CHÍNH NGHĨA

 

   

Chính Nghĩa Tự Có Tính Thuyết Phục - Nhân Nghĩa Tự Có Tính Cảm Hoá

 

Vài nét về một anh hùng:                     

Đại-tá Hồ Ngọc-Cẩn

 

 

 

Đại-tá Hồ Ngọc-Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần-thơ. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc-gia Việt-Nam. Thủa nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật ǵ. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính t́nh hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học (1945) th́ chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Măi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học không lấy ǵ làm giỏi cho lắm, thường th́ chỉ đứng trung b́nh trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu-sinh-quân.

Thời điểm này, trên toàn lănh thổ VN có 7 trường TSQ, phân phối như sau:
_ Trường TSQ đệ nhất quân khu, ở Gia-định.
_ Trường TSQ đệ nhị quân khu ở Huế.
_ Trường TSQ đệ tam quân khu ở Hà-nội.
_ Trường TSQ Móng- cáy dành cho sắc dân Nùng.
_ Trường TSQ đệ tứ quân khu ở Ban-mê-thuột.
_ Trường TSQ Đà-lạt của quân đội Pháp.
_ Trường TSQ Đông-Dương của quân đội Pháp, ở Vũng-tầu.

Hồ Ngọc Cẩn được thu nhận vào lớp nh́ trường TSQ  đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương tŕnh Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường TSQ đệ nhất quân khu di chuyển từ  Gia-định về Mỹ-tho.

Khi hiệp định Genève kư ngày 20-7-1954, th́ ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường TSQ đệ tam quân khu di chuyển từ Hà-nội vào,  sát nhập với trường TSQ đệ nhất quân khu ở Mỹ-tho. Niên học 1954-1955, trường TSQ đệ nhất quân quân khu bắt đầu dạy chương tŕnh Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ.  Hồ Ngọc-Cẩn học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt-văn là ông Nguyễn Hữu-Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ, là giữa một số bạn học chương tŕnh Việt từ Bắc vào, mà Hồ Ngọc-Cẩn lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt-văn. Trong năm học,  có chín kỳ luận văn, th́ bài của Cẩn được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của Cẩn chỉ đứng thứ nh́ trong lớp mà thôi. Năm này Cẩn bắt đầu làm thơ. Thơ của Cẩn không có hùng khí, đa số những bài thơ này cực kỳ lăng mạn.

Ghi chú.

Ông Hùng bấy giờ mới đỗ tú tài. Trong thời gian dạy tại trường TSQ, ông tự học, đỗ cử nhân luật. Sau khi đỗ cử nhân luật, ông được bổ làm thẩm phán ở Tuy-ḥa, rồi làm bộ trưởng Lao-động, rồi thẩm phán ở Phước-tuy, rồi lại làm bộ trưởng Lao-động. Sau 1975 ông sống tiềm ẩn ở Huston, bang Texas, Hoa-kỳ và từ trần năm 2000.

Hết năm học, Cẩn đă 17 tuổi. Theo học quy của trường TSQ, th́ khi một học sinh mười bẩy tuổi, mà chưa học hết đệ ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. C̣n như mười bẩy tuổi, mà học hết đệ ngũ, lại tỏ ra xuất sắc th́ được giữ lại học đệ tứ, rồi... cho học lên cao nữa. Niên khóa 1955-1956, Hồ Ngọc-Cẩn được gửi lên học tại Liên-trường vơ khoa Thủ-đức, về vũ khí. Sau ba tháng, Cẩn đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, Cẩn lại đậu chứng chỉ bậc nh́, và bắt đầu kư đăng vào quân đội với cấp bậc binh nh́.

Quy chế dành cho các TSQ Việt-Nam thời ấy là quy chế dành cho các TSQ Pháp trong thời b́nh. Một học sinh ra trường, th́ ba tháng đầu với cấp bậc binh nh́, ba tháng sau  với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau Cẩn là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.

Chiến tranh tại miền Nam VN tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 th́ lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ Quốc-pḥng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được nhập học trường này, tất cả các hạ sĩ quan có trên năm năm công vụ, có bằng Trung-học đệ nhất cấp. Với sự nâng đỡ đặc biệt của đại tướng Lê Văn-Tỵ Tổng-tham mưu trưởng, nguyên là một cựu TSQ, các hạ sĩ quan xuất thân từ trường TSQ, không cần phải hội đủ tŕnh độ học vấn, cũng như thâm niên công vụ, đều được nhập học.

Nào ai ngờ, với sự nâng đỡ đặc biệt này, đă cung cấp cho đất nước VN không biết bao nhiêu sĩ quan gương mẫu, anh hùng trên chiến trường.

Hồ Ngọc-Cẩn tốt nghiệp khóa 2 ( ?) sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy. Dường như có một mật lệnh của Tổng-thống Ngô Đ́nh-Diệm hay đại tướng Lê Văn-Tỵ, các tân chuẩn úy, xuất thân từ trường TSQ, đều được đưa về phục vụ tại các binh chủng: Dù, Thủy-quân lục chiến (TQLC) , Biệt-động quân (BĐQ), Quân-báo, An-ninh quân đội, và Lực-lượng đặc biệt (LLĐB).

Sau khi ra trường, Hồ Ngọc-Cẩn theo học một khóa huấn luyện BĐQ, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng. Lănh thổ khu này gồm các tỉnh Cần-thơ (Phong-dinh), Chương-thiện, Sóc-trăng (Ba-xuyên), Bặc-liêu, Cà-mâu (An-xuyên). Về sau, v́ t́nh h́nh chiến tranh thay đổi, quân Cộng-sản từ du kích chiến, chuyển sang đánh cấp tiểu đoàn và trung đoàn, các đại đội BĐQ cũng phải kết hợp thành tiểu đoàn. Các đại đội BĐQ của khu 42 chiến thuật kết thành hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn mang số 42, đơn vị mà Cẩn phục vụ, được tặng mỹ danh là tiểu đoàn Cọp ba đầu rằn. Tiểu đoàn mang số 44 được tặng mỹ danh là Cọp xám U-minh hạ.

 

Tôi đă gặp Hồ Ngọc-Cẩn bao giờ? Tại đâu? Câu truyện như thế này:

Năm 1966, khi đọc trong Đại-Nam chính biên liệt truyện, Đại-Nam nhất thống chí viết về "Ngụy Tây-sơn", có rất nhiều nghi vấn trong những trận đánh giữa vua Quang-Trung, với vua Gia-long tại rừng U-minh. Tôi nảy ra ư xuống vùng tận cùng của đất nước này t́m hiểu thêm. Bấy giờ đang xẩy ra vụ biến động miền Trung, các thầy mang bàn thờ xuống đường, chiến cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi động, mẹ tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối, v́ đi như vậy dễ tiêu dao miền Cực-lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số Tử-vi của tôi, cụ lại khuyên tôi nên đi. Cụ nói "Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà-mau". Tôi nhất quyết đi, bà má má tôi khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái  tính phiêu lưu và mê sưu tầm của tôi.

Nhưng làm thế nào để có thể được vào tất cả những làng, những xă, mà không gặp trở ngại? Làm sao có phương tiện di chuyển? Chỉ một cú điện thoại, ông bố tôi đă kiếm cho tôi cái giấy giới thiệu của tờ tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới thiệu của tờ nhật báo Hoa-văn tại Hương-cảng. Thế là tôi bỗng trở thành kư giả bất đắc dĩ . Tôi đến bộ tư lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự chiến trường ở vùng 4 chiến thuật. Tôi chỉ mong t́m hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm kư giả!

Nhưng sau chuyến đi ấy, quá súc động về cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đă viết rất nhiều bài kư sự chiến trường, đăng trên một số báo ngoại quốc. Khởi đầu, uất hận trước cái chết của một cô bạn gái tên Đặng-thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm nữ cán bộ Xây-dựng nông thôn tại kinh Tắc-vân, Cà-mau. Tôi là thầy thuốc, mà cô bị trúng đạn, chết trên tay tôi. Tôi viết bài "Giang biên hoa lạc" gây xúc động mạnh cho độc giả Hương-cảng và giới Hoa-kiều tại VN. Sau tôi có dịch bài này sang tiếng Việt với tên là "Hoa rơi bên bờ kinh Tắc-vân". Tôi gửi bài này dự thi giải kư sự chiến trường của Cục Tâm-lư chiến năm 1967. Bài của tôi được giải nh́. Giải nhất về Trang-Châu cũng là một bài kư sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo  nói với tôi "Về nội dung, bài của cháu với Trang-Châu cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi trẻ quên ḿnh cho quê hương. Nhưng bài của Trang-Châu trung thực, c̣n bài của cháu th́ ướt át quá, thê thảm quá, dù rằng đó là sự thực".

Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết về Hồ Ngọc-Cẩn, trong bài " Ngũ hổ U-minh thượng ", kể chuyện năm tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái, tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là :

Đai-úy Hồ Ngọc-Cẩn, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/33,
Thiếu-tá  Lưu Trọng-Kiệt tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 42 BĐQ.
Thiếu-tá Nguyễn Văn-Huy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 44 BĐQ,
Thiếu-tá Lê Văn-Hưng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/31.
Đại-úy Vương Văn-Trổ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/33.

Ghi chú
Tôi xếp theo thứ tự abc. Trong năm người th́ Kiệt tuẫn quốc năm 1967. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hưng tự tử, Cẩn bị xử bắn. C̣n Trổ, sau lên đại tá lĩnh tỉnh trưởng Kiên-giang, hiện định cư tại Houston, bang Texas, Hoa-kỳ. C̣n Huy tôi không biết sau ra sao?

Ngày19 tháng 4 năm 1966, tôi tới phi trường Vĩnh-lợi bằng phi cơ Caribou của quân đội Hoa-kỳ. Người đón tôi là thiếu tá Raider, của cố vấn đoàn 42. Tại bản doanh của cố vấn đoàn 42, đại tá cố vấn trưởng Hathaway không biết ǵ về chủ đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng tôi là tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm kư giả. Ông cho tôi biết t́nh h́nh địch rất chi tiết. Về t́nh h́nh quân đội VN tại năm tỉnh tận cùng của đất nước, ông nói:

_ "Khu 42 chiến thuật, do sư đoàn 21, thuộc quân đoàn 4 trấn nhậm. Sư đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung đoàn 31 đóng tại Chương-thiện. Trung-đoàn 32 đóng tại Cà-mau. Trung-đoàn 33 đóng tại Ba-xuyên. Ngoài ra c̣n có hai tiểu đoàn Biệt-động quân mang số 42 và 44. Tiểu đoàn 42 đóng tại Bặc-liêu, tiểu đoàn 44 đóng tại Ba-xuyên".

Ông ca tụng quân đội VN như sau:

"Lương bổng cho người lính VN, chỉ gọi là tạm đủ ăn. Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử. Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua những cái đó".

Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi được gửi theo tiểu đoàn 42 Biệt-động quân. Tiểu đoàn trưởng là thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt, tiểu đoàn phó là trung-úy Hồ Ngọc-Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối với  cố vấn đoàn th́ tôi là kư giả. C̣n Kiệt với  Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ  t́nh nguyện ra mặt trận. Tiểu đoàn được đặt làm trừ bị tại phi trường Vĩnh-lợi, từ bẩy giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhảy, th́ tiểu đoàn sẽ nhảy làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm đại đội 1, 2 do Hồ Ngọc-Cẩn chỉ huy. Cánh thứ nh́ gồm đại đội 3 và đại đội chỉ huy, do thiếu tá Lưu Trọng-Kiệt chỉ huy. Tôi với Kiệt, Cẩn ngang ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập vơ, coi trời bằng vung, lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ dàng. Đại-úy cố vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi:

_ Lần đầu tiên ra trận, "sơ" có sợ không ?
Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch sử Việt-Nam:
_ Tráng sĩ khi ra trận, không chết th́ cũng bị thương. Nếu sợ chết th́ đừng ra trận.
Cẩn hỏi tôi đă học quân sự chưa? Tôi đáp:
_ Kiến thức về quân sự của tôi chỉ bằng phó binh nh́ thôi. Nhưng cũng biết ḅ, biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh nhau bằng súng th́ tôi dở ẹc, nhưng đánh cận chiến th́ tôi có hạng, v́ tôi là ông thầy dạy vơ.
Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ khen tôi:
_ Ông bác sĩ này ngon thực!
Tôi hỏi  Kiệt :
_ Trong hai cánh, th́ cánh nào có hy vọng được đánh nhau nhiều hơn ?
Kiệt chỉ Cẩn :
_ Anh cứ nhảy theo thằng này, th́ sẽ toại nguyện. Tha hồ mà hành nghề.

Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải phẫu dă chiến. Khoảng mười giờ th́ có lệnh: Một đơn vị địa phương quân chạm địch tại Vĩnh-châu. Địch là tiểu đoàn Cơ-động Sóc-trăng. Tiểu đoàn phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch. Địa điểm nhảy là một khu đồng lầy.

Sau khi Kiệt họp các sĩ quan, tóm lược vắn tắt nhiệm vụ, t́nh h́nh trong mười phút. Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại đội đă lên trực thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng bẩy phút, th́ Cẩn chỉ vào khu làng mạc trước mặt:

_ Ḱa, chỗ chúng ḿnh đáp ḱa.

Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái hơn hai trăm người từ trực thăng lao ra. Một cảnh tượng, mà không bao giờ tôi quên: Những người lính dàn ra thành một hàng ngang. Họ núp vào cái những cái bờ ruộng, mô đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nh́n về trước. Đó là một làng, lưa thưa mấy ngôi nhà tranh, ẩn hiện dưới những cây dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy, vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nh́n một lượt, các sĩ quan, người th́ nằm, người th́ quỳ, cũng có người đứng.

Từ lúc nhảy xuống, Cẩn không hề nằm, quỳ, mà đứng quan sát trận ḿnh, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ sấm, hai là tự tin vào số Tử-vi của ḿnh thọ, tôi cũng đứng.

Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nh́ đă nhảy xuống trận địa. Trận vừa dàn xong, th́ sĩ quan đề lô xin pháo binh nă vào những chỗ có ổ moọc-chiê, trung liên, đại liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn, vừa xung phong vào trong làng. Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước, bụi, nước bắn tung.

Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách b́a làng không đầy năm mươi thước, th́ súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài ra sau cái bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan pháo binh trúng đạn lật ngươc. Tôi chạy lại cấp cứu, th́ không kịp, viên đạn xuyên qua sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu. Trực thăng vơ trang được gọi đến. Cố  vấn Mỹ báo về trung tâm hành quân. Cố vấn tại trung tâm hành quân ra lệnh cho phi công trực thăng nă xuống địa điểm có địch quân.

Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất. Cẩn không thực tiếp cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại đội, trung đội qua hiệu thính viên.

Sau khi trực thăng vơ trang nă ba loạt rocket, đại liên, th́ lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi người người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau, tiếng súng im hẳn.

Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh bị  thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y viện. C̣n như bị thương nhẹ th́ được điều trị tại chỗ. Tôi ngạc nhiên vô cùng, khi thấy những binh sĩ bị thương khá nặng, nghe tôi nói rằng: Nếu họ muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương đó cho họ, mà không phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện, xin ở lại để tôi giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc trong hơn giờ mới xong. Tôi hỏi Cẩn:

_ Tôi tưởng, thương binh được về quân y viện chữa trị, nghỉ ngơi, th́ là điều họ mong muốn mới phải. Tại sao họ muốn ở lại?

_ Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống với nhau, kề cận cái chết với nhau, th́ xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy chúng nó bị thương như vậy đấy, lát nữa anh sẽ thấy chúng chống gậy đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn.

Tôi đi một ṿng thăm trận địa. Hơn hai trăm xác chết, mặc áo bà ba đen, quần đùi. Những xác chết đó, gương mặt c̣n non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến 20, cái th́ nằm vắt vẻo trên bờ kinh, cái th́ bị cháy đen, cái th́ mất đầu. Cũng có cái nằm chết trong hầm. Không biết, trong khi họ phơi xác ở đây, th́ cha mẹ, anh em, vợ con họ có biết không?

Sau trận đó th́ Cẩn được thăng cấp đại úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt  tiểu đoàn 42 BĐQ đi làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 (Sư đoàn 21). Việc đầu tiên của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư đoàn cho tất cả các sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường TSQ về chiến đấu cùng với ḿnh. Cẩn đă được thỏa măn một phần yêu cầu. Tôi hỏi Cẩn:

_ Anh đem các cựu TSQ về, với mục đích ǵ ?

_ Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà chúng no lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những ǵ mà tại quân trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết th́ chết chứ không lùi, v́ vậy cần phải có một số người giống ḿnh, th́ đánh nhau mới đă. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả.

Suốt năm 1967, Cẩn với tiểu đoàn 1/33 tung hoành trên khắp lănh thổ năm tỉnh Hậu-giang, khi Đại-ngăi, khi Tắc-vân, khi Kiên-hưng, khi Thác-lác, khi Cờ-đỏ. Sau trận tổng công kích Mậu-Thân, Cẩn được thăng thiếu tá. Năm 1968, Cẩn là người có nhiều huy chương nhất quân đội. Thời gian này tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên tôi đọc rất kỹ Lục-thao, Tam-lược, Tôn-Ngô binh pháp, cùng binh pháp của các danh tướng Đức, Pháp, nhất là của các tướng Hồng-quân. Tôi dùng kiến thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng không hề được học tại trường sĩ quan, những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy, cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lư thuyết trong thư tịch cổ?

Năm 1970, Cẩn thăng trung tá, rời tiểu đoan 1/33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9. Năm 1972, Cẩn được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An-lộc. Cuối năm 1973, Cẩn được trở về chiến trường śnh lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng Chương-thiện. Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa hè năm 1974 tại Chương-thiện. Tôi hỏi Cẩn:

_ Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không?
_ Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua, gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Ḿnh phải biết liêm sỉ chứ? Coi sư đoàn sao được.
_ Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm ǵ ?
_ Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường TSQ, hoặc coi các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh, mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại. Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là ǵ ?
_ " Cẩm nang của các đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống du kích taị vùng đồng lầy". Nhưng liệu bộ Quốc-pḥng có cho phép in hay không?
_ Không cho in th́ ḿnh cũng cứ thuật, rồi đem giảng dạy,  ai cấm được?

Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng của tôi với Cẩn.
Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức của Cẩn. Măi năm 1976, tôi được tin: Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi tên tướng mặt bánh đúc Dương Văn-Minh ra lệnh đầu hàng. Cẩn chống lại lệnh đó. Các đơn vị Cộng-quân tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương-thiện, th́ gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cẩn bị bắt, rồi bị đem ra xử tử.

Ghi chú.

Tại Sài-g̣n 9  giờ bẩy phút, tiếng súng kháng cự tại các đơn vị dù chấm dứt. Tại bộ chỉ huy tiểu khu Chương-thiện kéo dài tới 15 giờ. Trong khi đó, tiếng súng kháng cự của các Thiếu-sinh-quân c̣n kéo dài tới 19 giờ bốn mươi lăm phút tại Vũng-tầu. Nếu tôi không lầm th́ các TSQVN là những người chiến đấu cuối cùng của miền Nam.

Cuộc xử Cẩn do hai nhân chứng thuật lại:

Một là Trung-tá Bùi Văn Địch (Hiện sống ở Berlin, Đức), xuất thân trường Thiếu-sinh-quân Hà-nội, sau di vào Mỹ-tho. Trung-tá Địch đă sống với Cẩn 2 năm tại trường Thiếu-sinh-quân Mỹ-tho. Thời gian 1972, cả hai từng cùng phục vụ tại sư đoàn 9 bộ binh.

Hai là phu nhân của Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, nhũ danh Vũ-thị Quỳnh-Chi (Hiện sống ở Marseille), em ruột của cựu Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang. Quang là người nạp đạn cho Cẩn xử dụng khẩu đại liên 30, bắn đến viên đạn cuối cùng trong công sự chiến đấu tiểu khu Chương-thiện. (Xin xem bài Cái bóng của Hoài-văn vương Trần Quốc Toản trong sách này). Bà Bodoret chứng kiến tận mắt hai cuộc xử án Cẩn.

Cuộc xử án như sau:

Ngay khi Cẩn bị bắt, người ta để Cẩn lên một chiếc xe mui trần, chở đi khắp thành phố Chương-thiện cho dân chúng xem chiến lợi phẩm. Ngồi trên xe, Cẩn thản nhiên mỉm cười, vẫy tay chào dân chúng. Cái gọi là Ṭa án nhân dân được lập ngay trước ṭa hành chánh. Sau khi quan ṭa kết tội Cẩn bằng những từ ngữ hiếm hoi thấy trong các đạo luật trên thế giới. Người ta kêu gọi dân chúng, ai là nạn nhân của Cẩn th́ đứng lên tố cáo, rồi muốn đánh, muốn chửi tùy thích. Nhưng chỉ có vài cán bộ nội thành tố cáo Cẩn là ác ôn có nợ máu. Dân chúng không có ai lên tiếng cả. Người ta hỏi: Những ai đồng ư xử tử Cẩn th́ dơ tay lên! Lại cũng chẳng có ai dơ tay. Thế là cuộc xử án ngừng lại.

Rồi, ba tuần sau, cuộc xử án Cẩn lại diễn ra ở sân vận động thể thao Cần-thơ. Lần này người ta chuẩn bị kỹ hơn, người ta cho tụi ḅ-vàng xen lẫn với dân chúng. Cũng bản cũ soạn lại, nhưng người ta khôn khéo hơn, người ta không hỏi xem Cẩn đă nợ máu với ai, th́ hăy ra mà xỉ vả, đánh đập. Người ta chỉ hỏi: Ai đồng ư xử tử Cẩn th́ dơ tay. Ḅ vàng dơ tay, một số dân chúng dơ tay. Số đông vẫn cứng đầu, không dơ tay.

Người ta hỏi Cẩn có nhận những tội mà ṭa án nêu ra không?  Cẩn cười nhạt:

"  Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt".

Rồi Cẩn hô:

" Đả đảo Cộng-sản. Việt-Nam muôn năm"

Sau khi Cẩn bị bắn chết, dân chúng hiện diện khóc như mưa như gió. Trời tháng năm, đang nắng chói chang, tự nhiên sấm chớp nổ rung động không gian, rồi một trận mưa như trút xuống.

Nắng mưa là hiện tượng b́nh thường của trời đất. Nhưng dân chúng Cần-thơ th́ cho rằng, trời khóc thương cho người anh hùng, gặp cơn sóng gió của đất nước.

Khi tôi gặp Cẩn, th́ tôi chưa khởi công viết lịch sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các cựu TSQ quanh Cẩn, in vào tâm năo tôi rất sâu, rất đẹp. V́ vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết, th́ bao giờ tôi cũng khơỉ đầu bằng thời thơ ấu của những nhân vật chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận chỉ tiến lên hoặc chết, chứ không lùi.

Có rất nhiều người đặt câu hỏi: Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực. Cẩn chỉ học đến đệ lục, tôi được học ở nhà, ở trường đến tŕnh độ cao nhất. Cẩn là người Nam, tôi là người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư sĩ Phật-giáo. Tôi th́ sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn th́ lăn lộn với thực tế. Tôi không biết uống rượu, Cẩn th́ nổi danh tửu lượng cao nhất sư đoàn 21 bộ binh. Tôi thấy người đẹp là chân tay run lẩy bẩy, Cẩn th́ rửng rưng. Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến độ giăi bầy cho nhau tất cả những tâm sự thầm kín nhất, không một người thứ nh́ biết được. Tại sao? Cho đến nay, tôi mới trả lời được rằng: Cẩn cũng như những người quanh Cẩn, là những h́nh bóng thực, rất quen thuộc mà trước kia tôi chỉ thấy trong lịch sử. Nay được gặp trong thực tế.

Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ trưa, ngày 30 tháng tư, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ đốt nến, đặt hoa dưới tượng đức mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành trong ṿng tay người.

Tôi lược thuật về cuộc đời Cẩn mà không phê b́nh, v́ Cẩn là bạn thân của tôi. Vả tôi không đủ ngôn từ đẹp đẽ để tặng Cận.

Viết tại Paris ngày 30 tháng tư năm 1996


Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ.

Bị chú:

Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, trong trận đánh vào mật khu Thất Sơn, mặc dù bị thương nặng (3 viên đạn vào bụng), nhưng ông vẫn tiếp tục đưa quân vào. trước đó TĐ43 đă bị Không quân Thả bom Napal lầm đa số bị thương phải rút ra bên ngoài. nhưng ông Tướng chỉ huy (bay trên trực thăng không biết, không thấy và không nghe những tiếng rên xiết của binh sĩ (Ông tướng NVM này hiện đang ở Hoa Kỳ chúng tôi không muốn nhắc lại chuyện cũ, nhưng cái chết của Lưu Trọng Kiệt chính là cái lệnh xuẩn động này. V́

tự ái của người lính BĐQ Kiệt đă lao trở lại chiến trường thay v́ chờ trực thăng về quân y viện và anh đă hi sinh. Rất nhiều binh sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan đă khóc nức nở bên xác Kiệt. Ông tướng đứng lặng người và sau đó cũng rời vùng 4 để nhận một chức vụ cao hơn lỗi lầm của ḿnh.

Cố Thiếu Tướng Lê văn Hưng, người hùng của An Lộc và đă sát cánh với BĐQ trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa. Trang BDQVN cũng hân hạnh giới thiệu bài viết về Thiếu Tướng Lê Văn Hưng cũng trong trang Vị Quốc Vong Thân này.

Đại tá Nguyễn Văn Huy bị đi tù sau 1975 hiện cư ngụ tại Westminster, California. Cựu Đại tá Huy là sĩ quan đầu tiên của khóa 16/VBĐL được đeo lon Đại tá. Ông người ốm

nhỏ con, nhưng đánh giặc rất ch́, nổi danh sử dụng Trực Thăng Vận rất hiệu quảvà lối đánh thần tốc. Sau là Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 1 BĐQ. Chức vụ cuối cùng của ông

cũng là Tỉnh trưởng tại miền Tây (Chúng tôi không nhớ rơ). (3) Tại Saigon 10 giờ bẩy phút, tiếng súng kháng cự tại các đơn vị Dù chấm dứt. Tại Bộ chỉ huy Chương Thiện

kéo dài tới 15 giờ. Trong khi đó, tiếng súng kháng cự của các TSQ vẫn c̣n kéo dài tới 19 giờ 45 phút tại Vũng Tầu. Nếu tôi không lầm th́ các TSQ là những người chiến đấu cuối cùng của miền Nam. (Trích VNTP)