* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu
* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos
* Biệt kích -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV
* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí
* Khảo Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo
* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý
* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery
* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019
-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019
Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019
May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019
A List Apart Responsive Web Design
Responsive Web Design Ethan
Mastering Resposive Web Design HTML 5
HTML5 CSS3 Responsive Cookbook
Real Life Responsive Wed Design
Learning Responsive Web Design
http://www.expression-web-tutorials.com/
https://www.w3schools.com/howto/howto
https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q
https://www.codecademy.com/en/forum_
questions/532619b28c1ccc0cac002730
https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp
https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro
https://archive.org/details/responsivewebdesign
https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/
https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies
https://archive.org/details/feature_films
https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/
Báo cáo đặc biệt về
Chiến tranh lạnh Mỹ – Trung (P1)
Nguồn: “Trade can no longer anchor America’s relationship with China“,
The Economist, 16/05/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
1. Thương mại không còn là mỏ neo của quan hệ Mỹ – Trung
Kể từ khi Trung Quốc nổi lên từ đống đổ nát gây nên bởi chủ nghĩa Mao 40
năm trước, động cơ tìm kiếm lợi nhuận đã trở thành trụ cột cho sự ổn
định trong quan hệ với Mỹ. Các ứng cử viên tổng thống có thể cáo buộc
Trung Quốc ăn cắp công ăn việc làm của người Mỹ. Những vụ bê bối gián
điệp có thể vẫn âm ỉ. Nhưng sau đó, các ông chủ doanh nghiệp và các
chính trị gia ở cả Bắc Kinh và Washington đều quyết định rằng tất cả các
bên đang kiếm được quá nhiều tiền nên không thể để cho mối quan hệ trở
nên xấu đi. Việc hai bên tập trung vào những lợi ích tự thân này dẫn đến
một thỏa hiệp khó chịu. Ngay sau khi quân đội Trung Quốc tàn sát hàng
trăm, có thể là hàng ngàn người, tại Quảng trường Thiên An Môn vào tháng
6 năm 1989, Tổng thống George H.W. Bush đã viết thư riêng cho Đặng Tiểu
Bình để thúc giục các nỗ lực chung nhằm ngăn chặn “những sự kiện bi thảm
gần đây” gây hại cho quan hệ song phương. Khủng hoảng tài chính năm 2008
đã cho thấy một sự phụ thuộc lẫn nhau nguy hiểm giữa Mỹ, nhà nhập khẩu
hàng giá rẻ, và Trung Quốc, nhà xuất khẩu hàng tiết kiệm. Các thuật ngữ
mới đã xuất hiện để miêu tả cho sự cộng sinh này, như “Chimerica” hay
“G2”.
Đột nhiên, việc kiếm tiền là chưa đủ. Trong vài năm qua, tranh luận về
cách can dự với Trung Quốc sao cho hiệu quả đã nhường chỗ cho những thảo
luận về cạnh tranh chiến lược và các mối đe dọa an ninh. Thay vì tìm các
thuật ngữ mới hấp dẫn, các học giả lại đang quay lại các so sánh lịch
sử. Một số nói về năm 1914, khi đụng độ giữa các tham vọng của Anh và
Đức đã khiến mối quan hệ thương mại sâu sắc giữa hai nước bị gạt qua một
bên. Các nhà phân tích Trung Quốc bị ám ảnh về “bẫy Thucydides”, thứ
được cho là sẽ kích thích cường quốc đang nổi dậy gây chiến chống lại
cường quốc đang thống trị, như sử gia Hy Lạp Thucydides đã viết về cuộc
chiến giữa thành Sparta và thành Athens.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc luôn gây ra nhiễu loạn. Trung Quốc là đối thủ
chiến lược đáng sợ nhất, đối thủ cạnh tranh kinh tế đáng kể nhất, đồng
thời lại là đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ. Đó là một điều mới mẻ.
Cú sốc Nhật Bản trong thập niên 1970 và 1980 đã khiến các chính trị gia
đòi lập nên các rào cản bảo hộ khi thâm hụt thương mại hàng hóa của Mỹ
với Nhật Bản tăng gấp 25 lần trong vòng một thập niên. Nhưng đó là một
cuộc chiến chính trị một chiều: Nhật Bản là một đồng minh quân sự phụ
thuộc vào Mỹ. Còn đối với Liên Xô, đó là một đối thủ về ý thức hệ nhưng
không phải là một đối thủ thương mại: năm 1987, thương mại song phương
trị giá chỉ 2 tỷ đô la một năm, tức chưa bằng 0,25% tổng giao dịch
thương mại của Mỹ với thế giới. Còn năm 2018, thương mại hai chiều giữa
Mỹ và Trung Quốc đạt 2 tỷ đô la mỗi ngày, tương đương 13% tổng thương
mại với toàn thế giới của Mỹ.
Các nhà phê bình cho rằng giới chóp bu hai nước nên nhìn thấy trước điều
này. Các nhà lãnh đạo phương Tây đã hy vọng rằng việc gia nhập nền kinh
tế toàn cầu sẽ khiến Trung Quốc trở nên giống phương Tây hơn vì một tầng
lớp trung lưu đang phát triển sẽ đòi hỏi tự do ngôn luận và chính phủ có
trách nhiệm giải trình. Họ đã sai. Khủng hoảng tài chính năm 2008 và
những cơn co thắt của chủ nghĩa dân túy phương Tây đã khiến các nhà lãnh
đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Chủ tịch Tập Cận Bình, cảm
thấy tự tin hơn trong việc chối bỏ các chuẩn mực đó và khẳng định quyền
lãnh đạo tối cao của đảng Cộng sản.
Cú sốc của Mỹ trở nên tồi tệ hơn nếu xét về thương mại trong lĩnh vực
công nghệ vốn làm mờ ranh giới giữa thương mại và an ninh quốc gia. Việc
chính quyền Trump phản đối việc cho phép Huawei, một công ty công nghệ
Trung Quốc, xây dựng mạng viễn thông 5G cho Mỹ hoặc các đồng minh là một
biểu hiện cho chiều hướng tương lai đó. Những cuộc tranh luận như vậy,
về cơ bản, là về niềm tin, một “mặt hàng” ít quan trọng hơn nếu Trung
Quốc xuất khẩu giày tennis và tivi thay vì những bộ vi mạch có thể giúp
điều khiển xe tự lái trên đường và máy bay trên không. Tuy nhiên, các
hình thức tự vệ vụng về đã gây hại. Việc định nghĩa các công nghệ nhạy
cảm theo tiêu chí quá rộng, và theo lời của Henry Paulson, cựu Bộ trưởng
Tài chính Mỹ, một “bức màn sắt kinh tế” có thể sẽ chia rẽ Trung Quốc và
Mỹ, làm tắc nghẽn các dòng chảy hàng hóa, vốn, con người và công nghệ,
gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho phần còn lại của thế giới.
Tỉ trọng của TQ và Mỹ trong tổng thương mại hàng hóa toàn cầu. Nguồn:
The Economist.
Sức mạnh công nghệ ngày càng tăng của Trung Quốc đang đặt ra những gánh
nặng mới cho toàn cầu hóa, vượt ra ngoài những tranh luận cũ về công ăn
việc làm bị Trung Quốc đánh cắp. Việc General Motors bán nhiều xe hơi ở
Trung Quốc hơn ở Mỹ từng giúp cả hai nước kiểm soát sự khác biệt về ý
thức hệ. Nhưng ngày nay, chuỗi cung ứng, vốn đưa các thiết bị bán dẫn từ
Trung Quốc vào các thiết bị ở Mỹ, đang thực sự khiến rủi ro chính trị
tăng cao hơn.
Các loại vũ khí giá hàng triệu đô la của Mỹ phải dựa vào các vi mạch có
nguồn gốc từ nhiều công ty trên toàn cầu. Các cơ sở hạ tầng quan trọng
có thể chứa các thành phần nhập từ hàng chục quốc gia, yêu cầu các bản
cập nhật phần mềm từ một nhà cung cấp đóng trụ sở ở một lục địa nhất
định và gửi các luồng dữ liệu thời gian thực đến một lục địa khác. Vào
tháng Tư, một ban cố vấn đã cảnh báo Lầu Năm Góc phải lên kế hoạch cho
“các mạng internet thương mại mà ở đó không được tin tưởng vào bất cứ
ai”. Số lượng giao dịch kinh doanh ngày càng tăng đòi hỏi một sự gắn bó
trọn đời với các nhà cung cấp dịch vụ từ xa. Trong thế giới này, quan hệ
thương mại không thể được cách ly khỏi những câu hỏi cứng về việc các
quốc gia đó là đối tác, đối thủ hay kẻ thù.
Trung Quốc có quyền muốn được phát triển mạnh hơn. Thành công của nước
này trong việc giúp hàng trăm triệu người thoát nghèo là điều đáng
ngưỡng mộ. Chính sự gai góc không ngừng trong các phương pháp của Trung
Quốc đã biến việc kinh doanh từ một không gian an toàn sang một lĩnh vực
đầy tranh chấp. Các công ty phương Tây lo rằng trước khi Trung Quốc thực
sự mở cửa, họ sẽ bị đẩy ra ngoài ngay sau khi các công ty Trung Quốc đã
học được, mua được hoặc đánh cắp đủ các bí quyết của phương Tây để trở
nên tự chủ.
Không có gì để mất trừ chuỗi cung ứng của bạn
Rất ít người Mỹ có khả năng tiếp cận các lãnh đạo Trung Quốc tốt như ông
Paulson, một người ủng hộ sự can dự với Trung Quốc lâu nay. Vì vậy, rất
đáng chú ý khi hồi tháng Hai, ông tuyên bố rằng vì Trung Quốc đã chậm
chạp trong việc mở cửa nền kinh tế kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới vào năm 2001, “cộng đồng doanh nghiệp Mỹ đã chuyển từ ủng hộ
sang hoài nghi và thậm chí phản đối chính sách của chúng tôi đối với
Trung Quốc”. Các ông chủ không muốn một cuộc chiến thuế quan, ông nói,
nhưng muốn “một cách tiếp cận mang tính đối đầu hơn nữa”. Các doanh
nghiệp đang đạt được điều đó từ chính quyền Trump.
Điều này phần nào được giải thích bởi sự thay đổi ông chủ của Phòng Bầu
dục. Tổng thống Barack Obama cũng lên án các gian lận thương mại của
Trung Quốc và ép Trung Quốc ngừng ăn cắp bí mật thương mại. Một cách
muộn màng, các lãnh đạo Lầu Năm Góc của ông cũng đã ngày một bất an khi
Trung Quốc biến các rạn san hô đang tranh chấp ở Biển Đông thành các
tiền đồn quân sự. Nhưng cuối cùng, Obama đã ưu tiên hơn cho việc giải
quyết các thách thức toàn cầu, từ biến đổi khí hậu đến các đại dịch hay
phổ biến vũ khí hạt nhân, những thứ mà ông cần sự hợp tác của Trung
Quốc. Các chính sách cứng rắn đã được thảo luận không hồi kết, rồi sau
đó thường bị loại bỏ. Ngược lại, ông Trump tuyên bố rằng việc giải quyết
các vấn đề của thế giới không phải là công việc của ông.
Nước Mỹ đã trở nên đối đầu hơn với Trung Quốc một phần khác bởi vì các
doanh nghiệp đa quốc gia phản đối các rào cản thương mại đã mất đi sức
mạnh trong thời đại dân túy. Một vòng kiểm soát xuất khẩu mới trong lĩnh
vực công nghệ nhạy cảm và các quy tắc sàng lọc đầu tư chặt chẽ hơn vẫn
còn trước mắt. Quá trình đó sẽ không kết thúc chỉ bằng một thỏa thuận
ngừng bắn trong cuộc chiến thương mại của ông Trump.
Tổng thống Mỹ vừa là một triệu chứng vừa là một nguyên nhân cho sự thay
đổi cách mà Mỹ nghĩ về sự cởi mở của mình với thế giới. Các cử tri đã
bầu ra một nhà lãnh đạo với quan điểm “chân lý thuộc về kẻ mạnh”, người
khinh miệt các liên minh, hoài nghi nền pháp quyền và các giá trị phổ
quát, đồng thời tin rằng
lợi ích quốc gia luôn phải được đặt lên hàng đầu. Trong bối cảnh các lo
ngại về gián điệp, các quy định về cấp thị thực cho sinh viên khoa học
và công nghệ Trung Quốc đã được thắt chặt. Các đặc vụ FBI đã chất vấn
các học giả đến từ các viện nghiên cứu của nhà nước Trung Quốc về quan
hệ của họ với chính phủ Trung Quốc và hủy bỏ thị thực của một số người.
Thay vì Trung Quốc trở nên “phương Tây” hơn, Mỹ lại đang trở nên “Trung
Quốc” hơn.
Trong khi đó, các quan chức ở Bắc Kinh lại coi Mỹ như một cường quốc
thua cuộc cay cú, đang tìm cách ghìm Trung Quốc xuống. Họ chế giễu ý
tưởng rằng một nước Mỹ giàu có, nhiều đặc quyền đặc lợi thực sự cảm thấy
bị đe dọa, thay vào đó họ nhìn thấy ở đó một mưu đồ để đạt được các điều
khoản tốt hơn giúp các công ty Mỹ kiếm tiền. Quan điểm này bỏ qua cách
mà bao nhiêu người ở Washington đang tin rằng mối đe dọa Trung Quốc là
có thật và quan trọng hơn lợi nhuận hay các nguyên tắc của thị trường tự
do. Thật vậy, các quan chức đã buộc tội các công ty giữ im lặng khi các
gián điệp Trung Quốc ăn cắp tài sản trí tuệ, để họ giữ thể diện và tiếp
tục được tiếp cận thị trường Trung Quốc.
Một quan chức cấp cao của Mỹ nói rằng Trung Quốc đã nói dối trơ tráo khi
hứa với ông Obama vào năm 2015 rằng các chủ thể được nhà nước Trung Quốc
hậu thuẫn sẽ ngừng ăn cắp thông tin từ Mỹ để kiếm lợi nhuận. Các quan
chức than thở rằng, trong vòng xoáy tin tức điên đảo ở Washington, ít ai
để ý đến một bản cáo trạng của Bộ Tư pháp vào tháng 12 năm 2018, trong
đó cáo buộc Bộ An ninh Nhà nước Trung Quốc có quan hệ với một chiến dịch
lâu dài của nhóm tin tặc Apt10, nhóm đánh cắp bí mật từ các công ty hàng
không, vũ trụ , dược phẩm, dầu khí, hàng hải và các công nghệ khác. “Về
cơ bản, họ đã có được những viên ngọc quý của hàng trăm, hàng nghìn công
ty lớn nhất thế giới”, ông nói.
Con lắc có nguy cơ lắc quá xa. Một số người phì cười khi hồi tháng 3 Ủy
ban về Đầu tư nước ngoài tại Hoa Kỳ (CFIUS), một cơ quan chính phủ có
nhiệm vụ sàng lọc các thỏa thuận đầu tư nước ngoài vào Mỹ để loại bỏ các
rủi ro an ninh, đã yêu cầu một công ty internet Trung Quốc bán Grindr,
một ứng dụng hẹn hò cho người đồng tính có 3,3 triệu người dùng hàng
ngày. Trên thực tế CFIUS có thể có lý do. Một ứng dụng cho người đồng
tính có thể là một công cụ tống tiền, và cảnh sát Trung Quốc thường
xuyên lấy dữ liệu từ các phương tiện truyền thông xã hội tại Trung Quốc.
Tương tự là việc Thượng viện Hoa Kỳ cấm Washington, DC, không được sử
dụng tiền ngân sách để mua các toa tàu điện ngầm được sản xuất tại Mỹ
bởi một công ty nhà nước Trung Quốc, đề phòng trường hợp các máy quay an
ninh trên tàu được sử dụng cho mục đích gián điệp.
Mặc dù Trung Quốc thiếu các liên minh chính thức từng khiến Liên Xô trở
thành mối đe dọa toàn cầu, nhưng sự trỗi dậy của Trung Quốc đã chi phối
các cuộc tranh luận của Lầu Năm Góc về tương lai của chiến tranh. Kể từ
những năm 1980, Mỹ đã theo đuổi học thuyết về “hiện diện tiền phương”,
có nghĩa là các lực lượng của Mỹ có thể tự tin về việc hoạt động gần với
hệ thống phòng thủ của kẻ thù. Sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc
mang lại cho các nhà hoạch định của Lầu Năm Góc một quyết định khó khăn
nhất mà họ từng đối mặt trong nhiều năm qua: tìm ra những cách mới để
khiến việc tác chiến ở Tây Thái Bình Dương trở nên khả thi, hay kéo quân
lui ra xa và buộc đối thủ (chỉ Trung Quốc) phải chiến đấu cách xa địa
bàn nhà.
Karl Eikenberry là một chuyên gia Trung Quốc trong quân đội Hoa Kỳ,
người đã trở thành một trung tướng rồi sau đó là đại sứ Mỹ tại
Afghanistan. Bây giờ đang làm việc tại Đại học Stanford, ông mô tả cách
các chỉ huy đang vật lộn với sự kết thúc của thời kỳ Mỹ chiếm ưu thế áp
đảo: “Đang có một cuộc tranh luận gay gắt trong các lực lượng vũ trang
Mỹ về cách chống lại các nỗ lực tăng tốc của Giải phóng Quân Trung Quốc
(PLA) nhằm kiểm soát Biển Đông”.
Báo cáo này sẽ xem xét các quan điểm trái ngược nhau nhìn từ Washington
và Bắc Kinh về cách thức quản lý các khía cạnh công nghệ, quân sự, kinh
tế và chính trị của một cuộc ghanh đua quyền lực vẫn còn mới đến mức hai
bên thậm chí chưa thể đồng ý về định nghĩa như thế nào là một mối quan
hệ thành công. Hai bên phải tìm ra các quy tắc chung. Tóm tắt về thách
thức quân sự của Eikenberry có thể áp dụng được cho toàn bộ mối quan hệ
này: “Cần phải có một học thuyết mới”.
Báo cáo đặc biệt về Chiến tranh lạnh Mỹ – Trung (P2)
Nguồn: “In Washington, talk of a China threat cuts across the political
divide“, The Economist, 16/05/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
2. Quan điểm chống Trung Quốc áp đảo trong mọi tầng lớp chính trị Mỹ
Tháng Mười năm ngoái, các ông chủ của một số công ty lớn trong các ngành
công nghiệp sáng tạo đã được mời đến một văn phòng phụ cạnh Nhà Trắng.
Dưới những bức bích họa trên trần cao của Phòng Indian Treaty (trước là
Thư viện Bộ Hải quân – ND), các giám đốc điều hành đã ký một bản cam kết
không tiết lộ thông tin trong một ngày, qua đó cho phép họ được xem các
tài liệu mật. Sau đó, Giám đốc Tình báo Quốc gia Dan Coats và hai thượng
nghị sĩ trình bày cho họ nghe cách Trung Quốc đánh cắp bí mật của họ.
Sự kiện không được công bố này là ý tưởng của Thượng nghị sĩ Mark Warner
đại diện cho bang Virginia, một đảng viên Dân chủ cao cấp trong Ủy ban
Tình báo Thượng viện và bản thân là một nhà đầu tư công nghệ thành công.
Tham gia cùng ông là Thượng nghị sĩ Marco Rubio đại diện bang Florida,
một đảng viên Cộng hòa trong ủy ban.
Các vụ bắt giữ những người bị cáo buộc là gián điệp của Trung Quốc gần
đây chỉ tiết lộ một phần nhỏ những gì đang diễn ra, ông Rubio nói. Trung
Quốc “là mối đe dọa toàn diện nhất mà đất nước chúng ta từng phải đối
mặt”. Mục đích, ông khẳng định, không phải là để kéo Trung Quốc xuống mà
là để giữ gìn hòa bình. Ông nhận thấy một sự mất cân bằng trong quan hệ
giữa Mỹ và Trung Quốc mà nếu không được giải quyết thì chắc chắn sẽ dẫn
đến xung đột rất nguy hiểm.
Phát biểu một cách gãy gọn trong văn phòng Thượng viện của mình, ông
Rubio chỉ trích một mô hình kinh tế khiến các giám đốc điều hành phải
tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn. Ông buộc tội là Trung Quốc đã học cách sử
dụng hệ thống đó để biến các công ty thành những “người ủng hộ” (chính
sách của Trung Quốc). Các chính trị gia thường xuyên thề sẽ cứng rắn với
vấn đề gian lận của Trung Quốc. “Sau đó, những giám đốc điều hành này sẽ
được Trung Quốc sử dụng nhằm làm cho Nhà Trắng xuống nước”.
Các nhà đầu tư mạo hiểm cũng đã được mời tới tham dự các buổi nói chuyện
về Trung Quốc của Warner và Rubio. Rubio phàn nàn rằng kế hoạch kinh
doanh của một số công ty công nghệ ở Thung lũng Silicon là nhằm bán lại
công ty mà không quan tâm tới việc các nhà đầu tư là người Trung Quốc
hay không.
Các nghị sĩ Quốc hội đã soạn thảo các đề xuất cho một loạt các biện pháp
kiểm soát xuất khẩu mới đối với các sản phẩm được coi là quan trọng đối
với an ninh kinh tế và an ninh quốc gia, đặc biệt là sản phẩm của các
ngành công nghiệp được coi là ưu tiên trong kế hoạch “Made in China
2025”. Đó là kế hoạch của Trung Quốc nhằm xây dựng các công ty dẫn đầu
thế giới trong mười lĩnh vực công nghệ cao. Các khoản đầu tư của Trung
Quốc phải đối mặt với sự giám sát chặt chẽ hơn bao giờ hết của Ủy ban
Đầu tư nước ngoài tại Hoa Kỳ (CFIUS). Đạo luật Hiện đại hóa Đánh giá Rủi
ro Đầu tư Nước ngoài gần đây đã mở rộng phạm vi giám sát của CFIUS sang
các lĩnh vực mới, chẳng hạn như mua bất động sản gần các địa điểm nhạy
cảm. Một kế hoạch thí điểm đã bắt buộc phải xem xét cổ đông nước ngoài
trong một loạt các “công nghệ trọng yếu”. Ông Rubio coi viễn thông, điện
toán lượng tử, trí tuệ nhân tạo và bất kỳ ngành công nghiệp nào thu thập
các tập dữ liệu lớn đều là những ngành mà ông muốn đóng cửa với Trung
Quốc.
Việc tiến hành các buổi thuyết trình hồi tháng Mười – một nỗ lực lưỡng
đảng với sự tham gia của Quốc hội và các cơ quan tình báo, gần với Nhà
Trắng nhưng không nhất thiết phải thuộc Nhà Trắng – đã cho thấy nhiều
điều. Quan điểm về Trung Quốc đã trở nên cứng rắn trong toàn bộ các cơ
quan chính quyền tại Washington. Một sự đồng thuận cứng rắn mới đã đoàn
kết những gì có thể được gọi là bộ máy chính sách đối ngoại của Mỹ, bao
gồm các thành viên của cả hai đảng trong Quốc hội, Bộ Ngoại giao, Lầu
Năm Góc, Bộ Tư pháp, các cơ quan tình báo và Hội đồng An ninh Quốc gia
của Tổng thống. Bộ máy còn bao gồm Phó Tổng thống Mike Pence, người đã
biến một bài phát biểu vào hồi tháng 10 năm ngoái thành một bản cáo
trạng lên án những hành vi sai trái của Trung Quốc. Ông Trump đứng ở một
vị trí tách biệt.
Những người đứng đầu Lầu Năm Góc và các thành viên Quốc hội ngày càng
công khai gióng lên hồi chuông cảnh báo về ý định của Trung Quốc đối với
Đài Loan, hòn đảo dân chủ 24 triệu dân mà Mỹ gọi là đồng minh nhưng
Trung Quốc tuyên bố là một phần lãnh thổ của mình, có thể tái thống nhất
bằng vũ lực nếu cần thiết. Trước sự phản đối của Trung Quốc, Quốc hội đã
thông qua các đạo luật thể hiện sự đoàn kết với Đài Loan, kêu gọi chính
phủ cho phép các bộ trưởng và tàu chiến Mỹ đến thăm hòn đảo này. Một số
trợ lý thân cận nhất của Tổng thống Donald Trump là những người ủng hộ
Đài Loan từ lâu. Khi mới là tổng thống đắc cử hồi năm 2016, ông Trump đã
được thuyết phục nói chuyện điện thoại với Tổng thống Đài Loan Thái Anh
Văn. Kể từ đó, ông Trump đã chặn các đề xuất tiến hành các chuyến thăm
cấp cao nhằm thể hiện sự ủng hộ đối với Đài Loan như là một đồng minh
dân chủ. Ông coi các đồng minh là một gánh nặng và một Trung Quốc hùng
mạnh là một đối tác của Mỹ.
Anh ở bên nào?
Làm sáng tỏ một quan điểm thống nhất về Trung Quốc trong nội bộ chính
quyền Trump là rất khó. Các trợ lý của Trump sử dụng các ngôn ngữ rất
cứng rắn về Trung Quốc. Đề cập đến việc đàn áp người Hồi giáo Duy Ngô
Nhĩ ở Tân Cương, Bộ trưởng Ngoại giao Mike Pompeo đã gọi Trung Quốc là
“một trong những quốc gia tồi tệ nhất về nhân quyền mà chúng ta từng
thấy từ những năm 1930”. Giọng điệu đó là một dấu hiệu cho thấy ông chủ
của họ đã sẵn sàng bỏ qua sự lịch thiệp ngoại giao. Nhưng trong khi quan
điểm của Trump về Trung Quốc khá trùng lặp với quan điểm của bộ máy ở
Washington, thì các quan điểm đó không giống nhau hoàn toàn. Nhiều quan
chức thật sự thấy chán ngấy với tình hình Tân Cương, nơi có lẽ một triệu
người Duy Ngô Nhĩ đang bị giam giữ trong các trại cải tạo. Khi được hỏi
các quan hệ làm ăn giữa Mỹ và Trung Quốc có thể cùng tồn tại với các
chính sách cứng rắn được không, một quan chức cấp cao của chính quyền
Trump trả lời: “Các trại tập trung thực sự làm hỏng không khí của mối
quan hệ, thật không?”
Tuy nhiên, các cuộc thảo luận về nhân quyền theo kiểu Chiến tranh Lạnh
rất ít được ông Trump quan tâm. Michael Pillsbury là một chuyên gia về
Trung Quốc tại Viện Hudson, một viện nghiên cứu chính sách và là một tổ
chức tư vấn bên ngoài của Nhà Trắng. Theo quan điểm của ông, Tổng thống
Trump không phải là “một người có quan điểm ‘siêu diều hâu’ về Trung
Quốc”. Những vấn đề như Đài Loan hay Tân Cương không thu hút được sự chú
ý của ông Trump nhiều như vấn đề thương mại, ông thừa nhận. Ngay cả
trong vấn đề thương mại, Pillsbury cho rằng ông Trump thận trọng hơn các
cố vấn như Peter Navarro, người muốn các công ty Mỹ rời khỏi Trung Quốc.
Ông Trump thường nói rằng ông không muốn làm tổn thương nền kinh tế
Trung Quốc, Pillsbury lưu ý. “Ông ấy coi Trung Quốc như là một nguồn lợi
nhuận và đầu tư”.
Bộ máy chính quyền ở Washington muốn thay đổi các nguyên tắc cơ bản định
hướng cho sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ngược lại, ông Trump ca ngợi Chủ
tịch Tập Cận Bình vì đã đặt lợi ích của Trung Quốc lên hàng đầu.
Tuy nhiên, ông Trump có thể bị các trợ lý gây khó chịu khi họ nói với
ông rằng Trung Quốc đang “ăn cắp bí mật của chúng ta”. Ông cũng nhìn
thấy rủi ro chính trị trong bất kỳ thỏa thuận thương mại nào có thể bị
coi là mềm yếu. “Tổng thống hiểu rất rõ rằng đảng Dân chủ đang chờ đợi
ông nương tay với Trung Quốc”, Pillsbury nói. Thượng nghị sĩ Chris
Coons, một đảng viên Dân chủ, đồng ý rằng cứng rắn với Trung Quốc trong
Quốc hội Mỹ ngày nay “tương đương với thời những năm 1950 khi không có
rủi ro chính trị nào trong việc thể hiện quan điểm chống Liên Xô”.
Một điều đáng nói là việc ông Trump tuyên bố nâng thuế đối với Trung
Quốc vào ngày 10 tháng 5 đi kèm với các bài dòng tweet mang tính phòng
thủ khẳng định rằng Trung Quốc trông chờ một đảng Dân chủ “rất yếu” sẽ
thắng trong cuộc bầu cử năm 2020. Một quan chức cao cấp của chính quyền
Trump nỗ lực dung hòa các nhóm khác nhau. Mục đích không phải là cắt đứt
quan hệ kinh tế, ông nói. Nhưng trong các ngành công nghiệp nhạy cảm,
“rủi ro chính trị và tài chính xuất phát từ hoạt động kinh doanh tại
Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng lên”.
Các quan chức Trung Quốc ngày nay luôn bị ám ảnh về các bất đồng trong
chính quyền Trump, họ không nhận ra rằng sự cứng rắn tại Washington về
vấn đề Trung Quốc xuất hiện từ trước Trump và sẽ tồn tại ngay cả sau khi
ông Trump không còn. Evan Medeiros tại Đại học Georgetown, từng là cố
vấn châu Á của Tổng thống Barack Obama, lưu ý rằng, “một bộ máy chính
quyền thiên về một mối quan hệ Mỹ – Trung đối địch hơn nhiều đang đã
được hình thành”.
Cần có quan điểm phù hợp
Tháng 11 năm ngoái, Bộ Tư pháp đã thành lập Sáng kiến Đe dọa Trung
Quốc (China Threat Initiative), với sự tham gia của các công tố viên và
điều tra viên FBI, nhằm phát hiện các nỗ lực của Trung Quốc trong việc
đánh cắp bí mật thương mại và tác động đến công luận, đặc biệt là tại
các trường đại học. Tại Bộ An ninh Nội địa, một Trung tâm Quản lý Rủi ro
Quốc gia mới thành lập đã theo dõi các công ty rủi ro cao đang xây dựng
các cơ sở hạ tầng quan trọng. Một văn phòng thuộc Bộ Ngoại giao trước
đây tập trung vào khủng bố mang tên Trung tâm Can dự Toàn cầu hiện có
một nhiệm vụ mới là chống lại tuyên truyền từ Trung Quốc, Nga và Iran.
Sự lo lắng của Lầu Năm Góc về Trung Quốc trùng hợp với một nhận thức
rằng khi quân đội dựa vào các thiết bị công nghệ cao, các cuộc tấn công
mạng có thể gây hậu quả tàn khốc. Eikenberry, vị tướng hồi hưu, nhận xét
rằng trong những năm 1970 hoặc 1980, có lẽ 70% công nghệ quan trọng đối
với các chỉ huy quân sự đều thuộc sở hữu của chính phủ, và phần còn lại
được mua từ thị trường thương mại. “Bây giờ 70% là mua từ thị trường,
phần lớn là từ Thung lũng Silicon”, ông nói. Do đó, khi các nhà đàm phán
thương mại Mỹ tranh luận về chính sách đối với Trung Quốc, “các quan
chức an ninh đều có mặt trong phòng”.
Một nghiên cứu do Lầu Năm Góc đặt hàng mang tên “Cung cấp một cách an
toàn”, cảnh báo rằng chuỗi cung ứng không an toàn gây nên những “rủi ro
nghiêm trọng” cho các lực lượng vũ trang của Mỹ, từ việc bị hack tới phá
hoại công nghệ cao, chẳng hạn như bằng cách chèn các phần mềm độc hại
hoặc các cấu phần được thiết kế để hỏng hóc trong chiến đấu. Một nghiên
cứu bởi tổ chức Mitre lưu ý rằng các máy bay chiến đấu hiện đại có thể
phải dựa vào tới 10 triệu dòng mã phần mềm, vì vậy việc các công ty công
nghệ sử dụng các mã không rõ nguồn gốc, như một số công ty đang làm, là
rất nguy hiểm.
Lãnh đạo Lầu Năm Góc đã tạo ra một cơ quan mới gọi là Văn phòng Phân
tích Kinh tế và Thương mại với nhiệm vụ bao gồm việc rà soát các hợp
đồng quốc phòng dành cho các công ty Trung Quốc, cho đến các nhà cung
cấp hàng thứ ba. James Mulvenon, một chuyên gia về an ninh mạng Trung
Quốc, giải thích rằng “Lầu Năm Góc đã quyết định chất bán dẫn là ‘ngọn
đồi’ nơi họ sẵn sàng chiến đấu đến chết. Chất bán dẫn là ngành công
nghiệp quan trọng nhất mà Mỹ phải dẫn đầu, và là ngành mà dựa vào đó mọi
thứ khác được sản xuất”. Ông đã chứng kiến nhiều hợp đồng quốc phòng có
giá trị cao được trao cho các nhà sản xuất bán dẫn ở Mỹ.
Randall Schriver là trợ lý bộ trưởng quốc phòng phụ trách các vấn đề an
ninh khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và là chuyên gia về Trung Quốc.
Khi được hỏi liệu Lầu Năm Góc có ép các doanh nghiệp rời khỏi Trung Quốc
hay không, ông trả lời một cách thận trọng. “Các công ty có thể làm
những gì các công ty muốn. Chúng tôi nhận thức rõ hơn và quan tâm hơn
nhiều đến việc giải quyết các điểm yếu trong chuỗi cung ứng quốc phòng
của mình”.
Các quan chức ở Washington đã đi xa hơn câu hỏi Trung Quốc là đối tác
hay đối thủ. Cuộc tranh luận duy nhất còn lại liên quan đến quy mô tham
vọng của Trung Quốc. Theo ông Rubio, ông Tập cho rằng “vị trí phù hợp
của Trung Quốc là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới”.
Một số viên chức bổ nhiệm chính trị trong Bộ Ngoại giao của ông Pompeo
có vẻ muốn tuyên bố rằng một cuộc đụng độ giữa các nền văn minh Đông-Tây
đang diễn ra. Vào ngày 29 tháng 4, Giám đốc hoạch định chính sách của Bộ
Ngoại giao, Kiron Skinner, đã phát biểu tại một diễn đàn tổ chức bởi New
America, một viện nghiên cứu tại Washington, rằng đã
đến lúc cần có một chiến lược Trung Quốc tương tự như chiến lược
ngăn chặn của George Kennan dành cho Liên Xô. Vẫn chưa hài lòng với điều
đó, bà Skinner nói rằng Trung Quốc là một vấn đề khó khăn hơn. “Liên Xô
và cuộc cạnh tranh đó, theo một cách nào đó, là một cuộc nội chiến trong
gia đình phương Tây”, bà nói, nhắc
tới nguồn gốc phương Tây của các ý tưởng của Karl Marx. “Đây là
lần đầu tiên chúng ta có một đối thủ cường quốc cạnh tranh mà không phải
là người da trắng”.
Bỏ qua quan điểm phi lịch sử trong những lời bình luận của bà Skinner –
bởi đảng Cộng sản Trung Quốc cũng dựa vào các tư tưởng của Marx và Lenin
– các bình luận này khó có thể đứng vững. Một cuộc đụng độ giữa các nền
văn minh sẽ không có chỗ cho những người theo tư tưởng tự do ở Trung
Quốc, chứ đừng nói đến Đài Loan, một nền dân chủ có nguồn gốc sâu xa từ
văn hóa Trung Quốc. Còn đối với ý tưởng ngăn chặn một trong hai nền kinh
tế lớn nhất thế giới, điều đó cũng sẽ là một điều vô nghĩa ngay cả khi
các đồng minh của Mỹ và các quốc gia khác sẵn sàng giúp đỡ, và thực tế
là họ không sẵn lòng làm như vậy.
Tuy nhiên cũng có những tiếng nói thận trọng hơn. Một bài tiểu luận viết
cho Viện Paulson gần đây của Evan Feigenbaum, một chuyên gia châu Á
trong chính quyền của Tổng thống George W. Bush, lập luận rằng những
người cáo buộc Trung Quốc đang tìm cách thiết lập lại trật tự toàn cầu
vừa sai, vừa chưa nói đủ các thách thức. Trung Quốc là quốc gia xét lại
có chọn lọc, Feigenbaum viết. Thay vì tìm cách thay thế hệ thống quốc tế
hiện tại, Trung Quốc vẫn duy trì nhiều “hình thức” của chủ nghĩa đa
phương, đồng thời phá hoại các “quy chuẩn” từ bên trong Liên Hiệp Quốc
và các tổ chức khác.
Trong một khoảng thời gian giải lao giữa các cuộc bỏ phiếu, tại một văn
phòng không có cửa sổ nằm sâu trong Tòa nhà Quốc hội, ông Coons kêu gọi
Quốc hội hãy cố gắng đối phó với Trung Quốc như bản chất Trung Quốc vốn
có, chứ không phải với một Trung Quốc như Mỹ mong muốn. Ông không nghĩ
rằng Trung Quốc ghét bỏ ý tưởng về một trật tự dựa trên các quy tắc,
nhưng thừa nhận rằng Trung Quốc “có hành vi cực kỳ tồi tệ trên sân khấu
kinh tế thế giới”. Ở Washington ngày nay, nói như vậy đã là ôn hòa lắm
rồi.
Báo cáo đặc biệt về Chiến tranh lạnh Mỹ – Trung (P3)
Nguồn: “In Beijing, views of America have become deeply cynical”, The
Economist, 16/05/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
3. Trung Quốc ngày càng khinh miệt Mỹ
Nếu nói chuyện đủ lâu với các học giả và quan chức Trung Quốc nghiên cứu
về Mỹ, ở một thời điểm nào đó bạn sẽ nghe họ so sánh mối quan hệ giữa
Trung Quốc và Mỹ với một cuộc hôn nhân tồi. Đó là một sự so sánh cho
thấy nhiều ý nghĩa. Trung Quốc có lợi ích ở các châu lục khác, nhưng Mỹ
là một nỗi ám ảnh thường trực. So sánh quan hệ Mỹ – Trung với một cuộc
hôn nhân hàm ý sự ngưỡng mộ kéo dài xen lẫn với sự ghen tị và phẫn nộ mà
giới tinh hoa Trung Quốc dành cho đối thủ toàn cầu của họ. Tuy nhiên,
trong thời đại Trump, một cảm xúc mới nguy hiểm khác cũng đang ngày càng
nổi lên, đó là sự khinh miệt dành cho Hoa Kỳ.
Các quan chức cấp cao của Trung Quốc có ít động lực để nói chuyện với
người nước ngoài. Nhưng một số cán bộ và học giả từng báo cáo với lãnh
đạo chính phủ và đảng cũng đôi khi nói chuyện với người ngoài một cách
không chính thức. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thẳng thắn với các đối tác
nước ngoài một cách có chọn lọc, đồng thời duy trì quan hệ với các quan
chức cấp cao phương Tây đã nghỉ hưu. Có thể nói rằng các tầng lớp lãnh
đạo Trung Quốc thất vọng sâu sắc với một nước Mỹ đã bầu Donald Trump làm
tổng thống. Mỹ được gọi là một kẻ thất bại cay cú và kẻ phá hoại nguy
hiểm, không chỉ không muốn đóng một vai trò dẫn dắt trên thế giới mà còn
nổi điên nếu Trung Quốc trở nên tích cực hơn.
Chẳng hạn, theo dòng suy nghĩ này, họ giận giữ khi nghe Mỹ phàn nàn về
tham vọng của Trung Quốc thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường, kế
hoạch cơ sở hạ tầng toàn cầu của Chủ tịch Tập Cận Bình, trong khi Mỹ
không còn sẵn sàng đóng một vai trò dẫn dắt trong việc thiết lập các
tiêu chuẩn toàn cầu, và quá chăm chăm lợi ích tự thân nên không muốn đầu
tư vào việc gia tăng kết nối thế giới.
Nếu đây là một cuộc cãi vã giữa
hai vợ chồng, câu nói tóm tắt tâm trạng ở Bắc Kinh sẽ là một lời
mắng mỏ đầy giận dữ trút vào nước Mỹ: “Tại sao anh luôn nghĩ mọi chuyện
đều liên quan tới anh?” Trung Quốc lập luận rằng họ không tìm cách để
vượt qua Mỹ. Nếu Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới thì
đó là bởi Trung Quốc rất đông dân và muốn mang lại cho họ một cuộc sống
tốt đẹp hơn. Đúng, Trung Quốc đã được hưởng 40 năm thành công, nhưng đó
là nhờ vào nỗ lực lao động cần cù không ngừng của họ. Tuy nhiên, nhiều
vùng ở Trung Quốc vẫn bị bỏ lại phía sau và đang cần được đầu tư phát
triển.
Đó là lý do cần duy trì tăng trưởng kinh tế và tại sao Trung Quốc lại sợ
chiến tranh thương mại với ông Trump. Nhưng đó cũng là một lý do giải
thích cho sự phẫn nộ về cái được coi là chính sách ngăn chặn của Mỹ. Các
nguồn tin Trung Quốc mô tả một cảm giác ngột ngạt rằng, khi viễn cảnh
Trung Quốc trở nên khá giả
hơn nằm trong tầm tay, một nước Mỹ đang suy yếu lại đang chất vấn quyền
của Trung Quốc trong việc đạt được sự khá giả đó, cho dù bằng cách xây
dựng các lực lượng vũ trang hùng mạnh hay phát triển các công nghệ tiên
tiến.
Họ lập luận rằng giàu là chưa đủ. Các quốc gia còn phải mạnh, về cả quân
sự và công nghệ. Sự nhục nhã của Trung Quốc thời phong kiến dưới tay các
cường quốc châu Âu nhỏ hơn đã chứng minh cho điều đó. Thông thường, đó
là điều khiến các nguồn Trung Quốc mà chúng tôi phỏng vấn dẫn dắt tới vụ
Mạnh Vãn Chu, một giám đốc điều hành cấp cao của Huawei và là con gái
của người sáng lập công ty viễn thông khổng lồ này, bị bắt giữ ở Canada.
Tiếp theo đó sẽ là lập luận cay nghiệt về sức mạnh tương đối của Trung
Quốc, Mỹ và Canada. Ít khi họ nói về các chi tiết pháp lý chống lại bà
Mạnh, vốn bị bắt theo yêu cầu của các công tố viên Mỹ dựa trên cáo buộc
rằng bà Mạnh đã vi phạm các biện pháp trừng phạt chống Iran. Vụ bắt giữ
bà Mạnh được coi là một tín hiệu cho thấy nước Mỹ có thể chấp nhận một
nước Trung Quốc giàu hơn nhưng không muốn nước này mạnh hơn. Các cuộc
biểu tình ủng hộ Trung Quốc đã diễn ra ở Canada và Hồng Kông (ảnh).
Các cuộc thảo luận về tranh chấp lãnh thổ cũng diễn ra theo các lập luận
tương tự. Phiên bản lịch sử công khai của chính phủ Trung Quốc khẳng
định chủ quyền của họ đối với các rạn san hô và đảo trên Biển Đông.
Nhưng khi nói chuyện riêng, các quan chức phản đối việc Mỹ gửi tàu chiến
và máy bay đi qua các vùng biển tranh chấp đó, cho rằng Mỹ đang thể hiện
sự thiếu tôn trọng và Trung Quốc sẽ không bao giờ dung thứ cho sự can
thiệp vào sân sau của mình. Sau 40 năm phát triển kinh tế, đã đến lúc
Trung Quốc phải giải quyết những vấn đề bị lơ là lâu nay, họ nói.
Các quan chức khác thì lập luận rằng không phải Trung Quốc đã thay đổi
hành vi của mình; nước này chỉ đơn thuần trở nên lớn hơn và thành công
hơn. Nếu Trung Quốc là kẻ lạm dụng trật tự quốc tế như vậy, họ đặt câu
hỏi tại sao Mỹ và châu Âu trước đây lại chưa bao giờ phàn nàn về điều
đó? Câu hỏi đó của các quan chức Trung Quốc phần nào không thỏa đáng.
Trung Quốc đã nhiều lần hứa hẹn sẽ mở cửa thị trường và đối xử bình đẳng
hơn với các công ty nước ngoài. Sau 20 năm thất hứa, sự kiên nhẫn của
phương Tây tan biến. Nhưng phần nào đó lập luận của họ cũng có cơ sở.
Các doanh nghiệp nước ngoài đã từ lâu đã gửi tới các lãnh đạo Trung Quốc
một thông điệp không rõ ràng, theo lời một người Mỹ làm việc tại Bắc
Kinh. Trong các cuộc họp với các lãnh đạo chính phủ trung ương, các ông
chủ phương Tây thường tập
trung nói về những kinh nghiệm tích cực của họ tại Trung Quốc, phần vì
thận trọng, phần vì họ thấy ít có lý do để nêu lên các vấn đề do các
quan chức địa phương nhiều quyền lực gây nên, họ biết rằng chính quyền
trung ương có thể sẽ yêu cầu các quan chức địa phương tự điều tra, giải
quyết. Không dám lên tiếng ở Trung Quốc, các doanh nghiệp Mỹ sẽ về nhà
phàn nàn với chính phủ của họ, rồi chính phủ Mỹ lại phản ánh với phía
Trung Quốc. Nhưng phía Trung Quốc sẽ không tin, nghĩ rằng họ đã nghe
được sự thật trái ngược từ miệng các doanh nghiệp đang làm ăn ở Trung
Quốc.
Ông Trump chia rẽ các quan chức và học giả Trung Quốc. Thế hệ lớn tuổi
hơn, nhất là những người nằm trong số những người đầu tiên đi du học ở
Mỹ, rất đau lòng khi thấy ông Trump nhận được sự ủng hộ của nhiều cử
tri. Còn thế hệ các quan chức trung niên thành đạt có xu hướng hả hê
hơn. Những ký ức ban đầu của họ về nước Mỹ liên quan đến các thảm họa
như cuộc xâm lược Iraq năm 2003 và cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Họ mỉa mai rằng ông Trump đã chẩn đoán căn bệnh của Mỹ hoàn toàn chính
xác. Ý họ là ông Trump đã đúng khi kéo quân từ Trung Đông và châu Á về
để tập trung vào việc chỉnh đốn lại quốc gia từ bên trong. Đồng thời, họ
nói thêm, chất lượng thấp của các quan chức được bổ nhiệm trong chính
quyền Trump cho thấy sự vượt trội của hệ thống độc đảng mà ở đó quan
chức được bổ nhiệm dựa trên năng lực của Trung Quốc.
Những tiếng nói thẳng thắn nhất thì thừa nhận rằng Trung Quốc đã hiểu
sai ông Trump, lúc đầu nghĩ rằng Trump là một doanh nhân New York thực
dụng tựa như những người khác mà Trung Quốc đã biết. Trung Quốc cũng
đánh giá thấp độ bền bỉ của sự ủng hộ dành cho ông. Việc ông Trump leo
thang chiến tranh thương mại đã gây sốc cho các lãnh đạo Trung Quốc,
những người đã trấn an các lãnh đạo phương Tây đến thăm vào mùa xuân
2018 rằng các đe dọa của ông Trump chỉ là trò diễn và cả hai bên có quá
nhiều thứ để mất nên không thể để cho một cuộc chiến tranh thương mại
thực sự bắt đầu.
Sau khi ông Trump đe dọa trút “bão lửa và cuồng nộ” lên Triều Tiên vào
năm 2017, điều thực sự khiến Trung Quốc lo lắng, chính phủ ở Bắc Kinh
thích chính sách Triều Tiên hiện tại của Trump. Cho đến bây giờ, chính
sách đó kết hợp giữa sự thờ ơ với các hành vi vi phạm nhân quyền của
Triều Tiên với sự sẵn sàng đình chỉ các cuộc tập trận của quân đội Mỹ ở
Hàn Quốc, miễn là Triều Tiên tạm dừng các vụ thử hạt nhân hoặc tên lửa
đe dọa nước Mỹ. Đó thực chất là chính sách hai bên cùng kiềm chế mà các
lãnh đạo Trung Quốc đã kêu gọi các chính quyền Mỹ trước đây thực hiện.
Các chính quyền đó đã từ chối, coi đó như một sự phản bội các đồng minh
an ninh châu Á.
Những người tự do yêu Trump
Trong suốt năm 2018, các chính trị gia và lãnh đạo doanh nghiệp nước
ngoài đến thăm Bắc Kinh đều ngạc nhiên trước một hiện tượng bất ngờ có
thể được gọi là “những người tự do ủng hộ Trump”. Trong số này có các
học giả Trung Quốc mang tư tưởng cải cách kín đáo hoan nghênh phong cách
hung hăng của ông Trump. Họ coi áp lực bên ngoài là cách tốt nhất để
thúc đẩy các thay đổi cần thiết bên trong Trung Quốc, từ việc dỡ bỏ các
độc quyền của doanh nghiệp nhà nước đến mở cửa thị trường. Những người
theo tư tưởng tự do này hiện thận trong hơn khi Trung Quốc đang cảm thấy
bị tấn công, còn ông Trump dường như ít quan tâm đến các cải cách cơ
cấu.
Các nhà cải cách Trung Quốc không bao giờ thực sự ngưỡng mộ Trump. Đúng
hơn là họ chỉ hi vọng rằng vị tổng thống Mỹ sẽ là “kẻ bắt nạt” lớn hơn
ông Tập. Mặc dù ông Tập trở nên chuyên chế hơn, nhưng ông Tập cũng bị
chỉ trích rất nhiều trong giới tinh hoa Bắc Kinh. Một số người gọi ông
ta là một người theo chủ nghĩa nhà nước không hiểu kinh tế. Những người
khác đổ lỗi luận điệu hùng hổ của ông Tập về sự trỗi dậy của Trung Quốc
là nguyên nhân dẫn tới các phản ứng dữ dội ở nước ngoài, và nói rằng ông
Tập đã khơi nguồn cho cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ. Cái khó là
không thể biết được những người chỉ trích đó có tác động ít hay nhiều
hơn so với các quan chức dòng chính ở Mỹ, những người chê bai chỉ trích
Trump trong các bữa tiệc tối ở Washington, DC. Những người khác thì tức
giận với ông Tập nhưng cũng không hề thân thiện với phương Tây. Bonnie
Glaser, một chuyên gia có nhiều mối quan hệ với Trung Quốc tại Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), một viện nghiên cứu chính sách
tại Washington, gần đây đã nói rằng các lãnh đạo cấp cao của Quân Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc đang lo sợ, trong bối cảnh cuộc chiến chống
tham nhũng của ông Tập đã đi quá xa.
Ông Tập đã nói với các vị khách nước ngoài rằng ông thất vọng với sự
trước sau bất nhất của người Mỹ. Theo một bức điện ngoại giao bị rò rỉ,
ông Tập đã phàn nàn với các lãnh đạo EU tại hội nghị thượng đỉnh hồi
tháng 7 năm ngoái rằng Mỹ đã quay lưng lại với Tổ chức Thương mại Thế
giới ngay khi Trung Quốc vừa tham gia. Ông Tập cũng chỉ ra rằng Tổng
thống Obama đã thuyết phục ông tham gia hiệp định Paris về biến đổi khí
hậu, để rồi cuối cùng ông Trump lại rút Mỹ ra.
Sự thiếu kiên nhẫn giữa hai cường quốc không có gì mới. Tuy nhiên, vấn
đề là niềm tin của Trung Quốc vào tương lai của Mỹ đang hao mòn dần. Các
quan chức Trung Quốc thường muốn nhận được sự tôn trọng của Mỹ, hỏi rằng
tại sao Mỹ không thể chấp nhận rằng hệ thống chính trị của họ phù hợp
với Trung Quốc hơn. Các quan chức Trung Quốc vẫn ghi nhận rằng Mỹ là một
quốc gia giàu có và mạnh mẽ hơn, và Trung Quốc không muốn thù địch với
Mỹ. Nhưng việc Mỹ có quan điểm tích cực về Trung Quốc hay không giờ ít
quan trọng đối với họ.
Sẽ rất tồi tệ nếu các tầng lớp cầm quyền của Trung Quốc bắt đầu tin vào
cáo buộc mà họ đã cố gắng không tin trong nhiều năm: rằng nước Mỹ đang
cố gắng kiềm chế Trung Quốc. Nếu một nước Mỹ đầy thù hận muốn làm tổn
thương Trung Quốc, sẽ khó có lý do để các quan chức Trung Quốc đề xuất
các nhượng bộ hoặc thúc giục các cải cách có thể giúp cải thiện quan hệ
với Mỹ. Trong địa chính trị cũng như trong hôn nhân, sự khinh miệt là
một cảm xúc thường dẫn đến những kết quả tồi tệ.
Báo cáo đặc biệt về Chiến tranh lạnh Mỹ – Trung (P4)
Nguồn: “America still leads in technology, but China is catching up
fast”, The Economist, 16/05/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
4. Mỹ vẫn dẫn đầu về công nghệ, nhưng Trung Quốc đang bắt kịp nhanh
Một điều hiếm gặp đã xảy ra tại một khu công nghiệp gần Washington, DC,
vào tháng 11 năm ngoái. Dự án mở rộng trị giá 3 tỷ đô la của một nhà máy
thiết bị bán dẫn thuộc sở hữu của Micron Technologies, nhà sản xuất chip
nhớ tiên tiến, có trụ sở tại Idaho, bắt đầu tiến hành xây dựng. “Mấy năm
trước, nếu mở rộng nhà máy kiểu như vậy sẽ có người nói rằng nó sẽ sớm
được chuyển đến Trung Quốc, phải không?”, James Mulvenon, một chuyên gia
về chính sách và gián điệp không gian mạng của Trung Quốc, nói.
Nhưng bây giờ thì khác. Thay vào đó, nhà máy của Micron cho thấy viễn
cảnh tương lai. Niềm tin vào Trung Quốc đã sụp đổ trong giới quan chức
chính phủ cũng như lãnh đạo doanh nghiệp Mỹ, và một sự đồng thuận đã
tăng lên cho rằng các công ty Trung Quốc đã thu hẹp khoảng cách công
nghệ với các đối thủ phương Tây một cách không đàng hoàng và bằng các
biện pháp bất hợp pháp.
Những căng thẳng ngày nay làm cho cuộc Chiến tranh Lạnh hồi thế kỷ trước
trông có vẻ đơn giản. Năm 2018, Trung Quốc chiếm 57% doanh thu thuần của
Micron. Trong những năm 1960 và 1970, các công ty công nghệ Mỹ không phụ
thuộc vào khách hàng Liên Xô. Nhưng Micron là một biểu tượng cho thấy
cạnh tranh thương mại đang trở thành một cuộc đấu có tổng bằng không,
trong đó một bên thắng và một bên thua. Vào năm 2015, Micron đã từ chối
một đề nghị mua lại trị giá 23 tỷ đô la đến từ một quỹ đầu tư do nhà
nước Trung Quốc hậu thuẫn, nói rằng họ tin một thỏa thuận như vậy sẽ bị
Ủy ban Đầu tư nước ngoài tại Hoa Kỳ (CFIUS) bác bỏ. Năm 2018, Bộ Tư pháp
đã truy tố một công ty nhà nước Trung Quốc, đối tác Đài Loan của công ty
này và ba cá nhân về tội đánh cắp bí mật thương mại liên quan đến công
nghệ chip nhớ của Micron, một công nghệ có giá trị hàng chục tỷ đô la.
Chuyện này diễn ra sau các vụ kiện qua lại, theo đó công ty bị buộc tội
của Trung Quốc khẳng định rằng họ sở hữu các bằng sáng chế có liên quan
ở Trung Quốc và do đó chính họ mới là nạn nhân của Micron. Một tòa án
Trung Quốc ủng hộ cáo buộc này, sau đó Micron bị điều tra theo luật
chống độc quyền.
Những người có quan điểm diều hâu với Trung Quốc ở Washington nói rằng
trò chơi có tổng bằng không này đều xoay quanh việc Trung Quốc vi phạm
pháp luật. “Nói một cách thẳng thắn, Trung Quốc dường như quyết tâm ăn
cắp để leo lên nấc thang kinh tế, và chúng ta là người chịu thiệt hại”,
Christopher Wray, giám đốc của FBI, tuyên bố như vậy vào ngày 26/04,
đồng thời nói thêm rằng gần như tất cả 56 văn phòng của cơ quan này đều
đang điều tra các vụ gián điệp kinh tế mà trong đó “gần như luôn luôn
liên quan tới Trung Quốc”. Trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng
11 năm 2018, Bộ Tư pháp Mỹ đã truy tố hàng chục cá nhân và tổ chức mà
chính phủ Trung Quốc chỉ đạo để đánh cắp các bí mật thương mại từ 15
công ty, chủ yếu trong ngành hàng không vũ trụ và công nghệ cao.
Những người khác thì nói rằng trò chơi có tổng bằng không này liên quan
đến những lời hứa bị phá vỡ đối với người lao động Mỹ. Họ nhắc lại
chuyện các lãnh đạo chính trị Mỹ hứa hẹn với các công nhân rằng các
ngành sản xuất giá trị cao sẽ ở lại Mỹ, ngay cả khi toàn cầu hóa đưa các
việc làm lương thấp sang Trung Quốc.
Sử dụng vị thế chủ tịch ủy ban Thượng viện về doanh nghiệp nhỏ và tinh
thần kinh doanh, Thượng nghị sĩ Marco Rubio đại diện bang Florida vào
tháng 2 vừa qua đã đưa ra một báo cáo lên án kế hoạch của Trung Quốc
nhằm trở thành cường quốc toàn cầu trong mười lĩnh vực công nghệ cao, từ
trí tuệ nhân tạo (AI) đến hàng không, được xác định trong chiến lược
Made in China 2025 (MIC2025) do chính phủ Trung Quốc ban hành năm 2015.
Ông Rubio viết trong báo cáo rằng nếu Mỹ để Trung Quốc trở thành lãnh
đạo toàn cầu về đổi mới và chế tạo “thì đó sẽ là một kết quả không thể
chấp nhận được đối với người lao động Mỹ”.
Trong một biểu hiện dân túy, ông Rubio cũng không ngại lập luận rằng
chính phủ có vai trò trực tiếp trong việc bảo vệ các công nhân cổ cồn
xanh. Ngành chế tạo cung cấp việc làm ổn định hơn so với ngành dịch vụ,
báo cáo của Rubio cho biết. Báo cáo này kêu gọi Mỹ sử dụng các chính
sách công nghiệp, bao gồm các thay đổi về thuế và kiểm soát xuất khẩu,
để bảo vệ các ngành công nghiệp từ robot đến chế tạo máy kéo.
Đó là ăn cắp
Không phải mọi thượng nghị sĩ đều có tiếng nói thẳng thắn như ông Rubio,
và nhiều người cũng không thích kiểm soát xuất khẩu. Nhưng sự mất lòng
tin sâu sắc vào Trung Quốc là một tình trạng lưỡng đảng trong Quốc hội.
Quan điểm của các doanh nghiệp Mỹ ở Trung Quốc có phần cân bằng hơn, như
có thể thấy trong cuộc khảo sát công bố hồi tháng Hai về môi trường kinh
doanh năm 2019 của Phòng Thương mại Mỹ ở Trung Quốc. Gần 70% các công ty
nói rằng họ có lợi nhuận. Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu cảnh báo.
Trong khảo sát của AmCham, một nửa các công ty công nghệ Mỹ cho biết họ
hạn chế đầu tư vào Trung Quốc vì ở đây thiếu cơ chế bảo vệ tài sản sở
hữu trí tuệ (IP), bất chấp việc Trung Quốc hứa hẹn sẽ nghiêm túc về vấn
đề này nhiều năm nay.
Trung Quốc đã cứng rắn hơn đối với các hành vi vi phạm bản quyền, từ
hàng tiêu dùng giả cho đến vi phạm bằng sáng chế. Nhưng các giám đốc
điều hành nước ngoài vẫn kể những câu chuyện kinh hoàng về áp lực phải
chia sẻ bí mật thương mại với đối tác địa phương và các cuộc tấn công
mạng vào máy chủ của công ty ở quê nhà. Đáng buồn thay, 13% các công ty
thành viên được khảo sát bởi AmCham nói rằng rủi ro lớn nhất của họ là
tình trạng trộm cắp bởi chính nhân viên của mình.
Có một số cách mà sự cạnh tranh kinh tế có thể trở thành trò chơi có
tổng bằng không, và tất cả có thể được nhìn thấy ở Trung Quốc ngày nay.
Trộm cắp chỉ là một. Một cách khác là theo đuổi thay thế nhập khẩu bằng
các lựa chọn khác trong nước, thông qua các biện pháp công bằng hoặc
gian lận. Nước Mỹ đang rơi vào tình trạng mất lợi thế, nhưng Mỹ vẫn là
chủ nhà của các công ty dẫn đầu toàn cầu trong các ngành từ hàng không
vũ trụ và chất bán dẫn đến phần mềm và xe tự lái. Các quan chức Mỹ lo
ngại rằng MIC2025 sẽ giúp Trung Quốc trở thành một quốc gia đẳng cấp thế
giới trong tất cả các lĩnh vực đó.
Kể từ năm 2015, các kế hoạch hỗ trợ và lộ trình được công bố bởi các cơ
quan nghiên cứu của chính phủ đã đặt ra hàng trăm mục tiêu chiếm lĩnh
thị phần cho các công ty Trung Quốc, ví dụ, 80% xe điện hoặc xe lai
“năng lượng mới” tiêu thụ ở Trung Quốc phải được sản xuất trong nước vào
năm 2025. Các quan chức Trung Quốc, giờ đối mặt với phản ứng dữ dội trên
toàn thế giới, hiện đang giấu nhẹm các mục tiêu này. Các phương tiện
truyền thông nhà nước bị kiểm duyệt nghiêm ngặt đã ngừng sử dụng thuật
ngữ MIC2025. Nhưng chính sách này đã không được bãi bỏ. Các bài phát
biểu của lãnh đạo vẫn kêu gọi “tự lực” và “tự đổi mới”. Các lĩnh vực
công nghệ khác của Trung Quốc cũng đang được khuyến khích tuân thủ chính
sách gọi là “hợp nhất dân sự – quốc phòng”, một chiến lược quốc gia được
hậu thuẫn bởi các lãnh đạo hàng đầu và được tài trợ bởi các khoản ngân
sách an ninh quốc gia không minh bạch.
Việc quân sự hóa một số công nghệ của Trung Quốc gây ra các chi phí bên
cạnh lợi ích, ông Mulvenon lưu ý. Những chi phí đó bao gồm các rủi ro
cho các công ty phương Tây khi làm các hợp đồng hỗ trợ cho các công nghệ
tàn bạo mà Trung Quốc đã áp dụng ở Tân Cương. “Tin tốt là người Trung
Quốc sẽ phát hiện ra rằng sự tự cung tự cấp như vậy là rất khó”,
Mulvenon nói, đồng thời cho rằng người Mỹ đã chứng kiến Trung Quốc ăn
cắp và thiết kế ngược một thế hệ công nghệ rồi sau đó vẫn phải đánh cắp
thế hệ tiếp theo vì không thể làm chủ được các nền tảng khoa học cơ bản.
“Mô hình đó cực kỳ kém hiệu quả”.
Trung Quốc sẵn sàng chi tiền nếu cần, hỗ trợ cho những công ty chủ chốt
hàng tỷ đô la tiền trợ cấp và thúc đẩy các công ty địa phương đặt hàng.
Trong số những công ty hưởng lợi có Tập đoàn Máy bay Thương mại Trung
Quốc (CMAC), công ty sản xuất máy bay thương mại C-919 được dự kiến sẽ
trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với dòng 737 của Boeing. Các nhà
lập kế hoạch nhà nước đã đặt mục tiêu máy bay vận tải Trung Quốc phải
chiếm được 10% thị phần trong nước vào năm 2025. C-919 đã gặp phải những
rắc rối, khiến cho thời hạn đó có vẻ quá tham vọng. Nhưng thành công của
Trung Quốc có thể nhanh chóng gây thiệt hại cho Mỹ, khi hạng mục xuất
khẩu lớn nhất của Mỹ sang Trung Quốc vào năm 2017 là máy bay dân sự, trị
giá 16,3 tỷ đô la. Báo cáo của Rubio phàn nàn rằng ít nhất mười công ty
Mỹ cung ứng các bộ phận quan trọng cho C-919.
Trung Quốc đã tạo ra các thương hiệu lớn trong các lĩnh vực như xe điện
và pin, một phần bằng cách ngăn cản các đối thủ nước ngoài. Rào cản bảo
hộ cũng đã cho phép các công ty internet Trung Quốc phát triển. Hồi năm
2009, mười công ty internet lớn nhất theo doanh thu đều của Mỹ. Nhưng
bây giờ vài trong số đó là của Trung Quốc (xem biểu đồ).
Tuy nhiên, sẽ sai lầm nếu phóng đại sức mạnh của Trung Quốc trong lĩnh
vực phân tích dữ liệu lớn và AI, theo Dieter Ernst thuộc Trung tâm
Đông-Tây, một viện nghiên cứu ở Hawaii. Việc thiếu cơ chế bảo vệ quyền
riêng tư gần như hoàn toàn có thể khiến nhiều dữ liệu bị mất, trong khi
các công ty Mỹ giỏi hơn về các thuật toán tiên tiến giúp AI bớt phụ
thuộc vào các tập dữ liệu lớn, Ernst viết. Các ứng dụng lớn của Trung
Quốc vẫn chủ yếu được vận hành dựa trên các chip do Mỹ thiết kế, vốn vẫn
đang dẫn đầu thế giới.
Mỹ còn có những lợi thế khác. Joy Dantong Ma đến từ MacroPolo, nhà viện
nghiên cứu thuộc Viện Paulson, đã kiểm tra nguồn gốc của các diễn giả
hàng đầu tại một hội nghị danh tiếng nhất về AI. Hầu hết đến từ các
trường đại học và công ty công nghệ Mỹ. Nhưng điều quan trọng là hơn một
nửa những ngôi sao người Mỹ đó được sinh ra ở nước ngoài. Chính sách
thắt chặt thị thực của Trump sẽ đe dọa tới thực tế đó.
Một số hình thức cạnh tranh có thể công bằng nhưng vẫn kết thúc với một
bên giành được nhiều lợi ích hơn. Đáng chú ý, một số lĩnh vực công nghệ
mang lại lợi thế cho người tiên phong, trao phần thưởng lớn cho các quốc
gia hoặc doanh nghiệp dẫn đầu sớm, cho phép họ đặt ra các tiêu chuẩn mà
những người tham gia sau này không có nhiều lựa chọn nào khác ngoài việc
tuân theo. Hồi tháng Tư, Ủy ban Đổi mới Quốc phòng, một ủy ban cố vấn
của Lầu Năm Góc gồm các ngôi sao sáng ở Thung lũng Silicon, đã đưa ra
một báo cáo cảnh báo rằng Trung Quốc đang trên đường đạt được thành công
này trong cuộc đua nhằm thống trị mạng di động 5G. Thế hệ công nghệ
không dây tiếp theo này hứa hẹn sẽ cách mạng hóa các ngành công nghiệp
hiện có và tạo ra những ngành hoàn toàn mới với tốc độ dữ liệu gấp
khoảng 20 lần so với mạng 4G.
Một thập niên trước, các công ty Mỹ đã dẫn đầu sớm trong công nghệ 4G,
thiết lập các tiêu chuẩn cho các thiết bị cầm tay mới và các ứng dụng
phổ biến trên toàn thế giới. Sự thống trị đó đã giúp Apple, Google và
các doanh nghiệp Mỹ khác tạo ra doanh thu hàng tỷ đô la. Trung Quốc đã
học được bài học của mình, đầu tư 180 tỷ đô la để triển khai mạng 5G
trong năm năm tới và giao các dải tần số không dây cho ba nhà mạng nhà
nước. Ở Mỹ, các dải tần số như vậy phần lớn không được dùng cho mục đích
thương mại vì nó được ưu tiên sử dụng bởi chính phủ liên bang. Các công
ty Mỹ đang thử nghiệm trên các dải tần số có một số lợi thế nhất định
trong điều kiện phòng thí nghiệm nhưng dễ bị chặn bởi các tòa nhà và cây
cối. Vì lý do này, bất chấp áp lực của Mỹ đối với các đồng minh, phần
lớn thế giới có thể sẽ chọn các thiết bị cầm tay, chip và tiêu chuẩn của
Trung Quốc, ủy ban cố vấn của Lầu Năm Góc kết luận. Vì các lực lượng vũ
trang Mỹ cần hoạt động trên toàn thế giới, họ sẽ phải chuẩn bị gửi dữ
liệu thông qua một thế giới công nghệ không dây “hậu phương Tây” và
thông qua các mạng “không tin cậy”, được lắp đặt với các thành phần do
các công ty Trung Quốc như Huawei cung cấp. Điều đó có nghĩa là Mỹ sẽ
phải tập trung nhiều hơn vào mã hóa và bảo mật.
Mạng internet bị chia rẽ
Một số cuộc ganh đua công nghệ sẽ bớt tàn khốc hơn. Khi Trung Quốc và Mỹ
tách khỏi thị trường kỹ thuật số của nhau, mỗi bên sẽ tìm kiếm tăng
trưởng ở phần còn lại của thế giới. Một thế giới mạng bị chia cắt, hay
còn gọi là “splinternet”, đã trở thành hiện thực, khi mạng internet ở
Trung Quốc phát triển đằng sau một bức tường lửa kiểm duyệt. Các công ty
lớn của Mỹ như Amazon đang quảng bá dịch vụ thanh toán ở Ấn Độ. Dịch vụ
Alipay của Trung Quốc đang tích cực hoạt động tại Brazil. Trung Quốc
đang xuất khẩu các hệ thống giám sát và thuật toán kiểm duyệt cho các
quốc gia độc tài từ Ethiopia đến Venezuela. Với một sự thay đổi đường
hướng, Mỹ có thể giúp thúc đẩy một mạng internet tôn trọng sự riêng tư.
Các công ty y sinh và các phòng thí nghiệm chỉnh sửa gen phương Tây có
thể giúp tiêu chuẩn đạo đức trở nên nghiêm ngặt hơn.
Thật đáng lo khi ông Trump là một người không thân thiện với công nghệ.
Ông đã đề xuất giảm ngân sách cho các quỹ nghiên cứu khoa học, mặc dù
Quốc hội đã bác bỏ điều đó. Sau hai vụ tai nạn máy bay của Boeing 737
Max gần đây, ông đã tweet rằng “máy bay giờ trở nên quá phức tạp để vận
hành”. Tuy nhiên, năm ngoái ông Trump cũng đã ký một dự luật lưỡng đảng
cho phép chi 1,3 tỷ đô la cho nghiên cứu máy tính lượng tử. Mục đích là
để dẫn trước Trung Quốc trong ngành máy tính khai thác các định luật vật
lý lượng tử để đạt được tốc độ xử lý vốn chỉ thấy trong các bộ phim khoa
học viễn tưởng. Nước Mỹ vẫn đang dẫn đầu lĩnh vực này, nhưng Tập Cận
Bình coi đó là ưu tiên quốc gia, thu hút các nhà khoa học trở về từ các
phòng thí nghiệm lượng tử ở Mỹ và Châu Âu. Nếu Trung Quốc thành công, họ
có thể phát triển các liên lạc vệ tinh và radar lượng tử gần như không
thể hack được để phát hiện các máy bay và tàu ngầm có khả năng tàng hình
cao nhất.
Một thành công như vậy sẽ biến một cuộc ganh đua công nghệ thành một
cuộc chạy đua vũ trang. Lúc đó Mỹ sẽ phải quyết định liệu một Trung Quốc
như thế còn có thể răn đe được hay không, hay liệu một ngày nào đó nó có
thể sử dụng các năng lực mới (để chống lại Mỹ).
Báo cáo đặc biệt về Chiến tranh lạnh Mỹ – Trung (P5)
Nguồn: “America’s military relationship with China needs rules”, The
Economist, 16/05/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
5. Quan hệ quân sự Mỹ – Trung cần có quy tắc
Bíp, bíp, bíp… và Sputnik 1, vệ tinh đầu tiên đã được phóng lên quỹ đạo
Trái đất vào năm 1957. Việc nó không có công dụng gì mấy chẳng quan
trọng. Việc những người cộng sản Liên Xô giành chiến thắng trong cuộc
chạy đua vũ trụ đầu tiên đã gây ra một cuộc khủng hoảng niềm tin cho
người Mỹ. Điều này đã có tác dụng hữu ích. Ở nước ngoài, Mỹ tăng cường
các liên minh như NATO. Ở trong nước, những khoản tiền lớn đã được đổ
vào nghiên cứu khoa học. Cuộc khủng hoảng Sputnik tạo cảm giác sự vô tư
không còn nữa: kẻ thù đã ở trên đầu. Nhưng mối đe dọa thực tế của Liên
Xô đã không thay đổi nhiều. Liên Xô, như trước đây, vẫn là một kẻ thù
được trang bị vũ khí hạt nhân đang cố gắng truyền bá một hệ tư tưởng đối
địch.
Bây giờ Mỹ cũng đang có một cuộc khủng hoảng niềm tin về Trung Quốc, và
nguyên nhân không phải là một khoảnh khắc Sputnik mà là nhiều khoảnh
khắc nhỏ hơn liên tiếp. Nói chuyện với các chiến lược gia ở Mỹ và Trung
Quốc, các sĩ quan quân đội, chính trị gia, giới chủ doanh nghiệp và các
học giả, người ta sẽ thấy sốc khi nhiều người nói rằng nguy cơ xảy ra
một cuộc xung đột hạn chế không nên bị đánh giá thấp.
Một phần là do lực lượng vũ trang của Trung Quốc đang bắt kịp rất nhanh.
Nước Mỹ mất 17 năm để thành thạo trong việc gửi máy bay không người lái
đi tìm diệt các nghi phạm khủng bố cách nửa vòng trái đất. Trong khi đó,
Trung Quốc đã cho loại biên các vũ khí cũ kỹ của Liên Xô và mua sắm các
máy bay chiến đấu và tàu chiến tiên tiến. Trung Quốc đã đầu tư các loại
tên lửa chống hạm để tăng phí tổn cho sự can thiệp của Mỹ vào các vùng
biển gần, cũng như đầu tư vào các biên đội tàu ngầm (mặc dù tàu ngầm của
Trung Quốc vẫn ồn hơn so với tàu ngầm Mỹ). Trung Quốc còn củng cố các
đảo đá và rạn san hô tại vùng biển tranh chấp ở Biển Đông với tên lửa,
vòm radar và đường băng (trong hình). Chủ tịch Tập Cận Bình kêu gọi hải
quân phát triển tư duy biển, khi giờ đây các mối quan hệ thương mại và
an ninh đã gắn Trung Quốc – trong hàng thiên niên kỷ là một cường quốc
nông nghiệp hướng nội – với biển cả. Trung Quốc có ưu thế dẫn đầu về vũ
khí lượn siêu âm, những tên lửa di chuyển với tốc độ một dặm một giây
chống lại các tàu sân bay mà hiện không có hệ thống phòng thủ nào đủ tin
cậy để chống lại. Nếu hỏi về những điểm yếu của Trung Quốc, các sĩ quan
Mỹ sẽ đề cập đến các chuỗi chỉ huy cứng nhắc, ít trao quyền tự chủ cho
các sĩ quan cấp dưới. Họ cũng không rõ các nhánh khác nhau của quân đội
Trung Quốc có thể phối hợp với nhau trong các nhiệm vụ phức tạp như xâm
lược Đài Loan, hòn đảo dân chủ mà Trung Quốc tuyên bố là lãnh thổ của
mình, hay không.
Chiến tranh toàn diện liên quan đến Đài Loan không phải là điểm nóng
khẩn cấp nhất. Báo cáo Sức mạnh Quân sự Trung Quốc mới nhất, được Lầu
Năm Góc gửi cho Quốc hội hàng năm, “không nhận thấy dấu hiệu nào cho
thấy Trung Quốc đang mở rộng đáng kể lực lượng tàu đổ bộ cần thiết cho
một cuộc tấn công đổ bộ vào Đài Loan”. Thay vào đó, các nhà hoạch định
đang lo lắng hơn về những nỗ lực của Trung Quốc nhằm đẩy Mỹ ra khỏi các
vùng biển gần và ra ngoài “chuỗi đảo đầu tiên”, bao gồm Nhật Bản và Đài
Loan. Các tàu và máy bay Mỹ thường xuyên khẳng định quyền đi qua Biển
Đông theo luật quốc tế, gây ra những phản ứng từ Trung Quốc vốn có thể
leo thang một cách khó lường.
Cuộc cạnh tranh trong vũ trụ
Kỷ nguyên của sự ngờ vực hiện nay cũng có một vệ tinh mang tính biểu
tượng của Trung Quốc, đó là Shijian 17. Dù chính thức là một tàu thử
nghiệm chuyên kiểm tra các hệ thống đẩy và thiết bị chụp ảnh mới để phát
hiện rác vũ trụ, các nhà khoa học Mỹ và các lãnh đạo quân sự đã chứng
kiến SJ-17 thực hiện các thao tác đáng chú ý kể từ khi ra mắt vào năm
2016, ví dụ như di chuyển giữa ba vệ tinh khác nhau của Trung Quốc trên
không gian và tự dừng lại cách các vệ tinh khác trong khoảng cách vài
trăm mét. Trung Quốc, giống như Mỹ, cũng đang trở nên thành thạo nghệ
thuật tác chiến chống vệ tinh. Trung Quốc thử nghiệm tên lửa phá hủy vệ
tinh lần đầu tiên vào năm 2007, tạo ra các mảnh vỡ trong không gian, và
được cho là đã thử nghiệm các thiết bị laser và gây nhiễu chống vệ tinh.
Năm ngoái, Phó Tổng thống Mike Pence đã nêu các hoạt động vệ tinh “rất
tinh vi” của Trung Quốc như là một trong những lý do để thành lập “Lực
lượng Không gian”, một quân chủng mới với sự tham gia của rất nhiều
chuyên gia.
Các nhà chiến lược nói về sự khác biệt giữa khả năng và ý định. Cảm giác
lo lắng về Trung Quốc đang làm xói mòn sự khác biệt đó. Khi Ủy ban Đánh
giá Kinh tế và An ninh Trung Quốc, một ủy ban giám sát của Quốc hội Mỹ,
tổ chức một phiên điều trần về các chương trình không gian của Trung
Quốc vào tháng trước, đại diện Lầu Năm Góc, William Roper (trợ lý bộ
trưởng không quân phụ trách mua sắm, công nghệ và hậu cần), đã lưu ý
rằng ủy ban đang thực sự đặt câu hỏi liệu Mỹ có đang cạnh tranh chiến
lược với Trung Quốc trong không gian hay không. “Tôi hy vọng ủy ban kết
luận là có”, ông nói trước ủy ban. Dù nhắc đến vị trí dẫn đầu với khoảng
cách xa của Mỹ trong không gian, khi Mỹ triển khai hơn một nửa số vệ
tinh gián điệp được tuyên bố trên thế giới – Roper khẳng định rằng “các
quốc gia như Trung Quốc đã thể hiện ý định đưa sự thù địch lên vũ trụ”.
Tổng thống Donald Trump rất nghiêm túc với ý tưởng rằng Trung Quốc là
một thách thức trong không gian, theo lời Michael Pillsbury, một cố vấn
theo hợp đồng của Nhà Trắng. “Lực lượng Vũ trụ là nhằm vào Trung Quốc”.
Ông thể hiện sự bất an trước 38 lần phóng vệ tinh của Trung Quốc trong
năm 2018, vượt qua 34 lần của Hoa Kỳ (xem biểu đồ). “Chuyện đó không nên
(được phép) xảy ra”.
Tâm trạng lo lắng bao trùm lưỡng đảng. Một đánh giá về các mối đe dọa
trong không gian được công bố vào tháng Tư bởi Trung tâm Nghiên cứu
Chiến lược và Quốc tế, một viện nghiên cứu ở Washington, DC, đã mở đầu
với một cảnh báo từ Jim Cooper (bang Tennessee), một đảng viên Dân chủ
và là chủ tịch tiểu ban Hạ viện giám sát chương trình vũ trụ: “Nguy cơ
về một trận Trân Châu Cảng trong không gian đang tăng lên mỗi ngày… Nếu
không có các vệ tinh, chúng ta sẽ rất khó khăn khi tái tập hợp và chiến
đấu chống trả. Chúng ta thậm chí có thể không biết ai đã tấn công chúng
ta, chúng ta sẽ bị điếc, câm, mù và bất lực”.
Các chuyên gia Trung Quốc nghi ngờ sự hoảng sợ đó. Rốt cuộc, Mỹ đã thử
nghiệm vũ khí chống vệ tinh đầu tiên vào năm 1959 và hầu hết các thành
tích trong không gian của Trung Quốc, từ các chuyến bay có người lái đến
việc tạo ra một mạng lưới các vệ tinh định vị, đã được Mỹ tiến hành
nhiều thập niên trước.
Một chiến lược gia biển hàng đầu, Hu Bo tại Đại học Bắc Kinh, phàn nàn
rằng người Mỹ có thói quen xấu là coi các ý định và khả năng của Trung
Quốc là một và giống nhau, có lẽ vì Mỹ coi sức mạnh của Trung Quốc “là
xấu xa một cách cố hữu”. Ngay khi Trung Quốc có một tên lửa có tầm bắn
đủ vươn tới đảo Guam, Mỹ đã buộc tội Trung Quốc “đang đe dọa đảo Guam”,
ông nói thêm. Nếu theo logic tương tự thì Bắc Kinh đang gặp nguy hiểm,
vì nó nằm trong tầm tấn công của máy bay ném bom và tên lửa của Mỹ.
“Nhưng Trung Quốc không đi khắp nơi tuyên bố rằng Hoa Kỳ đang đe dọa Bắc
Kinh”. Ông Hu thấy một nước Mỹ đã quen với cảm giác “không thể bị đe
dọa”.
Một bất bình phổ biến trong giới làm về an ninh quốc gia của Trung Quốc
là tâm trạng của Mỹ có thể thay đổi rất đột ngột, mặc dù các lợi ích cốt
lõi của Trung Quốc, từ các yêu sách lãnh thổ đối với Đài Loan tới việc
bảo vệ hệ thống độc đảng, đã không thay đổi trong nhiều thập niên qua.
Nước Mỹ đã thay đổi, rất nhiều. Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) năm
2006 tuyên bố rằng Mỹ “tìm cách khuyến khích Trung Quốc đưa ra những lựa
chọn chiến lược đúng đắn cho người dân của họ, trong khi chúng tôi phòng
bị các khả năng khác”. Bản NSS năm 2017 gọi chính sách can dự nhìn chung
là một thất bại và cáo buộc rằng “Trung Quốc đang tìm cách thay thế Hoa
Kỳ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, mở rộng ảnh hưởng của mô
hình kinh tế do nhà nước chỉ huy và sắp xếp lại trật tự khu vực theo
hướng có lợi cho Trung Quốc”.
Các chuyên gia an ninh Trung Quốc cho rằng lời giải thích là rất đơn
giản, nằm ở sức mạnh quân sự và kinh tế đang gia tăng của Trung Quốc,
theo Zhao Tong, chuyên gia tại Trung tâm Carnegie- Tsinghua về Chính
sách Toàn cầu, một viện nghiên cứu có trụ sở tại Bắc Kinh. Tuy nhiên,
ông nhìn thấy lỗ hổng trong lập luận đó. Sự thay đổi thái độ của Mỹ là
rất nhanh, trong khi sự trỗi dậy của Trung Quốc diễn ra từ
từ. Ông Zhao có một lời giải thích khác. Không chỉ là Trung Quốc
mạnh hơn, mà Trung Quốc còn trở nên sẵn sàng hơn trong việc thể hiện sức
mạnh đó – một sự quyết đoán liên quan đến việc nhấn mạnh hơn yếu tố ý
thức hệ trong chính trị nội bộ Trung Quốc. Điều đó khiến thế giới nhận
ra rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất cứ điều gì giống với các giá
trị phương Tây, ông Zhao lập luận.
Những sự hiểu lầm khác cũng còn đó. Khi các nước láng giềng nhỏ hơn phàn
nàn rằng Trung Quốc đang đe dọa họ, các quan chức an ninh Trung Quốc lại
tin chắc rằng Mỹ đang kích động các nước đó. Cách họ nói lên điều đó,
rằng Trung Quốc hành động cứng rắn là nhằm tự vệ, cho thấy Trung Quốc
không muốn bị bắt nạt. Zhao nói ông rất lo lắng “vì Trung Quốc chưa có
khả năng xem xét các vấn đề từ quan điểm của người khác”.
Các học giả quan hệ quốc tế gọi hình thức hiểu lầm nguy hiểm nhất là thế
“lưỡng nan an ninh”. Nó có thể phát sinh khi một quốc gia thực hiện các
hành động phòng thủ nhưng bị nước khác hiểu nhầm là một hành động gây
hấn, khiến cho tất cả các bên đều cảm giác bất an. Hiện tại Mỹ và Trung
Quốc có nguy cơ gặp phải thế lưỡng nan an ninh như vậy, đặc biệt là
trong các lĩnh vực cạnh tranh mới.
Nếu các chiến lược gia dành thời gian đếm các tên lửa chống hạm và
nghiên cứu các đơn vị chiến đấu trên biển mới của Trung Quốc, thì họ
cũng dành nhiều thời gian để suy nghĩ về các tài sản và vũ khí không thể
nhìn thấy và không có quy tắc chiến tranh nào điều chỉnh, từ vũ khí mạng
đến các chuỗi cung ứng bị mất an ninh. Không nơi nào xác thực điều đó
hơn trong lĩnh vực chiến tranh mạng, một lĩnh vực còn thiếu minh bạch
đến nỗi Trung Quốc và Mỹ thậm chí còn không đồng ý về các định nghĩa cơ
bản, đâu là những hành vi không thể chấp nhận được. Một số nghe có vẻ
gợi nhớ tới các học thuyết khắc nghiệt nhưng quen thuộc trong cuộc đối
đầu hạt nhân Đông-Tây trong cuộc Chiến tranh Lạnh thế kỷ 20.
Suy nghĩ về những điều không tưởng
Bên cạnh các tiêu đề báo chí hàng ngày về chiến tranh thương mại và mâu
thuẫn thuế quan, các nỗ lực kín đáo vẫn đang được tiến hành để xác định
Mỹ và Trung Quốc có thể đồng ý về một số quy chuẩn và nguyên tắc cơ bản
nhằm tránh các cuộc đụng độ hoặc tính toán sai trong lĩnh vực không gian
mạng hay không. Những nỗ lực này rõ ràng lấy các cuộc đàm phán vũ khí
hạt nhân trong lịch sử làm mô hình, làm sống lại những cụm từ Chiến
tranh Lạnh đã bị lãng quên phần nào như “các biện pháp xây dựng lòng
tin” và cam kết “không sử dụng đầu tiên”.
Các viện nghiên cứu Mỹ và Trung Quốc đã âm thầm tổ chức các cuộc hội
thảo để nói về những hành động thảm khốc đến mức cả hai nước có thể sẵn
sàng từ bỏ chúng. Viện Carnegie Endowment, có trụ sở tại Washington, DC,
đã đề xuất lệnh cấm các cuộc tấn công chống lại các hệ thống chỉ huy và
kiểm soát các lực lượng hạt nhân, và “hết sức kiềm chế” việc làm suy yếu
niềm tin vào các luồng dữ liệu tài chính quan trọng đối với sự ổn định
toàn cầu. Một nhóm các chuyên gia chính phủ do Liên Hợp Quốc triệu tập
đã đề xuất một tiêu chuẩn chống lại việc tấn công vào các cơ sở hạ tầng
quan trọng, như đập thủy lợi hoặc lưới điện. Các công ty công nghệ lớn
và các lãnh đạo doanh nghiệp đã bắt đầu tranh luận về danh sách các hành
động có thể bị cấm tương tự như sử dụng khí mù tạc hoặc phát tán bệnh
than trong thế giới thực, như thử nghiệm vũ khí mạng trong các mạng máy
tính kết nối với thế giới bên ngoài.
Niềm tin đã chứng minh là một trở ngại đối với việc thiết lập các hiệp
ước kiểu Chiến tranh Lạnh để loại bỏ những công cụ như vậy. Không giống
như đầu đạn hạt nhân, vũ khí không gian mạng không thể đếm được, và sự
tiêu hủy của chúng không bao giờ có thể xác minh được. Đến nay, các
chuyên gia và quan chức Trung Quốc đã tỏ ra miễn cưỡng khi nói về cách
các “chiến binh mạng” của Trung Quốc hoạt động ra sao. Mỹ không đồng ý
với Trung Quốc về những hình thức gián điệp mạng nào, mặc dù gây khó
chịu cho các đối thủ, là thứ có thể chấp nhận được. Nước Mỹ xác định đó
là những hoạt động gián điệp của chính phủ nhằm đánh cắp bí mật thương
mại và trao chúng cho các công ty được nhà nước ưu tiên. Trung Quốc hứa
sẽ ngăn chặn các hoạt động gián điệp như vậy trong một thỏa thuận năm
2015 giữa Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Barack Obama, nhưng các
quan chức Mỹ khẳng định rằng cam kết đó đã bị phá vỡ, và Trung Quốc đã
cố gắng hơn để không bị bắt quả tang bằng cách đưa các hoạt động sang
cho Bộ An ninh Quốc gia quản lý.
Vận hành một thế giới mới ngay nay với các cuộc tấn công biết được lẫn
khó biết có thể yêu cầu cả hai bên phải đưa ra những nhượng bộ đau đớn.
Vào tháng 10 năm 2018, một đại tá đã nghỉ hưu của Giải phóng Quân Nhân
dân (PLA), Liu Jinghua, và một cựu quan chức năng lượng nguyên tử của
Israel, Ariel Levite, đã công bố đề xuất về một thỏa thuận lớn về không
gian mạng trong tạp chí Khoa học quân sự Trung Quốc, một tạp chí học
thuật của PLA. Bài viết gợi ý rằng Mỹ nên công nhận quyền của Trung Quốc
trong việc giám sát và kiểm duyệt mạng internet của chính họ một cách
gắt gao, ngừng cho rằng internet nên là nơi tồn tại tự do ngôn luận, tự
do khám phá trên toàn thế giới. Đổi lại, bài viết cũng đề xuất rằng cảnh
sát mạng Trung Quốc sẽ sử dụng sức mạnh ghê gớm của họ để ngăn chặn và
trừng phạt các cuộc tấn công mạng được phát động từ lãnh thổ Trung Quốc.
Những đề xuất như vậy không có sự kịch tính như phản ứng của Mỹ trước cú
sốc Sputnik, một cuộc chạy đua không gian đưa con người lên mặt trăng và
thúc đẩy các phát minh quan trọng đối với cuộc sống hiện đại. Nhưng cuộc
đối đầu Trung – Mỹ phải được quản lý. Có thể cho rằng nó đã lên tới hình
thức một cuộc chiến tranh mạng không được công bố. Cả hai bên có những
lợi ích lớn có thể được liệt kê ra và so sánh. Có thể một ngày nào đó,
những danh sách đó sẽ trở thành một hiệp ước, làm cho thế giới trở nên
an toàn hơn. Nhưng than ôi, ngày đó vẫn còn xa.
Báo cáo đặc biệt về Chiến tranh lạnh Mỹ – Trung (P6)
Nguồn: “The trouble with putting tariffs on Chinese goods”, The
Economist, 16/05/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
6. Tại sao đánh thuế hàng Trung Quốc không hiệu quả?
Donald Trump không phải là tổng thống Mỹ đầu tiên hứa hẹn một đường lối
cứng rắn hơn đối với Trung Quốc, nhưng ông là người đầu tiên tiến hành
một cuộc chiến tranh thương mại mà nghe giống như một cuộc thương lượng
lại tiền thuê nhà. “Tôi là một Người đánh thuế”, ông đã tweet vào tháng
12 năm ngoái, khoe rằng nước Mỹ đang thu được hàng tỷ đô la nhờ thuế
nhập khẩu mà ông đã áp đặt (ông quên mất thuế nhập khẩu chủ yếu là do
người tiêu dùng Mỹ gánh). Ông Trump làm cho thị trường Mỹ nghe giống như
một mảnh bất động sản có giá trị mà người nước ngoài phải trả nhiều tiền
hơn nếu muốn tiếp cận. Hay như ông Trump nói: “Khi người dân hoặc các
quốc gia khác đến để lợi dụng sự giàu có của Quốc gia chúng ta, tôi muốn
họ phải trả tiền cho đặc quyền đó”.
Khi Trung Quốc phát triển, các chính trị gia thường cáo buộc họ “không
chơi theo cùng một quy tắc”. Ông Trump thì khác. Ông không quá băn khoăn
về các quy tắc. Ông nói rằng ông không đổ lỗi cho việc Trung Quốc đặt
lợi ích của mình lên hàng đầu và đánh cắp các công ăn việc làm của người
Mỹ. Ông chỉ đổ lỗi cho những người tiền nhiệm đã cho phép hành vi trộm
cắp đó xảy ra.
Khi giới doanh nghiệp và hoạch định chính sách của Trung Quốc suy ngẫm
về cuộc chiến thương mại, không hiếm khi chúng ta nghe ông Trump được họ
mô tả là một doanh nhân thực dụng bị kiểm soát bởi một nhóm những người
theo chủ nghĩa dân tộc kinh tế điên cuồng. Trên thực tế, thương mại là
một trong số ít các vấn đề chính sách mà ông Trump có niềm tin cố định
khi lên nắm quyền, một niềm tin được tạo ra từ những năm 1980 lúc xảy ra
căng thẳng thương mại với Nhật Bản và Đức. Ngược lại, các nhân sự nội bộ
của ông đã phải mất nhiều thời gian để tranh cãi về chính sách thương
mại, đôi khi lọt vào cả tai của các nhà đàm phán Trung Quốc đang sững
sờ. Các quan chức ở Trung Quốc hơi bị ám ảnh về cố vấn thương mại chính
của ông Trump, Peter Navarro, một học giả hiếu chiến muốn tách rời nền
kinh tế Trung Quốc và Mỹ. Trên thực tế, ảnh hưởng của Navarro khá hạn
chế. Sức mạnh chính của ông đến từ việc ông đại diện cho quan điểm về
thế giới của các đảng viên Dân chủ tham gia công đoàn, những người có lá
phiếu mà ông Trump cần nếu muốn tái đắc cử.
Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, Robert Lighthizer, lớn lên tại một thị trấn
đường sắt ở vành đai công nghiệp Đông Bắc và coi việc chiến đấu để bảo
vệ các công nhân ngành chế tạo là một mục tiêu cần thiết của chính phủ.
Thời trẻ ông từng tham gia đàm phán với Nhật dưới thời chính quyền
Reagan. Điều hợp nhất nhóm quan chức kỳ lạ này là một câu chuyện chung:
rằng Trung Quốc đã âm mưu và lừa dối để đánh cắp công ăn việc làm của
người Mỹ và những công việc đó có thể được kéo về Mỹ bằng cách sử dụng
sức ép đủ lớn, giống như những gì đã xảy ra với Nhật Bản hai thế hệ
trước.
Hồi đó, Nhật Bản và Đức đã xoa dịu Mỹ bằng cách đồng ý tăng giá đồng yên
và đồng D-mark so với đồng đô la, khiến hàng hóa của Mỹ có sức cạnh
tranh hơn một chút. Nhật Bản bị ép phải tự nguyện hạn chế xuất khẩu mọi
thứ từ hàng dệt may cho đến ô tô. Với thái độ xây dựng hơn, các công ty
Nhật Bản cũng đã mở các nhà máy sản xuất xe hơi ở Mỹ, mang theo cả các
nhà quản lý chất lượng từ Nhật.
Tuy nhiên các giải pháp áp dụng cho Nhật Bản không thể áp dụng được cho
Trung Quốc, và lịch sử sẽ không lặp lại. Thứ nhất, Trung Quốc sẽ không
chấp nhận để đồng tiền của mình tăng giá 50% hoặc hơn so với đồng đô la
Mỹ. Hơn nữa, các nhà sản xuất ô tô hoặc đại gia viễn thông Trung Quốc
như Huawei không được hoan nghênh nếu đầu tư vào Mỹ, nơi họ bị buộc tội
ăn cắp công nghệ và đe dọa an ninh quốc gia.
Nhóm Trump cũng từ chối thừa nhận logic của chuỗi cung ứng toàn cầu.
Quan điểm lịch sử phổ biến về quá trình việc làm của người Mỹ bị chuyển
sang Trung Quốc đã nhấn mạnh sự “xảo quyệt” của các quan chức Trung Quốc
và xem nhẹ vai trò của các công ty đa quốc gia của châu Á và các khu vực
khác. Trong nhiều ngành công nghiệp chế tạo cấp thấp, lực đẩy của toàn
cầu hóa đã đưa các công việc này đến Trung Quốc khi nước này đưa ra mức
lương thấp, đất rẻ và ưu đãi thuế. Các công ty nước ngoài đào tạo các
nhà quản lý Trung Quốc để vận hành các nhà máy đạt chất lượng xuất khẩu.
Giờ đây, khi tiền lương của Trung Quốc đang tăng lên và thuế quan của
ông Trump đang tạo ra những rủi ro chính trị không thể kiểm soát được,
các việc làm ngành chế tạo lại rời Trung Quốc sau thời gian 30 năm,
hướng tới Đông Nam Á và các khu vực khác. Hiểu đúng lịch sử trở thành
vấn đề quan trọng bởi vì lý lẽ thương mại của ông Trump quá nhìn vào quá
khứ. Douglas Paal, người nắm giữ các chức vụ hàng đầu về châu Á dưới
chính quyền Reagan và Bush cha, nhận thấy khiếm khuyết trong mọi cuộc
chiến dựa trên luật thương mại: “Cấu trúc không tính đến tiếng nói của
các ngành công nghiệp trong tương lai”.
Đôi khi số phận của một ngành công nghiệp có thể tổng kết cả một thời
đại. Những năm 1970, các nhà máy Mỹ sản xuất hơn 15 triệu xe đạp mỗi
năm. Ngày nay, hơn 95% xe đạp được bán ở Mỹ được nhập khẩu, chủ yếu từ
Trung Quốc. Các nhà máy Mỹ sử dụng công nghệ hàng chục năm tuổi, nhưng
chính quyền Trump vẫn sử dụng các quyền hạn đặc biệt theo “Mục 301” (Đạo
luật Thương mại Mỹ), vốn có mục đích bảo vệ các tài sản trí tuệ quý giá
nhất, để áp thuế 10% đối với xe đạp Trung Quốc vào tháng 9 năm ngoái,
tăng lên 25% vào ngày 10 tháng 5 vừa qua.
Tôi muốn đạp đến nơi nào tôi thích
Đối với bất kỳ ai muốn tìm kiếm bằng chứng cho thấy cuộc chiến thương
mại là tốt cho công nhân Mỹ, quầy bán xe đạp của Walmart Supercentre ở
Moline, Illinois, có vẻ là nơi phù hợp. Bên cạnh xe đạp do Trung Quốc
sản xuất từ các thương hiệu như Huffy hay Kent, các giá đỡ cũng trưng
bày những chiếc xe khuấy động lòng yêu nước của người Mỹ: xe đạp địa
hình mang logo hình khiên của Tập đoàn Xe đạp Mỹ (BCA) và được gắn thẻ
thông tin sản phẩm có màu cờ Mỹ với khẩu hiệu “Đưa việc làm trở lại nước
Mỹ!”. Thẻ cho thấy địa chỉ nhà máy nằm ở Nam Carolina.
Quầy hàng Walmart đó khiến người ta hiểu lầm. Arnold Kamler là giám đốc
điều hành của Kent International, một công ty gia đình có trụ sở tại New
Jersey bán khoảng 3 triệu chiếc xe đạp mỗi năm cho Walmart, Target và
các cửa hàng khác. Ông nhớ lại, vào cuối những năm 1980, những chiếc xe
đạp do Trung Quốc sản xuất được bán ở Mỹ với giá không tưởng và sau đó
lại tiếp tục giảm thêm 5-10% mỗi năm. Kent đã phải đóng cửa nhà máy ở
New Jersey vào năm 1991. Vài năm sau, các nhà sản xuất xe đạp Mỹ còn lại
đã phải nộp đơn xin áp thuế chống bán phá giá đối với xe đạp nhập khẩu
từ Trung Quốc. Cơ quan quản lý thương mại của chính phủ từ chối giúp đỡ.
“Hồi đó Hoa Kỳ đang cố gắng gây thiện cảm với Trung Quốc”, ông Kamler
buộc tội. Đó nghe có vẻ như là một trong những câu chuyện ông Trump hay
kể về sự gian lận của Trung Quốc và sự thụ động của người Mỹ. Tuy nhiên,
cuộc sống thực tế lại không đơn giản như vậy, và một chuyến đi đến đồng
bằng sông Dương Tử cho thấy điều đó.
Hầu hết các xe đạp của Kent được sản xuất tại Côn Sơn, gần Thượng Hải,
bởi một nhà thầu tên là Shanghai General Sports. Công ty này được điều
hành bởi Ge Lei, một người đàn ông 43 tuổi dễ gần. Người sáng lập công
ty là cha của ông, ông Ge Yali, người điều hành một nhà máy sản xuất xe
đạp quốc doanh vào những năm 1980. Theo lời kể của ông Ge Yali, sự phát
triển ở Côn Sơn có được là nhờ các nhà đầu tư Đài Loan và Nhật Bản,
những người đã giúp thay đổi các tiêu chuẩn sản xuất. Nếu những người
ủng hộ ông Trump vào phòng họp của gia đình Ge ở Côn Sơn, được trang trí
với những chiếc xe đạp trẻ em của Kent mang các nhãn hàng Walmart, họ có
thể khao khát những chiếc xe của BCA từ Nam Carolina có thể thay thế
chúng.
Nhưng thực tế thì BCA là một công ty con của Kent. Công ty này đã được
ông Kamler mở vào năm 2014 khi Walmart phát động chiến dịch mua hàng Mỹ.
Và thay vì làm xe đạp từ đầu, BCA lắp ráp và sơn khung xe và các bộ phận
nhập khẩu, chủ yếu là từ Côn Sơn. Vài năm trước, gia đình Ge đã mua 49%
cổ phần của Kent. Nói cách khác, những chiếc xe đạp BCA kích động lòng
yêu nước kia có một nửa thuộc sở hữu của người Trung Quốc.
Có những tin xấu hơn dành cho những người ủng hộ chính sách “Nước Mỹ
trên hết”. Bởi vì thuế nhập khẩu của ông Trump được áp dụng đối với xe
đạp thành phẩm cũng như linh kiện, chi phí sản xuất của Kent và BCA đã
bị tăng thêm 20 triệu đô la mỗi năm. Trong khi đó, một loạt mức thuế
riêng biệt của Trump dành cho sản phẩm thép và nhôm cũng đã gây xáo động
thị trường đến mức các kế hoạch mở rộng BCA đang bị trì hoãn, làm mất
việc làm của người Mỹ.
Hồi năm 2015, Thống đốc bang Nam Carolina lúc đó là Nikki Haley đã đón
tiếp các nhà sản xuất phụ tùng Trung Quốc và Đài Loan tại nhà máy BCA,
kêu gọi họ mở chi nhánh ở Nam Carolina để tạo ra một cụm nhà máy sản
xuất xe đạp. Ông Kamler kêu gọi các nhà cung cấp Trung Quốc nhận ra rằng
các ngành sản xuất công nghệ thấp có thể có lợi nhuận ở Mỹ. “Tiếc là nỗ
lực đó không thành công”, ông thở dài. BCA chỉ lắp ráp được 310.000 xe
đạp vào năm ngoái và ông Kamler tin rằng sản lượng thấp như vậy đã khiến
các nhà đầu tư Trung Quốc không mặn mà. Ge Lei thì thấy một vấn đề sâu
hơn. Ngay cả khi bỏ qua chi phí lao động, ông nghĩ rằng người Mỹ đã quên
cách điều hành các nhà máy thâm dụng lao động. Anh ta quá khéo léo nên
không gọi công nhân Mỹ là “lười biếng”, chỉ nói rằng họ “di chuyển chậm
hơn”.
Thay vào đó, ông Ge đang xây dựng một nhà máy ở Campuchia nhằm tiết kiệm
tiền lương. Xe đạp sản xuất ở đó sẽ tránh được các khoản thuế chống
Trung Quốc của ông Trump khi chúng được xuất đến Moline và siêu thị
Walmart ở các nơi khác. Các công nhân ở Campuchia của ông sẽ học được
một điều mà ông Trump không muốn công nhận: thuế quan hiếm khi có được
tác dụng như dự tính.
Báo cáo đặc biệt về Chiến tranh lạnh Mỹ – Trung (P7)
Nguồn: “America and China must manage their rivalry or risk disaster”,
The Economist, 16/05/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
Mỹ và Trung Quốc phải quản lý sự cạnh tranh nếu muốn tránh thảm họa
Nếu hỏi các chuyên gia Mỹ cuộc cạnh tranh nước lớn với Trung Quốc có thể
kết thúc ra sao, thì người ta sẽ thấy các tình huống tốt nhất mà họ đưa
ra đều rất giống nhau. Họ mô tả một tương lai gần trong đó Trung Quốc sẽ
dàn trải sức mạnh quá mức và vấp ngã. Họ tưởng tượng một Trung Quốc bị
trừng phạt bởi tăng trưởng chậm lại ở trong nước và sự phản ứng gay gắt
chống lại sự quyết đoán của mình ở nước ngoài. Họ hy vọng Trung Quốc có
thể nhìn lại trật tự toàn cầu và tìm kiếm một vai trò lãnh đạo trong
trật tự đó thay vì tìm cách thiết lập một trật tự mới.
Các chuyên gia Trung Quốc cũng có vẻ giống nhau khi giải thích tình
huống tốt nhất theo quan điểm của họ. Nói một cách thẳng thắn là Mỹ nên
ngừng nghĩ mình quan trọng hơn người khác. Còn nói
cách lịch sự hơn thì các chuyên gia Trung Quốc bày tỏ hy vọng
rằng trong một thập niên nữa, Mỹ sẽ học được sự khiêm nhường để chấp
nhận vai trò của Trung Quốc như một đối tác bình đẳng, và có được sự
khôn ngoan để tránh kích động Trung Quốc ở khu vực sân sau châu Á của
nước này.
Thật đáng mừng khi không ai trong số các chuyên gia này dự đoán một
tương lai trong đó cả Mỹ và Trung Quốc đều cảm thấy mình như là người
chiến thắng. Điều đó sẽ cho tất cả các bên một thời gian để suy nghĩ kỹ
lưỡng hơn. Cuộc Chiến tranh Lạnh thế kỷ trước với Liên Xô đã kết thúc
với chiến thắng của người Mỹ. Nhưng trong một cuộc chiến tranh lạnh
Trung-Mỹ mới, cả hai nước đều có thể thua.
Evan Medeiros, trước đây là cố vấn hàng đầu về châu Á của Barack Obama,
lo ngại rằng Trung Quốc đang tập trung vào chính sách ngoại giao gây xáo
trộn của ông Trump cũng như những lợi ích hẹp về thương mại. Medeiros,
hiện đang làm việc tại Đại học Georgetown, nhận thấy Trung Quốc đang
thiếu thiếu hiểu biết về việc tâm trạng của nước Mỹ đã thay đổi như thế
nào. Người Trung Quốc “tập trung vào vấn đề chu kỳ, tôi không nghĩ rằng
họ đã hiểu được các vấn đề về mặt cấu trúc [trong chính trị Mỹ]”, ông
nói.
Một sự can dự lâu dài
Đối với Mỹ, cần nhớ rằng việc can dự cùng với Trung Quốc không phải là
một hành động từ thiện. Giờ người ta thường chế giễu những người Mỹ ủng
hộ sự can dự với Trung Quốc khi Trung Quốc mở cửa ra thế giới là ngây
thơ. Trong thực tế, nhiều người trong số đó là những nhà hiện thực chủ
nghĩa khó tính. Podcast “Đối thoại Mỹ-Trung”, một dự án lịch sử qua lời
kể tại Đại học Georgetown, đang phỏng vấn các chuyên gia kỳ cựu về 40
năm quan hệ ngoại giao Mỹ – Trung. Dự án đưa ra một lời nhắc nhở gợi mở
về việc Trung Quốc mong manh và nguy hiểm như thế nào cách đây chưa lâu.
Trong một bản ghi âm, Jeffrey Bader, cựu cố vấn trưởng của Obama về
chính sách châu Á, hiện làm việc tại Viện Brookings, nhắc lại việc trong
những năm 1980, Mỹ không có vấn đề gì khác chiếm tâm trí bằng việc Trung
Quốc sẵn sàng cung cấp bí mật vũ khí hạt nhân cho Pakistan và các thiết
kế tên lửa đạn đạo cho “mọi chế độ bất hảo ở Trung Đông”. Sau nhiều năm
chịu áp lực ở cấp độ cao, Trung Quốc hiện kiên quyết chống phổ biến hạt
nhân. Sau khi Trung Quốc đàn áp tàn bạo các cuộc biểu tình do sinh viên
dẫn dắt ở Quảng trường Thiên An Môn vào tháng 6 năm 1989, Mỹ vẫn giữ
quan hệ thương mại mở, không phải vì hy vọng vào một Trung Quốc nhân từ
hơn, mà vì sợ rằng nước này có thể quay trở lại chính sách tự cung tự
cấp bài ngoại thời Mao, ông Bader lưu ý.
Mỹ cần suy nghĩ kỹ về những gì họ muốn từ Trung Quốc. Một số người ở
Washington coi sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc là một rào cản
không thể vượt qua đối với niềm tin. Trừ khi họ muốn chứng kiến đảng sớm
bị lật đổ, còn không thì sẽ là khôn ngoan hơn nếu chỉ tập trung vào các
hành vi của Trung Quốc. Như Oriana Skylar Mastro tại Đại học Georgetown
nói: “Nếu chúng ta tập trung vào bản chất của chính Trung Quốc, thì
chúng ta sẽ không thể cho họ một lối thoát”.
Mỹ phải tránh bẫy. Nếu các chiến lược gia Trung Quốc tin vào những gì họ
nói, rằng Mỹ đã mệt mỏi và sẵn sàng rút lui, thì bước tiếp theo là có
thể dự đoán được. Trung Quốc sẽ mang đến cho Mỹ một cuộc sống dễ dàng bề
ngoài, trong đó Trung Quốc được trao một phạm vi ảnh hưởng ở Tây Thái
Bình Dương và Mỹ quay vào chu kỳ suy tàn hướng nội.
Bà Mastro thừa nhận có một logic lạnh lùng đối với chủ nghĩa biệt lập,
mặc dù bà phản đối nó. Nếu nước Mỹ sẵn sàng chấp nhận một thế giới trong
đó Mỹ không còn kề vai sát cánh cùng các đồng minh châu Á, thì “sẽ không
còn sự tranh chấp quân sự nào khác giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ”. Nhưng cái
giá rất cao: đó là một minh chứng cho thấy Mỹ cảm thấy không còn bị ràng
buộc bởi các cam kết hiệp ước với các đồng minh cũng như các giá trị của
nó.
Cách đây không lâu, Mỹ và Trung Quốc đã làm giảm căng thằng bằng cách
hứa hẹn mở rộng thương mại. David Dollar tại Viện Brookings, và là đại
diện của Bộ Tài chính Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, cho rằng giờ đã quá muộn để
làm việc đó. Ông nhớ lại việc Chủ tịch Tập Cận Bình từng nói với các vị
khách Mỹ đến thăm rằng “quan hệ kinh tế là nền tảng của mối quan hệ
chúng ta”. Ông Dollar nghi ngờ điều đó. Một số đồng minh phương Tây của
Mỹ, như Đức, có quan hệ sâu sắc hơn với Trung Quốc so với Mỹ thông qua
các trao đổi kinh tế trực tiếp. Trong số các điểm đến cho đầu tư trực
tiếp của Mỹ ra nước ngoài, Trung Quốc chỉ đứng thứ bảy. Một lập luận
thuyết phục hơn để Mỹ hợp tác với Trung Quốc liên quan đến khả năng độc
nhất vô nhị của Mỹ và Trung Quốc trong việc cung cấp hàng hóa công toàn
cầu, chẳng hạn như các chính sách để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu,
ông nói.
Henry Paulson, cựu bộ trưởng tài chính, kêu gọi Trung Quốc và Mỹ đạt
thỏa thuận về các dự án hữu hình mà công chúng có thể thấy, từ các kế
hoạch môi trường đến đầu tư vào các lĩnh vực mới nhằm tạo ra công ăn
việc làm: “Để xây dựng niềm tin, điều quan trọng là cần cùng giành được
một số chiến thắng”.
Báo cáo này đã xem xét nhiều trở ngại đối với niềm tin. Trung Quốc là
một loại siêu cường khá đặc biệt: họ được ngưỡng mộ vì các thành tích
của mình nhưng thiếu bạn bè thực sự. Trung Quốc chỉ biến các quốc gia
khác thành người phụ thuộc, thu hút họ nhờ nhiều tiền, công nghệ và thị
trường. Trung Quốc không nên bị chỉ trích vì trở nên lớn hơn. Nhưng
Trung Quốc đã quá lớn để duy trì một thế giới quan tự lợi, cơ hội chủ
nghĩa và yếm thế vốn đã từng giúp nước này vươn lên. Nếu Trung Quốc
không thay đổi, nó có thể phá vỡ toàn cầu hóa, chia cắt thị trường thế
giới thành các khối do Trung Quốc và Mỹ lãnh đạo. Ở Biển Đông và các
vùng biển gần khác, chủ nghĩa dân tộc hung hăng của Trung Quốc đang làm
tăng nguy cơ xảy ra đụng độ vô tình với máy bay hoặc tàu chiến Mỹ. Và
Trung Quốc cũng đã xây dựng một nhà nước cảnh sát phân biệt chủng tộc ở
Tân Cương, có thể đã giam giữ một triệu người Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi
trong các “trại cải tạo” và tiến hành giám sát hàng triệu người khác.
Điều đó sẽ trở thành một lực cản lớn hơn bao giờ hết đối với uy tín của
nó, đặc biệt là nếu Trung Quốc muốn xuất khẩu mô hình chuyên chế dựa
trên công nghệ đó sang các nước khác.
Nước Mỹ cũng vậy, có rất nhiều thứ để mất. Các lãnh đạo Mỹ đang chịu
khuất phục trước một cuộc khủng hoảng niềm tin có nguy cơ chứng minh
rằng những người Trung Quốc khinh miệt Mỹ đã nói đúng. Để cạnh tranh với
Trung Quốc, Mỹ phải đầu tư vào tương lai của mình, với ngân sách dành
cho giáo dục công và khoa học cấp cao, đồng thời có các chính sách nhập
cư hợp lý để thu hút nhân tài. Ở nước ngoài, điều đó có nghĩa là cần xây
dựng lại các liên minh đã bị suy yếu và nhớ rằng các quốc gia phương Tây
khác không muốn lựa chọn giữa Trung Quốc và Mỹ. Không có quy tắc nào tồn
tại trong cuộc cạnh tranh quyền lực nước lớn này. Lịch sử hiện đại chưa
từng chứng kiến một cuộc cạnh tranh ý thức hệ nào như vậy giữa hai đối
tác thương mại khổng lồ. Đồng ý làm thế nào để làm cho cuộc cạnh tranh
đó an toàn và mang tính xây dựng sẽ khó khăn. Nhưng hòa bình và thịnh
vượng vủa thế kỷ này phụ thuộc vào điều đó./.
Thách thức của Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh mới với Trung Quốc
Nguồn: Minxin Pei, “The High Costs of the New Cold War”, Project
Syndicate, 14/03/2019.
Biên dịch: Phan Nguyên
Thật tiện khi gọi cuộc ganh đua địa chính trị đang leo thang giữa Hoa Kỳ
và Trung Quốc là một cuộc “chiến tranh lạnh mới”. Nhưng cách mô tả đó
không được phép làm che khuất một thực tế rõ ràng, dù chưa được hiểu
hết, rằng cuộc ganh đua mới này sẽ khác hoàn toàn với cuộc Chiến tranh
lạnh giữa Mỹ và Liên Xô.
Cuộc Chiến tranh Lạnh của thế kỷ 20 đã khiến hai liên minh quân sự đối
đầu nhau. Ngược lại, sự cạnh tranh Trung-Mỹ liên quan đến hai nền kinh
tế được hội nhập chặt chẽ với nhau và với phần còn lại của thế giới. Do
đó, các trận chiến quyết định nhất trong cuộc chiến tranh lạnh ngày nay
sẽ diễn ra trên mặt trận kinh tế (thương mại, công nghệ và đầu tư), thay
vì ở Biển Đông hay Eo biển Đài Loan chẳng hạn.
Một số nhà tư tưởng chiến lược Mỹ đã nhận ra điều này, và giờ đây lập
luận rằng nếu Mỹ muốn chiến thắng trong cuộc chiến tranh lạnh này, họ
phải cắt đứt quan hệ thương mại với Trung Quốc – và thuyết phục các đồng
minh của mình làm điều tương tự. Nhưng, như cuộc chiến thương mại song
phương đang diễn ra cho thấy, điều này nói dễ hơn làm. Trái ngược với
tuyên bố của Tổng thống Mỹ Donald Trump rằng Mỹ sẽ dễ dàng giành chiến
thắng, cuộc chiến đó đã gây ra phí tổn cao đến mức giờ đây Trump dường
như đang do dự về việc leo thang, trong khi thâm hụt thương mại của Mỹ
với Trung Quốc thậm chí tiếp tục gia tăng.
Nếu Mỹ, với động lực địa chính trị mạnh mẽ của mình, đang phải vật lộn
để gánh chịu các phí tổn về mặt kinh tế thì các đồng minh của họ, hầu
hết không phải đối mặt với một mối đe dọa an ninh tức thì nào từ Trung
Quốc, sẽ chống lại việc phải làm điều tương tự. Sự thận trọng của họ thể
hiện rõ ràng qua phản ứng đối với chiến dịch của Mỹ chống lại người
khổng lồ viễn thông Huawei của Trung Quốc.
Cho đến nay, chiến dịch đó đã bao gồm vụ bắt giữ CFO của Huawei là bà
Meng Wanzhou (tại Canada) và hành động pháp lý chống lại công ty này vì
vi phạm lệnh trừng phạt chống lại Iran và đánh cắp công nghệ của Mỹ.
Chính quyền Trump cũng kêu gọi các đồng minh không sử dụng Huawei – công
ty dẫn đầu toàn cầu về công nghệ di động thế hệ 5G – cho các mạng truyền
thông vô tuyến của họ.
Họ có lý do để chống lại việc cho phép Huawei xây dựng các mạng 5G ở các
nước phương Tây. Việc chính phủ Trung Quốc có quyền lực không giới hạn
đối với các công ty của mình, bao gồm cả công nghệ của Huawei về mạng
5G, có thể dẫn đến những rủi ro bảo mật nghiêm trọng. Đối với các quốc
gia không thể mua thiết bị đắt tiền (và xem sự thống trị của Trung Quốc
chỉ là mối lo xa vời), thì những rủi ro đó có thể chấp nhận được. Nhưng
đối với các đồng minh giàu có của Mỹ thì khác.
Tuy nhiên, cho đến nay chỉ có Úc và New Zealand tuân theo yêu cầu của
Hoa Kỳ trong việc cấm Huawei. Trong khi Canada đang xem xét tham gia
cùng họ thì các nước châu Âu đã thách thức chính quyền Trump, với việc
Vương quốc Anh và Đức cho thấy họ sẽ cho phép Huawei tham gia xây dựng
mạng 5G. Hàn Quốc và Ấn Độ cũng đã chống lại áp lực tương tự của Mỹ
trong việc loại trừ Huawei.
Bất chấp các hệ lụy an ninh quốc gia, thực tế là việc cấm Huawei sẽ dẫn
đến chi phí cao hơn và sự trì hoãn đáng kể. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã không
tưởng thưởng hay bồi thường chút nào cho các đồng minh đang dao động của
mình.
Điều này nhấn mạnh một thách thức chủ chốt mà Mỹ có thể sẽ phải đối mặt
trong cuộc chiến tranh lạnh mới. Mặc dù Mỹ cuối cùng có thể dẫn đầu
nhưng chiến thắng đó sẽ không hề rẻ. Cô lập Trung Quốc về mặt kinh tế –
điều rất quan trọng để giúp Mỹ chiếm thế thượng phong – sẽ đòi hỏi Hoa
Kỳ không chỉ tự gánh chịu chi phí mà còn phải bồi thường cho các đồng
minh về những tổn thất mà họ phải gánh chịu.
Chiến thắng cũng sẽ không đến nhanh, đặc biệt là nếu Mỹ vẫn muốn giành
được các lợi ích ngắn hạn – chẳng hạn như các lời hứa của Trung Quốc về
việc mua một lượng lớn đậu nành và các sản phẩm năng lượng của Mỹ –
những thứ sẽ cản trở những thay đổi mang tính hệ thống có lợi cho Mỹ và
các đồng minh về lâu dài. Chủ nghĩa cơ hội như vậy khiến các đồng minh
nghi ngờ quyết tâm của Mỹ trong cuộc đối đầu kinh tế với Trung Quốc, làm
dấy lên nỗi sợ rằng họ sẽ phải gánh chịu chi phí ngắn hạn cao mà không
đạt được gì.
Chính quyền Trump đã thể hiện sự thiếu quan tâm đối với các lợi ích kinh
tế của đồng minh. Các đồng minh của Hoa Kỳ mới là những người bị tổn
thương chính bởi chính quyền Trump do thuế nhập khẩu đối với sản phẩm
thép và nhôm, và bây giờ chính quyền Trump đang đe dọa sẽ tiến xa hơn,
áp đặt thuế quan lên ô tô châu Âu và Nhật Bản. Trump thậm chí được cho
là đang xem xét yêu cầu các đồng minh của Mỹ phải trả toàn bộ chi phí,
cộng thêm 50%, cho việc đóng quân của Mỹ trên lãnh thổ họ.
Cách tiếp cận của Trump phản ánh không chỉ sự thiếu trung thành mà còn
cả sự thiếu tầm nhìn để duy trì, chứ chưa nói đến việc củng cố, ảnh
hưởng kinh tế của chính nước Mỹ. Hãy nhớ lại rằng gần như ngay lập tức
sau khi vào Nhà Trắng, Trump đã rút Mỹ ra khỏi Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương, một hiệp định thương mại tự do nhằm đặc biệt ngăn chặn
sự thống trị kinh tế của Trung Quốc ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Cuộc chiến tranh lạnh mới chống Trung Quốc sẽ được phân thắng bại không
phải thông qua ý thức hệ hay thậm chí là vũ khí, mà thông qua việc triển
khai các khuyến khích về mặt kinh tế để tiến hành một cuộc đua địa chính
trị. Chiến lược giúp mang lại chiến thắng sẽ không phải là chiến lược
biến lòng tham của Mỹ thành vũ khí. Bằng cách gây tổn thất lợi ích kinh
tế cho các đồng minh, Mỹ đang tự làm mất đi sức mạnh của chính mình.
Minxin Pei là giáo sư ngành quản trị chính quyền của Đại học Claremont
McKenna và là tác giả cuốn China’s Crony Capitalism.
MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI TÌM TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐÃ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XÃ HỘI THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐÃ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
.
CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia.
.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *