Winston
Churchill (1874-1965) - Vĩ Nhân Của Nước Anh
Phạm Văn Tuấn
Sir
Winston Leonard Spencer Churchill (1874-1965) là một trong các
chính khách danh tiếng nhất trong Lịch Sử Thế Giới và cũng là một
bậc vĩ nhân của nước Anh. Vào năm 1895, ông Winston Churchill phục
vụ quân đội Anh với cấp bậc Trung Úy dưới thời đại của Nữ Hoàng
Victoria, ông về hưu vào năm 1964 khi làm Dân Biểu trong triều đại
của Nữ Hoàng Elizabeth II, cháu 4 đời của Nữ Hoàng Victoria. Ít có
người công dân nào phục vụ Tổ Quốc Anh lâu như ông Churchill.
Sau khi
Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, một mình nước Anh phải chịu đựng cuộc
chiến chống lại Đức Quốc Xã. Thủ Tướng Churchill khi đó đã dùng
lời nói, niềm tin và lòng can đảm cá nhân để thúc đẩy mọi người
dân nước Anh phải kiên nhẫn, chiến đấu đến toàn thắng.
Hình ảnh
của ông là một nhân vật bệ vệ, luôn luôn có điếu thuốc xì-gà trên
miệng và hai ngón tay giơ lên theo hình chữ V, tượng trưng cho chữ
Victory là chiến thắng, đã mang lại niềm tin cho dân chúng nước
Anh, dù cho khi ông Churchill thăm viếng cảnh đổ nát gây nên bởi
oanh tạc cơ Đức Quốc Xã, hay khi ông ra nước ngoài, vận động vì
chiến thắng và hòa bình. Ông Churchill đã từng tuyên bố chỉ cống
hiến cho dân tộc Anh "máu, công sức khó nhọc, nước mắt và mồ hôi"
để giúp cho người dân nước Anh bảo vệ được Tự Do của họ.
Không
những là một nhân vật lịch sử, một chính khách danh tiếng, Sir
Winston Churchill còn là một phóng viên chiến trường, một chiến
sĩ, một diễn giả, môt sử gia và một nhà văn xuất sắc. Sir Winston
Churchill đã quán triệt được Ngôn Ngữ Anh, đã đọc nhiều bài diễn
văn và viết ra nhiều tác phẩm bằng lời văn rõ ràng, trong sáng,
hùng hồn. Năm 1953, Giải Thưởng Nobel về Văn Chương đã được trao
tặng cho ông. 10 năm sau, 1963, Quốc Hội Hoa Kỳ cũng vinh danh Sir
Winston Churchill là Công Dân Danh Dự của Hiệp Chủng Quốc.
1/ Thuở
thiếu thời của Winston Churchill.
Winston
Leonard Spencer Churchill chào đời vào ngày 30 tháng 11 năm 1874
trong lâu đài Blenheim tại miền Oxforshire, nước Anh. Winston là
con trai lớn trong hai người con trai của Lord Randolph Churchill
(1849-1895) và bà Jennie Jerome (1854-1921), một phụ nữ Hoa Kỳ nổi
tiếng về sắc đẹp. Lord Randolph là con trai thứ ba của Hầu Tước
thứ bẩy thuộc giòng họ Marlborough. Vị Hầu Tước thứ nhất là Sir
John Churchill, một vị đại tướng đã chiến thắng tại Bleinheim,
nước Đức, vào năm 1704 nên được phong chức Hầu Tước Marlborough.
Cha và mẹ của Winston đã gặp nhau tại thành phố New York rồi thành
hôn tại thành phố Paris vào năm 1874.
Cũng
giống như các con trẻ thuộc các gia đình quyền quý của nước Anh,
Winston ít khi được gặp cha mẹ: họ đang bận rộn vì nhiều công việc
xã hội, chính trị, bởi vì Lord Randolph là thủ lãnh của đảng Bảo
Thủ. Winston được giao cho một người vú nuôi chăm sóc trong suốt
thời kỳ thơ ấu và tên của bà này là Everest. Winston vẫn thương
nhớ mẹ, và về sau đã ghi lại như sau: "mẹ tôi sống xa tôi như Ngôi
Sao buổi chiều. Tôi yêu mẹ tôi lắm, nhưng luôn luôn từ xa".
Năm
Winston được 6 tuổi, một người em trai ra đời và được đặt tên là
John. Khoảng cách về tuổi tác đã khiến cho hai anh em không thân
mật với nhau. Cũng vào tuổi này, Winston được dạy tập đọc, tập làm
toán, nhưng sở thích của cậu bé là chơi với bộ đồ chơi gồm nhiều
người lính bằng chì, cao khoảng 2 tới 3 inches, mặc quân phục và
sơn màu sặc sỡ. Với bộ đồ chơi này, Winston đã cùng một người bạn
tập dàn các thế trận giả tưởng. Cậu bé Winston vào lúc này cũng
yêu thích đọc sách, nhưng lại ghét môn Toán học.
Vào tuổi
lên 7, Winston được gửi tới trường Saint James, một trường nội trú
chủ trương kỷ luật rất nghiêm khắc, thường dùng roi vọt để trừng
phạt học sinh. Sau hơn hai năm chịu đựng gian nan tại ngôi trường
này, nhờ lời năn nỉ của bà vú nuôi và lời cố vấn của bác sĩ gia
đình, Winston được chuyển về học tại một ngôi trường nhỏ hơn, gần
thị trấn nghỉ mát Brighton. Ngôi trường này do hai bà giáo đứng
tuổi trông nom với kỷ luật nhẹ nhàng hơn và tại nơi đây, Winston
được học về tiếng Pháp, Lịch Sử và Văn Thơ. Nhà trường cũng dạy
cho học sinh về Kịch Nghệ và Winston cũng ưa thích bộ môn này.
Sau ba
năm vui sướng theo học trường Brighton, Winston phải theo bậc
trung học. Sir Randolph đã nạp đơn cho con trai vào trường Harrow,
một cơ sở giáo dục danh tiếng không thua gì Trường Eton. Muốn được
nhận vào trường này, học sinh phải vượt qua nhiều bài thi tuyển.
Winston đã không đủ điểm về môn La Tinh nhưng vì là con trai của
Lord Randolph danh tiếng nên vị hiệu trưởng đặc biệt chấp nhận
Winston vào trường. Vào ngày nhập học, các học sinh xếp hàng theo
thứ tự điểm đậu, từ xuất sắc xuống rất kém và cậu Winston đã cảm
thấy xấu hổ khi đi cuối cùng vào hội trường trước các con mắt của
những người quen biết gia đình.
Do kém về
tiếng La Tinh, Winston được học nhiều hơn về tiếng Anh với bà giáo
Somerwell, người đã dạy văn phạm và văn chương khác hẳn với các
giáo sư khác và đã khiến cho Winston yêu thích ngôn ngữ Anh.. Một
thành tích của cậu Winston là đã đọc thuộc lòng 1,200 câu thơ
trong cuốn thơ "Lays of Ancient Rome" (các bài thơ kể về Đế Quốc
La Mã cổ) của nhà thơ và sử gia người Anh tên là Thomas Macaulay.
Trong
thời gian bốn năm rưỡi theo học tại trường Harrow, Winston phải
chọn 1 trong 3 ngành dành cho con cháu của các gia đình quý tộc,
đó là Luật Pháp (để theo đuổi chính trị), Tôn Giáo (để làm nghề tu
sĩ) hay Quân Đội (sau này trở thành sĩ quan), còn các ngành học
chuyên môn khác như Y Khoa, Khoa Học, Thương Mại… được coi là chỉ
thích hợp với các trẻ em của giới trung lưu. Nhân một hôm nhìn
thấy con trai đang bày chiến trận với các người lính bằng chì,
Lord Randolph cho rằng việc gia nhập quân đội thích hợp với các
đứa trẻ có trí thông minh bị giới hạn và hợp với sở thích của
Winston.
Năm 1893
vào tuổi 18, Winston Churchill theo học Học Viện Quân Sự Hoàng Gia
(the Royal Military College) tại Sandhurst. Đây là trường Võ Bị có
danh tiếng giống như trường West Point tại Hoa Kỳ. Tại trường
Sandhurst, kỷ luật rất chặt chẽ, việc học dài và nghiêm minh,
ngoài các môn học căn bản các sinh viên được học về Luật Pháp,
Chiến Thuật và phép vẽ bản đồ. Trong dịp này, Winston bắt đầu làm
quen với môn Lịch Sử Thế Giới, Lịch Sử Quân Sự cùng các câu chuyện
về những cuộc chiến tranh đã qua. Winston Churchill cũng bị ám ảnh
bởi các trận đánh của Tướng Napoléon. Trước mùa Giáng Sinh năm
1894, Winston Churchill tốt nghiệp Học Viện Quân Sự Sandhurst với
hạng 8 trong số 150 tân sĩ quan. Hơn một tháng sau khi Winston ra
trường, Lord Randolph đã qua đời vào ngày 24-1-1985 thọ 47 tuổi.
2/ Quân
nhân và phóng viên.
Chirchill
trong quân phục sĩ quan
năm 1895
Vào tháng
3 năm 1895, Winston Churchill rời khỏi Học Viện Quân Sự với cấp
bậc Trung Úy và mong được biết tới các cuộc mạo hiểm, các cuộc
chiến. Vào thời kỳ đó, chỉ có tại xứ Cuba cuộc nổi loạn của người
dân địa phương chống lại chính quyền cai trị Tây Ban Nha. Hơn
80,000 lính Tây Ban Nha đã được gửi qua xứ Cuba để dùng vào công
tác bình định. Luật lệ của sĩ quan người Anh là phải phục vụ quân
đội trong 7 tháng. Winston Churchill muốn dùng 5 tháng nghỉ ngơi
để đi Cuba làm quan sát viên. Ông đã thương lượng với nhật báo The
Daily Graphic, tờ báo hàng đầu của thành phố London, để viết các
bài tường thuật về chiến cuộc.
Do sự
giúp đỡ của vị Đại Sứ Anh và với sự vận động của gia đình, Winston
Churchill được cấp giấy phép rồi cùng một người bạn sĩ quan tên là
Reginald Barnes xuống tàu qua New York vào mùa thu năm 1895. Họ
tới thành phố Havana, Cuba, vào tháng 11 năm đó. Người Cuba vào
thời bấy giờ đã dùng chiến thuật du kích để đánh lén quân đội Tây
Ban Nha và khi đi quan sát các mặt trận, Winston Churchill đã bị
bắn hụt nhiều lần. Trước tình hình lực lượng nổi dậy không thể
thắng nổi cuộc chiến, ông Churchill đã tiên đoán rằng người Tây
Ban Nha cũng gặp tình trạng tương tự. Cuối cùng vào năm 1898, Hoa
Kỳ đã đánh thắng người Tây Ban Nha, giúp cho xứ Cuba giành được
độc lập.
Sau khi
trở về từ xứ Cuba, Winston Churchill phục vụ một trung đoàn Anh
đóng tại Ấn Độ. Vào thời kỳ đó, Ấn Độ là một thuộc địa của nước
Anh và nhiều đoàn quân Anh đồn trú trên xứ Ấn Độ để bảo vệ các cơ
sở chính quyền và thương mại. Đời sống quân nhân tại Ấn Độ của một
sĩ quan như Winston Churchill đã không gặp vất vả và nguy hiểm. Từ
6 giờ sáng là thời gian tập dượt, kéo dài 1 giờ 30, sau đó là giờ
ăn điểm tâm. Từ 9 tới 12 giờ trưa là giờ hành chánh, các sĩ quan
lo đọc và viết các văn thư. Kế tới là bữa ăn trưa kéo dài 1 giờ 30
phút rồi tới giấc ngủ trưa, cho tới 5 giờ chiều bắt đầu thời gian
giải trí, gồm chơi "polo" hay các thứ khác. Winston Churchill bắt
đầu yêu thích chơi polo từ lúc này.
Vào thời
gian rảnh rỗi này, Winston Churchill bắt đầu đọc các sách do mẹ
gửi qua từ nước Anh: các tác phẩm viết về các nhà triết học người
Hy Lạp như Socrates, Plato, Aristotle, các công trình khoa học của
Charles Darwin, các sách về kinh tế của Adam Smith và Thomas
Malthus, nhưng ông ưa thích nhất bộ sách lịch sử "Suy Tàn và Sụp
Đổ của Đế Quốc La Mã" của Edward Gibbon.
Từ năm
1897 tại từng phần của xứ Ấn Độ, đã có vài cuộc nổi dậy chống lại
người Anh. Vào mùa hè năm đó, bộ lạc Pathan thuộc miền tây bắc đã
cầm súng vùng lên. Winston Churchill được vị chỉ huy đoàn quân thứ
4 Hussars là Sir Bindon Blood nhận làm phóng viên chiến trường.
Người Ấn Độ được trang bị nghèo nàn, làm sao thắng được đội quân
Anh hùng hậu. Sau chiến thắng này, Winston Churchill đã có đủ kinh
nghiệm và tài liệu để viết ra cuốn sách đầu tiên với tên là "Câu
chuyện của lực lượng dã chiến Malakand" (the Story of the Malakand
Field Force), mô tả về thành tích của Sir Bindon.
Cuốn sách
do Winston Churchil viết ra, do nhiều đặc tính xuất sắc, đã khiến
cho các nhân vật cao cấp trong chính quyền Anh tại London phải chú
ý. Trong một lần đi về phép, Winston Churchill được mời gặp Thủ
Tướng Anh là Lord Salisbury và ông này đã hứa sẽ giúp đỡ Churchill
khi cần.
Vào mùa
hè năm 1898, một đoàn quân Anh khác đang hoạt động tại xứ Sudan
thuộc châu Phi, để dẹp cuộc nổi dậy địa phương có tên là Whirling
Dervishes. Winston Churchill yêu cầu Thủ Tướng Anh cho ông được
theo đoàn quân Anh do Lord Earl Kitchener chỉ huy, nhưng Lord
Kitchener vì không ưa lời nói bộc trực của Churchill nên đã không
chấp nhận ông vào ban tham mưu.
Trong
trận đánh Omdurman, Winston Churchill đi trong đội kỵ binh cuối
cùng và bị quân Dervishes phục kích, giáp chiến. Trong lần giao
tranh này, ông đã phải dùng gươm và súng bắn hạ kẻ địch trong tầm
tay, rồi sau đó kết quả là cuốn sách "Trận Chiến Giòng Sông" (the
River War) được xuất bản, mang lại danh vọng cho Churchill là một
nhà văn có tài và một nhà mạo hiểm..
Nhờ đã có
danh tiếng, Winston Churchill chọn con đường chính trị nên nạp đơn
xin phục vụ đảng Bảo Thủ, là đảng phái của cha mình khi trước và
được chỉ định nói chuyện trước câu lạc bộ của đảng Bảo Thủ tại
tỉnh Bath. Sau buổi nói chuyện đó, nhà bình luận của tờ báo Daily
Mail đã phải khen ngợi Winston Churchill và một tờ báo khác lại
tiên đoán ông có thể trở thành "một lãnh tụ bình dân, một nhà báo
danh tiếng hay một nhà sáng lập ra một cơ sở quảng cáo".
Buổi nói
chuyện của Winston Churchill là bước đầu trong sự nghiệp chính trị
của ông. Nước Anh vào thời kỳ này cũng theo đuổi thể chế dân chủ
nhưng Quốc Hội Anh gồm hai Viện. Viện Dân Biểu được gọi tên là The
British House of Commons, tương đương với Hạ Viện Hoa Kỳ, còn
Thượng Viện được gọi là The House of Lord, ít có quyền hành hơn,
gồm các nhân vật nhận lãnh chức tước theo thừa kế hay do chỉ định
bởi nhà Vua hoặc Nữ Hoàng.
Nước Anh
không có Tổng Thống, quyền hành pháp thuộc về Thủ Tướng, là nhân
vật của Viện Dân Biểu, được bầu ra từ đảng chiếm đa số ghế. Vào
mùa hè năm 1899, có hai ghế Dân Biểu trống thuộc thành phố kỹ nghệ
Oldham ở mạn tây bắc. Đảng Bảo Thủ đã chọn Winston Churchill làm
một ứng viên. Sau cuộc bỏ phiếu, Winston Churchill đã gặp thất bại
dù rằng ông có danh tiếng và đã vận động tranh cử tích cực. Nhưng
ông không nản lòng về kinh nghiệm ban đầu này.
Winston
Churchill là một con người nhiều tham vọng và nghị lực. Sau lần
thất bại đầu tiên về tranh cử, ông trù liệu dấn thân vào các công
tác khác. Hai cuốn sách của ông đã được xuất bản và thuộc loại bán
chạy nhất, nên đã mang về cho ông một lợi tức vào khoảng 50,000
bảng Anh. Đây là một món tiền lớn đối với thời bấy giờ. Vào năm
1899, Churchill xin ra khỏi quân đội Anh để chuẩn bị một chuyến
mạo hiểm khác.
Vào thời
đó, một trận chiến khác đang diễn ra tại xứ Nam Phi thuộc châu
Phi. Đây là một miền đất do người Anh và người Hòa Lan xâm chiếm.
Người Hòa Lan, được gọi là người Boers hay Dutch Afrikaaneers, đã
tới miền cực nam của châu Phi vào đầu thế kỷ 16 để tìm tự do tôn
giáo và một đời sống mới, đồng thời với nhóm người Pilgrims từ
nước Anh dùng tàu thuyền qua Bắc Mỹ. Người Anh đặt chân lên châu
Phi trễ hơn, bắt đầu bằng một thuộc địa tại Cape Town. Khởi đầu do
Sir Cecil Rhodes, người Anh đã tìm thấy trong đất đai của xứ Nam
Phi có rất nhiều vàng và kim cương.
Tại xứ
Nam Phi này, hai sắc dân Hòa Lan và Anh đã không hòa hợp được với
nhau. Vào năm 1881, người Boers, hay sắc dân gốc Hòa Lan, nắm giữ
được chính quyền trong khi người Anh làm chủ nhiều nhà máy và
nhiều tiền đồn đóng quân. Trong thập niên 1890, người Anh bắt đầu
phản đối chính quyền địa phương vì họ bị đánh thuế mà không có đại
diện và tranh chấp đã diễn ra, giống như tại miền Bắc Mỹ. Tới năm
1899, quân đội của người Boers đã bao vây các trại quân Anh đồn
trú tại hai thành phố Mafeking và Ladysmith.
Cuộc xung
đột tại xứ Nam Phi đã làm cho Winston Churchill chú ý. Winston xin
được chân phóng viên chiến trường của tờ báo The London Daily Mail
và vào ngày 11-10-1899, ông xuống tàu đi Nam Phi. Vào cuối tháng
10 năm đó, Winston cập bến Cape Town thì trận chiến đang diễn ra
tại Ladysmith, cách đó 700 dậm về phía tây bắc. Phải mất nhiều
ngày dùng xe lửa và đi xe, Winston tới được thành phố Durban hiện
do người Anh chiếm đóng.
Ngày
14-11 năm đó, một chuyến xe lửa bọc thép chạy từ Durban tới
Ladysmith do Đại Úy John Haldane chỉ huy. Viên đại úy này đã mời
nhà báo danh tiếng là Churchill cùng đi nhưng không may, đoàn tàu
đã lọt vào ổ phục kích của người Boers. Đại úy Haldane, Churchill
và toàn thể đội quân Anh đều bị bắt rồi bị giải về Pretoria, thủ
phủ của người Boers, cách đó 300 dậm về phía bắc. Tất cả 6 sĩ quan
và các người hầu bị nhốt trong một ngôi trường học có hàng rào kẽm
gai, còn gần 2,000 binh lính Anh bị giữ trong một doanh trại gần
đó.
Như vậy,
vào ngày sinh nhật thứ 21, Winston Churchill là một tù binh chiến
tranh. Cùng với đại úy Haldane và hai người khác, Winston
Churchill bàn kế hoạch vượt ngục. Vào nửa đêm ngày 11 tháng 12,
Winston đã trèo được ra ngoài hàng rào nhưng các người kia không
ra được, nên ông đành phải trốn đi một mình. Ông đã đi trong đêm
tối, nhẩy lên một chiếc xe lửa. Do mạo hiểm và gặp may mắn trên
đường lẩn trốn, Winston được một người Anh định cư tại xứ Nam Phi
giúp đỡ nên tới được thị trấn Laurenco Marques, là thủ đô của
thuộc địa Bồ Đào Nha, cách xa Pretoria 300 dậm.
Chirchill
ở Hạ Viện, năm 1900
Winston
Churchill đã ở lại Nam Phi trong nhiều tháng để tường thuật về
cuộc chiến tranh với người Boers, về việc giải vây hai thành phố
Mafeking và Ladysmith. Các bài viết của ông đã hấp dẫn độc giả tại
nước Anh và cả tại Hoa Kỳ rồi sau này được xuất bản thành sách,
thuộc loại bán chạy nhất, có tên là "Từ London tới Ladysmith".
Winston
Churchill trở về nước Anh vào tháng 7-1900 và được đón mừng như
một vị anh hùng. Danh tiếng của Churchill được nhiều người biết
tới nên đảng Bảo Thủ Anh lại yêu cầu ông ra tranh cử tại thành phố
Oldham, nơi mà trước kia ông đã gặp thất bại. Trong cuộc vận động
kỳ này, đảng Cấp Tiến (the Liberals) đã tìm cách dèm pha ông nhưng
chiến thuật của họ đã không có kết quả. Ngày 1-10-1900, Winston
Churchill được bầu vào Quốc Hội Anh.
3/ Hoạt
động chính trị và lập gia đình.
Vào
khoảng đầu thế kỷ 20, các đại biểu Quốc Hội không được trả lương,
họ phải sống bằng các nguồn lợi tức khác. Vì đã được coi là một
anh hùng trong trận chiến với người Boers, Winston Churchill được
mời đi các nơi diễn thuyết và tại mỗi địa điểm, ông được trả từ
500 tới 1,000 bảng Anh. Mỗi tuần lễ, Winston Churchill đã nói
trước khán giả 4 hay 5 lần và những người nghe đã hoan hô, cổ võ
ông như đối với các nhà vô địch thể thao.
Winston
Churchill gặp một người Mỹ là thiếu tá Pond. Ông này thu xếp một
chuyến đi để Churchill qua Hoa Kỳ và Canada. Vào tháng 12 năm
1900, Winston Churchill xuống tàu qua Bắc Mỹ để trình bày trước
thính giả Hoa Kỳ về những kinh nghiệm chiến tranh của ông.
Churchill được thiếu tá Pond giới thiệu là "một vị anh hùng trong
5 trận chiến, một tác giả của 6 cuốn sách và là thủ tướng tương
lai của nước Anh".
Nhưng
điều làm ông cảm động nhất là lời giới thiệu trong buổi diễn
thuyết tại thành phố New York bởi Đại Văn Hào danh tiếng Mark
Twain, tác giả các cuốn truyện kể về Tom Sawyers và Huckleberry
Finn, mà độc giả Hoa Kỳ ai cũng biết đến. Đại Văn Hào Mark Twain
đã nói rằng ông Winston Churchill "có cha người Anh và mẹ người
Hoa Kỳ khiến cho ông là một người hoàn toàn". Khi viếng thăm thủ
đô Washington, Winston Churchill cũng được gặp Tổng Thống McKinley
và Phó Tổng Thống Theodore Roosevelt.
Tại thành
phố New York, Winston còn gặp một người quen cũ, hiện nay là một
chính trị gia hàng đầu: ông Bourke Cochran. Cochran gốc người Ái
Nhĩ Lan, được giáo dục tại Pháp, di cư qua Hoa Kỳ lúc còn trẻ. Ông
là một luật sư thành công, một nhân vật có uy tín và một diễn giả
hữu hạng. Cochran đã giúp đỡ và đối xử với Winston Churchill như
một người con, đã chỉ dạy cho Churchill các bí quyết của tài hùng
biện. Về chính trị, ông Cochran là một nhà cấp tiến, chủ trương tự
do mậu dịch giữa các quốc gia và chính quyền phải giúp đỡ dân
nghèo. Ông Cochran cũng cho rằng chính quyền Anh đối xử với người
Boers tại Nam Phi là sai lầm và sắc dân Ái Nhĩ Lan đứng về phía
các người Boers. Tư tưởng của ông Bourke Cochran đã ảnh hưởng tới
Winston Churchill về sau này.
Vào ngày
22-1-1901, Nữ Hoàng Victoria qua đời sau khi đã trị vì 64 năm, lâu
nhất trong lịch sử vương quyền của thế giới. Vị Vua mới của nước
Anh là Edward VII kêu gọi Quốc Hội họp vào giữa tháng 2. Ngày 2
tháng này là ngày An Táng của Nữ Hoàng và cũng là ngày Winston
Churchill xuống tàu từ hải cảng Boston để trở về nước Anh. Ngày
14-2, lần đầu tiên Churchill tham dự Quốc Hội Anh, ông đã lên
tiếng trên diễn đàn Quốc Hội, yêu cầu cách đối xử tử tế đối với
người Boers tại Nam Phi. Lời nói của Churchill đã được cả hai đảng
Bảo Thủ và Cấp Tiến cũng như giới báo chí Anh khen ngợi mặc dù
Winston Churchill không đồng ý với đường lối của đảng Bảo Thủ.
Winston
Churchill xuất thân từ giai cấp quý tộc của nước Anh nhưng ông lại
lo lắng về các điều kiện làm việc và gia cư của giới công nhân,
của giới dân nghèo. Ông cũng nhớ lại người mẹ nuôi khi trước, bà
Everest, nay đã già và loại người này không được chính quyền giúp
đỡ khi tuổi cao không cho phép họ làm việc như trước kia. Vì vậy,
ông hô hào lập nên quỹ an sinh xã hội.
Thời gian
bị cầm tù ngắn hạn tại Pretoria cũng làm cho Winston Churchill suy
nghĩ về tình trạng nhà tù và ông tìm kiếm các đạo luật cải thiện
các nhà giam. Vào tháng 3 năm 1904, Winston Churchill chỉ trích
chính quyền Anh, cho rằng họ phí phạn ngân quỹ khi đòi hỏi chi
tiêu nhiều hơn về Lục Quân và để phản đối bài diễn văn của ông,
Thủ Tướng Anh thời đó và vài nhân vật đã bước ra khỏi phòng họp
của Quốc Hội. Một tháng sau, ông lại ủng hộ quyền của công nhân
được thành lập nghiệp đoàn, khiến cho các báo chí của phe bảo thủ
gọi ông là "cấp tiến" (radical). Winston Churchill luôn luôn lên
tiếng bênh vực cho những gì ông tin là có lợi cho đất nước Anh.
Tới ngày
31-5-1904, trong phòng họp Quốc Hội, Winston Churchill đã bỏ chỗ
ngồi bên phe Bảo Thủ để qua phía Cấp Tiến, ngồi cạnh ông David
Lloyd George. Tới năm sau, Winston Churchill đắc cử Dân Biểu từ
thành phố Manchester, một nơi đa số người dân thuộc đảng Bảo Thủ.
Vào năm này, đảng Cấp Tiến thắng lớn trong cuộc bầu cử và Tân Thủ
Tướng là Sir Henry Campbell Bannerman đã mời Winston Churchill giữ
một chân trong Nội Các: Thứ Trưởng Bộ Thuộc Địa. Nhưng khi ông Thủ
Tướng bất ngờ qua đời, Herbert Asquith trở nên Thủ Tướng và Lloyd
George trở thành Bộ Trưởng Ngân Khố, thì Winston Churchill được
thăng chức lên làm Bộ Trưởng Thương Mại. Tới lúc này, bởi vì
Winston Churchill đã thay đổi từ đảng Bảo Thủ sang đảng Cấp Tiến,
nên theo nội quy, ông phải tranh cử lại và kỳ này, ông đã đắc cử
dễ dàng tại thành phố Dundee, thuộc xứ Tô Cách Lan.
Clementine Hozier
Trong
cuộc vận động tranh cử tại thành phố Dundee, Winston Churchill đã
gặp cô Clementine Hozier, một thiếu nữ thuộc gia đình Tô Cách Lan
thượng lưu nhưng không giàu có, nên phải làm nghề dạy trẻ. Vào lúc
này, Winston 33 tuổi và cô Clementine 23, vóc người cao, có sắc
đẹp và bệ vệ. Họ tìm thấy ở nhau nhiều điều hợp ý, không phải chỉ
về các quan điểm chính trị.
Vào ngày
12-9-1908, họ làm lễ cưới tại Westminster Abbey, ngôi giáo đường
danh tiếng nhất của thành phố London và bà Clementine luôn luôn
đứng cạnh chồng trong những giờ phút khó khăn nhất. Họ đã sống
hạnh phúc bên nhau trong các năm trước Thế Chiến Thứ Nhất với hai
đứa con chào đời: Diana sinh năm 1910 và Randolph năm 1912. Gia
đình Churchill này có người con thứ ba là Sarah vài tháng sau khi
Thế Chiến bùng nổ, rồi Marigold là người con gái thứ tư chào đời
vào năm 1918 và cuối cùng là cô gái Mary sinh năm 1922.
Kể từ năm
1908 tới khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Winston Churchill đã nắm
giữ nhiều chức vụ cao trong chính quyền Anh, ông luôn luôn tìm các
đạo luật tăng lương cho công nhân và giảm thời gian làm việc,
nhưng đây là giai đoạn căng thẳng tại châu Âu. Nước Đức vào lúc
này đang tăng cường lực lượng quân sự. Các đạo quân Đức đang đe
dọa miền Bắc Phi và Kênh Đào Suez, khi đó dưới quyền kiểm soát của
nước Anh.
Vào năm
1911, tàu chiến Đức đã biểu dương sức mạnh tại Morocco và hai
chính phủ Pháp và Anh phải lên tiếng phản đối. Tại nước Anh, một
số nhân vật cao cấp hô hào nên tăng cường ngân quỹ cho quân lực và
giảm bớt việc trợ giúp dân nghèo. Hoàn cảnh này đã làm cho Winston
Churchill bối rối. Tới năm 1913, khi ông Herbert Asquith trở nên
Thủ Tướng, Winston Churchill được mời giữ Bộ Trưởng Hải Quân. Từ
nay, ông Churchill có cơ hội thi hành các quyền lực dành cho mình.
4/
Winston Churchill và Thế Chiến Thứ Nhất.
Vào cuối
thế kỷ 19, nước Đức trước kia gồm nhiều vương quốc, đã được thống
nhất thành một quốc gia hùng mạnh đặt dưới quyền cai trị của Hoàng
Đế Wilhelm II. Giống như nước Anh và nước Pháp, nước Đức cũng sở
hữu nhiều miền đất thuộc địa tại châu Phi và châu Á, trong khi đó
người Đức đang lo tăng cường sức mạnh quân sự. Nước Đức đã liên
kết với Đế Quốc Áo-Hung, với vài quốc gia tại miền Balkan và với
nước Thổ Nhĩ Kỳ. Đối nghịch với khối quân sự này là liên minh các
nước Anh, Pháp, Nga và Ý.
Trước đe
dọa của chiến tranh, Winston Churchill phải lo lắng cải tiến ngành
Hải Quân. Ông đi xem xét từng chiến hạm, đề nghị cải tiến loại tàu
chiến dùng than thành loại dùng dầu nhờ vậy các tàu chiến có thể
nhận tiếp liệu trên mặt biển. Các đại pháo đặt trên tàu chiến cũng
được thay từ loại 13 inches sang loại 15 inches có tầm bắn xa hơn
và sức công phá mạnh hơn. Winston Churchill cũng tìm cách cải
thiện đời sống của các binh sĩ trên tàu, ra lệnh cho họ tập dượt
để sẵn sàng ứng phó khi cuộc chiến diễn ra. Vào năm 1912, Winston
Churchill đã tiên liệu vai trò quan trọng của máy bay trong các
cuộc chiến tương lai, nên ông đã cho thành lập một ngành Không
Quân trong Bộ Hải Quân "để bảo vệ các hải cảng và tàu dầu của nước
Anh".
Ngày
18-6-1914 tại Sarajevo thuộc xứ Serbia, ngày nay là Nam Tư, một
thanh niên 17 tuổi đã ám sát ông Hoàng Ferdinand Charles và bà vợ
Katharine. Biến cố này đã gây nên Thế Chiến Thứ Nhất. Do sự việc
kể trên, nước Áo tuyên chiến với xứ Serbia. Xứ Serbia này được
nước Nga bảo vệ cùng với đồng minh của Nga là nước Pháp. Nước Đức
là kẻ thù của nước Pháp và là đồng minh của nước Áo, bèn tuyên
chiến với hai nước Nga và Pháp trong khi đó, nước Anh cũng chống
lại nước Đức.
Khi quân
đội Đức tràn qua nước Bỉ trung lập để tiến đánh sang nước Pháp,
quân đội Anh đã được chuẩn bị sẵn sàng. Winston Churchill do tiên
liệu cuộc chiến, nên đã chuẩn bị Hải Quân Anh và ông đã tiên đoán
quân Đức sẽ đánh bại quân Pháp tại giòng sông Meuse thuộc phía
đông, và rồi người Đức sẽ thất bại tại giòng sông Marne. Các lời
tiên đoán của Winston Churchill đã rất chính xác, nhưng ông
Churchill không phải là không gặp thất bại.
Khi quân
đội Đức tràn vào thành phố Antwerp của nước Bỉ, ông Churchill đã
đích thân dẫn một toán lính thủy Anh tới Antwerp để ngăn chặn quân
Đức và ông đã mặc bộ quân phục Đề Đốc Anh lộng lẫy, trông giống
như đi đại hội hơn là ra chiến trường và kết quả là đoàn quân Anh
và ông Churchill đã đại bại, phải bỏ chạy về hải cảng Dunkirk của
nước Pháp. Các báo chí Anh và các người chống đối ông Churchill đã
chỉ trích sự thất bại này, gọi đoàn quân Anh là "Đoàn Xiếc
Antwerp".
Ông
Churchill còn chịu trách nhiệm về một thảm cảnh chiến tranh nặng
nề hơn. Trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất, nước Thổ Nhĩ Kỳ đã đứng về
phe Đức bằng cách tấn công nước Hy Lạp. Khi đó người Thổ đang kiểm
soát eo biển Dardanelles, gần thành phố Constantinople (ngày nay
gọi là Istanbul). Bởi vì Dardanelles là cửa ngõ dẫn vào Biển Đen
(the Black Sea) và nước Nga, nên muốn cho các đồ tiếp liệu quân sự
được chở tới nước Nga, các nước đồng minh Anh Pháp phải tấn công
Thổ Nhĩ Kỳ.
Tư lệnh
của lực lượng Anh thời đó là Lord Kitchener đề nghị một chiến lược
hành quân tấn công vào Dardanelles trong khi các chuyên viên quân
sự Anh cho rằng việc đánh bại quân Thổ và tăng cường cho nước Nga
sẽ làm cho chiến cuộc mau chấm dứt. Winston Churchill nghiên cứu
kế hoạch oanh tạc phối hợp với việc đổ bộ lên bờ biển. Thế nhưng,
cuộc oanh tạc của Hải Quân Anh tuy kéo dài, đã không tiêu diệt
được quân Thổ Nhĩ Kỳ cố thủ tại Dardanelles, trong khi quân tăng
cường Đức được gửi tới.
Trên bờ
biển của bán đảo Gallipoli, đoàn quân Thổ với võ khí tối tân, nằm
trong các công sự phòng thủ kiên cố, đã tàn sát hàng ngàn binh
lính đổ bộ người Anh và người Úc trong 9 tháng trường của năm
1915. Winston Churchill đã nhận lãnh trách nhiệm về thảm bại này.
Để tránh
cho đảng Cấp Tiến (the Liberal Party) không bị sụp đổ, các nhà
lãnh đạo đảng này đã mời đảng Bảo Thủ tham gia chính quyền nhưng
đảng Bảo Thủ đã ra điều kiện là ông Churchill phải bị gạt ra khỏi
Nội Các mới. Vào tháng 11 năm 1915, Winston Churchill từ chức
trong cảnh cay đắng nhưng ông vẫn còn là một Dân Biểu trong Quốc
Hội. Trong thời gian thất vọng này, Winston Churchill tìm an ủi
bên gia đình và ông đã khám phá ra một hoạt động tiêu khiển mới,
đó là bộ môn Hội Họa.
Churchill, năm 1916
Thế Chiến
Thứ Nhất vẫn tiếp diễn. Không bên nào thắng thế. Hàng triệu người
lính của hai phe Đức-Áo và đồng minh Anh-Pháp đã sống trong các
chiến hào, trong các hầm hố, bên trên có các bao cát và dây kẽm
gai chằng chịt. Tháng 11 năm 1915, Winston Churchill tình nguyện
tham chiến với cấp bậc Thiếu Tá, phục vụ tại mặt trận của nước
Pháp và ông đã nhiều lần thoát hiểm. Churchill đã mô tả cuộc chiến
là "tàn bạo và dữ tợn".
Sau 6
tháng ngoài trận tuyến, Winston Churchill xin từ chức và trở về
London bởi vì tiểu đoàn của ông được sát nhập với một đơn vị khác
và ông không còn nắm quyền chỉ huy nữa, đồng thời Lloyd George và
vài chính khách khác cũng cho rằng ông Churchill hữu ích hơn trong
chính quyền. Từ các kinh nghiệm ngoài mặt trận, Winston Churchill
đã viết ra các bài chỉ trích các chiến lược của quân đội Anh và
ông cũng đề nghị nên phát triển loại "xe tăng" (the tank) để bảo
vệ mạng sống của các binh sĩ.. Thực ra, ông Churchill không phải
là người phát minh ra xe tăng, nhưng ông đã đề nghị cách dùng dây
xích để xe tăng leo qua được các hầm hố, vượt qua các hàng rào kẽm
gai và được dùng như một thứ pháo đài di chuyển của bộ binh.
Vào tháng
4-1917, Hoa Kỳ tham chiến bên cạnh phe Đồng Minh, sự kiện này đã
làm gia tăng cơ hội chiến thắng. Cũng vào thời gian này, David
Lloyd George đã thay thế ông Herbert Asquith làm Thủ Tướng và các
nhà lãnh đạo đảng Cấp Tiến đề nghị Winston Churchill lãnh chức Bộ
Trưởng Đạn Dược (minister of munitions) và với nhiệm vụ này, ông
Churchill sẽ làm việc gần gũi với ông Bernard Baruch, vị bộ trưởng
tương tự của Hoa Kỳ. Trong thời gian này, do các việc làm cần mẫn
và tốt đẹp, cộng tác với lực lượng quân sự Mỹ, ông Winston
Churchill được ân thưởng "Bội Tinh Phục Vụ Đặc Biệt" (the
Distinguished Service Cross) của Hoa Kỳ, do Tướng John Pershing,
Tham Mưu Trưởng Quân Đội Hoa Kỳ, trao tặng.
Việc tham
chiến của lực lượng quân sự Hoa Kỳ chống lại quân đội Đức đã có
kết quả, mặc dù quân Đức đã dùng tới võ khí hơi ngạt, gây tử vong
khủng khiếp cho phe đồng minh. Ngày 11-11-1918, nước Đức thua
trận.
5/
Winston Churchill sau Thế Chiến Thứ Nhất.
Sau khi
chiến tranh chấm dứt, Winston Churchill cùng một số người khác
nhận lãnh trách nhiệm mang hàng triệu binh lính từ mặt trận trở về
đời sống dân sự. Ông cũng giúp các đạo quân đồng minh trú đóng tại
các nước Đức, Thổ Nhĩ Kỳ và tại miền Trung Đông xây dựng lại từ
các đổ nát do chiến tranh.
Một vấn
đề khác đã làm bận tâm Winston Churchill là "vấn đề Ái Nhĩ Lan".
Xứ sở này đang bị phân hóa. Đa số người dân Ái Nhĩ Lan theo đạo
Catholic đang đòi hỏi một quốc gia độc lập nhưng các người theo
đạo Tin Lành thuộc 5 hạt phía bắc, được gọi là Miền Ulster, lại
muốn địa phương của họ tiếp tục là một phần của nước Anh. Để giữ
cho "sân sau của nước Anh" được ổn định, Winston Churchill đã giúp
công vào thỏa ước nhờ đó xứ Ái Nhĩ Lan không bị xáo trộn trong
thời kỳ Thế Chiến Thứ Nhất, dù cho có xẩy ra một cuộc nổi loạn của
các người Catholic vào năm 1916.
Vào năm
1920, là Bộ Trưởng Thuộc Địa, ông Churchill đã tìm cách thương
thảo với ông Michael Collins, một người cương quyết bảo vệ chủ
trương Catholic. Lúc đầu, hai người đã coi nhau như kẻ thù nhưng
dần dần, họ đã trở thành hai người bạn. Churchill và Collins đồng
ý về một thỏa ước chuyển xứ Ái Nhĩ Lan thành một miền đất có một
phần độc lập, giống như hai xứ Canada và Australia và nền độc lập
của xứ Ái Nhĩ Lan đã trở thành sự thực vào năm 1923 trong khi cho
tới ngày nay, tại miền Ulster vẫn còn các xung đột giữa hai sắc
dân Tin Lành đa số, và Catholic thiểu số.
Winston
Churchilll cũng giữ một vai trò quan trọng trong các chính sách
được thi hành tại miền Trung Đông. Đây là một miền đất do người
Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát trong nhiều thế kỷ. Đây cũng là cái nôi của
ba tôn giáo lớn: đạo Thiên Chúa, đạo Hồi và đạo Do Thái.. Trước
khi Thế Chiến Thứ Nhất kết thúc, nước Anh đã hứa hẹn sẽ giúp đỡ
các quốc gia Ả Rập, kể cả Ai Cập, giành lại độc lập từ tay người
Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng một điều rắc rối khác đồng thời cũng xẩy ra: vào
năm 1917, chính quyền Anh đã công bố "Bản Tuyên Cáo Balfour", hứa
hẹn xây dựng tại Palestine một xứ sở dành cho người Do Thái..
Người ủng hộ mạnh mẽ nhất chính sách này là ông Winston Churchill.
Ông Churchill tin tưởng rằng sắc dân Do Thái đã bị lưu lạc trong
gần 2,000 năm, nên cần có một mảnh đất quê hương và ông cũng tin
rằng quốc gia Do Thái trên miền đất chiến lược này sẽ là một lợi
điểm quân sự cho nước Anh.
Năm 1921,
Winston Churchill và một số viên chức cao cấp của chính quyền Anh
đã tạo dựng nên các quốc gia Iraq và Trans-Jordan cắt ra từ lãnh
thổ cũ của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Hai nhân vật hoàng gia Ả Rập, giòng
họ Feisals, được người Anh đặt lên ngai vàng và ông Churchill hy
vọng rằng cách xếp đặt này sẽ làm vừa lòng người dân Ả Rập đồng
thời cũng sẽ cho phép lập nên một quốc gia Do Thái mà không gây ra
xung đột. Trong khi các chính sách kể trên đang được thi hành thì
tại gia đình, ông Churchill đã gặp phải hai điều bất hạnh. Tháng 6
năm đó, bà mẹ của ông bị ngã và qua đời rồi tới tháng 8, đứa con
gái trẻ nhất, Marigold mới 3 tuổi, đã chết một cách bất ngờ. Hai
tin buồn này đã khiến cho ông bà Churchill hủy bỏ tất cả các hoạt
động công cộng và lui về sống ẩn dật tại miền Tô Cách Lan. Winston
Churchill đã tìm quên trong bộ môn Hội Họa.
Năm 1922,
các điều kiện không ổn định tại nước Anh đã khiến cho đảng Cấp
Tiến phải tổ chức một cuộc bầu cử mới. Trong kỳ này, Winston
Churchill ra tranh chức Dân Biểu Cấp Tiến tại thành phố Dundee,
nhưng bệnh đau ruột dư đã không cho phép ông vận động tích cực.
Ông Churchill đã bị thất cử và đây là lần đầu tiên trong 20 năm,
ông trở về với cuộc sống gia đình.
Tháng 11
năm 1922, Winston Churchill mua một lâu đài nhỏ tại Chartwell,
thuộc miền Kent. Cũng chính tại nơi cư ngụ mới này, ông Churchill
bắt đầu một chương trình biên khảo lớn, đó là Bộ Sách Lịch Sử Thế
Chiến Thứ Nhất, gồm 6 cuốn với nhan đề là "Cuộc Khủng Hoảng Thế
Giới" (The World Crisis). Ông Churchill đã làm việc hàng giờ với
nhiều người thư ký thay phiên nhau đánh máy các bản thảo. Trong
hai năm bận rộn với công việc viết sử, Winston Churchill vẫn chú ý
tới các hoạt động chính trị. Năm 1923, ông Churchill lại bị thất
cử tại địa điểm West Leicester rồi sau đó, do không được đảng Bảo
Thủ ủng hộ, Winston Churchill đã khởi đầu một đảng phái mới có tên
là đảng Hiến Pháp (the Constitutionalists) và ông Churchill ra
tranh cử với tư cách độc lập.
Việc tạo
ra một đảng phái thứ ba là điều trái ngược với các truyền thống cũ
của nước Anh và đã theo nền nếp của nền chính trị Hoa Kỳ. Ông
Winston Churchill đã vận động tranh cử trên chiếc xe ngựa có gắn
loa phóng thanh, tại một xã hội gồm những người quý tộc và những
người lao động, ông đã được sự giúp đỡ của các phụ nữ giàu có, các
nhà thể thao và các diễn viên danh tiếng, họ đã đóng góp bằng
nhiều thời giờ và công sức. Thế nhưng, mặc dù các hào hứng trong
cách vận động, ông Churchill vẫn bị thất cử, chỉ thua 43 phiếu.
Tinh thần
tranh cử và phương cách vận động của Winston Churchill đã khiến
cho Lord Arthur Balfour phải chú ý và ủng hộ ông Churchill. Vị cựu
Thủ Tướng Anh này đã phải thuyết phục các nhân vật then chốt trong
đảng Bảo Thủ hãy tha thứ cho Winston Churchill về những lần thay
đổi đảng tịch và dành cho ông Churchill nơi tranh cử là thành phố
Epping, một địa phương mà đảng Bảo Thủ thường thắng phiếu. Hơn
nữa, vị Thủ Tướng mới là ông Stanley Baldwin lại mời Winston
Churchill giữ một chức vụ trong Nội Các: Bộ Trưởng Tài Chính (the
Chancellorship). Đây là chức vụ quan trọng thứ hai trong Nội Các
nước Anh, chỉ đứng sau Thủ Tướng, với quyền hạn tương đương với
Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện, Bộ Trưởng Ngân Khố và Chủ Tịch Quỹ Dự
Trữ Liên Bang của Hoa Kỳ. Như vậy vào tuổi 50, Winston Churchill
đã đảm nhiệm chức vụ quan trọng mà gần 40 năm về trước, cha của
ông đã nắm giữ.
Là Bộ
Trưởng Tài Chính, Winston Churchill phải trù liệu các ngân sách
của chính phủ, quyết định các ngân khoản phải tiêu và các loại
thuế phải thu. Công việc này thực ra không thích hợp với tài năng
của ông Churchill. Hơn nữa, thập niên 1920 không phải là giai đoạn
tốt đẹp về tài chính cho nước Anh. Thế Chiến Thứ Nhất đã làm yếu
đi nền kinh tế và nền kỹ nghệ. Thời kỳ khó khăn đã khiến cho ông
Churchill trở thành mục tiêu bị chỉ trích. Các người cấp tiến đã
gọi ông là kẻ phản bội, ông còn bị gán cho danh hiệu "kẻ thù của
giới lao động". Dù thế, vào năm 1925, ông Winston Churchill đã vận
động thành công việc thông qua một đạo luật về An Sinh Xã Hội nhờ
đó hơn một triệu người nghèo nhận được trợ giúp của chính quyền.
Vào năm
1926, khi ông Churchill đang giữ chức vụ, một cuộc tổng đình công
đã diễn ra trên toàn nước Anh với sự tham dự của các thợ mỏ, công
nhân hỏa xa và công nhân nhà máy, tài xế xe tải và các phóng viên
báo chí… Năm 1929, cuộc đại khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới
đã ảnh hưởng tới nước Anh. Sau cuộc bầu cử, đảng Lao Động (the
Labor Party) thắng phiếu và Ramsay MacDonald trở nên Thủ Tướng lần
thứ hai. Winston Churchill không còn nằm trong Nội Các nữa dù cho
ông vẫn giữ ghế Dân Biểu Quốc Hội. Tương lai chính trị của Winston
Churchill vào lúc này rất u tối.
6/
Winston Churchill trước Thế Chiến Thứ Hai.
Trong
thời gian 10 năm từ 1929 tới 1939, cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế đã
làm cho người dân tại nhiều quốc gia gặp cảnh đói khổ, thiếu thốn.
Tại nước Đức, Hitler và đảng Quốc Xã lên nắm chính quyền trong khi
về phía châu Á, nước Nhật Bản đang tăng cường quân sự và bành
trướng ảnh hưởng sang các quốc gia khác. Tại nước Anh, hai đảng
Bảo Thủ và Cấp Tiến đã cộng tác với nhau trong một chính phủ liên
hiệp nhưng họ có các chính sách khác với chủ trương của Winston
Churchill. Chính vào thời gian bị gạt ra khỏi chính trường này,
ông Churchill đã cùng với người con trai tên là Jack, người em
trai Randolph và con trai của ông này, cả bốn người cùng du lịch
qua xứ Canada, sau đó qua thăm tiểu bang California của Hoa Kỳ.
Tại Hollywood, Winston Churchill đã làm quen với nhiều ngôi sao
điện ảnh danh tiếng, đặc biệt nhất là Charlie Chaplin. Ông
Churchill cũng gặp ông William Randolph Hearst, chủ nhân của nhiều
tờ báo lớn xuất bản tại Hoa Kỳ.
Trong
thời gian lưu lại California và theo lời khuyên của vài người bạn,
Winston Churchill đã bỏ tiền ra mua một số cổ phần chứng khoán.
Tới tháng 10-1929, thị trường chứng khoán mất giá. Nhiều người tại
Hoa Kỳ đã tự sát vì bị mất hết tài sản. Ông Churchill cũng bị
thiệt hại nặng và ông đã tìm cách kiếm tiền lại bằng cách viết nốt
các cuốn sách còn dang dở.
Vào năm
1931, hai cuốn sách của Winston Churchill được xuất bản, đó là
cuốn cuối cùng trong Bộ Sách Lịch Sử Thế Chiến Thứ Nhất và cuốn
thứ hai có tên là "Các năm đầu của tôi" (My Early Years). Cũng
giống như các sách xuất bản trước kia, các tác phẩm của Winston
Churchill đã được bán rất chạy vì rất phổ biến. Winston Churchill
còn bắt đầu viết bộ sách bốn cuốn về lịch sử của các dân tộc nói
tiếng Anh. Ông cũng ký hợp đồng với một nhà xuất bản lớn để viết
về tiểu sử của tổ tiên của ông, ông John Randolph, Hầu Tước miền
Marlborough. Ngoài ra, Winston Churchill còn có nhiều bài viết gửi
cho các nhật báo và tạp chí, và qua những bài viết này, ông thường
vạch ra những yếu kém của chính quyền, của các nhà lãnh đạo đảng
tại nước Anh.
Vào thời
gian này tại châu Âu, Hitler bắt đầu tìm cách tăng cường quân lực.
Đối với vấn đề này, chính quyền Anh đã đề nghị mọi quốc gia cùng
tài giảm binh lực và đã có lần, Thủ Tướng Anh Ramsay MacDonald đã
cắt giảm binh lực Anh để làm gương. Trước những tham vọng của
Hitler, ông Churchill luôn luôn đặt vấn đề cảnh giác và ông đã báo
động về việc Đức Quốc Xã xây dựng Không Quân trong khi Không Lực
Hoàng Gia Anh còn quá yếu kém. Lời tiên đoán của Winston Churchill
đã thành sự thực khi Không Quân Đức oanh tạc các thành phố tại Tây
Ban Nha trong cuộc nội chiến xẩy ra vào năm 1937.
Trước các
lời cảnh cáo, chống đối chính phủ Anh của Winston Churchill, trước
các người ủng hộ ông Churchill, trước các đe dọa từ nước ngoài,
phe chống đối ông Churchill đã gọi phe Churchill là một thứ chính
phủ bí mật, còn trong bóng tối. Nhưng ông Winston Churchill đã
nhận được sự ủng hộ của Lord Beaverbrook, chủ nhân của nhật báo
lớn nhất nước Anh, của Ralph Wigram, một sĩ quan Anh đã từng theo
dõi đà tiến bộ của Không Quân Đức. Một nhân vật khác đã giúp đỡ
Winston Churchill là Thiếu Tá Desmond Morton, đã thu lượm các tin
tức về cách tăng cường và chuẩn bị kỹ nghệ và quân sự của Đức Quốc
Xã, đồng thời chỉ huy trưởng Không Quân Torr Anderson cũng thông
báo cho Winston Churchill về tình trạng yếu kém của Không Quân
Hoàng Gia Anh R.A.F.
Với các
tài liệu chính xác và phương cách thận trọng, các lời cảnh tỉnh
của Winston Churchill chưa gây được tiếng vang. Tới năm 1937,
Hitler sát nhập nước Áo vào nước Đức rồi vào đầu năm 1938, Hitler
đòi hỏi độc lập giành cho miền Sudeten tách ra khỏi nước Tiệp
Khắc. Tình hình chính trị tại châu Âu càng trở nên căng thẳng vì
các tham vọng của Hitler.
Ngài được
chọn lựa giữa chiến tranh và sự mất danh dự. Ngài đã chọn sự mất
danh dự và Ngài sẽ gặp chiến tranh. (You were given the choice
between war and dishonor. You chose dishonor and you will have
war).
--
Chirchill nói với thủ tướng Chaimberlain
Tháng
9-1938, Thủ Tướng mới của nước Anh là ông Neville Chamberlain đã
bay qua Munich để gặp mặt Hitler nhưng sau đó, đành phải công nhận
nhiều đòi hỏi của Hitler. Khi ông Thủ Tướng Chamberlain về tới phi
trường London, ông đã vẫy chào đám đông bằng một bản thỏa ước ký
với nhà độc tài Quốc Xã và ông hô lớn "Hòa Bình trong thời đại của
chúng ta" (Peace in our time). Trái lại, Winston Churchill đã coi
thỏa ước này là một bản đầu hàng. Trước Quốc Hội Anh, Winston
Churchill đã nói với ông Chamberlain: "Ngài được chọn lựa giữa
chiến tranh và sự mất danh dự. Ngài đã chọn sự mất danh dự và Ngài
sẽ gặp chiến tranh" (You were given the choice between war and
dishonor. You chose dishonor and you will have war).
7/
Winston Churchill và Thế Chiến Thứ Hai.
Sau khi
quân đội Đức Quốc Xã đã chiếm trọn xứ Tiệp Khắc, người dân nước
Anh mới nhận ra những điều cảnh cáo của Winston Churchill là đúng.
Dân chúng và nhiều tờ báo đã yêu cầu ông Churchill trở lại chính
quyền nhưng Thủ Tướng Chamberlain vẫn còn tin tưởng rằng nhà độc
tài Hitler đã được mãn nguyện. Sau đó, Hitler lại đòi hỏi hải cảng
Danzig của nước Ba Lan (ngày nay là Gdansk) phải được trả về cho
nước Đức. Tháng 7 năm 1939, nước Đức và nước Nga vốn là hai kẻ
thù, đã ký một hiệp ước hòa hoãn. Ngày 8-8-1939, Winston Churchill
nói trên đài phát thanh hướng về Hoa Kỳ, nhắc nhở cho người Mỹ nhớ
lại 25 năm về trước, vào năm 1914, quân đội Đức đã xâm lăng nước
Bỉ và ngày nay, chiến tranh sẽ xẩy ra. Sự việc này khiến cho Thủ
Tướng Chamberlain phải ký một hiệp ước bảo vệ xứ Ba Lan nếu nơi
này bị tấn công.
Ngày 1
tháng 9 năm 1939, quân đội Đức Quốc Xã tiến vào Ba Lan. Không quân
Đức đã oanh tạc các thành phố trước khi thiết giáp Đức xông đến.
Trong hai ngày, Thủ Tướng Chamberlain kêu gào quân Đức ngừng lại,
nhưng vô hiệu quả. Ngày 3-9-1939, hai nước Anh và Pháp tuyên chiến
với Đức và Ý.
Tới thời
điểm này, dân chúng Anh đòi hỏi Winston Churchill trở về chính
quyền. Vị anh hùng Churchill khi trước, nay được bổ nhiệm làm Bộ
Trưởng Hải Quân (the First Lord of the Admiralty). Điện tín được
đánh đi tới các con tàu chiến Anh như sau: "Winnie đã trở về".
Winnie là tên gọi thân mật của Winston Churchill. Các con tàu Hải
Quân Anh đều treo cờ, chào mừng sự trở về ngành Hải Quân của
Winston Churchill.
Sau khi
nước Ba Lan bị chia cắt làm hai, phần phía đông thuộc Liên Xô,
phía tây thuộc Đức Quốc Xã, tình hình chiến tranh lắng đọng trở
lại. Các binh lính Anh và Pháp vẫn hướng súng, phòng thủ sau trận
tuyến Maginot dài 300 dậm. Ngày 10 tháng 5 năm 1940, quân lực Đức
Quốc Xã tấn công nước Bỉ và Hòa Lan. Xe tăng Đức đè bẹp dễ dàng
mọi kháng cự. Thủ Tướng Chamberlain đành phải từ chức. Winston
Churchill được mời nhận chức vụ Thủ Tướng. Nội Các mới gồm các
lãnh tụ của cả ba đảng: ông Anthony Eden, thuộc đảng Bảo Thủ, lo
Bộ Chiến Tranh, Sir Archibald Sinclair, nhà lãnh đạo đảng Cấp
Tiến, đứng đầu Bộ Không Quân, lãnh tụ đảng Lao Động là ông Clement
R. Attlee đảm nhiệm chức vụ Phó Thủ Tướng, còn Winston Churchill
kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng.
Bài diễn
văn đầu tiên của Thủ Tướng Churchill nói trước Quốc Hội Anh là một
văn bản mạnh, đầy ý nghĩa của ngôn ngữ Anh. Ông Churchill đã nói:
"Tôi không có gì để cống hiến ngoài máu, công sức khó nhọc, nước
mắt và mồ hôi…" và ông kêu gọi phải thực hiện "Vinh Quang bằng mọi
giá, bởi vì không có Vinh Quang, sẽ không có Sống Còn". Các lời
nói của Thủ Tướng Churchill là các vũ khí, và sức mạnh của các bài
phát biểu của ông đã được chứng tỏ trong các năm sắp đến. Lời kêu
gọi của ông Winston Churchill đã làm gia tăng tinh thần chiến đấu
của dân tộc Anh, giúp họ có thêm can đảm trong cuộc chiến đầy gian
nan trước lực lượng quân sự Đức Quốc Xã.
Ngày
16-5-1940, Thủ Tướng Churchill bay qua Pháp, nơi này đang chống cự
sức tấn công của Đức. Khi người Pháp yêu cầu Thủ Tướng Anh trợ
giúp nước Pháp về các phi cơ quân sự thì ông Churchill đã từ chối,
bởi vì không quân Anh chỉ bằng một phần năm không lực Đức, còn cần
dùng để bảo vệ các hòn đảo Anh Cát Lợi. Ông Churchill chỉ hứa hẹn
sẽ cung cấp nơi ẩn náu cho những người Pháp kháng chiến.
Ngày 2
tháng Sáu, 300,000 quân nhân Anh và Pháp phải rút lui về bờ biển
Dunkirk trên lãnh thổ Pháp, họ đang cầm cự trước sức tấn công vũ
bão của lực lượng Quốc Xã. Vào lần nguy ngập này, Thủ Tướng
Churchill lại phải kêu gọi dân tộc Anh hỗ trợ một công tác giải
cứu trong cảnh tuyệt vọng và trong vòng 24 giờ, hơn 800 tàu thuyền
đủ loại, từ tàu chiến tới thuyền buồm, từ du thuyền tới tàu kéo,
công cũng như tư, đã qua lại Eo Biển Channel rộng 35 dậm, để cứu
các đạo quân rút về nước Anh trong khi đó, Không Lực Hoàng Gia Anh
vẫn bay lượn, ngăn cản các phi cơ săn đuổi của Đức Quốc Xã. Kết
quả là các đoàn quân Anh và Pháp đã phải bỏ lại toàn bộ võ khí
nặng và đã được cứu thoát.
Sau cuộc
rút lui Dunkirk, Thủ Tướng Churchill lại nói với nhân dân nước
Anh:
Chúng ta
sẽ bảo vệ hòn đảo của chúng ta bằng mọi giá… Chúng ta sẽ chiến đấu
trên bờ biển, chúng ta sẽ chiến đấu trên các mảnh đất đổ bộ, chúng
ta sẽ chiến đấu trên các cánh đồng, chúng ta sẽ chiến đấu trên các
ngọn đồi …, chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng.
Tại thủ
đô Washington, Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt đã lắng
nghe lời Thủ Tướng Churchill và ông Roosevelt đã quay sang nói
chuyện với ông Harry Hopkins là phụ tá của Thủ Tướng Anh rằng:
"Những gì chúng tôi cung cấp cho nước Anh sẽ không là thứ tiền đổ
xuống mương, khi nào mà ông già đó còn đảm đương nhiệm vụ. Nước
Anh sẽ không bao giờ đầu hàng".
Ngày
14-6-1940, quân đội Quốc Xã tiến vào thành phố Paris. Một tháng
sau, Hitler đề nghị một giải pháp hòa bình với nước Anh, với ý
nghĩa là lính Quốc Xã sẽ kiểm soát đời sống của người dân Anh. Thủ
Tướng Churchill đã nhờ Lord Halifax, Đại Sứ Anh tại Hoa Kỳ, lên
tiếng trên đài phát thanh, bác bỏ đề nghị của Đức Quốc Xã.
Sau khi
nước Pháp đầu hàng, nước Anh đang đứng trước hiểm họa xâm lăng của
Đức Quốc Xã. Khi phải đối đầu với hiểm nguy này, Thủ Tướng
Churchill đã nói: "Trận chiến trên đất Pháp đã xong. Tôi trông đợi
trận chiến trên đất Anh bắt đầu.. Lệ thuộc vào trận chiến này là
sự sống còn của nền Văn Minh Thiên Chúa Giáo… Nếu chúng ta bại
trận, toàn thể thế giới kể cả Hoa Kỳ, sẽ chìm vào trong vực thẳm
của một thời đại đen tối mới… Bởi vậy, hãy chuẩn bị vì các nhiệm
vụ của chúng ta và nếu nước Anh và khối Thịnh Vượng Chung còn tồn
tại trong một ngàn năm nữa, thì đây là giờ phút quyết định".
Có lẽ do
chủ trương kháng cự mãnh liệt của Thủ Tướng Churchill, cuộc xâm
lăng hải đảo Anh Cát Lợi đã không diễn ra. Đức Quốc Xã chỉ tấn
công nước Anh bằng không lực vì Hitler tin rằng do triệt hạ các cơ
sở phòng thủ và lực lượng Không Quân Hoàng Gia Anh, nước Anh sẽ
phải đầu hàng.
Trận
chiến tiêu diệt nước Anh bắt đầu vào tháng 8 năm 1940. Vào tháng 9
năm đó, Không Quân Đức đã oanh tạc nặng nề thủ đô London và các
thành phố khác. Tất cả 25 không đoàn của Không Quân Hoàng Gia Anh
đã bay lên nghênh chiến và ngăn chặn các kẻ xâm lấn. Trong dịp
này, nhiều phi công đã bay 18 giờ một ngày. Công sức của các phi
công Anh đã mang lại kết quả: 56 oanh tạc cơ Đức đã bị bắn hạ
trong 1 ngày và các phi cơ Đức khác đã phải bỏ chạy. Khi khen ngợi
lòng dũng cảm của các phi công Anh, Thủ Tướng Churchill đã nói:
"Chưa bao giờ trên mặt trận xung đột, một số người lớn như vậy lại
mắc nợ một số người nhỏ như vậy".
Churchill
đi bộ qua tàn tích của Nhà thờ lớn, 1941
Công cuộc
oanh tạc dữ dội của không quân Quốc Xã đã khiến cho thành phố
London trở thành đống gạch vụn, 100 ngàn thường dân bị giết, các
đám cháy lớn do bom nổ gây nên cũng làm gia tăng thiệt hại về nhân
mạng và tài sản. Từ nay, trẻ em được di tản thật xa thành phố, các
người còn ở lại thành phố London phải sống dưới các con đường hầm.
Trong cảnh đổ nát này, Thủ Tướng Churchill đã đi an ủi người dân
Anh. Ông Churchill thường chào đám đông dân chúng bằng cách giơ
hai ngón tay thành hình chữ V, tượng trưng cho chữ "Victory" hay
"Chiến Thắng". Dấu hiệu này của Winston Churchill đã được mọi
người Anh dùng đến để biểu lộ niềm tin vào thắng lợi của ngày mai.
Vào mùa
xuân năm 1941, các trận oanh tạc của Không Quân Đức đã giảm bớt
nhưng nước Anh vẫn còn nằm trong tầm nguy hiểm. Thiếu thực phẩm,
thiếu tiếp liệu, nước Anh trông chờ vào nguồn tiếp tế từ hai xứ
Canada và Hoa Kỳ và khi hàng hải thương thuyền Anh chở các mặt
hàng trên Đại Tây
Dương, nhiều con tàu đã bị các tàu ngầm Đức loại U bắn chìm. Trong
hoàn cảnh tuyệt vọng, Thủ Tướng Churchill đã kêu gọi Hoa Kỳ và để
đáp lại lời yêu cầu, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã cho nước
Anh mượn 50 khu trục hạm để bảo vệ các đoàn tàu Anh trên mặt biển.
Việc trợ giúp của Hoa Kỳ đã làm cho dân chúng Anh lên tinh thần.
Vào thời điểm này, Hoa Kỳ vẫn còn đứng trung lập trước trận chiến
tại châu Âu bởi vì nhiều người Mỹ phản đối việc Hoa Kỳ liên hệ tới
chiến tranh, nhưng các bài diễn văn của Thủ Tướng Churchill đã gây
được niềm tin nơi người dân Mỹ, rằng nước Anh xứng đáng được trợ
giúp để chống ngoại xâm.
Vào tháng
7 năm 1941, quân đội Đức Quốc Xã hướng qua phía đông, xâm lăng
Liên Xô mặc dù hai quốc gia này đã ký thỏa ước bất tương xâm.
Tháng 8
năm 1941, Thủ Tướng Churchill qua Hoa Kỳ bằng chiến hạm Prince of
Wales, để họp bàn với Tổng Thống Roosevelt. Cả hai nhà lãnh đạo đã
ký "Thỏa Ước Atlantic" (the Atlantic Charter) trong đó có các
chương trình hòa bình sau khi chiến thắng, chương trình về Tổ Chức
Liên Hiệp Quốc, về nền tự do của thế giới và về các phương cách
ngăn ngừa chiến tranh trong tương lai.
Ngày 7
tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor)
trên quần đảo Hạ Uy Di, đánh chìm phần lớn hạm đội Thái Bình Dương
của Hoa Kỳ. Ngày hôm sau, Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật Bản và Đức
Quốc Xã. Sự kiện Hoa Kỳ tham chiến, đã khiến cho ông Winston
Churchill tin tưởng rằng chắc chắn thắng lợi sẽ đến.
Vào mùa
đông năm 1942, quân đội Liên Xô chặn đứng được lực lượng Quốc Xã
tại gần thành phố Moscow và thành phố Stalingrad (ngày nay là
Volvograd) đồng thời trên mặt trận Bắc Phi, Tướng Bernard
Montgomery người Anh đã đánh bại được Thống Chế Erwin Rommel của
Đức tại El Alamein và quân đội Nhật Bản cũng bắt đầu phải rút lui
trước sức tấn công của quân lực Hoa Kỳ trên biển Thái Bình Dương.
Vào năm
1943, Thủ Tướng Churchill đã qua Hoa Kỳ hai lần để thảo luận với
Tổng Thống Roosevelt về các kế hoạch tấn công tại châu Âu. Ngoài
ra, ông Churchill còn thực hiện nhiều chuyến đi nguy hiểm khác:
tới Teheran, nước Ba Tư, để gặp Thống Chế Stalin của Liên Xô, tới
Cairo thuộc Ai Cập và Casablanca, Bắc Phi, để hội đàm với Tổng
Thống Roosevelt. Mặc dù Liên Xô là một nước đồng minh trong công
cuộc chống lại Đức Quốc Xã, nhưng ông Winston Churchill vẫn không
tin tưởng Joseph Stalin. Ông chủ trương quân đội đồng minh nên đổ
bộ tại Hy Lạp và tại các quốc gia trên bán đảo Balkans để ngăn cản
Liên Xô không thể kiểm soát được các vùng đất này nhưng vào giai
đoạn đó, Tướng George C. Marshall là Tham Mưu Trưởng của Hoa Kỳ và
Tướng Dwight D. Eisenhower, Tư Lệnh Tối Cao các lực lượng Đồng
Minh tại châu Âu, lại cho rằng nên tổ chức một cuộc tấn công qua
eo biển Channel vào đất Pháp.
Bức hình
lịch sử "Hội Nghị Yalta"
Chirchill, Roosevelt, Stalin
Ngày 6
tháng 6 năm 1944, cuộc đổ bộ của quân lực Đồng Minh bắt đầu. Sáng
hôm đó, Thủ Tướng Churchill đã nói trước Quốc Hội Anh: "Tôi phải
công bố rằng trong đêm qua và vào các giờ của sáng hôm nay, một
hạm đội gồm 4,000 tàu chiến và hàng ngàn tàu nhỏ khác, đã băng qua
Eo Biển Channel". Chính ông Churchill đã muốn tham dự vào cuộc đổ
bộ lịch sử này nhưng Vua nước Anh đã giữ lại vị Thủ Tướng 70 tuổi,
và 6 ngày sau đó, Thủ Tướng Churchill cũng đã qua đất Pháp để quan
sát mặt trận cùng với Tướng Montgomery.
Phải mất
thêm 10 tháng nữa, cuộc chiến tại châu Âu mới chấm dứt. Trong thời
gian này, Thủ Tướng Churchill đã thực hiện nhiều chuyến đi khác:
tới thành phố Quebec, Canada, để gặp Tổng Thống Roosevelt, qua đất
Pháp và thành phố Moscow để hội thảo với Thống Chế Stalin, tới
Yalta trên miền đất Liên Xô để bàn kế hoạch hòa bình hậu chiến với
Tổng Thống Roosevelt và Thống Chế Stalin.
Ngày 12
tháng 4 năm 1945, Tổng Thống Roosevelt qua đời bất ngờ vì xuất
huyết não trong khi đang nghỉ ngơi tại Warm Spring, Georgia. Ngày
30-4, Hitler tự sát dưới hầm trong thành phố Berlin. Ngày 7-5, Đức
Quốc Xã đầu hàng. Chiến tranh tại châu Âu chấm dứt.
Ông
Winston Churchill đã hô hào dân chúng Anh kháng chiến vì sự sống
còn và nền tự do của nước Anh. Ông cũng vận động chính quyền Hoa
Kỳ tham gia vào các công tác trợ giúp cũng như tham chiến để mang
lại chiến thắng. Trong các giờ phút hiểm nguy và khó khăn, ông
Winston Churchill đã đi khắp nơi và theo ước lượng của người phụ
tá của ông, vị Thủ Tướng 70 tuồi này đã "thực hiện hơn 125,000 dậm
trong các công tác chiến tranh, trải qua hơn 800 giờ trên biển và
hơn 350 giờ trên không". Ông Churchill đã gặp Tổng Thống Roosevelt
9 lần và đã trao đổi với vị Tổng Thống này hơn 1,700 điện tín.
Ngoài ra, sự đóng góp của ông Winston Churchill vào chiến thắng
còn được Tướng Omar Bradley diễn tả bằng câu nói "Mỗi bài diễn văn
của ông Winston Churchill tương đương với một sư đoàn".
8/ Sir
Winston Churchill.
Cuộc
chiến tranh tại châu Âu đã chấm dứt nhưng trên mặt biển Thái Bình
Dương, quân lực Hoa
Kỳ vẫn còn tấn công quân đội Nhật Bản. Sau hai trái bom nguyên tử
thả xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản chịu đầu
hàng vô điều kiện vào tháng 8 năm 1945. Một kế hoạch hòa bình và
xây dựng lại châu Âu đổ nát phải được thực hiện. Vì vậy Thủ Tướng
Churchill đã hội họp với Tổng Thống Hoa Kỳ mới Harry S. Truman và
Thống Chế Stalin tại Potsdam, tại nước Đức vào tháng 7 năm 1945.
Trong cuộc hội đàm này, Stalin đòi hỏi rằng các quốc gia Đông Âu
gồm Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, Rumania, Bulgaria và một phần nước
Đức phải ở dưới quyền
bảo trợ của Liên Xô. Ông Churchill đã phản đối kế hoạch này.
Tại
Potsdam, ông Winston Churchill nhận được tin báo rằng đảng Bảo Thủ
của ông đã thất bại trong kỳ bầu cử mới và không còn là đảng chiếm
đa số nữa. Chức vụ Thủ Tướng mới sẽ về tay ông Clement R. Attlee
thuộc đảng Lao Động. Như vậy tại sao vị anh hùng Churchill lại gặp
thất bại tại quê hương? Người dân nước Anh vào thời điểm này đã
quan tâm nhiều hơn về các vấn đề thực tế như công ăn việc làm, trợ
cấp an sinh và y tế, trợ cấp gia cư… Việc rời khỏi chính quyền là
một điều thất bại đối với ông Winston Churchill nhưng lại là một
niềm vui đối với bà Clementine, bà coi đó là một thứ ân phước được
che dấu khi nghĩ về tuổi cao và các công sức lớn lao mà ông
Winston Churchill đã đóng góp trong thời chiến.
Đầu năm
1946, Tổng Thống Harry Truman đã mời ông Winston Churchill nói
chuyện trong một buổi lễ ngày 5-3 tại Đại Học Westminster thuộc
thành phố Fulton, tiểu bang Missouri. Winston Churchill đã qua Hoa
Kỳ và tại khắp nơi, từ Thủ Đô Washington tới thành phố Jefferson,
Missouri, ông được dân chúng Hoa Kỳ đón chào. Trong bài diễn văn
tại Fulton, ông Winston Churchill đã chứng tỏ là một nhà hùng biện
đáng ghi nhớ. Ông đã nói về Thế Chiến Thứ Hai, về Liên Xô và cách
bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản, và ông Churchill cảnh giác mọi
người: "Hiện nay, một bóng tối đang phủ xuống trên các miền đất
mới được chiếu sáng vì thắng lợi của phe Đồng Minh. Từ Stettin
trên biển Baltic (một thành phố của nước Đức) tới Trieste trên
biển Adriatic (một thành phố của nước Ý), một bức màn sắt đã sập
ngang qua lục địa".
Winston
Churchill đã lo ngại cho các dân tộc sau "bức màn sắt" hiện nay
nằm dưới quyền kiểm soát của Liên Xô. Lúc đầu, các nhà lãnh đạo
Hoa Kỳ thời đó chưa đồng ý với lời cảnh cáo của ông Churchill
nhưng dần dần, ý nghĩa của danh từ "bức màn sắt" (the iron
curtain) được thể hiện rõ ràng và đã trở thành một danh từ trong
từ điển.
Sau khi
rời khỏi chính trường, Winston Churchill trở về với cuộc sống gia
đình, với 4 người con đã trưởng thành. Ông cũng dành thời giờ cho
bộ môn Hội Họa, đã qua các nước Pháp, Ý và châu Phi để vẽ phong
cảnh. Winston Churchill bắt đầu một dự án lớn, đó là biên soạn bộ
Lịch Sử Thế Chiến Thứ Hai
gồm 6 cuốn và bộ sách nói về các năm ông làm Thủ Tướng.
Winston
Churchill cũng nhận được nhiều danh dự. Ngày 3 tháng 1 năm 1950,
Tạp Chí Time đã đưa hình ông lên bìa báo lần thứ 7, không những
ông Churchill được gọi là "Nhân Vật Trong Năm" mà còn là "Nhân Vật
của Thế Kỷ" (Man of the Century).
Sau vài
năm cầm quyền, chính phủ của đảng Lao Động mất dần sức hậu thuẫn
của dân chúng Anh. Vào tháng 10-1951, đảng Bảo Thủ thắng thế trong
cuộc bầu cử và vào tuổi 77, Winston Churchill lại trở nên Thủ
Tướng. Lúc này ông Churchill nhận thấy các kinh nghiệm của ông
trong thời chiến đã không thích hợp với thời đại mới, nên ông đã
phân quyền cho các nhân viên Nội Các là những người có nhiều khả
năng, kể cả ông Anthony Eden. Winston Churchill chỉ lo tập trung
năng lực vào các vấn đề ngoại vụ.
Đầu năm
1952, Winston Churchill qua Hoa Kỳ, hội đàm với Tổng Thống Truman
về các vấn đề quốc tế như cuộc chiến tranh tại Triều Tiên, các vấn
đề Trung Đông, các khó khăn với Liên Xô, các nhu cầu trong quan hệ
đồng minh Anh-Mỹ.
Không lâu
sau khi ông Churchill trở về nước Anh, Vua George VI băng hà. Qua
làn sóng truyền thanh, Thủ Tướng Churchill đã truy điệu nhà Vua và
trông chờ triều đại của Nữ Hoàng Elizabeth II. Nhưng chính vào lúc
này, sức khỏe của ông Churchill cũng suy kém. Bà Clementine cho
rằng ông Churchill nên về hưu sau khi chiến tranh chấm dứt. Nhiều
nhân vật trong đảng Bảo Thủ cũng đồng ý với ý tưởng này. Nhưng ông
Churchill vẫn còn ham hoạt động.
Vào tháng
1 năm 1953, Winston Churchill dùng tàu qua thành phố New York để
thăm viếng Tướng Dwight D. Eisenhower, nhân vật sẽ lên làm Tổng
Thống Hoa Kỳ, rồi vào tháng 4 năm đó, ông chấp nhận đề nghị của Nữ
Hoàng Elizabeth II phong cho ông chức Hiệp Sĩ (the Knight of the
Garter). Đây là một trong các vinh dự lâu đời nhất của nước Anh và
chỉ được trao tặng cho các nhà quý tộc, nhưng lần này lại thuộc về
một người dân thường. Danh dự này khiến cho ông được gọi bằng Sir
Winston Churchill, giống như Sir Winston đệ nhất, người cha của
Hầu Tước Marlborough. Ngày 10-10-1953, Winston Churchill rất vui
mừng khi hay tin ông được trao tặng Giải Thưởng Nobel về Văn
Chương.
Winston
Churchill thường suy nghĩ về sự căng thẳng trong cuộc chiến tranh
lạnh, giữa các quốc gia tây phương và khối Cộng Sản sau Thế Chiến
thứ Hai. Ông đề nghị cuộc họp mặt các vị nguyên thủ của Hoa Kỳ,
Anh, Pháp và Nga, nhưng Tổng Thống Eisenhower bác bỏ ý kiến mời
lãnh tụ Liên Xô tới Hội Nghị Thượng Đỉnh họp trên đảo Bermuda. Từ
cuộc họp cao cấp này, Tổ Chức Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương NATO
(the North Atlantic Treaty Organization) đã ra đời.
Vào buổi
chiều ngày 30-3-1955, Winston Churchill đã mời ông Anthony Eden và
vài nhân vật trong Nội Các tới Văn Phòng Thủ Tướng đặt tại số 10
đường Downing. Trong buổi họp này, ông Churchill đã nói: "Tôi sắp
ra đi và ông Anthony sẽ thay thế tôi". Tối ngày 4-4-1955, Nữ Hoàng
Elizabeth II đã tới thăm ông Winston Churchill. Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử của nước Anh, một vị Vua hay Nữ Hoàng đã tôn
vinh một người dân thường đến mức độ đó.
Sau khi
rời khỏi chức vụ Thủ Tướng, Winston Churchill còn được bầu lại vào
Quốc Hội. Winston Churchill đã phục vụ Quốc Hội Anh từ năm 1901
tới 1922, rồi từ 1924 tới khi ông hồi hưu 40 năm về sau. Ông vẫn
duy trì một thời khắc biểu rất bận rộn, gồm có vẽ tranh, đi du
lịch và viết sách. Ông tiếp tục biên khảo bộ sách 4 cuốn "Lịch Sử
các Dân Tộc nói tiếng Anh" (History of the English Speaking
Peoples).
Ông
Winston Churchill cũng chú ý tới Khoa Học và Kỹ Thuật. Khi viếng
thăm Viện Kỹ Thuật MIT (The Massachusetts Institute of Technology)
và gặp gỡ Giáo Sư Lindermann, ông Winston Churchill thấy rằng nước
Anh đang thiếu một loại đại học cao cấp về ngành kỹ sư. Với sự
giúp đỡ của các nhà doanh nghiệp Hoa Kỳ và Tổ Chức Ford, ông
Winston Churchill đã thành lập nên Trường Khoa Học và Kỹ Thuật tại
Đại Học Cambridge, hay Đại Học Churchill (Churchill College) vào
tháng 10 năm 1959 và ông đã trồng cây khánh thành việc xây dựng
ngôi trường này.
Các danh
dự vẫn tới với Winston Churchill. Ngoài Giải Thưởng Nobel lừng
danh, Winston Churchill còn được Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle
trao tặng Bội Tinh Giải Phóng (Croix de la Libération), một danh
dự cao quý nhất của nước Pháp để vinh danh việc giúp đỡ của ông
đối với lực lượng kháng chiến Pháp (the Free French Forces) trong
Thế Chiến Thứ Hai. Ngày 9-4-1963, Tổng Thống Hoa Kỳ John F.
Kennedy đã tôn vinh ông Winston Churchill là Công Dân Danh Dự của
Hoa Kỳ và ca tụng ông Churchill bằng câu "Trong các ngày đen tối
khi nước Anh đứng cô đơn… ông Winston Churchill đã vận động Ngôn
Ngữ Anh rồi gửi ra mặt trận".
Vào đầu
tháng 1 năm 1965, ông Winston Churchill bị tai biến mạch máu.
Trong hai tuần lễ, nhiều lúc ông bị mê man, rồi ông qua đời vào
sáng ngày 24-1-1965 ở tuổi 90.
Ngày
30-1-1965, nước Anh đã cử hành lễ Quốc Táng cho Cựu Thủ Tướng
Winston Churchill để ghi công và kính trọng một vị Anh Hùng của
đất nước. Tang lễ của ông Churchill được cử hành rất trọng thể tại
Giáo Đường Saint Paul rồi quan tài được chở theo giòng sông
Thames, đưa về Waterloo Station, trong khi trên không có các đoàn
phi cơ thuộc Không Lực Hoàng Gia Anh bay theo. Di hài của ông
Winston Churchill an nghỉ trong phần mộ gia đình thuộc khuôn viên
nhà thờ Bladon, gần lâu đài Blenheim. Hàng triệu người trên toàn
thế giới đã theo dõi buổi đại tang lễ qua màn ảnh vô tuyến truyền
hình.
Winston
Churchill là một sử gia uyên bác. Các tác phẩm danh tiếng của ông
gồm có các bộ sách: "Cuộc Khủng Hoảng Thế Giới" (The World Crisis,
4 cuốn, 1923-29), "Các năm đầu của tôi" (My Early Years, 1930),
"Giòng họ Marlborough, 4 cuốn, 1933-38), "Thế Chiến Thứ Hai" (6
cuốn, 1948-53) và "Lịch sử của các Dân Tộc nói tiếng Anh" (A
History of the English Speaking Peoples, 4 cuốn, 1956-58).
Winston
Churchill là một chiến sĩ, một chính khách, một sử gia, một nghệ
sĩ và cũng là một bậc Vĩ Nhân xuất sắc trong Lịch Sử của nước Anh
với các đức tính cương quyết trong Chiến Tranh, cao thượng khi
Chiến Thắng và đầy thiện chí trong Hòa Bình.
Phạm Văn
Tuấn
Tài liệu
tham khảo: Wikipedia.org.; Britannica Encyclopedia, Winston
Churchill by Judith Rogers, Chelsea House Pub., N.Y., 1986.
Đọc Thêm
Tám điểm
Hiến
chương Đại Tây Dương được tạo ra để thể hiện sự đoàn kết giữa Hoa
Kỳ và Vương quốc Anh trước sự xâm lược của Đức. Nó phục vụ để cải
thiện tinh thần và thực sự đã được chuyển thành tờ rơi, được đưa
lên trên các lãnh thổ bị chiếm đóng. Tám điểm chính của điều lệ
rất đơn giản:
"Đầu
tiên, các quốc gia của họ không tìm kiếm sự phân chia, lãnh thổ
hay khác;"
"Thứ hai,
họ mong muốn không thấy những thay đổi về lãnh thổ không phù hợp
với mong muốn được bày tỏ tự do của các dân tộc liên quan;"
"Thứ ba,
họ tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc khi lựa chọn hình thức
chính phủ mà họ sẽ sống; họ muốn thấy các quyền chủ quyền và chính
quyền tự phục hồi cho những người bị buộc phải tước bỏ chúng;"
"Thứ tư,
họ sẽ nỗ lực, với sự tôn trọng đối với các nghĩa vụ hiện có của
họ, để tiếp tục hưởng thụ bởi tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ,
người chiến thắng hay kẻ bại trận, về mặt tiếp cận, đối với thương
mại và nguyên liệu thô của thế giới là cần thiết cho sự thịnh
vượng kinh tế của họ; "
"Thứ năm,
họ mong muốn mang lại sự hợp tác đầy đủ nhất giữa tất cả các quốc
gia trong lĩnh vực kinh tế với mục tiêu đảm bảo, cho tất cả, cải
thiện tiêu chuẩn lao động, tiến bộ kinh tế và an sinh xã hội;"
"Thứ sáu,
sau sự tàn phá cuối cùng của chế độ chuyên chế Đức quốc xã, họ hy
vọng sẽ thấy một nền hòa bình đủ khả năng cho tất cả các quốc gia
phương tiện an toàn trong ranh giới của chính họ, và sẽ đủ khả
năng đảm bảo rằng tất cả những người đàn ông ở mọi vùng đất đều có
thể sống ra khỏi cuộc sống của họ trong tự do khỏi sợ hãi và muốn;
"
"Thứ bảy,
một nền hòa bình như vậy sẽ cho phép tất cả mọi người vượt qua
biển và đại dương mà không gặp trở ngại;"
"Thứ tám,
họ tin rằng tất cả các quốc gia trên thế giới, vì lý do thực tế
cũng như tâm linh phải từ bỏ việc sử dụng vũ lực. Vì không thể duy
trì hòa bình trong tương lai nếu vũ khí trên bộ, trên biển hoặc
trên không tiếp tục được sử dụng bởi các quốc gia đe dọa, hoặc có
thể đe dọa, xâm lược bên ngoài biên giới của họ, họ tin rằng, đang
chờ thiết lập một hệ thống an ninh chung rộng lớn và lâu dài hơn,
rằng việc giải giáp các quốc gia đó là cần thiết. Họ cũng sẽ hỗ
trợ và khuyến khích mọi biện pháp khả thi khác. thứ sẽ làm sáng tỏ
cho những người yêu chuộng hòa bình, gánh nặng của quân đội. "
Các điểm
được đưa ra trong Hiến chương, trong khi chúng thực sự được các
bên ký kết và những người khác đồng ý, cả hai đều ngày càng kém xa
hơn so với mong đợi. Một mặt, họ bao gồm các cụm từ liên quan đến
quyền tự quyết quốc gia, mà Churchill biết có thể gây tổn hại cho
các đồng minh Anh của mình; mặt khác, họ không bao gồm bất kỳ
tuyên bố chính thức nào về cam kết của Mỹ đối với cuộc chiến.
Va chạm
Hiến
chương, trong khi nó không làm giảm sự tham gia của Mỹ vào Thế
chiến II , là một bước đi táo bạo đối với Vương quốc Anh và Hoa
Kỳ. Hiến chương Đại Tây Dương không phải là một hiệp ước chính
thức; thay vào đó, nó là một tuyên bố về đạo đức và ý định chia
sẻ. Mục đích của nó là, theo Liên Hợp Quốc , là "một thông điệp hy
vọng cho các quốc gia bị chiếm đóng, và nó đã thực hiện lời hứa
của một tổ chức thế giới dựa trên sự xác thực lâu dài của đạo đức
quốc tế." Trong đó, hiệp ước đã thành công: nó cung cấp cho các
lực lượng Đồng minh sự hỗ trợ về mặt đạo đức đồng thời gửi một
thông điệp mạnh mẽ tới các thế lực của phe Trục. Ngoài ra:
Các quốc
gia đồng minh đã đồng ý với các nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây
Dương, do đó thiết lập một mục đích chung.
Hiến
chương Đại Tây Dương là bước đầu tiên quan trọng đối với Liên Hợp
Quốc .
Hiến
chương Đại Tây Dương được các cường quốc phe Trục coi là sự khởi
đầu của liên minh Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Điều này có tác động
củng cố chính phủ quân phiệt ở Nhật Bản.
Mặc dù
Hiến chương Đại Tây Dương cam kết không có sự hỗ trợ quân sự nào
cho cuộc chiến ở châu Âu, nhưng nó có tác động báo hiệu Hoa Kỳ là
một người chơi chính trên trường thế giới. Đây là một vị trí mà
Hoa Kỳ sẽ giữ vững sau Thế chiến II trong nỗ lực tái thiết một
châu Âu bị chiến tranh tàn phá .
What Was
the Atlantic Charter? Definition and 8 Points
A Message
of Hope to the Allies
Share
Flipboard
Email
PRINT
Franklin
D. Roosevelt and Winston Churchill at the Atlantic Charter
Conference
Historical/Getty Images
History
and Culture
History &
Culture
Military
History
World War
II
Battles &
Wars
Key
Figures
Arms &
Weapons
Naval
Battles & Warships
Aerial
Battles & Aircraft
Civil War
French
Revolution
American
History
African
American History
African
History
Ancient
History and Culture
Asian
History
European
History
Genealogy
VIEW MORE
by
Martin
Kelly
Updated
June 24, 2019
The
Atlantic Charter (signed August 14, 1941) was an agreement between
the United States and Great Britain that established the vision of
Franklin Roosevelt and Winston Churchill for a post-World War II
world. One of the interesting aspects of the charter that was
signed on August 14, 1941, was that the United States was not even
a part of the war at the time. However, Roosevelt felt strongly
enough about what the world should be like that he put forth this
agreement with Churchill.
Fast
Facts: The Atlantic Charter
Name of
Document: The Atlantic Charter
Date
Signed: August 14, 1941
Location
of Signing: Newfoundland, Canada
Signatories: Franklin Roosevelt and Winston Churchill, followed by
the governments in exile of Belgium, Czechoslovakia, Greece,
Luxembourg, the Netherlands, Norway, Poland, and Yugoslavia, the
Soviet Union, and the Free French Forces. Additional nations
expressed support of the treaty through the United Nations.
Purpose
of Document: To define the Allies' shared ethics and goals for a
post-war world.
Main
Points of the Document: The eight major points of the document
focused on territorial rights, freedom of self-determination,
economic issues, disarmament, and ethical goals, including freedom
of the seas and a determination to work for "a world free of want
and fear."
Context
Churchill
and Franklin met aboard the HMS Prince of Wales in Placentia Bay,
Newfoundland to respond to Germany's successful attacks on
Britain, Greece, and Yugoslavia. At the time of the meeting
(August 9-10, 1941) Germany had invaded the Soviet Union and was
on the verge of attacking Egypt in order to close off the Suez
Canal. Churchill and Franklin were also, simultaneously, concerned
about Japan's intentions in Southeast Asia.
Both
Churchill and Franklin had their own reasons for wanting to sign a
charter. Both hoped that the charter, with its statement of
solidarity with the Allies, would sway American opinion toward
involvement in the war. In this hope, both were disappointed:
Americans continued to reject the idea of joining the war until
after the Japanese bombing of Pearl Harbor.
SPONSORED
BY GM BuyPower Card
Rewarding
Life’s Achievements
From
everyday items such as groceries, gas, and movie tickets to
big-ticket items, we'll show you how to gain Earnings to power
your life!
Read More
Eight
Points
The
Atlantic Charter was created to show solidarity between the United
States and the United Kingdom in the face of German aggression. It
served to improve morale and was actually turned into leaflets,
which were airdropped over occupied territories. The eight main
points of the charter were very simple:
"First,
their countries seek no aggrandizement, territorial or other;"
"Second,
they desire to see no territorial changes that do not accord with
the freely expressed wishes of the peoples concerned;"
"Third,
they respect the right of all peoples to choose the form of
government under which they will live; and they wish to see
sovereign rights and self-government restored to those who have
been forcibly deprived of them;"
"Fourth,
they will endeavor, with due respect for their existing
obligations, to further the enjoyment by all States, great or
small, victor or vanquished, of access, on equal terms, to the
trade and to the raw materials of the world which are needed for
their economic prosperity;"
"Fifth,
they desire to bring about the fullest collaboration between all
nations in the economic field with the object of securing, for
all, improved labor standards, economic advancement and social
security;"
"Sixth,
after the final destruction of the Nazi tyranny, they hope to see
established a peace which will afford to all nations the means of
dwelling in safety within their own boundaries, and which will
afford assurance that all the men in all lands may live out their
lives in freedom from fear and want;"
"Seventh,
such a peace should enable all men to traverse the high seas and
oceans without hindrance;"
"Eighth,
they believe that all of the nations of the world, for realistic
as well as spiritual reasons must come to the abandonment of the
use of force. Since no future peace can be maintained if land, sea
or air armaments continue to be employed by nations which
threaten, or may threaten, aggression outside of their frontiers,
they believe, pending the establishment of a wider and permanent
system of general security, that the disarmament of such nations
is essential. They will likewise aid and encourage all other
practicable measure which will lighten for peace-loving peoples
the crushing burden of armaments."
The
points made in the Charter, while they were in fact agreed upon by
the signators and others, were both more and less far-reaching
than had been hoped for. On the one hand, they included phrases
regarding national self-determination, which Churchill knew could
be damaging to his British allies; on the other hand, they did not
include any formal declaration of American commitment to the war.
Impact
The
charter, while it did not precipitate American involvement in
World War II, was a bold step on the part of Great Britain and the
United States. The Atlantic Charter was not a formal treaty;
instead, it was a statement of shared ethics and intent. Its
purpose was, according to the United Nations, to be "a message of
hope to the occupied countries, and it held out the promise of a
world organization based on the enduring verities of international
morality." In this, the treaty was successful: it provided Allied
forces with moral support while also sending a powerful message to
the Axis powers. In addition:
The
Allied nations agreed to the principles of the Atlantic Charter,
thus establishing a commonality of purpose.
The
Atlantic Charter was a significant first step toward the United
Nations.
The
Atlantic Charter was perceived by the Axis powers as the
beginnings of the United States and Great Britain alliance. This
had the impact of strengthening the militaristic government in
Japan.
Though
the Atlantic Charter pledged no military support for the war in
Europe, it had the impact of signaling the United States as a
major player on the world stage. This was a position that the
United States would firmly hold after World War II in its efforts
to rebuild a war-torn Europe.
http://www.chinhnghia.com/
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.