MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI TÌM TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN
Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG
CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐÃ ĐƯA ĐẾN KẾT
THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XÃ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI
NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐÃ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM
PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG
Thầy Trí Quang: một trang lịch sử
Tiên sỉ của Pháp - Cao
Huy Thuần
(Thầy tôi, Trưởng lão
Hòa Thượng Thích Trí Quang, vừa thị tịch hôm 8-11-2019. Di huấn để lại:
không bàn thờ, không bát nhang, không báo tang, không phúng điếu, không
vòng hoa, không đưa đám. Tôi chỉ xin phép Thầy thắp một nén nhang tưởng
niệm)
Tôi có hai lần khai
sinh. Lần thứ nhất khi tôi sinh ra. Cha mẹ tôi cho tôi hình hài, máu
huyết. Nhưng tôi chưa biết tôi là ai, sống như thế nào, trên đường nào
tôi sẽ đi. Sinh ra, tôi có hai mắt. Nhưng chưa thấy đường đời. Phải đợi
đến khi lên chùa Từ Đàm, sau ngày ông Diệm bị lật đổ, tôi mới thấy con
đường sẽ đi. Thảo nào chữ nghĩa bác học gọi con đường là đạo. Thấy đạo,
tôi khai sinh cho tôi.
Đầu năm 1964, một nhóm
giáo chức đại học Huế họp nhau tại trường Đại học sư phạm để quyết định
về việc ra một tờ báo tranh đấu tiếp nối khí thế của “cách mạng” 1963,
chống lại khuynh hướng lập một “chế độ Diệm không có Diệm” được người Mỹ
ủng hộ. Trong dự định ban đầu, tờ báo là tiếng nói của lực lượng giáo
chức và sinh viên Huế đã tham gia vào việc lật đổ Diệm. Chuếnh choáng
hơi men chiến thắng của một cuộc nổi dậy thành công, tham vọng của chúng
tôi là biến đại học thành một thành trì chống độc tài. Tuổi trẻ thường
có những giấc mơ phạm thượng. Buổi họp giao cho ba chúng tôi, anh Tôn
Thất Hanh, anh Lê Tuyên và tôi, trách nhiệm suy nghĩ và điều khiển tờ
báo. Tên của tờ báo, Lập Trường, là do chúng tôi đặt ra.
Lúc đó tôi 27 tuổi. Ít
lâu sau buổi họp, tôi được mời ăn cơm với ông tướng chỉ huy Vùng I chiến
thuật. Khi đó tôi mới thấy mình đang chơi một trò chơi quá so le trước
gươm giáo, với một tuổi đời còn quá non và một tầm nhìn không xa hơn
quyển sách. Quần chúng, tờ báo có. Nhưng dăm ba anh nhà giáo thì an ninh
quân đội muốn tóm lúc nào chẳng được? Nương thế “cách mạng”, chúng tôi
ra báo không cần xin phép, nhưng anh sĩ quan tâm lý chiến đang ngồi ăn
cơm chình ình trước mắt tôi, tôi qua mặt anh ta được chăng? Viết bài thì
phải có lập trường chống Cộng hẳn hoi, anh ta khuyên nhủ thế, không
chống Cộng tức là thân Cộng. Tôi viết thế nào đây? Viết thế nào khi có
một bức màn sắt chia hai giữa quân đội và quần chúng, một bên biện minh
rằng đảo chánh Diệm là để chống Cộng tốt hơn, một bên đòi thanh trừng
vây cánh của chế độ cũ để khỏi bị độc tài đàn áp nữa? Trong tình thế đó,
Lập Trường là con chuột nhắt khốn đốn dưới nanh vuốt của ba con mèo:
tướng tá, người Mỹ, và dư đảng Cần Lao của ông Diệm.
Về chiến thuật, chúng
tôi có thể tạm thời tìm đường sống bằng cách khai thác mâu thuẫn quyền
lực giữa các tướng tá cát cứ mỗi vùng để giữ một thế đứng độc lập ở miền
Trung, làm đối trọng với thủ đô Sài Gòn. Nhưng đó không phải là một cái
thế trường kỳ. Cũng về chiến thuật, chúng tôi có thể nói với người Mỹ:
ông chống Cộng mà không có dân thì ông chống với ai? Ông hô hào tự do mà
ông không để cho dân tự định đoạt vận mệnh của mình bằng lá phiếu thì
ông tự do chỗ nào? Nhưng đó là lấy lý nói với lý; trên thực tế người Mỹ
đâu có làm chiến tranh vì lợi ích của dân Việt Nam? Chỉ với hai con mèo
ấy thôi, chuột nhắt chúng tôi đã chưa biết tờ báo sẽ sống chết lúc nào.
Nói gì con mèo thứ ba, các lực lượng tôn giáo quá khích, sinh ra và lớn
lên nhờ chiến tranh. Chỉ với một lý luận này thôi, họ đã dồn chúng tôi
vào chỗ bí: quốc sách đã là chống Cộng, vậy thì chỉ có chống Cộng với
những lực lượng chống Cộng, không thể chống Cộng với những kẻ lừng
khừng.
Chỗ dựa duy nhất của
chúng tôi là quần chúng đang căm giận dư đảng của chế độ cũ. Nhưng quần
chúng mà không có tổ chức thì khác nào gạch đá không có xi măng? Sự thế
hiển nhiên thúc đẩy chúng tôi đi tìm xi măng. Nghĩa là lên chùa Từ Đàm!
Chứ đâu nữa? Từ Đàm chẳng phải là nơi đã khởi đầu và tạo nội dung, hình
hài, ngọn lửa cho cuộc tranh đấu hay sao? Tôi phải kể rõ ngọn ngành như
vậy để giải thích tại sao một tờ báo bắt nguồn từ đại học lại trở thành
một tờ báo được xem như tiếng nói bán chính thức của Từ Đàm, nghĩa là
của Phật giáo.
Chùa không làm chính
trị: thái độ đó của Phật giáo chắc như đinh đóng cột. Lý tưởng của bọn
trẻ chúng tôi cũng vậy, trùng hợp với chùa như bản chính với bản sao, có
ông trời đóng dấu. Hồi đó, Sartre là ông thần triết lý của thời đại
chúng tôi, và vở kịch “Les mains sales” của ông làm chúng tôi mê tít:
chính trị là lĩnh vực của “những bàn tay bẩn” mà chúng tôi ghê tởm.
Chúng tôi đang say men tranh đấu, chưa thừa hưởng được bả rượu chính trị
của các bậc trưởng thượng. Lên chùa Từ Đàm với tâm hồn phơi phới giống
như đi tìm lại thời gian chưa mất, nói phỏng theo văn chương của Proust.
Một lần nữa, tôi kể rõ ngọn ngành như vậy để trả lại cho César cái gì
của César: tờ Lập Trường không phải là do chùa Từ Đàm lập ra, không phải
là công cụ chính trị của Thầy tôi.
Thầy tôi, Trí Quang,
ngồi trong phòng khách, nhìn ra sân khi chúng tôi đến. Thầy chào bằng
một nụ cười, trên miệng và trên mắt. Hai mắt là cái hồn trên mặt Thầy.
Mắt Thầy sáng quắc, dữ. Sau 1963, quần chúng thần tượng hóa lãnh tụ,
kháo nhau “mắt Thầy có điện”. Cặp mắt ấy quyến rũ tôi ngay từ phút đầu,
không phải vì “có điện” mà vì nó trở nên hiền hòa ngay khi Thầy cười.
Hai con mắt Thầy cùng cười với miệng, cái dữ biến đi đâu mất. Với cái
hồn hiền hòa ấy trên mắt Thầy, tôi quên tuốt đã nói chuyện gì buổi chiều
hôm đó, hình như chẳng có chuyện gì quan trọng, hình như cũng chẳng đề
cập đến cả tờ báo, hình như giữa bản sao với bản chính có chuyện gì nữa
đâu mà nói với ông trời. Thế mà, khi từ giã Thầy, chúng tôi có cảm tưởng
như mình đã là chiếc đũa trong một bó, muốn bẻ gãy cũng không dễ. Tờ báo
ra đời sau đó. In ở nhà in đại học và trong sự chờ đợi nóng hổi của quần
chúng, in bao nhiêu cũng không đủ bán, bán cũng không nghĩ đến chuyện
thu tiền. Đó là giấy khai sinh thứ hai của tôi.
Tờ báo ra đời trong
bối cảnh “cách mạng” 1963 bị phản bội. Lý lẽ của chiến tranh buộc người
Mỹ ủng hộ tích cực những lực lượng chủ trương chiến tranh; những lực
lượng này, được thể, quay lại trả thù những người đã tham gia lật đổ chế
độ cũ. Diệm đổ, nhưng chính quyền Diệm vẫn còn y nguyên từ trung ương
đến xã thôn, với bộ máy đàn áp không suy suyển. Chiến tranh cho phép họ
trả thù với một lý lẽ sơ đẳng và đui mù như bom đạn: chúng nó là cộng
sản, chúng nó tiếp tay cho cộng sản, cộng sản mạnh lên là vì chúng nó.
Chiến tranh còn cho phép họ trả thù những người cầm đầu phong trào một
cách “hợp pháp” trâng tráo: tóm chúng nó đi lính là xong! Ai muốn hiểu
những diễn biến chính trị trong những năm 1964-66 chỉ cần suy nghĩ trên
sự đối đầu giữa hai tranh chấp về thừa kế: thừa kế Diệm hay thừa kế
phong trào lật đổ Diệm. Thừa kế Diệm tức là tiếp tục chiến tranh và dựa
trên chiến tranh để nắm quyền. Thừa kế 1963 là đòi tuyển cử để lập một
chế độ mới. Khí giới của phe kia là bom đạn. Khí giới của phe này là lá
phiếu. Có một lúc, người Mỹ cũng bị phanh thây: họ thừa biết bom đạn
không giải quyết được tất cả, làm chiến tranh mà không có dân thì khác
nào lùa dân qua phía cộng sản. Nhưng, như một ngạn ngữ của họ đã nói,
rốt cuộc “chim cùng lông thì cùng bay với nhau”.
Thế nhưng, oái oăm của
thời cuộc, dân chúng cũng không phải là con số không, dù là trước mắt
tướng tá. Lồng trong chiến tranh còn có một bối cảnh khác cũng lao xao
binh khí: tranh giành quyền lực giữa các ông tướng chỉ huy các vùng
chiến thuật. Giữa họ với nhau, đảo chánh lật nhau không khó; giữ thế
đứng của mình trong vùng cát cứ khó hơn, mà muốn thế phải dựa vào dân,
trước hết là mấy ông “nhân sĩ” được dân nghe. Chúng tôi, ở miền Trung,
có cái thế đó để đối đầu với các ông tướng ở Sài Gòn và đòi họ “cách
mạng”. Trong bối cảnh ấy, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc ra đời tại Huế năm
1964. Do tờ Lập Trường chủ xướng, hành động này là để bảo vệ thành quả
của 1963, chống lại một cuộc đảo chánh ở trung ương của phe tướng tá
thân chế độ cũ. Tổ chức này cũng vậy, không do Thầy tôi đẻ ra; lúc ấy
Thầy đang ở Sài Gòn. Ai học lịch sử cách mạng Pháp đều biết Comité de
Salut public. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là dịch nguyên văn tổ chức của
Robespierre. Trong đầu bọn trẻ trí thức nửa mùa chúng tôi hồi đó, 1963
như được ủ hơi men của cách mạng 1789 thần thoại.
Ra đời chưa kịp khóc
ba tiếng, các tỉnh ở miền Trung đã tức tốc đẻ theo, cùng một khuôn, một
mặt, các HĐNDCQ địa phương. Tự động đẻ. Chẳng do chỉ thị một ai. Rồi
cũng tự động, các HĐNDCQ khắp miền Trung kéo nhau về Huế để thống nhất
đường lối. Tranh đấu trở thành chính trị. Mà toàn là tự động! Ký giả
ngoại quốc bắt đầu kéo nhau đến Huế, tưởng như sắp chứng kiến một màn
thay bậc đổi ngôi. Người Mỹ lân la dọ ý chúng tôi về tướng Thi, tư lệnh
Vùng I, tưởng như HĐNDCQ sắp sửa làm bàn đạp cho một người hùng mới.
Miền Trung bỗng nhiên trở thành trung tâm chính trị mà Huế là đầu não
một cách tự phát, tự phất. Quần chúng hưởng ứng nhiệt liệt, chẳng cần
biết lãnh tụ của HĐNDCQ là Bác sĩ Quyến hay là ai. Mơ hồ, họ chỉ thấy ai
đó “đằng sau” tờ Lập Trường, nghĩa là Thầy tôi.
Họ thấy như vậy cũng
không phải là vô căn cứ. Không có Thầy, sao lại có một “Thư về Huế” của
Thầy đăng trong Lập Trường, ngày 23-5-1964? Thầy viết: “Tiếng “thầy”
được kêu lên trong khi chết chóc, trong cơn điên loạn, trong những ngày
Từ Đàm bị bao vây và tấn công như một chiến khu, tiếng “thầy” được gọi
lên trong nước mắt và máu, tiếng “thầy” đó, tôi biết Phật tử Huế đã dành
cho tôi”. Giữa lãnh tụ và quần chúng, mấy ai có được sự gắn bó thiết tha
như vậy. Chừng đó thôi, mấy lời tình cảm huyết lệ ấy đủ để quần chúng
biết Thầy ở đâu mà đứng theo Thầy. Từ tờ Lập Trường cho đến HĐNDCQ, tôi
lặp lại, trí thức ở Huế không phải là công cụ của Thầy, Thầy không nhúng
tay vào bất cứ hành động nào của họ, nhưng không có Thầy thì họ không
phải là họ, được dân thương đến thế. Ai muốn hiểu Thầy tôi thì hãy hiểu
Thầy qua ngọn lửa Quảng Đức, đừng lầm Thầy như một chính trị gia, vị thế
đó thấp kém lắm, không xứng đáng với Thầy. Tự gánh trên vai trách nhiệm
về ngọn lửa Quảng Đức, Thầy không thể cho phép thời cuộc phản bội lại
ngọn lửa đó, chỉ thế thôi.
*
Nhưng thời cuộc không
phải lúc nào cũng chiều Thầy. Miền Trung, trở thành một trung tâm chính
trị, sẽ đưa Thầy vào một thế khó xử, khi tranh chấp giữa địa phương với
trung ương leo thang đến mức ly khai. Ly khai? Sao nghe được! Nhưng bỏ
quần chúng nửa đường, sao đành! Thầy như một sĩ quan chỉ huy một chiến
hạm bị địch bắn đắm, danh dự phải giữ là chịu đắm theo tàu. Đây là nguồn
cơn của biến động miền Trung năm 1966. Một biến động đè nặng trong lòng
Thầy, khó nguôi.
Bối cảnh của 1966 là
chiến tranh lan rộng, tiến gần thành phố, ban đêm đại bác đã dội về tận
Sài Gòn, làm rung cửa sổ. Từ chống chiến tranh, Phật giáo đứng lên đòi
hòa bình, theo đề nghị của Thầy. Tiếng nói đó làm phiền cả hai bên,
nhưng trực tiếp và sát cạnh là người Mỹ. Đòi cách mạng, họ còn nhịn. Đòi
hòa bình, họ nổi khùng. Làm sao vượt qua chống đối của họ bằng chính
triết lý căn bản của họ? Thầy đòi bầu cử Quốc hội lập hiến. Trong khí
thế sôi động ở miền Trung, Thầy nghĩ ảnh hưởng sẽ lan vào Sài Gòn và bầu
cử sẽ bất lợi cho những ai chủ trương chiến tranh. Mà thật vậy! Không
riêng gì miền Trung, toàn thể các tỉnh đến tận Sài Gòn, mọi tầng lớp dân
chúng, chỉ trừ những lực lượng tôn giáo sống chết với chiến tranh, nhiệt
liệt ủng hộ chủ trương bầu cử để thay thế chế độ tướng tá bằng một chính
phủ dân sự. Dân chúng biểu tình ở Sài Gòn, chiếm cả sân bay Tân Sơn
Nhất, kêu gọi đình công, trương cả biểu ngữ “Yankee Go Home”. Miền Trung
thì khỏi nói: ngay cả quân nhân, ngay cả tướng tư lệnh, cũng sát cánh
với dân thường, cảnh sát, công an sát cánh với công chức, trí thức, sinh
viên, thương gia, tạo nên một phong trào đòi hỏi bầu cử. Đố một ông
tướng nào tại vị ở miền Trung mà dám đi ngược lại phong trào. Đố
Thiệu-Kỳ đưa được một tướng khác thay thế. Đố ông Kỳ lột chức được thị
trưởng Đà Nẵng bằng cách nào khác hơn là dọa bắn vào đầu ông Mẫn. Phe
quân đội chia hai: một bên là đồng minh của Thiệu-Kỳ, dựa trên những
đảng phái và tôn giáo thánh chiến, sợ bầu cử sẽ có lợi cho Phật giáo;
một bên là đồng minh của miền Trung, quân và dân hiếm khi một dạ một
lòng như vậy. Một lòng đến nỗi tư lệnh sư đoàn I huấn luyện quân sự cho
sinh viên, thanh niên, phát vũ khí cho họ để bảo vệ Huế, tiếp ứng Đà
Nẵng, dọa sẽ chống lại Kỳ nếu Kỳ dùng bạo lực.
Quân và dân sát cánh
tại miền Trung thì người Mỹ sát cánh với Thiệu-Kỳ trong chiến dịch đàn
áp và phân hóa Phật giáo. Họ sẽ phân hóa được bằng cách lập một cánh
Phật giáo đối nghịch với Thầy tôi. Nhưng trước khi đó, họ thẳng tay đàn
áp phong trào cái đã, tại Sài Gòn trước, tại miền Trung sau. Phân hóa
hay đàn áp, mục tiêu họ nhắm là Thầy tôi. Triệt hạ Thầy thì triệt hạ
được phong trào hòa bình, đập nát được thanh thế miền Trung mà
Westmoreland, mà Taylor, mà Lodge, mà Rostow xem như thành trì Phật
giáo. Hơn thế nữa, triệt hạ Thầy tôi thì họ sẽ tương kế tựu kế tổ chức
được một Quốc hội theo ý họ, gạt Phật giáo vĩnh viễn ra khỏi các cơ quan
dân cử, leo thang chiến tranh. Súng đạn đi đầu lá phiếu.
Lấy cớ trừng phạt ly
khai, ông Kỳ dồn đại quân ra Đà Nẵng, nhắm Huế. Dân chúng tự động đem
bàn thờ ra ngoài đường để cản chiến xa từ Quảng Trị vào An Hòa. Trong
vòng nửa giờ, các đường chính của thành phố Huế đã đầy bàn thờ Phật.
Thầy nói: Thầy bị động. Trước sự đã rồi, Thầy ra lệnh chính thức. Quần
chúng thỉnh Phật ra đường, hương án trang nghiêm, tụng niệm như ở trong
nhà, như ở trong chùa. Kỳ điều đình với Thầy. Thầy không trả lời. Kỳ
giới nghiêm, tung tiểu đoàn “Trâu Điên” xung kích, bắn, bắt, đánh, đập,
uống bia cho say rồi vung chai đập đánh, đánh cả sinh viên, học sinh.
Trước đó, binh sĩ Vùng
I và sinh viên “quyết tử” đã quyết ăn thua đủ với Kỳ, dàn trận bên này
đèo Hải Vân, chực nổ súng. Công binh đã đặt mìn, sẵn sàng phá hủy các
cầu từ Đà Nẵng ra, từ Quảng Trị vào, cắt đứt tiếp vận từ Quảng Trị. Tại
Huế, đại pháo và đại liên đã được bố trí dọc theo kỳ đài, chỉa xuống bộ
tư lệnh giới nghiêm đóng tại Phu Văn Lâu. Quân nhân hỏi ý Thầy. Đau xót:
ông thầy tu trong Thầy không cho phép Thầy dùng bạo lực. Đưa bàn thờ ra
đường là tranh đấu bất bạo động. Nổ súng là bạo động, Thầy đành bảo họ
hủy mìn, dẹp súng. Nội chiến là chuyện Thầy không làm, dù hậu quả là cả
quân lẫn dân Phật tử bị bắt, bị đàn áp sau đó. Thất bại, Thầy đành chịu.
Nhưng bất bạo động là kim chỉ nam của Thầy. Khí giới duy nhất của Thầy
là tuyệt thực. Bị bắt và giải về Sài Sòn, Thầy tuyệt thực đúng 100 ngày.
Trong biến cố 1966,
một tờ báo lớn Mỹ đặt câu hỏi to tướng: Ông Trí Quang muốn gì? Muốn gì
mà ông chống hết chính quyền này đến chính quyền khác? Muốn gì mà ông
không biết nhân nhượng? Muốn gì mà ông đòi Quốc hội? Rồi muốn gì mà ông
hết đòi Quốc hội lại chống Quốc hội? Trong bấn loạn hỏa mù của đảo chánh
và chiến tranh, của ngoại thuộc và nội chiến, nếu chịu khó nhìn và hiểu
thì những gì mà Thầy tôi muốn cực kỳ đơn giản, có thể tóm gọn vào trong
một bức thư, “Thư về Huế” mà tôi đã nói ở trên.
Thầy tôi muốn gì năm
1964? Dân đã lật ông Diệm thì cứ tưởng là rạng đông sẽ sáng sau đêm tối
âm u. Nhưng ai ngờ! “Ai ngờ sự vận động để cải thiện chính sách thực đã
không đơn giản như chúng ta tưởng. Đảo chính quá dễ nhưng cách mạng quá
khó. Hóa cho nên đời sống hiện tại của chúng ta và của tín ngưỡng chúng
ta gần như vẫn ác mộng giống quá khứ và chưa chừng mà tiếp tục cả đến
tương lai”. Thầy muốn gì? Muốn cái đuôi của ông Diệm không làm khổ dân
và khổ Phật giáo.
Bằng cách nào? “Nỗ lực
và nỗ lực một cách liên tục để chấm cho dứt những chính sách không phù
hợp với sự sinh tồn của Dân tộc và Phật giáo, phát triển Phật giáo bằng
sự thực hiện của bản thân mà không bằng cách làm thương tổn các tôn giáo
khác, càng nêu cao đức tính Từ bi bao nhiêu lại càng thực hiện đức tính
Vô úy bấy nhiêu: đó là “ý thức Phật tử” đơn giản vô cùng nhưng khó khăn
vô tận”.
Đúng là khó khăn vô
tận, vì Thầy thất bại năm 1966. Nhưng thế nào là “ý thức Phật tử” vào
thời cuộc 1966? Là đại bác dội đêm, là chiến tranh, là phải hòa bình. Có
người tưởng Thầy tôi đòi hỏi Quốc hội để chiếm đa số, để khuynh loát, để
thủ diễn vai tuồng mới trên chính trường miền Nam. Họ chịu khó nhìn
chính trị ở miền Nam một cách lô gích thì biết Thầy tôi muốn gì: chừng
nào còn chiến tranh, chừng đó còn người Mỹ; chừng nào còn người Mỹ,
chừng đó còn bộ máy quân sự phục vụ chiến tranh; chừng nào còn bộ máy
quân sự phục vụ chiến tranh, chừng đó còn những thế lực ăn theo chiến
tranh; chừng nào còn những thế lực ăn theo chiến tranh, chừng đó Phật
giáo còn bị đè xuống, chận họng. Cách giải quyết vấn đề, đứng trên cương
vị của một ông thầy tu, là tháo vất cái mắc xich đầu tiên, là chấm dứt
chiến tranh! Thế là làm chính trị hay sao?
Thầy tôi mang đủ thứ
tiếng. Có người nói Thầy thân Cộng. Có người nói Thầy thân Mỹ. Có lúc
Thầy được đội cả hai cái mũ một lần. Lẳng lặng, Thầy nói với người thân:
“Càng nhiều mũ càng tỏ ra thật không có mũ nào. Trái lại, càng nhiều mũ
càng tốt: càng làm cao lên, và rõ ra, cái tư thế đặc biệt của Phật giáo.
Nên Phật giáo không cần tránh mà còn cần đến cái tác dụng nghịch lý ấy”.
Chính cái nghịch lý ấy
làm nên Thầy. Thầy là một nghịch lý to tướng. Một ông thầy tu có tầm cỡ
và sức thu hút đặc biệt của một nhà chính trị lớn, lớn nhất miền Nam lúc
đó, nhưng lại từ khước cái khả năng hiếm có ấy để làm ông thầy tu. Câu
hỏi mà các ký giả Mỹ đặt ra về Thầy không phải là không có căn cơ: họ bị
Thầy thu hút như một tài năng chính trị, nên họ không thể tưởng tượng
Thầy thật không muốn làm chính trị. Họ lầm.
Bây giờ thì chắc người
ta hiểu Thầy hơn. Thời thế bắt buộc Thầy phải xông trận, như một người
lãnh đạo. Nhưng đó là cái thế bất đắc dĩ của một ông thầy tu cỡ lớn, quá
lớn để từ khước một trách nhiệm đặc biệt mà lịch sử bất thần đặt lên
vai. Nhưng Thầy không bị lịch sử lừa phỉnh để đi vào con đường khác với
con đường của ông thầy tu. Cái vui thú của Thầy là lúc Thầy được xa cái
chợ chính trị để làm cái việc của ông thầy tu là dịch kinh, giảng kinh.
Trăm ngày tuyệt thực, đó là lúc Thầy vui. Vì Thầy làm được cái việc Thầy
muốn: viết được hai bản thảo “Nghiên cứu Khởi tín luận” và “Khảo luận
Tây du bằng Duy thức học”. Ông thầy tu tuyệt thực như thế nào, với tâm
trạng gì? Thầy nói: “Có hai việc mà tuyệt thực tuyệt đối phải có. Một là
phải có một tâm thức thanh thản, không buồn, không giận, không cầu hồ
gì. Không cầu chết cũng không sợ chết, tiếp cận hoàn toàn với đức hỷ xả
của Phật. Hai là tuyệt đối không ăn, dĩ nhiên, cũng không uống, không
chích bất cứ thứ gì”. Thân thì không ăn uống, tâm thì hỷ xả. Ấy là ông
chính trị gia hay ông thầy tu?
Thầy tôi có thắng có
bại trong hành động, như bất cứ ai hành động. Nhưng thắng, Thầy dành cho
người khác hưởng; bại, Thầy nhận một mình. Thắng hay bại, Thầy đều cô
đơn. Suốt đời, Thầy cô đơn. Sau mỗi tranh đấu thắng lợi, bao giờ cũng có
lắm anh chính khách xun xoe sau lưng các lãnh tụ. Ai tranh đấu bên cạnh
Thầy chỉ hưởng cơm hẩm nước rau. Suốt đời, Thầy không nhân nhượng với
cái gian, cái ác, cái xảo quyệt, cái ma lanh ma lẹ của bán buôn chính
trị. Về riêng Thầy, có lần tôi nghe Thầy nói một câu bâng quơ: nước
trong quá thì không có cá. Có gì để nhậu nhẹt trong cái am của Thầy đâu!
Ai chơi hoa, cắm hoa đều biết: dù hoa thanh khiết đến bao nhiêu đi nữa,
sau ba ngày thì nước trong bình bắt đầu hôi. Có kẻ chỉ thấy hoa đẹp,
không thấy nước hôi. Thầy thấy nước hôi, không dùng hoa đó để cúng Phật.
Tôi học được ở Thầy cái nhìn đó để không sợ cô đơn trong cuộc đời. Và
trong sự thật.
*
Thầy sống cô đơn như
vậy từ sau 1975 đến nay, không màng thế sự, khen chê, không thanh minh,
không tiếp khách. Thầy sống như Thầy đã tuyệt thực, thanh thản dịch
kinh. Thầy sống như để trả lời câu hỏi về Thầy ngày trước: Thầy chỉ là
một ông thầy tu không hơn không kém, bây giờ cũng như bao giờ. Có điều
là ông thầy tu này có cặp mắt sáng quắc, dữ thì thật dữ mà hiền thì thật
hiền, khi dữ thì Vô úy, khi hiền thì Từ bi, hai chữ đỏ như son trong Lập
Trường ngày trước. Tôi không biết nên nói gì với tuổi trẻ ngày nay ngoài
hai chữ mà tôi đã học được ngày xưa.
Vô úy, ai cũng đã thấy
nơi Thầy. Không sợ! Còn Từ bi? Từ bi không phải chỉ là lòng thương. Phải
là lòng thương nào có thể vừa cho vui vừa cứu khổ. Điều này, Phật tử ai
cũng rõ. Nhưng ít ai biết tại sao phải từ bi như là một định luật. Thầy
giảng: tại vì sống là tương quan, không ai có thể sống một mình, cho nên
sống là phải giúp nhau, cho vui và cứu khổ lẫn nhau. Lòng từ bi đó tạo
cho mình cái nhìn bình đẳng: thấy tất cả đều khổ, do đó mình phải cho
vui và cứu khổ hết thảy.
Thầy giảng, tôi hiểu
suốt. Và tôi biết đó là lý tưởng của Thầy, Thầy sống như vậy. Nhưng thắc
mắc của tôi là ông thầy tu của tôi từ bi như thế nào trong những hành
động mà dù muốn dù không cũng mang tính chính trị? Tôi đọc Thầy: “Cứu
cánh của từ bi là thấy người với mình là một, thân người tức thân ta… Do
từ bi, mình tự đưa mình ra chịu khổ cho người. Xem tất cả như con một,
thấy thân người như thân mình, thì còn có gì mà không làm nổi?”
Thầy tôi rất Thầy tôi
ở mấy chữ “còn có gì mà không làm nổi”. Người ta nể Thầy, sợ Thầy, phe
nào cũng sợ Thầy là vì ở Thầy toát ra mấy chữ ấy. Nhưng cái gì nơi người
ta sợ Thầy? Cái gì sợ từ bi? Cái ác! “Nhất là vào thời đại này – Thầy
viết – thời đại mà về mặt tâm lý ta có thể thấy rõ rệt khắp đây đó hiện
thân của lòng tàn ác. Tàn ác, như một ngọn lửa tỏa khói đen nghịt và cao
ngất, phủ bọc lấy loài người đau khổ. Mà chống lại lòng tàn ác thì chỉ
có lòng từ bi”.
Phải đọc thêm một câu
nữa để thấy văn tức là người, giọng văn của Thầy thế nào thì Thầy sắc
như thế ấy, hiện thân ra như thế ấy trước mắt đối phương, nghĩa là cái
ác: “Bởi vậy, kẻ nào mỉa mai rằng thời đại này mà còn nói đến chuyện từ
bi, thì kẻ ấy chính là kẻ đang tàn ác. Kẻ nào trực tiếp hay gián tiếp
làm tổn thương đến uy lực của từ bi là kẻ tội ác của nhân loại, kẻ gieo
thảm họa cho loài người. Nếu phải thí dụ kẻ đó là kẻ ma quân thì ma quân
ấy chỉ khiếp sợ mỗi một tâm lý độc nhất, tâm lý từ bi mà thôi”.
Tôi gặp Thầy tôi khi
lịch sử Phật giáo và lịch sử chính trị miền Nam mở đầu một giai đoạn mới
với ngọn lửa Quảng Đức. Lịch sử đã chọn Thầy tôi làm kẻ đứng mũi chịu
sào trong giai đoạn đó vì lịch sử biết Thầy chống cái ác như thế nào với
một tâm lý gì. Bốn phương tám hướng đều thấy: ngọn lửa Quảng Đức là ngọn
lửa từ bi. Riêng tôi, ở trong tầm mức thấp bé của một người thường, tôi
thấy ngọn lửa đó tiếp tục cháy trong mấy câu hoài niệm Thầy viết cho Lập
Trường nhân ngày giỗ đầu của 7 em bé bị đạn của lính ông Diệm bắn chết
trước đài phát thanh Huế đêm Phật Đản 1963: “Tôi, cho đến bây giờ, vẫn
không sao nguôi ngoai được tâm trạng của một người nhìn thấy đống xương
thịt máu huyết bị hất vào một góc tường, xương thịt máu huyết của những
kẻ thân yêu mới cười nói với mình trước đó không quá 10 phút! Biết bao
giờ, hay sẽ không bao giờ, con người bớt tàn bạo, biết xấu hổ vì tội ác
của mình, để con người đừng kinh hãi vì con người”.
Thầy tôi đi vào lịch
sử chỉ vì thế: chỉ vì Thầy tự đưa thân ra gánh lấy cái khổ của quần
chúng Phật tử, chỉ vì trong xương máu của Thầy có xương máu của 7 em bé
trắng trong chết vì cái ác, chỉ vì Thầy lấy cái ác làm kẻ đồng hành
khiêu khích không ngừng.
Về Thầy, tôi nghĩ chỉ
có chuyện ấy là đáng nói. Còn tất cả chỉ là một nhầm lẫn to tướng không
cần cải chính, bình luận: người ta tưởng nhầm Thầy muốn làm Richelieu,
hồng y, thủ tướng của vua Louis XIII nước Pháp. Sự thực, Thầy tôi muốn
cao hơn thế: Thầy muốn làm ông thầy tu,
Ph.D
Cao Huy Thuần ( Tiến
sỉ đại học Pháp )
Ông sinh tại Huế,
học đại học Luật Sài Gòn (1955-1960), dạy đại học Huế (1962-1964), xuất
bản tờ báo Lập Trường (1964) trước khi qua Pháp du học.
Đầu năm 1969, ông
bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Paris và sau đó là Giám đốc Trung tâm
nghiên cứu về Cộng đồng châu Âu tại Đại học Picardie
Ông từng là giáo
sư giảng dạy tại Đại học Picardie, Pháp. Cũng như một số trí thức Việt
kiều khác, ông cũng thường xuyên về Việt Nam tham dự các cuộc hội thảo
về các lĩnh vực chính trị, xã hội
Ông đã in rất nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp về
khoa học chính trị và quan hệ quốc tế. Với tiếng Việt, ông cũng đã in và
viết rất nhiều bài báo tại Việt Nam và được đánh giá là các tác phẩm văn
chương chính trị [
Sách trình luận án
Tiến sỉ tại Pháp " Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại
Việt Nam (1857 – 1914) " ra đời cách đây 30 năm nhưng vẫn luôn mới, bởi
đó là một kho tàng tài liệu lịch sử và là tài liệu đầu tay cho bất kỳ ai
muốn tìm hiểu lịch sử mất chủ quyền của Việt Nam hồi thế kỷ 19.
*** Đây quyển
sách được giới khoa bảng đại học Hoa ky Yale University cho in ấn nguyên
phần " Luận Án Thesis Tiến sỉ tại đại học lừng danh Paris . Sách in ấn
không đề tựa là Tiến sỉ chi cả....nhưng thế giới biết Ông là Tiến sỉ
thực thụ và mời Ông làm giáo sư cho đại học của mình. "
Tác phẩm này
là một luận án tiến sĩ quốc gia đệ trình trước Đại học Paris năm 1969
của Giáo sư Cao Huy Thuần (GS Cao Huy Thuần hiện đang là Giáo sư Đại học
tại Pháp, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về Liên Hiệp Âu Châu tại Đại học
Amiens). Năm 1990, với sự bảo trợ của Đại học Yale, tác giả đã xuất bản
cuốn sách này bằng nguyên văn tiếng Pháp với nhan đề: "Les missionnaires
et la politique coloniale francaise au Viêt Nam, 1857 - 1914".
CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook:
Kim Âu
head>