MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.(1)

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Giờ Thứ 25

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

 ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAme ProgressvFaivCityvBus.Insider 

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều

vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvBuddhism

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gươngv

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật Khoa Văn Nghệ

vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu TrữvSoHa

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNMvB́nh Dân

SEPTEMBER 2017

 

 

Chủ quyền (Sovereignty)

Posted on 20/03/2015 by The Observer

 

passport-- shutterstock-body

 

Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Vân

 

Khái niệm “chủ quyền” (sovereignty) gắn liền với các quốc gia – dân tộc được coi là có nguồn gốc từ Ḥa ước Westphalia năm 1648, khi các chính phủ lúc bấy giờ ngừng hỗ trợ những nhóm cùng tôn giáo chống lại các nhà nước của họ, đồng thời thừa nhận quyền tài phán dựa trên lănh thổ của các vương triều, gắn liền với việc tuân thủ chính sách không can thiệp vào biên giới lănh thổ đă được xác định của các vương triều đó. Cùng với sự phát triển của luật pháp quốc tế, chủ quyền dần được coi là một thuộc tính chính trị, pháp lư chủ yếu của một quốc gia, thể hiện quyền lực tối cao của Nhà nước mà không ǵ có thể so sánh được trên b́nh diện quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau với những mục đích khác nhau khái niệm chủ quyền quốc gia được hiểu theo những khía cạnh khác nhau.

 

Vào thế kỷ 15 – 16 xuất hiện khái niệm chủ quyền tuyệt đối của quốc gia (trong cuốn sách “The Prince” của Machiavelli, xuất bản năm 1532) với chủ trương chủ quyền quốc gia phải tuyệt đối, phải được đặt lên trên tất cả mọi quyền lợi khác. Sau đó một số học giả như Jean Bodin và Hugo Grotius (thế kỷ 16 – 17) cũng chủ trương chủ quyền quốc gia phải tuyệt đối. Theo Jean Bodin “chủ quyền quốc gia là quyền được lănh đạo và cưỡng chế, mà không phải chịu sự lănh đạo hay cưỡng chế nào”. Tuy nhiên tính “tuyệt đối” của chủ quyền đă được các học giả này mềm hóa bằng những lư giải như: về phương diện đối nội, chủ quyền quốc gia bị hạn chế bởi pháp luật tự nhiên, cho nên chủ quyền quốc gia phải phù hợp với công lư và công bằng xă hội. Về phương diện đối ngoại, chủ quyền quốc gia chỉ bị hạn chế bởi hoàn cảnh, và do đó không thể có một quyền lực nào trên quyền lực của quốc gia. Quan điểm này đă vẫn vận dụng trong học thuyết của chủ nghĩa phát xít Đức và Ư và sau đó bị phê phán v́ đă phủ nhận vai tṛ của luật pháp quốc tế.

 

Theo Charles Rousseau, khái niệm chủ quyền là sự độc lập hoàn toàn của quốc gia trong mọi hành động và sự toàn quyền của quốc gia đối với lănh thổ của ḿnh. Theo ông quốc gia có chủ quyền trong phạm vi lănh thổ của ḿnh, có toàn quyền tổ chức một bộ máy hành chính, có toàn quyền tài phán và cưỡng chế. Quốc gia độc lập có quyền tự do hành động, quyết định mà không phải theo mệnh lệnh của một quốc gia khác, đồng thời có toàn quyền quyết định những vấn đề trong phạm vi thẩm quyền của ḿnh mà các quốc gia khác không có quyền chi phối.

 

Gần đây, chủ quyền được coi là đặc trưng cho một quyền lực chính trị mà xét về mặt pháp lư, quyền lực đó không cần tuân theo bất kỳ một quyền lực nào khác để có thể đưa ra các quyết định hay các mệnh lệnh của ḿnh. Paul Renter cho rằng “ Chủ quyền chỉ có một và duy nhất một đặc điểm: không phải tuân theo bất kỳ một quyền lực nào khác có cùng bản chất. Nói một cách đơn giản, chủ quyền có nghĩa là quốc gia phải nằm trên đỉnh trật tự h́nh tháp của các nhóm người”. Điều này một lần nữa được khẳng định tại Điều 2 khoản 1 Hiến chương Liên Hiệp Quốc “Tổ chức được thành lập dựa trên nguyên tắc b́nh đẳng về chủ quyền của tất cả các nước thành viên”. Quyết định Trọng tài năm 1928 trong vụ tranh chấp đảo Palme cũng chỉ rơ “Chủ quyền của quốc gia trong quan hệ với nhau đồng nghĩa với sự độc lập của quốc gia đó”. Nói cách khác, chủ quyền là một đảm bảo chắc chắn cho độc lập của quốc gia, nó không cho phép xây dựng một quyền lực cao hơn quốc gia. Do đó, các nước dù lớn hay nhỏ đều được hưởng nguyên tắc b́nh đẳng chủ quyền và bất khả xâm phạm, được ghi nhận trong Nghị quyết 2625 (XXV) của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc “Mọi quốc gia đều có quyền lựa chọn cho ḿnh một hệ thống chính trị, một mô h́nh kinh tế, văn hóa, xă hội riêng mà không một quốc gia nào có quyền can thiệp vào”.

 

Theo luật pháp quốc tế hiện đại, chủ quyền quốc gia bao gồm các khía cạnh:

 

Mọi nhà nước đều b́nh đẳng về mặt pháp luật;

Mỗi nhà nước đều được hưởng mọi quyền được định sẵn bởi chủ quyền đầy đủ của ḿnh;

Mỗi nhà nước đều phải tôn trọng thực tế thực thể pháp lư của các nhà nước khác;

Tính toàn vẹn lănh thổ và độc lập chính trị của mỗi nhà nước là bất khả xâm phạm;

Mỗi nhà nước có quyền lựa chọn và phát triển các hệ thống chính trị, kinh tế, văn hóa, xă hội của riêng ḿnh;

Mỗi nhà nước phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lư quốc tế của ḿnh và chung sống ḥa b́nh với các nhà nước khác.

Một điểm đáng lưu ư ở đây là chủ quyền quốc gia không đồng nghĩa với quyền lực vô hạn và vô điều kiện của quốc gia. Các quốc gia có thể có các nghĩa vụ quốc tế, nhất là khi tham gia vào các điều ước quốc tế. Mặc dù các quốc gia có quyền lựa chọn có tham gia vào các điều ước này hay không, nhưng một khi đă tham gia vào các điều ước này họ buộc phải tuân thủ các nghĩa vụ và trao lại một phần chủ quyền của ḿnh cho cộng đồng quốc tế.

 

Trong những năm gần đây khái niệm chủ quyền đă trở thành một chủ đề gây nhiều tranh căi. Bản chất của chủ quyền đă biến đổi cùng với sự gia tăng quá tŕnh toàn cầu hóa trong lĩnh vực kinh tế, dẫn tới sự lu mờ các đường biên giới và làm xói ṃn chủ quyền của các quốc gia, đặc biệt là trong việc đưa ra các quyết định chính sách. Sự xuất hiện của các quốc gia thất bại hay những trường hợp lạm dụng nhân quyền đă dẫn tới các chiến dịch can thiệp nhân đạo, đồng thời làm h́nh thành một chuẩn tắc mới: “Trách nhiệm bảo vệ”. Những người ủng hộ Trách nhiệm bảo vệ lập luận rằng chủ quyền là một trách nhiệm chứ không phải một đặc quyền của các quốc gia. Theo đó, một khi một quốc gia có chủ quyền không đủ khả năng hoặc không muốn bảo vệ người dân của ḿnh trước một số thảm họa nhân đạo nhất định th́ cộng đồng quốc tế có quyền can thiệp vào quốc gia đó để ngăn chặn các thảm họa nhân đạo, bảo vệ sinh mạng thường dân của các quốc gia đó.  Những tranh luận này vẫn c̣n tiếp tục và chúng ta vẫn c̣n có thể tiếp tục chứng kiến những thay đổi đối với nhận thức về khái niệm chủ quyền như là một nền tảng của hệ thống pháp luật và chính trị quốc tế trong tương lai.

 

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

 

Can thiệp nhân đạo (Humanitarian intervention)

Posted on 19/12/2014 by The Observer

 

Tác giả: Nguyễn Vĩnh Hằng

 

Cho đến nay, trong nghiên cứu quốc tế đă có nhiều công tŕnh nghiên cứu về vấn đề can thiệp nhân đạo, nhưng vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho thuật ngữ này. Theo định nghĩa được đại đa số các quốc gia chấp nhận th́ can thiệp nhân đạo là hành động đơn phương của một quốc gia mà không có sự thông qua của cộng đồng quốc tế, hoặc là hành động của nhiều quốc gia hoặc một liên minh thực hiện theo nghị quyết của một tổ chức quốc tế đa phương như Liên Hiệp Quốc, liên quan đến việc sử dụng vũ lực trên lănh thổ của một quốc gia khác mà không có sự chấp thuận của chính phủ nước sở tại, với mục đích ngăn chặn và chấm dứt sự vi phạm nghiêm trọng và trên diện rộng quyền con người hay luật nhân quyền quốc tế mà quốc gia bị can thiệp thực hiện đối với công dân của chính nước đó.

 

V́ vậy can thiệp nhân đạo là biện pháp mang tính chất cưỡng bức, áp đặt nhằm ép buộc nước bị can thiệp phải chấp nhận những điều kiện nhất định nào đó. Các nước thực hiện can thiệp nhân đạo sẽ chỉ hạn chế phạm vi hoạt động của ḿnh vào mục đích chấm dứt và ngăn chặn các sự vi phạm nói trên, không nhằm vào mục đích mở rộng ảnh hưởng của ḿnh tại nước chịu can thiệp. Tuy nhiên, trên thực tế hành động can thiệp nhân đạo c̣n bao gồm cả những biện pháp phi quân sự như kinh tế, chính trị, và ngoại giao.

 

Các tiêu chí để xem xét xem liệu một cuộc can thiệp quan sự có thể được gọi là “can thiệp nhân đạo” hay không khá đa dạng, bao gồm:

 

T́nh trạng, mức độ vi phạm nhân quyền của quốc gia bị can thiệp;

Quy mô của các chiến dịch quân sự thuộc hoạt động can thiệp;

Mục tiêu của các hoạt động quân sự can thiệp (hướng vào việc ngăn chặn thảm họa nhân đạo, bảo vệ nhân mạng hơn là việc xâm chiếm lănh thổ và mở rộng ảnh hưởng của quốc gia tiến hành can thiệp);

Lực lượng quân sự tham gia can thiệp nhân đạo thuộc nhiều quốc gia khác nhau, mang tính đa phương, hay là quân đội của một quốc gia nhất định;

Có nhận được sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế đa phương hay không;

Can thiệp vũ lực có phải là biện pháp bắt buộc cuối cùng sau khi những biện pháp phi quân sự khác đă tỏ ra không có hiệu lực hay không.

Tuy nhiên, một hoạt động quân sự có được coi là “can thiệp nhân đạo”, v́ mục tiêu nhân đạo hay không vẫn là một vấn đề gây tranh căi. Xét về mặt lư luận, can thiệp nhân đạo là các hoạt động v́ mục đích bảo vệ sinh mạng của con người và các quyền cơ bản của con người trong các “thảm họa nhân đạo”. Tuy nhiên, xét về mặt thực tiễn, hiếm có quốc gia nào thực hiện can thiệp nhân đạo khi không thu được lợi ích ǵ. Các nước tiến hành can thiệp nhân đạo thường nhằm đạt được những mục đích nhất định, hoặc chí ít là để mở rộng ảnh hưởng của quốc gia ḿnh trên bản đồ chính trị thế giới. Không thể phủ nhận can thiệp nhân đạo vốn mang ư nghĩa nhân đạo và tích cực, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, can thiệp nhân đạo đă trở thành công cụ hiệu quả để một nước này can thiệp vào công việc nội bộ của một nước khác, vi phạm chủ quyền quốc gia, nhằm phục vụ mục đích và ư đồ chính trị riêng của ḿnh.

 

“Hỗ trợ nhân đạo”

Hỗ trợ nhân đạo khác với Can thiệp nhân đạo. Hỗ trợ nhân đạo là các hoạt động cung cấp sự trợ giúp khẩn cấp về lương thực, thuốc men, quần áo,.. và các vật dụng, dịch vụ cần thiết khác cho nạn nhân của các thảm họa thiên nhiên, chiến tranh, hoặc các thảm họa nhân đạo do con người gây ra.

Sau Chiến tranh Lạnh, vấn đề dân chủ và nhân quyền ngày càng được Mỹ và các nước phương Tây quan tâm và nhấn mạnh trên các diễn đàn quốc tế và khu vực. Bên cạnh đó, trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay, khái niệm về chủ quyền quốc gia bất khả xâm phạm không c̣n mang tính tuyệt đối như trong thời kỳ trước đó. Hợp tác kinh tế và các vấn đề toàn cầu như tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, dịch bệnh, an ninh lương thực, an ninh con người,.. đă làm cho biên giới giữa các quốc gia bị xóa mờ, các quốc gia buộc phải hợp tác với nhau nhiều hơn.

 

Chính v́ vậy, t́nh h́nh quốc tế ngày càng thuận lợi cho sự can dự và các cuộc can thiệp nhân đạo của các nước phương Tây vào những trường hợp được gọi là “khủng hoảng nhân đạo” đa phần xảy ra ở các nước nghèo đang phát triển. Năm trường hợp can thiệp nhân đạo tiêu biểu nhất trong những thập niên gần đây bao gồm: các hoạt động can thiệp của Liên Hiệp Quốc ở Iraq năm 1991, Mỹ và Liên Hiệp Quốc ở Somalia năm 1992, Rwanda năm 1994, hoạt động của Liên Hiệp Quốc và NATO ở Bosnia năm 1995, và ở Kosovo năm 1999.

 

Vấn đề về tính pháp lư của can thiệp nhân đạo cũng là một điểm lư thú gây tranh luận trong giới nghiên cứu. Một mặt, can thiệp nhân đạo bị xem như hành động đi ngược lại nguyên tắc cấm đe dọa và sử dụng vũ lực đối với quốc gia có chủ quyền của Liên Hiệp Quốc. Mặt khác, một trong những nhiệm vụ và mục đích tồn tại của Liên Hiệp Quốc là để ǵn giữ ổn định trên thế giới và bảo vệ nhân mạng con người.

 

Về h́nh thức, can thiệp nhân đạo trong quan hệ quốc tế chủ yếu được thực hiện dưới hai biện pháp: sử dụng quân sự và phi quân sự. Mặc dù, như định nghĩa nêu trên, việc can thiệp nhân đạo thường gắn liền với việc sử dụng vũ lực, nhưng thực tế các quốc gia vẫn sử dụng các biện pháp phi quân sự nhằm gây sức ép và can thiệp vào các quốc gia bị cáo buộc vi phạm nhân quyền hoặc gây ra các thảm họa nhân đạo. Can thiệp nhân đạo phi quân sự thường được sử dụng dưới các biện pháp như cấm vận, đặc biệt là cấm vận kinh tế và cấm vận vũ khí, cô lập ngoại giao, gây áp lực chính trị, phong tỏa tài khoản của các nhà lănh đạo, các tổ chức hoặc của quốc gia bị can thiệp.

 

Trong khi đó, can thiệp nhân đạo bằng quân sự là việc sử dụng vũ lực thông qua các lực lượng quân sự nhằm buộc chính phủ bị cáo buộc vi phạm nhân quyền phải chấm dứt các vi phạm, thậm chí các cuộc can thiệp c̣n có thể dẫn tới việc lật đổ và thay thế chính phủ đó bằng một chính phủ khác. Yếu tố nhân đạo được coi là điểm cốt lơi và là mục đích, ư nghĩa của các hoạt động quân sự này. Tuy nhiên, trên thực tế, việc dùng vũ lực để can thiệp nhân đạo đă làm tổn hại đến nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lănh thổ của các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc.

 

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

 

Diệt chủng (Genocide)

 

Posted on 17/04/2015 by The Observer

 

Rwanda-genocide-atrocities-social-entrepreneurship-kigali-memorial

 

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

 

Có rất nhiều các học giả cũng như tổ chức khác nhau đưa ra các định nghĩa về “diệt chủng”. Tuy nhiên định nghĩa về “diệt chủng” được thừa nhận và sử dụng rộng răi nhất chính là định nghĩa được nêu trong Công ước của Liên Hiệp Quốc về Trừng phạt và Ngăn ngừa Tội ác Diệt chủng năm 1948 (bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 12/1/1951). Điều 2 của công ước này định nghĩa “diệt chủng” là những hành động nhằm tiêu diệt toàn bộ hoặc một phần một nhóm người v́ lư do quốc tịch, sắc tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo. Theo đó, Công ước đă liệt kê năm hành động sau được coi là hành động diệt chủng:

 

sát hại các thành viên của nhóm người đó;

gây nên những tổn hại nghiêm trọng về thể xác và tinh thần đối với các thành viên của nhóm người đó;

cố t́nh buộc nhóm người đó phải chịu những điều kiện sống được tính toán nhằm gây nên sự tiêu vong toàn bộ hoặc một phần nhóm người đó;

áp đặt các biện pháp nhằm ngăn chặn việc sinh đẻ trong nhóm người đó;

dùng vũ lực chuyển trẻ em trong nhóm người đó sang một nhóm khác.

 

Nguồn gốc từ “Genocide”      

Từ “diệt chủng” trong tiếng Anh là “genocide” do Raphael Lemkin, một luật gia người Pháp sống tại Mỹ sáng tạo ra vào năm 1944. Từ “genocide” được ghép từ từ “genos” trong tiếng Hy Lạp nghĩa là chủng tộc hoặc bộ lạc, và từ “caedere” trong tiếng Latin nghĩa là giết.

Một điều có thể nhận thấy là khái niệm “diệt chủng” nhiều khi bị lạm dụng, bởi không phải mọi cuộc thảm sát quy mô lớn đều được coi là hành động diệt chủng. Điểm khác biệt đầu tiên giữa hành động diệt chủng và việc giết người trên quy mô lớn là phạm vi của hành động diệt chủng rộng lớn hơn. Diệt chủng không chỉ liên quan đến việc giết người mà c̣n bao gồm các hành động như thanh lọc sắc tộc, ép buộc triệt sản, hăm hiếp tập thể, tra tấn về thể xác và tinh thần, trục xuất, di dời chỗ ở… Thứ hai, trong khi giết người trên quy mô lớn thường nhằm tiêu diệt các cá nhân nạn nhân th́ hành động diệt chủng chỉ xảy ra khi một chính phủ hay bất kỳ một nhóm có tổ chức nào hành động một cách có tính toán nhằm tiêu diệt hoàn toàn một nhóm người hoặc triệt tiêu khả năng tồn tại của nhóm người đó. Chính v́ vậy việc Mỹ thả bom nguyên tử xuống các hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật dù gây ra cái chết của hàng trăm ngh́n người cùng lúc nhưng không bị coi là hành động diệt chủng.

 

Trong lịch sử loài người đă từng xảy ra nhiều thảm họa diệt chủng, nhưng có thể nói thế kỷ 20 là khoảng thời gian mà con người đă phải chứng kiến những thảm họa diệt chủng kinh hoàng và tàn bạo nhất. Có hai đặc điểm tiêu biểu của các thảm họa diệt chủng xảy ra trong thời gian này, đó là quy mô diệt chủng lớn chưa từng có và việc thảm sát một cách có hệ thống với việc áp dụng các biện pháp hành quyết mới, đặc biệt là trong thời kỳ Đức Quốc xă thi hành chính sách diệt chủng đối với người Do Thái.

 

Trong thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đức Quốc xă đă giết hơn 6 triệu người Do Thái trên toàn châu Âu bằng cách đưa họ vào các trại tập trung, bắt lao động khổ sai cho đến khi kiệt sức mà chết, hoặc hành quyết bằng nhiều cách khác nhau, kể cả bằng bơm khí ga cho nạn nhân chết ngạt trong các thùng xe tải kín. Trong thời kỳ cầm quyền ở Campuchia từ 1975 đến đầu 1979, chính quyền Khmer Đỏ cũng đă tàn sát 1,7 triệu người dân Campuchia vô tội, tức gần ¼ dân số nước này thời kỳ bấy giờ. Tội ác diệt chủng này của chính quyền Khmer Đỏ được sánh ngang với tội ác của chính quyền Đức Quốc xă, tuy nhiên điều đáng nói là trong khi Đức Quốc xă hành quyết những người Do Thái th́ những kẻ cầm đầu Khmer Đỏ hành quyết ngay chính những người đồng bào của ḿnh. Những hành động diệt chủng chống lại chính những người dân đồng bào ḿnh như của chính quyền Khmer Đỏ được gọi là hành động tự diệt chủng (autogenocide).

 

Có một số lư do dẫn tới việc các chính quyền thực thi chính sách diệt chủng, như chủ nghĩa dân tộc sắc tộc, bất đồng giữa các tôn giáo, đối đầu về ư thức hệ, tranh giành quyền lực chính trị, hay tham vọng xây dựng các cộng đồng chính trị “thuần chủng”. Trong nhiều trường hợp, chính sách diệt chủng thường bắt nguồn từ việc các chính quyền cầm quyền cảm thấy bất an trước các nhóm sắc tộc “đối thủ” của ḿnh, từ đó t́m mọi cách tiêu diệt họ. Những cảm giác bất an như vậy càng trở nên mạnh mẽ hơn trong những thời kỳ rối loạn xă hội, như khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, nội chiến, hay xảy ra biến động chính trị. Chính v́ vậy, việc những thảm họa diệt chủng thường xảy ra trong các thời kỳ rối loạn xă hội như kể trên là điều dễ hiểu.

 

Với tính chất dă man, tàn bạo, phi nhân tính, hành động diệt chủng luôn bị cộng đồng quốc tế lên án và thừa nhận là tội ác kinh khủng nhất. Đă có nhiều ṭa án quốc tế được thiết lập nhằm xét xử tội ác diệt chủng, như ṭa án Nuremberg xét xử những kẻ đứng đầu Đức Quốc xă, hay Ṭa án h́nh sự quốc tế dành cho Nam Tư cũ xét xử Slobodan Milosevic và các lănh đạo của Nam Tư cũ. Năm 2001, Quốc hội Campuchia cũng đă thông qua một đạo luật cho phép thành lập một ṭa án đặc biệt nhằm xét xử các tội ác của Khmer Đỏ trong thời kỳ Campuchia Dân chủ. Phiên ṭa đầu tiên của Ṭa án này xét xử Duch, kẻ cai ngục khét tiếng của nhà tù Toul Sleng, đă được tiến hành vào tháng 3/2009.

 

Ngoài ra, Ṭa án h́nh sự quốc tế cũng đă bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 7/2002.  Mục đích của Ṭa án là xét xử các cá nhân phạm các tội ác nghiêm trọng như các tội ác chống lại loài người và tội diệt chủng. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có các đảm bảo chắc chắn rằng các quốc gia sẽ hợp tác đầy đủ với Ṭa án. Nói cách khác, một trong những nguyên nhân dẫn tới việc các tội ác diệt chủng vẫn chưa được ngăn chặn và xét xử kịp thời chính là v́ các quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế chưa đủ ư chí chính trị để hành động. Các thảm họa diệt chủng như đă xảy ra ở Darfur (Sudan – 2003) hay Rwanda (1994) cho thấy trong nhiều trường hợp các tính toán lợi ích của các quốc gia đă gây cản trở đối với các nỗ lực nhằm ngăn ngừa các thảm họa diệt chủng.

 

Mặt khác, có thể nói khả năng ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng c̣n bị hạn chế bới khái niệm chủ quyền quốc gia, một khái niệm được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế. Ví dụ, một khi các quốc gia coi các cá nhân hay các hành vi liên quan đến diệt chủng xảy ra bên trong biên giới của ḿnh là công việc nội bộ thuộc chủ quyền quốc gia của ḿnh mà các quốc gia bên ngoài không được phép can thiệp th́ rơ ràng các nỗ lực ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng của cộng đồng quốc tế khó có thể đạt được hiệu quả mong muốn. V́ vậy, một nghịch lư vẫn tồn tại là trong khi luật h́nh sự quốc tế mong muốn trừng phạt những kẻ phạm tội diệt chủng th́ suy cho cùng luật pháp quốc tế lại đang bảo vệ họ thông qua khái niệm chủ quyền quốc gia.

 

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

 

Tổ chức Liên Chính phủ (IGOs)

 

Posted on 06/08/2016 by The Observer

 

United Nations Nominates Next Secretary-General

 

Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Vân

 

Những tổ chức liên chính phủ đầu tiên ra đời vào thế kỷ 19. Thời kỳ đó chủ yếu là các tổ chức mang tính chất chuyên môn kỹ thuật như Ủy ban Trung ương sông Ranh, thành lập năm 1815; Liên minh Bưu chính Toàn cầu, thành lập năm 1874… Tổ chức toàn cầu đầu tiên có thẩm quyền chung là Hội Quốc Liên, thành lập năm 1919 với mục đích giữ ǵn ḥa b́nh quốc tế. Năm 1945 tổ chức này được thay thế bằng tổ chức Liên Hiệp Quốc. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai số lượng các tổ chức liên chính phủ đă tăng lên đáng kể. Với xu thế hội nhập toàn cầu như hiện nay th́ việc mở rộng hợp tác giữa các quốc gia về mọi mặt của đời sống là điều tất yếu. Do đó, các mô h́nh hợp tác khác của quốc gia, đặc biệt là thông qua các tổ chức liên chính phủ, ngày càng được mở rộng và trở nên phong phú.

 

Theo nghiên cứu của Ủy ban Pháp luật Quốc tế năm 1956, tổ chức liên chính phủ được định nghĩa là “hiệp hội các quốc gia được thành lập trên cơ sở điều ước quốc tế, có văn kiện thành lập và các cơ quan chung, có tư cách pháp nhân độc lập tách biệt với tư cách pháp nhân của các quốc gia thành viên”.  Định nghĩa này bao hàm rất nhiều thực tế khác nhau, không tồn tại một loại h́nh tổ chức quốc tế duy nhất mà có rất nhiều thiết chế đa dạng với cơ cấu tổ chức, thẩm quyền và mục đích khác nhau. Do đó các tổ chức liên chính phủ có thể được phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Theo thành phần tham gia, tổ chức quốc tế được phân thành tổ chức quốc tế toàn cầu như Liên Hiệp Quốc (UN), hay tổ chức quốc tế khu vực, như Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)… Theo lĩnh vực chuyên môn th́ tổ chức quốc tế được phân loại dựa trên lĩnh vực hoạt động, như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA)…. Theo chức năng, tổ chức quốc tế được phân thành tổ chức hợp tác và tổ chức hội nhập. Tổ chức hợp tác thường có cơ cấu gọn nhẹ, nhiệm vụ rơ ràng, tạo thuận lợi cho việc phát triển hợp tác giữa các quốc gia. Trong khi đó tổ chức hội nhập thường có cơ cấu chặt chẽ và có nhiệm vụ phát huy quyền quyết định của tổ chức quốc tế và tạo điều kiện hội nhập cho các quốc gia.

 

Với tư cách là một trong các chủ thể của luật quốc tế, tổ chức quốc tế liên chính phủ có quyền năng của một chủ thể luật quốc tế, có hệ thống các cơ quan đề duy tŕ hoạt động thường xuyên theo đúng mục đích, tôn chỉ hoạt động. Về nguyên tắc, chỉ quốc gia có chủ quyền mới có thể trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức liên chính phủ, qua đó có quyền và nghĩa vụ đầy đủ của một quốc gia thành viên. Tuy nhiên bên cạnh đó c̣n có các chủ thể khác là các tổ chức liên chính phủ khác và các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập nhưng những chủ thể này thường tham gia với tư cách là quan sát viên, được tham dự các cuộc thảo luận liên quan đến ḿnh.

 

Điều ước quốc tế thành lập các tổ chức này được kí kết giữa các quốc gia thành viên và chứa đựng các nguyên tắc hoạt động của tổ chức đó, có vai tṛ như một bản hiến pháp đối với các quốc gia. Các điều ước quốc tế này có nhiều tên gọi khác nhau: Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên bố Bangkok thành lập ASEAN… Tuy nhiên về bản chất các văn kiện này đều có ư nghĩa là điều lệ của tổ chức quốc tế đó, trong đó quy định các mục đích, nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và hoạt động của tổ chức quốc tế đó.

 

Các tổ chức quốc tế liên chính phủ h́nh thành trên nhu cầu liên kết các quốc gia. Để thực hiện được sứ mệnh của ḿnh mà các quốc gia thành viên giao phó th́ tổ chức quốc tế đó phải có cơ cấu tổ chức nhất định. Các cơ quan của tổ chức quốc tế gồm cơ quan chính được quy định trong điều ước và cơ quan bổ trợ do cơ quan chính thành lập nhằm giúp việc cho cơ quan chính. Ví dụ Hiến chương Liên Hiệp Quốc quy định Liên Hiệp Quốc có 6 cơ quan chính với chức năng riêng như Đại Hội đồng là cơ quan toàn thể, Hội đồng Bảo an có chức năng giữ ǵn ḥa b́nh và an ninh thế giới, Hội đồng quản thác, Ṭa án công lư quốc tế… Ngoài ra Liên Hiệp Quốc c̣n có hàng chục tổ chức chuyên môn, giúp việc khác.

 

Với mục đích hoạt động thường xuyên, liên tục các tổ chức quốc tế liên chính phủ phải có trụ sở hoạt động. Đây là điều khác biệt với các diễn đàn và hội nghị quốc tế. Các hội nghị, diễn đàn, như diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái B́nh Dương (APEC), thường không có trụ sở hoạt động. Tới kỳ họp th́ các hội nghị hay diễn đàn thành lập ủy ban chuẩn bị, tiến hành hội nghị và khi hội nghị kết thúc th́ những ủy ban đó cũng giản tán, không tồn tại nữa. Đây cũng là một yếu tổ thể hiện các tổ chức quốc tế liên chính phủ có tư cách pháp nhân quốc tế. Điều này cũng được khẳng định tại Bản ư kiến  (Vụ “Bồi thường thiệt hại cho Liên Hiệp Quốc”, năm 1949), trong đó Ṭa án Tư pháp Quốc tế đă công nhận tư cách pháp nhân của Liên Hiệp Quốc. Ṭa án Tư pháp Quốc tế c̣n khẳng định, do tính đại diện của Liên Hiệp Quốc nên Liên Hiệp Quốc có tư cách pháp nhân khách quan không chỉ đối với các nước thành viên mà c̣n đối với tất cả các nước khác.

 

Tư cách pháp nhân của các tổ chức liên chính phủ có tính chức năng được giới hạn bởi phạm vi thực thi quyền hạn theo đúng mục đích được quy định trong văn kiện thành lập. Mặt khác, quyền năng chủ thể của các tổ chức liên chính phủ thể hiện ở khả năng của các tổ chức này trong việc tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế với tư cách chủ thể độc lập. Trong khi quyền năng chủ thể của quốc gia là quyền năng tuyệt đối trên cơ sở chủ quyền th́ quyền năng của các tổ chức liên chính phủ là quyền năng phái sinh và hạn chế. Tính phái sinh thể hiện ở chỗ đối với tổ chức quốc tế liên chính phủ quyền năng này không phải là thuộc tính vốn có của tổ chức quốc tế mà do các quốc gia thừa nhận trao cho. Trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế, các quốc gia thành viên thường thỏa thuận về tư cách chủ thể của luật quốc tế, quy định phạm vi thẩm quyền của tổ chức đó. Mặt khác, tính hạn chế của quyền năng chủ thể của các tổ chức này thể hiện ở việc trong khi quốc gia có thể tự quyết định tham gia vào bất cứ quan hệ nào trên cơ sở chủ quyền th́ các tổ chức liên chính phủ chỉ có thể tham gia hoạt động trong các lĩnh vực mà các thành viên của nó trao cho, ví dụ WTO chỉ được hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà không được hoạt động trong lĩnh vực hàng hải, hay ASEAN chỉ được hoạt động trong khuôn khổ các nước Đông Nam Á, bị giới hạn phạm vi không gian.

 

Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế hợp tác trở nên nổi trội, số lượng các tổ chức liên chính phủ được thành lập ngày càng nhiều nhằm điều phối và thúc đẩy hoạt động hợp tác giữa các quốc gia. Điều này phù hợp với lập luận của các nhà tân tự do khi họ cho rằng việc h́nh thành các tổ chức quốc tế liên chính phủ là nhu cầu tất yếu bởi các tổ chức này giúp góp phần giảm t́nh trạng “thông tin bất đối xứng”, qua đó giúp các quốc gia hiểu rơ nhau hơn và có thể xây dựng các kỳ vọng về hành vi của nhau. Các tổ chức này cũng giúp giảm chi phí giải quyết các vấn đề chung và tạo ra một khuôn khổ mang tính pháp lư để điểu chỉnh hành vi của mỗi chủ thể tham gia chính trị quốc tế. Trong bối cảnh vô chính phủ của hệ thống quốc tế, các tổ chức liên chính phủ toàn cầu như Liên Hiệp Quốc cũng là một cách tiếp cận giúp tiến tới mô h́nh quản trị toàn cầu được kỳ vọng sẽ h́nh thành trong tương lai.

 

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

 

Quyền lực (Power)

 

Posted on 30/04/2016 by The Observer

 

power

 

Tác giả: Lục Minh Tuấn

 

Quyền lực là phương tiện để bảo đảm sự an ninh và tồn tại, thực hiện lợi ích và là mục tiêu mà mọi quốc gia t́m kiếm. Quyền lực theo đó thể hiện qua khả năng của một quốc gia trong việc thực hiện một hành động nào đó. Mặc dù đối với chủ nghĩa hiện thực, quyền lực là khái niệm cốt lơi, nhưng những học giả theo trường phái này vẫn không thống nhất được với nhau cách hiểu về quyền lực. Điều này c̣n tuỳ thuộc vào việc nh́n nhận khái niệm quyền lực là một khái niệm mang tính tĩnh hay động.

 

Đối với những người cho rằng quyền lực mang tính tĩnh, họ hiểu quyền lực là sự tổng hoà của tất cả các nguồn lực về kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ cùng nhiều yếu tố tĩnh khác của một quốc gia như tài nguyên, lănh thổ…, từ đó cho phép một quốc gia có khả năng thực hiện một hành động nào đó. Quan niệm này dẫn đến cách hiểu về quyền lực tuyệt đối của một quốc gia. Đối với những người quan niệm quyền lực có tính động, họ đặt quyền lực của một quốc gia trong tương quan với các quốc gia khác. Qua đó, quyền lực của một chủ thể được đánh giá bằng cách đặt khả năng của chủ thể đó trong quan hệ với các khả năng của các chủ thể khác, và quyền lực từ đó có tính tương đối.

 

Trong quan hệ quốc tế, khi chủ thể chính là các quốc gia th́ quyền lực đương nhiên được hiểu là quyền lực của quốc gia. Chính v́ vậy quyền lực là khả năng của quốc gia đó trong việc gây ảnh hưởng lên hành vi của quốc gia khác phù hợp với mục đích của ḿnh.Quan điểm này đă kết hợp được tính chất động và tĩnh của quyền lực. Đồng thời, quan điểm này cũng cho thấy việc đo lường quyền lực góp phần quan trọng vào việc giải thích và dự đoán hành vi của một quốc gia trong quan hệ với các quốc gia khác.

 

Các thành tố quyền lực của một quốc gia

 

Nhiều học giả cho rằng quyền lực của một quốc gia được nh́n nhận phụ thuộc vào các yếu tố: địa lư, dân số, kinh tế, khoa học công nghệ, quân sự và các yếu tố tinh thần. Đây cũng là những thành tố cơ bản nhất quyết định sức mạnh của một quốc gia, đồng thời cũng là thước đo hiệu quả khả năng ảnh hưởng của quốc gia đó.

 

Đầu tiên phải kể đến yếu tố địa lư. Đây là một thành tố lâu đời và tồn tại gắn bó nhất của quyền lực, bao gồm vị trí địa lư, diện tích đất đai, địa h́nh và khí hậu. Đây là những yếu tố cấu thành có ảnh hưởng tương hỗ đến quyền lực của quốc gia. Một quốc gia có vị trí địa lư thuận lợi như gần cảng biển, nằm trên những con đường thương mại sầm uất, có diện tích vừa phải, địa h́nh đồng bằng và khí hậu ôn hoà chắc chắn sẽ có nhiều điều kiện để phát triển, tăng cường quyền lực; nhưng đồng thời sẽ trở thành mục tiêu thâu tóm của nhiều quốc gia khác, như Trung Quốc là một điển h́nh. Trái lại, một vùng đất có vị trí xa xôi, diện tích rộng nhưng địa h́nh đồi núi gập ghềnh, khí hậu khắc nghiệt như xứ Gaul ở Châu Âu thời kỳ cổ đại sẽ gặp khó khăn trong việc h́nh thành một nhà nước có nền kinh tế phát triển, nhưng lại có lợi thế về việc pḥng thủ chống quân thù.

 

Thứ hai là yếu tố dân số. Dân số mang tính chi phối đối với nhiều khả năng của một quốc gia như khả năng sản xuất, xây dựng, quốc pḥng… Trong thời chiến, dân số cần thiết cho việc xây dựng lực lượng quân đội của quốc gia. Nước Pháp năm 1815 nhờ có dân số đông đảo nên đă quy tụ được một đội quân khổng lồ gần 2 triệu người, nhờ vậy đă nhanh chóng đáp trả lại sức tấn công mạnh mẽ của liên minh chống Pháp trên khắp Châu Âu. Trong thời b́nh, dân số cần thiết cho mọi ngành nghề từ công nông nghiệp, đến thương nghiệp. Tuy nhiên, một quốc gia đông dân không hẳn là một quốc gia hùng mạnh, mà điều này tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Hà Lan là một quốc gia có số dân trung b́nh ở Châu Âu, nhưng nhờ tài đi biển và khả năng kinh doanh, người dân Hà Lan đă biến quốc gia này trở thành một cường quốc hàng hải của khu vực trong thế kỷ 16.

 

Thứ ba là yếu tố kinh tế. Kinh tế là một trong những thành tố cơ bản của quyền lực, là công cụ để thực hiện quyền lực trong quan hệ quốc tế. Một quốc gia có nền kinh tế phát triển sẽ có khả năng chi phối các quốc gia khác bằng đồng tiền của ḿnh. Đây là điều mà nước Anh thời cận đại đă thực hiện để xây dựng ở Châu Âu những đồng minh có thể bảo vệ quyền lợi trên lục địa của quốc gia này. Yếu tố kinh tế v́ thế càng đóng vai tṛ quan trọng trong quan hệ quốc tế, khi các quốc gia tăng cường cạnh tranh bằng sức mạnh kinh tế thay v́ thông qua chiến tranh. Những quốc gia có sự phát triển về công thương nghiệp ngày càng nắm giữ nhiều quyền lực trong tay. Thời kỳ cận đại ở Châu Âu với những phát triển về thương mại hàng hải đă lần lượt xuất hiện các cường quốc như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Thụy Điển và Anh. Những cường quốc lục địa như Pháp, Phổ, Áo với sự thua kém về phát triển kinh tế thương nghiệp đă không thể cạnh tranh với sự lớn mạnh của các cường quốc hàng hải.

 

Thứ tư là khoa học công nghệ. Đây cũng là một trong những yếu tố cơ bản của quyền lực, giúp tạo ra sự vượt trội một cách nhanh chóng trong tương quan về quyền lực giữa các quốc gia. Việc tận dụng được những yếu tố tiến bộ về khoa học công nghệ sẽ khiến cho một quốc gia chiến thắng sự cạnh tranh của các quốc gia khác. Chiến thắng của Hà Lan đối với Tây Ban Nha, và sau này là chiến thắng của Anh đối với Hà Lan là bằng chứng điển h́nh của ưu thế từ việc tận dụng được các yếu tố khoa học công nghệ. Các quốc gia như Nga và Áo, do kiềm hăm sự phát triển của khoa học công nghệ, nên phải chịu sự suy yếu trong một thời gian dài. Nhật Bản và các nước Tây Âu cũng đă tận dụng rất tốt những thành quả của việc phát triển khoa học công nghệ để vượt lên trở thành hai trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn nhất thế giới, ngang hàng với Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

 

Thứ năm là yếu tố về sức mạnh quân sự. Một đội quân hùng mạnh cũng chính là thành tố cơ bản tạo nên và tăng cường quyền lực của một quốc gia. Đây không chỉ là đ̣n bẩy để cấu thành quyền lực, mà c̣n là phương tiện để duy tŕ và đạt đến một quyền lực cao hơn. Một quốc gia có sự phát triển về kinh tế, nhưng không có một quân đội hùng mạnh, sớm muộn sẽ trở thành mục tiêu thôn tính của các đội quân xâm lược hùng hậu. Trường hợp của Saxony ở Châu Âu cận đại là minh chứng cho điều đó, khi những vùng này có tiềm năng phát triển công nghiệp, nhưng với một đội quân yếu kém đă sớm đưa Saxony trở thành vùng đất bị các nước lớn xâu xé. Trong khi với trường hợp của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai th́ ngược lại. Với một lănh thổ rộng lớn và mật độ dân cư thưa thớt, nếu không nhờ vào sự tinh nhuệ và tinh thần chiến đấu quả cảm của lực lượng Hồng quân th́ Liên Xô sẽ đă nhanh chóng trở thành vùng chiếm đóng của quân đội Đức.

 

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng chính là các yếu tố tinh thần, ở đây bao gồm các yếu tố tư tưởng, uy tín, văn hoá, truyền thống, khả năng lănh đạo và công luận. Đây là những yếu tố trừu tượng, không có khả năng đo lường, nhưng có tác động mạnh mẽ đến quyền lực của một quốc gia. Đối với các quốc gia Châu Âu thế kỷ 18, yếu tố về khả năng lănh đạo đóng vai tṛ tối quan trọng đối với việc vận hành một quốc gia. Đây là thế kỷ mà chính sách đối nội lẫn đối ngoại của các nước đều in đậm dấu ấn của những nhân vật lănh đạo. Một nước Nga trong thế kỷ 18 suy yếu, lạc hậu, nhưng nhờ sự dẫn dắt của Peter Đại Đế đă tiến hành cải cách, chuyển ḿnh thành một cường quốc hùng mạnh. Một nước Phổ chịu thiệt hại nặng nề sau chiến tranh, với sự lănh đạo của Hoàng đế Frederick đệ Nhị, cũng nhanh chóng phục hồi và trở nên giàu có.

 

Các dạng quyền lực

 

Những thành tố trên cấu thành “quyền lực cứng” của một quốc gia. Ngày nay, người ta ngày càng nói nhiều về vai tṛ của quyền lực mềm, vốn được Joseph Nye, cha đẻ của khái niệm này, định nghĩa “là một loại năng lực, có thể giúp đạt được mục đích thông qua sức hấp dẫn chứ không phải ép bức hoặc dụ dỗ”. Theo Nye, sức hấp dẫn này đến từ quan điểm giá trị về văn hoá, chính trị và chính sách ngoại giao của một nước.

 

Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu như Susan Strange cũng phân quyền lực ra làm hai dạng: quyền lực quan hệ và quyền lực cấu trúc. Quyền lực quan hệ là khả năng của một chủ thể buộc chủ thể khác phải làm hoặc không được làm một điều ǵ đó. Trong khi đó, quyền lực cấu trúc là khả năng h́nh thành và quyết định cấu trúc của nền kinh tế chính trị toàn cầu cùng các quy tắc mà theo đó các quốc gia và các tổ chức quốc tế vận hành.

 

Quyền lực cấu trúc ít trực tiếp hơn quyền lực quan hệ, nhưng có hiệu lực hơn trong một vài t́nh huống. Nhiều học giả cho rằng dù Mỹ không có lợi thế nổi trội về quyền lực quan hệ trong thế giới ngày nay như trong những năm đầu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhưng Mỹ vẫn là quốc gia lănh đạo trong số các quốc gia dân chủ công nghiệp và nắm trong thay rất nhiều quyền lực cấu trúc. Ví dụ, trong tương quan quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc, mặc dù cả hai nước đều có quyền lực quan hệ khá lớn dưới dạng “cây gậy” để trừng phạt và “củ cà rốt” để khen thưởng, nhưng Mỹ có lợi thế hơn về quyền lực cấu trúc trong cuộc mặc cả với Trung Quốc. Cụ thể, Mỹ có ưu thế hơn trong việc gây ảnh hưởng tới vị thế của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế thông qua việc sử dụng ảnh hưởng của ḿnh ở các tổ chức quốc tế quan trọng như WTO, WB, IMF. Chính v́ vậy có thể nói quyền lực cấu trúc có thể bổ sung hoặc thay thế cho quyền lực quan hệ. Trong những cuộc mặc cả giữa hai siêu cường, quyền lực cấu trúc sẽ có hiệu lực hơn quyền lực quan hệ do quyền lực cấu trúc ít có khả năng gây đối đầu và dẫn tới sự trả đũa lẫn nhau hơn so với quyền lực quan hệ.

 

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

 

Cân bằng quyền lực (Balance of power)

 

Posted on 24/12/2014 by The Observer

 

20131001-chessboard

 

Tác giả: Lục Minh Tuấn

 

Cân bằng quyền lực là một trong những thuật ngữ lâu đời nhất của trường phái hiện thực trong quan hệ quốc tế. Thuật ngữ này có ảnh hưởng quan trọng đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của các quốc gia, đồng thời cũng giải thích nguyên nhân dẫn đến sự thiết lập những trật tự thế giới mới.

 

Đối với nhiều học giả, cân bằng quyền lực là nguyên tắc chủ yếu được liên hệ đến nhiều nhất về mặt lư thuyết khi nghiên cứu chính trị quốc tế. Một trong những học giả nổi tiếng của trường phái hiện thực, Hans Morgenthau, ban đầu đă sử dụng thuật ngữ này với 4 nghĩa khác nhau. Nhà khoa học chính trị người Mỹ gốc Đức Ernest B.Haas đă đưa ra 8 định nghĩa khác nhau, trong khi đó học giả người Anh Martin Wight t́m được 9 định nghĩa trong các tác phẩm của ḿnh. Tuy nhiên, ư nghĩa của thuật ngữ này vẫn chưa thực sự rơ ràng và luôn là đề tài tranh luận với nhiều cách diễn giải khác nhau.

 

Một số ư kiến cho rằng cân bằng quyền lực là một xu thế mang tính tất yếu và sẽ lặp đi lặp lại như một quy luật tự nhiên, trong khi các ư kiến khác lại không đồng t́nh. Một số người xem cân bằng quyền lực như một nguyên tắc định hướng chiến lược chủ yếu của các nhà chính trị, một số khác lại t́m ra những phân chia bất b́nh đẳng về quyền lợi giữa các nước lớn đối với các nước nhỏ dựa trên lớp vỏ bọc của nguyên tắc này. Nhiều quan điểm cho rằng cân bằng quyền lực là phương thức phổ biến để ǵn giữ hoà b́nh, trong khi trên thực tế nó chỉ giúp duy tŕ một trạng thái quan hệ quốc tế và trong nhiều trường hợp đă gây thiệt hại cho nhiều quốc gia khi lôi kéo họ tham gia vào việc ngăn chặn sự thay đổi một trật tự thế giới nhất định.

 

Do đó, cân bằng quyền lực là một khái niệm rất phức tạp. Việc xác định mục tiêu của cân bằng quyền lực theo đó cũng không cụ thể, tuỳ thuộc vào bối cảnh lịch sử từng giai đoạn và từng cách tiếp cận khác nhau. Khi tiếp cận theo nghĩa là một nguyên tắc, th́ “cân bằng quyền lực” là trạng thái của hệ thống quốc tế mà ở đó không có một quốc gia nào có sức mạnh áp đảo so với các quốc gia khác. Trạng thái này có thể được thiết lập thông qua việc tạo ra một thế đối lập với quốc gia hoặc nhóm quốc gia mạnh nhất bằng việc h́nh thành một đối thủ hoặc một liên minh có sức mạnh tương đương.

 

Việc duy tŕ trạng thái cân bằng quyền lực đồng nghĩa với việc gia tăng quyền lợi của các cường quốc, và những quốc gia nhỏ bé lệ thuộc phải chịu sự chia cắt về quyền lợi để phục vụ những mưu đồ này. Quyền lợi của các nước nhỏ hay các cường quốc đang suy vong thường không được quan tâm. Ví dụ, việc kư kết Ḥa ước Westphalia (1648), Hiệp ước Utrecht (1714) và Hiệp ước Nystad (1721) đă đánh dấu sự rút lui hoàn toàn của hàng loạt các cường quốc cũ ở Châu Âu, và tạo cơ hội cho những cường quốc mới là Anh, Pháp, Nga, Áo, Phổ. Việc nâng đỡ các quốc gia bại trận chỉ được quan tâm rơ ràng trong Hội nghị Viên (1815), khi Pháp được Áo và Anh giúp bảo toàn để tập hợp lực lượng kiềm giữ tham vọng của Nga và Phổ. Tuy nhiên, các nước nhỏ vẫn chưa hề có tiếng nói trong Hội nghị, và buộc phải tuân theo thế cân bằng chiến lược do các nước chủ tŕ vạch ra.

 

Nguyên tắc cân bằng này đồng thời cũng thể hiện được xu hướng cố hữu trong quan hệ quốc tế. V́ giữa các quốc gia luôn có những chênh lệch nhất định về mặt lợi ích, dẫn đến hành vi cạnh tranh giữa các quốc gia, cho đến khi sự cân bằng bị đảo lộn th́ lập tức xuất hiện xu hướng nêu ra nguyên tắc cân bằng để thiết lập lại cán cân lực lượng đó. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho Chiến tranh thế giới lần thứ hai vẫn diễn ra sau hai thập kỷ các nước cùng xây dựng hoà b́nh với hệ thống Versailles – Washington.

 

Khi tiếp cận theo nghĩa là một chính sách th́ “cân bằng quyền lực” là một loạt những biện pháp nhất quán của các nhà ngoại giao, các chính khách nhằm duy tŕ trạng thái cân bằng của cán cân quyền lực. Theo đó, các quốc gia có thể h́nh thành một liên minh chống lại quốc gia có tiềm năng trở thành bá quyền hoặc thực hiện những biện pháp khác nhằm nâng cao khả năng kiềm chế những quốc gia hiếu chiến xâm lược. Bên cạnh đó một quốc gia cũng có thể tự ḿnh đóng vai tṛ cân bằng hệ thống bằng cách thay đổi liên minh khi cần thiết. Như vậy, chính sách “cân bằng quyền lực” là nhằm duy tŕ một trạng thái cân bằng có lợi cho quốc gia hoặc một nhóm quốc gia thông qua các đường lối và chính sách cụ thể.

 

Chính sách cân bằng quyền lực nổi tiếng của nước Anh là một điển h́nh khi cường quốc này khéo léo xoay chuyển thế mạnh của một quốc gia bá quyền trên biển thành yếu tố chi phối quan hệ quốc tế ở Châu Âu lục địa, h́nh thành một trật tự nhất siêu đa cường có lợi cho cả Đế quốc Anh từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18. Sau này với Kế hoạch Marshall, nước Mỹ cũng đă đầu tư cho một chính sách tương tự nhưng trên quy mô rộng lớn hơn, nhằm tái thiết và chi phối Châu Âu theo chính sách của Mỹ, tạo đối trọng với khối xă hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

 

Tuy nhiên, chính sách cân bằng về quyền lực không chỉ là công cụ đắc lực trong tay các nước lớn, mà c̣n là đối sách chiến lược rất thành công của một số nước nhỏ, dù cho không phải lúc nào cũng thành công. Ba lần phân chia Ba Lan giữa Nga, Áo và Phổ (1772, 1793 và 1795) là một điển h́nh cho một quốc gia có chính sách cân bằng bị động về đối ngoại. Nhưng trong một trường hợp gần như tương tự th́ nước Áo lại bảo toàn được trọn vẹn lănh thổ nhờ những nỗ lực hiệu quả khi tiến hành các hoạt động ngoại giao nhằm thực hiện chính sách cân bằng ảnh hưởng giữa các nước láng giềng hùng mạnh là Pháp, Nga và Phổ giai đoạn trước và sau Hội nghị Viên 1815. Vào thế kỷ 19, trong xu thế các nước đế quốc đang tiến hành bành trướng thuộc địa sang Châu Á th́ Thái Lan là một trong những quốc gia đă khéo léo tránh được thiệt hại của các cuộc chiến tranh xâm lược nhờ vào chính sách cân bằng quyền lực đối với cả Anh, Mỹ và Pháp.

 

Nh́n chung mọi hệ thống cân bằng quyền lực trong lịch sử như đă kể trên đều có những điều kiện chung gắn liền với những giả định của lư thuyết chủ nghĩa hiện thực. Thứ nhất, các quốc gia có chủ quyền nhưng tồn tại trong một thế giới vô chính phủ, không có một chính phủ toàn cầu hợp pháp bao trùm giúp điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Thứ hai, các quốc gia liên tục cạnh tranh với nhau nhằm giành giật các nguồn tài nguyên khan hiếm, bảo vệ lợi ích quốc gia và khuếch tán các giá trị vốn thường mâu thuẫn nhau của ḿnh. Thứ ba, giữa các quốc gia trong hệ thống có sự chênh lệch nhau về địa vị, mức độ giàu có và sức mạnh.

 

Từ những giả định trên, các quốc gia thường theo đuổi chính sách cân bằng quyền lực để duy tŕ trật tự của hệ thống quốc tế, vốn là một điều kiện quan trọng giúp các quốc gia bảo vệ chủ quyền của ḿnh. Chính v́ vậy cân bằng quyền lực cũng có thể coi là một sự thỏa hiệp giữa các quốc gia với nhau nhằm bảo vệ trật tự và tránh t́nh trạng hỗn loạn của hệ thống, cho dù trạng thái cân bằng quyền lực có thể có lợi cho những quốc gia mạnh và giàu có hơn là những quốc gia nhỏ yếu.

 

Mặc dù cân bằng quyền lực là một chính sách được nhiều nhà hoạch định chính sách yêu thích trong lịch sử, trên thực tế vẫn tồn tại rất nhiều tranh căi liên quan đến mối liên hệ giữa cân bằng quyền lực và tính ổn định của hệ thống quốc tế. Bản thân khái niệm “ổn định” cũng thường gây tranh căi. Ổn định có thể đồng nghĩa với ḥa b́nh nhưng cũng có thể có nghĩa là sự duy tŕ một trật tự phân bổ quyền lực nhất định, như đơn cực, lưỡng cực hay đa cực, mà bất chấp bản chất của trật tự đó có ḥa b́nh hay không.

 

Những học giả ủng hộ thuyết cân bằng quyền lực cho rằng trật tự đa cực, vốn là một trạng thái cân bằng quyền lực giữa các quốc gia, mang tính ổn định và ḥa b́nh hơn các trật tự khác như đơn cực hay lưỡng cực. Ngược lại, các học giả khác lại cho rằng trật tự đơn cực hay lưỡng cực mang tính ổn định cao hơn, tiêu biểu như các lập luận của thuyết ổn định nhờ bá quyền.

 

Ngoài ra, lập luận của những người ủng hộ thuyết cân bằng quyền lực cũng bị thách thức bởi thuyết chuyển đổi quyền lực. Theo đó, trong khi thuyết cân bằng quyền lực cho rằng sự cân bằng quyền lực giữa các quốc gia là yếu tố then chốt giúp duy tŕ ḥa b́nh và ổn định trong hệ thống quốc tế, th́ thuyết chuyển đổi quyền lực lại cho rằng việc quyền lực của các quốc gia, đặc biệt là của các cường quốc trong hệ thống, xích lại gần nhau và trở nên cân bằng lại dẫn tới nguy cơ xảy ra chiến tranh bá quyền, làm mất ổn định hệ thống.

 

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

 

Thuyết chuyển đổi quyền lực (Power transition theory)

 

Posted on 18/06/2016 by The Observer

 

13756957204_28815235be_b_5

 

Tác giả: Trương Minh Huy Vũ

 

Thuyết chuyển đổi quyền lực tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa các cường quốc trong hệ thống quan hệ quốc tế khi xuất hiện thay đổi về cán cân sức mạnh. Mặc dù thừa hưởng nhiều yếu tố của chủ nghĩa hiện thực như xem sức mạnh và sự phân phối sức mạnh đóng vai tṛ thiết yếu trong việc phân định kết quả chính trị thế giới, nhưng Thuyết chuyển đổi quyền lực lại nh́n thế giới bằng một nhăn quan khác. Theo đó, trật tự thế giới không phải là vô chính phủ, mà được phân thành một hệ thống thứ bậc dựa trên sức mạnh của các quốc gia.

 

Thứ bậc

 

Khái niệm “thứ bậc” (hierarchy) được sử dụng trong nhiều văn cảnh khác nhau trong lư thuyết quan hệ quốc tế. Bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “lănh đạo các nghi lễ”, khái niệm này đă được các học giả sử dụng để miêu tả về một trật tự có thứ bậc hay các mối quan hệ giữa hai bên có phân chia cao thấp. Trong Thuyết chuyển đổi quyền lực, thứ bậc hàm ư về sự xếp hạng sức mạnh giữa các quốc gia với nhau. Trong khi đó, theo một số lư thuyết quan hệ quốc tế khác như trường phái Anh Quốc chẳng hạn, thứ bậc c̣n biểu hiện vai tṛ và ư thức hành vi của mỗi cá thể trong cộng đồng theo nguyên tắc trách nhiệm và hành vi của mỗi quốc gia cần phù hợp với sức mạnh, vị thế của quốc gia đó trong hệ thống quốc tế .

Theo cách phân chia này, sự thay đổi về cán cân sức mạnh sẽ dẫn đến sự thay đổi về vị trí của mỗi quốc gia trong hệ thống quốc tế nếu quốc gia đó cảm thấy không hài ḷng với vị trí ḿnh đang có. Mức độ hài ḷng và không hài ḷng trong hệ thống được Thuyết chuyển đổi quyền lực xem như là chỉ dấu nhằm xác định nước nào là cường quốc nguyên trạng (status quo power), muốn duy tŕ hệ thống thứ bậc hiện hữu, và nước nào là cường quốc xét lại (revisionist power), muốn sử dụng sức mạnh đề thay đổi trật tự, đ̣i phân chia lại lợi ích. Mặc dù có thể có nhiều nước không hài ḷng với vị trí ḿnh đang có, nhưng do các nước yếu không đủ khả năng thay đổi hệ thống thứ bậc của hệ thống nên Thuyết chuyển đổi quyền lực chỉ tập trung vào những nước đang trỗi dậy về sức mạnh và có mức độ không hài ḷng tăng cao đối với hệ thống thứ bậc hiện hữu.

 

Sự bất ổn định của hệ thống xảy ra bắt nguồn từ mối tương tác giữa quốc gia bá chủ và cường quốc đang lên. Việc khoảng cách quyền lực giữa hai bên ngày càng thu hẹp dẫn đến nhiều t́nh huống có khả năng gây ra mâu thuẫn. Rơ nét nhất việc là cường quốc đang lên cảm thấy sức mạnh của ḿnh không tương xứng với vị trí đang có và không chấp nhận trật tự cũ. Bằng cách thách thức vị trí bá quyền hay lănh đạo của quốc gia bá chủ, cường quốc đang lên muốn phân chia lại lợi ích, nâng cao vị trí của ḿnh trong hệ thống thứ bậc hoặc tăng cường ảnh hưởng của ḿnh trong các tổ chức quốc tế, áp đặt các luật chơi phù hợp với lợi ích của ḿnh lên hệ thống. Ngược lại, quốc gia bá chủ cũng không muốn vị trí và lợi ích của ḿnh bị thách thức bởi cường quốc đang lên. Nhận thức được sự thay đổi về quyền lực đang diễn ra, nước này có thể thực hiện các hành động ngăn chặn, như phát động một cuộc chiến phủ đầu chống lại cường quốc đang lên trong lúc ḿnh c̣n ở thế thượng phong. Đây cũng là lư do tại sao các học giả Thuyết chuyển đổi quyền lực được cho là có quan điểm bi quan về sự thay đổi cán cân sức mạnh.

 

Khác với lư thuyết cân bằng quyền lực, Thuyết chuyển đổi quyền lực cho rằng mục tiêu cuối cùng của các quốc gia không phải là theo đuổi hay tích lũy sức mạnh. Thay vào đó, sức mạnh chỉ là một phương tiện để các quốc gia theo đuổi một mục tiêu quan trọng hơn, đó là giành được vị trí lợi thế hơn trong hệ thống thứ bậc quốc tế. Khi một thứ hạng mới được xác lập, phản ánh hợp lư hơn tương quan sức mạnh giữa các quốc gia, th́ trật tự và ḥa b́nh sẽ được thiết lập. Ngoài ra, trong khi thuyết cân bằng quyền lực cho rằng sự cân bằng quyền lực giữa các quốc gia là yếu tố then chốt giúp duy tŕ ḥa b́nh và ổn định trong hệ thống quốc tế, th́ Thuyết chuyển đổi quyền lực lại cho rằng việc quyền lực của các quốc gia, đặc biệt là của các cường quốc trong hệ thống, xích lại gần nhau và trở nên cân bằng lại dẫn tới nguy cơ xảy ra chiến tranh bá quyền, làm mất ổn định hệ thống.

 

Thuyết chuyển đổi quyền lực đă được nhiều học giả sử dụng để kiểm chứng các trường hợp chuyển đổi quyền lực trong lịch sử. Kết quả thực nghiệm miêu tả một bức tranh hỗn hợp. Sự thay đổi cán cân quyền lực từng diễn ra một cách ḥa b́nh trong trường hợp Mỹ vượt Anh ở những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Theo đó, hợp tác giữa quốc gia bá chủ và cường quốc đang lên đă diễn ra một cách êm thấm. Tuy nhiên, trong trường hợp Đức vượt Anh cũng khoảng thời gian này th́ chiến tranh lại xảy ra.

 

Trong thời gian gần đây, việc Trung Quốc trỗi dậy dần trở thành một cường quốc toàn cầu đă làm dấy lên nhiều cuộc tranh luận. Một số học giả đă sử dụng Thuyết chuyển đổi quyền lực để phân tích quan hệ giữa quốc gia bá chủ hiện tại là Mỹ và cường quốc đang lên là Trung Quốc. Một bài nghiên cứu gần đây nhất của hai đại diện trường phái này là Ronald Tammen và Jacek Kugler đă đi đến kết luận rằng yếu tố then chốt để quyết định liệu mâu thuẫn có xảy ra giữa Mỹ và Trung Quốc hay không xoay quanh hai vấn đề chính. Một là, cần xác định Trung Quốc là cường quốc nguyên trạng hay cường quốc xét lại. Hai là thời điểm nào trong tương lai Trung Quốc có thể vuợt Mỹ về sức mạnh. Hai câu hỏi này vẫn c̣n gây ra nhiều tranh căi và cho đến nay các học giả vẫn chưa đưa ra được một câu trả lời thống nhất.

 

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

 

Thuyết ổn định nhờ bá quyền (Hegemonic stability theory)

 

Posted on 25/06/2016 by The Observer

 

 

hegemony

 

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

 

Thuyết ổn định nhờ bá quyền là một học thuyết trong quan hệ quốc tế, kết hợp giữa những tư tưởng của chủ nghĩa hiện thực lẫn chủ nghĩa tự do. Thuyết này cho rằng hệ thống quốc tế sẽ có xu hướng ổn định hơn khi có một quốc gia bá quyền áp đảo toàn bộ hệ thống. Khi thực hiện vai tṛ lănh đạo hệ thống, quốc gia bá quyền này có thể thông qua các biện pháp như ngoại giao, ép buộc hay thuyết phục, dụ dỗ… nhằm đưa ra và đảm bảo thực thi các nguyên tắc và các dàn xếp trong các mối quan hệ kinh tế và chính trị quốc tế, đặc biệt là giữa những quốc gia quan trọng nhất trong hệ thống.

 

Thuyết ổn định nhờ bá quyền nhấn mạnh vai tṛ của quốc gia bá quyền. Để được coi là một quốc gia bá quyền và có thể đảm nhiệm được vai tṛ ổn định hệ thống, quốc gia đó trước tiên phải có năng lực của một quốc gia bá quyền, bao gồm một nền kinh tế lớn và phát triển vững mạnh, có sức mạnh khoa học kỹ thuật vượt trội, quyền lực chính trị quốc tế được thừa nhận và được hỗ trợ bởi sức mạnh quân sự áp đảo. Ngoài năng lực, quốc gia đó c̣n cần phải có ư chí đưa ra và đảm bảo thực hiện các quy tắc vận hành của hệ thống và duy tŕ cam kết đối với một hệ thống mà quốc gia đó coi là có lợi cho ḿnh cũng như các quốc gia chủ chốt khác trong hệ thống.

 

Thuyết ổn định nhờ bá quyền bắt đầu được phát triển vào những năm 1970 và 1980 bởi các học giả người Mỹ theo trường phái hiện thực vốn cho rằng sự phân bổ quyền lực giữa các quốc gia trong hệ thống là một nhân tố trung tâm trong việc giải thích độ mở cũng như tính ổn định của nền kinh tế – chính trị thế giới. Trong đó tiêu biểu phải kể đến học giả Charles P. Kindleberger. Trong cuốn sách xuất bản năm 1973 có tiêu đề Thế giới trong cơn Đại Suy thoái: 1929-1933 (The World in Depression: 1929-1939), Kindleberger đă cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1930 xuất phát từ thực tế là trong thời kỳ này không tồn tại một quốc gia lănh đạo thế giới với một nền kinh tế áp đảo, một quốc gia có thể đề ra và áp đặt các luật chơi, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế – thương mại, lên các quốc gia khác, qua đó giúp ngăn cản nền kinh tế thế giới rơi vào t́nh trạng hỗn loạn, suy thoái, vốn là một nguyên nhân góp phần dẫn tới cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

 

Các học giả cho rằng quốc gia bá quyền với sức mạnh kinh tế và khoa học kỹ thuật vượt trội sẽ mong muốn thiết lập một hệ thống thương mại mở, vốn có lợi cho quốc gia đó trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu của ḿnh. Tuy nhiên để có thể tạo lập một hệ thống thương mại mở như vậy cần phải có các hàng hóa công (public goods), như hệ thống luật pháp quốc tế về thương mại, các tiêu chuẩn đo lường chung, các chính sách kinh tế vĩ mô nhất quán, hệ thống tỉ giá hối đoái ổn định, hay các thể chế quốc tế giúp điều phối các chính sách đối phó với các cuộc khủng hoảng kinh tế… Trong bối cảnh đó, quốc gia bá quyền có thể chấp nhận chi phí để cung cấp các hàng hóa công này, với mong muốn về lâu dài có thể hưởng lợi từ một hệ thống kinh tế quốc tế mở và ổn định. Các quốc gia nhỏ hơn v́ vậy được hưởng lợi mà không cần bỏ ra chi phí (freeride) từ các hàng hóa công này. Chính sách của quốc gia bá quyền v́ vậy giúp ổn định hệ thống quốc tế và tạo ra sự thịnh vượng kinh tế cho các quốc gia khác. Một ví dụ điển h́nh chính là việc Mỹ tự nguyện thiết lập và duy tŕ cơ chế tỉ giá hối đoái cố định dựa trên bản vị vàng thông qua hệ thống Bretton Woods kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

 

Trong lịch sử, các học giả cho rằng có ba trường hợp mà hệ thống thế giới có được sự ổn định nhờ quốc gia bá quyền, đó là trường hợp Hà Lan vào thế kỷ 17, Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 19 và Mỹ từ sau năm 1945. Tuy nhiên nhiều học giả cho rằng một học thuyết chỉ được thực chứng bởi ba trường hợp nghiên cứu điển h́nh là không đáng tin cậy. Hơn nữa trường hợp của Mỹ cũng gây ra nhiều tranh căi. Một mặt, trong thời kỳ Đại Suy thoái (1929-1933), Mỹ có khả năng để giúp ổn định hệ thống nhưng nước này đă không làm như vậy, mặc dù điều đó phù hợp với lợi ích của Mỹ cũng như toàn thế giới. Thứ hai, việc coi Mỹ là một quốc gia bá quyền cũng đặt ra nhiều tranh căi. Thực tế, sức mạnh vượt trội của Mỹ chỉ tồn tại trong một vài thập kỷ ngay sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Kể từ những năm 1960 và 1970, sức mạnh của Mỹ đă suy yếu một cách tương đối, thể hiện qua việc Mỹ chấp nhận để hệ thống Bretton Woods sụp đổ vào đầu những năm 1970. Chính v́ vậy, nhiều nhà phê b́nh nêu lên câu hỏi rằng liệu trường hợp của Mỹ có đủ sức thuyết phục trong việc minh họa cho thuyết ổn định nhờ bá quyền hay không khi vị thế được coi là bá quyền của Mỹ kéo dài chưa đầy 3 thập kỷ?

 

Ngoài ra, các nhà phê b́nh, đặc biệt là những người theo trường phái tự do, cũng cho rằng việc thuyết ổn định nhờ bá quyền cho rằng có mối liên hệ giữa sự phân bổ quyền lực trong hệ thống (tồn tại quốc gia bá quyền) và kết quả của nền kinh tế quốc tế (tính ổn định) là quá phiến diện và đơn giản hóa vấn đề. Thực tế, mặc dù quốc gia bá quyền có thể đóng vai tṛ quan trọng trong việc thiết lập các thể chế và cơ chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tự do thương mại, các yếu tố này vẫn có thể được tạo ra và duy tŕ mà không cần sự hiện diện của quốc gia bá quyền. Các nhà tự do cho rằng do tất cả các quốc gia đều được hưởng lợi từ một nền kinh tế thế giới mở, họ có lợi ích tự thân trong việc hợp tác nhằm duy tŕ các thể chế quốc tế phù hợp với lợi ích chung. Chính v́ vậy các nhà tự do cho rằng bên cạnh quốc gia bá quyền, các quốc gia khác cũng có vai tṛ quan trọng không kém. Theo đó, chính sự cân nhắc của mọi quốc gia về lợi phần tuyệt đối và lợi phần tương đối là một yếu tố không kém phần quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế, duy tŕ một nền kinh tế thế giới mở và qua đó duy tŕ sự ổn định của hệ thống quốc tế.

 

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

Quốc gia thất bại (Failed states)

Posted on 02/04/2016 by The Observer

Print Friendly, PDF & Email

failed states

 

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

 

Một quốc gia thất bại là một quốc gia không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản của một quốc gia – dân tộc trong hệ thống thế giới hiện đại: Thứ nhất, quốc gia đó không thể thực hiện được quyền kiểm soát đối với lănh thổ và dân cư và không thể bảo vệ được các đường biên giới quốc gia của ḿnh. Thông thường, quốc gia đó sẽ rơi vào t́nh trạng hỗn loạn, vô chính phủ, quyền lực nằm trong tay các băng nhóm tội phạm, các nhóm vũ trang, các lănh chúa cát cứ… Trong nhiều trường hợp, các quốc gia này sẽ lâm vào t́nh trạng nội chiến, gây nên những thảm họa nhân đạo cho người dân. Thứ hai, quốc gia đó có năng lực quản trị quá yếu kém đến mức không thể đảm nhiệm được các chức năng hành chính và tổ chức cần thiết nhằm quản lư dân cư và tài nguyên quốc gia và không thể cung cấp được các dịch vụ công tối thiểu. Chính v́ vậy, công dân của quốc gia đó không c̣n tin vào tính chính đáng của chính phủ, và nhà nước của quốc gia đó cũng trở thành bất hợp pháp trong con mắt của cộng đồng quốc tế.

 

Đặc điểm điển h́nh của một quốc gia thất bại là thường có những thể chế yếu kém hoặc không hoàn thiện. Chính phủ không có năng lực, trong khi cơ quan lập pháp, tư pháp và lực lượng vũ trang năng lực yếu kém và thiếu tính độc lập. Bên cạnh đó, về kinh tế – xă hội quốc gia thất bại có cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu các cơ sở y tế và giáo dục, dẫn tới các chỉ số phát triển con ngươi cơ bản như tuổi thọ trung b́nh, tỉ lệ người dân biết chữ… ở mức thấp. Trong bối cảnh đó, t́nh trạng tham nhũng diễn ra tràn lan, kinh tế thường tăng trưởng ở mức âm và các hoạt động kinh tế lành mạnh không thể phát triển.

 

Việc một quốc gia thất bại không chỉ gây tác động tới người dân sở tại mà c̣n có thể ảnh hưởng tiêu cực tới các quốc gia khác trong khu vực lân cận. T́nh trạng hỗn loạn, vô chính phủ trong các quốc gia này thường gây nên những ḍng người tị nạn tràn qua biên giới sang các nước khác. T́nh trạng xung đột vũ trang, nội chiến sau khi nổ ra cũng thường lan rộng và gây tác động bất ổn tới các nước láng giềng. Ví dụ như đầu những năm 1990, cuộc nội chiến ở Rwanda đă làm cho t́nh h́nh ở Zaire (bây giờ là Cộng ḥa Dân chủ Congo) trở nên bất ổn. Các quốc gia thất bại cũng có thể trở thành nơi chứa chấp các phần tử tội phạm, khủng bố, mà trường hợp Afghanistan dưới thời chính quyền Taliban cung cấp nơi ẩn náu cho al-Qaeda và trùm khủng bố Osama bin Laden là một ví dụ điển h́nh.

 

Lư giải cho việc xuất hiện các quốc gia thất bại, các học giả cho rằng có ba nguyên nhân chính. Thứ nhất, đó chính là kết quả của quá tŕnh phi thực dân hóa. Quá tŕnh phi thực dân hóa chỉ mang lại những tác động tích cực khi mà người dân các xứ thuộc địa đă có đầy đủ khả năng trong việc tự quản lư quốc gia của ḿnh. Tuy nhiên trong những năm 1950 và 1960, các quốc gia thực dân khi rút lui khỏi các xứ thuộc địa và trao trả độc lập cho các dân tộc, đặc biệt là ở Châu Phi, đă không có các chiến lược phù hợp nhằm giúp đỡ các quốc gia độc lập non trẻ phát triển thành những thực thể ổn định và có năng lực quản trị. Bối cảnh Chiến tranh Lạnh lúc đó giúp che dấu những bất cập này khi viện trợ từ các siêu cường được đổ vào một số các quốc gia này nhằm hậu thuẫn cho các nhà lănh đạo ở đây. Tuy nhiên sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc đi cùng với việc các nguồn viện trợ không c̣n th́ sự yếu kém của các quốc gia này bắt đầu bộc lộ, dẫn tới t́nh trạng bất ổn và thậm chí sụp đổ.

 

Thứ hai, đó là tiến tŕnh dân chủ hóa, một tác động khác của việc Chiến tranh Lạnh kết thúc. Các chính phủ dân chủ thường nhấn mạnh quyền của công dân được tham gia vào các quá tŕnh ra quyết định chính sách, trong khi các chính phủ độc tài thường kiểm soát quyền lực một cách chặt chẽ và hạn chế các quyền tự do – dân chủ của người dân. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, sự ổn định được hỗ trợ bởi các chính phủ độc tài như vậy. Tuy nhiên sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đi cùng với quá tŕnh dân chủ hóa và chuyển giao quyền lực, nhiều khi miễn cưỡng, từ các nhà độc tài sang các chính phủ dân chủ ở một số quốc gia là t́nh trạng hỗn loạn chính trị do xuất hiện các khoảng trống quyền lực hoặc tranh chấp quyền lănh đạo giữa các bên. Chính những khoảng trống quyền lực này đă mang lại cơ hội cho các nhóm khác nhau t́m cách cạnh tranh lẫn nhau, đôi khi thông qua bạo lực, nhằm nắm quyền kiểm soát chính phủ.

 

Cuối cùng, một vài nhân tố khác cũng có vai tṛ không kém phần quan trọng trong việc h́nh thành các quốc gia thất bại. Đầu tiên đó là t́nh trạng quản lư yếu kém và nạn tham nhũng tràn lan ở các chính phủ cầm quyền. Tiếp theo, đó chính là tác động của hệ thống tư bản toàn cầu dẫn tới gánh nặng nợ nước ngoài kéo dài, qua đó càng làm suy yếu hơn nữa khả năng phát triển của các quốc gia này. Những yếu kém kinh tế này góp phần cùng với các nguyên nhân chính trị – xă hội khác đă dẫn tới việc chính phủ các quốc gia này dần rơi vào t́nh trạng khủng hoảng, mất khả năng kiểm soát đất nước và biến các quốc gia này thành những quốc gia thất bại, thậm chí sụp đổ.

 

Trong những thập kỷ qua thế giới đă chứng kiến nhiều trường hợp các quốc gia thất bại, như Haiti, Rwanda, Sierra Leone, Afghanistan, Sudan hay Somalia. Hiện nay phần lớn các quốc gia thất bại tập trung tại khu vực Châu Phi. Nhằm đối phó với các quốc gia thất bại và giúp đỡ các quốc gia này thoát ra khỏi t́nh trạng hỗn loạn, nội chiến, kém phát triển…, cộng đồng quốc tế đă đề cập và thảo luận nhiều biện pháp khác nhau, như cô lập các chính phủ độc tài và năng lực yếu kém, cung cấp viện trợ, chuyển giao một số chức năng quản lư quốc gia cho các cơ quan thuộc Liên Hiệp Quốc, thậm chí là làm hồi sinh thệ thống quản thác của tổ chức này. Trong nhiều trường hợp, các cuộc can thiệp nhân đạo đă được tiến hành, như ở Somalia đầu những năm 1990. Gần đây hơn, các cuộc tranh luận xung quanh khái niệm “Trách nhiệm bảo vệ” trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc mở ra một khả năng khác cho sự can thiệp “có cơ sở pháp lư” của cộng đồng quốc tế vào các quốc gia thất bại, với mục tiêu trước tiên là bảo vệ các thường dân vô tội trước bạo lực và các thảm họa nhân đạo.

 

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).

 

– Giải cứu các quốc gia thất bại

 

Posted on 10/09/2013 by The Observer

 

Nguồn: Gerald B. Helmen & Steven R. Ratner (1992). “Saving Failed States”, Foreign Policy, No. 89 (Winter), pp. 3-20

 

Biên dịch: Nông Hải Âu | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

 

Từ Haiti ở Tây bán cầu tới phần sót lại của Nam Tư ở châu Âu, từ Somalia, Sudan, và Liberia ở châu Phi đến Campuchia ở Đông Nam Á, có một hiện tượng mới đáng lo ngại đang nổi lên: các quốc gia – dân tộc thất bại, hoàn toàn không có khả năng duy tŕ vai tṛ một thành viên của cộng đồng quốc tế. Nội chiến, chính phủ tan vỡ, và thiếu thốn kinh tế đang tạo ra ngày càng nhiều hơn t́nh trạng debellatios, thuật ngữ được dùng mô tả t́nh trạng bị phá hủy của Đức sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Khi các quốc gia này rơi vào t́nh trạng hỗn loạn và bạo lực, đặt công dân của họ vào t́nh thế nguy hiểm và đe dọa các nước láng giềng bởi ḍng người tị nạn, bất ổn chính trị, và t́nh trạng chiến tranh ngẫu nhiên; rơ ràng là người ta cần phải làm ǵ đó. Việc lạm dụng rộng khắp quyền con người, trong đó cơ bản nhất là quyền sống, đă đủ đau buồn, nhưng yêu cầu cần phải giúp đỡ những quốc gia này càng trở nên bức thiết hơn khi có bằng chứng cho thấy vấn đề của họ ngày càng có xu hướng lan rộng hơn. Từ trước đến nay, giúp đỡ các nước đang phát triển gặp khó khăn đă là một nhiệm vụ lớn, nhưng giải cứu các quốc gia thất bại sẽ là một thách thức mới và khác biệt trên nhiều phương diện.

 

Những đổ vỡ gần đây có nguyên nhân từ sự gia tăng đột ngột số lượng các quốc gia – dân tộc, đặc biệt tại châu Phi và châu Á, kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Khi Hiến chương Liên Hiệp Quốc ra đời năm 1945, nó được kư bởi 50 quốc gia. Kể từ đó, số thành viên đă tăng gấp ba, phản ánh xu hướng chuyển đổi từ hệ thống thuộc địa trước chiến tranh sang thế giới của các quốc gia độc lập. Trong thời kỳ đó, mà giờ đây đă gần kết thúc với việc Namibia giành độc lập năm 1990, Liên Hiệp Quốc và các nước thành viên đă đưa việc thực hiện “quyền dân tộc tự quyết”, một quyền có trong Hiến chương, lên làm mục tiêu hàng đầu.

 

Trên thực tế, quyền tự quyết được chú ư đến nhiều hơn cả khả năng tồn tại lâu dài của quốc gia. Tất cả đều đồng ư rằng các quốc gia mới cần được hỗ trợ về kinh tế, và Liên Hiệp Quốc khuyến khích các tổ chức như Ngân hàng thế giới (WB) và Chương tŕnh Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) giúp đỡ họ. Nhưng nền tảng của tư tưởng phi thực dân hóa chính là quan niệm rằng các dân tộc có thể điều hành tốt nhất đất nước của họ khi thoát khỏi gông cùm hay thậm chí là ảnh hưởng của các thế lực ngoại quốc. V́ vậy ư tưởng rằng các nhà nước có thể thất bại, hay đơn giản là không thể đóng vai tṛ như những thực thể độc lập, đă đối nghịch với lí do tồn tại của tư tưởng phi thực dân hóa và phạm phải quyền tự quyết. Người ta nghĩ rằng các nhà nước mới có thể nghèo, tuy nhiên họ vẫn đề cao phẩm giá của sự độc lập.

 

Trong thời kỳ c̣n tồn tại, cuộc Chiến tranh Lạnh đă giúp kéo dài khả năng sống sót của một số quốc gia mới giành được độc lập và các quốc gia thuộc Thế giới thứ Ba khác. Các nước với nền kinh tế và chính phủ kém phát triển nghiêm trọng đă nhận các khoản viện trợ lớn từ hai siêu cường và các ông chủ thuộc địa trước đây. Việc nhiều nước mới thành lập được đặc trưng bởi t́nh trạng tham nhũng một cách có hệ thống không cản trở hai siêu cường tiếp thêm viện trợ, bởi họ cần t́m đồng minh trong cuộc chiến. V́ thế Philippines, Nam Việt Nam, Zaire và Somalia sau năm 1977 hưởng lợi rất nhiều từ viện trợ của Mỹ, trong khi Afghanistan, Cuba và Ethiopia sau năm 1974, và một vài nước tiền tuyến ở châu Phi, hưởng lợi từ viện trợ của Liên Xô. Dù vậy, hầu hết các quốc gia trên không phụ thuộc hoàn toàn vào viện trợ. Nhiều nước, điển h́nh là các nước thuộc ASEAN, đă trở thành các nước độc lập lớn mạnh. Tuy nhiên nguồn viện trợ nước ngoài là tối quan trọng với nhiều quốc gia, tùy thuộc vào tầm quan trọng chiến lược thực sự hay tưởng tượng của họ trong Chiến tranh Lạnh.

 

Tuy nhiên thời gian đă chứng tỏ rằng những trở ngại đối với các quốc gia non trẻ là quá lớn, và sự cắt giảm hỗ trợ từ cuối những năm 1980 đă chỉ ra rơ rệt những yếu kém của họ. Ở các nước như Somalia, Sudan, Zaire, chính quyền mất uy tín đang bị thách thức bởi các cuộc nổi dậy mạnh mẽ. Kết quả là các cuộc nội chiến làm gián đoạn các các dịch vụ quản lư thiết yếu, phá hoại hệ thống cung cấp và phân phối lương thực, và đưa nền kinh tế vào trạng thái hầu như tŕ trệ; các quan chức tham nhũng và tội phạm chỉ càng khiến cho người dân thêm thống khổ. Ở Somalia và Sudan, thiên tai làm t́nh trạng thêm trầm trọng, cướp đi sinh mạng một phần lớn dân số và buộc nhiều người phải di cư đến các đô thị vốn đă đông đúc hay các trại tị nạn nước ngoài. Ở Campuchia, hơn 20 năm chiến tranh đă khiến đất nước bị tàn phá, rải rác bom ḿn khắp nơi, và vẫn đang chịu đựng hậu quả của chế độ diệt chủng Khơ-me đỏ. Cuộc nội chiến ở Afghanistan có vẻ như không thể phân thắng bại, và đất nước có thể sẽ bị chia cắt. Dĩ nhiên, hầu hết các quốc gia phải chịu đựng những khó khăn về kinh tế không phải đối mặt với sự sụp đổ chính phủ. Hầu hết các chính phủ này đă có thể gồng ḿnh vượt qua dù mức sống tŕ trệ đă trở thành gánh nặng đối với họ.

 

Các nước Thế giới thứ Ba không phải là đối tượng duy nhất có thể thất bại. Sự tan ră của Liên Xô và Nam Tư trong ṿng hai năm rưỡi qua đă tạo ra gần 20 quốc gia mới, hầu hết chưa từng hưởng độc lập và tự quản trị. Người ta hy vọng rằng phần lớn các quốc gia này sẽ thành công, nhưng việc thiếu kinh nghiệm điều hành chính phủ, các thể chế chính quyền yếu kém, triển vọng kinh tế kém, và xung đột sắc tộc sẽ khiến một số quốc gia rơi vào khó khăn vô vọng – t́nh trạng mà Bosnia đang trải qua với cuộc nội chiến của ḿnh. Những biến chuyển của thế giới về h́nh thể chính trị, kinh tế và văn hóa đang thử thách sự thống nhất và đường biên giới của nhiều quốc gia khác. Không thể chắc chắn được rằng những đường biên giới chính trị tạo ra dưới thời kỳ thuộc địa rốt cuộc sẽ chứng minh được sự bền vững của ḿnh.

 

Hiện có ba nhóm nhà nước đang bị đe dọa: Một là các nhà nước đă thất bại như Bosnia, Campuchia, Liberia, Somalia, một nhóm nhỏ mà hệ thống chính phủ đă bị nhấn ch́m bởi hoàn cảnh. Hai là các nhà nước đang thất bại như Ethiopia, Grudia, và Zaire, những nơi sự sụp đổ không xảy ra một cách nhanh chóng nhưng có thể sẽ diễn ra trong vài năm tới. Ba là một số nhà nước độc lập mới trong các lănh thổ cũ như Nam Tư và Liên Xô, mà khả năng tồn tại của chúng rất khó đánh giá. Các nhóm này đều xứng đáng được quan tâm sát sao, và cả ba đều cần đến những chính sách sáng tạo.

 

Các hướng tiếp cận truyền thống

 

Các phản ứng truyền thống của cộng đồng quốc đối với các quốc gia và vùng lănh thổ cần hỗ trợ phát triển thường rơi vào một vài mẫu h́nh nhất định. Với các vùng lănh thổ không tự chủ, Hiến chương Liên Hiệp Quốc, và trước đó là Hiệp ước Hội Quốc Liên, đă tạo ra một hệ thống ủy trị, theo đó các nước thành viên và thậm chí bản thân các tổ chức quốc tế được giao trách nhiệm thúc đẩy sự phát triển về các mặt chính trị, kinh tế, xă hội, văn hóa và giáo dục của các cư dân. Hiến chương coi trách nhiệm nâng cao những lợi ích này như một “sự ủy thác thiêng liêng”. Trong một số trường hợp, Liên Hiệp Quốc đóng vai tṛ trực tiếp. Điển h́nh, trong hai năm 1962-1963, theo yêu cầu của Hà Lan và In-đô-nê-xi-a, Liên Hiệp Quốc đă nắm quyền điều hành Irian Jaya (phần phía Tây đảo New Guinea) trong thời gian ngắn chuyển quyền quản lư từ Hà Lan sang In-đô-nê-xi-a. Trong các kế hoạch quản lư khác của Liên Hiệp Quốc, như chế độ pháp lư riêng biệt cho Jerusalem (được dự thảo trong kế hoạch phân chia Palestine năm 1947) hay Hội đồng Liên Hiệp Quốc về Namibia (thành lập sau sự kết thúc sứ mệnh của Hiệp hội Nam Phi đối với Namibia), Liên Hiệp Quốc đều không đạt được sự kiểm soát hiệu quả. Hội đồng Liên Hiệp Quốc về Namibia tuy vậy đă giúp tạo nền tảng cho các thành viên phương Tây của Hội đồng Bảo an dự thảo một kế hoạch độc lập, vốn được thực thi trong các năm 1988-89. Khu vực Tây Sahara là một ví dụ khác cho sự đỡ đầu của Liên Hiệp Quốc với việc thành lập một quốc gia mới.

 

Với các quốc gia độc lập, cộng đồng thế giới đă dùng các công cụ truyền thống để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và chính trị cho những dân tộc gặp khó khăn. Là nền tảng của các chương tŕnh sau chiến tranh, kế hoạch Marshall cung cấp hơn 16 tỷ đô, tương đương 114 tỷ đô năm 1992, nhằm hỗ trợ song phương cho các nước Tây Âu vốn bị chiến tranh tàn phá đến mức sắp thành những quốc gia thất bại. Mỹ không chỉ giúp khôi phục kinh tế cho các nước bại trận mà c̣n tái thiết hệ thống chính trị theo con đường dân chủ tại Ư, Nhật, Tây Đức. Kết quả là các nước này phục hồi nền kinh tế năng suất, chính trị ổn định và đóng góp cho nền ḥa b́nh quốc tế.

 

Từ đó, những quốc gia phục hồi ở châu Âu, các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), và khối Xô-viết cũ đă đóng góp một lượng lớn viện trợ song phương cho các nước đang phát triển. Các nước viện trợ tập hợp nguồn lực cho một nước nhất định và cung cấp hỗ trợ nhân đạo để đối phó với các cuộc khủng hoảng. Liên Hiệp Quốc thông qua UNDP và hàng loạt các cơ quan chuyên môn và kỹ thuật khác nhau đă cấp vốn cho các dự án và đào tạo cho quan chức các nước đang phát triển. WB viện trợ không hoàn lại và cung cấp các khoản vay cho một số dự án cụ thể tại các nước đang phát triển, và IMF cũng cho vay với các điều khoản ưu đăi. Cao ủy về người tị nạn của Liên Hiệp Quốc (UNHCR) cũng như Chương tŕnh Lương thực Thế giới (WFP), và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) cũng giúp đỡ trong các chiến dịch cứu trợ.

 

Không may thay, những biện pháp này đạt hiệu quả thấp tại các quốc gia đang thất bại, và có vẻ như là hoàn toàn không đủ ở các quốc gia đă thất bại. Viên trợ phương Tây không thể tiếp cận những đối tượng hưởng lợi dự kiến v́ bạo lực, những chia rẽ chính trị không thể ḥa giải, hay sự thiếu thốn cơ sở hạ tầng kinh tế. Somalia là ví dụ điển h́nh khác. Chương tŕnh của IMF không khả thi khi không tồn tại một chính phủ nắm quyền. Các khoản viện trợ không hoàn lại, các chương tŕnh hỗ trợ kỹ thuật không được điều phối, và những chuyến viếng thăm thưa thớt của các tổ chức cứu trợ và nhân đạo là không đủ để kéo những quốc gia như Bosnia và Somalia trở về từ miệng hố tử thần. Dù các tổ chức quốc tế cần được khen ngợi v́ đă ứng phó với các khủng hoảng, nhưng việc số nhà nước thất bại tăng lên đ̣i hỏi một hướng tiếp cận hệ thống và sâu sát hơn.

 

Các hoạt động gần đây của Liên Hiệp Quốc đă phản ánh được những nhu cầu này. Trong báo cáo quan trọng của ḿnh vào tháng 6/1992 mang tên Chương tŕnh nghị sự v́ ḥa b́nh, Tổng thư kư Boutros Boutros-Ghali đă đưa khái niệm “xây dựng ḥa b́nh hậu xung đột” làm một ưu tiên mới của Liên Hiệp Quốc. Ông kiên quyết nhấn mạnh nhu cầu “hành động để nhận dạng và giúp đỡ những cấu trúc vốn có xu hướng củng cố vững chắc ḥa b́nh để tránh tái xung đột.” Để đề pḥng những xung đột trong tương lai, cộng đồng quốc tế phải tạo ra một môi trường chính trị, kinh tế, xă hội mới cho các quốc gia bị tàn phá bởi chiến tranh. Điều này bao gồm việc củng cố thêm các thể chế quản trị, bảo vệ nhân quyền, theo đuổi các dự án hợp tác song phương, và khuyến khích phi quân sự hóa. Các cơ quan của Liên Hiệp Quốc sẽ hỗ trợ, việc này đ̣i hỏi các quốc gia thành viên phải đóng góp tài chính nhiều hơn.

 

Boutros-Ghali chủ yếu đưa ra yêu cầu hỗ trợ dựa trên trách nhiệm của Liên Hiệp Quốc đă được quy định trong Hiến chương trong việc “duy tŕ ḥa b́nh và an ninh quốc tế”. Dĩ nhiên đây là một luận điểm mạnh. Sự cáo chung của một nhà nước thường được đánh dấu bởi bạo lực và vi phạm nhân quyền rộng khắp vốn ảnh hưởng đến các nước khác. Nội chiến, chuỗi cung cấp lương thực và hệ thống y tế bị gián đoạn, cũng như đổ vỡ kinh tế đă buộc những người tị nạn bỏ chạy sang các nước láng giềng. Các nước này có thể phải gặp phải t́nh trạng buôn bán vũ khí trái phép, những hành động đoàn kết giữa các nhóm sắc tộc liên quan, và các băng nhóm vũ trang t́m kiếm nơi trú ẩn an toàn. Như ở Balkans, có nguy cơ rơ ràng rằng những xung đột này có thể lan sang các nước khác.

 

Sự cần thiết của việc bảo đảm an ninh và ḥa b́nh quốc tế đă khuyến khích các hoạt động cụ thể của Liên Hiệp Quốc nhằm phần nào giải cứu các nhà nước đang thất bại thông qua việc can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ các quốc gia này. Kế hoạch lớn của Liên Hiệp Quốc nhằm khôi phục ḥa b́nh ở Campuchia, với chính quyền dân sự, giữ ǵn ḥa b́nh và hỗ trợ bầu cử, không chỉ để tái thiết đất nước này từ bên trong mà c̣n nhằm xóa đi một nguồn gốc căng thẳng lớn cho Đông Nam Á. Ở Trung Mỹ cũng vậy, Liên Hiệp Quốc đă sử dụng việc kiến thiết quốc gia như một phương tiện duy tŕ ḥa b́nh. Sự giám sát chặt chẽ các cuộc bầu cử ở Nicaragua và các chương tŕnh dân chủ hóa ở El Salvador đă chứng tỏ Liên Hiệp Quốc sẵn ḷng can dự vào nội bộ các nước thành viên để đảm bảo ḥa b́nh và an ninh. Bất kỳ nỗi lực trong tương lai nào của Liên Hiệp Quốc tại Balkan, chuyển từ các chương tŕnh hỗ trợ nhân đạo và duy tŕ ḥa b́nh sang tạo dựng ḥa b́nh lâu dài trên thực tế, nhiều khả năng sẽ được thực hiện trong khuôn khổ đó.

 

Tuy nhiên, trách nhiệm của Liên Hiệp Quốc với ḥa b́nh và an ninh quốc tế là không đủ để khôi phục lại được toàn bộ các nhà nước thất bại và đang thất bại. Và không phải tất cả các nước đang thất bại đều ảnh hưởng xấu đến ḥa b́nh. Bi kịch của Haiti chỉ do chính người dân nước này gánh chịu, và sự tan ră của Liberia chỉ là một mối nguy hiểm nhỏ với an ninh quốc tế, trừ tác động khiêm tốn của các luồng người tị nạn đến từ hai quốc gia này sang các nước láng giềng. Trong những trường hợp này, các nước thành viên lưỡng lự hơn trong việc ủng hộ sự can dự đa phương.

 

Sự lưỡng lự này có cả nguyên do luật pháp và chính trị. Từ phương diện pháp lí, Điều 2(7) của Hiến chương nói rằng Liên Hiệp Quốc không được phép can thiệp vào “các vấn đề nội bộ của bất kỳ quốc gia nào” trừ trường hợp Hội đồng Bảo an thực thi ư chí của ḿnh bằng việc áp dụng Chương VII (như trong trường hợp trừng phạt Iraq, Libya, và Serbia). V́ thế Liên Hiệp Quốc rơ ràng không có quyền can thiệp vào các vấn đề hoàn toàn nội bộ trừ khi nhằm ủng hộ các nghị quyết của Hội đồng Bảo an, hoặc có sự đồng t́nh của quốc gia liên quan.

 

Quan trọng hơn, các rào cản có nguồn gốc chính trị sâu xa cũng có xu hướng cản trở các định hướng sâu rộng của Liên Hiệp Quốc trong các vấn đề nội bộ của các nước, thậm chí là cả các tranh căi về tính hợp lư của những sự can thiệp này. Những rào cản này bắt nguồn từ khái niệm “chủ quyền”. Khái niệm này trong luật quốc tế chưa được định nghĩa rơ ràng, vẫn được dùng để chỉ nhiều thứ khác nhau liên quan đến nền độc lập chính trị của một quốc gia – từ sự tồn tại như một đơn vị chính trị riêng biệt trên thế giới – đến quan điểm cực đoan hơn là tất cả các vấn đề nội bộ của một quốc gia đều nằm ngoài thẩm quyền giám sát của cộng đồng quốc tế. Các quốc gia giành độc lập sau 1945 đă rất coi trọng, thậm chí phóng đại tầm quan trọng của khái niệm chủ quyền. Các nước này, vốn tập hợp lại theo khu vực hay trong Nhóm 77 (nay đă có hơn 120 quốc gia) nhanh chóng chống lại mọi mối đe dọa nhận thấy được đối với chủ quyền dù đó là viện trợ nhân đạo hay công tác giữ ǵn ḥa b́nh của Liên Hiệp Quốc trong các cuộc nội chiến như ở Bosnia. Họ coi học thuyết chủ quyền chưa hoàn toàn hợp lư này như một thứ vũ khí chống lại các ư định xâm lược của các nước mạnh hơn.

 

Nhiều nước, đặc biệt là Trung Quốc trong những năm gần đây, dùng tấm khiên chủ quyền để tránh những chỉ trích quốc tế về các hồ sơ nhân quyền tồi tệ của họ. Lập trường của họ không lung lay mặc cho sự đồng thuận về nhân quyền đă h́nh thành trong hơn 40 năm qua – được pháp điển hóa trong Hiến chương, Tuyên bố Toàn cầu về quyền con người, hàng loạt các công ước Liên Hiệp Quốc, và được thể chế hóa thông qua Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc – rằng nhân quyền là mối quan tâm toàn cầu và cộng đồng quốc tế có quyền và nghĩa vụ thúc đẩy những phẩm giá cơ bản của con người tại tất cả các nước. Chủ quyền cũng đă được nêu ra để ngăn cản sự can thiệp quốc tế vào các vấn đề khác như ô nhiễm môi trường, sức khỏe cộng đồng, và ma túy.

 

Nhưng chiều hướng đang từ từ thay đổi, hay như Boutros-Ghali nói, có lẽ xu hướng này chưa bao giờ tiến xa tới mức mà những người ủng hộ khái niệm chủ quyền đă từng h́nh dung như vậy. Trong báo cáo tháng 6/1992 của ḿnh, ông nhận thấy “thời đại của chủ quyền toàn diện và tuyệt đối… đă kết thúc, lư thuyết của nó không bao giờ phản ánh đúng với thực tiễn.” Ông kêu gọi “sự cân bằng giữa các nhu cầu của một nền quản trị trong nước tốt và các yêu cầu của một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn”. Việc lí thuyết chủ quyền không đúng với thực tế lịch sử đă được chứng minh, đặc biệt là qua phương cách cộng đồng quốc tế đă giúp đỡ các nước gặp khó khăn.

 

Ví dụ, nhiều chương tŕnh hỗ trợ kinh tế đ̣i hỏi các nước nhận phải tiến hành một số chính sách mang tính chất hoàn toàn nội bộ. Những điều kiện này thường được chấp thuận, trừ một số phản đối thi thoảng xảy ra từ các nước nhận hỗ trợ. Một số điều kiện liên quan đến việc sử dụng tiền, như đảm bảo tiền được dùng cho một dự án nhất định. Một số khác ràng buộc viện trợ với các vấn đề khác như thực hiện nhân quyền, chính sách sung công và gần đây hơn là các nỗ lực dân chủ hóa. IMF buộc nước vay tiền phải chấp nhận các điều khoản chi tiết đ̣i hỏi họ phải cải cách, thậm chí là tái cấu trúc nền kinh tế. IMF đặt ra các mục tiêu về lạm phát, lượng cung tiền, và dự trữ ngoại tệ, các nước vay có rất ít lựa chọn và phải đồng ư nếu muốn nhận được hỗ trợ và các khoản vay. V́ thế nói chủ quyền tuyệt đối, theo nghĩa là quyền tự do hoàn toàn định đoạt các vấn đề quốc nội, không bị suy giảm khi các quốc gia này chấp thuận các khoản viện trợ quốc tế có điều kiện là không thuyết phục.

 

Tuy nhiên, viện trợ nhân đạo thường vẫn được cung cấp dù chính phủ nước nhận viện trợ có chính thức chấp thuận mọi chiến dịch hay không. Khi UNHCR được quyền vào một nước để chăm sóc người tị nạn, họ thường làm việc với chính phủ để hoàn thành mục tiêu. Ủy ban quốc tế Chữ thập đỏ khi cam kết giữ bí mật có thể được tiếp cận tù nhân và thực hiện các hoạt động nhân đạo, như trao đổi tù nhân ở các nước xảy ra nội chiến. Thậm chí khi các chính phủ không cho phép, như ở Afghanistan, Ethiopia, Sudan trong thập niên qua, các tổ chức nhân đạo vẫn t́m được cách để lách qua các chính sách chính thức. Bản thân Liên Hiệp Quốc trong một nghị quyết của Đại hội đồng vào tháng 6/1992 về quyền can dự nhân đạo đă đưa ra những nguyên tắc quan trọng liên quan đến những nỗ lực này. Nghị quyết ghi nhận rằng viện trợ nhân đạo “nên” (should) [không phải “sẽ” (shall – hàm ư bắt buộc – NHĐ) được chấp thuận bởi nước chịu ảnh hưởng (không phải là nhà nước [state] hay là chính phủ [government]) và về nguyên tắc là dựa trên thỉnh nguyện của nước bị ảnh hưởng.

 

Tương tự như vậy, các vấn đề môi trường cũng vượt quá quan niệm chủ quyền truyền thống. Tác động của sa mạc hóa, ấm lên toàn cầu, phá hủy tầng Ô-zôn, mưa a-xít ảnh hưởng đến mọi quốc gia. Để giải quyết các vấn đề này đ̣i hỏi một cơ chế quốc tế hạn chế các hoạt động trong nước như phát thải khí nhà kính.

 

Sự chấp nhận về dài hạn những hạn chế của chủ quyền tuyệt đối, sự xuất hiện các quan điểm của cộng đồng quốc về sự phù hợp và khía cạnh pháp lỳ của viện trợ nhân đạo đối với các nước gặp khủng hoảng, và sự sẵn ḷng tăng lên của các nước thành viên trong việc giao phó cho Liên Hiệp Quốc nhiều quyền lực hơn, tất cả đều hướng tới những giải pháp mới để đối phó với hiện tượng các nhà nước thất bại. Cộng đồng quốc tế nên chuẩn bị cho những nỗ lực mới, có phạm vi rộng và thực sự cần thiết của Liên Hiệp Quốc nhằm thực hiện trách nhiệm cứu các quốc gia thất bại.

 

 


SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: