Thế
Chiến Thứ Nhất (1914-1918)
Phạm Văn Tuấn
Trong cuộc Chiến Tranh Thế Giới lần Thứ
Nhất 1914-18, các xứ thuộc địa đã ủng hộ các trung tâm đế quốc
trong khi các nước có liên hệ mậu dịch bị bắt buộc về phe Đồng
Minh (the Allies = the Triple Entente) hoặc theo phe Quyền Lực
Trung Âu (the Central Powers = the Triple Alliance). Cuộc chiến
tranh này đã mang tính toàn diện trong đó binh lính cũng như thủy
thủ và dân thường đều trực tiếp tham gia. Cuộc chiến tranh này đã
gây nên các cuộc cách mạng và các xung đột tàn sát trong tương
lai, đã tạo ra các thời kỳ bạo lực kéo dài trong suốt thế kỷ 20.
1/ Tình hình xung đột trước Thế Chiến.Vụ
ám sát Hầu Tước người Áo là nguyên nhân trực tiếp gây nên Thế
Chiến Thứ Nhất. Hầu Tước Francis Ferdinand (1863-1914) sắp trở nên
Hoàng Đế của đế quốc Áo-Hung. Vị quân vương đang trị vì là Francis
Joseph (1830-1916, trị vì 1848-1916) đã ngồi trên ngai vàng trong
84 năm và không rõ còn sống được bao lâu. Vụ ám sát người kế
nghiệp nhà vua này vì thế được coi là cuộc tấn công vào đế quốc
Áo-Hung. Kẻ sát nhân là một sinh viên người Bosnia tên là Gravilo
Princip, thuộc nhóm quốc gia Serbian.
Ám sát vợ chồng Hầu Tước Ferdinand -
Assassination of Archduke Franz Ferdinand
Mặc dù vụ ám sát xẩy ra vào ngày
28/6/1914 tại Sarajevo, thủ đô của xứ Bosnia, nhưng đây là một âm
mưu từ Belgrade, thủ đô của xứ Serbia, tổ chức do Dragutin
Dimitrijevic, trưởng ban tình báo của nước Serbia. Các kẻ âm mưu
thuộc một hội kín có tên là “Đoàn Kết hay là Chết” (Union or
Death), thường được gọi là “Nhóm Bàn Tay Đen” (the Black Hand).
Việc chống đối hầu tước Francis Ferdinad là do vị này ủng hộ một
chương trình tổ chức lại đế quốc Habsburg thành một vương quốc ba
thành phần (a triple monarchy). Ngoài xứ Áo với dân Đức
(German Austria) và xứ Magyar Hungary đã tự trị, còn có một miền
đất bán độc lập dành cho sắc dân Slavs. Các người quốc gia cực
đoan Serbian đã chống lại chương trình kể trên bởi vì họ sợ rằng
các sắc dân bà con với họ là Slovene và Croatian sẽ ở dưới quyền
cai trị của triều đình Habsburg, như vậy sau này sẽ cản trở việc
thành lập một xứ sở Serbia lớn hơn. Vì vậy họ đã ám sát hầu tước
Francis Ferdinand trước khi vị này trở nên Hoàng Đế và thực hiện
chương trình cải tổ.
Trong nhiều năm, các nhà
lãnh đạo Áo vẫn muốn chấm dứt các xáo trộn vì ý định thành lập một
liên hiệp các người Slavs tại miền nam châu Âu. Bá tước người Áo
Leopold von Berchtold lý luận rằng nay là cơ hội để đè bẹp xứ
Serbia. Vào thời gian này, nước Áo chỉ có một đồng minh là nước
Đức và nếu quyền lực và uy tín của nước Áo giảm đi thì nền an ninh
của nước Đức cũng bị đe dọa, vì vậy người Đức quyết định yểm trợ
người Áo trong việc dùng võ lực và cả hai nước Áo và Đức đều muốn
thanh toán ngay xứ Serbia trước khi các quốc gia khác bị lôi cuốn
vào cuộc xung đột.
Trước vụ ám sát, các người
Áo tin rằng chính quyền Serbia đứng đằng sau vụ này nhưng họ đã
chờ đợi hơn 3 tuần lễ trước khi hành động. Sở dĩ có việc trì hoãn
bởi vì nước Áo không biết phải giải quyết vụ này ra sao, một phần
khác cũng vì họ chỉ muốn động viên quân lực sau vụ thu hoạch mùa
màng. Vào ngày 23/7/1914, chính quyền Áo gửi một tối hậu thư cho
xứ Serbia, bắt buộc phải trả lời trong 48 giờ. Trong 11 điều đòi
hỏi có các khoản sau: xứ Serbia phải đóng cửa các tờ báo chống lại
nước Áo, dẹp bỏ các hội kín ái quốc, loại khỏi chính quyền và quân
đội mọi nhân viên tham gia phong trào chống nước Áo và chấp nhận
việc cộng tác với các viên chức Áo trong việc loại trừ phong trào
chống lại đế quốc Habsburg.
Hai ngày hôm sau, chính
quyền Serbia trả lời. Trong tổng số 11 đòi hỏi, một điều kiện bị
từ chối, 5 điều kiện được chấp nhận hoàn toàn. Nhưng chính quyền
Áo công bố rằng việc trả lời của xứ Serbia không thỏa mãn, nên họ
đã động viên một phần binh lực và gây khó khăn cho các quan hệ
ngoại giao. Về phía người Serbian, họ đã ra lệnh động viên trước
khi gửi đi bản trả lời.
Sự khó khăn của nước Áo
trước việc trả lời của xứ Serbia là do tình hình gay gắt của các
nước thuộc châu Âu trước khi có vụ ám sát xẩy ra. Vào lúc này,
nước Nga e sợ rằng việc quân Áo đánh chiếm xứ Serbia sẽ là bước
đầu của một chương trình chinh phục vùng Balkans của hai nước Áo
và Đức. Việc bành trướng thế lực như vậy tại một miền đất gần nước
Nga là một điều không thể chấp nhận đối với chính quyền của Sa
hoàng. Hơn nữa, nước Nga đã thất bại nhiều lần, chẳng hạn cuộc bại
trận vào năm 1905 trước Hải Quân Nhật Bản, cho nên không thể mềm
yếu hơn nữa. Nếu nước Đức giúp cho nước Áo thì nước Nga không thể
bỏ rơi xứ Serbia.
Vào ngày 18/7/1914, bộ
trưởng Ngoại Giao Nga là Sergei Sazonov (1861-1927) đã cảnh cáo
nước Áo là nước Nga không để cho xứ Serbia bị làm nhục. Qua ngày
24/7, ông Sazonov báo cho viên Đại Sứ Đức: “Tôi không ghét nước
Áo, tôi khinh bỉ nước đó. Nước Áo đang tìm cớ để nuốt xứ Serbia
nhưng trong trường hợp này, nước Nga sẽ đánh nước Áo”. Nước Nga đã
được nước Pháp yểm trợ. Vào ngày 20/7, Tổng Thống của nước Pháp là
Raymond Poincaré (1860-1934) đã thăm viếng St. Petersburg để giúp
cho nước Nga “cứng rắn” trong việc giải quyết rắc rối, để tránh sự
hòa giải nào mang lại sự mất uy tín cho khối Đồng Minh và đã cảnh
cáo viên Đại Sứ Áo rằng “Xứ Serbia là bạn rất thân của nước Nga và
nước Nga là một đồng minh của nước Pháp”.
Trong các ngày quan trọng
này, thái độ của nước Đức rất mơ hồ. Mặc dù Hoàng Đế Đức bị xúc
động và giận dữ vì vụ ám sát, chính quyền Đức đã không hề đe dọa
cho tới khi có các hành động của nước Nga. Cả hai Hoàng Đế Đức
William II và Thủ Tướng Theobald von Bethmann-Hollweg (1856-1921)
đều chấp nhận phải trừng phạt nặng nề xứ Serbia sớm và Hoàng Đế
Đức công bố vào ngày 30/6 rằng “Ngay bây giờ phải sớm làm sáng tỏ
với người Serbian”. Vào ngày 6/7, Thủ Tướng Bethmann-Hollweg đã
cam kết với Bộ Trưởng Ngoại Giao Áo, sự cam kết này bị coi như
hoàn toàn. Chính quyền Áo được thông báo rằng Hoàng Đế Đức sẽ
“đứng bên cạnh nước Áo chiếu theo sự bắt buộc vì thỏa ước và vì
tình bạn cũ”. Người Đức rõ ràng hy vọng rằng do hành động trừng
phạt sớm chống lại xứ Serbia, nước Áo có thể đối phó với xứ Serbia
trước khi nước Nga và đồng minh có thể động viên theo ngoại giao
hay quân sự.
Ngày 28/7/1914, nước Áo
tuyên chiến với xứ Serbia. Sự xung đột này có thể bị hạn chế nhưng
đã sớm biến thành một cuộc chiến tranh rộng lớn do hành động của
nước Nga. Trước đó 4 ngày, ngày 24/7, chính quyền Nga đã quyết
định phản ứng lại bất cứ hành động quân sự nào của nước Áo đối với
xứ Serbia bằng một cuộc động viên từng phần. Qua ngày 30/7, ông
Sazonov và nhóm quân sự chủ chiến đã thuyết phục được Sa Hoàng
Nicholas II ra lệnh tổng động viên mọi quân đội, không chỉ để
chống lại nước Áo mà chống cả nước Đức, bởi vì một đất nước rộng
lớn như nước Nga đòi hỏi rất nhiều thời gian để làm chạy guồng máy
quân sự.
Nicholas II, Sa Hoàng cuối
cùng của Nga, bị thoái vị vào ngày 2/3/1917
Trước tình thế nghiêm trọng này, không
còn cách nào lùi trở lại. Người Đức đã được báo động rằng người
Nga đang chuẩn bị chiến tranh bởi vì công cuộc tổng động viên có
nghĩa là chiến tranh. Chính quyền Đức bèn gửi tới St. Petersburg
của nước Nga một tối hậu thư đòi hỏi phải ngưng ngay lệnh động
viên trong 24 giờ. Vào buổi chiều ngày 01 tháng 8, Đại Sứ Đức xin
gặp mặt Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga, yêu cầu ông Sazonov trả lời một
cách thuận lợi đối với tối hậu thư của Đức. Ông Sazonov đã cho
biết rằng không thể ngừng lại lệnh động viên được nhưng nước Nga
sẵn lòng tiếp tục thương thuyết. Vị Đại Sứ Đức đã nhắc lại ba lần
hậu quả khủng khiếp của lời bác bỏ nhưng ông Sazonov đã cuối cùng
trả lời rằng: “Tôi không có câu trả lời nào khác dành cho ông”.
Sau đó vị Đại Sứ Đức giao cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga bản tuyên
chiến rồi bật khóc và rời phòng họp. Cùng thời gian đó, Bộ Trưởng
của Hoàng Đế Đức cũng giao cho nước Pháp bản tối hậu thư, đòi nước
Pháp cho biết rõ ý định. Thủ Tướng Pháp René Viviani (1863-1925)
trả lời vào ngày 01/8 rằng nước Pháp sẽ “hành động theo quyền lợi
của mình” và ngay lập tức, ra lệnh tổng động viên quân lực. Ngày
03/8, nước Đức tuyên chiến với nước Pháp.
Tất cả các diễn tiến kể trên
đã làm lu mờ các cố gắng của ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Anh, Sir
Edward Grey (1862-1933), trong công cuộc triệu tập một hội nghị để
dàn xếp vụ Áo-Serbia. Có lẽ nếu nước Anh tuyên bố sẵn sàng về phe
với nước Pháp và nước Nga sớm hơn, thì sự việc này đã khiến cho
nước Đức và nước Áo phải chùn bước. Nhưng Thủ Tướng Grey không
biết chắc rằng nước Anh có sẵn sàng chiến đấu không, nên đã không
cam đoan gì cả. Nước Anh đã hứa sẽ gửi một lực lượng viễn chinh
qua đất Pháp trong trường hợp chiến tranh nhưng dân chúng Anh
không biết rõ điểm này. Dư luận tại nước Anh vì thế chia hai: khối
Bảo Thủ thiên về chiến tranh, khối Cấp Tiến đang cầm quyền bị chia
rẽ nội bộ còn khối Lao Động phản chiến. Nhưng cả hai Bộ Trưởng
Ngoại Giao Grey và Thủ Tướng Herbert Asquith (1852-1928) đều muốn
nước Anh tuyên chiến, rồi vụ nước Đức xâm lăng nước Bỉ trung lập,
đã được Quốc Hội Anh và dân chúng ủng hộ việc phải can thiệp.
Trước kia vào năm 1839, nước Anh cùng
với các cường quốc khác đã ký một hiệp ước bảo đảm sự trung lập
của nước Bỉ, ngoài ra chính sách trong hơn một thế kỷ của nước Anh
là chống đối việc thống trị miền tây của châu Âu. Nước Anh trước
kia đã đánh nhau với Hoàng Đế Napoléon để cản trở nước Pháp làm
chủ châu Âu, ngày nay họ e sợ nước Đức vì cùng một lý do. Bất cứ
một cường quốc nào thống trị miền đất Bỉ-Hòa Lan nằm ngang qua eo
biển Channel đều là mối đe dọa đối với nước Anh và hơn nữa, các
nhà quân sự Anh và Pháp đã có các kế hoạch chung khiến cho nếu
nước Pháp bị tấn công thì nước Anh không thể đứng trung lập bên
ngoài.
Quân đội Đức thời Thế Chiến I
Vào thời gian này, người Đức muốn tấn
công nước Pháp qua nước Bỉ, họ đã xin phép chính quyền Bỉ cho binh
lính đi qua lãnh thổ, hứa sẽ tôn trọng sự độc lập và hoàn trả bồi
thường các thiệt hại sẽ gây ra. Khi nước Bỉ từ chối, các đạo quân
Đức đã tràn qua biên giới. Ngay lập tức Bộ Trưởng Ngoại Giao Anh
ra trước Quốc Hội, kêu gọi nước Anh phải bảo vệ luật lệ quốc tế và
che chở các nước nhỏ. Ngày hôm sau, 4/8/1914, Quốc Hội Anh gửi một
tối hậu thư tới Berlin, đòi hỏi nước Đức phải tôn trọng tính trung
lập của nước Bỉ và phải trả lời thỏa đáng trước nửa đêm. Các Bộ
Trưởng Đức đã không trả lời, viện cớ rằng binh lính Đức phải tiến
tới nước Pháp bằng con đường ngắn nhất. Khi đúng 12 giờ, nước Anh
và nước Đức chính thức chiến tranh với nhau.
Các nước khác cũng sớm bị lôi cuốn vào
vòng chinh chiến. Ngày 7/8, người Montenegrins hợp tác với người
Serbs thân thuộc để chống lại người Áo. Hai tuần lễ sau, Nhật Bản
tuyên chiến với Đức, một phần vì là đồng minh của nước Anh nhưng
chủ đích chính của Nhật Bản là chiếm đoạt tài sản của nước Đức tại
miền Viễn Đông. Qua ngày 01/8, Thổ Nhĩ Kỳ thương thuyết hợp tác
với Đức rồi trong tháng 8, dội bom các hải cảng của Nga trên Biển
Đen (the Black Sea). Nước Ý, mặc dù là một thành phần trong nhóm
Quyền Lực Trung Âu (the Triple Alliance), đã tuyên bố trung lập
cho tới tháng 5/1915 thì tham dự cuộc chiến, theo phe Đồng Minh.
2/ Trận chiến diễn ra.
Quân Anh lúc gần bắt đầu Thế Chiến I
Khi cuộc chiến sắp xẩy ra, đã có các đám
đông dân chúng tập họp trong các thành phố, biểu tình để bày tỏ
lòng trung thành với đất nước và sẵn sàng chiến đấu. Chiến tranh
với tính bạo lực của nó có vẻ như đang tạo nên một lối thoát cho
cuộc sống buồn tẻ và trống rỗng của thứ xã hội tư sản đương thời
và theo như lời của thi sĩ Rupert Brook người Anh, “một thế giới
đang già đi, lạnh lẽo và mệt mỏi”. Đối với một số người, chiến
tranh mang lại cái thời “cao đẹp… linh thiêng” (a beautiful…
sacred moment). Vào lúc này, tinh thần ái quốc đang chế ngự tâm
hồn mọi người tại châu Âu, hàng triệu người muốn hy sinh bản thân
và linh hồn cho đất nước bởi vì trong vài thập niên vừa qua, nền
giáo dục do chính quyền chủ trương đã tạo nên các huyền thoại, các
niềm tin và thái độ của chủ nghĩa dân tộc (nationalism).
Tại thành phố Paris, nam giới đi trên
các đại lộ ca hát bản “Marseillaise” trong khi nữ giới tặng hoa
cho các binh lính trẻ. Có người đã ghi lại hoàn cảnh này như sau:
“các người nam trẻ hay già, dân sự hay quân sự, đều hào hứng. Hàng
ngàn người tình nguyện chiến đấu, đã xô đẩy nhau trước các văn
phòng tuyển quân. Danh từ “nghĩa vụ” đang có ý nghĩa cao đẹp và
danh từ “đất nước” mang tính chất rực rỡ. Lưỡi gươm đặt vào trong
long bàn tay của chúng ta không thể tra vào bao khi mục tiêu chưa
chiếm được và lãnh thổ của chúng ta chưa trải dài như cần thiết”.
Dân chúng Âu Châu đang nóng ruột trông
chờ Thế Chiến I bắt đầu
Tại nước Đức, các người trẻ cũng trông
đợi thứ hành động cao thượng và vị tha để kinh nghiệm về cuộc đời
vào giai đoạn căng thẳng nhất và giành lấy vinh quang. Vào tháng
11/1914, nhà văn danh tiếng người Đức là Thomas Mann cũng đã coi
chiến tranh là một cơ hội tẩy sạch (purification) và giải phóng
(liberation). Đối với một số nhà trí thức khác, chiến tranh tái
tạo quốc gia về mặt tinh thần, làm sống lại vẻ vinh quang, sự cao
thượng và tính anh hùng, cũng vì vậy thế hệ trẻ của châu Âu vào
thời gian này rất vui vẻ đi ra trận mạc, mà ít người biết trước
được rằng Thế Chiến Thứ Nhất sau 4 năm đã trở thành một cuộc tàn
sát man rợ, vô nghĩa.
Trong các ngày sôi động này, nhà toán
học kiêm triết gia người Anh Bertrand Russell đã nhớ lại nỗi kinh
hoàng và ngạc nhiên khi “người dân thường, đàn ông cũng như đàn
bà, lại hân hoan trước viễn tượng chiến tranh. Cảnh chém giết đã
làm vui sướng 90 phần trăm dân số khiến tôi phải xét lại quan điểm
của tôi về bản chất con người”.
Bởi vì trận chiến này mang tính toàn
diện, đòi hỏi sự ủng hộ của toàn thể dân chúng nên các nhà lãnh
đạo các nước đã bắt buộc phải mô tả cuộc chiến là cuộc xung đột
cao thượng (noble conflict) mà không phải là sự tranh giành giữa
các thế lực đế quốc hay là kết quả của các cách ghen tỵ quốc gia.
Phe Xã Hội Đệ Nhị Quốc Tế (the socialist Second International)
tuyên bố rằng các công nhân nên phản đối việc cầm vũ khí bằng cách
tổng đình công. Mặc dù không một đảng xã hội nào của châu Âu chú ý
tới lời kêu gọi này, các chính phủ đã e sợ sự chống chiến tranh từ
phía dưới, nên đã không ngừng động viên dân chúng bằng tinh thần
ái quốc. Công tác tuyên truyền đã trở nên một thứ võ khí, giống
như súng máy. Công tác này của phe Đồng Minh trở nên dễ dàng hơn
sau khi quân Đức tàn sát các con tin dân sự người Bỉ, phá hủy một
thư viện cổ tại Louvain và giết hại hơn 600 dân sự tại Dinant.
Vào ngày 6/8/1914, Thủ Tướng Anh Asquith
công bố rằng nước Anh phải tham gia vào trận chiến để bảo vệ
“nguyên tắc theo đó các nước nhỏ không thể bị đè bẹp bởi việc làm
tùy tiện của một lực lượng mạnh và áp đảo”. Tại nước Pháp, Tổng
Thống Raymond Poincaré trấn an dân chúng rằng nước Pháp chỉ có mục
đích đứng lên vì “Tự Do, Công Lý và Lẽ Phải” (Liberty, Justice &
Reason). Sau đó là các nhà văn như H.G. Wells và Gilbert Murray
cũng như Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson, cho rằng lực lượng Đồng
Minh tham chiến vì chống lại chế độ quân phiệt (militarism). Về
phe Đức, chính quyền này trình bày với dân chúng rằng đây một cuộc
thánh chiến vì nền văn hóa cao đẹp hơn của dân tộc Đức và để bảo
vệ Đất Tổ khỏi cảnh bao vây của các quốc gia Đồng Minh, còn các
nhà chính trị xã hội Đức được khuyên cáo rằng cuộc chiến tranh của
Đức với Nga sẽ giải phóng dân chúng Nga khỏi gông cùm của Sa
Hoàng.
Đầu tiên, các chuyên viên
quân sự tin tưởng rằng Thế Chiến Thứ Nhất sẽ sớm kết thúc nhưng
trái lại, trận tuyến đã kéo dài từ nước Thụy Sĩ tới Biển Bắc (the
North Sea) trong 4 năm trường. Khởi đầu vào ngày 4/8/1914, quân
Đức xâm lăng nước Bỉ theo kế hoạch năm 1905 của tướng Alfred von
Schlieffen (1833-1913). Chiến thuật của viên tướng này muốn quân
Áo cầm chân quân Nga, trong khi đó quân Đức đánh mạnh vào sườn
quân Pháp, bao vây rồi tiêu diệt, rồi sau đó quân Đức sẽ cùng quân
Áo đánh bại quân Nga. Người Đức tin tưởng rằng nhờ tinh thần cao
và tài năng chiến đấu, họ có thể đánh bại người Pháp sau 2 tháng
hay sớm hơn.
Chiến thuật của quân Pháp là
tiến đánh Alsace và Lorraine và chỉ dùng thế công, nhưng họ đã gặp
thất bại do sự bất tài của các tướng lãnh Pháp đã không biết thay
đổi binh pháp. Binh lính Pháp đã không biết ẩn núp, không dùng
cách tấn công bất ngờ, lại mặc đồng phục đỏ hay xanh, dễ dàng trở
thành mục tiêu cho nhiều hàng súng máy của quân đội Đức và kết quả
là binh lính Pháp đã ngã chết hàng loạt. Sáu tuần lễ sau khi chiến
tranh bắt đầu, số tổn thất của quân Pháp là 385,000 người, kể cả
100,000 người chết.
Mặt khác, quân đội Đức cũng
bị ngăn trở do quân Nga đánh sang miền Đông Phổ, khiến cho tướng
Helmuth von Moltke phải chuyển bớt binh lực qua miền đông. Vào đầu
tháng 9/1914, quân Đức đã tiến tới dòng sông Marne, cách thủ đô
Paris 40 dặm thì bắt đầu thiếu tiếp liệu. Quân Anh cùng quân Pháp
đánh vào cạnh sườn quân Đức khiến cho đạo quân này phải rút lui,
thủ đô Paris không bị nguy hại. Các trận đánh bên sườn đã khiến
cho cả hai phe phải củng cố các tuyến hầm hố trên trận địa.
Vào đầu cuộc chiến, cách bảo
vệ tuyến phòng thủ bằng các hàng rào kẽm gai và súng máy đã là một
ưu điểm. Các hầm hố đào ngầm cả dưới mặt đất, được che chở bằng
các hàng rào kẽm gai, nằm giữa hai chiến tuyến là “vùng đất không
người”, chỉ có bùn đất, cây cối đổ gẫy ngả nghiêng và các xác
người thối rữa. Nơi đây là mặt trận về cân não, sức chịu đựng,
lòng cam đảm và là nơi tàn sát hàng loạt do các đợt pháo kích từ
cả hai phía. Sự anh hùng, hy sinh và cảnh chết chóc chẳng mang lại
ích lợi gì. Vào năm 1915, quân Pháp đã tấn công quân Đức theo
nhiều mặt trận mà không tiến xa được 3 dặm trong khi chịu thiệt
hại 1,430,000 người.
Một thứ võ khí để công phá phòng tuyến
là xe tăng chỉ được đưa vào mặt trận vào năm 1916. Máy bay lúc đầu
được dùng để thám thính, đôi khi cũng có các trận không chiến.
Người Đức cũng gửi đi các khinh khí cầu Zepperlin để oanh tạc
thành phố London nhưng thiệt hại gây ra không đáng kể.
Trên mặt trận miền Tây, các binh lính
thuộc cả hai phe đã trải qua cuộc sống buồn tẻ trong các hầm hố
bùn lầy và dơ bẩn, thỉnh thoảng gặp các cơn ác mộng vì đạn đại
bác, đạn súng máy, lựu đạn, súng phun lửa và khí độc, trong khi
trận chiến không ý nghĩa vẫn diễn ra đối với cả hai bên. Vào tháng
2/1916, do muốn bắt buộc quân Pháp phải đầu hàng vì thiệt hại quá
cao, binh lực Đức đã đánh phá tỉnh Verdun, nhưng nhờ tài lãnh đạo
của tướng Henri Philippe Pétain, nhờ lòng dũng cảm của Bộ Binh
Pháp và nhờ các pháo đài kiên cố, quân Pháp vẫn đứng vững cho tới
ngày 1/7/1916, khi quân Anh mở cuộc tấn công chính thì quân Đức
phải giảm áp lực tại mặt trận này. Verdun là chiến địa đẫm máu
nhất trong Thế Chiến Thứ Nhất, nước Pháp và nước Đức đã chịu thiệt
hại tại nơi này hơn 1 triệu người.
Quân Anh trong chiến hào trước khi tiến
công trong ngày đầu tiên của trận Somme (Battle of the Somme, on
July 1, 1916)
Từ cuối tháng 6/1916, quân Anh với quân
Pháp hỗ trợ, đã tiến đánh phòng tuyến Đức tại dòng sông Somme. Sau
7 ngày oanh tạc thật nặng các vị trí Đức, binh lính Anh đã tiến
sang “vùng đất không người” và đã bị súng máy của Đức tập trung
hỏa lực, tàn sát khủng khiếp, những binh sĩ nào tới sát hàng rào
thì bị đâm bằng lưỡi lê. Trong số 110,000 lính tấn công, 60,000 bị
chết hoặc bị thương. Đây là tổn thất cao nhất trong một ngày của
binh lực Anh, cao hơn tất cả các binh lực khác trong thời Thế
Chiến này. Trận đánh La Somme kết thúc vào cuối tháng 11/1916 với
số thiệt hại là 500 ngàn quân Đức, 400 ngàn quân Anh và 200 ngàn
quân Pháp mà chỉ tiến được 7 dặm.
Vào tháng 12/1916, vị Tư Lệnh mới của
binh lực Pháp là tướng Robert Nivelle đã ban ra một lệnh tấn công
đại quy mô thực hiện vào tháng 4/1917. Quân Đức đã bắt được kế
hoạch hành quân trong tử thi của một sĩ quan Pháp nên đã rút lui
về một địa điểm cao được phòng thủ kiên cố. Dù cho mất đi tính bất
ngờ, tướng Nivelle vẫn ra lệnh tấn công với kết quả là một cuộc
thảm sát, sau 10 ngày số thiệt hại của quân Pháp lên tới 187,000
người.
Tới lúc này, các người lính Pháp không
thể chịu đựng lâu hơn được nữa do các thất trận và thất vọng, họ
đã nổi loạn, từ chối tiến vào bãi chiến trường, chống đối các viên
chỉ huy của họ đã dẫn họ như các đàn cừu vào các lò sát sinh, một
số đơn vị giành lấy doanh trại, bắn các cấp chỉ huy đã can thiệp
vào công việc của họ. Vài toán quân khác chiếm các toa xe lửa để
về thủ đô Paris, khích động dân chúng chống chiến tranh. Quân đội
Pháp gần đi tới tình trạng tan hàng và chỉ cần một trận tấn công
nhỏ của quân Đức cũng đủ khiến cho thủ đô Paris thất thủ. Nhưng
Tướng Pétain, vị anh hùng trong trận Verdun, đã thay thế Tướng
Nivelle, đã làm gia tăng tinh thần quân đội do ông cho họ nghỉ
thêm ngày phép, cải thiện bữa ăn, khiến nơi nghỉ ngơi đầy đủ tiện
nghi hơn, ra lệnh cho các sĩ quan phải chăm sóc tận tình các binh
sĩ dưới quyền và thông báo rằng rất đông quân lính Hoa Kỳ sắp sang
tiếp viện, tất cả các hành động kể trên cộng với các hình phạt
nặng nề, đã duy trì được kỷ luật cho quân đội Pháp.
Bộ binh Hoàng gia Nga của Thế Chiến Thứ
Nhất trang bị súng trường Mosin-Nagant
Trở về mặt trận phía đông, quân đội Nga
dù chưa được chuẩn bị kỹ càng, vẫn tấn công miền Đông Phổ. Bị thất
bại trong trận Tannenberg ngày 26-30 tháng 8 năm 1914, quân Nga
rút lui dần, qua mùa xuân năm 1915, họ rời bỏ miền Galicia và phần
lớn nước Ba Lan. Trong khi đó quân Áo đã không thắng nổi tại xứ
Serbia, khiến cho quân Đức phải tiếp cứu và chịu đựng hai mặt
trận.
Qua tháng 6/1916, quân Nga tấn công vào
phòng tuyến quân Áo rồi sau đó bị quân Đức phản công, quân Nga bị
thiệt hại hơn một triệu người. Sự thất trận này đã khiến cho tình
hình trong xứ càng trở nên bất ổn và bùng nổ thành cuộc cách mạng.
Sa Hoàng Nicholas II phải thoái vị. Tới tháng 11/1917, một cuộc
cách mạng thứ hai đã đưa các người Cộng Sản lên nắm chính quyền
rồi qua tháng 3/1918, các người Bolshevics đã ký kết với nước Đức
hiệp ước Brest-Litovsk, chịu nhường cho Đức xứ Ba Lan, miền
Ukraine, xứ Phần Lan và các xứ sở quanh Biển Baltic.
Cũng tại mặt trận phía đông, phe Đồng
Minh muốn chiếm eo biển Dardanelles nên đã đổ quân lên bán đảo
Gallipoli, nơi có quân Đức và quân Phổ trấn giữ. Kết quả của mặt
trận này trong thời gian 1915-16 là phe Đồng Minh chịu thiệt hại
252,000 lính. Vào tháng 5/1915, người Ý tham gia vào phía Đồng
Minh để đánh Đức và Áo tại mặt trận Caporetto, đã bị bắt 275,000
tù binh.
1917 là năm thảm họa cho lực lượng Đồng
Minh. Cuộc tấn công của Tướng Nivelle đã gặp thất bại, quân Pháp
nổi loạn, quân Anh phản công tại Passchendaele không kết quả mà
còn chịu thêm 300,000 tổn thất, số tử vong của cả hai phía lên tới
hàng triệu. Cuộc chiến đã bước sang tình trạng bế tắc, với tổn hại
rất đáng kinh sợ vì tính tiêu hao của cách tàn sát, bởi vì hàng
ngàn chiến binh với súng trường, lựu đạn và lưỡi lê đã xung phong
mà chỉ chiếm được vài chục thước đất.
Các tổn thất lớn lao kể trên đã khiến
cho cả hai phe muốn thương thuyết trong khi một số người cứng rắn
muốn áp lực thêm để chiến thắng và họ đã thay đổi cấp lãnh đạo.
Tại nước Anh, vị Thủ Tướng bất lực Asquith bị thay thế bởi ông
David Lloyd George, một nhà chính trị gian hùng, là người đã đứng
đằng sau các cải tổ xã hội trước thời chiến. Tại Pháp vào năm sau,
ông Georges Clemenceau (1841-1929) lãnh chức Thủ Tướng để chống
lại phe chủ hòa trong giới quân sự cao cấp. Tại nước Đức, quyền
lực vào tay của các Tướng Paul von Hindenburg (1847-1934) và Erich
Ludendorff (1865-1937) là những người chịu trách nhiệm về các
chiến thuật của phe Quyền Lực Trung Tâm (the Central Powers),
trong khi đó do các phong tỏa của khối Đồng Minh, dân chúng Đức và
binh lính đã bị thiếu thốn cả về nguyên liệu lẫn thực phẩm.
Khi chiến tranh kéo dài, vài nước khác
cũng tham dự vào vòng chiến. Nước Ý được các nước Đồng Minh hứa
cho các phần đất của Áo và phần bờ biển phía đông của miền biển
Adriatic. Bulgaria theo phe Đức vào tháng 8 năm 1915 còn Rumania
theo phe Đồng Minh một năm sau. Chỉ tới khi Hoa Kỳ can thiệp vào
cuộc chiến của phe Đồng Minh vào tháng 4/1917 thì cán cân mới
nghiêng lệch đi.
Quân đội Hoa Kỳ sang Âu Châu tham gia
Thế ChiếnThứ Nhất
Theo lời của Tổng Thống Woodrow Wilson,
Hoa Kỳ tham chiến để làm cho thế giới “an toàn hơn vì nền dân
chủ”, để loại đi chế độ độc tài và quân phiệt, và để thiết lập một
hiệp hội các quốc gia thay thế cho các cách vận động ngoại giao
cũ. Chắc chắn rằng lý do chính của việc tham dự của Hoa Kỳ là để
cân bằng lực lượng quốc tế. Đã từ nhiều năm, giới ngoại giao và
quân sự của Hoa Kỳ theo chủ trương chính rằng nền an ninh của Hoa
Kỳ lệ thuộc vào sự cân bằng các lực lượng tại châu Âu. Ngày nào mà
nước Anh còn đủ mạnh để không cho một nước nào của châu Âu chiếm
ưu thế, thì Hoa Kỳ còn được an toàn, bởi vì Hải Quân Anh đã là một
thứ lá chắn. Tới ngày này, nước Đức không chỉ đối đầu với ưu thế
của Hải Quân Anh mà còn đe dọa làm đói nước Anh khiến cho phải đầu
hàng và rồi nước Đúc sẽ thiết lập quyền lực trên khắp châu Âu.
Lý do trực tiếp khiến cho Hoa Kỳ tham
chiến là chiến thuật tầu ngầm của Đức. Khi người Đức nhận ra rằng
đây là cuộc chiến tranh tiêu hao, nếu họ không phá được vòng phong
tỏa do các tầu biển của phe Đồng Minh, thì họ sẽ thua trận. Vào
tháng 2/1915, chính quyền Đức công bố rằng các con tầu biển trung
lập nào đi về các hải cảng của nước Anh sẽ bị phóng thủy lôi mà
không cần báo trước.
Tổng Thống Wilson trả lời bằng cách công
bố rằng nước Đức phải chịu trách nhiệm nếu làm thiệt hại nhân mạng
và tài sản của người Mỹ, lời cảnh cáo này làm cho Hải Quân Đức tạm
thời ngưng dùng tầu ngầm trong khi đó, người Đức lại tin tưởng tầu
ngầm loại U là thứ võ khí giá trị nhất, đáng sử dụng đối với cuộc
phong tỏa của người Anh. Họ còn biết rằng các vật liệu chiến tranh
đang được đưa lén lút bằng tầu biển chở hành khách từ Hoa Kỳ, nên
Hải Quân Đức lại tiếp tục đánh chìm các con tầu Đồng Minh và như
vậy vi phạm tính trung lập của Hoa Kỳ. Ngày 1/2/1917, khi một Bộ
Trưởng Đức công bố sẽ dùng chiến tranh tầu ngầm không giới hạn,
Tổng Thống Wilson đã cắt đứt ngoại giao với nước Đức. Ngày 6 tháng
4 năm đó, ông Wilson ra trước Quốc Hội, xin tuyên chiến và đã được
chấp nhận.
Ba tuần lễ sau khi Hoa Kỳ
cắt đứt ngoại giao với nước Đức, giới chức Anh đã giao cho Hoa Kỳ
một bản tin giải mã do tình báo Anh, của Bộ Trưởng Ngoại Giao Đức
là Arthur Zimmerman gửi cho Đại Sứ Đức tại Mexico City trong đó
nước Đức hứa với nước Mễ Tây Cơ rằng nếu cùng tham chiến với Đức,
Mễ Tây Cơ sẽ nhận được các vùng đất Texas, New Mexico và Arizona.
Đề nghị này của người Đức càng làm gia tăng tinh thần chống Đức
tại Hoa Kỳ và kết quả tức thời của việc tham chiến của Hoa Kỳ là
số lượng vật liệu chiến tranh và thực phẩm gia tăng cho phe Đồng
Minh, rồi sau này là quân số, tất cả được chuyên chở bằng các đoàn
tầu biển có hộ tống băng qua Đại Tây Dương. Các con tầu chiến mới
được chế tạo đã thay thế số thiệt hại khiến cho chiến thuật dùng
tầu ngầm của Đức đã bị hóa giải.
Kaiserschlacht, 1918 (the
Emperor’s Battle). - Đây là trận chiến cuối cùng và là một trong
những trận chiến đẫm máu nhất của Thế Chiến Thứ I, đã giết chết
240.000 binh sĩ Đức trên trận địa
Sau khi đã loại nước Nga ra khỏi vòng
chiến, Tướng Erich Ludendorff muốn đẩy quân Anh ra biển trước khi
quân Mỹ nhập cuộc. Mờ sáng ngày 21/3/1918 bắt đầu trận
“Kaiserschlacht” (trận đánh của hoàng đế, the Emperor’s Battle),
quân Đức tiến đánh, chia hai quân Anh và quân Pháp, chiếm tỉnh
Amiens, đẩy lùi quân Anh về phía bờ biển. Nhưng binh lính Anh đã
chống trả rất gan dạ, cầm cự trong hai tuần lễ khiến cho quân Đức
bị thiếu thực phẩm và đạn dược.
Vào cuối tháng 5/1918, Tướng
Ludendorff lại tấn công bất ngờ quân Pháp, đã tiến tới cách thủ đô
Paris 56 dặm khiến cho Tướng John Pershing là người chỉ huy lực
lượng Hoa Kỳ phải gửi điện tín về Hoa Thịnh Đốn như sau: “sự việc
Paris thất thủ coi như rõ ràng”. Thế nhưng, sức tấn công của quân
Đức giảm dần khi các lực lượng trừ bị tăng cường các phòng tuyến
Pháp. Trong trận Belleau Wood kéo dài từ ngày 6 tới ngày
25/6/1918, quân Mỹ đã chặn được quân Đức.
Tới giữa tháng 7/1918, quân
Đức cố gắng vượt dòng sông Marne, rồi vào ngày 3/8, trận Marne thứ
hai của Đức đã không phá vỡ được lực lượng Đồng Minh. Ngày 8/8,
với quân Pháp trợ giúp, quân Anh đã dùng xe tăng đánh vào phía
đông tỉnh Amiens, gây thiệt hại rất lớn cho quân Đức khiến cho
Tướng Ludendorff phải nói: “đây là ngày đen tối nhất của quân lực
Đức” và chính hoàng đế William II cũng phải nhận thấy rằng cần
phải chấm dứt chiến tranh.
Tù binh Đức đang tiến đến
trại giam gần Amiens, 9/8/1918 (The Hundred Days Offensive, Tháng
8 đến 11/1918)
3/ Đình Chiến và Hòa Bình.
Vào giữa cuộc Thế Chiến, đã xẩy ra tại
nước Nga cuộc cách mạng lật đổ Sa Hoàng, chính quyền vào tay các
người Cộng Sản và nước Nga không còn tham chiến nữa trong khi đó,
cũng có nhiều kế hoạch lo việc thương lượng hòa bình. Vào mùa xuân
năm 1917, các nhà xã hội của Hòa Lan và Na Uy/Thụy Điển đã triệu
tập một hội nghị quốc tế tại Stockholm để thảo ra các kế hoạch
chấm dứt chiến tranh mà các phe có thể chấp nhận, nhưng hai chính
phủ Anh và Pháp đã không cho phép các đại biểu của họ tham dự, vì
thế kế hoạch không thành.
Một công thức hòa bình tương
tự do Giáo Hoàng đề nghị cũng bị từ chối, phe Đức không chấp nhận
bồi thường và phục hồi các miền đất bị tàn phá, nhất là phục hồi
nước Bỉ. Chưa một đề nghị nào được cả hai phe quan tâm. Tổng thống
Woodrow Wilson là người phát ngôn của phe Đồng Minh công bố rằng
không thể có thương thuyết hòa bình khi nước Đức còn do Hoàng Đế
William II cai trị.
Trong số các đề nghị hòa bình, được
nhiều người biết tới nhất là “Chương Trình 14 Điểm” (the Program
of 14 Points) của Tổng Thống Hoa Kỳ Wilson, đọc trước Quốc Hội vào
ngày 8/1/1918. Nói một cách tóm tắt, chương trình này gồm có:
-
hủy bỏ các thương lượng bí mật,
-
tự do trên các mặt biển trong hòa
bình và chiến tranh,
-
gỡ bỏ các hàng rào kinh tế giữa các
nước,
-
giảm trang bị quân sự tới độ thấp
nhất của mức an toàn,
-
điều chỉnh vô tư các đòi hỏi về
thuộc địa với sự quan tâm tới các quyền lợi của các dân tộc
liên hệ,
-
các đạo quân ngoại quốc rút ra khỏi
đất Nga và phục hồi các miền đất bị người Nga chinh phục,
-
phục hồi nền độc lập cho nước Bỉ,
-
phục hồi 2 miền Alsace và Lorraine
trả về cho nước Pháp,
-
điều chỉnh lại biên giới của nước Ý,
-
phát triển tính tự trị cho các dân
tộc Áo-Hung,
-
phục hồi các xứ Rumania, Serbia và
Montenegro với phần đất dẫn ra biển dành cho xứ Serbia,
-
phát triển tính tự trị cho dân tộc
Thổ Nhĩ Kỳ, với eo biển từ Biển Đen dẫn tới Địa Trung Hải được
mở thường xuyên,
-
một xứ Ba Lan độc lập do dân tộc Ba
Lan cư ngụ và với đất đai thông ra biển,
-
thành lập Hội Quốc Liên.
Chương Trình 14 Điểm kêu gọi việc áp
dụng các nguyên tắc dân chủ vào các quan hệ quốc tế, sự thay đổi
lãnh thổ căn cứ vào tính chất dân tộc (nationality), đã biến đổi
cuộc chiến thành cuộc xung đột ý thức hệ giữa thể chế dân chủ và
chế độ độc tài.
Qua nhiều bài diễn văn, Tổng Thống
Wilson nói rằng Chương Trình 14 điểm này là căn bản cho hòa bình.
Nhiều ngàn bản in 14 điểm được thả trên các chiến hào của Đức và
phần đất sau trận tuyến để thuyết phục quân đội và dân chúng Đức
biết rằng các quốc gia Đồng Minh đang cố gắng vận động một cuộc
hòa bình công bằng và vĩnh cửu.
Với nước Nga không còn tham chiến nữa,
thế lực của Đức có vẻ thắng thế nhưng vào cuối mùa xuân năm 1918,
phe Đức bắt đầu chịu đựng thiệt hại bởi vì cách phong tỏa hữu hiệu
của phe Đồng Minh và vì xung đột nội bộ của nước Đức đối với các
mục tiêu của chiến tranh. Các nhà xã hội Đức đã tấn công các mục
tiêu bành trướng trong đó có việc kiểm soát các miền sản xuất thép
và than của nước Bỉ và các miền canh nông của Đông Âu mà chính phủ
và phe bảo thủ đang ủng hộ. Các nhà xã hội cũng chỉ trích chính
phủ Đức về cách chiếm đóng miền đất Brest-Litovsk của nước Nga.
Vào mùa thu năm 1918, nước Đức đang đứng trước cảnh nội chiến.
Trong khi đó trên mặt trận phía tây,
cuộc chiến vẫn tiếp diễn như 4 năm đã qua. Các cuộc tấn công lớn
lao của các quân lực Anh, Pháp và Hoa Kỳ đã khiến cho quân Đức
phải rút lui về biên giới của nước Bỉ. Vào cuối tháng 9 năm đó,
tình hình của nước Đức hầu như tuyệt vọng. Nước Bulgaria rút khỏi
cuộc chiến vào ngày 29/9.
Vào đầu tháng 10, Thủ Tướng mới của nước
Đức là Maximilian, ông hoàng theo đường lối cấp tiến của vùng
Baden, đã đáp lời kêu gọi của Tổng Thống Wilson về thương thuyết
hòa bình theo 14 điểm, nhưng chiến tranh vẫn còn tiếp diễn nên
Tổng Thống Wilson đòi hỏi nước Đức phải truất phế Vua William II.
Trong thời gian này, các nước về phe với Đức đang trên đà sụp đổ:
nước Thổ Nhĩ Kỳ đầu hàng vào cuối tháng 10, đế quốc Áo Habsburg
rạn nứt vì các nội loạn do các sắc dân trong xứ và cuộc tấn công
của quân đội Ý khiến cho nước Áo mất tỉnh Trieste với 300,000 tù
binh. Vào ngày 3/11/1918, Hoàng Đế Áo Charles lên ngai vàng kế
tiếp Hoàng Đế Francis Joseph vào năm 1916, đã ký tên vào bản đình
chiến.
Nước Đức như vậy không thể tiếp tục
chiến đấu một mình, tinh thần của quân đội Đức xuống thấp. Việc
phong tỏa bằng đường biển của phe Đồng Minh khiến cho dân chúng
Đức thiếu thực phẩm, gần như đói ăn, các đe dọa nổi loạn tại nhiều
nơi có thể bùng nổ. Vào ngày 8/11, một nước cộng hòa được tuyên bố
tại vùng Bavaria. Vào ngày hôm sau, hầu như cả nước Đức đứng bên
bờ cách mạng. Một bản công bố tại thủ đô Berlin xác nhận Hoàng Đế
Đức thoái vị và ngày hôm sau, nhà vua này qua xứ Hòa Lan. Vào lúc
này, chính phủ Đức thuộc về một hội đồng lâm thời đứng đầu bởi ông
Friedrich Ebert (1871-1925), một nhà xã hội. Ông Ebert với các
người cộng tác bèn tìm cách thương thuyết về một cuộc đình chiến.
Phe Đồng Minh đặt điều kiện nước Đức
phải chấp nhận 14 điểm và 3 điểm tu chính. Thứ nhất, tạm ngưng
điều khoản tự do trên mặt biển, do đòi hỏi của nước Anh; thứ hai,
phục hồi các miền đất bị xâm lăng gồm cả bồi thường cho các người
chiến thắng; thứ ba, đòi hỏi độc lập cho các dân tộc trong đế quốc
Áo-Hung. Ngoài ra, quân đội của các nước Đồng Minh được quyền
chiếm đóng các thành phố trong thung lũng sông Rhine, việc phong
tỏa vẫn tiếp tục và nước Đức phải giao nạp 5,000 đầu máy xe lửa,
150,000 toa xe lửa và 5,000 xe vận tải, tất cả phải trong tình
trạng tốt. Người Đức không còn cách nào khác hơn là chấp nhận các
điều kiện này.
Vào 5 giờ sáng ngày 11 tháng
11 năm 1918, hai đại biểu của quốc gia Đức thua trận tới gặp vị Tư
Lệnh của các quân đội Đồng Minh là Thống Chế Foch trong khu rừng
Compiègne và chính thức ký giấy chấm dứt chiến tranh. Sáu giờ sau,
tức là vào 11 giờ sáng, lệnh “ngưng bắn” được ban ra cho các binh
lính hai bên.
Một thông tín viên theo quân đội Anh
chiến đấu trên đất Pháp, đã ghi lại như sau: “Tối hôm qua, lần đầu
tiên kể từ tháng 8 của năm đầu cuộc chiến, đã không có các lằn đạn
sẹt ngang bầu trời, không còn các đám lửa bùng lên trong đêm tối,
không còn thảm cảnh nhiều người bị đâm chết kéo dài trong 4 năm.
Lửa Địa Ngục đã bị dập tắt”. Vào buổi tối hôm đó, hàng ngàn người
đã khiêu vũ trên các đường phố London, Paris và Rome theo cùng một
cảnh cuồng nhiệt mà họ đã chào mừng việc tuyên chiến 4 năm về
trước.
4/ Hiệp Ước Versailles.
Tháng 1/1919, các đại biểu của khối Đồng
Minh tụ họp tại thành phố Paris để soạn thảo các điều khoản hòa
bình. Tại thủ đô này, 2 triệu người đã đứng dọc theo các đại lộ để
đón chào Tổng Thống Wilson và ném hoa vào xe của ông trong khi
đoàn xe chạy dưới biểu ngữ “Danh Dự dành cho ông Wilson, nhân vật
xứng đáng” (Honor to Wilson the Just). Ông Wilson được mọi người
coi trọng là nhà Tiên Tri, sẽ khiến cho các quốc gia rèn gươm giáo
thành các lưỡi cày. Tại kinh thành Rome, đám đông cuồng nhiệt cũng
gọi ông Wilson là vị Thần của Hòa Bình (the god of peace) còn tại
thành phố Milan, các thương binh đã ôm hôn y phục của ông Wilson.
Tại Ba Lan, các sinh viên khi bắt tay, chào nhau bằng danh tiếng
Woodrow Wilson. Tổng Thống Wilson đã nói ra lời kêu gọi Hòa Bình
do quá khứ và kinh nghiệm của ông về tôn giáo Presbyterian và do
lòng tin tưởng vào nền Dân Chủ của Hoa Kỳ. Tổng Thống Wilson muốn
thấy một nền hòa bình bằng công lý để duy trì nền văn minh phương
tây trong hình thức dân chủ và thiên chúa giáo.
Hiệp Ước Versailles, ký kết vào tháng
Sáu, 1919, đánh dấu sự chấm dứt Thế Chiến Thứ Nhất giữa Đức và
Đồng Minh
Các nguyên tắc của Tổng Thống Wilson đã
đề cập tới tinh thần tự quyết (self-determination): một dân tộc có
quyền duy trì quốc gia của mình, không bị ngoại bang thống trị.
Mục đích này có ý nghĩa là hai miền Alsace và Lorraine phải trả về
cho nước Pháp, việc tạo ra một quốc gia độc lập cho người Ba Lan,
việc điều chỉnh lại các biên thùy của nước Ý, dành cơ hội cho các
sắc dân Slavs của đế quốc Áo-Hung có quyền lập nên quốc gia riêng.
Biết rằng đối xử khắt khe hay trả thù
nước Đức thua trận có thể đưa thế giới tới một đại tai biến khác,
nên ông Wilson chủ trương “hòa bình mà không chiến thắng” (peace
without victory) để khuyến khích nước Đức thua trận hợp tác với
khối Đồng Minh trong việc xây dựng một châu Âu mới, tuy nhiên có
một điểm mà ông Wilson cương quyết: chế độ Quân Phiệt Phổ
(Prussian militarism) phải bị tiêu diệt.
Các hội nghị khác nhau họp trong năm
1919 và 1920 để bàn cãi về Hòa Bình đã xẩy ra giống như các phiên
tòa hơn là các cuộc thương thảo. Các vụ tuyên truyền đã đề cập tới
việc người Đức “gian ác” phải bồi thường các thiệt hại cho các
giới quân đội và dân sự. Thủ Tướng Anh David Lloyd George trong
vận động tranh cử vào năm 1918, đã dùng khẩu hiệu “Treo cổ Hoàng
Đế Đức” trong khi các nước Đồng Minh cho rằng đây là cuộc thánh
chiến chống lại kẻ ác.
Hội nghị chấm dứt chiến tranh họp tại
thành phố Paris từ tháng 1 tới tháng 6 năm 1919 nhưng chỉ có 6
buổi họp đầy đủ và các phần quan trọng do các ủy ban nhỏ quy định.
Đầu tiên, một Hội Đồng 10 Vị (a Council of Ten) gồm có Tổng Thống
và Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, các Thủ Tướng và Ngoại Trưởng của
các nước Anh, Pháp, Ý và Nhật. Vào giữa tháng 3, Hội Đồng kể trên
trở nên khó sử dụng nên được đổi thành Hội Đồng 4 Vị (the Council
of Four), gồm có Tổng Thống Hoa Kỳ và Thủ Tướng các nước Anh, Pháp
và Ý. Một tháng sau, Hội Đồng trở thành Hội Đồng 3 Vị khi Thủ
Tướng Ý Vittorio Orlando rút lui bởi vì Tổng Thống Wilson từ chối
các đòi hỏi của nước Ý.
Cuối cùng, Hiệp Ước Versailles được
quyết định do Ba Vị là các ông Wilson, Lloyd George và Clemenceau.
Ba vị này với cá tính hoàn toàn khác nhau, đã phải ngồi lại với
nhau vì một mục tiêu chung. Thủ Tướng Lloyd George là người khôn
ngoan, trong nhiều trường hợp thành công hơn nhưng không thiện cảm
với các vấn đề như chủ nghĩa dân tộc (nationalism). Tổng Thống
Wilson là một người lý tưởng không nhân nhượng, thường ra lệnh cho
thuộc hạ và cho rằng phần đúng về mình, khi phải đối đầu với các
thực tế không dễ chịu như việc chia phần chiến lợi phẩm, ông
Wilson thường coi vụ này là không quan trọng và không quan tâm, và
ông Wilson không nghe các lời khuyên để thích nghi các quan điểm
với những người cộng tác.
Trước cuộc bầu cử vào tháng 11/1918,
Tổng Thống Wilson kêu gọi dân chúng Hoa Kỳ hãy dồn phiếu cho đảng
viên Dân Chủ, coi như một niềm tin vào chính sách ngoại giao của
ông. Thế nhưng đảng Cộng Hòa đã thắng phiếu, làm giảm đi uy tín
của ông Wilson bởi vì ông thiếu đi sức hậu thuẫn trong nước và
Thượng Viện Mỹ sẽ bác bỏ những gì ông Wilson đề nghị phê chuẩn.
Nhân vật thứ ba trong tam đầu chế là Thủ
Tướng Pháp Georges Clemenceau, vừa già nua, vừa yếm thế. Trong đời
của ông, ông đã từng trông thấy nước Pháp bị xâm lăng hai lần, với
cuộc sống bị đe dọa trầm trọng. Ông Clemenceau luôn luôn đòi hỏi
phải báo thù nước Đức và phải giữ cho nước Pháp được an toàn lâu
dài. Trong cuộc chiến, hầu như toàn thể mặt trận miền tây diễn ra
trên đất Pháp với một nửa số người trẻ bị tử vong, các kỹ nghệ và
nông trại bị tàn phá, đất đai dày đặc các bãi mìn và làng mạc còn
bị quân Đức hủy diệt trước khi rút lui. Người Pháp đã coi người
Đức là những kẻ man rợ, sát nhân, phá hoại, nên họ không quan tâm
tới các lý tưởng của ông Wilson. Vì thế đây là lúc nước Pháp phải
lợi dụng cơ hội, phải giữ cho nước Đức què quặt để nền an ninh của
nước Pháp được bảo toàn.
Ngay từ đầu, các nhà hoạch định Hiệp Ước
Versailles đã gặp các vấn đề khó khăn, quan trọng nhất là đối với
Chương Trình 14 Điểm bởi vì chắc chắn rằng đây là căn bản của sự
việc nước Đức đầu hàng vào ngày 11/11/1918 và cũng vì Tổng Thống
Wilson muốn dùng các điểm này cho nền hòa bình lâu dài. Chương
trình của Tổng Thống Wilson có mục đích tạo nên một châu Âu không
gặp vấn đề sắc dân thiểu số nhưng trên miền đất này, nhiều loại
dân tộc đã sinh sống lẫn lộn với nhau, họ không muốn giảm bớt các
ước muốn, không chịu hòa giải các đòi hỏi, giấc mộng quốc gia của
sắc dân này đã vi phạm vào quyền lợi của sắc dân khác. Chương
Trình 14 Điểm kêu gọi việc thành lập một nước Ba Lan độc lập với
cửa ngõ mở ra biển để phát triển kinh tế, nhưng giữa miền đất Ba
Lan và Biển Baltic là phần đất do sắc dân Đức sinh sống. Nước Tiệp
Khắc cũng có nhiều người Đức cư ngụ, việc phân chia ranh giới sẽ
vi phạm vào quyền tự quyết của sắc dân địa phương.
Vì vậy Chương Trình 14 Điểm phải là mẫu
mực của công cuộc dàn xếp nhưng trên thực tế, ngoại trừ Tổng Thống
Wilson ra, các nhà lãnh đạo khác chỉ “nói miệng” về các điểm này
khiến cho cuối cùng, chỉ có 4 điểm là không thay đổi: điểm (7)
phục hồi nước Bỉ, điểm (8) đòi hỏi trả lại hai miền Alsace va
Lorraine cho nước Pháp, điểm (10) giành độc lập cho các dân tộc
Áo-Hung, và cuối cùng là điểm (14) dự trù việc thành lập Hội Quốc
Liên (the League of Nations). Các điểm khác bị bỏ quên hay bị thay
đổi so với ý nghĩa ban đầu.
Sau nhiều tháng tranh cãi với các thái
độ gay gắt, Hiệp Ước Hòa Bình Paris đã thành hình gồm 5 hiệp ước
nhỏ đối xử với 5 nước Đức, Áo, Hung, Bungaria và Thổ Nhĩ Kỳ trong
đó Hiệp Ước Versailles áp dụng cho nước Đức được coi là quan trọng
nhất.
Vào cuối tháng 4 năm 1919, các điều
khoản của Hiệp Ước Versailles sẵn sàng để giao cho kẻ thua trận và
nước Đức được lệnh phải cử đại diện tới nhận bản hiệp ước này.
Ngày 29/4, Bá Tước Von Brockdorff-Rantzau, Bộ Trưởng Ngoại Giao
của nước Cộng Hòa lâm thời, đã tới Versailles. Khi ông này phản
kháng rằng các điều khoản quá khắt khe thì Thủ Tướng Clemenceau
cho biết nước Đức chỉ có 3 tuần lễ để ký kết hay không. Thực ra,
thời gian này đã được kéo dài hơn bởi vì các nhà lãnh đạo này của
nước Đức đã từ chức hơn là đặt bút ký.
Nước Đức nhất trí bác bỏ Hiệp Ước
Versailles bởi vì họ cho rằng tuy chiến tranh chấm dứt nhưng quân
đội Đức chưa thua trận và nước Đức chỉ lâm vào tình trạng bế tắc.
Người Đức đã coi việc đình chiến là sự dàn xếp giữa các nước ngang
hàng với nhau, căn cứ vào lời kêu gọi hòa bình vì công lý. Nhưng
trên thực tế, người Đức đã bị gạt ra khỏi các cuộc thương thuyết
và các hiệp ước chỉ có mục đích làm cho quân đội và kinh tế Đức
yếu hèn. Họ hỏi rõ dựa trên các tiêu chuẩn nào mà khối Đồng Minh
đã chiếm lấy các thuộc địa của Đức, cấm đoán nước Đức không được
tham gia vào Hội Quốc Liên, bắt họ phải bồi thường các khoản không
thể chịu đựng nổi. Tại sao nước Đức bị mất 1/8 lãnh thổ và 1/10
dân số do việc chia lại biên giới các quốc gia.
Người Đức cũng phản đối rằng khi mới
bước vào cuộc chiến, Tổng Thống Wilson đã xác nhận rằng kẻ thù
không phải là nhân dân Đức mà là chính quyền thời đó, ngày nay thể
chế dân chủ mới của nước Đức không thể bị trừng phạt vì các tội
lỗi của Đế Chế Đức và của bộ máy quân sự của Hoàng Đế William II.
Mặt khác, các nước biện hộ cho Hiệp Ước
Versailles lại cho rằng nếu nước Đức thắng trận thì các nước Đồng
Minh còn bị áp đặt những điều kiện nặng nề hơn, bởi vì các mục
đích của chính quyền quân phiệt Đức là sát nhập các phần của nước
Pháp và Ba Lan, biến các nước Bỉ và Romania thành các nước vệ tinh
và nước Đức bành trướng tại miền trung tâm của châu Phi. Bằng cớ
là do lòng tham không đáy, nước Đức đã bắt nước Nga phải ký kết
Hiệp Ước Brest-Litovsk vào năm 1918.
Ba vị lãnh đạo phe Đồng Minh đã điều
chỉnh đôi chút bản dự thảo do sự yêu cầu của ông Lloyd George và
nước Đức được thông báo rằng 7 giờ chiều ngày 23/6 là thời hạn
chót phải chấp nhận bản hiệp ước hay là bị xâm lăng. Sau 5 giờ,
chính phủ lâm thời Đức chịu nhận các điều khoản của các kẻ chiến
thắng bởi vì dân chúng quá mệt mỏi vì chiến tranh, nền kinh tế
thảm bại, thực phẩm không còn, các cuộc nổi loạn đang đe dọa khắp
nơi. Vào ngày 28 tháng 6 năm 1919, ngày kỷ niệm thứ 5 vụ ám sát
hầu tước Áo, các đại biểu của nước Đức và phe Đồng Minh đã tụ họp
trong Phòng Kính Lớn (the Hall of Mirrors) của Cung Điện
Versailles và ký tên vào bản Hiệp Ước.
Các điều khoản trong Hiệp Ước Versailles
có thể được tóm lược như sau: nước Đức phải giao nạp hai miền
Alsace và Lorraine cho nước Pháp, miền Schleswig cho nước Đan
Mạch, phần lớn vùng Posen và miền Tây Phổ (West Prussia) cho nước
Ba Lan. Các mỏ than trong hạt Saar bị nhượng cho Pháp để khai thác
trong 15 năm và vào cuối thời gian này, nước Đức có thể mua lại.
Hạt Saar được quản trị do Hội Quốc Liên tới năm 1935, khi này một
cuộc trưng cầu dân ý sẽ cho biết miền này được đặt dưới quyền của
Hội Quốc Liên, hay trả về cho nước Đức hoặc thưởng cho nước Pháp.
Vùng Đông Phổ dù cho có toàn thể dân chúng là gốc Đức, bị cắt khỏi
và quản trị do Hội Quốc Liên.
Nước Đức bị giải giới, giao nạp toàn bộ
các tầu ngầm và tầu biển hải quân, ngoại trừ 6 tầu chiến nhỏ, 6
khu trục hạm nhỏ, 6 hộ tống hạm và 12 thuyền thủy lôi. Nước Đức
không có quyền duy trì không quân, quân lực chỉ là một lực lượng
tượng trưng, bị giới hạn là 100 ngàn người được tuyển mộ do tình
nguyện. Để chắc chắn rằng nước Đức sẽ không bao giờ tấn công nước
Bỉ và nước Pháp, cấm chỉ quân đội và các đồn lũy đóng trong thung
lũng sông Rhine. Cuối cùng nước Đức và các đồng minh của Đức phải
chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại gây ra cho dân chúng và các
chính phủ Đồng Minh, vào năm 1921 số tiền bồi thường được quy định
là 33 tỉ mỹ kim. Ngoài ra các quốc gia chiến thắng được tặng
thưởng các xứ thuộc địa của Đức và của Thổ Nhĩ Kỳ, sự việc này đưa
tới cách cai quản do Hội Quốc Liên và đây là khởi đầu cách chấm
dứt chế độ thuộc địa và cũng là cách thức thỏa hiệp giữa chế độ đế
quốc truyền thống với lý tưởng dân chủ của ông Wilson.
Hiệp Ước Versailles cũng phản ảnh một
phần việc công nhận nguyên tắc quốc gia tự quyết (national
self-determination). Các nhà ngoại giao khi vẽ các biên giới quốc
gia đã phải cứu xét cho thích hợp các vấn đề như sắc dân thiểu số,
ngôn ngữ, tập quán lịch sử… nhưng dù vậy, các dàn xếp thực tế và
chính trị đã làm cho việc phân chia rất khó khăn.
Thực ra Hiệp Ước Versailles không giải
quyết được vấn đề của nước Đức bởi vì quốc gia này bị làm cho suy
yếu nhưng không đổ vỡ, sức mạnh quân sự tạm thời bị giới hạn, tinh
thần hăng hái dân tộc không suy giảm và mối hiểm nguy thực sự của
châu Âu là nước Đức không thực tâm chấp nhận thất trận hay từ bỏ
giấc mộng bành trướng.
Công cuộc dàn xếp về nước Áo được hoàn
thành vào tháng 9/1919 và được biết bằng tên gọi là Hiệp Ước St.
Germain. Nước Áo phải công nhận nền độc lập của Hung Gia Lợi, Tiệp
Khắc, Nam Tư và Ba Lan và phải nhường cho các nước này các vùng
đất rộng lớn. Ngoài ra nước Áo chịu nạp cho nước Ý miền Trieste,
miền nam Tyrol, bán đảo Istrian, và như vậy nước Áo mất đi 3/4
diện tích và 3/4 dân chúng, bị giảm thành một vùng đất nhỏ, với
1/3 dân chúng tập trung vào thành phố Vienna.
Hiệp ước dành cho xứ Bulgaria được gọi
là Hiệp Ước Neuilly (the Treaty of Neuilly) ký vào tháng 11/1919,
bắt buộc Bulgaria phải từ bỏ mọi phần đất chiếm được do cuộc Chiến
Tranh Balkan lần thứ nhất (the First Balkan War), chuyển cho
Rumania, cho vương quốc Nam Tư mới và cho Hy Lạp. Nước Hung Gia
Lợi trở thành một quốc gia độc lập do Hiệp Ước Trianon ký kết vào
tháng 6/1920 (the Treaty of Trianon Palace).
Về số phận của nước Thổ Nhĩ Kỳ, một hiệp
ước được ký kết tại Sèvres, gần Paris, vào tháng 8 năm 1920, đã
quy định Armenia là một nước cộng hòa thiên chúa giáo, phần lớn
đất của Thổ tại châu Âu được giao cho Hy Lạp, hai xứ Palestine và
Mesopotamia là đất quản trị của nước Anh, Syria do Pháp cai quản,
miền nam Anatolia chịu ảnh hưởng của Ý, chỉ dành cho Đế Quốc
Ottoman là thành phố Constantinople, miền bắc và miền trung tâm
Tiểu Á (Asia Minor).
Vấn đề cuối cùng là Hội Quốc Liên. Đây
sẽ là một tổ chức của các quốc gia, lớn hay nhỏ, để duy trì hòa
bình cho thế giới, một giấc mộng của Tổng Thống Hoa Kỳ Wilson. Ông
Wilson tin tưởng rằng việc đánh bại nước Đức là một đòn tiêu diệt
chế độ quân phiệt; một cộng đồng các quốc gia sẽ kiểm soát các
quan hệ quốc tế thay cho cách cân bằng thế lực vừa luộm thuộm, vừa
không hữu hiệu. Nhưng để cho các quốc gia thành viên chấp nhận các
điều khoản của Hội Quốc Liên, ông Wilson đã phải nhân nhượng
nhiều, sửa chữa nguyên tắc hạ giảm trang bị quân sự tới mức thấp
nhất thành “thích hợp với nền an ninh quốc gia”. Muốn khiến cho
Nhật Bản tham gia, ông Wilson phải ưng thuận cho Nhật Bản chiếm
giữ các tài sản cũ của Đức tại Trung Hoa và để làm vừa lòng nước
Pháp, phải loại nước Đức và nước Nga ra khỏi khối liên hiệp, dù
cho đây là liên hiệp của mọi quốc gia. Cuối cùng, Hội Quốc Liên
vẫn không được các quốc gia chính chấp nhận.
Vào năm 1920, Thượng Viện Mỹ đã không
phê chuẩn Hiệp Ước Versailles vì e ngại rằng nếu Hoa Kỳ là thành
viên của Hội Quốc Liên thì nước Mỹ sẽ phải tham gia vào các cuộc
chiến của châu Âu trong tương lai bởi vì cuộc chiến tranh đã chứng
tỏ rằng khối Đồng Minh thắng trận là do sự can thiệp của Hoa Kỳ.
Dù sao, các căn bản về Hội Quốc Liên vẫn là nền móng cụ thể cho
một tổ chức quốc tế sau này, là Liên Hiệp Quốc, được thành lâp sau
Thế Chiến Thứ Hai.
5/ Nhận định về Thế Chiến Thứ Nhất.
Trong 5 tuần lễ sau vụ ám sát tại
Sarajevo, các vận động ngoại giao đã là một “bi kịch của cách tính
toán sai lầm”, tạo ra cuộc chiến. Cuộc Thế Chiến Thứ Nhất đã là
một thảm họa nên cuộc tranh luận về trách nhiệm của thảm họa này
vẫn còn tiếp tục và gay gắt. Các nước chiến thắng gồm Anh, Pháp,
Hoa Kỳ và các đồng minh đã nhấn mạnh rằng nước Đức chịu trách
nhiệm này nhưng các sử gia trong các thập niên 1920 và 1930 cho
rằng tất cả các nước chính của châu Âu đã đưa Thế Giới vào cảnh
tàn sát.
Vào thập niên 1960, sử gia Fritz Fischer
nhấn mạnh rằng Hoàng Đế Đức William II và Thủ Tướng Đức
Bethmann-Hollweg đã cố ý thúc giục nước Áo đánh xứ Serbia dù biết
rằng cuộc chiến này sẽ khiến cho người Nga về phe với người Serbs
và người Pháp ủng hộ người Nga. Phe quyền lực Đức lại nhận định
rằng nếu đợi cho nước Nga hồi phục sau cuộc chiến tranh với Nhật
Bản, nếu đợi cho quân đội Pháp hùng mạnh sau đạo luật 3 năm động
viên, thì nước Đức không tránh sao khỏi thất bại. Đây là lý do
hành động của Thủ Tướng Đức vì tham vọng muốn thống trị châu Âu
nhờ ưu thế quân lực.
Các nhà sử học quy trách nhiệm của cuộc
thế chiến này cho nước Áo vì ý định thanh toán xứ Serbia mà không
dùng tới một cuộc dàn xếp, cho nước Đức vì muốn tạo nên các xứ vệ
tinh, muốn sáp nhập các miền đất chung quanh, cho nước Nga vì ban
hành lệnh tổng động viên, đã biến đổi một cuộc chiến giới hạn
thành toàn diện, còn nước Pháp chịu trách nhiệm đã không ngăn cản
nước Nga mà còn khuyến khích việc tổng động viên và nước Anh đã
không bộc lộ rõ sự yểm trợ các nước Đồng Minh ngay từ đầu.
Có sử gia không dùng tới việc quy trách
nhiệm mà cho rằng cuộc Thế Chiến là dấu hiệu cho thấy rõ nền văn
minh của châu Âu gặp rắc rối: cách suy tôn sức mạnh, nỗi ám ảnh
dùng bạo lực, sự bất mãn và vỡ mộng trước xã hội tư sản và sự bùng
nổ của chủ nghĩa quốc gia. Các vấn đề khó khăn gây nên bởi cuộc
Cách Mạng Kỹ Nghệ đã không giải quyết được bằng các cuộc bàn thảo
trong khi hệ thống các nước Đồng Minh gặp các khuyết điểm và đã
mang lại các hiểm nguy.
Trong Thế Chiến Thứ Nhất, nền khoa học
và kỹ thuật mới đã làm ra các dụng cụ giết người hiệu quả hơn
trước, tinh thần dân tộc đã khiến cho cả hai tầng lớp dân sự và
quân sự quyết tâm chém giết tới khi kẻ thù hoàn toàn ngã gục và
các chính quyền đã động viên tinh thần, nhân lực và vật lực vào
cuộc chiến tranh toàn diện, và trong khi cảnh tàn sát man rợ đang
diễn ra thì các chính khách còn đòi hỏi phải động viên hơn nữa,
leo thang các bạo lực và chịu đựng thêm các hy sinh. Bạo lực, sự
tàn nhẫn, sự đau khổ và ngay cả cảnh chém giết hàng loạt được coi
như tự nhiên và chấp nhận được vào tư tưởng và lối sống của mọi
người. Châu Âu vì thế đã trở thành một thứ lò giết người hàng loạt
trong bốn năm trường.
Trước các cảnh tàn sát khủng khiếp, một
binh lính trẻ người Pháp đã than vãn rằng: “Nhân Loại đang điên”.
Nền văn minh của Phương Tây đã đi vào thời kỳ đầy bạo lực, lo ngại
và nghi ngờ! Các nhà trí thức của châu Âu đã trở nên chán nản và
tỉnh ngộ trước cảnh “thế giới của trật tự, hòa bình và theo lý
trí” đã bị tàn phá, họ đã mất đi vào các niềm tin vào các giá trị
tự do, dân chủ và họ lo sợ trước tương lai. Thế Chiến Thứ Nhất đã
khiến cho nhiều dân tộc hướng về các phong trào toàn trị
(totalitarian), các chế độ Phát Xít, và các ý thức hệ này đã tiêu
diệt nền dân chủ (democracy).
Thế Chiến Thứ Nhất là cuộc tàn sát rất
ghê sợ: 10 triệu quân nhân đã chết, 20 triệu thương binh còn may
mắn trở về, tổng số nạn nhân là hơn 37 triệu kể cả những người mất
tích. Nước Đức mất 6 triệu người, nước Pháp cũng vậy, cuộc chiến
này đã không mang lại được lợi ích gì mà còn gây nên các xung đột
mới, khủng khiếp hơn trong tương lai. Chế độ độc đoán của Hoàng Đế
Đức đã bị tiêu diệt nhưng miền đất này lại được chuẩn bị cho các
thể chế độc tài mới. Hai mươi năm sau chiến cuộc chấm dứt, lại có
gần gấp hai số người cầm súng, các cạnh tranh và ghen ghét vì quốc
gia và chủng tộc đã ăn sâu hơn trước kia.
Nếu chiến tranh toàn cầu đã làm cho thế
giới trở nên các trại lính, thì các chính phủ nhận ra sự cần thiết
phải trù liệu và phối hợp trên bình diện quốc tế, các nền kinh tế
cần được điều hành, kiểm soát xuất cảng, nhập cảng và cách dùng
nhân lực, cả về dân sự lẫn quân sự. Chiến tranh đã làm đảo lộn nền
mậu dịch thế giới. Do không có hàng hóa nhập cảng từ châu Âu, các
nước Nhật Bản, Ấn Độ và Nam Mỹ đã phát triển các kỹ nghệ của riêng
họ. Chiến tranh cũng làm gia tăng nạn lạm phát trên thế giới khiến
cho giới trung lưu bị ảnh hưởng nhất. Mặt khác ngoài các cơ cực,
chiến tranh cũng mang lại sự tự do cho nhiều giới. Do nhu cầu của
các chính quyền cần người phụ nữ làm việc trong các nhà máy hay
các nông trại, lớp người này được tạm thời giải phóng và do công
cuộc đóng góp vào chiến thắng, giới phụ nữ được quyền bỏ phiếu tại
Hoa Kỳ và Anh Quốc vào năm 1918 và 1920.
Thế Chiến Thứ Nhất đã là một cuộc tàn
sát rộng lớn và vô ích, là kết quả của cuộc xung đột không cần
thiết do một số nhà chính trị tham vọng, đã điều hành sai đường
lối vì các mối lợi quốc gia, phản bội lại nền Hòa Bình Thế Giới.
Phạm Văn Tuấn
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org.;
Britannica Encyclopedia; Western Civilizations by Robert E.
Lerner, Standish Meacham & Edward Mcnall Burns, W.W. Norton & Co.,
NY, London, 1998.
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.