Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cái chết trong tù CS của Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát

 

 

Nguyễn Tú

 

 

Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Pḥng, lần cuối cùng giữ  chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Ḥa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ  nhiệm tuần báo Diễn Đàn, Sài g̣n, 1972. Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí  Ḥa. Bài dưới đây do kư giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đă sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Ḥa), kể lại “như một nén hương chiêu niệm chung”.

 

Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ  Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đ́nh tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở pḥng bên, có  thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 tháng Tư 1979.

 

Tang gia đă được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở  đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay, v́ ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc tới Sài G̣n; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế - nếu biết  đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu  Thủ Tướng Miền Nam - có thể ngó tới t́nh trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông - bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác - của nhà cầm quyền Hà Nội.

 

Chí Ḥa, Sài G̣n Một Ngày Cuối Tháng Tư 1979

 

Hôm nay đến lượt bốn pḥng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và ṿ  vội quần áo đă tích trữ kha khá mồ  hôi, đất ghét, th́ trước cái hạnh phúc nhỏ  nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà  không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lư thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ c̣n vỏn vẹn 15 phút.

 

Cả bốn pḥng đă lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ  bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.

 

Kiểm tra xong số  người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của  đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân  đă bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!

 

Buồng 5 chúng tôi  ở đầu dăy, sát với đầu cầu thang, nơi  đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi  đứng dậy, nh́n về phía đầu cầu thang chỉ  cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn pḥng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù  tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự  giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.

 

Căn pḥng chỉ  c̣n lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Đó là khoảng không gian đă  được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đă cải cho cái danh từ mỹ miều là  "trại viên" Người đồng pḥng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt b́nh thản. Ông bị  bệnh đă hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt  đă chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của cḥm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân h́nh như đă quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đă từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Ḥa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đă trên 70 tuổi.

 

Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dơng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả  nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có  cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Đôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Đôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải v́ cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đă hơn một tuần - một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế - mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái ǵ có vẻ nghịch lư đến độ vừa đau đớn vừa dũng mănh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.

 

Tôi khẽ  lên tiếng: "Anh Quát! Anh Quát!"

 

Không một phản  ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: "Anh Quát! Anh Quát!" Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ư ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.

 

Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng "phản  động" nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED v́ chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự  "đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy." Một buồng "ngụy nặng" nên  được Việt Cộng tận t́nh "chiếu cố" trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, c̣n phải kể tới một vài tên "ăng ten" tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dơi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: "Anh Quát! Anh Quát!"

 

Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng ḿnh, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố  nói thật rành rẽ: "Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?" Lần này đôi mi bệnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy ḷng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: "Anh Tú!" Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: "Anh mệt lắm phải không?" Đầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: "Anh có nhắn ǵ về gia đ́nh không?" Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không c̣n tiếng sối nước nữa. 

 

 Có tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số  lại trước khi lên buồng. Chỉ c̣n độ hơn một phút. May lắm th́ hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: "Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!" Đôi môi bệnh nhân như mấp máy.

 

Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở  kḥ khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đă dẹp hơi đến chín phần mười: "Thôi! Anh Tú  ạ." Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn  ào đă bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông: "Nói đi! Anh Quát! Nói đi!" Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! "Thôi! Thôi! Bỏ đi!" Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đă tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu ḿnh, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.

 

Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đă chọc được pḥng tuyến địch, họ ùa vào pḥng, đứng lố nhố  nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. 

Căn pḥng như  bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đă về được chiếu ḿnh. Khói thuốc lá  bắt đầu tỏa. Đây đó tiếng rít của vài b́nh thuốc lào nổi lên ṣng sọc. Bây giờ th́ mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đă ngả lưng trên chiếu. Cả pḥng lặng tiếng.

 

Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: "Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh t́nh hôm nay ra sao?" 

 

Bác Sĩ  Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn pḥng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái ǵ  đă như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ư chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng ǵ, hay không c̣n muốn phản ứng ǵ dù chỉ là một phác họa - trước cảnh huống bên ngoài? Một h́nh ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức th́ một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai tṛ một tấm khăn liệm.

 

Bác Sĩ  Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ  xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!”. Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy c̣n trẻ, tóc Phương đă trắng xóa, có  lẽ v́ “xấu máu”. Anh em bèn dán cho cái nhăn hiệu “Phương đầu bạc”. Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đă mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ  Châm: “Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!” Ông Châm bèn bảo: "Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!" Phương không đáp, lộ rơ vẻ ngần ngại. Trong pḥng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: "Báo cáo đi! Chờ ǵ nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, c̣n chờ ǵ nữa? Chờ người ta chết à?" Căn pḥng đang im ắng, sống động hẳn lên.

 

Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nh́n về phía Phương. Đang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi pḥng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá  lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: "Đâu?" Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: "Đây, cán bộ!" Nh́n một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu ḿnh. Những anh em khác lại  đặt ḿnh nằm. Căn pḥng ch́m trong im lặng hoàn toàn như  thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử  của trại.

 

Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ  khác, chắc là ở bệnh xá. Căn pḥng lại náo  động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của ḿnh.

 

Phương “đầu bạc” dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ  Quát. Bệnh nhân như mê man, tự ḿnh không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong pḥng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài  đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải  đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén... Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! “Lấy cơm!”. Căn pḥng trở  lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.

 

Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em th́ thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát chết rồi!” Cả pḥng nhao nhao: “Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?” Một anh đáp: “Nghe nói, hồi trưa hôm qua th́ phải.”

 

Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm  đă lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó  ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong pḥng thốt một câu: “Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Đợi gần chết mới cho th́  c̣n ǵ!”. Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đă nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn pḥng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn c̣n nói với: “Nhớ làm bản kê khai, nghe không!”. Đối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ “trại viên” nào.

 

Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.

 

Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đă được gỡ đi theo giỏ  đồ c̣n lại của ông xuống văn pḥng khu. Chỗ  nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đă xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và  uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế  hệ tù chính trị mà ông đă là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, th́ mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên c̣n hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rơ ràng của Bác Sĩ Quát c̣n là đề tài bàn tán của nhiều người trong pḥng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn”. Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc th́ có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.

Năm 1979 vẫn c̣n nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng”. Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, th́ về mặt dân t́nh và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đă nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài g̣n, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau “đại thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đă làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lănh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đă bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và  ảnh hưởng của vụ ấy vẫn c̣n kéo dài măi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rơ  ràng, nhiều người trong pḥng có cảm giác "ăng ten," tức chỉ điểm viên, đă được tăng cường. 

 

Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng "dư" lư lẽ để đối xử  với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ  Quát đă lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt  đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được  ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần  đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố  giặt quần áo hay một vài việc vặt vănh cũng không bao giờ được phép. C̣n nói chuyện với nhau th́  tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam.

 

Việc thăm nuôi của gia đ́nh cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà  c̣n hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ c̣n có  thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị  từ chối và bị theo dơi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và  đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lănh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bă  của Huy Anh kín đáo nh́n qua song sắt tới chỗ  bố đang nằm lịm. Tôi c̣n nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép  đứng ngoài cửa nh́n vọng vào. Thuốc th́ do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần "nh́n thăm" thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nh́n bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát. 

 

Hôm Bác Sĩ Quát  được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nh́n bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ  và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đă trở thành một thứ  siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin ǵ thêm ngoài việc tang lễ đă xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt”. Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều ǵ liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những ǵ Huy Anh đă nh́n được, nghe được ở xă hội Sài G̣n bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng ḱm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đă chết, không c̣n là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không c̣n cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.

 

Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đă được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm  ông v́ tư cách đứng đắn và lương tâm nghề  nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đă chọn ông làm bác sĩ gia đ́nh của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy.

 

Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Đế Bảo Đại thời đó  đă được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Đế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ  thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Đại đă kư hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 tháng3 năm 1949. Trong chính phủ  đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo  Đại lănh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư  cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó  ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Pḥng. Từ giữa năm 1953 trở đi, t́nh h́nh cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 7 tháng 5 năm 1954 ở Điện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị  Genève về Đông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp  Định Genève được kư kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 tháng Bảy 1954.

 

Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Đại phong ông Ngô Đ́nh Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 tháng Bảy 1954, ông Diệm về nước. Được ủy toàn quyền lănh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Pḥng.

 

Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một pḥng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm  ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: Ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về  lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và  độc đoán của gia đ́nh họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đă công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và  đ̣i chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 1/11 năm 1963 do một số tướng lănh Việt Nam Cộng Ḥa lănh đạo chấm dứt chế độ Ngô Đ́nh Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là  Ngô Đ́nh Nhu và Ngô Đ́nh Cẩn. Đại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ  cầm quyền mới được ba tháng th́ bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lư  ngày 30 tháng Giêng 1964. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng tháng Chín, 1964 rồi lại trở về pḥng mạch.

 

Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng th́ ông trao quyền lại cho Hội Đồng Quân Lực v́ những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và  Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp  điều khiển pḥng thí nghiệm y khoa của ông ở  đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị  của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài G̣n thất thủ 30 tháng Tư 1975.

 

Nhưng ngày kết liễu nền Đệ Nhị Cộng Ḥa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm  đă quen và chỉ quen hoạt động chính trị  theo lối “chính quy”, trong “đường lối chính quy”. Và con người thận trọng trong ông đă lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa h́nh phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa h́nh của trận địa hoạt động bí mật, mà v́ tính chất của riêng nó,  đ̣i hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho h́nh thái hoạt động bí mật nó có  những điều luật, những nguyên tắc đặc thù  của riêng nó. Điều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đ̣i hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà  trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đă chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đă gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.

 

Sau ngày Sàig̣n thất thủ 30 tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp “lời mời” ra tŕnh diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền h́nh và  báo chí của chúng cho tất cả “ngụy quân, ngụy quyền”. Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đă dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc  đời “du mục” trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn “trụ” hẳn một nơi.

 

Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.

 

Những ai đă sống ở Saigon sau ngày 30 tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả  tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ  bề ngoài v́ chiến tranh đă chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người th́ chọn lối âm thần sống ẩn, người th́ mặc, muốn ra sao th́ ra, cứ sống “tự nhiên cái  đă”. Nhưng đại đa số th́ tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đă vĩnh viễn phủi tay. Một số khác th́ tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Đă manh nha những sự thăm ḍ, móc nối nhau, t́m ngơ ngách trong hai lănh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nh́ chống Cộng.

 

Hai lănh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi t́m  đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, t́m đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lănh vực này đều bị lôi cuốn vào cái ṿng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ  sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng t́nh quê hương. Nhưng gia đ́nh ông 14 người, mặc nhiên là một  áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc  ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài t́nh quê hương ông cũng nặng t́nh gia đ́nh không kém.

 

Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đă ra lệnh cho ông Đại sứ của ḿnh ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Đài Bắc trú ngụ nếu như  phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ  Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và  nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát c̣n ở Saigon, ngày 28 tháng Tư 1975 đă liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà  qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quư hóa ấy nếu tất cả  gia đ́nh ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ  ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ư muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Điểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 tháng Tư  1975, t́nh h́nh căng thẳng tột độ, chính phủ  Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Pḥng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở  người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đ́nh.

 

Như đă nói, ông nặng t́nh gia đ́nh, không muốn gia đ́nh bị khổ  trong ṿng ḱm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đ́nh sống một nơi an toàn. Đồng thời ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” v́ ông cũng rất nặng t́nh quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu  đi th́ cả nhà cùng đi. Nếu ở lại th́ cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đ́nh, Bác Sĩ Quát ư  thức rất rơ hai mối t́nh song hành kia, t́nh gia đ́nh và t́nh quê hương, đất nước, khó mà  dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đă chọn.

 

Ông bằng ḷng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm ḍ đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đ́nh ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ư về đề nghị thứ hai của Liên. C̣n về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Đôi bên đồng thuận. Gia đ́nh Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đă bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Ḥa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đă cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ măi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Được mấy tháng, v́ t́nh trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở pḥng tập thể với các con cháu. Được hơn một năm, có lẽ v́ xét thấy gia đ́nh bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được ǵ, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể c̣n bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.

 

Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh th́ được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một  điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Ḥa th́ đă có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đă quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết ḿnh bị lừa.

 

Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Vơ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đă đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đă vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt.

 

Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ư  niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đă kết thúc vào trưa ngày 27 tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.

 

Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đă vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng ḱm Việt Cộng.

 

Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)

 

Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về pḥng 1, gác 1, khu BC. Ba pḥng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng pḥng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè  ở các pḥng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ  Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc  đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là  một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ư hay soi mói quá đáng. “Ăng ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đă tóm lược cho tôi nghe cuộc “phiêu lưu” của ông và gia đ́nh. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ  tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Vơ Tánh. Ông kể: “Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những ǵ tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lănh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở  mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ  thị và mệnh lệnh của tôi. Một ḿnh tôi trách nhiệm”.

 

Chúng không bằng ḷng, bắt tôi viết lại.

 

Tôi viết y như  trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ tṛ áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú  thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ  đă nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ  tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ  viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số  nhận định về thời cuộc, đưa ra một số  đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự  khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi."

 

Tôi hỏi Bác Sĩ  Quát: "Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? - Tôi ngờ  lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rơ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà  Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết."

 

Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau.

 

Trong buồng có  một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể  nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ  một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc”? Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng b́nh thản: “Tôi đă có  nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ măi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng”. Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả  lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ  như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời  đó v́ họ cười ha hả.

 

Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang pḥng 5, gác 1, khu ED. Được vài hôm, pḥng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát th́ tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ  Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Ḥa. Trong pḥng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự  nhiên, không tỏ vẻ ǵ khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rơ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở  Chí Ḥa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.

 

Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của ḿnh. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số  phận của ḿnh hay của gia đ́nh về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đă tịch thu toàn bộ chỉ  để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ư công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ  cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ ǵ kiêu kỳ, của một người đă từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.

 

Ông biết ḥa ḿnh một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Ḥa đủ để được xứng đáng nhăn hiệu “tên phản bội, tên lừa bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự ḿnh phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: “Thôi! Bỏ  đi!” để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết v́ ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu ḷng của Huy Anh, mới ba tháng đă “được” Việt cộng bỏ tù v́ bố mẹ và đang thiếu sữa.

 

Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ găy được ư chí đối kháng thầm lặng của ông th́ gia đ́nh ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những ǵ là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đă đứng được đầu gió. V́ ông đă cứng.

 

Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ư nghĩa lớn lao nhất, có  ích cho quốc dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất v́ trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến tiền  đồ tổ quốc, là ông đă giành được chủ  quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc  Trưởng Bảo Đại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do ḷng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Đại học Y khoa Hà Nội. Ông đă thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đă đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo tŕnh, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đă lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học tŕnh. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đă được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát”. Tên tuổi ông đă gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lănh vực giáo dục nó là ch́a khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc

 

Thành công nào có  thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?

 

Một pḥng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài ṿng rào trại giam Chí Ḥa đă được quét dọn khá tươm tất. Giữa pḥng, một tấm ván gỗ  khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một h́nh người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rơ  dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.

 

Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Ḥa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn pḥng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn pḥng như muốn thét lên mà bị nghẹn.

 

Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Đến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đă trở  thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 tháng Tư 1979.

 

T́m hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư kư Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về  quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “anh hùng nhất mực” và “ra ngơ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ! Sợ từ  đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó  vào tù với mẹ nó cho chắc! Sợ từ  cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư kư  Liên Hiệp Quốc th́ rầy rà to.

 

Đám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận t́nh giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.

 

Sau tang lễ đơn sơ, c̣n sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lư  do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo cùng viêm gan siêu vi trùng”. Hồ  sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn. Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc: “Anh nằm đây Bạn bè anh cũng nằm đây...”. Gọi là một chút để ấm ḷng người đă khuất.                                                           

 

Nguyễn T

 

 

 

 


 


 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: