nh Bắc Hà lại rối loạn. Căn nguyên vua Chiêu Thống bất tài, không tự gây được thế lực nên bị đám cựu thần hiếp đáp làm loạn nước. Ngay cả đám nho sĩ như Dương Trọng Tế người huyện Gia Lâm nắm khoảng vạn quân trong tay cũng đủ sức bắt nạt vua Lê. Tế đưa Trịnh Lệ, em chúa Trịnh Sâm về kinh ép vua lập lại phủ chúa. Vua căm họ Trịnh giết cha ḿnh là Thái Tử Lê duy Vĩ nên gan ĺ quyết không thuận.

Lợi dụng cơ hội, Liễn Quận Công Đinh Tích Nhưỡng cũng kéo quân từ Hải Dương về kinh thành. Dù chỉ có vài ngàn quân nhưng Nhưỡng phao tin quân có hàng vạn để phô trương thanh thế. Nhưỡng dễ dàng đánh bại Dương Trọng Tế, chủ trương bỏ Trịnh Lệ, ủng hộ Trịnh Bồng, con Uy Nam Vương Trịnh Giang .

Phần vua Lê, vua thích Bồng hơn Lệ nhưng không thuận tái lập phủ chúa. Vua chỉ ban Trịnh Bồng tước quốc công. Triều thần căi cọ hỗn loạn. Kẻ bênh vua cho rằng phải vâng mệnh vua, lấy chúa hiếp vua là mầm mống loạn. Đinh Tích Nhưỡng căi: Trên hai trăm năm có vua lẫn chúa. Công đức nhà chúa không v́ một lần thất bại mà bỏ đi, thế là bất công. Chẳng qua vua trẻ người non dạ, nghĩ chưa thấu đáo mới cố chấp không chịu phong vương tước cho Côn Quận Công (chỉ Trịnh Bồng).

Kinh thành nhốn nháo v́ Thạc Quận Công Hoàng Phùng Cơ cũng kéo quân Sơn Tây về. Mọi người đều nghĩ Quận Thạc trung với vua, tất sẽ xảy ra giao tranh giữa Nhưỡng và Thạc. Chính vua cũng tin như thế. Nào ngờ, Thạc thấy thế chúa mạnh lại quay sang ủng hộ chúa. Vua giận, cắn răng phong Trịnh Bồng làm Yến Đô Vương. Mặt khác, vua ngầm sai người vào Nghệ An gọi Nguyễn Hữu Chỉnh kéo quân về kinh dẹp loạn. Vua tin chỉ có Chỉnh là người mạnh nhất.

Bắc Hà giờ đây đại loạn. Loạn trong triều, loạn ngoài dân. Làng nọ kéo dân đinh đánh làng kia, tranh dành đất đai. Đâu cũng có kẻ cướp. Ông trời tiếp tay hành hạ dân đen, hết đại hạn mất mùa đến giông băo lụt lội. Cây cối hao hại tận tuyệt chẳng c̣n giống ǵ. Nhiều nơi bị nạn sâu rầy cắn hại ruộng lúa. Kẻ có tiền chẳng mua được thóc. Thiên hạ đói khổ chết la liệt. Tại Nghệ An, có làng xă người chết sạch chẳng c̣n ai, tiếng than oán thấu trời...

Giữa t́nh h́nh đen tối ấy, Nguyễn Hữu Chỉnh nhận mệnh vua. Chỉnh mừng cho là cờ đă đến tay, xúc tiến nhanh chóng việc tuyển binh rồi kéo đại quân về Thăng Long.

Tại Thăng Long, Nhưỡng và Thạc nghe Chỉnh kéo quân về, cả hai với Chỉnh vốn chỗ quen biết, cùng muốn tránh đụng độ. Cơ kéo quân về Sơn Tây, Nhưỡng về Hải Dương chờ nghe ngóng t́nh h́nh. Phần Trịnh Bồng, biết không thể tin cậy vào con người hèn hạ như Dương Trọng Tế. Bồng bỏ kinh đô chạy lên phía bắc. Cuối cùng chán cuộc bể dâu, Bồng quyết tâm nương náu cửa Phật. Thế là trên hai trăm năm cơ nghiệp họ Trịnh đă bị Nguyễn Hữu Chỉnh xóa.

Vua Lê nghiễm nhiên trở thành kẻ thắng. Kẻ thắng có quyền làm mọi sự, vua ra lệnh thiêu hủy phủ chúa, lửa cháy ngút trời mười ngày chưa tàn. Người người chê vua tiểu tâm. Vua phong Chỉnh tước Bằng Trung Công. Chỉnh nắm giữ binh quyền trở thành nhân vật mạnh nhất Bắc Hà.

Thấy Chỉnh nắm hết binh quyền, vua lo sợ một ngày không xa Chỉnh sẽ cướp ngôi. Vua bàn với cận thần t́m cách ám hại Chỉnh. Chỉnh biết được giận lắm nhưng chưa nỡ xuống tay. Từ đó, Chỉnh không c̣n coi vua ra ǵ. Chỉnh đặt tên cho đạo quân của ḿnh là Vũ Thành, hoàn toàn quyết định mọi việc triều chính. Gịng họ nhà Lê bao đời làm vua nhưng vẫn tiếp nối truyền thống bù nh́n.

Tại Nghệ An, Vũ Văn Nhậm theo dơi sát mọi hành động của Chỉnh. Nhậm cấp thời tường tŕnh mọi việc với Nguyễn Huệ. V́ ḷng căm ghét Chỉnh, Nhậm vẽ rắn thêm chân. Nhậm viết cho Huệ: ”Nay Chỉnh kể như chúa tể đất bắc. Ta nên lợi dụng lúc ḷng người c̣n hoang mang, t́nh h́nh chưa ổn định cấp thời diệt hắn. Nếu để lâu, ta khó ḷng chiếm được Bắc Hà.”

Phần Huệ, Huệ nhận ra con người bản lănh tài năng của Chỉnh. Từ hai bàn tay trắng, Chỉnh gây dựng cơ đồ chẳng mấy khó khăn. Huệ cho Nhậm nói đúng. Phải triệt Chỉnh càng sớm càng tốt.

Khoảng cuối thu, Huệ cử hai Đại Tư Mă Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở ra Nghệ An cho lệnh Nhậm tấn công ra bắc diệt Chỉnh. Trước khi Lân và Sở lên đường, Huệ dặn Sở: Tôi cho lệnh Nhậm ra bắc nhưng không bao giờ tin hắn v́ hắn là rể của anh tôi. Vậy ông bám sát, theo dơi gắt mọi hành vi ư đồ của hắn, cấp thời cho tôi biết để có cách đối phó.

Dĩ nhiên, Sở chắc chắn hoàn thành nhiệm vụ đáp ứng mong muốn của Huệ. Đại Tư Mă Ngô Văn Sở vốn chẳng ưa ǵ Tả Tướng Vũ Văn Nhậm.

Quân Tây Sơn ra bắc chiến thắng dễ dàng v́ lính Bắc Hà luôn trong tâm trạng sợ hăi không muốn giao tranh. Nhậm vào Thăng Long để mặc lính tự do cướp bóc của cải những nhà quyền quí. Cha con Nguyễn Hữu Chỉnh bỏ kinh thành chạy lên vùng rừng núi Yên Thế. Cuối cùng cũng bị quân Tây Sơn bắt được. Nhậm trả hận Chỉnh bằng h́nh phạt tứ mă phanh thây. Dân bắc kinh hăi, ghê tởm h́nh phạt man rợ dù không ưa Chỉnh.

Tả Tướng Nhậm bây giờ uy quyền lừng lẫy. Nhận thấy dân bắc tuy oán Chỉnh nhưng vẫn mến nhà Lê. Nhậm lập Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận làm Giám Quốc. Cận là con trai thứ tư của vua Lê Hiển Tôn.

Quyết định của Nhậm bị Ngô Văn Sở phản đối. Ư của Sở là chiếm lấy Bắc Hà. Nhậm tỏ ra khinh thường Sở. Nhậm nói: Quyền hành trong tay tôi, ông khỏi bàn bạc, chỉ tuân lệnh là đủ.

Sở tức giận mật báo về Phú Xuân, cho rằng Nhậm có ư bội phản, muốn tôn phù nhà Lê. Nguyễn Huệ ư muốn giết Nhậm từ lâu, đích thân đem ba vạn quân ra Thăng Long.

Tháng tư năm Mậu Thân 1788, Huệ đến Thăng Long. Nhậm cùng chư tướng ra cổng thành đón. Hai chú cháu sánh vai nhau vào thành.

Đêm hôm ấy, Nhậm làm tiệc đăi chú. Tàn tiệc, chư tướng ra về chỉ c̣n lại Huệ, Nhậm và một số thủ hạ thân tín của Huệ. Huệ đứng dậy chống gươm kết tội Nhậm phản bội. Huệ nói: Anh em nhà ta chẳng hề phụ mi, anh ta lại gả con cho mi, ta phong mi quyền cao chức trọng, cớ sao bội phản muốn lập lại nhà Lê chống lại cha chú.

Nhậm rạp đầu một mực kêu oan. Lời nói thống thiết của Nhậm không lay ḷng Huệ. Huệ nói câu cuối cùng với Nhậm: Mi vô tội nhưng mi làm ta lo ngại cũng đă là tội.

Nói xong, Huệ ra lệnh vơ sĩ Hoàng Văn Lợi đâm chết Nhậm, xác chôn ngay sau vườn.

Hôm sau, Huệ cử Ngô Văn Sở chỉ huy thay Nhậm. Nghe lời khuyên của Trần Văn Kỷ, Nhậm trọng dụng đám cựu thần tài ba như Ngô Th́ Nhậm, Phan Huy Ích...

Tạm ổn mặt bắc, Huệ rút về Phú Xuân giao toàn bộ trách nhiệm cho Ngô Văn Sở và Ngô Th́ Nhậm tùy nghi đối phó giải quyết t́nh h́nh.

Vua Tây Sơn được tin con rể đă bị Huệ giết. Vua đau ḷng như bị dao đâm. Nhất là phải nghe lời thở than của vợ, tiếng khóc thảm thê trách cha hận chú của con gái Thọ Hương. Hương nói: Cũng v́ chuyện mưu bá đồ vương mà cha coi con như món hàng. Cha gả bán con cho Đông Cung Dương. Ông ấy bỏ vô nam, rồi cũng bị chú ba (chỉ Huệ) giết đi. Một ngày ở với nhau cũng là nghĩa t́nh, con thành gái góa. Con lại vâng ư cha làm vợ ông Nhậm. Ông ấy đem hết tài vơ cúc cung tận tụy cơ nghiệp nhà ta. Cuối cùng cũng chết dưới tay chú. Chú tàn nhẫn chà đạp nghĩa t́nh, chỉ biết danh biết lợi. Chú kéo quân về đánh lại cha. Làm con hai lần thành góa bụa, mang tiếng với đời có tướng sát phu...

Vua héo hắt gan ruột chỉ biết dùng rượu giải sầu.

Tháng tám, Nguyễn Huệ được tin Nguyễn Ánh chiếm Gia Định. Huệ lo sợ nhưng không dám tổ chức hành quân chinh phạt v́ nhận mật tin từ Bắc Hà của Tiết Chế Ngô Văn Sở cho biết vua nhà Thanh là Càn Long nhận lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống, đă ra lệnh Tổng Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị gom trên hai mươi vạn quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quí Châu, Vân Nam chuẩn bị vượt biên giới tấn công. Huệ biết nhà Thanh chỉ nhân cơ hội lấy cớ chiếm nước nam. Trung Quốc muôn đời không bao giờ từ bỏ mộng đại bá.

Tháng mười, đại quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh cùng các danh tướng Hứa Thế Hanh, Trương Sĩ Long, Sầm Nghi Đống ào ạt vượt biên chà nát vùng thượng du miền bắc. Quân Tây Sơn đóng ở biên giới hoàn toàn tan ră. Tiết Chế Ngô Văn Sở tại Thăng Long ḷng như lửa đốt nhận tin cấp báo tới tấp. Sở khẩn cấp họp tham mưu. Nội Hầu Phan Văn Lân, tay vơ nghệ siêu quần, bạn thân của vua Tây Sơn hăm hở phát biểu:

-Theo tôi, bọn giặc Thanh kéo sang chẳng có ǵ đáng sợ. Ông cha ta ngày trước tùng phá giặc Tống, ba lần đánh bại Mông Cổ. B́nh Định Vương Lê Lợi mười năm quét sạch giặc Minh ra khỏi cơi bờ. Nay ta chỉ cần noi gương người trước, tổ chức những toán phục binh ngăn bước tiến quân của giặc, rồi chọn thời cơ đại chiến đánh cho chúng tan tác.

Tả thị Lang Ngô Th́ Nhậm bác bỏ, Nhậm nói:

-Cái thời xưa nay khác hẳn. Thời Trần Lê quân dân một ḷng liều chết chống giặc. Ngay các bô lăo cũng họp Hội Nghị Diên Hồng đồng tâm quyết chiến. Thế nước yếu lấy hy sinh để lo chiến chinh. Hiện nay ta chưa thu phục được ḷng dân, dân kinh thành căm hận Văn Nhậm chẳng khác căm hận Nguyễn Hữu Chỉnh. Ḷng dân c̣n nhớ nhà Lê. Đám cựu thần nhà Lê đâu cũng có, bọn này đang ngày đêm ngóng trông quân giặc. Phần dân nhẹ dạ, dễ mắc cái mưu “phù Trần diệt Hồ” của bọn giặc Minh thời Trần mạt. Với t́nh h́nh này, ta đặt quân mai phục tất sẽ bại lộ v́ dân cáo tỏ với giặc. Như thế có phải ḿnh tự đưa ḿnh vào tử địa. Quân cơ bại lộ làm sao đạt thắng lợi?

Ngô Văn Sở hỏi kế sách. Nhậm giải thích:

-Thuật dụng binh có hai cách công và thủ. Thế công hẳn không được. Thế thủ chắc không xong v́ ông có tin được đám quân Bắc Hà trong hàng ngũ của ḿnh. Có thể họ sẽ bỏ trốn hoặc làm nội ứng cho giặc. Vậy thủ sẽ gây biến loạn.

Lân mỉa mai:

-Công không xong, thủ chẳng được. Ư của ông chắc là kế tẩu?

Nhậm nghiêm nghị:

-Chẳng phải tẩu mà là thối. Ông giỏi quyền thuật ắt hiểu cách tấn thối nhịp nhàng để thủ thắng cuối cùng.

Lân chưa chịu thua:

-Khi Đại Vương về Phú Xuân giao trọng trách cho ta. Nay giặc chưa tấn công đă bỏ thành mà chạy sao không khỏi bị quở phạt, lại không tránh được tiếng chê cười rằng ta hèn nhát. Lân này từng theo Đại Vương mấy phen đánh tan Nguyễn Ánh, đại phá giặc Xiêm, mạnh như bọn Tây Dương c̣n bị chết ch́m dưới biển, không lẽ nay lại sợ đám giặc Thanh này?

Nói xong, Lân bỏ ra ngoài. Tiết chế Sở nói với Nhậm:

-Tôi thấy lời Lân nói không hoàn toàn vô lư. Vậy ông cho tôi nghe tiếp kế hoạch.

Nhậm tiếp:

-Danh tướng cầm quân xưa nay liệu thế ta, thế địch sao cho có lợi mới đánh. Tùy cơ ứng biến, xuất quỉ nhập thần. Ta nhử cho giặc vào sâu bằng cách rút thủy binh về tập trung ở đảo Biện Sơn, Thanh Hóa. C̣n bộ binh về trấn ngang núi Tam Điệp. Ta chẳng hao một tên quân, bảo toàn lực lượng. Giặc vào Thăng Long ví như ta cho chúng ở nhờ qua đêm rồi lại đánh đuổi chúng đi. Nào có chi mất mát. Ông yên tâm một khi đại vương hỏi đến, tôi sẽ giải bày mọi lẽ.

Tư Mă Sở cho hợp lư, xúc tiến ngay kế hoạch.

Phần Phan Văn Lân, ngay đêm đó tự dẫn một ngàn quân dự tính vượt sông Nguyệt Đức chận đánh địch.

Trời lạnh, gió bấc thổi buốt xương. Quân của Lân vừa qua sông đă bị quân Thanh do Trương Sĩ Long mai phục đánh tan tác. Lân kéo tàn quân rút chạy lại bị Hứa Thế Hanh chận đánh mảnh giáp chẳng c̣n. Lân thoát chạy theo đoàn quân Sở và Nhậm, xấu hổ v́ không nghe lời Nhậm.

Quân Thanh tiến vào kinh đô Thăng Long, nghênh ngang trên đường phố như những kẻ chiến thắng. Từ đó, bọn lính vô kỷ luật không ngưng sách nhiễu hà hiếp dân nam. Ngay cả bọn chủ tướng c̣n hống hách hơn, coi vua quan nhà Lê như bọn tôi tớ hèn hạ, mặc t́nh sai khiến. Kẻ thức thời hiểu ngay họ không đến để giúp nhà Lê mà để cai trị nước nam.

Phần Chiêu Thống, vua vốn tiểu tâm chỉ lo việc trả thù, trừng phạt dă man những người theo Tây Sơn.

Đến núi Tam Điệp. Sở lập pḥng tuyến, cử Đô Đốc Tuyết, cháu gọi Nguyễn Huệ là cậu khẩn cấp vào Phú Xuân báo tin. Thấy Tuyết có vẻ sợ hăi, Nguyễn Huệ giận mắng:

-Đến nỗi chi mà mi quá hăi sợ. Rồi xem ta sẽ tiêu diệt lũ chó Ngô như bọn quân Xiêm quân Nguyễn.

Triều thần họp bàn đề nghị Huệ lên ngôi Hoàng Đế cho có chính vị rồi sẽ ra quân diệt giặc. Huệ hỏi Trung Thư Lệnh Trần Văn Kỷ, Kỷ nói:

-Nay vua Lê bất lực không gánh vác nổi sơn hà, lại cam tâm rước voi về dầy mồ mả tổ tiên. Đó là quốc nhục. Phía nam, Trung Ương Hoàng Đế uy tín suy giảm khi Gia Định lọt vào tay Nguyễn Ánh. Ông lên ngôi là hợp ḷng dân, có thế mới kết hợp trong ngoài kháng giặc.

Huệ nghe mừng. Sai Kỷ soạn chiếu lên ngôi. Về quân đội, Huệ đă chuẩn bị sẵn sáu vạn quân tinh nhuệ đầy đủ vũ khí cùng hai trăm thớt voi trận, hàng trăm chiến thuyền sẵn sàng lên đường bắc phạt.

Ngay hôm sau, ngày hai mươi hai tháng mười một năm Mậu Thân 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế niên hiệu Quang Trung. Tờ chiếu lên ngôi có đoạn viết:”... Trẫm chỉ là người dân áo vải đất Tây Sơn, không hề có chí làm vua. Nhân v́ ḷng người chán loạn lạc, mong có minh chủ an dân cứu đời. Vậy nên trẫm chiêu binh măi mă, xông pha chốn mũi tên ḥn đạn phù Hoàng Đại Huynh (chỉ Nguyễn Nhạc) diệt loạn dựng nước ở cơi Tây, vỗ yên Xiêm La Cao Miên ở phía nam, hạ Phú Xuân Thăng Long chỉ mong giúp dân thoát cơn điêu linh binh lửa...”

Ba ngày sau, Quang Trung ra lệnh xuất quân. Đến Nghệ An, vua cho dừng để tuyển mộ thêm quân. Cứ ba đinh lấy một lính. Quân số nay lên khoảng mười vạn. Vua cấp tốc huấn luyện tân binh, lại cho vời danh sĩ xứ Nghệ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp. Đây là lần thứ hai gặp Thiệp. Vua nói:

-Ta cầm quân gần hai mươi năm chưa nếm mùi chiến bại. Lần này xuất quân chống giặc Thanh. Theo ư tiên sinh, cái cơ thành bại thế nào?

Nguyễn Thiệp trả lời:

-Bệ hạ dụng binh mưu lược, mọi người nể phục, lại biết chiêu hiền đăi sĩ, mệnh lệnh uy nghiêm, uy dũng có thừa. Đó là danh tướng. Nay trong nước trống không, nhân tâm ly tán. Giặc từ xa tới không rơ t́nh h́nh quân ta tất không có kế sách đối phó. Tôi đoán bệ hạ ra quân lần này chỉ độ mười ngày là đạt thắng lợi.

Vua lại hỏi:

-Giặc đông trên hai mươi vạn. Bọn Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống... toàn những danh tướng. Sao tiên sinh có thể quyết đoán?

-Giặc tuy đông nhưng không thiện chiến v́ vài chục năm qua vùng nam Trung Quốc yên b́nh không giặc giă. Vả lại khi sang nước ta, chúng sẵn kiêu căng coi thường. Lính viễn chinh ưa làm điều càn bậy gây căm thù bất măn trong dân. Vậy quân càng đông thất bại càng lớn. Chính Chiêu Thống là kẻ làm cơ nghiệp họ Lê sụp đổ. Tấn công địch vào dịp tết Nguyên Đán được thêm yếu tố bất ngờ. Tôi có kế giúp bệ hạ chiếm thành Thăng Long mau chóng.

Nói xong, Nguyễn Thiệp trao cho vua mật thư. Thiệp nói:

-Tôi có người học tṛ đáng tin cậy hiện đang làm chức Đề Lính chỉ huy cấm binh tại Thăng Long. Bệ hạ cấp trao thư của tôi cho hắn dặn làm nội ứng. Khi ta công thành, hắn lập tức phóng hỏa đốt các kho lương thực vũ khí.

 

Vua Quang Trung cả mừng, tin tưởng kính trọng Thiệp bội phần.

Xong mọi việc, vua ra lệnh tiến quân. Vua nói với tướng sĩ:

-Nay giặc xâm lấn đất nước, ta phải đánh đuổi chúng đi. Các ngươi phải dốc ḷng cùng ta lo đại sự. Kẻ nào phản trắc, ta giết tức th́, không dung bất cứ ai.

Ngày hai mươi tháng chạp, đại quân đến núi Tam Điệp. Các tướng Sở, Lân và Ngô Th́ Nhậm ra đón vua, tất cả vác gươm trên vai tỏ ư chịu tội. Vua phủ dụ tướng sĩ, khen Nhậm mưu lược.

Vua sai quân dọ thám t́nh h́nh, cử sứ giả Trần Danh Bính đến gặp Tôn Sĩ Nghị cầu ḥa, xin băi binh. Nghị khinh thị bắt giam sứ giả. Nghị nói: Với bọn Nam man, ta chỉ cần đánh một trận là xong. Giặc Huệ biết ăn năn nhưng đă muộn. Ta sẽ cho nó thấy sức mạnh của Thiên Triều, dạy kẻ hỗn xược bài học nhớ đời.

Quân Thanh hoàn toàn không pḥng bị, thoải mái vui xuân.

Ngày cuối năm Mậu Thân, vua ra lệnh tướng sĩ ăn tết sớm, hẹn bảy ngày sau sẽ vào Thăng Long. Nhiều kẻ nghĩ vua lộng ngôn.

Qua giao thừa bắt đầu năm mới, năm Kỷ Dậu 1789. Năm cánh quân Tây Sơn do vua Quang Trung tổng chỉ huy phát pháo tiến quân.

Quân vua vượt sông Giản Thủy chiếm Sơn Nam. Ngày mồng ba tết hạ thành Hà Hồi. Quân đến Ngọc Hồi, dân làng nghe vua đến vui mừng đón rước, lại bày cỗ bàn bánh trái khao quân. Vua vui mừng cảm động ban cho làng bốn chữ “Hiếu Nghĩa Khả Gia”, khen ḷng dân chuộng nghĩa.

Mờ sáng ngày mồng bốn. Trước khi xuất quân, vua đeo khăn vàng nơi cổ, dơng dạc truyền lệnh: Thành Ngọc Hồi là cứ điểm quan trọng của giặc. Ngọc Hồi mất, Thăng Long tất chẳng c̣n. Giặc biết thế nên đóng ở đây gần năm vạn quân, lại do các tướng tài như bọn Hứa Thế Hanh, Trương Sĩ Long... chỉ huy. Chúng ỷ người đông thành chắc ta không thể hạ nổi. Ta đeo khăn vàng là ư tử chiến. Trận này ta chỉ thắng hoặc chết. Các tướng sĩ có đồng tâm quyết chiến?

Vua vừa dứt lời, tướng sĩ hô vang quyết chiến, thế quân mạnh như thác lũ. Các tướng cũng đeo khăn vàng như vua. Lệnh cuối vua truyền đốt hết lương thảo. Tướng sĩ ai nấy hăng hái thi hành.

Nội Hầu Phan Văn Lân cưỡi voi, chỉ huy một trăm tượng binh mở đường. Quân nam dùng những tấm ván dài bện rơm có tẩm nước đỡ đạn. Đám khinh binh trang bị hỏa hổ và đoản đao tiến sát sau tượng binh. Thành Ngọc Hồi ch́m trong lửa đạn. Tiếng quân reo ngựa hí. Tiếng trống trận liên hồi hối thúc. Quân nam say máu không lùi, lớp này chết, lớp khác tiến lên. Quá trưa, quân Thanh núng thế. Phan Văn Lân dẫn đầu tượng binh tràn bừa vào húc đổ cổng thành dù thớt voi Lân cưỡi bị tên bắn dày như lông nhím. Lân xuống voi múa đoản đao chém giết. Quân nam say máu giết giặc như thái rau. Vua Quang Trung đầy dũng khí cũng bỏ voi xuống bộ múa roi xung trận. Chiến trường mù mịt lửa khói, tiếng rên la kêu khóc dậy trời. Quân Thanh đạp lên nhau bỏ chạy khỏi thành lại vướng địa lôi nổ tan xác. Các tướng Trương Sĩ Lương, Thượng Duy Thăng tử trận. Đề Đốc Hứa Thế Hanh lên ngựa t́m cách thoát thân, cuối cùng bị Lân chém rơi đầu. Ngọc Hồi thất thủ. Hơn nửa lực lượng quân giặc phơi xác.

Toán hậu quân do Ngô Văn Sở vừa đến. Vua ra lệnh biến hậu quân thành toán tiên phong. Vua cưỡi voi chỉ huy ra lệnh thẳng tiến về Thăng Long.

Cũng ngày ấy, cánh quân do Đại Đô Đốc Đặng Văn Long hạ đồn Khương Thượng do Thái Thú Sầm Nghi Đống chỉ huy. Đống kéo quân rút chạy về Thăng Long. Bị truy kích ngặt, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vận tại g̣ Đống Đa.

Phần Tổng Đốc Tôn Sĩ Nghị. Sáng mồng bốn, Nghị được tin Ngọc Hồi bị tấn công. Nghị hoang mang không hiểu v́ sao quân nam tiến nhanh đến thế, vội cử Lănh Binh Thang Hùng Nghiệp dàn quân ngoài thành chờ rơ thực hư.

Đêm hôm ấy, Nghị bồn chồn thao thức, ra lệnh quân sĩ canh gác cẩn mật chuẩn bị tác chiến.

Dân kinh thành hoảng sợ chạy trốn ra ngoại thành. Trong cung vua, Chiêu Thống cho gia nhân gom đồ tế nhuyễn sẵn sàng cùng bầu đoàn thê tử chạy trốn.

Sáng ngày mồng năm tết, khoảng giờ sửu trời c̣n tối mù. Tôn Sĩ Nghị nghe phía tây thành nhiều tiếng súng nổ. Tiếng quân reo ḥ mỗi lúc một gần, Nghị vụt dậy bước ra ngoài thấy trong thành lửa cháy ngút trời. Các kho lương và vũ khí bị đốt. Tin cấp báo thủy binh nam quân do Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết đang tấn công phá vỡ một góc thành. Bỗng quân nam từ nhiều phía ào ào như sóng reo ḥ tấn công, hỏa hổ phun lửa đốt cháy doanh trại. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt không kịp mặc giáp, được tùy tướng che chở thoát chạy về hướng bắc. Quân Thanh thấy chủ tướng bỏ chạy cũng t́m đường đạp nhau tẩu thoát vượt sông Nhị Hà. Cầu gẫy, gịng sông nghẽn xác người. Quân Thanh đến gần biên giới lại bị quân nam do Đô Đốc Nguyễn Văn Lộc chận đánh tan tác. Dân Tàu gần biên giới hoảng hốt bỏ của chạy lấy người. Trên hai mươi vạn hùng binh nay tan tác tả tơi.

Chiều ngày mồng năm tết năm Kỷ Dậu. Vua Quang Trung trên ḿnh voi dẫn đoàn quân chiến thắng vào Thăng Long. Chiến bào đen khói súng. Trên thành, dàn trống trận Tây Sơn đánh khúc khải hoàn.

Sau chiến thắng, vua lo ổn định t́nh h́nh Bắc Hà. Vua hỏi Ngô Th́ Nhậm:

-Theo ông, phản ứng của vua Thanh sẽ thế nào?

Nhậm đáp:

-Càn Long là vua nước lớn tất không chịu nhục. Thần nghe phong thanh Tôn Sĩ Nghị đă bị cách chức. Vua Thanh cử Tổng Đốc Phúc Khang An chuẩn bị năm mươi vạn quân đánh ta.

-Vậy ta có cách chi đối phó?

-Ta nên t́m cách ḥa hoăn. Thần biết Phúc Khang An ngại chinh chiến. Vua Thanh lại tin dùng hắn. Ta liệu cách mua chuộc Khang An, xui hắn khuyên vua băi binh. Thần nghĩ việc này ta làm được.

Vua tin tưởng giao cho Nhậm và Phan Huy Ích lo việc ngoại giao. Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân lo quân sự.

Mùa hè, vua trở lại Phú Xuân. Việc ngoại giao tiến triển tốt đẹp. Tháng bảy, vua Thanh phong Quang Trung làm An Nam Quốc Vương.

Vua Tây Sơn biết tin người em đă xưng đế hiệu, vừa đại phá quân Thanh. Vua mừng rỡ nói với quần thần: Em ta đáng mặt anh hùng. Hai anh em cùng làm vua, truyện cổ kim chưa từng có.

Quần thần có người nghĩ khác. Họ bảo nước không thể có hai vua. Thế nào rồi Nguyễn Huệ cũng t́m cách độc tôn, không chia xẻ ngôi báu dù với anh. Huệ đă từng kéo quân vây khốn Qui Nhơn. Nhiều người lo ngại cho vua chẳng c̣n giữ nổi cơ nghiệp lâu dài.

Phần Nguyễn Ánh, biết tin Huệ phá Thanh diệt Lê. Ánh mừng lắm.

Quần thần lấy làm lạ. Ánh nói: Nguyễn Huệ dù thắng quân Thanh, diệt nhà Lê nhưng hắn sẽ bị chôn chân tại Bắc Hà v́ Thanh Triều sẽ cố rửa cái nhục bại trận. Vậy ta hoàn toàn yên ổn chờ cơ hội dành lại đất đai cơ nghiệp tổ phụ gầy dựng. Ta nhận ra Huệ tiếng nói sang sảng, mắt lộ hung quang, ai nh́n cũng sợ. Đó là cái uy nhưng cũng là tướng hung tử. Chắc chắn y không hưởng được phúc lộc lâu dài. Ta mừng v́ thế.

Quần thần khen Ánh cao kiến.

Từ năm Canh Tuất 1790, Ánh ra lệnh Vơ Tánh, Nguyễn Văn Thành tấn công vùng duyên hải từ B́nh Thuận ra Phú Yên, mục đích đẩy quân Tây Sơn vào thế thường xuyên bị đe dọa.

Tại Phú Xuân, sau khi nhận tước phong của vua Thanh, Quang Trung cho lệnh dưỡng binh. Vua muốn kéo quân vào Gia Định tận diệt Nguyễn Ánh. Chẳng may, sức khỏe vua bỗng suy yếu, thường sinh bệnh tật. Những cơn nóng bốc lên mặt khiến vua nhức đầu xây xẩm. Có lần vua ngất đi. Nhiều đêm, vua trải qua những cơn ác mộng hăi hùng, thấy toàn cảnh chém giết, máu chảy đầu rơi, tiếng khóc than, tiếng oan hồn đ̣i mạng. Vua buồn nói với Trần Văn Kỷ. Kỷ khuyên vua b́nh tâm an dưỡng. Lại nói bệnh sinh do vua quá lo lắng, lại qua bao chiến trận hiểm nghèo, bao cảnh tóc tang nên nhập tâm thành mộng dữ.

Tháng ba năm Tân Hợi 1791, vua gặp chuyện quá đỗi đau ḷng. Phạm Hoàng Hậu lâm trọng bệnh qua đời. Quang Trung thường nổi cơn thịnh nộ làm mọi người khiếp sợ chẳng dám lại gần. Vua ra lệnh Bắc Hà tiến kinh các loại vải quí, nhựa trám, sáp, trầm hương... để ướp xác người vợ yêu. Ba tháng sau, vua mới cho lệnh chôn thi hài tại núi Kim Phụng.

Đầu năm Nhâm Tư 1792, Quang Trung thấy thư thái, sức khỏe có cơ hồi phục. Vua viết thư cho anh trách việc để mất Gia Định, phụ bao công lao máu xương tướng sĩ. Vua ngỏ ư muốn bàn với anh kế hoạch đánh Gia Định.

Nhận thư em, vua Tây Sơn mừng rỡ. Nguyễn Ánh vẫn là mối lo canh cánh bên ḷng. Vua càng vui thấy anh em lại ḥa thuận. Quang Trung hẹn gặp anh vào mùa hè tại Quảng Ngăi.

Buổỉ gặp gỡ, vua Tây Sơn cảm động nắm chặt tay em. Quang Trung cũng ngậm ngùi. Vua nói:

-Đệ chủ tâm tái chiếm Gia Định từ lâu. Ngặt công việc Bắc Hà bề bộn, lại yếu đau. Nay rảnh tay muốn bàn với anh chuyện đó.

-Tôi biết chú đa đoan nhưng đáng mặt anh hùng. Rạng danh gịng họ. Nguyễn Ánh chỉ sợ ḿnh chú. Phần quân ta sa sút tinh thần tỏ ra ươn hèn. Nay đem quân ấy mà chọi với giặc khác nào dê đấu cọp. Phải có thời gian ổn định tinh thần tướng sĩ mới mong khôi phục đất cũ.

-Quân ta xưa nay can đảm thiện chiến, sao sa sút quá nhanh?

-Đây là điều tôi nhận ra. Trước tiên, mối bất ḥa huynh đệ làm quân chán nản, ḷng dạ phân tán mất tự tin. Hai nữa, quân đa số là người Qui Nhơn Quảng Ngăi, chiến đấu xa nhà đă lâu. Kẻ địch tuyên truyền giỏi, chúng phao tin giáo sĩ Tây Dương có phép lạ làm quả cầu đỏ bay lên trời (chỉ chuyện Giám mục Bá Đa Lộc thả khinh khí cầu tại Gia Định), bọn lính Tây Dương mắt xanh mũi lơ tóc quăn có súng bắn xa hàng dặm, một phát đạn giết chết hàng chục người. Quân ta thấy giặc là chạy, tướng tài cũng chịu thua. Gia Định thành do vậy thất thủ.

-Giận thay bọn xuẩn động. Đệ đă có kế sách đánh Gia Định. Anh lo đóng thêm chiến thuyền, chuẩn bị tuyển và luyện quân. Quân Qui Nhơn sẽ tấn công các đảo vùng Côn Sơn, Phú Quốc truy lùng Nguyễn Ánh khi hắn thoát chạy ra biển. Đệ thống lĩnh thủy binh Phú Xuân đánh thẳng vào Gia Định. Quân bộ đánh miền tây nam chặn đường sang Chân Lạp. Tổng số quân tham chiến có thể đến ba mươi vạn. Trận này ta quyết diệt giặc tận gốc. Khoảng cuối thu khởi binh. Tháng tám, đích thân đệ truyền hịch động viên tướng sĩ.

Vua Tây Sơn thuận, hăng hái xúc tiến chuẩn bị chiến dịch.

Tháng tám, đúng kế hoạch, vua Quang Trung truyền hịch tướng sĩ. Nội dung đại để như sau:

“...Trẫm tự thuở cầm quân khắp cơi bắc nam, đánh đâu thắng đó. Giặc Xiêm, giặc Thanh cũng chịu khuất phục. Đó là do tướng sĩ quyết tâm chiến đấu.

Bọn dư đảng cựu triều từ bao năm nay nào làm nên tṛ trống ǵ. Bao trận thua tan tác, xương tàn tướng sĩ của chúng dẫy đầy vùng Gia Định. Đến như tên đê hèn Nguyễn Ánh kia cũng bao phen trốn chạy tan tác. Sự thực như thế. Nay sao các ngươi lại hèn nhát khiếp hăi đến vậy? Các ngươi thua v́ không dám kháng cự chứ chúng có chi tài giỏi.

Bây giờ theo lệnh Hoàng Đại Huynh. Trẫm thân chinh diệt giặc. Trẫm sẽ đập nát chúng như củi mục cành khô, thu phục đất đai đă mất. Như thế mọi người sẽ rơ, Hoàng Đại Huynh với Trẫm là t́nh máu mủ ruột thịt.

... Các ngươi chớ nhẹ dạ nghe lời phao đồn về bọn Tây Dương. Chúng tài giỏi chi? Chỉ là bọn mắt xanh mũi lơ. Trẫm đă từng đốt cháy chiến thuyền của nó, d́m thây chúng nó xuống biển. Quả bóng đỏ bay lên trời chỉ là thứ đồ chơi, nào có chi là lạ mà phải đệ tŕnh lên Trẫm...”

Chuyện đời do người mưu sự mà thành bại là ở cơ trời. Vào một buổi chiều cuối thu tháng chín. Vua Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm rồi ngất xỉu. Tả hữu vội vực vua vào long sàng. Hai ngày sau, vua hồi tỉnh nhưng giọng nói th́ thào, vua truyền gọi Đại Tư Mă Trần Quang Diệu đang trấn thủ Nghệ An gấp rút hồi kinh. Đêm ngày mười sáu tháng chín năm Nhâm Tư, tiết thu trời quang mây tĩnh. Vua cho gọi những người thân tề tựu bên giường. Ngoài vợ con, c̣n có Trần Văn Kỷ, Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng. Vua nh́n mọi người căn dặn: Ta sinh thời chinh chiến, tàn sát biết bao sinh linh. Nay mệnh chung âu cũng bởi số trời. Phần Đại Hoàng Huynh chẳng biết lo xa, ham hưởng khoái lạc. Thái Tử thông minh nhưng mới lên mười, lấy chi hiểu chuyện nhà chuyện nước. Kẻ thù Nguyễn Ánh quá ư hiểm độc. Vậy sau khi ta mất, việc an táng chỉ đơn giản sơ sài. Các ngươi v́ nghĩa cả tận trung giúp Thái Tử giữ cơ đồ. Hăy nghe ta kíp dời đô ra Yên Trường Nghệ An khống chế thiên hạ. Nếu không, quân Gia Định tiến ra, các người sẽ không c̣n đất chôn thây.

Vua mất vừa tṛn tuổi bốn mươi. Sự nghiệp lỡ làng, hoài băo dở dang.

Vua Tây Sơn nghe tin sét đánh, ruột nát gan bào. Vua tức tốc dẫn ba trăm quân ra Phú Xuân mong nh́n em lần cuối. Đến Quảng Ngăi, quân vua bị Thái Úy Phạm Công Hưng ngăn lại. Hưng tâu vua nghiêm lệnh Thái Sư Bùi Đắc Tuyên cấm bất kỳ cuộc chuyển quân từ các nơi về kinh. Vua gạt lệ trở về. Thở than trời chẳng chiều ḷng người, Huệ mất tạo cơ may cho Nguyễn Ánh thoát hiểm.

Từ đó, mối sầu dằng dặc khôn nguôi, vua uống rượu giải sầu, sức khỏe hao ṃn, nhiều khi vua ho ra máu. Các ngự y chữa trị tận tâm nhưng bệnh không dứt được.

Tháng ba năm sau, năm Quư Sửu 1793. Nguyễn Ánh cho rằng Nguyễn Huệ chết sẽ không c̣n đối thủ đáng sợ, lập tức kéo thủy binh ra tấn công bắn phá cửa Thị Nại. Thái Tử Nguyễn Bảo con vua Tây Sơn cự không nổi phải rút về Qui Nhơn. Các tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Thành, Vơ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức tấn công B́nh Thuận, Nha Trang, Phú Yên.

Tháng tám, quân Nguyễn vây ngặt Qui Nhơn. Vua Tây Sơn đang bệnh nặng, thấy thế nguy cho người cầu cứu cháu là vua Cảnh Thịnh, kế vị Quang Trung. Cảnh Thịnh nhỏ dại, mọi việc một tay người cậu Thái Sư Bùi Đắc Tuyên quyết đoán. Tuyên tính nham hiểm, đa nghi.

Đă có chủ trương, Tuyên cử Thái Úy Phạm Công Hưng, Đại Tư Mă Ngô Văn Sở chỉ huy mười bảy vạn quân thủy bộ cùng tám mươi voi trận vào giải vây. Trước khi xuất quân, Tuyên đă mật lệnh cho Hưng sau khi giải vây sẽ chiếm luôn Qui Nhơn. Hưng nhận lệnh lên đường.

Thấy thế quân Phú Xuân c̣n mạnh, Nguyễn Ánh rút về Gia Định chờ cơ hội khác.

Thái Úy Hưng vào thành ngang nhiên ra lệnh kiểm kê và tịch biên kho tàng.

Vua Tây Sơn tức giận, cố gắng gượng dậy, đeo báu kiếm truyền thiết triều.

Ngồi trên ngai, nh́n thái độ ngạo nghễ của Hưng, vua uất ức hét lớn, thu hết tàn lực bước xuống. Thanh báu kiếm lóe sáng lao thẳng vào mặt tên hỗn xược. Hưng nhanh mắt tránh kịp. Báu kiếm rời tay vua rơi xuống nền nhà kêu loảng xoảng, vỡ vụn từng mảnh như thủy tinh, biến thành làn khói xanh bay mất.      Quần thần khiếp hăi. Vua ngă gục. Tả hữu vội chạy ào đến vực vua. Vua thổ huyết dầm dề. Măi khuya vua tỉnh. Đảo mắt mỏi mệt nh́n người thân vây quanh. Vua cười hiền hậu rồi nhắm nghiền mắt. Công danh sự nghiệp, hiển vinh phú quí chỉ là phù vân. Vua nhớ tự thuở áo vải, ba thước gươm dựng nghiệp. Những chiến tích, vơ công hiển hách nào khác chi một cuộc cờ trong lúc quá chén say sưa.

Vua cảm thấy rất rơ. Một luồng hơi mát từ dưới chân, hơi mát cứ đi dần lên, đến bụng, đến ngực, rồi bao trùm châu thân. Vua khoan khoái ch́m trong cảm giác dễ chịu tuyệt vời. Người chung quanh nhận ra vua như muốn nói điều ǵ nhưng không cất nên lời. Vua bất động.

Đó là đêm rằm tháng mười một năm Quư Sửu 1793. Trời đang trăng sáng bỗng mây đen cuồn cuộn kín trời, rồi mưa gào gió thét, sấm giăng chớp giật...

Có vị đại sư tự thuở thiếu thời chán cảnh hồng trần, ẩn ḿnh tu trong động đá trên đỉnh núi Ngang kể ngót trăm năm. Trước cơn thịnh nộ đất trời, sư động tâm nh́n ra ngoài. Một tia sét lóe tựa lưỡi dao chém ngang trên mộ phần hai đấng sinh thành vua Tây Sơn. Mộ sụp. Nước từ núi tràn xuống màu như nhuộm máu. Xa xa, sông Côn uốn ḿnh gào thét. Sư nghe như tiếng quân reo ngựa hí, tiếng trống trận dập dồn. Bóng vơ tướng cưỡi ngựa trắng bay vụt lên trời.

Sư buồn thở than: Ôi vận mệnh nước non c̣n nhiều phen trôi nổi. Long mạch đứt. Anh hùng tận. Tai ương bất trắc sẽ đổ trên đầu lương dân. Bao gia đ́nh phân ly tan tác. Đó là thời của hôn quân bạo chúa. Biết đến bao giờ... Một trăm năm.. Hai trăm năm... hay ba trăm năm sau. Nước Nam ta có thuở thái b́nh thịnh trị!...

Sáng hôm sau, trời quang gió lặng. Có cánh chim lẻ loi hót nghe năo ḷng.

Tây Sơn Đại Huynh. Vua Thái Đức đă từ trần.

 

 

ĐOẠN TÁI BÚT:

Sử sách sau ghi rằng: ”Sau khi vua Thái Đức mất, tướng Phú Xuân Phạm Công Hưng phế Thái Tử Nguyễn Bảo làm Hiếu Công, chỉ cho hưởng quyền thu thuế huyện Phù Ly làm đất ăn lộc. Sử gọi giai đoạn này là Tiểu Triều. Hoàng Hậu Trần Thị Huệ khóc nói với con: Công dựng nghiệp Tây Sơn là của cha. Nay người ta áp bức chỉ cho con ăn lộc một huyện, sống chịu nhục thà chết c̣n hơn.

Nguyễn Bảo nghe mẹ nói càng thêm uất ức. Ít lâu sau, Thái Sư Bùi Đắc Tuyên cho Bảo có ư phản, buộc uống thuốc độc chết.

Tại triều đ́nh Phú Xuân, Bùi Đắc Tuyên nắm quyền bính bắt đầu ra oai tác quái. Quần thần chia rẽ. Trung Thư Lệnh Trần Văn Kỷ phản kháng bị Tuyên cách chức đày ở trạm Hán Xuyên. Tổng Trấn Bắc Hà Vơ Văn Dũng cũng bị mất chức v́ Tuyên sợ Dũng sẽ phản. Dũng vốn là bạn thân của vua Tây Sơn tự thuở thiếu thời. Tuyên cử Tư Mă Ngô Văn Sở ra thay.

Dũng mất chức tức giận nhưng không có cách phản ứng. Trên đường về Phú Xuân, định mệnh khiến Dũng gặp lại Kỷ. Kỷ bị Tuyên lưu đày nhưng vốn túc kế đa mưu, Kỷ thề rửa hận. Gặp Dũng, Kỷ vờ thương cảm. Kỷ nói:

-Ông quyền uy bao trùm đất bắc, dày công hăn mă. Cớ sao ngang nhiên bị tước đoạt binh quyền?

Dũng nghe càng thêm giận. Mọi căm hờn đổ trên đầu Bùi Đắc Tuyên. Kỷ đổ dầu vào lửa:

-Ông liệu có nên về Phú Xuân. Cứ nh́n tôi th́ biết. Xưa Tiên Vương (chỉ Quang Trung) xử với tôi mười phần trọng đăi. Nay thân tàn ma dại chỉ v́ cưỡng lệnh Thái Sư. Thái Sư nay quyền uy, muốn tha ai giết ai tùy thích. Hắn lại chẳng ưa ǵ ông, coi ông như mối họa v́ ông là bạn thân cửa vua Thái Đức. Ông nhắm chống lại được chăng?

Đêm hôm ấy Dũng mất ngủ. Trằn trọc nghĩ suy, Vơ Văn Dũng nghĩ thà phụ người c̣n hơn để người phụ. Đến Phú Xuân, Dũng cấu kết với Thái Úy Phạm Công Hưng đem quân vây nhà bắt Bùi Đắc Tuyên, lại sai thủ hạ bắt luôn con Tuyên là Bùi Đắc Trụ. Hai cha con Tuyên bị Dũng d́m chết dưới sông Hương.

Vua Cảnh Thịnh gạt lệ khóc thầm.

Bấy giờ Trần Quang Diệu đang vây đánh quân Nguyễn tại Diên Khánh. Hay tin Phú Xuân rối loạn, Vơ Văn Dũng giết chết Thái Sư. Diệu tức giận. Cho rằng trong loạn th́ ngoài khó giết giặc. Diệu kéo quân về kinh quyết diệt loạn thần.

Được tin Diệu kéo quân về, Vơ Văn Dũng dàn quân theo bờ sông Hương quyết tử chiến. Vua Cảnh Thịnh khóc lóc xin hai tướng băi binh, dành sức diệt kẻ thù chung là Nguyễn Ánh.

Cuối cùng hai tướng giảng ḥa, cùng chia quyền lực.

Sau này, chính Trần Quang Diệu cũng bị vua ngờ vực tước đoạt binh quyền. Thế lực Tây Sơn suy yếu dọn sẵn cho Nguyễn Ánh con đường thênh thang đại thắng vào tháng năm năm Nhâm Tuất 1802.

Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long, dành cho các con vua Quang Trung, cả họ hàng nhà vua h́nh phạt trả thù tàn bạo độc ác nhất trong lịch sử dân tộc. Phanh thây xé xác.

Riêng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân, nhiều phen Gia Long dụ quy hàng. Cả hai nhất quyết không khuất phục hiên ngang chịu chết.

Cả nắm xương tàn của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc và Quang Trung Nguyễn Huệ cũng chẳng được ngủ yên trong cơi vĩnh hằng. Lăng tẩm bị khai quật. Xương cốt bị bẻ găy bỏ vào cối giă nát nguyền con cháu mai sau không thể cất cao đầu. Kẻ nào thoát được th́ cũng tàn mạt.

Đầu lâu của ba vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Toản bỏ trong ba chiếc ṿ bằng sành. Gia Long cho lính tiểu tiện vào các ṿ, rồi đậy kín đem xiềng trong ngục thất .

Hai mươi năm sau, đời vua Minh Mạng. Vua chưa nguôi thù hận, cho rằng xử phạt như vậy vẫn chưa đủ. Vua giam ba chiếc ṿ vào ngục tử tội truyền cấm cố măi măi...”

Dân kinh thành Huế c̣n truyền tụng nhiều điều linh thiêng xảy ra trong ngục nơi giam cầm “các ông ṿ”. Tù nhân cũng như cai ngục thường cầu các ông giáng phúc. Đám cung phi trong nội cung c̣n kể: Thỉnh thoảng từ trong chiếc ṿ chứa sọ vua Quang Trung, một làn khói tỏa biến thành con gà vàng ai trông cũng khiếp hăi. Quang Trung tuổi dậu.

Sau biến cố năm Ất Dậu 1885, kinh thành Huế thất thủ. Ba chiếc ṿ biến mất.

Có kẻ thấy trong đêm biến loạn, một người bí mật vào ngục thất mang ba chiếc ṿ phi ngựa chạy về hướng đông nam.

Triều đ́nh cố sức truy tầm không t́m ra manh mối. Ba chiếc ṿ biệt tăm....

Các vua nhà Nguyễn tạo thành tích trả thù ghê gớm: Giam các sọ người trong suốt tám mươi ba năm.

 

* ĐỖ HÙNG

 

 

 

 

 

 

 


 

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 



 

 

Your name:


Your email:


Your comments: