at Capitol. June 19.1996
with Sen. JohnMc Cain
with Congressman Bob Barr
with General John K Singlaub
CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài G̣n Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.
CaliToday .NVR .Phê B́nh . TriThucVN
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xă Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài G̣n .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .B́nh Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU
CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS
BIÊTKÍCH -STATENATION - LƯUTRỮ -VIDEO/TV
DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢO CỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO - VĂNHỌC - MỤCLỤC-POPULATION - WBANK - BNG ARCHIVES - POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION
VẤN ĐỀ - LÀMSAO - USFACT- POP - FDA EXPRESS. LAWFARE .WATCHDOG- THỜI THẾ - EIR.
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
ADVERTISEMENT
Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic
https://www.intelligencesquaredus.org/
Space - NASA - Space News - Nasa Flight - Children Defense
Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam.US History
with Ross Perot, Billionaire
with General Micheal Ryan
US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS .TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC- COVERTACTION
EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS - AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR
POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTO -CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEE- TASS- DAWN
NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM
SỰ THẬT VƠ NGUYÊN GIÁP
Bùi Anh Trinh
THÁNG NĂM 29, 2015
Tôi đă nghiên cứu quyển hồi kư “Đường tới Điện Biên Phủ” của
Đại tướng Vơ Nguyên Giáp và từ hồi kư này tôi đă chứng minh được
rằng trong suốt cuộc chiến chống Pháp ông VNG không có một trận
thắng nào, trái lại toàn là thua nặng ( 8 trận ). Tôi cũng đă nghiên
cứu quyển hồi kư “Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử” của VNG và chứng
minh được rằng trận Điện Biên Phủ do Vi Quốc Thanh chỉ huy và riêng
Tướng Giáp đă đại bại trong trận Tổng tấn công Cứ điểm Điện Biên Phủ
sau khi nướng hết 23 ngàn quân trong tổng số 33 ngàn quân.
Sau đó Vi quốc Thanh đă quyết định đánh tiếp một trận Điện
Biên Phủ thứ hai với 25 ngàn quân khác và chiến thắng.
Tôi lại cũng nghiên cứu quyển hồi kư “Tổng hành dinh trong mùa
xuân toàn thắng” của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp và chứng minh đựợc
rằng trong suốt cuộc chiến chống Mỹ th́ Vơ Đại tướng đứng ở bên lề
chứ không được dự bàn hay tham gia điều động quân đội. Tôi thấy
những người làm văn hóa Việt Nam tại Hoa Kỳ nên mở một chiến dịch
đ̣i hỏi các trường đại học Hoa Kỳ phải sửa lại các sách vở đang được
dùng để giảng dạy về chiến tranh Việt Nam cho đúng với thực tế.
Nghĩa là Mỹ thua tại Việt Nam không phải v́ ông Vơ Nguyên
Giáp quá giỏi. Để cho
con em của ḿnh muốn t́m hiểu về cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam
có một cái nh́n đúng đắn hơn.
Tôi cũng nghĩ rằng chiến dịch này phải được đồng phát động
trong dịp VNG qua đời, chắc chắn ngày đó người ta mới chịu cùng nhau
đánh giá lại sư nghiệp của ông ta. Vấn đề là những người làm văn hóa
Việt Nam phải hẹn nhau cùng phát động hạ bệ thần tượng Vơ Nguyên
Giáp cùng một lúc, chứ tôi e rằng ngày đó có người v́ không cập nhật
kiến thức quân sử Việt Nam sẽ lên tiếng ca ngợi ông ta, xảy ra t́nh
trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược, con cháu ḿnh dễ rơi vào trận
hỏa mù không biết đường đâu mà lần.
ĐẠI TƯỚNG VƠ NGUYÊN GIÁP
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Nói đến chiến tranh Đông Dương th́ hầu như mọi người đều nghĩ
tới Đại tướng Vơ Nguyên Giáp, một Tổng tư lệnh quân đội mà chẳng qua
một trường lớp đào tạo quân sự nào. Việc này đă gây nhiều bàn tán
cũng như nhiều tranh căi giữa các nhà quân sự học với các sử gia.
Các nhà quân sự học cho rằng ông Vơ Nguyên Giáp không thể nào là một
thiên tài quân sự lỗi lạc như một số báo chí ca tụng bởi v́ trong
thời đại chiến tranh tân tiến với đủ loại vũ khí cơ giới, thiết bị
chiến tranh khoa học và phương tiên thông tin liên lạc hiện đại mà
không có tŕnh độ căn bản quân sự từ các trường vơ bị th́ không thể
nào trở thành một tướng chỉ huy quân đội chứ đừng nói là trở thành
thiên tài quân sự.
Trong khi đó các nhà báo lại cho rằng Đại tướng Vơ Nguyên Giáp
là do thiên tài bẩm sinh với bằng chứng là ông ta đă đánh thắng quân
đội Pháp với vũ khí và chiến thuật của thời đại Thế chiến thứ hai.
Cũng với con người đó, vũ khí đó, mà quân Pháp đă chiến thắng
các nhà quân sự lừng danh của Hitler nhưng lại thua tài điều binh
của Vơ Nguyên Giáp th́ đủ chứng minh rằng ông ta phải là một thiên
tài quân sự bẩm sinh.
Mọi sự đánh giá về khả năng quân sự của ông Giáp chỉ nổi lên
sau trận Cao Bằng năm 1950 và trận Điện Biên Phủ năm 1954. Toàn thể
nước Pháp sửng sờ với h́nh ảnh quân Pháp tháo chạy khỏi Cao Bằng,
Lạng Sơn; và h́nh ảnh một ông tướng của nước Pháp đă giơ hai tay đầu
hàng trước quân đội của Vơ Nguyên Giáp tại Điện Biên Phủ.
Trong khi đó th́ Đảng CSVN lại không muốn đánh bóng chiến
công của Vơ Nguyên Giáp;
và chính bản thân của ông ta cũng tỏ ra cực kỳ khiêm tốn, luôn luôn
nhấn mạnh rằng chiến công đó là của toàn quân và dân Việt Nam.
Tuy nhiên sau khi xảy ra chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt
Nam vào năm 1979 th́ ĐCS Trung Quốc cho bạch hóa các tài liệu mật
mới ḷi ra là cả hai trận Cao Bằng và Điện Biên Phủ đều không phải
do Vơ Nguyên Giáp chỉ huy.
V́ vậy Vơ Nguyên Giáp mới cho ra quyển hồi kư “Đường Tới Điện
Biên Phủ” để giải thích về các tài liệu do Trung Quốc công bố.
Rồi sau lại viết quyển “Điện Biên Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử”.
Nhờ hai tác phẩm này mà các sử gia có dịp đánh giá chính xác
khả năng quân sự của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp.
Truy nguyên xuất thân đời binh nghiệp của Vơ Nguyên Giáp th́
thuở nhỏ ông theo học tại trường Quốc Học Huế, chưa tới 20 tuổi ông
gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng do sự giới thiệu của giáo sư
Đặng Thái Mai, thời gian này ông cũng làm quen với một nữ đồng chí
là Nguyễn Thị Quang Thái, em ruột của Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn
Duy Trinh. Năm 20 tuổi,
ngày 25-11-1930, ông bị ṭa án Thừa Thiên tuyên án 2 năm tù về tội
tham gia biểu t́nh phản kháng bản án dành cho Nguyễn Thái Học.
Tuy nhiên chỉ 1 năm sau th́ ông được tha.
Ông ra Hà Nội theo học trường Lycée Albert Sarraut.
Sau khi đỗ bằng Tú Tài ông ghi tên theo học trường Luật Hà
Nội, cùng khóa với luật sư Trần Văn Tuyên, nhưng học tới năm thứ 3
th́ ông bỏ học, kết hôn với Nguyễn Thị Quang Thái và dạy môn Lịch sử
tại Trường Trung học tư thục Thăng Long.
V́ dạy học về môn Lịch sử cho nên ông Giáp nghiên cứu nhiều về
các trận chiến tranh nổi tiếng trên thế giới, ông có thể thuộc ḷng
các trận đánh của Napoléon cũng như các trận đánh thời Thế chiến thứ
nhất, ông nhớ từng chi tiết các trận đánh cũng như số quân và số
súng đại bác của từng trận đánh.
Nhờ mớ kiến thức này mà trong các cuộc bàn chuyện thời sự hay
chính trị với các chính trị gia Hà Nội ông trở nên một chuyên gia
quân sự nổi bật v́ các chính trị gia khác th́ không bao giờ nhớ được
Napoléon đánh những trận nào.
Nhà báo Vơ Nguyên Giáp
Năm ông 27 tuổi, 1937, Mặt trận B́nh dân bên Pháp lên cầm
quyền, cho nới rộng các quyền tự do cho các xứ thuộc địa, trong đó
có quyền tự do lập hội và tự do ra báo.
Ông Vơ Nguyên Giáp cùng ông Hoàng Minh Giám và một nhóm giáo
sư tại trường Thăng Long thành lập một tổ chức chính trị lấy tên là
Mặt trận Dân Chủ Bắc Kỳ, các ông cho ra tờ báo Notre Voix do Vơ
Nguyên Giáp làm chủ bút.
Biết Vơ Nguyên Giáp cần người viết báo, anh vợ của VNG là Nguyễn Duy
Trinh mới giới thiệu một người bạn tù của ông ta tên là
Phạm Văn Đồng. Ông
Đồng bị bắt cùng một vụ với ông Nguyễn Duy Trinh vào năm 1929 và
cùng đựơc tha vào năm 1936. Lúc bị bắt th́ ông Đồng là đảng viên của
Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng chí Hội và ông Trinh là đảng viên
của Tân Việt Cách mạng Đảng.
Notre Voix là một tuần báo viết bằng tiếng Pháp, số đầu tiên
ra ngày 15-1-1937, tuy nhiên chỉ được 2 tháng, báo ra được tới số
thứ 9 th́ đóng cửa v́ lư do lủng củng tài chính, số cuối cùng là
ngày 16-3-1937. Nguyễn Duy Trinh biết được Phạm Văn Đồng mất việc
bèn nhờ ông Đặng Thái Mai là thầy dạy học của Trinh và Giáp giới
thiệu Phạm Văn Đồng qua viết cho tờ Le Travaile của Đặng Xuân Khu
vào đầu tháng 4-1937.
Lúc đó ông Mai đang viết cho Le Travaile.
Le Travaile là một tờ tuần báo viết bằng tiếng Pháp, do Nguyễn
Thế Rục, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), thuộc CS Đệ Tam phối hợp với
Trần Đ́nh Long là một lănh tụ Cọng sản thuộc ĐCS Pháp;
Trần Huy Liệu, cựu đảng viên VQDĐ;
và Trịnh Văn Phú, thuộc CS Đệ Tứ; lập ra tại Hà Nội.
Số đầu tiên ra ngày 16-9-1936.
Nguyễn Thế Rục là 1 trong 5 người thuộc chi bộ Cọng sản đầu
tiên của Việt Nam được CSQT lập ra tại Mạc Tư Khoa vào năm 1928.
Trần Đ́nh Long là sinh viên du học tại Pháp, được ĐCS Pháp gởi sang
Mạc Tư Khoa theo học tại học viện Stalin, sau đó về Hà Nội sinh hoạt
trong chi bộ ĐCS Pháp.
Trịnh Văn Phú là một du học sinh tại Pháp, theo khuynh hướng Cọng
sản Đệ Tứ, bị trục xuất về nước sau vụ biểu t́nh tại Paris để phản
đối xử án Nguyễn Thái Học năm 1930.
Đặng Xuân Khu là một học sinh tham gia Đông Dương Cọng sản
Đảng của Ngô Gia Tự, bị bắt vào trại tù Sơn La mới theo học Nguyễn
Thế Rục là người cùng làng Hành Thiện tỉnh Nam Định .
Nhưng sau khi ông Phạm Văn Đồng sang viết cho tờ Le Travaile
vào đầu tháng 4 năm 1937 được nửa tháng th́ ngày 19-4-1937 tờ Le
Travaile bị đóng cửa do có sự chia tay giữa Cọng sản Đệ Tam và Cọng
sản Đệ Tứ. Từ Mạc Tư
Khoa Stalin ra lệnh tất cả các tổ chức Cọng sản Đệ Tam không được
cọng tác với Cọng sản Đệ Tứ.
Như vậy tính ra trong cuộc đời chính trị của ông Vơ Nguyên
Giáp có 2 tháng làm báo tại Hà Nội và ông Phạm Văn Đồng có 2 tháng
rưỡi. Sau này các tài
liệu của CSVN cố t́nh hướng dư luận tin rằng ông Giáp và ông Đồng là
hai nhà báo gạo cội nhưng trên thực tế th́ kể như hai ông chưa từng
làm báo.
Tuy nhiên trong những ngày cọng tác làm báo, ông Phạm Văn Đồng
rất khâm phục kiến thức quân sự của ông Giáp và khuyên nên theo học
một trường vơ bị để thích hợp với khả năng thiên phú của ông ta.
Năm 1938 nhân dịp thất nghiệp do hai tờ báo Notre Voix và Le
Travaile bị đóng cửa, ông Đồng dẫn ông Giáp sang Côn Minh thuộc tỉnh
Vân Nam của Trung Hoa để cho ông Giáp theo học Trường Vơ bị Côn
Minh. Nhưng khi hai ông đến nơi th́ trường đóng cửa do chiến tranh
giữa Nhật và Trung Hoa. Trong khi c̣n lưu lại Trung Hoa, ông Đồng
được tin ông Lư Thụy tái xuất hiện tại Trung Hoa, hai ông cố t́m
nhưng không gặp. Trên
đường về ông Đồng kể cho ông Giáp nghe về nhân vật kỳ bí tên Lư Thụy
mà ông Đồng từng theo học một khóa tuyên truyền 2 tháng, cách đó 12
năm. Đến năm 1940
xảy ra chiến tranh Pháp-Đức.
Chính quyền Pháp tại Đông Dương cho bắt pḥng ngừa các nhà
hoạt động chính trị. Ông
Đồng và ông Giáp được một người trong nhóm Thiết Huyết hướng dẫn
chạy sang Côn Minh, Trung Hoa. Tại đây các ông gặp ông Hồ Học Lăm và
nhờ ông Lăm bắt liên lạc với Lư Thụy tức là ông Nguyễn Tất Thành.
Ông Thành t́m đến gặp các ông, thu nhận ông Đồng, ông Giáp
làm đệ tử rồi hiệp cùng 4 người khác thành lập ra tổ chức Việt Minh
Hội (Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội).
Bốn người kia là Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan và
Cao Hồng Lănh.
Khi vừa mới gặp Nguyễn Tất Thành, ông Đồng giới thiệu về ông
Giáp với thiên tài quân sự bẩm sinh.
Ông Thành hứa sẽ vận động cho cả ông Giáp lẫn ông Đồng theo
học trường Quân chính của Quân đội Mao Trạch Đông tại Diên An.
Trường này vừa dạy quân sự vừa dạy chính trị.
Tuy nhiên v́ sự vận động của ông Thành không có kết quả cho
nên ông Giáp đành chấm dứt mộng ước theo học trường vơ bị.
Cuối năm 1940,
bảy ông dẫn nhau về Thành phố Tĩnh Tây thuộc tỉnh Quảng Tây của
Trung Hoa, giáp giới với tỉnh Cao Bằng của Việt Nam, để gầy dựng cơ
sở chờ thời cơ.
Đầu năm 1941 nhóm của ông Nguyễn Tất Thành bắt liên lạc được
với nhóm của ông Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Chu Văn Tấn tại căn cứ
Pác Bó nằm gần biên giới Việt Trung, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lúc này
nhà báo Trường Chinh đă trở thành quyền Tổng bí thư của ĐCSĐD và
Hoàng Văn Thụ là Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Mùa Xuân năm 1941 ông Nguyễn
Tất Thành cùng ông Phùng Chí Kiên đến căn cứ Pác Bó, tính chuyện mở
đại hội ĐCSĐD để tái tổ chức lại Đảng sau khi các lănh tụ Cọng sản
khác đều bị bắt v́ cuộc Bắc Sơn khởi nghĩa và Nam Kỳ khởi nghĩa.
Trong khi đó các ông Đồng, Giáp, Hoan, Anh, Lănh ở lại Tĩnh Tây để
bám vào tổ chức chính trị “Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội” do
Tướng Trương Bội Công thành lập.
Sau đại hội Trung ương Đảng (gồm 7 người) tại hang Pác Bó vào
tháng 5 năm 1941, Phùng Chí Kiên, Chu Văn Tấn, Đặng Văn Cáp đến Bắc
Sơn thuộc tỉnh Lạng Sơn để lập chiến khu.
Phùng Chí Kiên từng tốt nghiệp trường vơ bị Hoàng Phố, sau đó
tốt nghiệp trường chính trị Staline tại Mạc Tư Khoa.
Chu Văn Tấn là Thượng sĩ của quân đội Pháp.
Đặng Văn Cáp tốt nghiệp trường vơ bị Côn Minh, cựu sĩ quan
trong quân đội của Tưởng Giới Thạch.
Tuy nhiên chỉ vài tháng sau các ông bị quân Pháp càn quét,
Phùng Chí Kiên chết, Tấn và Cáp chạy sang Trung Hoa.
Trong khi đó tại Trung Hoa, Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp,
Hoàng Văn Hoan, Vũ Anh, Cao Hồng Lănh bị chính quyền Trung Hoa phát
hiện ra là những người Cọng sản.
Hoàng Văn Hoan bị bắt, Anh, Lănh chạy về Vân Nam; và Đồng,
Giáp chạy về Pác Bó. Tại
Pác Bó ông Đồng và ông Giáp gặp lại người bạn cùng làm báo tại Hà
Nội cách đó hơn một năm là ông Trường Chinh.
Lúc này lực lượng ĐCSĐD tại hang Pác Bó do Hoàng Văn Thụ chỉ
huy cho nên Vơ Nguyên Giáp là người duy nhất có thể bàn bạc với
Hoàng Văn Thụ trong công việc pḥng thủ tại hang Pác Bó.
Tiếng là pḥng thủ nhưng thực ra chỉ là chạy tránh mỗi khi có
quân của Pháp càn quét.
Tuy nhiên lực lượng quân sự duy nhất của Thụ chỉ có trung đội lính
dơng do Chu Văn Tấn chỉ huy nhưng Tấn đă dẫn quân chạy sang Trung
Hoa cho nên lúc đó tại hang Pác Bó có một nhóm lănh đạo của ĐCSĐD
nhưng không có súng, v́ vậy khả năng hiểu biết về các trận đánh của
Napoléon của Vơ Nguyên Giáp cũng không giúp ǵ được cho Hoàng Văn
Thụ.
Tháng 6 năm 1942 quân Pháp càn quét gắt gao khu vực Pác Bó,
Nguyễn Tất Thành trở lại Trung Hoa để chữa bệnh và t́m cách gỡ thế
bí cho ĐCSĐD nhưng không ngờ ông lại bị bắt.
Trong khi đó th́ Chu Văn Tấn đă dẫn quân từ Trung Hoa trở lại
Pác Bó vào năm 1943.
Hoàng Văn Thụ tổ chức lại lực lượng vũ trang.
Tuy có thêm thanh niên gia nhập nhưng không có thêm súng, tất
cả số súng có được vẫn là
mấy chục cây súng trường trong tay binh sĩ của Chu Văn Tấn.
V́ vậy cho tới lúc này Vơ Nguyên Giáp vẫn chỉ là một giáo sư
dạy Sử Địa.
Đến tháng 8 năm 1943 Hoàng Văn Thụ bị Pháp bắt, và bị xử bắn
giữa năm 1944. Nhóm lănh
đạo tại Pác Bó không có người chỉ huy về quân sự ngoại trừ Chu Văn
Tấn. Tuy nhiên v́ Chu
Văn Tấn là người Tày và tŕnh độ văn hóa có hạn cho nên ông không
thích ngồi bàn bạc suông trong nhóm lănh đạo Cọng sản.
Ông chỉ muốn khi nào đụng chuyện cần tới quân đội th́ kêu ông,
vậy thôi. V́ vậy các ông
đề nghị Vơ Nguyên Giáp làm tham mưu cho Chu Văn Tấn nhưng thực ra
chỉ là nói thay cho Tấn trong các cuộc họp chính trị.
Thời vận của Vơ Nguyên Giáp hoàn toàn biến đổi vào cuối năm
1944 khi Hồ Chí Minh đột ngột xuất hiện cùng với các nhà quân sự thứ
thiệt là 18 người mới tốt nghiệp trường sĩ quan Đại Kiều do Tướng
Tiêu Văn cung cấp, trong số đó có các ông nổi tiếng sau này như
Hoàng Văn Thái, Hoàng Minh Thảo, Đàm Quang Trung, Vũ Lập, Nam Long,
Bằng Giang v,v… Ngoài ra cùng về trong chuyến này c̣n có những tay
tổ trong nhóm Thiết Huyết như Vương Thừa Vũ, Bùi Đức Minh, Bùi Ngọc
Thành, Lê Tùng Sơn, Đặng Văn
Cáp là những người tốt nghiệp trường Vơ bị Côn Minh.
Ngoài nhóm Thiết Huyết c̣n có Lê Thiết Vũ từng tốt nghiệp
trường Vơ bị Hoàng Phố, Cao Hồng Lănh tốt nghiệp trường vơ bị Thiểm
Cam Ninh. Lê Quảng Ba,
Hoàng Sâm là những người tốt nghiệp
trường Hạ sĩ quan Pháp.
Hồ Chí Minh giao cho Vơ Nguyên Giáp tổ chức nhóm người mới
tới này thành đội ngũ để chuẩn bị tiếp nhận toán OSS của Hoa Kỳ đến
huấn luyện.
Trích đoạn sách Chuyện Nước Non Đau Ḷng Tới Ngàn Năm của Bùi
Anh Trinh. Do Làng Văn
xuất bản năm 2008; Quyển thượng, từ trang 520 đến trang 531 :
Nhà quân sự Vơ Nguyên Giáp
Nhà giáo dạy Sử Vơ Nguyên Giáp chính thức được xem là dân nhà
binh khi ông vừa làm thông dịch, vừa làm huấn luyện viên cho khoảng
100 tay súng thuộc đội “Vũ trang tuyên truyền Giải phóng quân”, được
toán t́nh báo OSS huấn luyện. Vô t́nh, dưới con mắt của nhóm “Tuyên
truyền giải phóng quân” th́ Vơ Nguyên Giáp trở thành một bậc thầy về
quân sự, nhất là quân sự với vũ khí tân tiến.
Ngày nay hồ sơ lưu trữ của Quốc gia Hoa Kỳ c̣n lưu lại những
bức h́nh Vơ Nguyên Giáp bận bộ đồ complet trắng đứng chào Quốc kỳ Mỹ
tại Tân Trào cũng như h́nh Vơ Nguyên Giáp đang đứng bên các sĩ quan
t́nh báo Hoa Kỳ chỉ dẫn cho các học viên du kích về các thao tác
quân sự. Từ khóa huấn
luyện này th́ ông nhà giáo Vơ Nguyên Giáp đủ tư cách trở thành một
nhà chỉ huy quân sự thuộc trường phái quân sự Hoa Kỳ (!).
Nhưng thực ra đây là một khóa cấp tốc đào tạo các chiến binh
Biệt kích thuộc Lực lượng Đặc biệt của Hoa Kỳ, họ chỉ dạy cho cách
ḅ lết dưới hỏa lực và sử dụng các loại vũ khí cũng như lựu đạn, ḿn
bẩy; không dạy về chiến
thuật bởi v́ môn này chỉ dạy cho sĩ quan.
Trong khi khóa
huấn luyện mới được 6 ngày th́ có tin Nhật đầu hàng Đồng Minh, ông
chỉ huy trưởng Vơ Nguyên Giáp vội dẫn khoảng 100 người đang được
t́nh báo Hoa kỳ huấn luyện, tiến về Hà Nội nhưng đến Thái Nguyên th́
đụng phải Quân Nhật. Toán t́nh báo HK và toán tuyên truyền giải
phóng quân do Đàm Quang Trung chỉ huy phải trụ lại Thái Nguyên.
Ngày 23 tháng 8, nghe tin dân chúng Hà Nội đă cướp chính
quyền từ ngày 19, Vơ Nguyên Giáp để lại đội Tuyên truyền giải phóng
quân cho toán t́nh báo
HK, dẫn 2 tiểu đội chạy về Hà Nội.
Tuy nhiên lúc về đến Hà Nội th́ dưới con mắt của dân chúng Vơ
Nguyên Giáp vẫn là một ông thầy giáo dạy Sử, dân Hà Nội không được
biết về việc ông đă được các chuyên viên t́nh báo Hoa Kỳ huấn luyện
trong 6 ngày về cách sử dụng vũ khí cũng như cách ḅ lết dưới hỏa
lực. V́ vậy sau khi cướp chính quyền xong, Trường Chinh và Trung
ương Đảng đề ra danh sách chính quyền lâm thời th́ để Chu Văn Tấn
làm bộ trưởng Quốc Pḥng, dầu ǵ ông Tấn cũng là một quân nhân nổi
tiếng qua cuộc khởi nghĩa bất thành tại Bắc Sơn.
Chứ nếu để Vơ Nguyên Giáp th́ người ta cười cho.
Nhưng khi được biết ḿnh sẽ làm Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng th́
Chu Văn Tấn dẫy nẩy, ông ta là người dân tộc Tày và thất học cho nên
đâu có tŕnh độ văn hóa mà làm Bộ trưởng, ông sợ người ta cười.
Trường Chinh bèn giải thích là Chu Văn Tấn chỉ làm bộ trưởng
trên danh nghĩa mà thôi, c̣n mọi việc cứ để Vơ Nguyên Giáp làm.
V́ vậy Vơ Nguyên Giáp trở thành người điều động lực lượng
quân sự của Việt Minh dưới danh nghĩa “Chủ tịch ủy ban kháng chiến”,
tức là Chỉ huy trưởng lực lượng “Dân quân vũ trang”, một tổ chức bán
quân sự.
Tháng 9 năm 1946 Hồ Chí Minh phong cho thầy giáo Vơ Nguyên
Giáp làm Tổng tư lệnh quân đội Việt Minh.
Tuy nhiên ông Tổng tư lệnh mà chưa qua một trường đào tạo
quân sự nào th́ khó ăn nói với báo chí cho nên ông Bộ trưởng Bộ
thông tin là Trần Huy Liệu mới nghĩ ra cách nói phao lên rằng thầy
giáo Vơ Nguyên Giáp là “Thiên tài quân sự” mà cả Hà Nội đều biết
tiếng. Cũng trong thời gian này ông Trần Huy Liệu sáng tác ra nhân
vật Lê Văn Tám, một hiếu niên anh hùng tự dùng thân ḿnh làm đuốc để
đốt kho đạn của Pháp.
Tháng 12 năm 1946, quân Pháp đă thành công trong việc đổ quân
tái chiếm Việt Nam, kể cả tái chiếm Hà Nội.
Họ bắt đầu dở tṛ khiêu khích để lấy cớ mà thanh toán lực
lượng quân sự của Vơ Nguyên Giáp.
Biết rằng trước sau cũng phải rút khỏi Hà Nội, ngày
19-12-1946, Tổng tư lệnh Vơ Nguyên Giáp bất thần cho quân bảo vệ Hồ
Chí Minh và chính phủ Việt Minh di tản lên miền rừng núi Phú Thọ,
giao việc cản đường quân Pháp cho 8 ngàn tự vệ Hà Nội và 6 ngàn tự
vệ Nam Định, những người này không có súng, chỉ được phát cho vài
quả lựu đạn để gây rối, quăng bàn ghế ra đường, cầm chân quân Pháp
để cho quân chủ lực của Vơ Nguyên Giáp có đủ thời gian đưa Hồ Chí
Minh chạy thoát. Đây là
kế hoạch quân sự đầu tay của Vơ Nguyên Giáp.
Tiếp theo trận đầu tiên này là các trận di tản mỗi khi có
quân Pháp hành quân truy đuổi.
Được đúng 1 năm sau, vào ngày 20-1-1948, Hồ Chí Minh phong
cho thầy giáo Vơ Nguyên Giáp chức Đại tướng, cho tới lúc này ông
cũng chưa đánh một trận nào, cho dù là một trận rất nhỏ.
Đó là tất cả con đường binh nghiệp của Đại tướng Vơ Nguyên
Giáp.
Trong bất cứ thời đại nào, một người làm tướng phải biết rơ
hiệu năng tác dụng của tất cả mọi loại vũ khí cũng như mọi loại khí
tài được sử dụng trong quân đội.
Rồi phải biết khả năng hiệu dụng của con người đối với vũ khí
và khí tài, tức là phải biết người nào, đơn vị nào sử dụng vũ khí
nào th́ sẽ có hiệu quả tối đa trong trường hợp nào.
Rồi phải biết tính toán trong trường hợp nào phải đánh bằng
cách nào hay vũ khí nào, cái nào trước, cái nào sau, cái nào thực,
cái nào giả, ai là nổ lực chính, ai là nổ lực phụ, trong địa thế như
thế nào và trong điều kiện thời tiết như thế nào…tất cả những thứ
này đ̣i hỏi phải qua trường lớp hoặc rút kinh nghiệm tại chiến
trường. Tuy nhiên nếu
không có căn bản từ trường lớp th́ cũng khó mà rút kinh nghiệm được
từ chiến trường.
Ngoài ra người chỉ huy trong quân đội cần phải có khả năng phán đoán
thật chính xác, biết tâm lư địch cũng như biết tâm lư của quân ḿnh
để có thể quyết định được lệnh nào sẽ được thi hành ra sao.
Nếu không từng đi với người lính ngoài chiến trường th́ không
thể đoán được trong 1 tiếng đồng hồ người lính đi được bao xa với
bao nhiêu kư trên lưng;
dưới trời mưa, dưới nắng của sa mạc, trong đêm mờ tối, khi bụng đói,
khi phải rút chạy v.v… Và cũng phải biết trong trường hợp nào th́
phải ra lệnh như thế nào, không thể nghe súng nổ th́ bắt con người
ta nhào tới trước được; bản năng sinh tồn của con người cho phép
người lính có quyền từ chối những mệnh lệnh điên rồ.
Đọc qua các hồi kư của Vơ Nguyên Giáp, người ta có thể thấy
rơ ông không có khả năng phán đoán cũng như không có phản ứng nhanh
nhạy.
Thí dụ như đêm 20-11-1953 ông được tin quân Pháp nhảy dù xuống
Điện Biên Phủ, ngay tối hôm đó ông đánh điện chỉ thị cho Tư lệnh Đại
đoàn 316 đang trên đường tiến quân đến Tuần Giáo là nơi cách Điện
Biên Phủ 80 cây số: “Địch
nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là để che chở cho Lai Châu và Thượng Lào
đang bị uy hiếp. Như vậy
là bị động phân tán lực lượng để đối phó với ta, t́nh h́nh căn bản
có lợi cho ta… Nắm cơ hội tốt, tạo cơ hội tốt để tiêu diệt địch” (Vơ
Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, bản in lần 2, trang
40). Sau hơn 45 năm qua
nhiều suy gẫm, ông thấy rằng đây là một mệnh lệnh đáng ghi nhớ của
ông. Tuy nhiên phân tích
bức điện này th́ ông nhận được tin quân Pháp nhảy dù vào buổi tối
ngày 20 và ngay tối đó ông đánh đi bức điện.
Trong bức điện ông cho rằng quân Pháp muốn che chở cho Lai
Châu và Lào. Đây chỉ là
do ông đoán mưu đồ của quân Pháp chứ ông không có kiểm chứng lại
bằng các nguồn t́nh báo.
Thứ nhất, khi
nhận được một tin như vậy các nhà chỉ huy quân sự đều phải cho kiểm
lại để biết chắc chắn ư đồ của địch, sau khi biết chắc mới truyền
tin đi. Bởi v́ truyền một tin như vậy có thể khiến cho cấp dưới của
ḿnh cứ đinh ninh rằng ư đồ hành quân của địch là như vậy, trong khi
có thể ư đồ hành quân của địch hoàn toàn khác. Và quả nhiên sự thực
khác hẳn, quân Pháp không yểm trợ cho Lai Châu và cũng không yểm trợ
cho Lào, mà bỏ hẳn Lai Châu rút về đóng chốt tại Điện Biên Phủ, nhằm
chận đường tiến quân của Mao Trạch Đông sang Lào.
Thứ hai, vào thời điểm đó, trên khu vực Tây Bắc Bắc Việt th́
phía Pháp chỉ có 2.000 quân đóng giữ tại Lai Châu và 10 ngàn quân
tại Lào, ngoài ra suốt 300 cây số từ Ḥa B́nh lên Lai Châu thuộc
quyền kiểm soát của Việt Minh.
Trong ṿng bán kính 300 cây số xung quanh Điện Biên Phủ không
c̣n đơn vị nào khác của Pháp ngoài Lai Châu và Lào.
Như vậy th́ chuyện đoán rằng quân Pháp tại Điện Biên Phủ sẽ
hỗ trợ cho Lai Châu và Lào là điều hẳn nhiên, ông Tổng tư lệnh không
nói ra th́ ai cũng biết.
Sự phỏng đoán của ông Tổng tư lệnh trong bức điện là bằng thừa.
Nhưng đáng tiếc hơn nữa là ông đă phỏng đoán sai.
Thứ ba, ông Tổng tư lệnh kết luận rằng như vậy là “t́nh h́nh
căn bản” có lợi cho ta mà không cho biết v́ sao có lợi, có lợi về
mặt nào? Ngoài ra nhóm
từ “t́nh h́nh căn bản” là một nhóm từ chỉ t́nh trạng chung chung,
không chắc chắn. Một bản
tin quân sự đ̣i hỏi sự chính xác tuyệt đối chứ không thể nào nói
chung chung, được chăng hay chớ.
Thứ tư, Tổng tư lệnh ra lệnh “Nắm cơ hội tốt, tạo điều kiện
tốt để diệt địch” th́ kể như không ra lệnh bởi v́ bất cứ đơn vị hay
cá nhân nào, trong bất cứ
lúc nào cũng phải nắm cơ hội và tạo cơ hội để diệt địch,
không đợi tới có lệnh của Bộ tổng tư lệnh mới chịu nắm cơ hội hay
tạo cơ hội. Vậy đây
không phải là lệnh hành quân của một vị tướng, mà là một câu nói
chơi của một ông thầy đồ đang ngồi giữa chiếu của đ́nh làng.
Cũng trong cuốn sách đó, trang 43, ông viết: “Sau cuộc họp,
tôi định gặp anh Chu Huy Mân, chính ủy 316, th́ biết anh đă nhận
nhiệm vụ về trước để kịp đuổi theo bộ đội trên đường hành quân.
Tôi điện thoại cho người đón đường nói với anh Mân quay lại.
Buổi chiều, anh Mân dắt xe đạp quay vào cơ quan với vẻ ngạc
nhiên. Tôi nói:
Địch đă ném thêm nhiều quân xuống Điện Biên Phủ.
Đồng chí cần đi thật gấp cho kịp bộ đội, đôn đốc đơn vị hành
quân cấp tốc lên bao vây Lai Châu, phải chặn nay con đường từ Lai
Châu về Điện Biên Phủ.
Có thể sẽ đánh Điện Biên Phủ.
Ngay tối hôm đó anh Mân vội vă ra đi.
Tôi nghe nói lại, anh Mân đă dùng hết 4 đôi má phanh để lao
đốc đèo để theo kịp bộ đội”.
Chu Huy Mân là chính ủy của Đại đoàn 316, lúc đó đơn vị của
ông là đơn vị duy nhất đang trên đường tiến quân đến Lai Châu.
Lẽ ra ông Giáp phải ra lệnh cho ông Mân trước hoặc trong thời
gian họp để ông Mân có thể rời cuộc họp mà đuổi theo đơn vị của ḿnh.
Thế nhưng suốt cuộc họp ông Giáp không ra lệnh, đợi đến khi
tan cuộc họp ông mới nhớ lại th́ con người ta đă đi khỏi được mấy
tiếng đồng hồ. Vậy mà thay v́ kêu ông Mân tới trước điện thoại để ra
lệnh th́ ông Giáp lại bắt ông Mân quay trở về.
Không biết khoảng cách là bao xa nhưng tới chiều ông Mân mới
quay về tới nơi. Khi tới
nơi th́ nhận được lệnh “Đồng chí phải đi cho thật gấp để kịp bộ đội”
(trong khi con người ta đang trên đường thật gấp đuổi theo bộ đội).
Tưởng theo gấp bộ đội để thi hành lệnh ǵ, hóa ra chỉ có lệnh
bao vây Lai Châu và chặn đường từ Lai Châu về Điện Biên Phủ, một cái
lệnh mà đơn vị của ông Mân đă nhận trước khi lên đường. Ông Giáp có
thể đánh điện cái lệnh như vậy bằng máy điện báo hoặc nói trên điện
thoại tại cái trạm mà người ta đă chận ông Mân lại.
Lệnh có mấy câu và không có ǵ cần giữ bí mật đến đổi không
thể đánh đi bằng mật mă và cũng không thể nói trên điện thoại.
Ngoài ra nếu không nhận được lệnh th́ đại đoàn 316 cũng vẫn
thi hành như vậy v́ họ đă nhận được lệnh bao vây Lai Châu trước khi
lên đường, mà hễ bao vây Lai Châu th́ phải chặn đánh đoạn đường từ
Lai Châu về Điện Biên Phủ.
Cho tới 45 năm sau ông Giáp vẫn nhắc tới chuyện này như một kỷ
niệm tâm đắc; người ta ngạc nhiên là trong chuyện này đâu có ǵ đáng
tâm đắc ngoài câu cuối cùng là: “Có thể đánh Điện Biên Phủ”.
Quả vậy, ông Giáp chỉ muốn khoe rằng ông đă tiên đoán sẽ đánh
Điện Biên Phủ ngay vào lúc mà các cố vấn Trung Quốc chưa được biết.
Ông muốn lấy chuyện ông Chu Huy Mân phải khổ sở v́ một cái
lệnh không đâu vào đâu để chứng minh rằng ông có tài nh́n xa, ông
Mân có thể làm chứng cho chuyện này.
Tuy nhiên ai cũng biết rằng sau này Tướng Vi Quốc Thanh và
các chuyên gia Trung Quốc cũng đă quyết định đánh Điện Biên Phủ ngay
khi nghe được tin quân Pháp sẽ trú đóng tại Điện Biên Phủ, lâm vào
trường hợp này th́ ai cũng quyết định như vậy chứ không cần tới “thiên
tài quân sự” Vơ Nguyên Giáp.
Nhưng dầu sao cũng nhờ sự khoe mẽ của ông Giáp mà người ta
được biết phong cách chỉ huy của ông, ông hành hạ một ông tướng tư
lệnh đại đoàn giống như
trẻ con quay một con dế, chứng tỏ khả năng
ứng xử của ông rất tệ.
Có nhiều cách để ra một cái lệnh như vậy mà không cần bắt ông
Mân phải đạp xe quay về.
Rồi tội nghiệp hơn nữa là quay về để nhận được lệnh phải cấp tốc
quay trở lại đuổi theo đơn vị.
Nhưng quân của ông Mân đâu có tiến nhanh ǵ cho cam.
Thực tế trên chiến trường chứng minh cho thấy là Vơ Nguyên
Giáp đă ước tính sai quá xa về thời gian mà Đại đoàn 316 của ông Chu
Huy Mân có thể tới được Điện Biên Phủ.
Bởi v́ sau đó 2 ngày th́ Tướng Hoàng Văn Thái đă lên đường
bằng xe hơi và đến Lai Châu trước Đại đoàn 316 cả tuần lễ, Tướng
Giáp có thể nhắn Tướng Thái truyền lệnh lại cho Đại đoàn 316
mà không cần phải gọi ông Chu Huy Mân trở lại một cách khẩn cấp
như vậy.
Kiến thức quân sự hoang đường
Ngoài ra, những hồi ức tâm đắc mà Tướng Giáp kể lại trong hồi
kư cho thấy ông có vẻ là một tướng chiến tranh chính trị hơn là một
nhà tham mưu quân sự.
Ông kể lại một đoạn chiến đấu mà ông cho là oai hùng:
“ …Xích xe tăng chà lên chiến hào và ụ súng.
Các chiến sĩ, kể cả những người đă bị thương, giật giây lựu
đạn, chờ x́ khói rồi mới ném thẳng vào quân địch.
Cuối cùng lựu đạn cũng hết.
Các chiến sĩ dùng búa đanh, ḱm, lắc lê, chân súng găy…lăn xả
vào quân địch đánh giáp lá cà.
Cuộc chiến không cân sức kéo dài tới 2 giờ chiều…”(trang
244). Nếu là một tướng
thiên tài về quân sự phải biết cân nhắc trước sức mạnh của địch và
của ta. Nếu biết cân
nhắc th́ một khi đối diện trước một trận đấu không cân sức, một bên
là xe tăng với súng đạn đầy đủ, một bên với búa, ḱm và chân súng
gảy th́ chỉ có nước bỏ chạy hay đầu hàng để giữ mạng sống.
Đàng này ông Tướng lại chủ trương cứ nhào vào thí mạng với
quân thù th́ rơ ràng ông đâu có biết tính toán hay biết cân nhắc.
Ông đem h́nh ảnh đó ra khoe để dạy cho quân lính của ông nên
làm theo như thế trong khi ông thừa biết làm như vậy không giải
quyết ǵ được cho chiến trường, đó là một hành động điên khùng.
Một người thiên tài về quân sự không bao giờ dạy binh sĩ của
ḿnh hành động như vậy.
Cũng may là ngoại trừ ông Tổng tư lệnh, tất cả các vị tướng khác như
Lê Thiết Hùng, Vương Thừa Vũ, Lê Tùng Sơn, Đặng Văn Cáp, Bùi Đức
Minh, Bùi Ngọc Thành, Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn
Thái, Hoàng Minh Thảo, Đàm Quang Trung, Nam Long, Vũ Lập, Cao Hồng
Lănh, Lê Trọng Tấn… đều là những nhà quân sự thứ thiệt mà quân Pháp
không ngờ tới. Những ông
tướng cấp dưới này không bao giờ nghe theo cái kiểu suỵt chó vô gai
của Vơ Nguyên Giáp. Đáng
tiếc là những vị tư lệnh này xuất thân không phải là Cọng sản nên
phải chịu đời khổ sở với những ông tướng chính trị của ĐCSVN như
Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Song Hào, Lê Liêm,
Trần Độ, Phạm Hùng, Đỗ Mười, Vũ Anh, Lê Quang Đạo… Những ông tướng
chính trị này không phải là nhà quân sự
cho nên chuyên môn khóa tay các ông tư lệnh trong những pha
quyết định. Đặc biệt các
ông tướng chính trị chỉ có một chiến thuật duy nhất là hô hào binh
sĩ nhào tới trước họng súng địch với chiến thuật “biển người” của
Mao Trạch Đông. Sau này
tướng Westmoreland của Hoa Kỳ cho rằng Tướng Giáp chỉ có tài thí
quân. Quả nhiên có đọc hồi kư của Vơ Nguyên Giáp mới thấy rằng Tướng
Westmoreland nói không oan.
Chẳng những vậy, Tướng Giáp c̣n nêu những gương anh dũng không
thể nào chấp nhận được:
“Phương là một y tá, đă bị găy cả hai tay.
Đức là chiến sĩ, một thiếu sinh quân 17 tuổi vừa vào bộ đội,
bị thương cả hai mắt không c̣n nh́n thấy ǵ. Trong những giờ qua,
hai người đă dựa vào nhau tiếp tục chiến đấu.
Phương quan sát mục tiêu, Đức dùng tay bóp c̣ súng. Vừa lúc
các đồng đội tới th́ Phương trút hơi thở cuối cùng” (trang 244).
Chuyện này chỉ có trong tưởng tượng.
Nếu là một người từng lăn lộn ngoài chiến trường, từng chứng
kiến những cảnh thương vong ngoài trận mạc, sẽ không có những tưởng
tượng ngây ngô như vậy. Tâm lư của người bị găy hai tay sắp chết
không thể nào có đủ tỉnh táo để quan sát, và người bị thương mù cả
hai mắt không thể có ḷng dạ nào mà điều chỉnh họng súng bắn trúng
nhiều mục tiêu theo lời chỉ dẫn của người khác trong nhiều tiếng
đồng hồ, nhất là các mục tiêu đang di động và nhiều mục tiêu cùng
xuất hiện một lúc. Ông Giáp hoàn toàn đi trên mây trên gió, ông
không thể là một nhà mưu lược quân sự.
Tướng Giáp kể về cái chết của chiến sĩ Phan Đ́nh Giót trong
trận đánh đồn Him Lam (Béatric):
“Tiểu đội trưởng Phan Đ́nh Giót mau lẹ trườn lên dưới làn đạn
của địch, dùng tiểu liên bắn và ném lựu đạn về phía lô cốt.
Khi anh tới gần lô cốt th́ đạn và lựu đạn đă hết.
Anh lao ḿnh vào lỗ châu mai, làm ngừng tiếng súng địch trong
giây lát, tạo thời cơ cho bộ đội xung phong” ( trang 217).
Dĩ nhiên là Tướng Giáp không có mặt để chứng kiến pha đó, ông
chỉ nghe và rồi kể lại theo tưởng tượng của chính ông.
Không ai có thể tin rằng trên đời lại có người hành động điên
rồ như lời kể của Tướng Giáp, người ta đành phải truy theo hồi ức
của Tướng Lê Trọng Tấn là người trực tiếp chỉ huy trận đánh đó.
Tướng Tấn cũng chỉ nghe kể lại chứ ông không mục kích.
Ông kể: “Lúc này Giót đă bị thương tới lần thứ ba. Lợi dụng
lúc hỏa lực địch ngưng bắn trong vài giây, xung kích của ta xông lên,
thấy cả khuôn ngực của Phan Đ́nh Giót áp vào lỗ châu mai địch…”(Lê
Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên, in lần 2, trang 309).
Như vậy, theo ông Tấn th́ không có ai thấy hành động nhào vào
lỗ châu mai của Gióp, bạn đồng đội của anh chỉ chứng kiến anh nằm
chết mà ngực của anh nằm che luôn lỗ châu mai sau khi họ chứng kiến
anh bị thương tới lần thứ ba;
mọi người suy đoán có lẽ lúc bị thương lần chót, biết không
thể nào thoát chết, anh lấy hết hơi tàn điều khiển cho thân ḿnh ngă
vào lỗ châu mai. Như vậy
th́ mới có lư, và so lại với lời kể của Tướng Giáp th́ rơ ràng ông
ta không có đầu óc thực tế một chút nào, ông ta tưởng tượng c̣n hơn
xi nê. Vui hơn nữa
là Tướng Giáp lại có những tưởng tượng mà xi nê cũng không chấp nhận
nổi. Thí dụ như ông nói
về cách các tài xế xe tải tránh đạn của máy bay:
“…xe ta thường bị máy bay địch phát hiện. Gặp trường hợp này,
phụ xe đứng bên ngoài, nh́n thấy máy bay địch lao xuống bắn th́ hét
lái xe ngừng lại cho máy bay địch lỡ đà tuôn đạn về phía trước” (trang
331). Hàng trăm năm nay
chưa có nhà đạo diễn phim nào cho diễn cảnh này trên màn ảnh bởi v́
trên thực tế không thể nào có chuyện như vậy được, cho dù là thực tế
đă được sắp xếp sẵn trong phim trường.
Bởi v́ khi máy bay xà xuống bắn th́
máy bay và xe cùng tiến trên một trục dọc, máy bay sẽ bay từ
phía sau xe rồi vượt qua khỏi xe;
người phi công sẽ bấm c̣ súng cho viên đạn đầu tiên ghim cách
phía sau chiếc xe một khoảng cách thường là gấp 5 chiều dài của thân
xe; loạt đạn sẽ cày một
đường dài từ phía sau ra phía trước cách khoảng 5 thân xe nữa mới
ngưng.
Do đó khi người phi công đă bấm c̣ súng th́ dầu chiếc xe có
chạy hay dừng vẫn nằm trong vệt dài của loạt đạn, không thể nào có
chuyện hễ thắng lại th́ thoát.
Nếu được như vậy th́ người ta đă ghi vào binh thư chống máy
bay rồi, nhưng cho tới nay th́ không có binh thư nào viết như vậy,
kể cả binh thư của quân đội CSVN.
C̣n nếu ngoài thực địa mà làm được như vậy th́ thiếu ǵ phim
chiến đấu cho diễn cảnh đó bởi v́ các pha né đạn máy bay ngoạn mục
như vậy sẽ rất ăn
khách. Thế nhưng thiên
tài quân sự Vơ Nguyên Giáp lại thản nhiên kể chuyện như thật, không
phải ông kể như một chuyện may mắn mà ông nói về một chiến thuật
chống máy bay rất hữu hiệu.
Lại một pha tả cảnh các chiến sĩ đang g̣ lưng kéo pháo lên
đèo: “Bất thần xuất hiện
những ánh chớp giật, tiếp theo là tiếng nổ ầm ầm, mănh đạn cháy bỏng
chém găy những cành cây, cắm vào vách núi.
Chính trị viên hô to: “Các đồng chí, quyết không rời pháo”.
Các chiến sĩ gan dạ bám chặt dây kéo, chân như đóng xuống đất,
nghiến răng gh́m pháo.
Bài “Quốc tế ca” trầm hùng vang lên như tiếp thêm một sức mạnh nhiệm
màu giúp họ vượt qua giờ phút hiểm nghèo” (trang 112).
Quả là phim trường cũng không thể diễn lại được cảnh này v́
nó phản tâm lư. Đang làm
việc căng thẳng mà bất thần cái chết ập đến th́ không có một tập thể
nào có thể tiếp tục thản nhiên làm việc và cất lên bài Quốc tế ca
với giọng trầm hùng! Nếu
có bắt buộc phải hát th́ họ sẽ hát với giọng hoảng loạn chứ không
thể nào lấy được giọng trầm hùng.
Họ c̣n phải lo giải quyết làm sao neo được khẩu pháo đứng yên
để chạy t́m chỗ nấp v́ đạn pháo sẽ tiếp tục giáng xuống dài dài;
nhiều người may mắn thoát được loạt đạn đầu nhưng ai cũng lo
là c̣n nhiều loạt đạn kế tiếp sẽ tới.
Vậy mà tướng Giáp lại tưởng tượng ra rằng lính của ông có thể
dễ dàng cất lên giọng trầm hùng giữa lúc lo chạy t́m chỗ nấp.
Quả là phim trường cũng chào thua bởi v́ nếu có cố diễn th́
nét mặt các diễn viên sẽ rất sượng v́ phản tâm lư.
Vô t́nh tướng Giáp để cho mọi người thấy rơ là ông cầm quân
mà không hề biết được tâm lư của người lính như thế nào hay ngay cả
tâm lư của con người như thế nào.
Điều này chứng tỏ cái chức Đại tướng của ông chỉ là cái chức
Tướng được phong giống như người đời đă phong cho các tướng cướp.
Tuy nhiên các tướng cướp cũng c̣n xứng đáng v́ chính họ tập
họp được một đội quân dưới tay và chính họ tổ chức đội ngũ cũng như
tự họ đào tạo, huấn luyện quân sĩ.
Họ cũng vào chết ra sống với quân sĩ, họ biết tâm lư của
những người dưới tay họ như thế nào.
Với những chuyện “trời ơi” như thế này th́ người ta cần phải
xét lại về thiên tài quân sự của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp.
Xuất thân con đường binh nghiệp của ông là một thầy giáo dạy
môn lịch sử , người thầy giáo dạy sử luôn luôn dùng trí tưởng tượng
để chế biến thêm các chi tiết của lịch sử để gây hấp dẫn cho học
sinh đang thích thú theo dơi.
Chính điều này đă làm cho Tướng Giáp bị bệnh méo mó nghề
nghiệp khi ông làm Tư lệnh quân đội CSVN.
Ông đă ra lệnh soạn những bài học huấn luyện cho binh sĩ mà
kết quả chỉ đưa tới chết
uổng mạng. Do đó ông
mang tiếng là một ông tướng thí quân bởi v́ quân của ông chết oan
uổng quá nhiều. Vơ
Nguyên Giáp luôn luôn ca bài “Đường vinh quang xây xác quân thù”
nhưng nh́n lại con đường vinh quang của ông th́ toàn là xác quân
lính của ông. Đau ḷng ở
chỗ là quân của ông toàn
là thanh niên ưu tú của dân tộc Việt Nam.
Ngày nay gom lại các truyền thuyết về ông Vơ Nguyên Giáp qua
các bài tùy bút của các học sinh của ông, hay các bài tùy bút của
các nhân viên dưới quyền ông, và hồi ức của các bạn bè cùng trang
lứa của Vơ Nguyên Giáp, th́ ông đă được dư luận Hà Nội ghi nhận về
trí nhớ rất đặc biệt của ông với các trận đánh của Napoleon.
Ông có thể bàn
luận thao thao bất tuyệt trong nhiều tiếng đồng hồ về các trận đánh
và đưa ra các con số dẫn chứng mà không cần nh́n vào tài liệu.
C̣n về danh hiệu “Thiên tài Quân sự” là do ông Phạm Văn Đồng
và ông Trần Huy Liệu tung ra vào năm 1946 để hợp thức hóa ngôi vị “Chủ
tịch Ủy ban Kháng chiến” trong chính phủ Việt Minh.
Chức vụ này tương đương như Tổng tư lệnh Quân đội.
Danh hiệu “Thiên tài quân sự” nhằm giải thích v́ sao Chính
phủ lại chọn ông Giáp vào vị trí chỉ huy quân đội trong khi ông
không qua một trường lớp quân sự nào.
Thay v́ nói ông Giáp tốt nghiệp trường vơ bị này, trường quân
sự kia; th́ người ta
đành nói ông có “thiên tài quân sự bẩm sinh” mà nhân dân Hà Nội đă
từng biết tiếng.
Tuy nhiên những bài viết nói về thiên tài của Tướng Giáp với
các trận đánh của
Napoléon lại vô t́nh điềm chỉ ông ta là tác giả của lệnh “Tiêu
thổ kháng chiến” vào năm 1946, bởi v́ tiêu thổ kháng chiến là một
chiến thuật mà nhân dân Nga dùng để đánh bại đoàn quân bách chiến
bách thắng của Napoléon.
Lệnh tiêu thổ kháng chiến kêu gọi hễ quân địch tới đâu th́ dân chúng
hăy đốt hết nhà cửa làng mạc rồi rút lên rừng để địch không có ǵ
ăn, không có chỗ trú ngụ th́ chúng sẽ bỏ đi.
Kết quả của lệnh này là thành phố Tuy Ḥa biến thành tro bụi,
thành phố Vinh chỉ c̣n viên gạch này chồng lên viên gạch kia, các
cung điện tại thành phố Huế bị đốt và thành phố Hà Đông trở thành
một đống đổ nát hoang tàn.
Ngày nay đọc lại các hồi kư, bút kư về thời kỳ đó người đời
sau cứ tưởng là chuyện bịa đặt nhưng may nhờ cuốn sách Vừa Đi Đường
Vừa Kể Chuyện của ông Hồ Chí Minh mà người ta mới có hân hạnh được
biết rằng chuyện đó có thật.
Nếu đem chiến thuật tiêu thổ của dân Nga mà áp dụng trên địa
h́nh Việt Nam th́ vô cùng khôi hài. Quân Pháp được nuôi ăn bằng vựa
lúa Miền Nam và vựa lúa Căm Bốt th́ biết bao giờ họ mới ăn hết gạo.
C̣n nhà ở th́ ngay giữa rừng núi Điện Biên Phủ và trong hầm
hố họ vẫn ở được th́ cần ǵ phải có nhà.
Mặc dầu ông Nguyễn Tất Thành kư lệnh tiêu thổ và ông ta có
giải thích trong tự truyện của ông ta nhưng cho tới nay dư luận vẫn
không rơ ai là tác giả thực sự của lệnh đó.
Tuy nhiên nếu quả thực ông Hồ Chí Minh là tác giả th́ ông
Giáp cũng phải là đồng tác giả, bởi v́ nếu không th́ ông ta đă nhân
danh Tư lệnh quân đội mà ngăn cản lệnh đó rồi, đằng này dân quân du
kích trên toàn quốc lại tự đốt nhà theo lệnh tiêu thổ của Chủ tịch
Ủy Ban kháng chiến Vơ Nguyên Giáp.
Cho nên nếu quy cho ông Giáp là tác giả của lệnh tiêu thổ th́
chắc chắn không oan.
Sau trận Điện Biên Phủ th́ toàn thế giới nổi lên dư luận ca
tụng thiên tài quân sự của Đại Tướng Vơ Nguyên Giáp.
Nhưng những lời ca tụng lại xuất phát từ báo chí Pháp (sic)
mặc dầu đối thủ của Tướng Giáp là Tướng Salan viết hồi kư cho rằng
Tướng Giáp gặp may chứ không có tài.
Không ai chịu nghe tướng Salan, họ cho rằng chính Salan đă
gặp may thắng Vơ Nguyên Giáp trong các trận đánh lớn và hên cho ông
là không đụng với Vơ Nguyên Giáp trong trận Điện Biên Phủ.
Rồi các sử gia thế giới căn cứ vào đánh giá của báo chí Pháp
mà ca tụng Vơ Nguyên Giáp.
Nhưng các sử gia quên rằng báo chí Pháp bơm ông Giáp lên là để
cho cái thua của họ đỡ nhục; họ có khuynh hướng cho rằng quân Pháp
thua là tại “Trời” cho Việt Minh một thiên tài quân sự bẩm sinh.
Họ lại c̣n phỏng đoán rằng ông Giáp từng tốt nghiệp trường vơ
bị Hoàng Phố mà quên rằng trường Hoàng Phố bị giải tán từ năm 1937,
lúc đó Vơ Nguyên Giáp c̣n đang dạy học tại Hà Nội. Cũng có người
phỏng đoán Vơ Nguyên Giáp tốt nghiệp trường vơ bị Côn Minh nhưng hồi
kư Vơ Nguyên Giáp cho biết năm 1938 ông sang Tàu tính theo học
trường Côn Minh th́ trường này đă đóng cửa do chiến tranh với Nhật.
Đặc biệt hồi kư của Vơ Nguyên Giáp có cho biết vào tháng 8
năm 1940 Hồ Chí Minh sắp xếp cho ông vào học tại trường Quân chính
Diên An của Mao Trạch Đông nhưng cũng không nói thêm là ông có theo
học hay không. Tuy nhiên hồi kư của Hoàng Văn Hoan, Vũ Anh, Lê Tùng
Sơn, Đặng Văn Cáp cho thấy chuyện dự tính cho ông Giáp và ông Đồng
theo học trường quân chính vào tháng 10 năm 1940 đă bị hủy bỏ.
Rốt cục th́ ông Giáp chỉ có qua một lớp huấn luyện 6 ngày của
cơ quan OSS Hoa Kỳ dành cho các du kích quân ở Tân Trào.
( Hết trích )
Trích sách Chuyện Nước Non Đau Ḷng Tới Ngàn Năm, Quyển
thượng, từ trang 578 đến trang 583 :
Kẻ phản bội quân đội của ḿnh
Năm 1951, sau đại hội thành lập Đảng Lao Động, tức là đại hội
toàn quốc lần 2, cố vấn La Quư Ba thay đổi vị trí trong nhóm lănh
đạo Việt Minh, từ Hồ Chí
Minh tới Vơ Nguyên Giáp hay tư lệnh Đại đoàn như Vương Thừa Vũ, Cao
Văn Khánh; Trung đoàn
trưởng như Nguyễn Hữu An, Đặng Vũ Hiệp, Lê Trọng Nghĩa v.v…Và ngay
tới tận cùng của quân đội là cấp chiến sĩ cũng rơi vào một cuộc đổi
mới, tổng sắp xếp theo thứ tự mới;
mà thứ tự mới này do cán bộ Trung Quốc đặt ra.
V́ cần dành các vị trí chỉ huy cho cán bộ Cọng sản cho nên
người ta t́m cách buộc những người đang chỉ huy trong quân đội Việt
Minh nhưng không phải là đảng viên CS phải rời bỏ chức vụ.
Tuy nhiên người ta không thể nói rơ là cần những vị trí đó
cho người của Đảng cho nên người ta phải t́m cách gièm pha, gieo
tiếng xấu cho những vị chỉ huy rồi mới lấy cớ đó mà cách chức chứ
thực ra những người này không có lỗi ǵ cả.
Một cách thức phổ biến nhất là trong các buổi học tập chỉnh
huấn các tay đảng viên hè nhau “đấu tố” đối tượng đủ mọi thứ tội, kể
cả tội trên trời dưới đất, rồi buộc những người này phải đứng lên
nhận lỗi, không nhận lỗi th́ họ tiếp tục “đấu” cho đến khi nhận.
Nhận rồi th́ đối tượng phải tự đề ra mức kỷ luật cho chính
ḿnh; hoặc là tự nguyện
từ chức hoặc là “xin để tập thể quyết định”;
nhưng hễ tập thể quyết định th́ y như rằng tập thể sẽ biểu
quyết yêu cầu từ chức.
Hồi kư của Vơ Nguyên Giáp cho thấy thành phần bị loại khỏi các
chức vị chỉ huy là cả một thế hệ nhân tài của dân tộc Việt Nam:
“Anh Thanh (Nguyễn Chí Thanh) cho rằng phần lớn cán bộ sơ cấp,
trung cấp của ta (tiểu đội trưởng, trung đội trưởng và đại đội
trưởng, tiểu đoàn trưởng) xuất thân từ tầng lớp Tiểu tư sản học sinh,
chỉ mới giác ngộ về dân tộc, c̣n ít giác ngộ giai cấp nên thiếu kiên
định. Trọng tâm đợt
chỉnh huấn này, nên nhằm vào cán bộ” (Đường tới Điện Biên, in lần 2,
trang 210). Tất cả các cán bộ chỉ huy cấp trung đội, đại đội, tiểu
đoàn là những người xuất sắc nhờ có kiến thức. Những người này được
tinh lựa trong hàng ngũ binh sĩ mà lên;
vị trí chỉ huy của họ do được mọi người trong đơn vị tin
tưởng mà đề cử ra. Nhưng
một điều trớ trêu là họ xuất sắc nhờ họ có học, nhưng sự có học của
họ lại do v́ xuất thân là con nhà tiểu tư sản.
Mà theo chỉ đạo của Nguyễn Chí Thanh th́ từ nay họ bị loại
khỏi địa vị chỉ huy, thay vào đó là những anh Chí Phèo xuất thân bần
cố nông thất học. Dĩ
nhiên việc này đưa tới t́nh trạng binh sĩ coi thường những người chỉ
huy xuất thân là Chí Phèo.
Hồi kư của Vơ Nguyên Giáp cũng đă thú nhận thảm trạng do chỉnh
huấn gây ra vào mùa hè năm 1951:
“Có điều nên nói là trong chỉnh huấn chúng ta đă tiếp nhận từ
những cố vấn về giáo dục chính trị một cách làm khác:
coi kiểm điểm tư tưởng là một cuộc đấu tranh không khoan
nhượng với mọi sai lầm… Những buổi kiểm điểm thường diễn ra căng
thẳng với những lời phê phán “đao to búa lớn” nhiều khi g̣ ép.
Có người sợ bị coi là thiếu thành khẩn đă tự nhận những tội
lỗi mà ḿnh không hề mắc… Ở Đại đoàn X, một cán bộ tiểu đoàn rất anh
dũng trong chiến đấu, tự nhận ḿnh là gián điệp của địch!
Khi bị tra hỏi, anh ta khai ra hàng loạt sự việc có liên quan
đến những cán bộ khác.
Tổ chức mất rất nhiều thời giờ mới xác định được những điều anh “phản
tỉnh” đều là do óc tưởng tượng…” (Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2,
trang 212).
Và Nguyễn Văn Trấn, cựu Phó bí thư xứ ủy Nam Bộ, đă giới thiệu
một điển h́nh về cách thức triệt hạ những vị chỉ huy không phải là
giai cấp công nông trong dịp chỉnh Đảng chỉnh quân :
“Tôi phải nói tiếp theo một tội các anh giết người đồng chí.
Đồng chí ấy tên là Nguyễn Văn Soạn, đương bí thơ liên chi tứ
xă Lâm Thao. Bị quy đủ
ba tội để bị tử h́nh. Tội đầu:
phản động chui vào hàng ngũ Đảng. Tội kế:
địch cài để làm chiến tranh tâm lư.
Tội ba: địa chủ
bóc lột, cho dân mướn đất để cho dân cám ơn địa chủ nuôi ḿnh.
Anh bị tra tấn ǵ anh cũng không nhận ḿnh có tội…” ( Nguyễn
Văn Trấn, Nói với mẹ và Quốc hội, trang 269).
Tội thứ nhất là “chui vào hàng ngũ đảng”, tội này th́ đảng
viên nào cũng có; c̣n
tội phản động là do Đảng suy ra từ giai cấp địa chủ;
đă là giai cấp địa chủ th́ phải thù Đảng chứ sao lại theo
Đảng, vậy chỉ có nước theo để âm thầm phá hoại Đảng. Tội thứ hai là
do suy ra từ tội thứ nhất, anh đă âm thầm chui vào để phá hoại đảng
th́ tất nhiên anh phải có hành động phá hoại, nhưng tôi chưa bắt
được hành động cụ thể nào, vậy th́ tất nhiên anh phá hoại bằng cách
mật đàm rỉ tai tuyên truyền nói xấu đảng, chứ không lư anh chui vào
đảng để không làm ǵ cả?
Tội thứ ba là tội bóc lột, hễ là địa chủ là phải bóc lột, không bóc
lột th́ làm sao anh thành địa chủ được?
Đảng viên Nguyễn Văn Soạn bị giết chỉ v́ có tội xuất thân từ
gia đ́nh địa chủ và người ta không muốn thấy trong Đảng có thành
phần địa chủ cho nên Soạn bị quy cho cái tội phá hoại Đảng và tội
này phải chết. Tất cả
mọi thứ đều rập y khuôn tổ chức của Mao Trạch Đông và học y khuôn tư
tưởng của Mao Trạch Đông.
Trong cuộc chỉnh huấn này có Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42
biệt lập là Trần Văn Xướng đă bị thanh toán v́ bị t́nh nghi làm điệp
viên cho Pháp, mặc dầu Trung đoàn 42 được các sĩ quan Pháp đặt tên
là “Trung đoàn ma”, bởi v́ Trung đoàn này hoạt động rất mạnh tại
vùng Hưng Yên, Ninh B́nh nhưng không bao giờ đại quân Pháp được hân
hạnh chạm súng, Trung đoàn 42 thoát các cuộc bao vây của đại quân
Pháp rất dễ dàng, và sau đó nhanh chóng tập trung tấn công các đồn
nhỏ ngay sau khi đại quân Pháp vừa rút đi.
Nguyên do Trần Văn Xướng bị kết tội là điệp viên cho Pháp là
v́ trong cuộc kiểm thảo ông đă thành thực khai rằng ông xuất thân là
một sĩ quan của Pháp, năm 1945 khi quân Pháp bị quân Nhật tấn công
th́ Thiếu úy Trần Văn Xướng cùng với Thiếu úy Trần Văn
Đôn theo toán quân Pháp chạy tới biên giới Việt Hoa.
Tại đây chỉ huy trưởng của đoàn quân Pháp là Đại tá Carbonel
chỉ thị cho Xướng và Đôn trở lại Việt Nam để làm công tác t́nh báo
cho toán quân Pháp kháng Nhật tại Trung Hoa. Tuy nhiên sau đó cả hai
ông đều chấm dứt làm việc cho quân đội Pháp và trở về quê.
Ông Đôn về Sài G̣n sau đó xin tham gia quân đội Việt Minh
nhưng không được. C̣n ông Xướng về lănh đạo cướp chính quyền tại
Hưng Yên, lấy được một số súng của quân đội chính phủ Trần Trọng Kim
và một số súng Pháp do quân Nhật cất giữ trong các kho của quân đội
Nhật. Nhờ số súng này mà
thành lập được Trung đoàn 42 của Việt Minh.
Năm 1951 Nguyễn Chí Thanh nhận được bản kiểm thảo của Trần
Văn Xướng nói rơ ông xuất thân là một sĩ quan của quân đội Pháp và
lúc quân Pháp chạy sang Trung Hoa th́ ông nhận được chỉ thị ở lại để
hoạt động t́nh báo cho quân đội Pháp (Tức là làm t́nh báo chống lại
Nhật chứ không phải làm t́nh báo chống Việt Minh v́ thời đó chưa có
Việt Minh ).
Bản tự kiểm thảo của Trần Văn Xướng trùng hợp với một số kiểm
thảo khác cũng xác nhận là được Pháp gài vào tổ chức Việt Minh để
làm gián điệp. Thế là
Trần Văn Xướng cùng với hàng loạt cán bộ chỉ huy cấp trung đoàn
trưởng, tiểu đoàn trưởng bị giết hại.
Sau này hồi kư của Vơ Nguyên Giáp xác nhận là tất cả bị giết
oan do một ông tiểu đoàn trưởng bị sức ép tâm lư quá nặng nên bị
bệnh tâm thần khai tầm bậy. Tuy nhiên không có ǵ chắc chắn là Vơ
Nguyên Giáp nói thật, bởi v́ có thể đó chỉ là cái cớ để thanh toán
các cấp chỉ huy xuất thân từ các trường vơ bị của quân đội Pháp,
xong rồi đổ lỗi cho một người bị bệnh tâm thần (sic).
Riêng ông Trần Văn Xướng đă xuất hiện trong hồi kư của Tướng
Trần Văn Đôn: “Năm 1944
t́nh h́nh càng khẩn trương, tôi bị đưa ra thụ huấn khóa sĩ quan hiện
dịch tại Tong, gần Sơn Tây. Trường này mới thành lập được hai khóa.
Khóa sinh viên sĩ quan thứ hai của tôi chỉ có 10 sĩ quan khóa
sinh, trong đó có hai sinh viên gốc Việt Nam là tôi và Trần Văn
Xướng…Mỗi buổi chiều, sau khi tập cưỡi ngựa bắn súng, các khóa sinh
ra sân tập thể dục, đến 6 giờ làm lễ xuống cờ, toàn thể khóa sinh và
huấn luyện viên đứng thẳng tại chỗ nghiêm chỉnh
chào lá cờ tam sắc từ từ kéo xuống.
Một hôm khi tiếng kèn chấm dứt, cờ được tháo khỏi giây, tôi
quay nh́n lại thấy hai hàng nước mắt của Xướng lăn trên má vội hỏi
nguyên do. Anh Xướng trả
lời vắn tắt nhưng rất ư nghĩa:
Anh Đôn ơi!
Ngày nào lá cờ ḿnh chào mỗi ngày kia là cờ của nước Việt Nam
ḿnh!
Nghe Xướng nói, t́nh quốc gia dân tộc sống dậy trong tâm hồn
tôi. Phải!
Ḿnh là người Việt Nam, sao hằng ngày phải chào cờ Pháp.
Tôi nhớ tới những kỷ niệm về rừng người tràn ngập bến tàu gần
hai mươi năm về trước trong buổi đón rước nhà ái quốc Bùi Quang
Chiêu. Tôi nhớ tới đoàn
người dài dằng dặc trong buổi đám tang nhà cách mạng Phan Châu
Trinh. Bao nhiêu người
đă tranh đấu mà giờ này nước Việt Nam cũng chưa có được một lá cờ!
Chưa có lá cờ có nghĩa như nước Việt Nam chưa được hiện diện
trên thế giới này. Tôi
đau xót, tôi xúc động.
Tôi thầm cám ơn người bạn đă gảy sợi tơ ḷng yêu nước trong tôi.
Hôm ấy chúng tôi hứa với nhau sẽ góp phần tranh đấu cho đất
nước để ngày mai ḿnh được hănh diện đứng dưới bóng cờ của chính
quốc gia ḿnh.
Năm 1946 tôi nghe tin Xướng gia nhập bộ đội Việt Minh chiến
đấu chống Pháp tại Hưng Yên, nơi quê hương của anh ta.
Pháp khen khả năng điều binh của Xướng.
Tôi và Xướng lúc đó mỗi người đă tự chọn lựa con đường tranh
đấu cho quê hương theo quan niệm của ḿnh.
Người bạn hôm nào đă trở thành hai kẻ đối nghịch đứng ở hai
chiến tuyến tuy ḷng tôi vẫn quư trọng anh” (Việt Nam nhân chứng,
trang 27). V́ quư trọng Trần Văn Xướng mà Trần Văn Đôn quư trọng
luôn Việt Minh và CSVN.
Nhưng ông không hề ngờ là cuối cùng Trần Văn Xướng vẫn bị giết hại
bởi CSVN, tức là hai ông vẫn cùng một chiến tuyến. Chỉ tiếc là khi
Trần Văn Xướng được trả trở về vị trí một người yêu nước không Cọng
sản th́ cũng là lúc ông phải chết.
Năm 1953, ngày 2-3-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra một sắc lệnh
quy định các thành phần giai cấp ở nông thôn trong vùng Việt Minh
chiếm đóng, gồm có 5 thành phần là địa chủ, phú nông, trung nông,
bần nông và cố nông. Thực ra sắc lệnh này chỉ thi hành tại vùng
Trung Du, tức là chiến khu Việt Bắc;
Liên khu 4 gồm các tỉnh Thanh Hóa Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
B́nh; và Liên khu 5 gồm
các tỉnh Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên. C̣n trên toàn quốc là vùng
do chính phủ Bảo Đại kiểm soát cho nên sắc lệnh này không có hiệu
dụng. Riêng vùng Việt
Bắc lại toàn là đất của các dân tộc Miền Núi cho nên không thể áp
dụng sắc luật này, ngoại trừ tỉnh Thái Nguyên.
Hoàng Tùng đă kể lại : “…Bác chuẩn bị cho hội nghị cán bộ vào
đầu năm 1953, quyết định cải cách ruộng đất. Trung Quốc cử đoàn cố
vấn sang, bao gồm cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên
truyền. Đoàn cố vấn cải
cách ruộng đất do Kiều Hiếu Quang làm trưởng đoàn.
Kiều là phó bí thư tỉnh Quảng Tây.
Họ muốn qua cải cách ruộng đất để chỉnh đốn lại Đảng ta. Thời
gian lúc tiến hành cải cách đến lúc dừng là 3 năm.
Khi đó tôi thường được dự họp Bộ Chính Trị do đó cũng biết
một số việc…”.
Cuộc thảm sát mấy ngàn sĩ quan chỉ huy
Việc trước tiên của Kiều Hiểu Quang là thanh lọc lại toàn bộ
các sĩ quan chỉ huy trong quân đội và các cán bộ quan trọng trong
Đảng CSVN. Sau đó thay
thế bằng những người do các cố vấn lựa chọn.
Tiêu chuẩn để được chọn làm chỉ huy phải là những người có
xuất thân là giai cấp vô sản;
tức là công nhân, bần nông và cố nông;
nghĩa là những người thất học, ai bảo sao th́ nghe vậy.
Trên danh nghĩa, Kiều Hiểu Quang tuyên bố là tổ chức laị đội
ngũ theo học thuyết Mác-Lê, đưa giai cấp vô sản lên lănh đạo “cách
mạng”; nhưng trên thực
tế là triệt hết những cán bộ xuất sắc có từ trước đến nay để thay
bằng những người “thân Trung Quốc” mà các cố vấn đă nhắm truớc.
Dĩ nhiên là các cố vấn nhắm tới thành phần thất học, có hành
vi bợ đỡ, tỏ ra tuyệt đối tôn thờ Mao Chủ tịch vĩ đại.
Cuối cùng đưa tới kết quả là những ngời có tài, có nhiệt tâm
với đất nước, bị thay thế bằng những người có điểm với các cố vấn;
nhưng những người có điểm với các cố vấn lại là những người
bất tài và không có tư cách.
Hoàng Tùng kể lại:
“Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức cũ, mà tổ chức lại một số tổ
chức khác của Đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác như chính quyền,
các đoàn thể. Ai lănh
đạo cách mạng tháng 8 thành công, ai lănh đạo cuộc kháng chiến từ
năm 1945 đến năm 1953.
Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử”!
Dĩ nhiên là Kiều Hiểu Quang không trực tiếp nhúng tay vào việc
giết người, ông chỉ ép buộc Nguyễn Chí Thanh và Vơ Nguyên Giáp phải
thanh toán hết những người có tài bởi v́ để họ ở lại th́ có thê họ
sẽ âm thầm tổ chức quật ngược lại thế cờ hoặc ngấm ngầm tuyên truyền
chống lại trong đảng hay trong quân đội.
Những người bị giết thường bị gán cho cái tội là có lư lịch
liên quan tới Quốc Dân Đảng và xuất thân là thành phần “trí, phú,
địa, hào”. Hầu hết những
người bị giết đều được hỏi hai câu hỏi trước khi bị hành h́nh : “Anh
thuộc giai cấp kẻ thù của giai cấp vô sản, vậy th́ anh vào Đảng của
những người vô sản để làm ǵ?
Rồi lại t́m cách leo cao, luồn sâu trong Đảng để âm mưu ǵ?”.
Trong quân đội, ngoại trừ Tướng Vơ Nguyên Giáp, các tướng có
công khác như Lê
Tùng Sơn, Đặng Văn Cáp, Bùi Ngọc Thành, Vương Thừa Vũ, Cao
Hồng Lănh, Bùi Đức Minh, Trần Quốc Kính, Nguyễn Hữu An, Đặng Vũ Hiệp,
Lê Trọng Nghĩa, Lê
Liêm…đều bị vô hiệu hóa và bị tước hết quyền lực.
Cũng c̣n may là họ không bị thanh toán như các sĩ quan cấp
dưới. Nhờ ở chỗ họ không
chủ tâm xin vào Đảng v́ lập trường giai cấp,
tất cả đều cho biết họ tham gia mặt trận Việt Minh v́ yêu
nước, sau đó Đảng thấy
họ có khả năng mới kết nạp họ chứ họ không thiết tha xin vào.
Do đó nếu đúng theo nguyên tắc tổ chức của Lenin th́ những
người kết nạp họ đă phạm sai lầm chứ không phải họ cố tâm vào Đảng
để phá hoại.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mới có chuyện giết
oan hàng loạt những người tài có công với ḿnh, họ không có tội ǵ
hết nhưng phải giết họ chỉ v́ ông chủ mới không muốn thấy họ trong
bộ máy quyền lực của CSVN.
Cũng có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới mới có
chuyện giết mấy ngàn vị sĩ quan chỉ huy của ḿnh mà không biết họ có
tội ǵ. Trên thế giới
cũng có những vụ thanh toán các cấp chỉ huy nhưng đều xảy ra khi có
bằng chứng họ tạo phản hoặc nghi ngờ họ có thể tạo phản.
Nhưng đằng này độc đáo là ở chỗ biết họ rất trung thành, rất
có công với ḿnh và đang miệt mài chiến đấu v́ ḿnh.
Hoàng Tùng có vẻ thản nhiên khi thú nhận là CSVN đă giết oan
hằng mấy ngàn vị chỉ huy trong Đảng cũng như trong Quân đội CSVN,
ông coi như là chuyện giết gà giết chó.
Nhưng cho dầu là đối với loài thú, loài người cũng không chấp
nhận chuyện vô cớ giết oan những con thú trung thành, đang hết ḷng
phục vụ cho ḿnh.
Hoàng Tùng cố ư đổ hết trách nhiệm vụ thảm sát này cho Trung
Quốc, và có vẻ như ông là người đầu tiên công bố bí mật đau xót này.
Tuy nhiên trước đó 5 năm, vào thời Nguyễn Văn Linh cho phép
nói thẳng nói thật, th́ Đại tá Thanh Tịnh và Đại tá Phạm Quế Dương
đă nói xa nói gần, đ̣i đưa vụ án ra trước công lư.
Cả hai vị đại tá đều nêu đích danh người phải chịu trách
nhiệm là Nguyễn Chí Thanh và Vơ Nguyên Giáp.
Vụ án này là một chứng minh cho thấy cả một thế hệ nhân tài
cuối cùng của cuộc “Cách mạng Mùa Thu” đă bị tiêu diệt. C̣n lại rặt
một đám vô sản lưu manh chạy theo bợ đỡ cán bộ Trung Quốc để được
tiến thân trong ĐCSVN.
Lúc Nguyễn Chí Thanh và Vơ Nguyên Giáp quyết định giết mấy
ngàn sĩ quan chỉ huy trong quân đội th́ các ông thừa biết rằng họ bị
oan, bởi v́ chính các ông cũng có xuất thân y hệt như họ.
( Hết trích )
Trích sách Giải Mă Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam, Bùi
Anh Trinh, chưa xuất bản, đă đăng trên Nhật báo Sài G̣n Nhỏ từ 2011
đến 2012:
Quả báo trước mắt
Năm 1960, ngày 5-9, Đại hội toàn quốc lần thứ 3 chính thức bầu
Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất do v́ ở Liên Xô cũng không có chức vụ
Tổng bí thư, Krushcheve cũng chỉ là Bí thư thứ nhất của Liên Xô.
Đặc biệt kỳ này sửa đổi điều lệ Đảng, đặt ra chức Chủ tịch
Đảng dành cho ông Hồ Chí Minh nhưng không có điều lệ nào quy định
nhiệm vụ của Chủ tịch Đảng.
Ngoài ra quy định Ban chấp hành Trung ương gồm có 47 người,
nhưng thành phần dự khuyết lên tới 31 người.
Nghĩa là sẽ có vô số ông mất chức không biết lúc nào ( Phạm
Đ́nh Nhân, Những Sự Kiện
Lịch Sử Việt Nam, Trung tâm UNESCO Hà Nội, trang 583 ).
Đại hội cũng quyết định Đại tướng Vơ Nguyên Giáp thôi giữ chức
Phó thủ tướng kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân đội, xuống giữ chức Chủ
nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, Tướng Chu Văn Tấn thay Vơ Nguyên
Giáp giữ chức Tổng tham mưu trưởng.
Thực ra việc ngưng chức đă xảy ra trước đại hội 2 tháng.
Năm 1960, ngày 28-12, họp Đại hội lần thứ 2 Trung ương Đảng
CSVN để nghe tường tŕnh của phái đoàn tham dự Hội nghị tại Liên Xô.
Đại hội biểu quyết không ngă theo chủ trương sống chung ḥa
b́nh của Krushcheve.
Ngoài ra quyết định Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ra khỏi Quân
đội, giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Phát triển nông nghiệp;
Đại tướng Văn Tiến Dũng thay Nguyễn Chí Thanh giữ chức Tổng
Bí thư Quân ủy và Trung tướng Song Hào thay Nguyễn Chí Thanh giữ
chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Tại sao hai đại tướng bị hạ thấp quyền lực ? :
Sở dĩ hai ông Đại tướng bị hạ thấp quyền lực v́ Lê Duẫn và Lê
Đức Thọ liên kết với Trường Chinh, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt
quyết định lấy lại quyền lực về cho ĐCSVN.
Sau vụ cải cách ruộng đất 1956 th́ mọi quyền lực tập trung
trong tay ông Hồ Chí Minh với cánh “Độc lập Đồng minh Hội” là Phạm
Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Lương Bằng,
Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm, Phùng Thế Tài …
Ông Lê Duẩn hạ đựơc ông Hồ Chí Minh dễ dàng v́ trong thời gian
làm việc chung với Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai
ông Duẩn biết được HCM đă từng bán các đồng chí của ḿnh và bị CSQT
kỷ luật. Tuy nhiên trước
khi hạ ông HCM th́ các ông cần phải tỉa bớt quyền lực của hai ông
đại tướng thân tín của HCM đang nắm giữ quân đội.
Vơ Nguyên Giáp là đệ tử của ông HCM từ thời thành lập Việt
Minh Hội, c̣n Nguyễn Chí Thanh th́ sau vụ Cải cách ruộng đất thấy
Trường Chinh và ĐCSVN đă mất hết quyền lực bèn ngă theo phe của ông
HCM, thậm chí có tin ông HCM nhận Nguyễn Chí Thanh làm con nuôi.
Kể từ ngày La Quư Ba phát động chiến dịch chỉnh quân năm 1951,
Vơ Nguyên Giáp biết rằng dưới con mắt các cố vấn th́ ông là một
người không được tín nhiệm.
Nhưng rồi ông đă phạm một lỗi lầm nghiêm trọng trong sự
nghiệp chính trị của ông.
Đó là trong bản tự khai lư lịch ông đă cố t́nh khai man về
nguyên do ông bị ở tù năm 1930.
Thực ra năm đó Vơ Nguyên Giáp bị tù do ông tổ chức biểu t́nh
phản đối xử án Nguyễn Thái Học nhưng ông biết các cố vấn Trung Quốc
căm ghét thậm tệ Quốc Dân Đảng, cho nên ông ghi trong bản tự khai lư
lịch rằng ông bị tù v́ tội biểu t́nh ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh.
V́ vậy Lê Đức Thọ trưng ra bằng chứng
Vơ Nguyên Giáp man khai lư lịch.
C̣n Nguyễn Chí Thanh xuất thân con nhà quan lại tư sản, học
trường Tây mà lại khai lư lịch là thành phần cố nông, đi cày thuê,
bắt đầu học chữ trong tù. Vậy th́ rơ ràng hai ông thuộc giai cấp tư
sản phản động, làm đơn vào Đảng chỉ để kiếm chác quyền lực chứ không
phải là để hy sinh cho giai cấp vô sản.
Điều này hoàn toàn trái với nguyên tắc tổ chức do Lenin đặt
ra.
Trong mỗi tổ chức Cọng sản, người ta phải kiểm tra kỹ nhân
thân và lập trường của đối tượng trước khi anh ta được kết nạp.
Bắt buộc anh ta phải trải qua một thời gian thử thách lâu dài
để biết chắc rằng anh ta vào Đảng chỉ v́ nhiệt tâm muốn hy sinh
tranh đấu cho quyền lợi của giai cấp vô sản.
Không hề có chuyện gia nhập tổ chức Cọng sản để kiếm chác.
Kẻ nào muốn kiếm
chác trong ĐCS th́ đồng nghĩa với phá hoại Đảng. C̣n những kẻ khai
gian lư lịch để vào Đảng th́ rơ ràng là muốn luồn vào Đảng để phá
hoại. Nếu phát hiện ra
t́nh trạng khai gian th́ ngay đến những người giới thiệu hay kết nạp
anh ta vào Đảng cũng phải chịu kỷ luật.
Do đó nếu áp dụng triệt để nguyên tắc tổ chức của Leninist
th́ lẽ ra cả hai ông tướng đều bị thanh trừng.
Cũng với nguyên
tắc này mà năm 1953 hai ông tướng đă dùng để giết mấy ngàn vị chỉ
huy xuất sắc trong quân đội.
Tất cả bị quy cho tội âm mưu leo cao luồn sâu trong Đảng để
phá hoại. V́ vậy nên giờ
đây cả 2 ông tướng đều không dám hó hé;
người ta chỉ cần dọa đưa nội vụ ra trước công luận th́ 2 ông
thân bại danh liệt ngay.
Sau này hồi kư của Vũ Thư Hiên cho rằng Tướng Giáp bị hạ tầng
công tác là do năm 1954 người ta phát hiện một lá đơn của ông gửi
Toàn quyền Pháp để xin được đi du học, lời lẽ trong thư rất tệ mạt.
C̣n Tướng Nguyễn Chí Thanh th́ bị ông Đặng Xuân Thiều tố cáo
là thời 1941 Thanh đă phản bội tổ chức, khai báo cho thực dân bắt
các đồng chí. Ngoài ra
hồi kư Mặt Thật của ông Bùi Tín cũng cho biết năm 1975 người ta t́m
được bằng chứng phản bội của Tướng Thanh trong hồ sơ lưu trữ của
Chính quyền Sài G̣n. Cho
tới nay chưa có một thông tin nào khác để có thể kiểm chứng nguồn
tin của ông Vũ Thư Hiên cũng như của ông Bùi Tín.
Ngoài Vũ Thư Hiên và Bùi Tín c̣n có Trần Quỳnh, ông Quỳnh cho
rằng chính Trường Chinh tố cáo rằng có lần ông ta đến chơi nhà ông
Đặng Thái Mai thấy ông Mai đang xem một bức thư của chánh mật thám
Pháp Martini với hàng chữ đầu là : “Các con Mai và Giáp thân mến”.
Nhưng khi ông Trần Quỳnh viết lên chi tiết này th́ ông Trường
Chinh đă qua đời cho nên khó biết ông Chinh có nói hay không.
Vả lại t́nh tiết có vẻ phi lí cho nên dẫu cho ông Chinh có
nói th́ cũng không thể tin được.
Riêng Nguyễn Chí Thanh th́ do đă đánh lừa được các ông Trung
ương Đảng từ trên xuống dưới cho nên các ông mới tức ḿnh giao cho
Thanh phụ trách phát triển nông nghiệp cho đáng cái tội giả dạng
nông dân của ông ta. Quả
nhiên khi Thanh giữ nhiệm vụ này th́ chẳng có thành tích nào đáng kể
về mặt tổ chức sản xuất nông nghiệp, chứng tỏ ông không thiết tha ǵ
đến nghề nông. Ngày nay
chỉ c̣n lại một kỷ niệm là bài thơ của nhà thơ Bút Tre: “Hoan hô anh
Nguyễn Chí Thanh. Anh về
phân bắc, phân xanh đầy đồng”.
Có lẽ v́ quá chán nghề nông cho nên
năm 1964 Thanh t́nh nguyện vào Nam chiến đấu để có thể trở
lại vị trí chỉ huy quân đội.
Sở dĩ Nguyễn Chí Thanh bị phát hiện khai man lư lịch là do sau
hiệp định Geneve Tôn Quang Phiệt và Tố Hữu từ Thừa Thiên
tập kết ra Bắc và làm việc tại Hà Nội.
Đến năm 1957 Lê Duẫn từ Miền Nam ra th́ Tôn Quang Phiệt gặp
lại đệ tử của ḿnh ( Phiệt kết nạp Duẩn vào Đảng Tân Việt năm 1928.
Và cả hai cùng gia nhập ĐCSĐD năm 1938 do Hà Huy Tập và Trần
Ngọc Danh kết nạp ). C̣n
Tố Hữu th́ gặp lại sư phụ của ḿnh ( Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim
Thành được Lê Duẩn và Nguyễn Khoa Văn kết nạp vào năm 1938 ).
Gặp lại Lê Duẩn th́ Phiệt và Thành tố cáo Nguyễn Chí Thanh
không xứng đáng ngồi trong ban chấp hành Trung ương do v́ xuất thân
không phải gai cấp cố nông, chỉ là khai man lư lịch.
Nghe vậy th́ Lê Duẫn để đó, đợi đến đại hội toàn quốc th́ đưa
Tôn Quang Phiệt vào Ban chấp hành Trung ương rồi sau đó họp đại hội
Trung ương đưa Nguyễn Chí Thanh ra kiểm điểm và buộc Thanh ra khỏi
quân đội.
( Hết trích )
Trích sách Chuyện Nước Non Đau Ḷng Tới Ngàn Năm, từ trang 531
đến trang 753 :
Khả năng quân sự của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp:
Trận Phố Lu ( trận thứ nhất )
Tin báo chí: 12-2-1950, đồn Phố Lu bị tấn công và thất thủ.
Quân Pháp rút về tỉnh lỵ Lào Cay
(Đoàn Thêm, Việc từng ngày 20 năm qua, trang 67).
Dân chúng Hà Nội nhốn nháo v́ Phố Lu nằm sát biên giới Trung
Hoa mà quân Mao Trạch Đông vừa mới chiếm xong Vân Nam, tiếp giáp với
Lào Cay.
Thực ra trận tấn công Phố Lu không dính dáng ǵ đến quân đội
Trung Quốc. Mà chỉ là
Tướng Giáp thi hành nghị quyết tổng phản công của Trường Chinh.
Ông cho tập trung quân đánh một trận mở màn tại một nơi xa
xôi nhất đối với sự tiếp viện của quân Pháp, đó là trận Phố Lu :
“Đầu năm 1950…Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Tây
Bắc…Bộ đội ta tiêu diệt thị trấn Phố Lu, đồn Bản Lầu, buộc địch rút
khỏi Nghĩa Đô, nhưng cũng bị tiêu hao nhiều
( trận Phố Lu hy sinh 100, bị thương 180, trong đó có 13 cán
bộ ), chiến dịch phải tạm ngừng” (Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2,
trang 10).
Tướng Giáp ghi là Bộ tổng tư lệnh quyết định th́ có nghĩa là
ông ta quyết định, nhưng cũng có nghĩa là quyết định đó rất là tệ
hại. C̣n khi nào hậu quả
của quyết định tốt đẹp th́ ông luôn luôn ghi rằng “Tôi quyết định”.
Trong trường hợp này th́ trận Phố Lu đă thất bại v́ một trung
đoàn 2.500 nguời đánh 1 đại đội khoảng hơn 100 người mà kết quả th́
ta chết 100, bị thương 180 và đă bắn hết số đạn có được từ năm 1945
cho nên chiến dịch phải tạm ngưng, có nghĩa là từ đó không c̣n đánh
trận nào nữa.
Đây là trận đánh đầu tiên của bộ đội Việt Minh ở cấp trung đoàn do
đích thân Đại tướng Vơ Nguyên Giáp chỉ huy.
Và đây cũng là trận cuối cùng của bộ đội Việt Minh bởi v́ sau
đó 2 tháng Vơ Nguyên Giáp dẫn 20.000 người sang Trung Quốc nhận vũ
khí và huấn luyện của Mao Trạch Đông.
Kể từ đó không c̣n là bộ đội Việt Minh nữa, mà là Quân đội
Nhân dân Việt Nam do Mao Trạch Đông thành lập và chỉ huy. Tất cả từ
quân trang, vũ khí, gạo ăn đều do Trung Quốc cung cấp.
Đến năm 1952 Mao Trạch Đông đă thành lập đựơc 6 sư đoàn Quân
đội nhân dân Việt Nam, trong đó có 1 sư đoàn pháo binh.
Việc chỉ huy và điều động Quân đội nhân dân Việt Nam do Tướng
Vi Quốc Thanh của Trung Quốc đảm nhận, cùng với 79 sĩ quan tham mưu
nằm tại Bộ tổng tư lệnh của Vơ Nguyên Giáp cũng như tại các Bộ chỉ
huy sư đoàn, trung đoàn.
Trận Phố Lu không được tính là trận đầu tiên của Vơ Nguyên
Giáp bởi v́ thực ra đó là một trận thất bại.
Măi cho tới tháng 10 năm 1950 Đại tướng Trần Canh của Trung
Quốc mới dẫn 30 tiểu đoàn CSVN (Tương đương 3 sư đoàn) về đánh Cao
Bằng th́ mới tính đây là trận đầu tiên của Quân đội CSVN.
Hồi kư của Tướng Giáp xác nhận :
“Ngay sau khi Bác
trở về nước vào cuối tháng 3 năm 1950, các bạn Trung Quốc đă nhanh
chóng thực hiện những cam kết. Tháng 4 năm 1950, 2 trung đoàn của
308 đi theo đường Hà Giang qua Mông Tự (Vân Nam) nhận vũ khí.
Tiếp đó, 1 trung đoàn của 312 đi theo đường Cao Bằng qua Hoa
Đồng (Quảng Tây). Bạn
cũng chở gấp vũ khí sang Cao Bằng để trang bị tiếp cho 2 trung đoàn
khác phải ở lại chiến trường để đối phó với quân địch.
Những đơn vị sang Trung Quốc, ngoài việc trang bị lại vũ khí
c̣n được bạn huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc biệt là
kỹ thuật đánh bộc phá…” (Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang
15).
Đoạn hồi kư trên đây chứng minh bắt đầu từ năm 1950 th́ quân
đội Việt Minh mới có súng.
Nhưng cũng kể từ khi có súng th́ quân đội Việt Minh không c̣n
là quân của Việt Minh nữa, mà là quân của Cọng sản, hay nói cho cụ
thể hơn là quân của Mao Trạch Đông.
Ngay trong tháng 4 năm 1950 đă có 5 trung đoàn được Mao Trạch
Đông trang bị vũ khí và huấn luyện.
Như vậy truyền thuyết nói rằng quân đội Việt Minh từ giáo mác
với gậy tầm vông mà đă dần dần biến thành Quân đội nhân dân với vũ
khí hạng nặng để chọi với quân Pháp và chiến thắng là điều không thể
có được. Thực tế là quân CSVN chỉ có thể đánh nhau với quân Pháp sau
khi Mao Trạch Đông trở thành ông chủ mới của Bộ đội Việt Minh.
Ngoài ra Vơ Nguyên Giáp cũng xác nhận :
“Lần đầu, cây mác xung kích được đưa ra khỏi đội h́nh chiến
đấu của những trung đoàn chủ lực…Những năm qua, mỗi chiến sĩ chỉ ước
mơ có một khẩu súng trong tay. Bây giờ không chỉ có súng mà đạn dược
cũng khá dồi dào…” (trang 16).
Như vậy cho tới trận Phố Lu vào tháng 2 năm 1950 các trung
đoàn Thủ Đô, Sông Lô, Cao Bắc Lạng mang tiếng là trung đoàn nhưng vũ
khí chủ yếu là cây mác, tức là một loại dao có cán dài; có một số
súng nhưng không đủ cho mỗi người một cây và không có đạn.
Trận Đông Khê (
Trận thứ nh́ )
Từ xưa đến nay các nhà nghiên cứu quân sử quốc tế chỉ biết
chiến tranh Đông Dương được mở màn bởi trận chiến thắng đầu tiên của
Vơ Nguyên Giáp tại Cao
Bằng. Trận này được khai
diễn vào ngày 16-9-1950 bằng cuộc tấn công chiếm đồn Đông Khê và kết
thúc bằng trận tiêu diệt 2 binh đoàn Pháp đi lạc trong khu vực Cốc
Xá vào ngày 7-101950.
Nhưng sau khi Trung Quốc cho bạch hóa các tài liệu quân sự, và sau
khi nhật kư của Tướng Trần Canh được phát hành vào năm 1984 th́ mọi
người mới hay rằng trận Cao Bằng do Đại tướng Trần Canh của Trung
Quốc chỉ huy.
Theo như lời kể lại của Tướng Trần Canh th́ trước đó Vơ Nguyên
Giáp đă lên phương án đánh vào Thị xă Cao Bằng, nhưng Tướng Trần
Canh đă bác phương án này và đưa ra phương án đánh đồn binh Pháp tại
Thị trấn Đông Khê. Sau
đó quân CSVN đă tiến đánh Đông Khê với quân số 10.000 người, trong
khi phía quân Pháp chỉ có 260 người. Vậy mà quân CSVN phải bị thương
vong tới 500 người mới chiếm nổi Đông Khê.
Tướng Trần Canh đă thẳng thắn nói với Tướng Giáp rằng trận
chiến thương vong cao do “hiệp đồng tác chiến không chính xác”, trận
đánh dự kiến khởi sự vào tối 16-9-50 mà măi cho tới trưa 17 có đơn
vị vẫn chưa tới vị trí ấn định sẵn.
Tướng Canh cho rằng sở dĩ hiệp đồng không chính xác bởi v́ Bộ
chỉ huy của Tướng Giáp “ngại xông pha ngoài tiền tuyến nên không
liên lạc được với các cánh quân”.
Ngoài ra các sĩ quan của Tướng Giáp “báo cáo sai lạc để che
giấu tin xấu”.
Để đáp lại, Đại tướng Vơ Nguyên Giáp chỉ im lặng trước những
lời tố cáo của Trung Quốc.
Trong khi đó th́ Viện nghiên cứu lịch sử Quân đội CSVN tố cáo
phía Trung Quốc là đă đặt điều.
Nhưng rồi 10 năm sau hồi kư của Bí thư Hoàng Tùng đă vô t́nh
xác nhận: “Mùa thu năm
1950 ta đánh chiến dịch Biên giới Đường số 4. Trần Canh trực tiếp
sang giúp. Tôi nghe lúc
đầu ta định đánh Cao Bằng ( theo ư ông Giáp).
Trần Canh nói ta nên đánh Đông Khê”.
Đến nông nỗi này th́ Tướng Giáp buộc ḷng phải cho ra đời
quyển hồi kư “Đường tới Điện Biên Phủ” để giải thích về quan hệ giữa
Mao Trạch Đông và Quân đội CSVN trước khi có trận Điện Biên Phủ.
Tuy nhiên khi quyển sách được phát hành th́ các nhà quân sử
lại ngạc nhiên một lần nữa khi Tướng Giáp xác nhận trận chiến thắng
Cao Bằng vào tháng 10 năm 1950 không phải là trận chiến thắng đầu
tiên của Bộ đội CSVN sau nghị quyết “chuyển sang tổng phản công”.
Mà trước đó 4 tháng đă có một trận đánh chiếm Đông Khê thành
công. Các nhà nghiên cứu quân sự quốc tế ngạc nhiên v́ trước nay
không hề thấy CSVN ca tụng chiến thắng này, chiến thắng đầu tiên kể
từ khi ông Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Một dấu hỏi lớn được đặt ra là ai đă làm nên chiến thắng tại
Đông Khê. Và tại sao
Tướng Giáp lại có thái độ nửa úp nửa mở mỗi khi buộc phải nhắc đến
vị anh hùng đă chỉ huy trận đánh đó?
Để chứng minh rằng phía Việt Nam đă có ư định đánh Đông Khê
trước khi có ư kiến của Trần Canh, Tướng Giáp đă dẫn chứng một buồi
họp tham mưu trước trận đánh mà trong đó có mặt Tướng Chu Huy Mân,
Tướng Vương Thừa Vũ, Tướng Trần Độ, Tướng Nguyễn Hữu An, Tướng Song
Hào, Tướng Cao Văn Khánh là những người hiện c̣n sống :
“Các đơn vị bắt đầu phản ánh ư kiến của cán bộ sau khi đi
trinh sát về. Đại đoàn
308 được trao nhiệm vụ tiến công tiêu diệt pháo đài, nhận thấy công
sự của địch quá vững chắc khó giành thắng lợi.
Trung đoàn 209 phải vượt sông Bằng ngại khó khăn v́ sông sâu,
nước chảy xiết và không giải quyết được hỏa lực bắn chéo sườn của
địch. Trung đoàn 174 đề
nghị nên đánh Đông Khê, chưa nên đánh Cao Bằng… … …Tôi kết luận:
“Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch đă nghe các cấp chỉ huy đi trinh
sát Cao Bằng về báo cáo…Phương án tác chiến đă được chủ tịch Hồ Chí
Minh phê chuẩn. Mở đầu
chiến dịch, tập trung lực lượng tiêu diệt Đông Khê…” (trang 32 và
33).
Đoạn hồi kư này xác nhận chuyện bỏ Cao Bằng, chuyển sang đánh
Đông Khê là do sáng kiến của Trung đoàn trưởng 174.
Mặc dầu Tướng Giáp không nêu tên của vị Trung đoàn trưởng và
không gải thích lư do v́ sao mà Trung đoàn trưởng 174 đề nghị nên bỏ
Cao Bằng mà đánh Đông Khê.
Nhưng ngược trở lại đoạn trước th́ thấy Tướng Giáp có ghi:
“Trận đánh Đông Khê của Trung đoàn 174 ngày 25-5-1950 vừa
qua, nằm ngoài ư định của bộ Tổng tư lệnh. Bộ đội ta tiêu diệt Đông
Khê đă làm rung động khu Biên thùy Đông Bắc.
Địch đă rút hầu hết những vị trí nhỏ về tổ chức thành những
cụm cứ điểm…” (trang 20).
Như vậy người ta có thể suy đoán được rằng ông Trung đoàn
trưởng 174 khuyên nên đánh Đông Khê bởi v́ ông ta đă từng đánh Đông
Khê và chiến thắng dễ dàng, mặc dầu lần đó Trung đoàn 174 chưa được
trang bị vũ khí của Trung Quốc và chưa được Mao Trạch Đông huấn
luyện.
Vậy th́ trận đánh Đông Khê vào tháng 5 năm 1950 mới là trận
đánh đầu tiên làm rung động khu Biên thùy Đông Bắc.
Khu biên thùy Đông Bắc gồm có các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn. Và tên của Trung đoàn 174 trước khi được Mao Trạch Đông
trang bị và huấn luyện th́ có tên là Trung đoàn Cao Bắc Lạng.
Cái tên của Trung đoàn nói lên tính cách địa phương của đa số
binh sĩ và cũng nói lên
mặt mạnh của ông Trung đoàn trưởng là ông ta rất rành t́nh h́nh cũng
như rành địa thế. Vậy
th́ tại sao trong các sử liệu của CSVN và các hồi kư của Vơ Nguyên
Giáp không hề đề cập tới chiến thắng Đông Khê vào tháng 5 năm 1950.
Hơn nữa, cái câu tḥng: “nằm ngoài ư định của bộ Tổng tư
lệnh” khiến cho người ta đâm ra khó hiểu cho ư nghĩa của đoạn văn
này; nhưng phân tích kỹ
th́ nó có nghĩa là trận này Tướng Giáp không có ra lệnh, và Trung
đoàn Cao Bắc Lạng cũng không tham khảo ư kiến của tướng Giáp trước
khi đánh.
Nhưng xét theo
nguyên tắc lănh đạo thời “nằm vùng kháng chiến” th́ ông Trung đoàn
trưởng Cao Bắc Lạng không cần tham khảo ư kiến của Tướng Giáp bởi v́
đă có nghị quyết “chuyển sang tổng phản công của” Trường Chinh.
Hơn nữa, các đơn vị bộ đội Việt Minh hoạt động thời “nằm vùng
kháng chiến” có tính cách cát cứ;
nghĩa là tự nghiên cứu t́nh h́nh địa phương của ḿnh, tự
tuyển mộ lực lượng, và tự chỉ huy đánh trận chứ không theo hệ thống
chỉ huy của Quân đội bởi v́ lúc đó tổ chức Quân đội Nhân Dân Việt
Nam chưa được thành h́nh và chưa nhận được trang bị cũng như tiếp
liệu của Bộ Tổng tư lệnh. Vả lại phương tiện liên lạc thời đó chỉ là
do người mang thư đưa đi cho nên Tướng Giáp không thể nào bám sát
t́nh h́nh tại mỗi địa phương để ra lệnh điều động.
Do đó từ các ông Nguyễn B́nh, Nguyễn Văn Tây, Trần Văn Trà,
Bảy Viễn ở Miền Nam, cho đến các ông Nguyễn Quyết, Vơ Chí Công ở
Miền Trung, cho đến Trung đoàn Sông Lô, Trung đoàn Cao Bắc Lạng ở
Miền Bắc cũng vậy. Ngoại
trừ Trung đoàn Thủ đô do đi theo bảo vệ bác Hồ Chí Minh và chính phủ
Việt Minh nên mới phải nghe lệnh trực tiếp của Tướng Giáp mà thôi.
Ngoài ra, vào tháng 5 năm 1950 th́ Tướng Giáp đang dẫn 2 trung
đoàn của 308 và 1 trung đoàn của 312 sang Trung Quốc nhận trang bị
và huấn luyện cho nên ông không có dính dự ǵ vào chiến thắng oanh
liệt này. Trong khi ông
luôn luôn mong muốn chiến thắng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt
Nam phải được kể là chiến thắng của chính tay ông chỉ huy.
Người ta thấy rơ niềm mong ước của ông trong đoạn hồi kư : “Đánh
Cao Bằng sẽ khó bảo đảm nguyên tắc “trận đầu phải thắng” của quân
đội ta. Và nếu đánh thắng, cũng khó tránh khỏi tổn thất lớn trong
khi ta chỉ tiêu diệt được một bộ phận nhỏ quân địch : 2 tiểu đoàn” (trang
30). V́ lư do đó mà Tướng Giáp không thừa nhận chiến thắng Đông Khê
của Trung đoàn Cao Bắc Lạng vào tháng 5-1950 là chiến thắng đầu tiên;
mà phải tính trận Cao Bằng vào tháng 10 do chính ông ta chỉ
huy mới là chiến thắng đầu tiên.
Do đó câu nói “nằm ngoài ư định của Bộ tư lệnh” có vẻ không
ăn nhập ǵ với đoạn văn, nhưng thực ra đó là câu Tướng Giáp giải
thích v́ sao ông ta không công nhận chiến thắng trước đây của Trung
đoàn 174.
Ngoài ra hồi kư của Tướng Giáp cũng vô t́nh cho thấy vũ khí
của Trung đoàn Cao Bắc Lạng vào lúc đó là do tự t́m kiếm được, nghĩa
là do đánh trận và thu chiến lợi phẩm:
“Trung đoàn 174, mấy năm qua chiến đấu trên Đường số 4, thu
được nhiều vũ khí chiến lợi phẩm của Pháp, Mỹ nhẹ và hiện đại, đề
nghị giữ lại những trang bị đă có, Bộ Tổng tham mưu đă chỉ thị cho
các đơn vị chủ lực của Bộ, đều phải nhận vũ khí mới để thống nhất
việc cung cấp đạn dược” (trang 16).
Như vậy, nếu tinh ư, người ta sẽ mơ hồ nhận ra thuở đó có một
nhân vật quân sự rất tài giỏi nằm trong Quân đội CSVN nhưng nhân vật
này không hề được các tài liệu quân sử của CSVN nhắc đến.
Đến khi chuẩn bị đánh trận Cao Bằng vào tháng 9 năm 1950 th́
ông Trung đoàn trưởng 174 lại xuất hiện trong buổi hội ư trước trận
đánh và chính ông ta là người đề xuất nên đánh Đông Khê thay v́ đánh
Cao Bằng. Vậy là trận đánh chưa diễn ra nhưng ông Trung đoàn trưởng
174 đă ghi chiến công đầu tiên bởi v́ ông ta là người đầu tiên đề
xuất bỏ Cao Bằng đánh Đông Khê chứ không phải là Tướng Trần Canh của
Trung Quốc. Và rồi cũng v́ vậy mà ông ta được giao nhiệm vụ chỉ huy
cánh quân chủ lực đánh vào Đông Khê lần thứ 2 : “Trung đoàn 174,
chiến thắng ở Đông Khê lần trước, được chọn làm đơn vị chủ công.
Phối hợp tác chiến là Trung đoàn 209” (trang 37).
Khi trận đánh bắt đầu nổ ra th́ Trung đoàn 174 hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ : “Giờ đầu, địch chưa kịp phản ứng trước đ̣n tấn công
bất ngờ. Ban chỉ huy
Đông Khê báo cáo về, ở hướng Bắc và Đông Bắc, trung đoàn 174 làm
nhiệm vụ chủ công đă chiếm lĩnh đầu cầu. 9 giờ chiếm đồi Yên Ngựa.
10 giờ 30, chiếm tiếp Ph́a Khóa. Địch chưa phản kích.
Nhưng vẫn chưa có báo cáo của Trung đoàn 209 ở hướng Đông
Nam” (trang 47).
Như vậy Trung đoàn trưởng 174 lại ghi được bàn thắng thứ hai.
Sau đó toàn bộ kế hoạch tấn công bị khựng lại: “Buổi trưa, anh
Thái báo cáo : Một bộ phận của Trung đoàn 209 hành quân lạc, nên
Trung đoàn chưa kịp bố trí trận địa tiến công.
Đề nghị tạm ngưng trận đánh… Mặc dầu chuẩn bị kỹ lưỡng, nhưng
trận đánh ngay từ đầu đă có sự trục trặc.
Tôi chấp nhận đề nghị”.
“4 giờ sáng ngày 17, Trung đoàn 174 mới chiếm thêm Cặm Phầy. Ở
phía Nam Trung đoàn 209 cũng chỉ chiếm được phía nam Đông Khê, gồm
Phủ Thiện, Nhà cũ, và Trường học th́ vấp phải những hỏa điểm ngầm và
hỏa lực súng cối bắn chặn phải dừng lại. Cả
hai mũi đều không phát triển được nữa.
Đồng chí Trần Canh nói:
“Không nên để trận đánh kéo dài”.
Bác nhấn mạnh: “Dù
khó khăn thế nào, trận đầu cũng phải thắng”.
Đây là lần thứ hai Tướng Giáp nhắc lại câu “trận đầu phải
thắng”, các ông cố t́nh quên trận thắng đầu tiên là trận Đông Khê
trước đó 4 tháng.
Thế rồi Tổng tư lệnh Vơ Nguyên Giáp giải quyết chiến trường
bằng cách gởi đi một “nghị quyết”(sic) :
“Lệnh cho hai trung đoàn chấn chỉnh lại bộ đội , rút kinh
nghiệm để khắc phục những thiếu sót về chiến thuật, kỹ thuật, đặc
biệt là về quan hệ hợp đồng chiến đấu giữa các mũi xung kích, giữa
bộ binh với pháo binh. Cần dứt điểm trong đêm 17 tháng 9”(trang 48).
Trong khi các cánh quân đang cần một cái lệnh điều binh như
thế nào: Cánh nào tạt
qua trái, cánh nào chuyển sang phải, cánh nào tiến lên, cánh nào
thối lui, cánh nào trụ lại, cánh nào thọc hông, cánh nào bọc hậu.
Thế nhưng ông Tướng lại ra lệnh “rút kinh nghiệm” giữa lúc con người
ta đang c̣n đánh nhau ác liệt trên trận địa. Rồi tưởng đâu rút kinh
nghiệm chuyện ǵ, hóa ra lại rút kinh nghiệm về hợp đồng tác chiến.
Khả năng hợp đồng tác chiến như thế nào th́ phải huấn luyện cho con
người ta nhuần nhuyễn trước khi đưa họ ra trận đánh, chuyện này đ̣i
hỏi nhiều ngày nhiều tháng và phải diễn tập nhiều lần.
C̣n trong khi đang đánh nhau th́ không thể nào thay đổi khả
năng hiệp đồng tác chiến của họ được.
Nhất là trong t́nh thế có nguy cơ sẽ bị thua đến nơi.
Vả lại khuyết điểm trong hiệp đồng tác chiến vào lúc đó là
khuyết điểm của ông Tướng chứ không phải là của các đơn vị tham
chiến. Trước khi xuất quân th́ đă giao hẹn với nhau là cả hai cánh
quân cùng áp sát, bố trí quân trước các mục tiêu vào buổi chiều;
và cùng tấn công một lượt trong buổi tối.
Thế nhưng trung đoàn 174 đánh từ tối đến sáng th́ xong phần
vụ của ḿnh, c̣n 209 th́ đến trưa vẫn c̣n đi lạc, hai bên không hiệp
đồng với nhau nổi. Vậy th́ hoàn toàn lỗi do ông Tướng, ông hiệp đồng
làm sao mà ông này c̣n đi lạc th́ ông kia đă tấn công?
Bởi vậy nếu có rút kinh nghiệm th́ chỉ có ông rút chứ không
phải ai khác.
Nhưng cũng may, giữa lúc t́nh h́nh đang lâm vào thế hiểm nghèo
đột nhiên có người mở miệng ra lệnh cho Tướng Giáp:
“Trung đoàn trưởng 174 Đặng Văn Việt đề nghị Bộ cho chuyển
hướng đột phá của Trung đoàn 209 qua phía Đông pháo đài, bỏ hướng
Bắc v́ địch tập trung đối phó, và chỉ thị cho 209 đánh một mũi từ
phía Nam lên, một mũi vào sau lưng pháo đài. Đề nghị của đơn vị chủ
công được chấp thuận” (trang 48). Thay v́ nói rằng “đề nghị của Đặng
Văn Việt được chấp thuận” th́ ông Tướng chỉ nói “đề nghị của đơn vị
chủ công”; nếu người ta
chỉ đọc qua th́ sẽ không để ư hoặc không hiểu “đơn vị chủ công” là
ai; trong khi
thực ra đơn vị chủ công là Đặng Văn Việt.
Ông Tướng né nhắc tới tên của Việt lần thứ 2, và cũng né nhắc
tới Trung đoàn trưởng 174 lần thứ hai v́ ông không muốn người ta ghi
nhớ về nhân vật đă ra cái
lệnh điều binh rất thông minh và rất kịp thời đó.
Rơ ràng là Đặng Văn Việt đă ra lệnh điều binh cho Tướng Giáp
ngay giữa lúc trận chiến đang gay go và ông Tướng đă cấp thời y theo
lời của Việt mà điều động các cánh quân để rồi giành được chiến
thắng. V́ vậy sau khi chiến trường yên ắng th́ ông Tướng cảm thấy
thẹn trước các sĩ quan tham mưu đang có mặt tại Chỉ huy sở, nhất là
Đại tướng Trần Canh. Lại
thêm nỗi đau là trận chiến thắng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt
Nam lại do Đặng Văn Việt chỉ huy, chỉ huy luôn cả Đại tướng Tổng tư
lệnh. Đặng Văn Việt đă
sớm để lộ tài năng quân sự của ḿnh hơn hẵn “thiên tài quân sự Vơ
Nguyên Giáp” cho nên chuyện phải tới là không sớm th́ muộn, Việt sẽ
bị “triệt” do ông Tướng ganh tài. ( Đặng Văn Việt xuất thân là sĩ
quan Khóa 1 Trần Quốc Tuấn của Đại Việt Quốc dân Đảng, cùng khóa với
Đại tá Phạm Văn Liễu của QL/VNCH ).
Trận Cao Bằng Lạng Sơn ( Trận thứ ba )
Năm 1950, ngày 20-9, Tướng Tư lệnh quân Pháp tại Bắc Kỳ là
Alessandri đang nghỉ phép tại Pháp vội bay về Hà Nội, ông đề nghị
tái chiếm Đông Khê nhưng Tướng Carpentier không chấp thuận và ra
lệnh rút tất cả quân Pháp tại Cao Bằng về Lạng Sơn,
lấy Lạng Sơn làm địa đầu giới tuyến cho khu biên thùy Đông
Bắc
Về phần Tướng Trần Canh th́ sau khi chiếm được Đông Khê th́
không thấy quân Pháp đổ binh cứu viện, như vậy có nghĩa là họ không
c̣n quân. Và một khi
không c̣n quân th́ dứt khoát quân Pháp phải rút khỏi Cao Bằng, bởi
v́ mất Đông Khê là Cao Bằng bị tuyệt đường tiếp tế, việc này Revers
đă tính và Vơ Nguyên Giáp đă biết . Vậy th́ Trần Canh không dại ǵ
mà rút quân đi v́ trong trận Đông Khê đại quân của Vơ Nguyên Giáp
đang c̣n 22 tiểu đoàn chưa xung trận.
Do đó Trần Canh quyết định duy tŕ quân tại Đông Khê, chiếm
giữ hầu hết các khu vực xung quanh Đông Khê và bố trí trận địa,
chuẩn bị đánh chặn đoàn quân từ Cao Bằng sẽ rút về.
Quả nhiên, theo đúng như kế hoạch dự trù, ngày 1 tháng 10 Đại
tá Lepage cho quân bắt đầu xuất trận từ đồi 703, dàn hàng ngang tiến
về phía Đông Khê. Đoàn
quân di chuyển gần 10 cây số vẫn không gặp địch
( Thực ra Trần Canh đă bố trí cho Đại đoàn 308 phục kích chặn
viện trên tuyến đường này nhưng Đại đoàn 308 v́ chờ 8 ngày không
thấy quân tiếp viện nên bỏ trận tuyến đi về các buôn làng lấy gạo ).
Khi c̣n cách Đông Khê khoảng 1 cây số th́ Tiểu đoàn Dù chạm
địch, hỏa lực của Việt Minh quá mạnh nên quân Dù không thể nào tiến
lên nổi. Trong khi đó th́ đoàn quân phía sau cũng bị tấn công, ngay
loạt đạn đầu Tiểu đoàn 1/8 RMT đă bị tiêu diệt nửa đại đội ( Đây là
toán quân 308 đi lấy gạo nghe tin địch đến vội chạy về tấn công đoạn
hậu, vô t́nh các sĩ quan Pháp tưởng bị rơi vào ổ phục kích cả đầu
lẫn đuôi ).
Qua ngày 2-10 Tiểu đoàn nhảy dù cố tấn công tiến chiếm Đông
Khê nhưng không thể nào tiến nổi, trong khi đó 2 tiểu đoàn bộ binh
c̣n lại cũng bị tấn công vào đêm 2-10. Qua tới ngày 3-10 th́ các
súng đại bác của Binh đoàn Lepage đă bắn hết đạn, Le Page cho lệnh
phá hủy súng. Chi đội
thiết giáp gồm 6 xe bọc sắt có bánh bằng cao su đă bị hủy diệt do
quân phục kích bắn bể các bánh xe.
Trong khi binh đoàn của Lepage đang kẹt tại Đông Khê th́ tại
Cao Bằng Trung tá Charton vẫn cứ theo kế hoạch hành quân mà tiến
hành, rạng sáng ngày 3-10 Charton cho lệnh phá hủy tất cả các vật
liệu quân sự c̣n lại tại Cao Bằng và dẫn 3 tiểu đoàn bộ binh cùng
với quân lính của 15 pháo đài chung quanh Cao Bằng tiến theo Quốc lộ
4 đi về hướng Đông Khê.
Tuy nhiên khi tới điểm hẹn là cây số 22 vào chiều ngày 3-10 th́ ông
được tin quân của Lepage không thể nào chiếm lại được Đông Khê.
Charton lâm vào thế cởi trên lưng cọp v́ không thể nào rút
lui về Cao Bằng để cố thủ v́ quân Việt Minh đă chiếm Cao Bằng sau
khi Cao Bằng bị bỏ ngỏ.
Ông cũng không thể ngồi lại chờ Lepage giải tỏa Đông Khê v́ không
biết đến bao giờ, trong khi quân của ông không có đủ lương thực để
hành quân lâu dài, lại c̣n phải nuôi ăn và bảo vệ đoàn thường dân di
tản. Ông cũng không thể
nào tiếp tục đi tới v́ từ cây số 22 trở đi th́ hai bên là vách núi
đá vôi dựng đứng, chắc chắn là quân Việt Minh đă nằm sẳn trên các
vách núi đá đó rồi, chỉ cần họ lăn đá xuống th́ quân của ông cũng đủ
tan ră chứ đừng nói tới chuyện đánh nhau.
V́ vậy ông quyết định cắt rừng phía tây Quốc lộ 4, từ cây số
22 ông băng rừng theo hướng chính Nam th́ sẽ gặp lại Quốc lộ 4 tại
đồi 703, không qua Đông Khê.
Sáng ngày 4-10 Charton cho lệnh phá hủy 6 chiếc xe thiết giáp
(xe bọc sắt, bánh xe có vỏ ruột bằng cao su nên không có khả năng
băng rừng), binh sĩ mang theo nửa cấp số đạn và 1 ngày lương thực,
c̣n bao nhiêu lương thực và quân xa đều phá hủy rồi dẫn quân băng
rừng. Đồng thời ông cũng
báo cho Lepage biết lộ tŕnh của ông.
Được tin, Lepage bỏ cuộc tấn công vào Đông Khê, di chuyển
toàn binh đoàn tạt về hướng Tây để bắt tay với đoàn quân của Charton
từ hướng Bắc xuống.
Tuy nhiên cả hai vị Đại tá đều không ngờ là quân Pháp đi trong
rừng núi đá vôi th́ chẳng khác nào lạc vào mê hồn trận.
Hằng trăm, hằng ngàn đồi núi đá vôi ngổn ngang chẳng biết
đường hướng nào mà tiến.
Quân của Lepage tạt qua hướng Tây th́ bị lạc trong khu vực Cốc xá.
Quân của Charton đâm thẳng xuống Nam th́ bị lạc trong khu vực
Lan Hai. Cả hai khu vực
cách nhau chưa dầy 10 cây số nhưng quân hai bên không cách ǵ gặp
nhau bởi v́ cả hai đều bị lạc.
Các sĩ quan Pháp theo thói quen nghề nghiệp không thể nào dẫn
quân đi theo một hàng dọc rồng rắn như đoàn kiến, điều này tối kỵ
trong binh thư. Do đó họ
cho quân tiến theo đội h́nh tam giác mũi đi trước hay đáy đi trước
hoặc đội h́nh quả trám.
Nhưng theo cách này hễ gặp núi đồi phía trước th́ phải chia ra hai
bên đồi. Rồi mỗi bên gặp đồi lại phải chia làm hai và rồi rốt cục
lạc nhau. Ḍng quân cứ
chậm lại và lẩn quẩn một nơi v́ mất thời giờ cho việc t́m nhau .
Trong khi đó quân Việt Minh không để cho các sĩ quan Pháp
thoải mái t́m nhau. Chỉ
cần trong một đêm là sáng hôm sau họ có mặt trên các đỉnh đồi núi mà
quân Pháp đang t́m lối ra.
Trong các ngày 5, 6 và 7 quân Pháp đă trở thành mục tiêu sống
cho các xạ thủ súng cối, sơn pháo và xạ thủ súng trường của quân
Việt Minh. Quân Pháp ḷn
lách dưới trũng thấp trong khi quân Việt Minh chiếm ngự trên lưng
chừng các đồi cao, họ chỉ có việc dương súng nhắm vào đoàn quân dưới
trũng mà bắn. Do đó
trong đêm 7-10 cả hai vị Đại tá chỉ huy đều cho lệnh tản hàng, mạnh
ai nấy thoát thân. Nhưng quân lính Pháp không c̣n đủ sức để tự thoát
thân v́ họ không c̣n lương thực và không t́m được lối ra .
Năm 1950, ngày 11-10, Sau khi quân Pháp tại Cao Bằng bị đánh
tan th́ tướng tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương là Carpentier cho
lệnh rút khỏi đồn Thất Khê là tiền đồn của tỉnh Lạng Sơn.
Đồng thời cũng cho rút 15 tiểu đoàn tại Thái Nguyên, trước
đây các tiểu đoàn này chiếm Thái Nguyên để làm nghi binh cho quân
Cao Bằng rút lui.
Năm 1950, ngày 16-10, Cao ủy Pháp tuyên bố t́nh trạng khẩn cấp tại
Bắc Việt. Phụ nữ và trẻ em Pháp phải tản cư.
Kiều dân Pháp từ 21 đến 25 tuổi phải tŕnh diện nhập ngũ
trong ṿng 3 tuần lễ
(Tin báo chí).
Năm 1950, ngày 18-10, có tin Tướng Bành Đức Hoài cho quân
Trung Quốc áp sát biên giới Lạng Sơn, quân Pháp bỏ tỉnh Lạng Sơn mà
chạy, bỏ lại 1.300 tấn đạn, quân dụng và tiếp liệu không kịp tiêu
hủy.
Việc rút khỏi Lạng Sơn hoàn toàn không nằm trong tưởng tượng
của Trần Canh và Vơ Nguyên Giáp: “4 giờ sáng ngày 18-10, địch bắt
đầu rút quân khỏi Lạng Sơn. Điều này nằm ngoài dự kiến của chúng ta”
(Vơ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 82).
Do đó cuộc di tản khỏi Lạng Sơn tiến hành êm xuôi mà không có
một tiếng súng nào.
Trong khi đó quân Việt Minh rút về khu an toàn để ăn mừng chiến
thắng và dưỡng quân chờ đánh trận khác .
Năm 1950, ngày 25-11, tại Đại Hàn, Tướng Lâm Bưu của Trung
Quốc xua 300 ngàn quân qua Bắc Hàn tấn công Sư đoàn 24 và Sư đoàn 25
của Hoa Kỳ. Trong ṿng
24 tiếng đồng hồ, quân Mỹ có 12.975 người chết, bị thương và bị bắt;
cả thế giới rúng động.
Lại có tin quân Trung Quốc sẽ tràn sang Việt Nam.
Giới dân sự Pháp tại Hà Nội chuẩn bị di tản. Tướng Carpentier
xin lệnh Paris cho rút khỏi Mong Cáy, Ḥn Gay và di tản Pháp kiều
tại Hà Nội.
Năm 1950, cuối tháng 11, Chính phủ Pháp đang hoang mang với đề
nghị rút quân khỏi Mong Cáy và di tản Pháp kiều của Carpentier th́
tin t́nh báo Hà Nội cho biết sau khi Lạng Sơn bỏ ngỏ th́ Việt Minh
cũng chẳng cần tiến chiếm, họ giao cho một số du kích địa phương tổ
chức lại chính quyền Lạng Sơn. Tin này khiến cho Paris nổi giận v́
hóa ra các ông bỏ chạy chỉ v́ sợ bóng sợ vía, trong khi quân Việt
Minh chỉ có một trận đánh Cao Bằng là thỏa măn rồi.
C̣n các nơi khác vẫn hoàn toàn yên tỉnh, quân Việt Minh chẳng
lấn thêm một miếng đất nào, chẳng những vậy mà trái lại khu vực đồng
bằng Bắc Việt đă dần dần ổn định.
Paris bèn quyết định đuổi cổ Tướng Carpentier và đuổi luôn
ông Cao ủy Pignon. Rồi
thay một ông Cao Ủy khác bằng một ông tướng 4 sao, ông này chỉ huy
luôn quân sự lẫn dân sự.
Đó là Tướng Jean De Lattre de Tassigny.
Sai lầm của Tướng Giáp sau trận Cao Bằng :
Sau này có rất nhiều nhà nghiên cứu quân sự đặt một giả định
rằng nếu sau khi Pháp rút lui khỏi Lạng Sơn mà Vơ Nguyên Giáp cho
tiến quân xuống Lạng Sơn và Uy hiếp Tiên Yên, Mong Cáy th́ chắc chắn
quân Pháp sẽ bỏ ngỏ Mông Cáy rút về Hải Pḥng.
Cùng lúc đó quân Việt Minh đánh rấn vào Vĩnh Yên và Thái
Nguyên th́ chắc Hà Nội phải di tản.
Quân Việt Minh đánh chặn đường đoàn di tản từ Hà Nội đi Hải
Pḥng th́ quân Pháp tại Hải Pḥng sẽ nhổ neo rút vào Nam.
Tuy nhiên thực tế lúc đó quân Pháp tại vùng biên giới chỉ mất
tinh thần v́ cứ bị ám ảnh bởi quân Trung Quốc.
Toàn quân của Pháp tại Bắc Kỳ hơn 40.000 chỉ mới thiệt hại 7
ngàn và chưa có đơn vị nào khác thử sức với quân Việt Minh ngoài 2
binh đoàn bị đi lạc giữa các ḥn núi đá vôi ở Đông Khê.
Trên thực tế th́ Vơ Nguyên Giáp có nghĩ tới chuyện đó:
“Trước đà đổ vỡ của toàn bộ Khu Biên thùy và t́nh h́nh hoảng
loạn của quân địch, tôi định ra lệnh cho bộ đội tiếp tục truy kích
tới Tiên Yên. Nhưng đồng
chí Trần Canh góp ư kiến là không nên. V́ Tiên Yên ở xa, chiến dịch
đă thành công lớn, ta cần một chiến thắng trọn vẹn.
Trần Canh đă chỉ huy nhiều trận đánh lớn nên có kinh nghiệm
về vấn đề này”. Đoạn hồi
kư này chứng tỏ mọi việc Vơ Nguyên Giáp nhất nhất nghe theo Trần
Canh chứ ông không có một tí nào chủ động trong việc điều quân, vô
t́nh ông thú nhận ai là người đă chỉ huy trận Cao Bằng!
Khi viết lại hồi kư, Tướng Vơ Nguyên Giáp đă có ư thanh minh
cho ḿnh và đổ lỗi cho Tướng Trần Canh,
cho rằng Trần Canh không thừa thắng xông lên v́ do ông ta có
nhiều kinh nghiệm trận mạc, sợ say men chiến thắng dễ tạo ra sơ
xuất. Nhưng nếu v́ lư do
đó th́ chứng tỏ Trần Canh đâu có kinh nghiệm trận mạc?
Nếu là người có kinh nghiệm th́ sẽ thừa thắng đánh rấn, chắc
chắn làm nên nhiều chiến thắng hơn nữa.
Cho tới 50 năm sau Tướng Giáp vẫn chưa hiểu được tướng Trần
Canh. Với kinh nghiệm làm tướng hơn 50 năm Tướng Giáp phải thử đứng
về phía Trần Canh để thấy rằng trước mắt cần phải có khoảng 2.000
tấn gạo nữa cho đội quân 30 tiểu đoàn, chưa kể đạn dược tiêu thụ.
Trần Canh không thể ngay tức thời huy động cho đủ số gạo đó
và cho kịp với đà tiến quân, hơn nữa tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc
đang bị mất mùa mà lại phải cung cấp 2.500 tấn gạo cho trận đánh Cao
Bằng vừa rồi.
Do đó dĩ nhiên là Trần Canh phải hỏi ư kiến của Bắc Kinh và
Bắc Kinh đă có trả lời cho ông ta trước khi Vơ Nguyên Giáp nêu ư
kiến. Không biết câu trả
lời của Bắc Kinh như thế nào nhưng ngay sau đó Tướng Trần Canh gấp
rút quay về Trung Quốc để dẫn quân đi đánh Đại Hàn. Chứng tỏ Mao
trạch Đông dồn tất cả gạo và đạn dược cho đội quân 56 sư đoàn đang
tiến về Đại Hàn. Như vậy
không phải là Tướng Trần Canh không biết lợi dụng thời cơ để thừa
thắng xông lên nhưng v́ Mao Trạch Đông vướng bận chiến trường Đại
Hàn cho nên đă ra lệnh ngưng tại đó.
Ngoài ra, nếu có thể tin được quyển nhật kư của Trần Canh,
được xuất bản 23 năm sau khi ông chết, th́ mục đích của Mao Trạch
Đông trong việc đánh Cao Bằng là lợi dụng sự
thiếu lực lượng của quân Pháp ( Đă được nêu trong tờ tŕnh
của Revers ) để mở rộng khu vực kiểm soát khu vực biên giới, nhằm
thanh toán nốt đám tàn quân của Tưởng Giới Thạch đang c̣n lẫn quẫn
tại biên giới giữa Quảng Tây và Cao Bằng.
Thỉnh thoảng đám tàn quân này vẫn kéo về đánh một vài địa
phương của Trung Quốc để lấy lương thực rồi lại trốn sang bên kia
biên giới Việt Nam. Mặc
dầu ngày nay các sử gia Quốc tế rất dè dặt với tất cả những tài liệu
do các cơ quan tuyên huấn của Trung Quốc đưa ra, nhưng chi tiết này
có thể tin được v́ rất có lư.
Ngoài giả định đánh Tiên Yên, c̣n có một giả định khác, rất có
lư, là nếu trước đó quân Pháp đă rút khỏi Cao Bằng theo như kế hoạch
của Revers, th́ trận mở màn tổng phản công của Việt Minh không phải
là ở Quốc lộ 4 mà có thể là ở Vĩnh Yên hay Phúc Yên.
Mà hai tỉnh này chỉ cách Hà Nội có vài chục cây số.
Chắc chắn tàn quân Pháp cùng với dân di tản chạy về Hà Nội sẽ
tạo ra biến loạn khiến Hà Nội phải di tản.
Trong khi đó các đại đơn vị của Việt Minh tại Ḥa B́nh, Ninh
B́nh có đủ khả năng gây áp lực mạnh phía Tây và phía Nam khiến cho
quân Vĩnh Yên hay Phúc Yên có thể đuổi đánh tới Hà Nội.
Lúc đó không biết chuyện ǵ sẽ xảy ra.
Giả định rất có lư này đă được Vơ Nguyên Giáp thực hiện vào
ngày 10 tháng 1 năm 1951 tại Vĩnh Yên, tức là 2 tháng sau đó.
Tuy nhiên kết quả lại khác hẳn, Vơ Nguyên Giáp đă bị thất bại
nặng nề v́: (1) – Đạn
dược đă tiêu thụ hết ở trận Cao Bằng mà không có bổ sung.
(2) – Người chỉ huy trận đánh là Vơ Nguyên Giáp không có khả
năng quân sự, ông chưa từng bao giờ chỉ huy một trận dù lớn dù nhỏ.
(3) – Quân CSVN không có yểm trợ và chỉ đạo của Trung Quốc v́
Tướng Trần Canh phải trở về Trung Quốc để dẫn 9 sư đoàn đi đánh Đại
Hàn. Và tại Bắc Kinh, Tướng Tham mưu đặc trách về Việt Nam của Mao
Trạch Đông là Nguyễn Sơn cũng dẫn 9 sư đoàn khác đi đánh Đại Hàn.
(4) – Quân Pháp đă lấy lại tinh thần v́ biết quân của Mao
Trạch Đông đang bận ở Bắc Hàn, họ sẵn sàng “chơi” với bộ đội Việt
Minh mà họ biết rằng không có ǵ đáng nể.
(5) – Quan trọng hơn cả là lúc đó quân Pháp có một người chỉ
huy tuyệt vời, đó là Tướng De Lattre de Tassigny.
Năm 1950, tháng 11.
Theo Hoàng Tùng : “Sau thắng lợi mới, tổng kết chiến dịch và
sau đó là tiến hành chỉnh huấn, chỉnh quân. Thay đổi lại tổ chức
quân đội. Thế là năm 1950-1951 đoàn cố vấn thực hiện chỉnh đốn quân
đội. Các chỗ khác họ chưa đụng tới”
Cho tới lúc này th́ người anh hùng nổi danh của trận Cao Bắc
Lạng vẫn được biết là Vơ Nguyên Giáp.
Măi đến 30 năm sau, nhờ Bạch thư của Trung Quốc tiết lộ và
sau này Hoàng Tùng xác nhận th́ mới biết chiến công vang dội tại Cao
Bắc Lạng là của Đại tướng Trần Canh.
Tuy nhiên sau trận chiến này lại có một điều cay đắng khác,
đó là Vơ Nguyên Giáp bị hạ xuống trong nấc thang quyền lực của Việt
Minh bởi v́ ông xuất thân là trí thức tiểu tư sản, một giai cấp mà
Cọng sản Mao Trạch Đông đă liệt vào thành phần phản động.
Theo hồi kư của Hoàng Tùng th́ mùa thu năm 1950, tức là trước
trận đánh, La Quư Ba là trưởng đoàn cố vấn chính trị của trung Quốc
đă muốn loại Vơ Nguyên Giáp ra khỏi Bộ chỉ huy quân đội Việt Minh v́
xuất thân của ông ta.
Cũng may chuyện này bị Hồ Chí Minh cũng như Trường Chinh bác đi v́
công lao của Vơ Nguyên Giáp quá lớn.
Tuy nhiên kể từ khi toàn bộ quân đội Việt Minh nhận vũ khí từ
tay Trung Quốc th́ tự nhiên cái thế của Vơ Nguyên Giáp yếu đi so với
các tướng lănh Cọng sản xuất thân từ giai cấp công nhân hay nông dân
và có nhiều năm thâm niên trong đảng như
Thiếu tướng Nguyễn Chí Thanh, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng,
Thiếu tướng Đỗ Mười, Thiếu tướng Phạm Hùng, Thiếu tướng Vũ Anh
(Người lái xe cho hăng dầu cù là Vĩnh An Đường).
Trận Vĩnh Yên ( Trận thứ tư )
Năm 1951, ngày 10-1, đúng như Delattre dự đoán, tin t́nh báo
cho biết Việt Minh sắp tấn công.
Đại đoàn 308 xuất hiện tại sườn phía Nam núi Tam Đảo, đối
diện với thị Trấn Vĩnh Yên, cách thị trấn khoảng 10 cây số, cách Hà
Nội 60 cây số về hướng Bắc.
Đại đoàn 312 mới thành lập cũng xuất hiện cách Vĩnh Yên 15
cây số về hướng Tây Bắc.
Trung Đoàn biệt lập174 và Trung đoàn biệt lập 98 đang tiến về Đông
Triều. Trung đoàn biệt lập 48 xuất hiện ở Ba V́ là phía Tây của Vĩnh
Yên. Nếu nối một đường
rải quân của CSVN từ Ba V́ đến Đông Triều th́ được một đường dài 120
cây số.
Năm 1951, ngày 12-1, Báo chí Hà Nội loan tin từ 30 đến 40 tiểu
đoàn Việt Minh mở mặt trận dài 120 cây số cùng tiến về Hà Nội.
Paris xúc động mạnh!
( Diễn tiến trận đánh… … …, Bối Cảnh Lịch sử chính trị Việt
Nam trang 544 )
Kết quả ban đầu là khoảng 1.500 quân Việt Minh bị chết, 450 bị
bắt và khoảng 3.000 bị thương.
Phía Pháp 50 tử trận, 450 mất tích và 200 bị thương.
Số quân Việt Minh bị thương là do các đơn vị thám báo của
Pháp lần theo dấu vết quân Việt Minh đă thâu thập tin tức tại các
vùng mà quân Việt Minh rút qua:
các thương binh chất đống trong các làng xă, thiếu thuốc men,
thiếu bác sĩ, đă chết một phần lớn ở dọc đường, trong các túp lều
tranh nấp trong rừng sâu.
Lại thêm thiếu gạo, thiếu thức ăn, quân đội cũng như thường
dân, người khỏe cũng như người bệnh.
Tuy nhiên theo báo cáo của tướng Vi Quốc Thanh th́ con số
thương vong của phía CSVN ít nhất là 6.000 người (Hs/VKTQ, Quang
Zhai sưu tầm).
Sai lầm của Tướng Giáp trong trận Vĩnh Yên :
Sau này hồi ức của Đại tá Redon cho thấy Vơ Nguyên Giáp đă bỏ
lỡ cơ hội bằng vàng khi không cho tấn công luôn thị xă Vĩnh Yên vào
đêm 14-1-1954 : “Nếu tối
nay Việt Minh tấn công, không biết quân sĩ sẽ phản ứng như thế nào
v́ trông họ mệt mỏi, bồn bả, đờ đẫn”.
Lúc đó quân Pháp chỉ có 1 tiểu đoàn nguyên vẹn nhưng là một
tiểu đoàn thân binh người Thái, không có thinh thần chiến đấu. Và
500 lính viễn chinh
thuộc hai tiểu đoàn bộ binh mới bị đánh tan tác vào buổi sáng. Trong
khi đó Tướng Giáp có nguyên 2 sư đoàn, lại vừa chiến thắng tưng
bừng, nhưng không biết lợi dụng t́nh thế để tiến chiếm luôn Vĩnh Yên.
Hồi kư của Tướng Giáp giải thích :
“Nửa đêm tôi gọi điện cho anh Lê Trọng Tấn, rồi anh Vương
Thừa Vũ, hỏi có thể điều ngay một trung đoàn vào tập kích Vĩnh Yên?
Nhưng cả hai đại đoàn đều không nắm được các đơn vị đang vận động,
xin cho đánh vào đêm 15”
(Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 148).
Lời giải thích này vô t́nh chứng tỏ Vơ Nguyên Giáp không phải
là một ông tướng. Ông ta
là người chỉ huy trận đánh, mọi dữ kiện, mọi tin tức từ ban tham mưu
luôn luôn được tŕnh cho ông từng giờ từng phút.
Nếu ông biết rơ t́nh h́nh bố trí của quân Pháp tại thị xă
Vĩnh Yên vào lúc đó ra sao th́ ông chỉ cần ban lệnh cho hai ông kia
đem bao nhiêu quân đánh vào mặt nào của điểm nào.
Đằng này ông hỏi “có thể điều ngay một trung đoàn?”.
Câu này không phải là một lệnh điều quân, mà chỉ là thả một
câu thăm ḍ được chăng hay chớ.
Người ngoài quân đội không thể hiểu được giá trị của một mệnh
lệnh trong quân đội nghiêm trọng như thế nào, nhưng những ai từng
cầm quân sẽ thấy mệnh lệnh này của Tướng Giáp giống như câu ra lệnh
của một bác nông dân: “Thằng Ba thằng Tư đâu?
Đứa nào đó chạy ra ngoài ngơ coi má bây về chưa?”.
Đây cũng là một mệnh lệnh, nhưng là một lệnh được chăng hay
chớ, thằng Ba đi cũng được, thằng Tư đi cũng phải, mà cả hai thằng
không đi cũng không sao;
bởi v́ chuyện coi bà mẹ về chưa cũng không có ǵ quan trọng.
Mệnh lệnh của Tướng Giáp trong trường hợp này cũng giống như
vậy, tức là ông Tấn đi cũng được hay ông Vũ đi cũng được, rồi cả hai
ông không đi th́ cũng không sao.
Một Đại tướng Tổng tư lệnh Quân đội đă ra một cái lệnh bâng
quơ như vậy đúng ngay vào lúc có thể quyết định thắng bại của chiến
trường (sic).
Tướng Giáp nêu lên chuyện này trong hồi kư như là để thanh
minh, cho rằng ông đă thấy ngay thời cơ của đêm đó nhưng đáng tiếc
là hai ông tư lệnh kia đă không dám tung quân đi.
Không biết chuyện kể có thật hay không v́ lúc ông viết ra th́
hai vị kia đă chết, tuy nhiên nếu đúng là sự thật th́ chứng tỏ Đại
tướng Vơ Nguyên Giáp không phải là một quân nhân chứ đừng nói là một
ông tướng. Cả hai ông
tướng thứ thiệt là Vương Thừa Vũ và Lê Trọng Tấn đều từ chối v́
không thể ngay giữa khuya dẫn một trung đoàn lần ṃ đi vào Vĩnh Yên
mà không biết quân địch ở đâu, có bao nhiêu và bố trí ra sao?
Không lư nửa đêm cho quân túa ra đi t́m coi địch ở đâu rồi
thấy đâu th́ nổ súng đó, mạnh ai nấy nổ;
thấy một người cũng nổ, thấy hai người cũng nổ?
Bởi vậy cả hai ông đều xin để đêm mai v́ sáng ra mới có thể
cho trinh sát đi thăm ḍ xem t́nh h́nh địch ra sao, bố trí như thế
nào, rồi tới tối mới đánh được.
Sự đương nhiên từ chối của hai ông tư lệnh làm nổi bật khả
năng quân sự tệ hại của thầy giáo Vơ Nguyên Giáp.
Rơ ràng ông không
phải là một quân nhân.
Qua trận Vĩnh Yên, Vơ Nguyên Giáp đă nhận được bài học đắt giá
v́ đánh giá sai lầm khả năng tác chiến của quân Việt Minh giữa vùng
đồng bằng trống trải, là trận địa hoàn toàn xa lạ đối với họ.
Ông càng sai lầm hơn nữa khi sử dụng chiến thuật biển người
trong khi Không quân của Pháp làm chủ chiến trường.
Biển người mà gặp bom Napalm th́ thành biển lửa.
Trước đây ông cứ nghĩ rằng hễ có súng là có chiến thắng. Quả
nhiên vừa có đủ súng để thành lập Đại Đoàn 308 ông đă theo Trần Canh
thử lửa và chiến thắng dễ dàng tại trận Cao Bằng.
Nhưng thực ra quân Pháp thua tại Cao Bằng v́ sự chỉ huy và
tham mưu của quân Pháp quá yếu kém và địa h́nh đặc biệt hoàn toàn
thất lợi cho đoàn quân ngoại quốc.
Vơ Nguyên Giáp không đủ kinh nghiệm để nhận ra điều đó bởi v́
cho tới khi ông được phong đại tướng vào ngày 20-1-1948 th́ ông chưa
qua một trường lớp quân sự nào và ông chưa đánh trận nào có pháo
binh hay máy bay. Ông
chỉ có thành tích thanh toán các đội quân không vũ trang hay bán vũ
trang của các đảng phái đối lập .
Từ khi ông lên tướng th́ quân của ông cũng chỉ lập vài thành
tích với chiến thuật du kích chiến chứ chưa bao giờ tham dự trận địa
chiến. Trận Cao Bằng là lần đầu tiên ông theo Trần Canh để học hỏi
về trận địa chiến, tuy nhiên ông chỉ học được những điều hay trong
một trận hên. Rồi ông
đem kinh nghiệm hên mà áp dụng cho trận Vĩnh Yên là trận đầu tiên
ông tự chỉ huy quân của ông.
50 năm sau Tướng Giáp viết hồi kư và đưa ra những lư do khiến
ông thất bại trong trận Vĩnh Yên :
“Chúng ta thiếu nhiều vũ khí cần cho đánh vận động.
Ta không đủ vũ khí nặng để chế áp những trận địa pháo của
địch. Ta hoàn toàn không
có vũ khí pḥng không.
Do đó, những mũi tiến công và đội h́nh xung phong của ta trở thành
mục tiêu của máy bay cường kích và những khẩu pháo được điều chỉnh
bởi máy bay “Bà Già…” ( ĐườngTới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 155
).
Bất cứ một người chỉ huy quân sự nào cũng phải biết so sánh sự
lợi hại của từng loại vũ khí lớn nhỏ chứ đừng nói là so sánh giữa
súng trường với đại bác, xe tăng và máy bay.
Thế mà Đại tướng Vơ Nguyên Giáp không biết những điều căn bản
đó. 50 năm sau ông vẫn
nêu lên như đây là những yếu tố khách quan không thể nào ngờ được;
có nghĩa là “Ta thua bởi v́ không có vũ khí chống đại bác và
chống máy bay”. Nhưng
các nhà quân sự sẽ hỏi ngược lại ông :
“Không có vũ khí chống pháo, chống máy bay mà ông lại dám xua
2 sư đoàn đánh trận địa chiến?
Phải chăng là “điếc không sợ súng”?!
Dầu sao Tướng Giáp cũng có được một mớ kinh nghiệm đáng kể sau
trận này, nhưng máu xương của thanh niên Việt Nam đă trả giá cho
kinh nghiệm của ông. Sau
này ông cũng học được nhiều kinh nghiệm khác với những cái giá khủng
khiếp khác . Nhưng mặc dầu trả giá quá đắt ông vẫn tiếp tục phạm các
sai lầm cũ, chẳng hạn như như khi ông cho tổng tấn công vào các
thành phố Miền Nam Việt Nam vào năm 1968.
Hậu quả của trận tổng công kích năm Mậu Thân là tất cả các
đơn vị của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đă bị xóa sổ, phải thay thế
các lực lượng đó vào năm 1969 bằng 500.000 thanh niên miền Bắc.
Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, một nhà sử học của
quân đội CSVN là Đại tá Phạm Quế Dương đă có nhiều thời giờ để ngồi
làm các bài toán tổng cộng cái giá máu xương phải trả cho kinh
nghiệm của Vơ Nguyên Giáp.
Đại tá Phạm Quế Dương không hiểu 2 đợt tuyển quân lớn để đưa
vào chiến trường Miền Nam vào năm 1969 là 500.000 và năm 1972 là
500.000; vậy mà 1 triệu
quân đó mất biến đi đâu để đến năm 1974, 1975 cũng đưa vào 500.000
nữa mà rốt cuộc sau chiến tranh c̣n lại không đủ 500.000.
Hậu quả chính trị của trận Vĩnh Yên:
Theo hồi kư của Hoàng Tùng th́ ngay khi La Quư Ba và Vi Quốc
Thanh sang Việt Nam để chỉnh Đảng chỉnh Quân, nghĩa là sắp xếp, tổ
chức lại nhân sự trong đảng cũng như trong quân đội th́ họ đă có ư
định truất chức tư lệnh quân đội của Vơ Nguyên Giáp chỉ v́ cho rằng
ông ta xuất thân không phải là giai cấp công nông.
Tuy nhiên Hoàng Tùng không được biết ngoài lư do này th́ c̣n
có một lư do khác: Trước
khi qua Việt Nam th́ La Quư Ba là thư kư riêng của Mao Trạch Đông,
ông ta đă tiếp xúc với Tướng Nguyễn Sơn, lúc đó đang là cán bộ tham
mưu cho Mao Trạch Đông về các vấn đề có liên quan đến Đông Dương. V́
thế nhận xét của Nguyễn Sơn về Vơ Nguyên Giáp mới là nguyên do chính
khiến cho La Quư Ba đề nghị thay Vơ Nguyên Giáp.
Nhưng Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh đều một mực từ chối việc
thay Vơ Nguyên Giáp do công lao của ông ta đối với quân đội Việt
Minh quá lớn.
V́ vậy La Quư Ba đành phải chấp nhận Vơ Nguyên Giáp, nhưng với
điều kiện phải đưa Nguyễn Chí Thanh lên làm Bí thư quân ủy để hạ
giảm bớt quyền lực của Vơ Nguyên Giáp.
Không may cho ông Giáp là vừa thoát khỏi nạn chỉnh quân th́
lại bị thua ngay trong trận ra quân đầu tiên khiến cho các cố vấn
Trung Quốc càng có lư do để chứng minh với Hồ Chí Minh rằng đề nghị
của họ trước đây là có lư.
Do đó trong buổi họp kiểm điểm trước Tổng Quân ủy, có mặt các
cố vấn Trung Quốc, Vơ Nguyên Giáp buộc ḷng phải đổ tội cho Vương
Thừa Vũ về việc không thừa thắng đánh vào Vĩnh Yên ngày 14-1-1951 để
khỏa lấp tội không biết điều động của chính ông ta. Vô t́nh làm
phương hại đến binh nghiệp của Tướng Vương Thừa Vũ v́ ông này cũng
đang bị La Quư Ba chiếu cố do xuất thân là sĩ quan Quốc Dân Đảng.
Ngày 29-1-1951, sau khi nhận được báo cáo của Vi Quốc Thanh về
thất bại của Vơ Nguyên Giáp, Mao Trạch Đông khuyến cáo Vi Quốc Thanh
nên kiên nhẫn và đừng làm mích ḷng người Việt:
“Những khuyết điểm của họ hiện thời cũng là những khuyết điểm
của quân đội Trung Quốc hồi c̣n trẻ. Chẳng có ǵ lạ về điều đó. Chỉ
bằng cách thuyết phục chúng ta mới có thể giúp cho họ dần dần tiến
tới trong một thời gian phấn đấu lâu dài” (Hs/VKTQ và Tuyển tập Mao
Trạch Đông, quyển 2, trang 90). Văn kiện này cho thấy trận Vĩnh Yên
là một thất bại chứ không phải là một chiến thắng như CSVN từng khoe
khoang. Và cũng cho thấy trận Vĩnh Yên là trận do Vơ Nguyên Giáp tự
chọn chiến trường và tự điều động chứ không có sự can thiệp hay chỉ
đạo của Bắc Kinh, lúc này Bắc Kinh đang lo chỉ huy quân đội Trung
Quốc đánh nhau với Hoa Kỳ tại Đại Hàn.
Tuy nhiên không cần tài liệu của Trung Quốc, ngay trong hồi kư
của Vơ Nguyên Giáp cũng gần như thú nhận hết mọi chuyện, ngoài việc
không có vũ khí để chọi với đại bác, máy bay, c̣n có một lư do nữa
mà Tướng Giáp có muốn giấu cũng không được : “Từ Trung Du tôi trở về
gặp Bác và anh Trường Chinh, báo cáo t́nh h́nh chiến dịch.
Cách đối phó với Delattre rất kiên quyết, kịp thời, khác hẳn
với những tổng chỉ huy Pháp mà ta đă gặp” (Đường tới Điện Biên Phủ,
in lần 2, trang 155). Có nghĩa là Tướng Giáp thú nhận thua trận v́
Delattre quá giỏi.
Tài năng biến trắng thành đen :
Mặc dầu Hồ Chí Minh đă biết là thua trận, nhưng sau đó Hồ Chí
Minh lại cho triệu tập Chính Phủ và bảo Vơ Nguyên Giáp lên báo cáo
về chiến dịch vừa qua.
Tướng Giáp báo cáo: “Lần
đầu, bộ đội ta trực tiếp đọ sức với nhiều binh đoàn cơ động Pháp
trong những trận đánh mặt đối mặt, cả ban ngày và ban đêm, trên địa
h́nh đồi núi thấp và đồng bằng. Pháp đă sử dụng lực lượng tinh nhuệ
nhất, phát huy tối đa các loại vũ khí do Mỹ viện trợ.
Bộ đội ta đă chiến đấu 23 ngày đêm liên tục.
Ta loại khỏi ṿng chiến 5.000 quân địch, trong đó có hơn
2.000 tên bị bắt sống, tiêu diệt 30 vị trí, trong đó có 10 vị trí
đại đội, thu được hơn 1.000 súng các loại đủ trang bị cho một trung
đoàn…” (Đường Tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 153).
Sau khi Vơ Nguyên Giáp báo cáo xong, tới phiên Chủ tịch Hồ Chí
Minh tuyên bố: “Về Trung
Du, quân đội ta đă tiến bộ nhiều.
Chiến đấu với binh đoàn cơ động địch ban ngày trên địa h́nh
bằng phẳng, đánh quỵ cả một G.M, không phải chiến dịch chưa hoàn
thành các mục tiêu đề ra, mà kết quả thu được có phần vượt mức”
(Đường Tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 157).
Trong số những người có mặt trong cuộc họp của Hội đồng chính
phủ có người làm điệp viên cho Pháp, họ chuyển tin này về cho các sĩ
quan t́nh báo của Pháp khiến cho người thắng trận là Delattre đâm ra
hoài nghi về chiến thắng của ḿnh, v́ rơ ràng tin tức từ cơ quan đầu
năo củaViệt Minh cho thấy họ đâu có suy suyển ǵ;
mà trái lại, h́nh như họ chiến thắng th́ phải ? (sic).
Chuyện Vơ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh báo cáo dối ngày đó cũng
có thể hiểu được v́ các ông cần tuyên truyền để lấy khí thế trong
quân đội cũng như trong dân chúng.
Nhưng rồi các ông im lặng cho tới khi hồ sơ mật của Trung
Quốc được các sử gia Hoa Kỳ gốc Trung Hoa nói tới trong các tác phẩm
bàn về chiến tranh Đông Dương.
Lúc đó th́ các sử gia Việt Nam ở hải ngoại bắt đầu thấy được
sự thật cho nên Vơ Nguyên Giáp phải liên tục tung ra 3 quyển sách
của ông vào năm 1994, 2000 và 2001 để thanh minh về các lời đồn đoán
tai hại cho ông. Tuy
nhiên không may là ông càng bào chữa th́ ông lại càng đưa ra nhiều
bằng chứng xác nhận những sự thật đau ḷng đằng sau những lời ca
tụng về các chiến công oanh liệt.
Thực ra hầu hết các sử gia Việt Nam đều là nhà văn chứ không
phải là chiến lược, chiến thuật gia;
cho nên họ không đủ kiến thức về quân sự để nghiệm ra tài
năng đích thực của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp.
Đối với ông Hồ Chí Minh cũng vậy, các sử gia Việt Nam không
phải là những người từng hoạt động cách mạng cho nên không thấy được
một người “làm Cách Mạng” như Nguyễn Tất Thành lấy tiền đâu để sống
và để làm cách mạng.
Theo như tưởng tượng của các nhà văn th́ Nguyễn Tất Thành chỉ “hớp
gió” để làm nên Cách Mạng!
C̣n các sử gia ngoại quốc th́ giở báo chí của Việt Minh thời
đó và thấy ngay báo cáo chiến thắng của ông Hồ Chí Minh cho nên họ
tin đó là sự thật và cứ thế viết thành sách.
Đại hội tái lập Đảng Cọng sản Việt Nam 1951
Năm 1951, ngày 16-3, Đài phát thanh Việt Minh loan tin thành
lập Đảng Lao Động
Việt Nam. Đảng hợp
tác chặt chẻ với Mao Trạch Đông, và theo sát đường lối của Mao Trạch
Đông. (Tin báo chí, Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, trang 89)
Đại hội thành lập Đảng Lao Động Việt Nam được diễn ra trong
một mật khu tại Việt Bắc.
Người đại diện cho Cọng sản cấp quốc tế chính là La Quư Ba.
Hồi kư của Hoàng Tùng cho thấy La Quư Ba mới là người điều
khiển đại hội này: “Đại
hội đảng ta năm 1951, đại biểu nước ngoài chỉ có La Quư Ba, bên Căm
Pu Chia có Xieng Hiêng (sau phản bội), phía Lào có một đại biểu.
Tại đại hội La Quư Ba phát biểu chủ yếu về thuế nông nghiệp.
Sau đó bắt đầu đánh thuế.
Họ đem các nề nếp từ Trung Quốc sang, đem kinh nghiệm chỉnh
Đảng, chỉnh phong từ Diên An sang…”.
Việc trước tiên sau khi dựng lại Đảng Cọng sản là xác định lại
vị trí giữa Trường Chinh và Hồ Chí Minh.
Đảng phải lănh đạo chính phủ, có nghĩa là ông Trường Chinh
lănh đạo ông Hồ Chí Minh chứ không phải là ông Hồ Chí Minh lănh đạo
Trường Chinh. Việc kế tiếp là Đảng Cọng sản phải nắm lấy quân đội,
có nghĩa là phải thay tất cả các vị chỉ huy trong quân đội từ ông Vơ
Nguyên Giáp trở xuống.
Ngoại trừ vị trí chỉ huy
của ông Vơ Nguyên Giáp không có thể có người nào có uy tín cao hơn
hoặc tương đương để đảm nhiệm cho nên Đảng Cọng sản chỉ huy và giám
sát ông Vơ Nguyên Giáp bằng những lănh tụ chính trị Cọng sản.
Đó là các ông Nguyễn Chí Thanh và Văn Tiến Dũng.
Hai ông này được phong hàm Thiếu Tướng và được phong chức
Tổng Quân ủy và Bí thư Quân ủy.
Hồi kư của Hoàng Tùng nói rơ:
“Chính ủy là người bao trùm lên Tư Lệnh, chứ không phải tư
lệnh là người quyết định.
Lập ra chính ủy là để xác định vị trí của Đảng, mà việc đầu
tiên là nhắm vào ông Giáp”.
Trong đại hội Thiếu tướng Nguyễn Chí Thanh được bầu vào Ủy
viên Bộ Chính Trị cho nên giữ chức Tổng bí thư Quân ủy, kiêm luôn
Chủ nhiệm Tổng Cục chính trị. Thiếu tướng Văn Tiến Dũng là một trong
các Bí thư Quân ủy, kiêm luôn chức Tư lệnh Đại đoàn 320.
Theo hệ thống Đảng th́ cả hai ông tướng này đều
“bao trùm” lên Vơ Nguyên Giáp.
Tuy nhiên cũng giống như tướng Giáp, hai ông tướng này cũng
chỉ là tướng được phong, tự nhiên trở thành tướng chứ không qua một
trường đào tạo quân sự nào, và cũng chưa từng chỉ huy các đơn vị lớn
nhỏ trong quân đội. So
với Vơ Nguyên Giáp th́ Nguyễn Chí Thanh và Văn Tiến Dũng có nhiều
tuổi Đảng hơn và thuộc giai cấp bần nông, trong khi Vơ Nguyên Giáp
thuộc giai cấp trí thức tiểu tư sản và mới được đồng chí Nguyễn Ái
Kvak kết nạp vào năm 1940. Về mặt giai cấp Đảng th́ Nguyễn Chí
Thanh, Văn Tiến Dũng được bầu vào Trung ương Đảng c̣n Vơ Nguyên Giáp
th́ chưa được bầu v́ tuổi đảng c̣n quá mới.
Hồi kư của Vơ Nguyên Giáp cho thấy trong đại hội này ông ta
chỉ được quân đội đề cử làm đại biểu tham dự đại hội nhưng không
được quyền bầu cử trong những ngày cuối của đại hội:
“Tôi không ở lại Đại hội tới ngày bế mạc, v́ phải về cơ quan
để kịp dự cuộc họp Đảng ủy mặt trận lần thứ Hai được triệu tập vào
ngày 19 tháng 2 năm 1951, quyết định lựa chọn phương án đánh địch
trong năm 1951” (trang 121).
Đây chỉ là lấy cớ để giải thích với dư luận rằng tại sao ông
không được bầu vào Trung ương Đảng kỳ đó.
Nhưng những người rành về cách thức tổ chức trong các đảng
Cọng sản th́ đều hiểu rằng sẽ có bầu cử vào một hoặc hai ngày cuối
của Đại hội. Tuy nhiên
chỉ những đại biểu nào có quyền bỏ phiếu mới được ở lại để tham dự
bầu cử. Và thường th́
chỉ là biểu quyết chung kết những sắp xếp nội bộ đă có trước đó.
Và những ai được vào Trung ương Đảng bắt buộc phải có mặt
trong buổi bầu cử để xác nhận ḿnh thuận hay từ chối sự đề cử của
Đại hội. Do đó việc
Tướng Giáp sớm rời Đại hội chứng tỏ là khi thành lập lại ĐCSVN vào
năm 1951 th́ ông vẫn c̣n ở ngoài Trung ương Đảng.
Trận Mạo Khê ( Trận thứ năm )
Năm 1951, ngày 29-3, Việt Minh tung ra vài vạn quân tấn công
vùng mỏ than Mạo Khê Uông Bí.
Riêng đồn Mạo Khê bị 2 trung đoàn Việt Minh bao vây (Tin báo
chí). Theo sử gia
Lê Văn Dương, Trung tá
Phó Giám đốc Nha Quân sử VNCH, th́ con số vài vạn quân chỉ là tin
giật gân của các báo Hà Nội vào ngày 29-3.
Sở dĩ Mạo Khê dễ biến thành tin chiến sự nóng hổi v́ hễ Mạo
Khê bị đánh có nghĩa là Hải Pḥng bị uy hiếp và nếu hải Pḥng bị mất
th́ kiều dân Pháp tại Hà Nội cũng như toàn Bắc Việt sẽ không c̣n
đường di tản. Người Pháp
bị ám ảnh bởi trận chiến Cao Bằng và trận Vĩnh Yên với 40.000 quân
Việt Minh cho nên báo chí thường làm lớn chuyện trước những tin có
trận đánh. Theo chứng liệu c̣n lưu lại tại Bộ Tổng tham mưu QLVNCH
th́ quy mô của trận Mạo Khê không lớn, và lực lượng phản kích
củaTướng Dellatre chỉ có 3 Tiểu Đoàn là đủ ổn định t́nh thế cho nên
sử gia Lê Văn Dương không tin vào con số vài vạn quân do báo chí đưa
ra.
Tuy nhiên ngày nay hồi kư của Tướng Lê Trọng Tấn cho thấy quân
Việt Minh tham chiến trong trận này là 3 Đại đoàn, tức là 27 tiểu
đoàn. Và hồi kư của Tướng Vơ Nguyên Giáp xác nhận trận này ông huy
động cho toàn chiến dịch là 40.000 quân, 50.000 dân công và 1.263
tấn lương thực, 156 tấn đạn.
Riêng mặt trận chính là thị trấn Mạo Khê th́ có 25.719 quân
lính và 30 ngàn dân công.
Ngoài ra hồi kư của Tướng Giáp cũng cho thấy có cố vấn Vi
Quốc Thanh cùng tham dự chỉ huy trong chiến dịch này.
Thị trấn Mạo Khê có 3 đơn vị quân đội Pháp trấn đóng : (1) Tại
Mỏ Than Mạo Khê có một đồn lính do 95 quân địa phương toàn người sắc
tộc Thổ tuyển mộ tại Bắc Việt, gọi là “Thân binh địa phương” do
Trung úy Nghiêm Xuân Toàn chỉ huy, đồn này cách thị trấn Mạo Khê
khoảng 2 cây số. (2) Trên Tỉnh lộ 18, cách thị trấn Mạo Khê 800 mét,
có một chi đội thiết giáp của trung đoàn Bộ binh Bắc Phi (Một chi
đội có 6 xe thiết giáp, tương đương với cấp số đại đội bộ binh).
(3) Cách trung tâm khu phố 200 mét có một đại đội Biệt Kích
gồm có lính người Thổ với lính Bắc Phi.
Tổng cộng cả ba đơn vị khoảng 400 người (Trong khi quân CSVN
là 25.700 người).
( Diễn tiến trân đánh… … …, Bối cảnh lịch sử chính trị Việt
Nam, trang 583 )
Năm 1951, ngày 5-4, Tướng Giáp bàn với Tướng cố vấn Vi Quốc
Thanh cho kết thúc chiến dịch v́ quân số thương vong lên đến 2.000
người, gồm có 500 chết và 1.500 bị thương. Vi Quốc Thanh đồng ư kết
thúc chiến dịch và an ủi Tướng Giáp :
“Trong chiến dịch này đă huy động 25.000 bộ đội. Hy sinh chưa
đầy 2% không phải là lớn…” (Vơ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ,
in lần 2, trang 169).
Lời an ủi này đă chứng minh rằng trận Mạo Khê là do Vơ Nguyên Giáp
chỉ huy chứ không phải là Vi Quốc Thanh.
Sau chiến dịch, hồi ức của Tướng Lê Trọng Tấn ghi :
“Đại đoàn trở về Tuyên Quang tổng kết trong không khí trầm
lặng. Đại đoàn đă không
làm tṛn nhiện vụ trong trận Mạo Khê. Đánh viện không gọn, thương
vong cao”… “Tôi cho rằng chiến dịch Hoàng Hoa Thám là một chiến dịch
không thành công. Mục
đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch hay là làm thay đổi
cục diện chiến trường không rơ.
Cả ba đại đoàn đều không hoàn thành nhiệm vụ… Các đơn vị đều
bị thương vong cao, không hoàn thành nhiệm vụ. Tôi cho rằng Bộ (Bộ
tổng tư lệnh, tức là Tướng Giáp) cũng phải chịu trách nhiệm về chọn
hướng để mở chiến dịch và xác định mục đích chiến dịch cho rơ”… “Và
tôi đă chân thành nói lên những suy nghĩ trên của ḿnh trong hội
nghị tổng kết của Bộ. Tôi có cảm tưởng khá đông cán bộ ở đơn vị tán
thành ư kiến của tôi nhưng không ai nói ra”… “Mục đích chiến dịch
không rơ, không kiên quyết, chọn hướng mở chiến dịch không đúng th́
chiến dịch không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Ư kiến của tôi đă
được phản ánh lên trên ( Lê Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên,
in lần 2, trang 158-159).
Lê Trọng Tấn nghĩ rằng ư kiến xây dựng của ḿnh sẽ tạo nên một
nề nếp sinh hoạt lành mạnh giúp cho quân đội luôn luôn được cải tiến
dưới h́nh thức phê b́nh dân chủ.
Tuy nhiên ông không ngờ là Vơ Nguyên Giáp không thể nào chịu
nổi một trận thua thứ hai sau lần thua ở Vĩnh Yên.
Trường Chinh cũng như Nguyễn Chí Thanh đă tuyên truyền trong
dân chúng rằng đă chiến thắng trong trận Mạo Khê, hạ được 7 đồn và
tiêu diệt hằng trăm quân địch.
Ngoài ra báo chí Hà Nội và Paris không ngớt bàn tán về cuộc
tấn công của nhiều vạn quân khiến cho dư luận Hà Nội cũng như Paris
phải rúng động. Nếu bây
giờ ư kiến của Lê Trọng Tấn được đưa ra mổ xẻ tại Quân ủy trung ương
th́ trận Mạo Khê lại là một thất bại và dĩ nhiên Vơ Nguyên Giáp, Vi
Quốc Thanh phải lănh đủ trước La Quư Ba và Bắc Kinh.
V́ vậy Vơ Nguyên Giáp phải cầu cứu tới Hồ Chí Minh, ông này
đích thân đến hội nghị kiểm điểm chiến dịch để ra tay ém nhẹm vụ Lê
Trọng Tấn dám phê b́nh cấp trên.
Hồi ức của Lê Trọng Tấn :
“Giữa hội nghị, Bác Hồ đến thăm.
Bác nói, người ta ai cũng phải rửa mặt.
Tự phê b́nh là rửa mặt cho sạch.
Bác bảo tôi đứng dậy rồi Bác nói:
“Chú Tấn! Chú đă biết rửa mặt chưa?
Mặt có vết nhọ mà không rửa th́ không sạch.
Phê b́nh và tự phê b́nh là cách rửa mặt.
Sau mỗi trận đánh phải biết phê b́nh và tự phê b́nh mới mong
tiến bộ” (Lê Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên, in lần thứ 2 ,
trang 160). Ông Hồ Chí Minh bảo người ta phê b́nh mới mong tiến bộ
nhưng Lê Trọng Tấn phê b́nh cấp trên th́ bị ông dập ngay, ông buộc
Lê Trọng Tấn phải nhận tội tự làm cho thua trận chứ không được đổ
cho cấp trên. Từ cuộc
họp này đă tạo ra một nề nếp độc tài, cửa quyền trong quân đội CSVN.
Cấp dưới phải nhận tội thay cho cấp trên chứ không được phê
b́nh cấp trên (sic).
Sau hội nghị th́ Vơ Nguyên Giáp gặp riêng Lê Trọng Tấn và an
ủi, chia sẻ với Lê Trọng Tấn về những lời cay nghiệt của Hồ Chí
Minh. Hồi ức của Lê
Trọng Tấn cho biết ông cảm động trước nghĩa cử này nhưng ông không
hề biết chuyện ông bị mạt sát là do ông Hồ Chí Minh và ông Giáp đă
sắp xếp trước với nhau.
Cuối cùng th́ Vơ Nguyên Giáp đă không bị phê b́nh mà lại được Lê
Trọng Tấn mang ơn. Thủ đoạn của VNG trái với tinh thần thượng vơ của
con nhà binh.
Các con số thương vong do CSVN đưa ra :
Trong chiến tranh Đông Dương cũng như trong chiến tranh Miền
Nam Việt Nam, quân CSVN không bao giờ tổng kết số thương vong của
ḿnh, chỉ có báo cáo về thương vong của địch. Tuy nhiên v́ con số
thương vong của địch không thể kiểm chứng được cho nên các đơn vị
thi nhau báo cáo khống số thương vong của địch để có thể biến chiến
bại của ta thành chiến thắng.
C̣n về tổn thất của CSVN th́ sau mỗi trận có thể đếm được số
chết do dân công khiêng về hoặc dân công báo cáo lại sau khi vùi lấp
sơ sài dọc đường. Nhưng
không thể đếm được số binh sĩ bỏ xác tại chiến trường, bị bắt tại
chiến trường, hoặc lợi dụng lúc chiến trận nổ ra đă đào ngũ và trốn
thoát về sống trong vùng địch chiếm đóng, hoặc “hồi chánh”, hoặc
chạy lạc. Do đó con số
báo cáo thương vong của các đơn vị CSVN không chính xác v́ họ không
tính được những người… “mất xác”.
Ngoài ra số quân của mỗi đơn vị do họ tự tuyển và không có sổ
sách, v́ tất cả đều ở trong rừng, di chuyển liên tục và không ai
chịu trách nhiệm hành chánh về quyền lợi của các binh sĩ;
nghĩa là binh sĩ không có lương, không có phụ cấp gia đ́nh,
không có tiền tử tuất, mỗi khi có một chiến sĩ tử trận th́ dân công
chỉ chôn và báo cáo cho cấp trên là xong. Về phần cấp trên nhận báo
cáo chôn cất của dân công th́ thường cùng nhau giấu bớt để khỏi bị
khiển trách, tuy nhiên họ không thể giấu nhiều.
Ngoài ra họ có thể báo cáo là một số đă đào ngũ hoặc “theo
địch”, dĩ nhiên là cấp trên sẽ bảo họ gạt con số theo địch ra v́
trong bộ đội CSVN không hề có chuyện đào ngũ hay theo địch.
V́ những lư do trên và v́ lư do không thể có hồ sơ trong khi
tất cả đều ở trên rừng cho nên Bộ tổng tham mưu của quân CSVN không
có hồ sơ lưu về các con số tổn thất. C̣n nếu căn cứ theo báo cáo của
từng trận th́ chính người phụ trách nghiên cứu quân sự của CSVN là
Đai Tá Phạm Quế Dương cho biết nếu tính theo tồng số báo cáo mà Bộ
tổng tham mưu CSVN nhận được th́ con số các quân nhân Mỹ bị chết tại
chiến trường Việt Nam gấp 3 lần số quân Mỹ có mặt tại Việt Nam trong
thời điểm cao nhất, nghĩa là gần 1 triệu 500 ngàn người, trong khi
trên thực tế quân Mỹ chỉ bị chết 58.000 người.
Riêng trong các hồi kư của các Tướng CSVN th́ họ đành phải tôn
trọng và viết theo tài liệu của phía quân đội Pháp bởi v́ các báo
cáo này được lấy làm bằng chứng để lập hồ sơ tưởng thưởng hoặc thanh
toán các đền bù hành chánh cho gia đ́nh tử sĩ.
Do đó trong trận Mạo Khê th́ Tướng Giáp đă đưa ra con số bộ
đội CSVN bị chết tại trận Mạo Khê là 500 người.
Đây là con số mà quân đội Pháp ghi nhận là bỏ xác tại chiến
trường, Tướng Giáp đă căn cứ vào tài liệu của Pháp mà ghi thành con
số trong hồi kư của ông. Tuy nhiên tài liệu của phía quân đội Pháp
th́ chỉ ghi số xác đếm được tại chỗ chứ không ghi được số xác do dân
công khiêng đi. Mỗi trận
chiến của CSVN đều có dân công chờ ngay sau lưng các chiến sĩ;
nếu người chiến sĩ ngă xuống th́ ngay tức khắc dân công chạy
lên nhặt xác và khiêng về phía sau
Trận Ninh B́nh ( Trận thứ sáu )
Năm 1951, cuối tháng 4, Quân ủy CSVN điều động 3 đại đoàn 308,
320 và 304 đánh Ninh B́nh, Phát Diệm.
Đầu tháng 5, Bộ chỉ huy của Tướng Vơ Nguyên Giáp đến đóng tại
Châu Sơn, Ninh B́nh. Lần
này hồi kư của Tướng Giáp không cho biết ai là Tư lệnh và ai là Bí
thư quân ủy nhưng tại Châu Sơn có mặt Tướng Văn Tiến Dũng, Tướng
Hoàng Sâm và Lê Thanh Nghị. Có thể Văn Tiến Dũng là Bí thư quân ủy.
Năm 1951, ngày 4-6, Sau 4 ngày rút vào núi để củng cố lực
lượng, quân Việt Minh đồng loạt tấn công đồn Yên Cư Hạ, thị trấn Yên
Phúc và đoàn tàu chiến đang trú đóng tại Ninh B́nh.
Diễn tiến giai đoạn cuối của trận đánh:
Đồn Yên Cư Hạ, c̣n gọi là đồn Chùa Cao, nằm vào phía nam tỉnh
lỵ Ninh B́nh, trấn giữ cửa ngơ đi vào Thanh Hóa.
Đồn được xây cất kiên cố bằng bê tông, gồm một pháo đài chính
và 3 pháo đài phụ. Trước
đây đồn được trấn giữ bởi 1 đại đội Phụ lực quân, đến khi quân tiếp
viện đến giải tỏa Ninh B́nh th́ tăng cường thêm 1 đại đội Biệt kích
của Trung úy Romary. Lúc
này th́ các đồn Ninh B́nh được yểm trợ bởi Liên đoàn 4 của Đại tá
Edon trấn đóng tại băi đổ bộ dưới chân núi Non Nước cùng với các tàu
chiến neo tại bờ phía nam sông Đáy.
Giữa Ninh B́nh và đồn Yên Cư Hạ là thị trấn Yên Phúc.
Giờ đây đồn Yên Cư Hạ trở thành điểm và Yên Phúc, Ninh B́nh
trở thành diện .
Ngày 4-6, lúc 0giờ 30, Trung đoàn 88 của Đại đoàn 308 pháo
kích vào đồn Yên Cư Hạ.
Đến 2 giờ sáng ngưng pháo, đặc công xung phong áp sát 1 pháo đài phụ
và cho nổ pháo đài bằng thủ pháo.
Sau đó từ pháo đài phụ, quân Việt Minh tràn về phía pháo đài
chính nhưng bị đẩy lui.
Pháo binh của Pháp từ chân núi Non Nước bắn yểm trợ xung quanh đồn
cho tới 5 giờ sáng th́ ngưng yểm trợ v́ quân CSVN pháo 120 ly vào
tỉnh lỵ Ninh B́nh cũng như các vị trí đóng quân của Liên Đoàn 4.
Cùng lúc này th́ hai trung đoàn 102 và 36 của Đại đoàn 308
phục kích chận viện tại thị trấn Yên Phúc, trên đường từ Ninh B́nh
đi Yên Cư Hạ. Tuy nhiên quân tiếp viện của Liên đoàn 4 lại đi trên
tàu thủy nên quân của 308 dùng đại bác không giật bắn vào đoàn tàu
chiến. Tàu lớn nhất là LSSL6 bị trúng tới 7 phát đạn đại bác nhưng
không hề ǵ.
Đến 7 giờ sáng quân Việt Minh xung phong tấn công đồn Yên Cư
Hạ lần nữa, chiếm được pháo đài chính và thêm 1 pháo đài phụ.
Đến 9 giờ sáng th́ quân tiếp viện của Liên đoàn 4 được tàu
thủy chở đến Yên Cư Hạ. Tàu Pháp bắn thẳng vào chiếc đồn đổ nát và
một đại đội của Tiểu đoàn 8 Nhảy dù đổ bộ tiến vào đồn, quân CSVN cố
thủ trong đồn dưới hỏa lực đại bác bắn trực xạ từ dưới tàu lên.
Sở dĩ quân CSVN trụ lại trong đồn v́ không ngờ t́nh trạng có
tàu chiến đến tiếp cứu , theo kế hoạch th́ các tàu chiến đă bị đại
bác không giật của Việt Minh bắn hạ từ hồi đêm. Tuy nhiên các vị chỉ
huy quân Việt Minh không ngờ được là đạn đại bác 57 ly và 75 ly
không giật không đủ sức công phá để làm ch́m tàu lớn bằng sắt.
Cuối cùng toán quân CSVN cố thủ trong đồn c̣n lại 55 người
phải ra hàng và để lại trong đồn 23 xác, c̣n khu vực xung quanh đồn
là 200 xác. Nguyên 2
tiểu đoàn của Trung đoàn 88 bị xóa sổ. Về phía Pháp th́ 2 đại đội
pḥng thủ gần 400 người chỉ c̣n lại vài chục;
Trung úy Romary bị thương nặng.
Sáng ngày 5, Tướng CSVN Hoàng Văn Thái xuống Yên Cư Hạ t́m
hiểu t́nh h́nh thất bại của Trung đoàn 88.
Hồi kư của Tướng Giáp:
“Trung đoàn 88 là đơn vị công kiên giỏi của 308 đă nhiều lần
tiêu diệt những vị trí Âu Phi trên đường số 4 trong ṿng 1 giờ. Tôi
nghĩ không phải chỉ v́ một số khuyết điểm trong công tác chuẩn bị
như phái viên đă về báo cáo, cũng không phải v́ anh em quá mệt mỏi.
Khó khăn lớn nằm ở chỗ khác.
Đó là do thủ đoạn đối phó của địch thay đổi.
Với khả năng bắn chính xác của pháo binh, địch đă tập trung
pháo ngăn chận những đợt tiến công ban đêm vào vị trí, kéo dài cho
tới lúc viện binh và không quân can thiệp” (Đường tới Điện Biên Phủ,
in lần 2, trang 197).
Sai lầm của Tướng Giáp trong trận Ninh B́nh :
Tướng Giáp cho rằng bị thua v́ đạn pháo binh của Pháp bắn
chính xác mà ông giấu đi sự thật là lính Pháp nằm dưới hầm bê tông,
cho nên khi đạn pháo nổ chụp lên đồn th́ chỉ có quân Việt Minh ở
trên mặt đất bị chết mà thôi.
Dĩ nhiên khi thiết lập đồn th́ quân Pháp đă có tọa độ chính
xác và đă cho pháo binh bắn điều chỉnh từ trước.
Đây là ưu điểm của chiến thuật Boong ke của Tướng Dellatre.
Trước đó đúng 2 tháng, vào ngày 4-4-1951, cũng chính Vơ
Nguyên Giáp ra lệnh cho 4 trung đoàn đánh 4 đồn Boong ke, mỗi đồn
chỉ có 1 đại đội lính Pháp trấn giữ; thế mà cả 4 trung đoàn đều thất
bại nặng nề. Lẽ ra Tướng
Giáp phải thấy ra lợi thế của chiến thuật Bong ke qua sự thất bại
của 4 trung đoàn, nhưng trận này chứng tỏ ông vẫn chưa thấy ra.
Ngày 6-6, Tiểu đoàn 7 Nhảy dù rút về Ninh B́nh, một đại đội
Nhảy dù được phân công ở lại thu dọn chiến trường và tái lập hệ
thống pḥng thủ đồn Yên Cư Hạ.
Đêm hôm đó Việt Minh lại tấn công nhưng bị đẩy lui, đến gần
sáng th́ quân Việt Minh rút đi, mang theo các xác chết nên không rơ
số thương vong, quân nhảy dù thiệt hại nhẹ.
Đây là trận đánh vớt vát của tiểu đoàn c̣n lại thuộc Trung
đoàn 88. Hồi kư của
Tướng Giáp: “Đêm ngày 6,
88 tiếp tục đánh Chùa Cao.
Công tác tổ chức chiến đấu chậm, 3 giờ sáng mới nổ súng.
Đại đội Comăngđô mất sức chiến đấu đêm trước đă được thay thế
bằng một đại đội của Tiểu đoàn Dù 7.
Binh lính Dù cố cầm cự đợi viện binh.
Trời sáng vẫn chưa giải quyết được vị trí, 88 phải rút lui”.
Năm 1994, các nhà quân sự học đă mỉm cười hài ḷng sau khi
quyển hồi kư “Đường Tới Điện Biên Phủ” của Tướng Giáp được phát
hành. Trong đó ông ta đề cao các trận thắng và thú nhận tất cả các
trận thua. Người dân
Việt Nam th́ ngạc nhiên cho các lời thú nhận đó của Vơ Nguyên Giáp,
bởi v́ chuyện đó chưa hề xảy ra trong chế độ CSVN.
“Ta” chỉ có thắng và… thắng chứ không hề có thua.
Nếu lỡ có thua cũng biến thành thắng một cách vô tư.
Bởi vậy có nhiều nhà trí thức Việt Nam tại hải ngoại đă khâm
phục Tướng Giáp là đă bước ra khỏi thông lệ của Cọng sản, dám nói
thẳng, nói thật. Tuy nhiên các sử gia Quốc tế th́ không lấy ǵ làm
ngạc nhiên, bởi v́ người ta chờ đợi sự thú nhận này của tướng Giáp
từ lâu, sau khi các bài viết về quan hệ giữa Trung Quốc và Quân đội
CSVN của Quang Zhai đă được Nhà xuất bản North Carolina phổ biến.
So lại với tài liệu của Quang Zhai th́ cuốn sách của Tướng
Giáp chỉ cốt bào chữa cho các thất bại mà phía Trung Quốc đă công
bố. Chứ thực ra chưa có bằng chứng nào có thể chứng minh rằng Tướng
Giáp dám nói thẳng, nói thật.
Tới năm 1999, những bài viết của Quang Zhai được in thành sách
và được đài BBC trích thuật một loạt chiến công của Đại tướng Vơ
Nguyên Giáp trong năm 1951:
“Tháng giêng năm 1951, Tướng giáp cho tấn công Vĩnh Yên, cách
Hà Nội 37 dặm, áp dụng chiến thuật biển người đang được Trung Quốc
dùng tại Triều Tiên. Tướng Jean Delattre de Tassigny, Tổng tư lệnh
Pháp tại Đông Dương, đưa quân phản kích, dùng cả bom Napalm, Việt
Minh tổn thất ít nhất 6.000 chiến sĩ.
Đến tháng Ba, trận tấn công tại Mạo Khê, gần Hải Pḥng, lại
thất bại. Cùng một định mệnh rơi xuống cho quân Việt Minh trong
tháng Năm khi họ đánh Phủ Lư và Ninh B́nh. Các trận đánh này với sự
đồng ư của các cố vấn Trung Quốc. Và thất bại khiến cố vấn Trung
Quốc nhận ra họ phải thực tế và thận trọng hơn” ( Tài liệu của BBC
Vietnammese.com/ chuyên đề/lịch sử Việt Nam ).
Trận Ḥa B́nh ( Trận thứ bảy )
Năm 1951, tháng 9, Tướng Vơ Nguyên Giáp hỏi Tướng cố vấn Vi
Quốc Thanh về phương hướng mở chiến dịch Đông Xuân trong mùa khô
1952. Tướng Thanh cho biết ông và các sĩ quan tham mưu của ông đă
bàn bạc nhiều nhưng thấy không thể nào đánh với quân Pháp tại đồng
Bằng với các đại đơn vị v́ quân Việt Minh không có vũ khí pḥng
không và thua hẵn về pháo binh.
Tướng Giáp lại cho rằng nếu không đánh lớn th́ không tạo được
thanh thế lớn, không làm biến chuyển được t́nh h́nh. Tướng Vi Quốc
Thanh nói: “Tôi sắp về Bắc Kinh họp. Chắc lần này Trung ương đảng
Cọng sản Trung Quốc sẽ có ư kiến đóng góp với các đồng chí Việt Nam”
(Hồi kư Vơ Nguyên Giáp).
V́ không muốn tranh luận với Vơ Nguyên Giáp cho nên tướng Vi
Quốc Thanh không trả lời mà nói Bắc Kinh sẽ trả lời, nhưng sự thực
là Bắc Kinh chỉ trả lời theo ư của Vi Quốc Thanh. Quả nhiên sau đó :
“Ít lâu sau ngày đồng chí Vi về Bắc Kinh, Trung ương Đảng ta
nhận được thư của đồng chí La Quư Ba.
Trong thư đồng chí La viết với t́nh h́nh hiện nay, tốt nhất
là Việt Nam nên quay về với chiến tranh du kích, tiến hành chiến
tranh nhân dân thật rộng răi để hạn chế những chỗ mạnh của Địch”
(Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 238 ).
Năm 1951, trung tuần tháng 10, v́ các cố vấn trưởng Vi Quốc
Thanh và La Quư Ba đă về Trung Quốc.
Tướng Giáp phải một ḿnh soạn kế hoạch đánh nhau trong mùa
khô, ông dự trù tung 4 sư đoàn đánh vào vùng Hữu ngạn Liên khu 3,
tức là các tỉnh Ḥa B́nh, Hà Đông, Ninh B́nh, Hưng Yên, Nam Định,
Phủ Lư. Tuy nhiên Tướng Nguyễn Chí Thanh e ngại sẽ gặp lại t́nh thế
như trận Ninh B́nh cho nên ông quyết định chia ra đánh nhỏ trong khu
vực Hữu ngạn Liên Khu 3.
Đại đoàn 320 sẽ chia ra hoạt động trong các tỉnh Hà Nam, Hà Đông,
Sơn Tây. Đại đoàn 304
hoạt động tại các tỉnh Ninh B́nh, Nam Định. Chiến dịch do Nguyễn Chí
Thanh nghiên cứu và chỉ huy ( Hồi kư Vơ Nguyên Giáp).
Năm 1951, tháng 11, Nguyễn Chí Thanh sắp lên đường đi Liên Khu
3 th́ nhận được tin quân Pháp chiếm đóng Ḥa B́nh.
Ngày 15-11, Nguyễn Chí Thanh họp Tổng quân ủy.
Nội bộ chia ra hai phe, một bên muốn đánh quân Pháp tại Ḥa
B́nh, một bên muốn coi như chuyện Pháp chiếm Ḥa B́nh là không có ǵ
đáng kể. Tướng Giáp nhờ
tướng Hoàng Văn Thái hỏi ư xếp lớn c̣n lại của Trung Quốc là Mai Gia
Sinh (Tham mưu trưởng của Phái bộ cố vấn quân sự).
Mai Gia Sinh cho biết là ông đă bàn với ban tham mưu của ông
và thấy không nên đánh v́ Delattre đă tấn công như vậy tức là ông ta
đă có chủ trương, nếu quân CSVN tiến đánh tức là bị động, rơi vào
đúng tính toán của Delattre.
Vơ Nguyên Giáp hiểu là các cố vấn ngại v́ 4 trận thua liên
tục vừa qua chứng tỏ đánh lớn không lại Phi cơ và pháo binh của Pháp
(Hồi kư Vơ Nguyên Giáp).
Năm 1951, ngày 17-11, cuộc đánh chiếm Ḥa B́nh đă gây tiếng
vang lớn, chứng tỏ quân Pháp đang trên đà chiến thắng v́ Ḥa B́nh là
một cứ điểm chiến lược đối với quân CSVN.
Ngoài ra Delattre mở chiến dịch tâm lư chiến, báo chí loan
tin quân Pháp đang trên đà chiến thắng.
Do đó Nguyễn Chí Thanh và Vơ Nguyên Giáp quyết định tung 3
Đại đoàn tấn công Ḥa B́nh.
Đại đoàn 304 từ Thanh Hóa tiến tới phía tây nam Ḥa B́nh.
Đại đoàn 312 từ Yên Báy tiến tới phía bắc Ḥa B́nh.
Đại đoàn 308 từ Phú Thọ tiến tới khu vực núi BaV́ phía đông
Ḥa B́nh. Hồi ức của Lê
Trọng Tấn cho biết Đại đoàn của ông phải lên đường đi đánh Ḥa B́nh
trong lúc các chiến sĩ bị thương trong trận Nghĩa Lộ chưa được lành
hẵn, tân binh chưa được bổ sung. Qua hồi ức của Lê Trọng Tấn th́
Tướng Vơ Nguyên Giáp không có mặt tại Bộ chỉ huy, mọi việc do Tướng
Nguyễn Chí Thanh điều động.
Năm 1951, ngày18-11, theo hồi kư Vơ Nguyên Giáp, Tướng Nguyễn
Chí Thanh và Tướng Hoàng Văn Thái cùng Bộ tham mưu lên đường đến Ḥa
B́nh ngày 18-11. Lúc này
Tướng cố vấn Vi Quốc Thanh đi Bắc Kinh chưa về. Tướng Giáp mời cố
vấn Mai Gia Sinh cùng đi nhưng Mai Gia Sinh từ chối v́ chỉ muốn đánh
du kích chứ không muốn đánh trận địa chiến.
Ngoài ra ông cho biết ông sẽ báo cáo với Bắc Kinh về việc
này. Tướng Vơ Nguyên Giáp sợ trách nhiệm nên xin lệnh của Bộ chính
trị để lỡ có thua cũng đỡ trách nhiệm (Hồi kư Vơ Nguyên Giáp).
Năm 1951, ngày 23 tháng 11, Hồ Chí Minh họp Bộ chính trị và
quyết định cho phép Tướng Nguyễn Chí Thanh đánh Ḥa B́nh.
Để cho chắc ăn, ngày 24-11 Trường Chinh lại họp Trung ương
đảng để thông qua nghị quyết đánh Ḥa B́nh.
Ngoài ra Trung ương Đảng chỉ thị Vơ Nguyên Giáp phải đến Ḥa
B́nh để cùng chỉ huy với Nguyễn Chí Thanh.
Sở dĩ HCM và Trường Chinh phải làm như vậy v́ sợ sau này lỡ
có thua th́ cá nhân HCM và Trường Chinh không bị mang tội trái lệnh
của Bắc Kinh. Có nghĩa là “Chúng tôi đều đồng ḷng chứ không phải do
quyết định riêng của đồng chí nào”.
( Diễn tiến trận đánh… … …Bối cảnh lịch sử chính trị Việt Nam,
trang 607 )
Hậu chuyện trận Ḥa B́nh : Tướng Salan đă thành công trong
việc rút khỏi Ḥa B́nh và ông ta hài ḷng khi các tin tức t́nh báo
cho biết những thương vong trầm trọng mà quân đội Pháp đă gây ra cho
bộ đội của Vơ Nguyên Giáp.
Ông đă rút ra khỏi Ḥa B́nh một số lớn đơn vị tác chiến của
Pháp để tăng cường cho việc chiếm giữ các “hậu phương” của quân Cọng
sản. Tuy nhiên chỉ có
những chuyên viên quân sự mới thấy được sự chủ động của quân đội
Pháp; c̣n toàn dân Việt
Nam và dân chúng Pháp th́ không thể nào biết được điều đó.
Hồi kư của Vơ Nguyên Giáp thú nhận:
“Nếu so với cuộc rút quân khỏi Cao Bằng của Cácpăngchiê th́
cuộc rút quân của Xalăng ra khỏi Ḥa B́nh đă thành công” (Đường tới
Điện Biên phủ, in lần 2, trang 293).
Thế nhưng vào thời đó, qua lời tuyên truyền của Đài phát
thanh CSVN th́ quân Pháp đă bị quân CSVN giáng cho những đ̣n chí tử
khiến phải tháo chạy một cách thê thảm ra khỏi Ḥa B́nh. Các tin tức
về buổi lễ duyệt binh và triễn lăm chiến lợi phẩm của Vơ Nguyên Giáp
tại Ḥa B́nh đă khiến cho mọi người tin rằng quân Pháp vừa mới thảm
bại. Đây là một h́nh
thái mới của chiến tranh, được gọi là chiến tranh cân năo, ngày nay
quân đội không cần chiếm những mục tiêu có tính cách chiến thuật,
tức là các địa điểm hay lănh thổ có lợi cho việc hành quân hay bảo
vệ an ninh. Người ta chỉ
cần chiếm lấy những mục tiêu có tính cách chiến lược, tức là những
vùng hay những lănh thổ có thể gây tiếng vang làm chấn động tâm lư
của quần chúng.
Sai lầm chính trị của Salan trong việc rút khỏi Ḥa B́nh đă
khiến cho Paris và
Hoa Thịnh Đốn phải đặt lại vấn đề hiệu quả của các vận động
trước đây của Tướng Delattre.
Phải chăng chỉ có Delattre mới đủ khả năng đem lại chiến
thắng và ổn định tại Việt Nam?
Một khi Delattre nằm xuống th́ tất cả những ǵ tại Việt Nam
sẽ sụp đổ theo? Các nhà
chính trị cũng như dân chúng Pháp tỏ ra hết kiên nhẫn nổi v́ không
thấy một dấu hiệu nào chứng tỏ chiến tranh sẽ chấm dứt.
Hợp đồng thuê lính Lê Dương cũng như thời gian phục vụ của
lính Bắc Phi và Ả Rập đă đáo hạn nhưng không có quân để thay thế.
Theo kế hoạch của Tướng Delattre th́ tháng 7-1952 phải trả về
15.000 quân v́ đă có Quân đội Quốc gia Việt Nam thay thế, tuy nhiên
mức độ thực hiện Quân Đội Quốc gia Việt Nam không kịp như dự định.
Chính phủ Pháp quyết định gia hạn duy tŕ 15.000 quân cho tới
tháng 10-52.
Một sai lầm tiếp theo của Salan là rút quân từ Ḥa B́nh về để
tập trung quân chiếm lại Đồng Bằng Băc Việt nhưng việc chiếm Đồng
Bằng lại có tác dụng ngược, tức là chính Salan đă lùa hằng triệu
trai tráng tại vùng Đồng Bằng chạy lên rừng theo Vơ Nguyên Giáp, nếu
họ ở lại sẽ bị quân Pháp tàn sát cho nên họ chỉ có một con đường là
đến gặp Vơ Nguyên Giáp xin nhận súng để chiến đấu giành lại quê
hương và để sống c̣n. Trong khi đó quân Pháp tỏa đi chiếm giữ một
vùng quê rộng mênh mông mà chẳng giữ được một chút ǵ có lợi tại các
nơi đó. Trước kia Tướng
Alessandri sợ rằng Đồng Bằng Bắc Việt sẽ cung cấp lúa và cung cấp
người cho CSVN. Nhưng
với cái cách của Salan th́ giờ đây Đồng Bằng không có lúa v́ không
c̣n lực lượng lao động sản xuất; c̣n khối người khổng lồ th́ chính
Salan đă đuổi họ chạy về phía Vơ Nguyên Giáp cho nên tốn quân chiếm
đóng mà chẳng giữ được một cái ǵ cả.
V́ vậy sau khi trận chiến Ḥa B́nh kết thúc ngày 24-2-1951,
Nguyễn Chí Thanh và Vơ Nguyên Giáp không quan tâm tới con số binh sĩ
bị chết và bị thương trên 10.000 người, các ông cũng không quan tâm
đến việc sẽ thiếu quân số.
Mà trái lại, số lượng thanh niên thanh nữ xin gia nhập bộ đội
tại các vùng thôn quê Việt Nam mới là mối lo cho Đảng Cọng sản Việt
Nam; các ông không đủ
lương thực để nuôi đội quân khổng lồ này;
cũng không có đủ vũ khí để có thể biến tất cả trở thành bộ
đội. Trong khi quân Pháp
gia tăng hành quân tái chiếm các vùng thôn quê tại đồng bằng Bắc
Việt th́ ĐCSVN phải lo nuôi ăn cho hàng triệu đàn ông trai tráng,
thanh niên nam nữ chạy nạn càn quét của quân đội Pháp.
Do đó dù thiếu hụt quân sĩ đến bao nhiêu đi nữa th́ Vơ Nguyên
Giáp cũng không lo v́ có vô số thanh niên đang ăn cơm của CSVN mà
không có việc làm, ông có thể nhanh chóng bổ sung số nhân mạng thiếu
hụt qua các trận đánh;
miễn là ông không bị thiếu súng. Cũng may là số súng ống của CSVN bị
thất thoát trong các trận đánh không đáng kể, bằng mọi giá các chiến
sĩ CSVN phải mang súng của người chết trở về đơn vị, và rồi số súng
này sẽ được giao cho những người bổ sung.
C̣n những người bị thương th́ Tướng Giáp cứ đẩy họ về phía
sau cho các tổ chức “Nhân dân” tại hậu phương lo.
Hậu phương là những vùng do Việt Minh kiểm soát. Tại các vùng
này người dân làm ra bao nhiêu lúa gạo đều phải gom lại để nuôi bộ
đội và thương binh. Mọi
người trong vùng CSVN chiếm đóng vui vẻ đóng góp toàn bộ sản phẩm
của họ v́ thực ra công cày cấy, gặt hái đều là công chung của toàn
thể bộ đội cũng như thanh niên nam nữ chạy nạn từ nơi khác tới.
Thế rồi chính người dân tại các nơi c̣n cấy gặt được đều phải
ăn cơm độn khoai sắn để nhường lúa gạo cho chiến trường.
V́ vậy Vơ Nguyên Giáp dễ dàng thay thế số người bị chết hay
bị thương, miễn là thành tích chiến đấu của bộ đội CSVN gây được
niềm tin nơi những người cung cấp vũ khí và đạn dược cho ông, đó là
Mao Trạch Đông và Staline.
Sai lầm của Tướng Giáp trong trận Ḥa B́nh:
Hồi kư của Vơ Nguyên Giáp thú nhận: “Tổn thất của ta ở mặt
trận chính và mặt trận phối hợp là 11.193 người, trong đó có 2.692
đồng chí hy sinh” (Đường tới Điện Biên Phủ, trang 294).
Đây chỉ là căn cứ theo con số của tài liệu Pháp mà nghiễn
thêm ra nhưng cũng cho thấy tối thiểu 3 Đại đoàn của CSVN đă bị mất
hết 11.000, quân số c̣n lại của mỗi đại đoàn chỉ được 4 tiểu đoàn.
(Mỗi đại đoàn có 9 tiểu đoàn).
V́ vậy vào ngày 22-4-1952 Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN họp
hội nghị lần thứ 3: “Hội
nghị nhận định… … ta chưa có khả năng giành thắng lợi quyết định
trong chiến tranh. Cuộc
kháng chiến của ta vẫn là “trường kỳ kháng chiến” và “tự lực cánh
sinh” ( Vơ Nguyên Giáp, Đường Tới Điện Biên Phủ, trang 300).
Lúc này cố vấn La Quư Ba c̣n ở Bắc Kinh.
Tháng 6 -52, La Quư Ba trở lại Việt Nam và triệu tập Quân ủy
Trung ương. Hồi kư Vơ
Nguyên Giáp ghi nhận:
“Các cố vấn Trung Quốc không đánh giá cao thắng lợi chiến dịch Ḥa
B́nh như chúng ta…”(trang 302).
Kết thúc Hội nghị, Quân ủy Trung ương ra nghị quyết trở lại
chiến tranh du kích, không thể đương cự trận địa chiến với quân
Pháp. Nghị quyết này là
quyết định tối hậu của Bắc Kinh.
Ngay trước khi trận Ḥa B́nh diễn ra, tướng cố vấn Vi Quốc
Thanh đă chủ trương không đánh trận địa chiến và ông cho biết Bắc
Kinh sẽ có chỉ thị cho Vơ Nguyên Giáp về vấn đề này, sau đó thư của
cố vấn La Quư Ba từ Trung Quốc đă chỉ thị ngưng đánh lớn.
Nhưng v́ sợ mất mặt do thách thức của De Lattre tại Ḥa B́nh
mà Vơ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh đă bất chấp lệnh của Bắc Kinh
mà xua quân đánh nhau với quân Pháp, mặc cho cố vấn Mai Gia Sinh
phản đối và hăm dọa sẽ báo cáo cho Bắc Kinh.
Do đó những tổn thất của trận Ḥa B́nh đă khiến cho cố vấn La
Quư Ba không bằng ḷng khi ông trở lại Việt Nam. V́ vậy ông ra nghị
quyết chấm dứt mọi ảo vọng đánh quân Pháp bằng trận địa chiến.
Kể từ đó các trận đánh chỉ có tính cách du kích chiến, làm
tiêu hao và mệt mỏi quân Pháp, chấp nhận chiến tranh lâu dài, thời
gian sẽ làm cho người Pháp năn ḷng.
Nhưng trong khi Hồ Chí Minh đợi người Pháp năn ḷng th́ tại
hậu phương của Việt Minh mới là thực sự nản ḷng.
H́nh ảnh các thương binh nằm la liệt trong các làng xă mà
không có thuốc men trở thành một gánh nặng đau ḷng cho dân chúng.
Người dân phải nhịn ăn để nuôi bộ đội trên rừng, bây giờ cả
làng phải tập trung nuôi thương binh, nhường những miếng ngon nhất,
chỗ ấm nhất cho thương binh;
nhưng tiếng rên la của những người sống không hẳn sống mà
chết cũng chưa chịu chết đă làm mọi người mất tinh thần.
Rồi hàng ngày rủ nhau đi đào huyệt chôn tử sĩ khiến cho tâm
lư quần chúng cảm thấy ngao ngán trước những lời tuyên truyền ra ră
trên Đài phát thanh Nhân Dân .
Có một ông nông dân tại Quảng Nam đă cảm hứng sáng tác một bài
thơ mà sau này trở thành bất hủ trong kho tàng văn học Việt Nam:
“Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi/ Chiến khu thóc lúa chú
khiêng rồi / Thi đua
liên tiếp thua đi măi /
Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi”. Cách dùng chữ theo lối “nói
lái” khiến cho tới nay không có ai họa lại bài thơ này mà được thanh
thoát như bài nguyên tác.
Cũng v́ bài thơ này mà từ thời đó ĐCSVN đă không dùng chữ
“chính phủ” để nói đến tổ chức chính quyền mà thay thế bằng chữ “nhà
nước”; và cũng từ đó hễ
người dân nào nói tới chữ “chính phủ” tức là có ư mĩa mai ĐCSVN.
Trận Thái B́nh ( Trận thứ tám )
Năm 1952, ngày 26-3, tướng Tư lệnh quân Pháp tại Bắc Việt là
De Linarès chỉ huy 5 liên đoàn Lưu động và 3 tiểu đoàn Dù bao vây
vùng đồng bằng phía nam Bắc Việt nhằm tiêu diệt Đại đoàn 320 do
tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy.
Ngày 27-3 Tướng Vơ Nguyên Giáp được tin liền thông báo cho
Tướng Văn Tiến Dũng biết để chạy tránh cuộc hành quân, tuy nhiên ông
đă báo trễ 1 ngày sau khi cuộc hành quân khởi sự (Hồi kư Vơ Nguyên
Giáp).
Chiều ngày 28-3, ṿng vây siết chặt tại vùng Diêm Hộ, Diêm
Điền, có 2 tiểu đoàn CSVN thoát khỏi ṿng vây tính quay ngược trở
laị đánh tập hậu Liên đoàn 3 lưu Động nhưng bị Đại tá Vanuyxem đẩy
trở lại ṿng vây và lùa ra biển.
Phi cơ B.26 thả bom xuống làng Lưu Phương là nơi Bộ chỉ huy
của Tướng Dũng đang trú đóng. Tướng Giáp đánh điện chỉ thị Đại đoàn
320 vượt ṿng vây về Nam Định để cùng chiến đấu với Đại đoàn 304
đang hoạt động tại đây.
Nhưng Tướng Dũng thoát được bằng cách dùng tàu thuyền vượt sông Hồng
về Hưng Nhân thuộc tỉnh Thái B́nh (Hồi kư của VNG).
Tối ngày 29-3, 2.000 quân c̣n lại củaVăn Tiến Dũng bị vây
trong làng Bích Du, sáng hôm sau th́ toán quân CSVN mở đường máu
nhưng bị 9 phi cơ B.26 cùng với phi cơ khu trục dội bom, một số
thoát ra phía biển bị Hải quân đánh chận, số c̣n lại bị bắt làm tù
binh. Tổng kết quân CSVN bị chết 700, bị bắt 700.
Phía Pháp 32 chết và 102 bị thương .
Năm 1952, ngày 18-4, Tướng Cogny, Tư lệnh Phân khu Bắc chỉ
huy 3 Liên đoàn Lưu động bao vây Trung đoàn 98 thuộc Đại đoàn 316
của CSVN tại làng Đại Vị Thượng, cách Hà Nội 25 cây số.
Rạng sáng ngày 19-4, quân Pháp khép ṿng vây, quân CSVN cố
thoát ra trong đêm 19 và rạng 20 nhưng thất bại. Theo Vơ Nguyên Giáp
th́ Trung đoàn 98 v́ thiếu kinh nghiệm, cả trung đoàn cùng rút theo
một con đường, một bộ phận đi đầu trót lọt nhưng khúc sau bị phát
hiện, đáng lẽ phải mở đường máu để vượt qua nhưng lại chạy trở vào
ṿng vây.
Đêm 20-4 Trung đoàn 98 mở đường máu tại làng Trắc Niết nhưng
đụng tuyến pḥng thủ của quân Pháp nên phải dội lại. Chính ủy trung
đoàn là Lê Quang Ấn và Tham mưu trưởng là Bùi Đại bị tử thương.
Đến 3 giờ sáng th́ Trung đoàn 98 hoàn toàn tan ră.
Quân Pháp đuổi đánh suốt ngày 21 bằng phi cơ, pháo binh và
chiến xa. Trận chiến kết thúc vào tối ngày 21-4 .
Tổng kết Trung đoàn 98 hoàn toàn bị tiêu diệt với 870 chết,
1067 tù binh, 63 súng tự động, 657 súng cá nhân, 31 súng cối, 13
súng chống tăng. Phía
Pháp có 76 chết, 32 mất tích và 261 bị thương.
Trận Na Sản ( Trận thứ chín )
Để đối phó với trận địa chiến của quân Cọng sản, Tướng Salan
quyết định thành lập các căn cứ pḥng thủ lớn có cả Pháo binh, Thiết
giáp, Phi cơ với sân bay ngay trong cứ điểm.
Đơn vị trú pḥng tập trung cả sư đoàn cho nên quân Pháp muốn
đánh th́ phải huy động quân đông gấp 10, tức là 10 Đại đoàn th́ CSVN
không có khả năng. Do đó
từ cứ điểm này, các lực lượng xung kích hùng hậu sẳn sàng can thiệp
cứu viện các đồn bị uy hiếp. C̣n các đồn có nhiệm vụ bảo vệ an ninh
tại các làng xă mà không ngại bị đại quân của Cọng sản tấn công.
Cứ điểm đầu tiên được thực hiện là Cứ Điểm Na Sản, nằm trên
Tỉnh lộ 41, giữa Sơn La và Lai Châu
Năm 1952, ngày 28-10-1952, công tŕnh xây dựng cứ điểm Na Sản
được bắt đầu. Phi cơ chở
đến Na Sản 1 đại đội Công binh, 1 tiểu đoàn Lê Dương và 400 công
nhân. Ngoài ra phi cơ
cũng chở tới 1.100 tấn kẽm gai, 5.000 quả ḿn, đạn dược và vơ khí
nặng. Trước đó cứ điểm Na sản chỉ có 1 đại đội Thân binh Thái trấn
giữ. Kề từ ngày 29-10
mỗi ngày có 50 chuyến bay, mỗi chuyến cách nhau 10 phút, từ sáng tới
tối. Có ngày v́ nhu cầu chuyển vận đă lên tới 100 chuyến bay, một số
vật liệu được thả dù xuống các vị trí pḥng thủ xung quanh cứ điểm.
Năm 1952, ngày 1-11, Liên đoàn lưu động Việt Nam được không
vận tới Na Sản, gồm 3 tiểu đoàn Bộ binh, 1 tiểu đoàn Pháo binh và 1
chi đoàn Thiết giáp.
Liên đoàn lưu động Việt Nam là liên đoàn bộ binh đầu tiên của
quân đội Bảo Đại, sau này trở thành Liên đoàn 31/Bộ binh. Vào lúc
này, tháng 11 năm 1952, th́ liên đoàn chỉ là một liên đoàn thử
nghiệm trong kế hoạch thành lập các liên đoàn Bộ binh VN.
Mới đầu có tên là Liên đoàn 7 Lưu động;
gồm các tiểu đoàn 4/BVN, 55/BVN, 56/BVN;
1 tiểu đoàn Pháo binh và 1 tiểu đoàn thám xa. Tuy nhiên cấp
chỉ huy th́ chỉ có hơn 10 sĩ quan Việt Nam, số c̣n lại là người
Pháp. Trong số các sĩ quan chỉ huy có Thiếu tá Nguyễn Khánh, Trung
úy Cao Văn Viên và Đại úy Trần Thiện Khiêm.
Năm 1952, ngày 21-11, Đại tá Gilles chỉ huy 3 tiểu đoàn Nhảy
dù đáp xuống phi trường Na sản và chỉ huy thiết lập Tập đoàn cứ điểm
Na Sản gồm có 3 tiểu đoàn Dù, 3 tiểu đoàn Bộ binh Việt Nam, 3 tiểu
đoàn Khinh binh Thái và 1 tiểu đoàn Lê Dương.
Lực lượng yểm trợ có 1 tiểu đoàn pháo binh của Liên đoàn lưu
động Việt Nam, 2 đại đội pháo binh của Pháp; 1 tiểu đoàn Công binh
Pháp; 1 tiểu đoàn thám xa Việt Nam và 1 tiểu đoàn thám xa Pháp.
Sự khác nhau giữa tiểu đoàn Bộ binh và tiểu đoàn Khinh binh là
tiểu đoàn Khinh binh không có đơn vị súng cối 81 ly và đại bác 57
ly. Thám xa là xe bọc sắt có bánh cao su.
Một tiểu đoàn thiết giáp được gọi là Chi đoàn.
Mỗi Chi đoàn gồm có 3 Chi đội, tức là 3 đại đội. Mỗi Chi đội
có 6 xe thiết giáp, chia thành 3 Phân đội. C̣n một tiểu đoàn pháo
binh 105 ly gồm có 2 đại đội.
Mỗi đại đội có 6 khẩu súng 105 ly, chia thành 3 trung đội.
Năm 1952, ngày 23-11, quân số tập trung tại Na Sản là 12.000,
gồm 7 tiểu đoàn Bộ binh, 3 tiểu đoàn Dù, 2 chi đoàn Thiết giáp và 1
tiểu đoàn Pháo binh. Đến
ngày 22-10 kể như công tŕnh xây dựng cứ điểm Na Sản hoàn tất.
Đại tá nhảy dù Gilles được cử làm Chỉ huy trưởng cứ điểm.
Chiến đoàn Dù do Đại tá Ducourneau chỉ huy là thành phần tiếp ứng
của cứ điểm.
( Diễn tiến trận đánh … … Bối cảnh lịch sử chính trị Việt Nam,
trang 620 )
Sai lầm của Tướng Giáp trong trận Na Sản: Sau trận thất bại
này, Tướng Giáp cố suy nghĩ : “Nhưng v́ đâu phần lớn trận đánh đều
không thành công? Một nguyên nhân là bộ đội mỏi mệt…Nguyên nhân
chính là do những cứ điểm này nằm trong thệ thống cấu trúc chặt chẻ
của một tập đoàn cứ điểm. Người Pháp coi đây là một chiến lược ngăn
chận mới. Muốn đánh bại chiến lược này cần phải có thời gian” (
Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 343 ).
Hóa ra nhờ thất bại quá nặng mà ông t́m ra nguyên nhân là do
đánh giá sai chiến thuật pḥng thủ của quân đội Pháp.
Lẽ ra nếu ông từng tốt nghiệp một trường quân sự th́ ông đă
thấy rơ điều này trước khi nghĩ thới chuyện đánh hay không được
đánh. Nếu ông có một mớ
kiến thức sơ đẳng về vơ bị, ông sẽ hiểu trong một cứ điểm pḥng thủ
người ta bố trí hỏa lực ra sao và các loại vũ khí phối hợp ăn nhịp
với nhau ra sao. Khi đă
biết cấu trúc pḥng thủ của địch rồi th́ ông mới được quyền nghĩ
tiếp là nên đánh như thế nào để phá vỡ ưu thế phối hợp hỏa lực giữa
bộ binh và pháo binh, giữa bộ binh và không quân.
Và khi đă nắm chắc là có thể phá vỡ được cấu trúc đó th́ ông
mới được phép quyết định đánh và đánh như thế nào.
Đằng này ông cứ hô xung phong, người này ngă xuống người sau
tiến lên, nhưng càng tiến lên càng chết.
Cuối cùng ông hô khản tiếng mà không thấy ai xung phong, lúc
đó ông nh́n lại th́ mới
hay rằng quân của ḿnh đă chết hết. Về nhà ngẫm nghĩ lại mới biết
rằng cấu trúc phối hợp hỏa lực của người ta “quá chặt chẻ”.
50 năm sau ông nêu lên sai lầm của ông thời đó, nhưng ông lại
huênh hoang: “Muốn đánh bại chiến lược này cần phải có thời gian”.
Không ai hiểu nổi ông cần thời gian để làm ǵ và trong bao
lâu. Phải chăng là ông
cần thời gian để nghiên cứu cách đánh bại đối thủ? Và phải chăng 1
năm sau ông đă nghĩ ra và cho áp dụng tại Điện Biên Phủ? Tuy nhiên
cũng chính hồi kư của ông về trận Điện Biên Phủ cho thấy ông thất
bại hoàn toàn trong đợt tổng tấn công Điện Biên Phủ sau khi nướng
hết 23 ngàn người trong số 33 ngàn chiến sĩ tham dự.
Ngoài ra ông c̣n viện lư do bộ đội mỏi mệt để gánh bớt cho cái
lỗi không có kiến thức quân sự của ông trong trận Na Sản.
Đây không phải là lần đầu tiên Tướng Giáp nghĩ tới nguyên
nhân “Bộ đội mỏi mệt”.
Trong trận Ninh B́nh xảy ra vào tháng 5-1951, Đại đoàn 308 phải hành
quân từ vùng Bắc Cạn, vượt qua Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Ḥa
B́nh, Hà Nam. Vượt qua 400 cây số đường bộ và vượt qua sông Lô, sông
Thao, sông Đà tới Ninh B́nh.
Binh sĩ của 308 chỉ có 1 ngày để chuẩn bị cho trận đánh,
không hề được nghỉ ngơi.
Nhưng đến khi Trung đoàn 88 là trung đoàn thiện chiến nhất bị tiêu
diệt th́ Tướng Giáp lại nghĩ :
“Tôi nghĩ không phải chỉ v́ một số khuyết điểm trong công tác
chuẩn bị như phái viên đă về báo cáo, cũng không phải v́ anh em quá
mệt mỏi…” (Đường tới Điện Biên Phủ, in lần 2, trang 197).
Ngày nay các nhà nghiên cứu quân sự phải lắc đầu ngao ngán
trước kiến thức quân sự của Tướng Giáp.
Một người lính khiêng vác nặng, di chuyển 400 cây số đường bộ
mà chỉ có một ngày để chuẩn bị chiến trường rồi lăn vào đánh nhau
với những người đă dưỡng sức nằm chờ nhiều tháng trời.
Nếu Tướng Giáp được đọc qua binh pháp của Tôn Tử hẵn ông phải
biết câu châm ngôn mà Tôn Tử thường nhắc đi nhắc lại :
“dĩ dật đăi lao” (lấy khỏe đợi mệt).
Qua chuyện này mới thấy cái tai hại của một người làm Tướng mà
chưa bao giờ có được một ngày cùng sống với người lính:
Tướng Giáp viết về sức mang vác của một người lính của ông:
“Mọi người đều mang vác nặng, các chiến sĩ có 30 kilôgam súng
đạn, thuốc nổ, lương thực trên vai…”(trang 162).
Một lần nữa các nhà nghiên cứu quân sự chào thua, bởi v́ theo
như sự hiểu biết của họ th́ một người lính không thể nào đeo vác
trên vai 30 kư để đi hằng trăm cây số.
Những người ngoài quân đội th́ không rơ điều này v́ không
biết khả năng một con người có thể mang vác bao nhiêu.
Nhưng một ví dụ dễ thấy là ngày nay theo luật lao động của
Hoa Kỳ th́ các nhà máy sản xuất không được đóng gói thùng hàng nặng
quá 50 pound nhằm bảo đảm an toàn cho cái sống lưng của những người
công nhân bốc xếp. Người
công nhân bốc xếp chỉ nhấc thùng hàng lên rồi đặt thùng hàng xuống
hoặc có thể bưng bê thùng hàng trong ṿng vài bước chân.
Nhưng thùng hàng 50 pound chỉ là 23 Kg. Trên 23 Kg là đă có
thể làm tổn thương đến xương sống của người ta rồi! Huống hồ mang 30
kư đi hằng trăm cây số lên đèo xuống dốc, trèo đèo lội suối?
Dĩ nhiên là sức con người không thể nào làm nổi và do đó có
thể kết luận rằng Tướng Giáp không biết ǵ về sức khiêng vác của một
người lính.
Trận tổng tấn công Điện Biên Phủ ( Trận thứ mười )
Năm 1953, ngày 20-11, Tướng Navarre ra lệnh thả dù 6 tiểu đoàn
xuống thung lũng Điện Biên phủ để xây dựng cứ điểm pḥng thủ Lào và
Xứ Thái. Cứ điểm có khả năng chứa được 12 tiểu đoàn với hệ thống dây
thép gai bao quanh cứ điểm rộng 50 đến 70 mét, có 1 phi đạo dài
1.000 mét với 6 phi cơ thả bom và 10 phi cơ quan sát
Năm 1953, ngày 8-12, Đại tá De Castries được cử làm chỉ huy
trưởng Điện Biên Phủ thay cho Thiếu tướng Gilles.
T́nh báo Pháp nhận được tin Đại đoàn 316, 304, 308, và Đại
đoàn Pháo binh 351 di chuyển về Điện Biên Phủ.
Tướng Navard cho lệnh 3 tiểu đoàn pḥng thủ tỉnh Lai Châu rút
về Điện Biên Phủ
Năm 1954, ngày 1-1, theo hồi kư của Vơ Nguyên Giáp, ông ta
được cử làm Tư lệnh kiêm Bí thư quân ủy Mặt trận Tây Bắc.
Trong khi đó Tổng bí thư quân ủy Nguyễn Chí Thanh, Bí thư
quân ủy Trung ương Văn Tiến Dũng ở lại hậu phương theo dơi t́nh
h́nh. Văn Tiến Dũng
trước đó làm Tư lệnh Đại đoàn 320 nhưng được rút về làm Tổng Tham
mưu trưởng. Tướng Hoàng
Văn Thái đang là Tổng Tham mưu trưởng xuống làm Tổng Tham mưu phó,
đi Điện Biên Phủ để làm Tham mưu trưởng cho Vơ Nguyên Giáp.
Ngày 5-1, Vơ Nguyên Giáp, Vi Quốc Thanh (Cố vấn Trung Quốc)
cùng Bộ tư lệnh mặt trận lên đường.
Gồm có Lê Liêm, phó của Nguyễn Chí Thanh, phụ trách chiến
tranh chính trị. Đặng Kim Giang, phó của Trần Đăng Ninh, phụ trách
tiếp liệu. Đỗ Đức Kiên,
phó của Trần Văn Quang, phụ trách tham mưu hành quân.
Tướng Vơ Nguyên Giáp vừa làm Tư lệnh vừa làm Bí thư quân ủy
khác với lệ thường trong quân đội Cọng sản.
Theo lệ thường th́ vị Tư lệnh đơn vị luôn luôn có Bí thư quân
ủy đi kèm để giám sát Tư lệnh và bàn bạc với Tư lệnh trước khi ra
những quyết định quan trọng.
Nhưng đàng này Vơ Nguyên Giáp vừa chỉ huy vừa giám sát chính
ḿnh. Chuyện này hơi khó hiểu nhưng nếu t́m hiểu thêm một chút nữa
th́ sẽ thấy rằng người thực sự giữ vai tṛ Bí thư quân ủy trong trận
này là Tướng vố vấn trưởng Vi Quốc Thanh. V́ đă có Vi Quốc Thanh làm
nhiệm vụ giám sát Vơ Nguyên Giáp nên cả hai tướng chính trị của
Trung ương Đảng là Nguyễn Chí Thanh và Văn Tiến Dũng đều phải nằm
nhà. Năm 1954, ngày 3-3,
Vi Quốc Thanh nhận được điện của Chu Ân Lai:
“…để chuẩn bị cho 5 nước Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung và đại biểu
các nước có liên quan tham gia hội nghị Genève thảo luận vấn đề
Triều Tiên và vấn đề Đông Dương, triệu tập vào giữa tháng 4 … Để
giành chủ động về ngoại giao, có thể tổ chức đánh mấy trận thắng đẹp
ở Việt Nam như trước khi đ́nh chiến ở Triều Tiên không ? ”… Sau khi
Vi Quốc Thanh và Vơ Nguyên Giáp bàn bạc, quyết định ngày 13/3 bắt
đầu nổ súng tấn công Điện Biên Phủ” (Vương Chấn Hoa, Đồng Chí Vi
Quốc Thanh, Dương Danh Di dịch). Bức điện văn này là một bằng chứng
chứng minh rằng trận Điện Biên Phủ là hệ quả của Hội nghị Genève chứ
không phải Hội nghị Genève là hệ quả của trận Điện Biên Phủ.
Nhận được lệnh của Mao Trạch Đông, mới đầu các chuyên gia
Trung Quốc dự trù 10 ngày sau sẽ khai hỏa.
Trận mở màn sẽ tiêu diệt 2 tiền đồn phía Bắc của căn cứ Điện
Biên Phủ cùng một lúc.
Nếu đánh 2 đồn cùng một lúc th́ pháo binh của Pháp phải phân tán yểm
trợ cho hai nơi. Tuy nhiên ngược lại, lực lượng pháo binh của CSVN
lại không đủ bao giàn cho cả hai mặt trận cùng một lúc, cho
nên cuối cùng Tướng Giáp quyết định đánh tiền đồn Béatric
trước, rồi ngày hôm sau mới đánh tiền đồn Gabrielle.
Năm 1954, ngày 27-3, sau 10 ngày nghĩ ngơi, bổ sung quân số và
chỉnh đốn đơn vị, Tướng Giáp họp các đơn vị trưởng tại Mường Păng,
ban hành “kế hoạch tác chiến” tổng tấn công Điện Biên Phủ.
Đơn vị tham dự là 4 Đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn pháo binh.
Theo kế hoạch do các chuyên gia Trung Quốc soạn ra, Tướng
Giáp giao cho Đại đoàn 312 của Lê Trọng Tấn đánh chiếm ṿng cung
Đông Bắc của cứ điểm, Đại đoàn 316 của Tướng Lê Quảng Ba đánh chiếm
ṿng cung phía Đông của cứ điểm. Hai Đại đoàn này có nhiệm vụ tiêu
diệt 5 đồn chính và 1 đồn dự pḥng.
Năm 1954, ngày 30-3, lúc 6 giờ 15, quân của 2 Đại đoàn 316 và
312 đồng loạt tấn công 4 tiền đồn trấn giữ mặt Đông và Đông Bắc của
Cứ điểm.
( Diễn tiến trận đánh … … … Bối cảnh lịch sử chính trị Việt
Nam, trang 705 )
Kết thúc trận tổng tấn công
Năm 1954, ngày 6-4, lúc 8 giờ 30 sáng, quân CSVN rút khỏi
Huguette6 dưới trận mưa bom của máy bay tiêm kích.
Lúc 10 giờ 15 Bigeard báo cáo tại chiến trường Huguette6 đếm
được gần 1.000 xác CSVN, phần đông c̣n rất trẻ, khoảng 16 tuổi.
Có 21 lính CSVN được t́m thấy c̣n sống lẫn trong đống xác
chết được đưa về Khu trung tâm. Về phía quân pḥng thủ th́ đại đội
Lê Dương 86 người c̣n 20 người.
Toán quân tiếp viện có 23 chết, 112 bị thương và 86 mất tích.
Đến lúc này th́ kế hoạch tác chiến của Vi Quốc Thanh và Vơ
Nguyên Giáp gặp trở ngại cả hai mặt “điểm” lẫn “diện”. Theo dự trù
th́ Đại đoàn 308, do Tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy, sẽ hốt gọn tiểu
đoàn người Thái là Tiểu đoàn yếu nhất của cứ điểm, sau đó quân của
308 sẽ tràn vào Bộ chỉ huy của Cứ điểm mà không hao tổn nhiều do
phải chạm súng với Tiểu đoàn Thái.
Quả nhiên 2 đại đội người Thái đă bỏ chạy khi nghe nổ súng,
nhưng Tướng Vũ vấp phải đại đội thứ 3 lại là Đại đội 1 của Tiểu Đoàn
5 Dù Việt Nam.
Theo kế hoạch th́ Tướng Vũ phải nhanh chóng thanh toán Tiểu đoàn
Thái và đánh thẳng vào trung tâm để bắt sống Decastries.
Nhưng không ngờ 308 đă bị thất bại v́ phản ứng nhanh nhạy của
Đại úy Bizard khiến cho trung đoàn 176/316 bị xóa sổ.
Tài liệu quân sự Trung Quốc :
“Lúc này Vơ Nguyên Giáp hơi sốt ruột chưa đánh hạ được A1,
liền ra lệnh tấn công C1.
Đồng chí chưa bàn với Vi Quốc Thanh, tự quyết định điều trung
đoàn 102 của đại đoàn 308… Trung đoàn 102 là trung đoàn chủ lực của
đại đoàn 308, là bộ đội từ khi bắt đầu chiến dịch cho đến nay chưa
bị tổn thất, lần này bị trọng thương, ảnh hưởng rất lớn đến phát
triển của trận đánh. Chỉ huy “quả đoán” của Vơ Nguyên Giáp lần này
bị không ngờ vấp váp”.
“Vi Quốc Thanh rất bực tức, kiến nghị phía Việt Nam nghiêm túc
ra lệnh cho bộ đội tấn công điều tra rơ t́nh h́nh thực tế…”, để
nghiên cứu đối sách.
Cuối cùng rơ ra là, quân địch ở A1 lợi dụng đường hào và nhà hầm xây
dựng thời kỳ quân Nhật chiếm đóng để ngoan cố chống cự và thỉnh
thoảng tiến hành phản kích quân đội Việt Nam không thể nào đối phó.
Vi Quốc Thanh điện gấp về Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, báo
cáo t́nh h́nh này, Quân uỷ Trung Quốc cấp tốc điều một số cán bộ
từng tác chiến ở Triều Tiên có kinh nghiệm đánh đường hào, đi nhanh
ra tiền tuyến Điện Biên Phủ” (Vương Chấn Hoa, Đồng Chí Vi Quốc
Thanh, Dương Danh Dy dịch”.
Đoạn văn này cho thấy trước đây mỗi khi ra lệnh điều binh Vơ
Nguyên Giáp đều phải hỏi ư kiến của Vi Quốc Thanh. Nhưng lần này
quyết định điều động 102 th́ không hỏi, nhưng lại là một quyết định
sai lầm đưa đến tổn thất nặng khiến cho “Vi Quốc Thanh rất bực tức,
kiến nghị phía Việt Nam nghiêm túc ra lệnh cho bộ đội tấn công điều
tra rơ t́nh h́nh thực tế…”.
Câu này có thể hiểu là “Vi Quốc Thanh rất bực, yêu cầu Vơ
Nguyên Giáp phải làm ăn cho đàng hoàng hơn”.
Đủ chứng tỏ ai là người chỉ huy tại Điện Biên Phủ.
Năm 1954, ngày 6-4, Tướng Giáp cho lệnh tạm ngưng chiến đấu,
đại bộ phận rút ra ngoài, để lại một bộ phận nhỏ trấn giữ các vị trí
đă chiếm được (trang 277).
Các đơn vị trưởng về sở chỉ huy tham dự sơ kết đợt 2 chiến
dịch. Tướng Giáp kể lại
tâm trạng của các vị chỉ huy trưởng các đơn vị:
“Văn pḥng tổ chức bữa cơm với một số đồ hộp chiến lợi phẩm
các đơn vị vừa gởi tặng.
Mấy đồng chí cán bộ đều bở ngỡ trước quang cảnh này, v́ họ tưởng bị
Bộ chỉ huy chiến dịch gọi lên để thi hành kỷ luật do không hoàn
thành nhiệm vụ” (trang 280).
Như vậy là kế hoạch tấn công đợt 2 không hoàn thành.
Hay nói chính xác hơn là Tướng Giáp đă thất bại trong đợt
tổng tấn công chiếm Điện Biên Phủ.
Kiểm điểm trận tổng tấn công :
Tài liệu của phía Trung Quốc cho thấy kết quả thất bại của
trận tổng tấn công: “Chỉ
huy “quả đoán” của Vơ Nguyên Giáp lần này không ngờ bị vấp váp. Vi
Quốc Thanh lựa lời an ủi đồng chí, nêu ra kiến nghị tạm ngừng tiến
công chuyển sang tổng kết chỉnh đốn. Vơ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến
nghị này. Lúc này hội
nghị Genève sắp triệu tập, Điện Biên Phủ trở thành một điểm nóng
khiến cả thế giới dơi theo sau khi Triều Tiên đ́nh chiến, Quân uỷ
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm theo dơi tác chiến
Điện Biên Phủ, luôn luôn hỏi Vi Quốc Thanh t́nh h́nh chiến sự và có
nhiều chỉ thị cụ thể đối với chiến thuật tấn công ĐBP( Hồi kư của
Tướng Vương Chấn Hoa, thư kư riêng của Tướng Vi Quốc Thanh).
Hồi kư của Đại tá Langlais, chỉ huy trưởng pḥng thủ Khu trung
tâm: “Nếu Điện Biên phủ
đă không bị mất đêm đó (Đêm 30-3) là do kẻ thù bị bất ngờ v́ giành
được những mục tiêu chỉ định quá nhanh chóng nên không đủ khả năng
khai thác những thắng lợi ban đầu”.
Langlais cho rằng lẽ ra Tướng Giáp phải tiến thẳng vào Bộ chỉ
huy của Decastries sau khi đă phá vỡ được pḥng tuyến phía Đông.
Nếu làm như vậy th́ Tướng Giáp đă thành công ngay trong đêm
đầu tiên của đợt 2 (ngày 30-3-1954).
Từ Domino1 cho tới Eliace2 là một cung pḥng thủ chiếm một
phần tư vành đai pḥng thủ, quân của Tướng Giáp thừa sức tràn theo
chỗ thủng này mà tiến thẳng vào Bộ chỉ huy của Cứ điểm.
Trung đoàn trừ bị 102 của Hùng Sinh thay v́ tiến vào chết
chùm trên đồi Eliance2 th́ cứ theo chỗ thủng giữa Dominique1 và
Eliance1 mà vào khu trung tâm như đi vào chỗ không người.
C̣n Eliance2 th́ chỉ cần một đại đội phục chận dưới chân đồi
th́ quân trên đồi nếu có gan tiến ra khỏi đồn cũng sẽ bị chận đánh
dễ dàng. Lúc đó Eliance2
sẽ trở thành một điểm chết, bị cô lập.
Không có ǵ phải lo ngại về Eliance2 nếu Nguyễn Hữu An không
chiếm được vào đêm đó, và không việc ǵ phải nướng tới 2 trung đoàn
(5 ngàn quân) cho một điểm chết.
Cho tới khi viết hồi kư Langlais cũng không biết được bên
trong nội bộ của Tướng
Giáp: Các chuyên
gia quân sự Trung Quốc đă ấn định phải chiếm cho được 5 đồn mặt Đông
để làm “diện” thu hút quân Pháp từ Khu trung tâm ở bờ phía Tây sông
Nậm Rốn sẽ tràn sang bờ phía Đông để tiếp cứu cho 5 đồn mặt Đông.
Trong khi đó nhiệm vụ đánh thọc vào trung tâm lại là phần vụ
của Tướng Vương Thừa Vũ từ hướng Tây Bắc của Cứ Điểm.
Nhưng cũng theo kế hoạch th́ 308 chỉ tấn công sau khi 312 và
316 đă chiếm được 5 đồn phía Đông.
Tuy nhiên đến 8 giờ tối mặc dầu Nguyễn Hữu An chưa chiếm được
Eliance2 nhưng v́ các cánh quân khác đă khác đă thanh toán xong mục
tiêu đúng như dự định cho nên Tướng Giáp đinh ninh rằng chẳng mấy
chốc Nguyễn Hữu An cũng sẽ thanh toán xong Eliance2 cho nên ông phấn
khởi ra lệnh cho 308 tấn công.
Không ngờ 308 không hạ nổi Huguette7, cả Trung đoàn 176 bị
tiêu diệt. Tướng Giáp
vội vàng sửa chữa bằng cách ra lệnh cho 308 lùi lại phía sau để bảo
tồn lực lượng cũng như bảo đảm bí mật của kế hoạch, đồng thời rút
Trung đoàn trừ bị của Hùng Sinh băng đồng qua phía Đông để đánh
Eliance2. Nhưng không
ngờ cả Trung đoàn thiện chiến chỉ c̣n 50 người mà vẫn không nhổ được
cái gai Eliance2 th́ ông chỉ c̣n có nước hô quân rút lui để bàn với
các cố vấn t́m cách khác.
Đúng ra nếu ông cứ bỏ qua Eliance2 mà xua quân tiến thẳng vào
trung tâm th́ xong rồi;
nhưng tiếc là ông không có phản ứng linh hoạt như vậy.
Hơn nữa, ông cũng không có toàn quyền điều binh tại Điện Biên
Phủ, mọi chuyện c̣n phải chờ ư kiến Cố vấn Trưởng và đoàn cố vấn.
Đây cũng là một bằng chứng chứng minh về thiên tài quân sự
của Đại Tướng Vơ Nguyên Giáp và cũng chứng nhận quyền hạn chỉ huy
quân đội của ông tại Điện Biên Phủ.
Ông không phải là một vị tướng có đầy đủ quyền sinh sát trong
tay. Tướng Giáp chỉ biết
điều quân theo “Kế hoạch tác chiến” của các chuyên gia quân sự Trung
Quốc cho nên ông và những người cọng sự của ông không thể linh động
sáng tạo ra phương cách giải quyết trong t́nh huống bất ngờ.
( “Kế hoạch tác chiến” là một lệnh điều quân được viết thành
văn bản trước khi tiến hành trận đánh.
Ai giữ nhiệm vụ ǵ và ai đánh trước, ai đánh sau, ai yểm trợ,
ai chỉ huy đều được phân công trong “Kế hoạch tác chiến”.
Thuật ngữ của Quân đội VNCH gọi “Kế hoạch tác chiến” là
“Lệnh hành quân”).
Trong hội nghị Tổng kết đợt 2, Tướng Giáp và Tướng Vi Quốc
Thanh đă gặp phải khúc xương.
Đạn dược và thực phẩm dự trù cho chiến dịch đă gần cạn, các
chuyên gia Trung Quốc chỉ dự toán đạn dược cho một đợt tổng tấn công
khoảng tối đa là một tuần lễ cho nên đạn pháo đă được trút xả láng.
Theo hồi kư của Tướng Giáp : “Pháo đói đạn trầm trọng. Có
ngày, mỗi khẩu pháo của ta chỉ c̣n hai, ba viên đạn.
Trước đó, một số đơn vị cũng đă sử dụng đạn quá lăng phí.
Một trung đoàn, qua 5 ngày kềm chế pháo binh địch, bắn hết
2.000 viên đạn súng cối.
Một tiểu đoàn pḥng không 12 ly 7 trong một ngày bắn tới 12.000 viên
đạn. Bộ chỉ huy Mặt trận
buộc phải quy định việc sử dụng đạn dược: Bắn quá 3 viên 105 phải
xin phép Tham mưu trưởng (Tướng Thái), quá mười viên phải xin phép
Tổng tư lệnh (Tướng Giáp).” (trang 323).
Đoạn hồi kư này chứng tỏ kế hoạch đánh Điện Biên Phủ chỉ có
giai đoạn tổng tấn công là ăn thua đủ cho nên đạn dược được tiêu thụ
xả láng. Sau khi tổng
tấn công thất bại mới tính tới chuyện bổ sung 25 ngàn quân và xin
thêm đạn dược để đánh đợt thứ 3, riêng lương thực th́ bắt dân Thanh
Hóa phải nộp luôn cả lúa giống.
Theo như cung khai của các tù binh CSVN bị bắt tại trận
Huguette6 và trận Eliance1 th́ tinh thần bộ đội CSVN bắt đầu rung
chuyển sau khi bị chết và bị thương quá nhiều.
Con số chết lên tới 6.000 người và bị thương là 17.000 người.
Số người bị thương đă khiến phải gởi trả lại hậu phương 30.000 dân
công vận chuyển thương binh . Tâm trạng hoang mang nao núng đă lan
tràn trong các Đại đoàn CSVN.
Số bộ đội CSVN gia nhập đội quân Chuột Nậm Rốn cũng lên đến
hằng ngàn người. Hồi kư
của Tướng Giáp có nói đến hiện tượng “Hữu khuynh, tiêu cực” trong
quân đội CSVN nhưng không nói rơ là hiện tượng ǵ, nhưng hồi ức của
Tướng Lê Trọng Tấn giải thích :
“Vấn đề c̣n lại bây giờ là chống hữu khuynh, tiêu cực biểu lộ
dưới hai h́nh thức; một là ngại thương vong, ngại tiêu hao, mệt mỏi,
ngại khó, ngại khổ, muốn dứt điểm ngay trong khi điều kiện khách
quan chưa cho phép; hai là chủ quan khinh địch”.
Tướng Tấn gọi là ngại thương vong, ngại tiêu hao, nhưng thực
sự là “sợ chết”. Binh sĩ
CSVN đă tận mắt chứng kiến kiểu chết như con thiêu thân của chiến
thuật biển người cho nên họ buộc phải suy nghĩ và phải thấy ớn.
Con người ta chỉ bị kích động đến điên cuồng khi cuộc chiến
chưa nổ ra. Nhưng khi
cuộc chiến đă tàn th́ chỉ c̣n lại kinh hoàng và hăi hùng.
Đây là bản năng thực sự của con người.
Hồi kư của Tướng Giáp :
“Về phía ta, cũng không ít khó khăn.
Phải nhanh chóng bổ sung quân số, đạn dược hao hụt khá nhiều
qua đợt chiến đấu vừa rồi.
Lương thực cho bộ đội mỗi ngày một ngặt nghèo… Phải đánh địch
bằng cách nào với những chiến sĩ đă qua 5 tháng trời liên tục hành
quân… Vấn đề đặt ra là chúng ta sẽ tiếp tục làm ǵ?
Quyết tâm của ta là tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ, dù cuộc chiến đấu phải kéo dài…” (trang 285 và 286)
Năm 1954, ngày 8-4, sau hội nghị sơ kết trận đánh, Tướng Giáp
đánh điện xin Quân ủy Trung ương và Bộ Chính Trị gửi thêm cho 25.000
tân binh để thay thế số bị chết và bị thương.
Cũng trong ngày này Cố vấn Vi Quốc Thanh gửi
điện văn cho Bành Đức Hoài xin Trung Quốc gửi cho 1 trung
đoàn pháo binh và 67 súng đại bác pḥng không 37 ly. ( Tài liệu của
t́nh báo Pháp, nhờ giải mật được những bức điện của Tướng Giáp và
tướng Vi Quốc Thanh; do
Berna Fall sưu tầm và đăng trong tác phẩm “Hell in A Very Small
Place: The Siege of Dien Bien Phu, trang 223.
Tài liệu này đă được xác nhận lại với hồ sơ của quân đội
Trung Quốc do Quang Zhai sưu tầm và công bố trong tác phẩm “China
and The Vietnam Wars”, 1950-1975).
Nhận được báo cáo sơ kết của Tướng Giáp, Bộ chính trị cử
Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương, đến Điện Biên Phủ để bàn xem nên tiếp
tục đánh hay rút về v́ mùa mưa sắp tới.
Năm 1954, ngày 9-4, Bành Đức Hoài gửi điện văn cho Vi Quốc
Thanh nói rằng sẽ chuyển đầy đủ đạn dược theo yêu cầu và căn dặn Vi
Quốc Thanh về cách đánh Điện Biên Phủ, đặc biệt chú trọng sử dụng
giao thông hào, Bành sẽ gởi chuyên viên giao thông hào có kinh
nghiệm ở Triều Tiên cho CSVN. ( Hồ sơ Văn khố Quân đội Trung Quốc do
Quang Zhai sưu tầm ).
Lúc Bành Đức Hoài gửi điện văn cho Vi Quốc Thanh th́ Hồ Chí
Minh và Phạm Văn Đồng đang có mặt ở Bắc Kinh.
Trước đó, ngày 1-4-1954, hai ông đă cùng với Chu Ân Lai sang
Mạc Tư Khoa để bàn thảo với Krushcheve về số phận của Đông Dương
trước cuộc họp ngũ cường tại Genève vào ngày 26-4 sắp tới.
Sau đó hai ông trở về Bắc Kinh ngày 6-4. Và đến ngày 10-4 th́
hai ông được Chu Ân Lai thông báo về vụ thất bại tại Điện Biên Phủ.
Theo như hồi ức của Krushcheve th́ trước khi hội kiến với Hồ
Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại một pḥng hội trong điện Cẩm Linh, ông
Chu Ân Lai đă kéo Krushcheve ra nói chuyện riêng. Chu Ân Lai cho
biết Hồ Chí Minh có đề nghị Trung Quốc cho quân đội sang giúp CSVN
như đă từng giúp Bắc Hàn.
Hoặc nếu không th́ cho các ông được sang tá túc bên kia biên
giới của Trung Hoa trong trường hợp quân CSVN bị đánh
bại.
Sở dĩ ông Hồ Chí Minh đưa ra đề nghị này v́ trong ḷng ông
đang bị đè nặng bởi hậu quả của chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất đang
diễn ra tại các vùng do CSVN chiếm đóng.
Nếu thất bại lần này th́ quân của ông sẽ không c̣n gạo ăn v́
nhân dân sẽ không yểm trợ lúa gạo cho bộ đội nữa.
Nông thôn trong vùng Việt Minh đă ngưng sản xuất do tàn phá
của chiến dịch “Cải Cách Ruộng Đất”.
Tất cả những người sản xuất giỏi tại nông thôn đều bị giết,
những nông dân c̣n lại chỉ sản xuất đủ ăn hoặc thiếu ăn một tí, bởi
v́ hễ dư thóc th́ sẽ bị quy vào tội “phú nông”.
Để che giấu cho việc cố t́nh sản xuất thiếu ăn, các nông dân
hè nhau đổ tội cho mất mùa, thế là toàn khu vực do CSVN chiếm đóng
đều bị mất mùa. Do đó
nếu chiến dịch Điện Biên Phủ thất bại th́ Quân đội CSVN sẽ tan ră v́
chết đói.
Quân Pháp ăn mừng chiến thắng
Năm 1954, ngày 16-4.
Sau 1 tuần lễ ghi nhận sự lắng dịu của chiến trường và sau
khi tái chiếm được đồn Eliance1.
Bộ chỉ huy quân Pháp đoán rằng CSVN đă tạm ngưng chiến dịch
v́ đă tới mùa mưa, có lẽ hai bên sẽ cầm cự như vậy cho đến mùa khô.
Tướng Navare quyết định thăng thưởng Đại tá De Castries lên Thiếu
tướng; Trung tá Lalande,
chỉ huy trưởng căn cứ Isabelle, lên Đại tá;
Trung Tá Langlais, Liên đoàn trưởng Liên đoàn 1 nhảy dù và
chỉ huy trưởng khu trung tâm Cứ điểm, lên Đại tá; Thiếu tá Bigeard,
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 nhảy dù và cũng là chỉ huy trưởng Lực
lượng xung kích Cứ điểm, lên Trung tá. Và thăng thưởng một số các sĩ
quan, binh sĩ có công, trong đó Trung úy Phạm Văn Phú được lên Đại
úy nhờ trận tái chiếm Eliance 1.
Báo chí loan tin De Castries được lên tướng và những tiếng
súng rời rạc của quân CSVN tại Điện Biên Phủ đă khiến cho dư luận
tin rằng Tướng Giáp đă thất bại lần nữa, và lần này lực lượng quân
sự của Việt Minh đă hoàn toàn kiệt quệ.
Có lẽ c̣n lâu họ mới có thể tái lập lại được 5 sư đoàn như
trước đây.
Không ai ngờ rằng cũng trong ngày 16-4, Tướng Giáp và Tướng Vi
Quốc Thanh đang ngồi họp với Hoàng Tùng, phái viên của Bộ Chính trị
ĐCSVN. Tin chiến thắng
của De Castries đă buộc Vi Quốc Thanh và Vơ Nguyên Giáp phải hạ
quyết tâm đánh đợt thứ ba, các ông chỉ c̣n có nước tiến tới, đánh xả
láng chết bỏ; chứ không thể nào rút lui được nữa.
Tướng Giáp không có mặt mũi nào để tuyên bố thất bại và rút
quân về, c̣n Tướng Vi Quốc Thanh cũng không dám báo cáo với Mao
Trạch Đông là đă bị thua sau khi tiêu thụ hết chừng đó súng đạn và
lương thực của “Nhân dân Trung Quốc”.
Hơn nữa, các ông biết rơ quân Pháp tại ĐBP cũng đă kiệt quệ,
họ không có quân thêm để tăng cường đă đành, mà họ không có quân để
thay thế nữa. Chứng tỏ
là khả năng cung cấp quân cho Điện Biên Phủ đă cạn kiệt. Vậy th́ chỉ
cần đánh rấn lên một chút nữa là chiến thắng.
Tâm trạng của Vi Quốc Thanh được thư kư riêng của ông là Vương
Chấn Hoa ghi lại: “Vi
Quốc Thanh đă b́nh tĩnh suy nghĩ và phân tích khách quan cho rằng,
quân đội CSVN tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng quân Pháp càng khó
khăn hơn, hơn nữa… Đồng chí nói với các cố vấn :
“Hiện tại toàn thế giới đều nh́n về Điện Biên Phủ, chúng ta
không có đường lui. Chỉ
có hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Tạm thời chưa đánh được, mùa mưa đến nước d́m chết chúng.
Nước không d́m chết, th́ khốn khó lâu ngày, chúng cũng chết.
Không lấy được Điện Biên Phủ quyết không lui quân.
Các đồng chí phải chuẩn bị tư tưởng này”.
Vi Quốc Thanh trao đổi chân t́nh với Vơ Nguyên Giáp, tŕnh
bày tỉ mỉ ư nghĩ trên đây của ḿnh để thống nhất nhận thức, kiên
định ḷng tin. Hai người
c̣n nghiên cứu biện pháp giải quyết vấn đề tư tưởng cán bộ và khắc
phục khó khăn thực tế”.
Sau đó Hoàng Tùng trở về mang theo thư đề nghị của Vơ Nguyên
Giáp về việc tiếp tục đánh chiếm cho bằng được Điện Biên Phủ v́
không thể buông trôi các thành quả xương máu vừa đạt được.
Không biết Tướng Vi Quốc Thanh đă xin thêm bao nhiêu lương
thực và súng đạn, nhưng Tướng Giáp phải xin thêm 25.000 quân để thay
thế cho cho số binh sĩ bị thương vong!.
Chúng ta không có đường lui.
Năm 1954, ngày 19-4, Trường Chinh họp Bộ chính trị sau khi
Hoàng Tùng đem những tin tức từ Điện Biên phủ trở về.
Lúc này Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đang c̣n ở tại Bắc Kinh,
Nguyễn Chí Thanh đi Liên khu 4, Văn Tiến Dũng đi Liên khu 3.
Bộ chính trị chỉ c̣n Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và Lê Văn
Lương. Tuy nhiên 3 ông
cũng thảo ra một nghị quyết để trả lời các yêu cầu của tướng Giáp:
“Toàn dân toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi
viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần
thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch” (Vơ Nguyên Giáp, Điện Biên
Phủ, Điểm Hẹn Lịch Sử, bản in lần 2, trang 325). Cần ghi nhớ là lúc
này cả Phạm Văn Đồng lẫn Vơ Nguyên Giáp chưa được vào trung ương
Đảng và c̣n cách rất xa Bộ Chính trị hay Ban Bí thư.
Sau đó Trường Chinh và Nguyễn Chí Thanh lo việc gởi gấp 25.000
tân binh để bổ sung quân số cho Điện Biên Phủ, huy động dân công ở
Ninh B́nh vận chuyển cấp thời 600 tấn lương thực. Và Thanh Hóa vét
cả lúa giống để cung cấp cho mặt trận 11.000 tấn lương thực. Về phần
Vi Quốc Thanh báo cáo t́nh h́nh cho Mao Trạch Đông và xin thêm viện
trợ để đánh một đợt nữa.
Đặc biệt là xin thêm 7.000 viên đạn 105 ly. Theo hồi kư của Tướng
Giáp th́ số đạn này không kịp tới nơi trong dịp tấn công đợt 3 nhưng
Tướng Giáp đă nhờ vào số 5.000 viên đạn 105 ly của máy bay Pháp thả
rơi vào khu vực của quân CSVN.
Để chuẩn bị cho đợt tổng tấn công lần tới, Tướng Vơ Nguyên
Giáp cũng ra lệnh cho Bộ chỉ huy Đại đoàn 304 và Trung đoàn 345/304
Từ Phú Thọ lên đường đến Điện Biên Phủ.
Đây là Trung đoàn chủ lực cuối cùng c̣n ở lại Phú Thọ để bảo
vệ Tổng bộ Việt Minh.
Đại đoàn 304 có 1 trung đoàn tham dự tại Điện Biên Phủ từ tháng 1-54
là Trung Đoàn 57. Trung
Đoàn này chuyên môn chốt ở ranh giới giữa khu trung tâm Cứ điểm Điện
Biên Phủ với căn cứ hỏa lực Isabelle.
Ngoài ra c̣n 1 trung đoàn nữa của Đại đoàn 304 là Trung đoàn
66 th́ đang hoạt động tại Lào từ tháng 12-53, cùng với Đại đoàn 325,
nhằm thu hút quân Pháp tập trung pḥng thủ Lào để cho Vơ Nguyên Giáp
rảnh tay đánh Điện Biên Phủ.
Năm 1954, ngày 1-5, Điện Biên Phủ vào mùa mưa dầm, sau khi
được Quân ủy Trung ương bổ sung người và vũ khí, Tướng Vơ Nguyên
Giáp cho lệnh tổng tấn công Điện Biên Phủ với 30 ngàn quân.
Ngày 7-5, lúc 3 giờ chiều, toàn thể Đại đoàn 312 tràn qua sông
Nậm Rốn tấn công vào khu trung tâm.
Lúc 5 giờ 20 chiều, Tướng De Castries đầu hàng .
Ngày 7-5, lúc 3 giờ chiều, Tướng Decastries thông báo quyết
định đầu hàng cho Đại tá chỉ huy trưởng căn cứ Isabelle là Lalande.
Ông này không chịu đầu hàng mà tính chuyện mở đường máu thoát
qua Lào, ông ra lệnh cho binh sĩ tiếp tục chiến đấu chờ trời tối sẽ
rút đi nhưng đa số binh sĩ quá mệt mỏi và không chắc sống nếu mở
đường máu nên quyết định ở lại.
Lúc 7 giờ tối Lalande dẫn quân thoát khỏi hàng rào Isabelle
nhưng bị quân của Đại đoàn 304 phục kích sẵn, Lalande bị bắt, chỉ có
khoảng 100 người chạy thoát về Lào.
Ai chỉ huy Trận Điện Biên Phủ ? : Theo hồi kư của Vơ Nguyên
Giáp th́ ngày 11-1954 ông ta được đề cử làm Tư lệnh kiêm luôn Bí thư
quân ủy Mặt trận Tây Bắc.
Như vậy riêng mặt trận Tây Bắc lúc này không có tướng chính
trị của Trung ương Đảng làm Chính ủy mà chỉ có một ḿnh Vơ Nguyên
Giáp vừa Tư lệnh vừa Chính ủy cho nên sau này không ai tranh hay
chia chiến thắng Điện Biên Phủ của Vơ Nguyên Giáp được.
Tuy nhiên có một điều khó hiểu là tại sao một trận lớn như
vậy mà không có một trong hai ông tướng chính trị trong Trung ương
Đảng là Nguyễn Chí Thanh hay Văn Tiến Dũng tham dự?
Một giả thuyết được đặt ra là Bộ chính trị của Trung ương
Đảng thấy rơ Nguyễn Chí Thanh đi theo chỉ làm vướng Vơ Nguyên Giáp
mà c̣n vướng cả Vi Quốc Thanh bởi v́ theo nguyên tắc th́ cả Tư lệnh
và cố vấn đều dưới sự kiểm soát của Bí thư Quân ủy, nhưng thực tế
Nguyễn Chí Thanh chưa đủ tŕnh độ thực sự để trùm lên hai ông này
cho nên kể như Vi Quốc
Thanh là Chính ủy.
Vi Quốc Thanh cùng ra mặt trận với Vơ Nguyên Giáp và cùng Vơ
Nguyên Giáp bàn bạc về các quyết định điều động các đơn vị bộ đội
CSVN cũng như xin chỉ thị trực tiếp từ Bắc Kinh trong suốt thời gian
chiến dịch. Nhưng v́ lúc
đó không thể công bố cho quốc dân biết là có mặt cố vấn Trung Quốc
trong quân đội CSVN cho nên các nhà báo Tây phương không biết, họ cứ
hết lời ca tụng Vơ Nguyên Giáp trong khi ông ta không hề nhận chiến
công về ḿnh, v́ thế dưới con mắt của báo chí ông ta trở thành một
con người cực kỳ khiêm tốn.
Sau này nhờ phía Trung Quốc cho bạch hóa tài liệu quân sự
người ta mới biết rằng chẳng qua là v́ Vi Quốc Thanh và các nhân vật
đầu năo của trận chiến c̣n đó cho nên Tướng Giáp phải tự trọng.
Sau khi các tài liệu quân sự của Trung Quốc được phổ biến th́
Vơ Nguyên Giáp viết sách biện bạch và không công nhận các báo cáo
của Vi Quốc Thanh, ông cho rằng họ Vi đă báo cáo láo về các quyết
định quan trọng đưa tới chiến thắng.
Không biết ai đúng ai sai nhưng cho tới nay những nhân vật
trong cuộc chưa có ai lên tiếng, kể cả lên tiếng xác nhận là Vơ
Nguyên Giáp nói đúng.
Tuy Vơ Nguyên Giáp và những tướng Việt Nam trong cuộc chưa thú
nhận; nhưng qua hồi kư
của Vơ Nguyên Giáp và Lê Trọng Tấn th́ đă có những chi tiết khiến
cho người ta có thể xác định được ai là người chỉ huy:
Theo hồi ức của Tướng Lê Trọng Tấn th́:
“Ngày 14 tháng 1 năm 1954, cán bộ chỉ huy các đại đoàn được
triệu tập về hang Thẩm Búa…Tôi lại gặp các anh Vương Thừa Vũ, Cao
Văn Khánh…Đồng chí Phó tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái tŕnh bày
t́nh h́nh…Sau khi thảo luận, chúng tôi nhất trí với phương án đánh
nhanh, giải quyết nhanh…Tôi ra về ḷng đầy phấn chấn…” (Lê Trọng
Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên, in lần 2, trang271- 272).
Đoạn hồi ức này có nói tới từng tên những vị chỉ huy cấp đại
đoàn lâu ngày mới gặp lại nhau nhưng không hề đề cập đến sự hiện
diện củaVơ Nguyên Giáp, và nói rơ là Tướng Hoàng Văn Thái thuyết
tŕnh hành quân.
Có lẽ người ngoài quân đội không rơ về tập quán của tổ chức
quân sự nhưng những ai từng ở trong quân đội đều biết rơ người nào
ban lệnh hành quân (kế hoạch tác chiến) th́ người đó là chỉ huy;
trong lệnh hành quân th́ tiết mục đầu tiên là thuyết tŕnh
về t́nh h́nh của ta và địch, tiếp theo là quan niệm điều quân
của chỉ huy trưởng trước t́nh h́nh như vậy, tiếp theo là chỉ huy
trưởng phân chia nhiệm vụ cho mỗi đơn vị theo như quan niệm điều
quân của ông ta. Trong trường hợp này Tướng Lê Trọng Tấn chỉ nói
Tướng Thái tŕnh bày t́nh h́nh tức là Tướng Thái là Chỉ huy trưởng.
Và dĩ nhiên tướng Thái chỉ thuyết tŕnh hành quân trong trường hợp
Chỉ huy trưởng vắng mặt.
Nhưng hồi kư của Vơ Nguyên Giáp lại ghi:
“Ngày 14 tháng 1 năm 1954, mệnh lệnh chiến đấu được phổ biến
trên một sa bàn lớn tại hang Thẩm Búa. Cán bộ cao cấp, trung cấp các
đại đoàn tham gia chiến đấu đều có mặt…”. Không thấy Vơ Nguyên Giáp
xác nhận ai là người triệu tập cuộc họp và ai là người ban hành
“mệnh lệnh chiến đấu”.
Ông viết tiếp: “Khi phổ
biến quyết tâm chiến đấu, để chuẩn bị phần nào tư tưởng cho cán bộ,
tôi nói…Trước mỗi trận đánh, tôi thường khuyến khích cán bộ nói hết
khó khăn để bàn cách khắc phục. Nhưng lần này, các đơn vị đều hăng
hái nhận nhiệm vụ…”(Vơ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử,
in lần 2, trang 94-95).
Như vậy là Vơ Nguyên Giáp có mặt trong cuộc họp này và chỉ lên tiếng
sau khi người Tư lệnh đă ban lệnh hành quân xong.
Ông chỉ “phổ biến quyết tâm chiến đấu” có nghĩa là ông làm
việc của một chính ủy, tức là một tướng chính trị đi bên cạnh chỉ
huy trưởng. Theo lệ thường th́ việc phổ biến quyết tâm và động viên
tinh thần là thuộc về Chính ủy trong khi Hoàng Văn Thái chỉ là Tham
mưu trưởng th́ lại làm công việc của Tư lệnh?
Câu hỏi được đặt ra là tại sao Tướng Lê Trọng Tấn lại né tránh
đề cập tới sự hiện diện của nhân vật chủ chốt là Tổng tư lệnh Vơ
Nguyên Giáp và Tướng Giáp lại tránh né đề cập tới phần đầu của cuộc
họp tức là phần thuyết tŕnh hành quân và ban lệnh hành quân?
Cả hai hồi kư đều né tránh nói tới ai là người triệu tập và
ai là người chủ tŕ buổi họp đó.
Nếu theo dơi kỹ những diễn tiến kế tiếp qua lời kể của Vơ
Nguyên Giáp về trận Điện Biên Phủ th́ nhân vật chủ chốt của cuộc họp
này không phải là Vơ Nguyên Giáp mà là Tướng cố vấn trưởng Vi Quốc
Thanh, chính ông là người thuyết tŕnh hành quân và Hoàng Văn Thái
chỉ dịch lại (Tướng Thái là người rành tiếng Hoa và đă từng tốt
nghiệp trường sĩ quan Đại Kiều do Quân đội của Tưởng Giới Thạch đào
tạo).
Tướng cố vấn trưởng Vi Quốc Thanh đă được Đại tá Bùi Tín
xác nhận là Tổng tư lệnh chiến dịch Điện Biên Phủ:
“Tổng cố vấn Vi Quốc Thanh dự chiến dịch, nhưng không ở cùng
chỗ với Tướng Giáp, là Tổng tư lệnh chiến dịch đóng bản doanh ở
Mường Phăng. Các sư đoàn
đều có cố vấn của Trung Quốc.
Vũ khí của Trung Quốc được chuyển đến ngày càng nhiều, nhưng
đều do bộ đội Việt Nam nhận tại các binh trạm Bằng Tường và Hồ Khẩu
tại biên giới…”(Bùi Tín, Mây mù thế kỷ, trang 117).
Sự xác nhận của Đại tá Bùi Tín đă giải thích những ǵ lắt léo
khó hiểu trong hai hồi kư của Vơ Nguyên Giáp và Lê Trọng Tấn.
Tuy nhiên, khi xác nhận Vi Quốc Thanh là Tổng tư lệnh chiến
dịch, Đại tá Bùi Tín đă cẩn thận giảm nhẹ tính cách lệ thuộc của
Tướng Vơ Nguyên Giáp bằng cách nói rằng Tướng Giáp và Tướng Thanh
không cùng ở chung một chỗ trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nhưng hồi kư của Tướng Giáp lại ghi:
“Tại Mường Phăng, bên cạnh cái lán của tôi đă xuất hiện một
hệ thống đường hầm nhỏ. Nó chia thành ba nhánh đồng tâm, h́nh rẻ
quạt, chạy xuyên vào trái đồi, dài khoảng 300 mét.
Một nhánh có đường giao thông nối liền với cơ quan tham mưu
của anh Thái. Một nhánh
chạy tới nơi tôi ở. Một nhánh tới chỗ các đồng chí cố vấn.
Hầm được tính toán chống sức ép của bom đạn khi nổ gần. Trong
hầm có nơi hội họp, pḥng chỉ huy tác chiến, nơi liên lạc thẳng tới
các đơn vị đang chiến đấu ngoài mặt trận…”.
Như vậy là Tướng Giáp và Tướng Thanh ở chung một hầm chứ
không phải khác chỗ như Đại tá Bùi Tín đă nói.
Nhiệm vụ “phổ biến quyết tâm chiến đấu” trong cuộc họp ban
lệnh hành quân khiến người ta đoán rằng có thể Tướng Giáp mang tiếng
là Tư lệnh nhưng thực sự chức vụ này do Vi Quốc Thanh đảm trách, ông
Giáp chỉ c̣n lại nhiệm vụ Bí thư quân ủy. Tuy nhiên một đoạn hồi kư
sau cho thấy: “Sáng ngày
26 tháng 1 năm 1954, Văn pḥng thông báo cuộc họp của Đảng ủy mặt
trận. Trước cuộc họp, tôi bảo đồng chí Hoàng Minh Phương, trưởng
đoàn phiên dịch của Bộ, chuẩn bị cho tôi gặp ngay đồng chí Trưởng
đoàn Cố vấn quân sự”.
Tướng Giáp không nêu rơ ai là người ra lệnh triệu tập Quân ủy, chỉ
nói “Văn pḥng thông báo”, trong khi chính ông ta là Bí thư quân ủy
của Chiến dịch. Như vậy
ai là người ra lệnh triệu tập Quân ủy?
Đoạn hồi kư ngày 1-1-1954 cho biết ông vừa là Tư lệnh kiêm Bí
thư quân ủy, nhưng tới đoạn ông nói về cuộc họp ban lệnh hành quân
ngày 14-1 th́ ông không phải là Tư lệnh.
Nay lại có một cái lệnh họp Quân ủy mà ông chỉ là người được
văn pḥng Quân ủy thông báo để đến dự họp;
vậy ai là Bí thư quân ủy?
Câu giải đáp cũng lại là Vi Quốc Thanh, ông Giáp chỉ là phụ
tá của ông Thanh trong cả hai cương vị. V́ vậy chuyện ông Nguyễn Chí
Thanh và Văn Tiến Dũng ở nhà là v́ thừa lănh đạo, ông Giáp chịu dưới
quyền một ông Vi Quốc Thanh là quá đủ, không thể đặt thêm một lănh
đạo thứ hai đứng trên ông Giáp.
Quyết định chuyển từ đánh nhanh giải quyết nhanh chuyển sang
đánh chậm, đánh chắc :
Hồi kư của Tướng Giáp cho biết ông ta đă quyết định đổi cách đánh
chưa đầy một ngày trước khi trận chiến dự trù khai diễn vào lúc 5
giờ chiều ngày 26-1-1954.
Lẽ ra trận đánh khai diễn vào ngày 20-1-1954 nhưng v́ kéo
pháo vào không kịp nên hoăn 1 tuần, dự trù là chiều 25-1-1954.
Nhưng lại hoăn 24 tiếng v́ nghi là bị lộ, sẽ đánh vào chiều
ngày 26. Nhưng trong đêm
25 Tướng Giáp quyết định dời lại ngày khai diễn và thay đổi toàn bộ
kế hoạch, ông thao thức tới sáng:
“Sáng ngày 26 tháng 1 năm 1954, Văn pḥng thông báo cuộc họp
của Đảng ủy mặt trận.
Trước cuộc họp, tôi bảo đồng chí Hoàng Minh
Phương, trưởng đoàn phiên dịch của Bộ, chuẩn bị cho tôi gặp
ngay đồng chí Trưởng đoàn Cố vấn quân sự”… “Sau giây lát suy nghĩ,
đồng chí Vi nói: – Tôi
đồng ư với Vơ Tổng. Tôi sẽ làm công tác tư tưởng với các đồng chí
trong đoàn cố vấn”… “Cuộc trao đổi giữa tôi và đồng chí Vi diễn ra
khoảng hơn nửa giờ. Tôi nghĩ đồng chí Vi Quốc Thanh sẽ không dễ dàng
thuyết phục các chuyên gia đă cho rằng chỉ có đánh nhanh, thắng
nhanh mới giành thắng lợi” (trang 104 và 105).
Hóa ra kế hoạch tấn công Điện Biên phủ là của các chuyên gia
quân sự Trung Quốc chứ không phải của Vơ Nguyên Giáp, sau khi Tướng
Giáp thuyết phục được tướng Vi Quốc Thanh th́ tướng Thanh lại phải
quay về bàn lại với các chuyên gia.
Nguồn gốc của kế hoạch tấn công đă được Tướng Giáp xác nhận:
“Sau này tôi mới biết, bộ phận chuẩn bị chiến dịch (đoàn cố
vấn Trung Quốc) đă dừng lại ở Na sản để nghiên cứu địa h́nh, t́m
hiểu v́ sao những trận đánh mùa đông năm trước vào ngoại vi của tập
đoàn cứ điểm không thành công… Do đó, cách tốt nhất là lợi dụng khi
địch mới tới chưa kịp củng cố công sự, tập trung toàn bộ binh lực,
hỏa lực từ nhiều hướng thọc sâu vào khu trung tâm pḥng ngự…Bạn gọi
đây là “oa tâm tạng chiến thuật” (chiến thuật thọc vào tim).
Đoàn cán bộ đi chuẩn bị chiến trường đều đồng t́nh.
Đồng chí Vi Quốc Thanh lên sau, nghe các cố vấn báo cáo, thấy
chủ trương đánh nhanh thắng nhanh là hợp lư…” (trang 105).
Sau khi thuyết phục Vi Tổng cố vấn xong, Tướng Giáp quay lại
hội nghị Quân ủy của các tướng tá Việt Nam.
Tại cuộc họp tất cả các tướng Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Hoàng
Văn Thái nêu ư kiến không tán thành.
Sau một hồi bàn thảo không có kết quả, cuộc họp tạm ngưng để
giải lao. Khi họp trở
lại Tướng Giáp giở ngón nghề mà ông học được trong cung cách ứng xử
của Hồ Chí Minh, ông hỏi:
“Với tinh thần trách nhiệm trước Bác và Bộ chính trị, tôi đề
nghị các đồng chí trả lời câu hỏi:
Nếu đánh (theo kiểu cũ) có chắc thắng trăm phần trăm không?/
Anh Lê Liêm nói: – Anh Văn (tức VNG) nêu câu hỏi thật khó trả lời.
Ai dám bảo là chắc thắng trăm phần trăm!/ Anh Đặng Kim Giang nói
tiếp: – Làm sao dám bảo đảm như vậy !/ – Tôi nghĩ với trận này, ta
phải bảo đảm chắc thắng trăm phần trăm./ Bấy giờ anh Hoàng Văn Thái
mới nói: – Nếu yêu cầu chắc thắng trăm phần trăm th́ khó./…Lát sau,
Đảng ủy đi tới nhất trí là trận đánh có thể gặp nhiều khó khăn mà ta
chưa có biện pháp cụ thể để khắc phục” (trang 107).
Sở dĩ các ông Lê Liêm, Hoàng Văn Thái, Đặng Kim Giang muốn
đánh nhanh v́ muốn lợi dụng lúc quân Pháp chưa ổn định cơ cấu pḥng
thủ, các hàng rào giây thép gai chưa căng, ḿn chưa gài, giao thông
hào chưa đào, ụ súng chưa hoàn
chỉnh, đường bay chưa hoàn thành, vv…Rơ ràng các ông kia có
lư hơn Tướng Giáp.
Ngoài lời kể của Tướng Giáp, c̣n có một lời kể khác, đó là hồi
kư của Tướng Vương Chấn Hoa, thư kư của Tướng Vi Quốc Thanh:
“…Biến đánh nhanh thắng nhanh thành đánh chắc thắng chắc, từ
ngoại vi vào trung tâm, tiêu diệt địch từng cứ điểm một. Đợi điều
kiện chín muồi, mới mở tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch
đóng giữ. Như vậy, có thể làm cho quân đội Việt Nam ở vị thế chủ
động và rút kinh nghiệm từ trong từng trận đánh.
Muốn như vậy phải chuẩn bị tác chiến thời gian dài, các công
tác chuẩn bị phải làm thêm, không thể mở tấn công ngay”… …“Vi Quốc
Thanh nghĩ đến đây trong ḷng bỗng nhiên phấn chấn, lập tức bước ra
khỏi nhà, đến chỗ Mai Gia Sinh. Đồng chí và Mai Gia Sinh (Tham mưu
trưởng của đoàn Cố vấn) bàn tính tỉ mỉ ư nghĩ của ḿnh, Vi Quốc
Thanh liền gọi điện thoại cho Vơ Nguyên Giáp, nói có việc cần muốn
bàn.
Vơ Nguyên Giáp đến ngay.
Vi Quốc Thanh tŕnh bày khá tỉ mỉ ư nghĩ
mới của ḿnh với Vơ Nguyên Giáp.
Vơ Nguyên Giáp tỏ ư hoàn toàn tán thành thay đổi phương châm
tác chiến”. … “Thay đổi
phương châm tác chiến đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc thắng
chắc, rất nhanh được Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phê chuẩn và
Quân uỷ Đảng Cộng sản Trung Quốc đồng ư.
Ngày 27/1, Quân uỷ Trung ương điện trả lời Vi Quốc Thanh nêu
rơ : “ Tấn công Điện Biên Phủ nên áp dụng chia cắt bao vây, tiêu
diệt địch từng toán một. Mỗi lần tiêu diệt khoảng 1 tiểu đoàn, chỉ
cần có thể tiêu diệt hoàn toàn bốn, năm tiểu đoàn th́ địch ở Điện
Biên Phủ có thể dao động hoặc rút chạy về phía nam, hoặc tiếp tục
tăng viện. Cả hai trường hợp đều có lợi cho chúng ta ”(Do Dương Danh
Dy dịch).
So sánh 2 lời kể th́ cũng khó mà kết luận được ai là người đầu
tiên nghĩ ra chuyện thay đổi cách đánh.
Lời kể của Tướng Giáp dễ tin hơn v́ chính ông là người trong
cuộc, trong khi Vương Chấn Hoa không có mặt lúc hai ông tướng bàn
bạc. Vả lại khi Vương
Chấn Hoa viết ra đoạn hồi kư này th́ Tướng Vi Quốc Thanh đă qua đời
cho nên không có nhân chứng xác nhận đúng hay không.
Tuy nhiên lời kể của Vương Chấn Hoa có lư hơn v́ bắt buộc
phải có sự chuẩn thuận của Bắc Kinh với bằng chứng là bức điện đề
ngày 271-1954 của Mao Trạch Đông hiện đang c̣n lưu giữ trong Viện
nghiên cứu Quân sử Trung Quốc.
Trong khi đó Tướng Giáp lại kể rằng chỉ có một ḿnh ông nghĩ
ra rồi tự hành động chứ không hỏi ư kiến ai.
Điều này khó tin bởi v́ ông lấy đâu ra lương thực và đạn dược
để đánh trong nhiều tháng thay v́ vài ngày?
Phong cách chỉ huy của Tướng Vơ Nguyên Giáp
Sau trận tổng tấn công Điện Biên Phủ ngày 6-4, Tướng Giáp ra
lệnh ngưng tấn công v́ qua 1 tuần lễ giao tranh quân CSVN không c̣n
bao nhiêu và đă kiệt sức. Trong ngày 64 Tướng Giáp họp hội nghị sơ
kết trận tổng tấn công.
Theo kế hoạch của các chuyên gia cố vấn th́ chỉ trong đêm đầu
tiên Vơ Nguyên Giáp ít nhất phải chiếm được 4 trong số 6 đồn mặt
đông. Nhưng cuối cùng 6
đồn chỉ chiếm giữ được đồn Dominique 1, c̣n Dominique 2 phải bỏ v́
bị bom Napalm hủy diệt.
Riêng
Eliance 1 th́ sáng hôm sau Bigeard đă phản kích chiếm lại
nhưng sau đó rút đi, đến ngày 10-4 th́ Bigeard chiếm một lần nữa và
giữ luôn. Coi như kết
quả của trận tổng tấn công đợt 2 không tới đâu hết, quân CSVN vẫn ở
phía đông Tỉnh lộ 41 chứ chưa tới được vệ đường phía đông của tỉnh
lộ.
Hồi kư của Tướng Giáp :
“Trong hội nghị tổng kết đợt 2, Nguyễn Hữu An đă bị phê b́nh
nghiêm khắc v́ mở cửa đột phá chậm” (trang 281).
Tuy nhiên nếu lúc đó có người cắc cớ hỏi lại Tướng Giáp : –
Vậy th́ qua hôm sau Hùng Sinh có tấn công đúng giờ không mà cả trung
đoàn chỉ c̣n 50 người? Và rồi hôm sau nữa Nguyễn Hữu An tấn công lần
nữa có đúng giờ không mà cũng thất bại?
Lúc đó có lẽ Tường Giáp khó trả lời.
Rơ ràng chuyện thất bại không phải là do đúng giờ hay không
đúng giờ mà là do không điều nghiên trước hệ thống pḥng thủ của
Eliance2. Đặc biệt có
một hầm ngầm xây bằng bê tông;
nguyên trước đó là một hầm chứa rượu ở dưới chân một lâu đài.
Hồi kư của Vơ Nguyên Giáp kể lại về sau này, khi Nguyễn Hữu An
trở thành Tư lệnh sư đoàn 325, gặp lại Vơ Nguyên Giáp tại Đồng Hới,
Tướng An vẫn c̣n ức v́ chuyện bị đổ tội do chậm trễ trong trận tấn
công đầu tiên vào Eliance2.
Ông phân trần với ông Giáp là lúc đó đường dây điện thoại bị
pháo cắt đứt cho nên ông không nhận được lệnh tấn công.
Nghe như vậy Tướng Giáp giả vờ ngạc nhiên:
“Sao ngày đó cậu không nói ngay?” (Điện Biên Phủ, điểm hẹn
lịch sử, in lần 2, trang 281) rồi ông nói sang chuyện khác.
Nhưng nếu lật ngược lại trang 265 th́ ngay lúc diễn ra trận
đánh Vơ Nguyên Giáp đă biết là Nguyễn Hữu An bị đứt đường dây điện
thoại: “Chờ măi vẫn chưa
có tin A1 và các mũi thọc sâu.
Hỏi 316, đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba báo cáo:
từ đầu trận đánh không liên lạc được với 174 do đường dây
điện thoại bị đại bác cắt đứt, đang cho nối lại…” (trang 265).
Như vậy là ngay từ đầu ông đă biết Nguyễn Hữu An không có lỗi
ǵ cả.
Thế nhưng tại sao Tướng Giáp lại cố t́nh đổ lỗi cho Nguyễn Hữu
An? Rơ ràng cuộc tổng
tấn công bị thất bại là do kế hoạch tác chiến của các chuyên gia
Trung Quốc: Các chuyên
gia không ngờ là đồn Eliance2 có cơ cấu pḥng thủ khác thường cho
nên không có dự trù cho trường hợp lỡ như chiếm Eliance2
không được th́ phải làm thế nào. C̣n tại Hugutte7 th́ các
chuyên gia không tính tới sức kháng cự mănh liệt của Đại đội 1/5 Dù
Việt Nam. Các ông cứ
nghĩ rằng Sư đoàn thiện chiến 308 dư sức nuốt gọn Tiểu đoàn Thái tại
Huguette6 và Hugette7 rồi nhanh chóng đánh vào Bộ chỉ huy. Cho nên
ai cũng đinh ninh rằng 308 sẽ là đơn vị bắt sống Decastries mà không
nghĩ tới trường hợp 308 không chiếm nổi Huguette7 khiến cho kế hoạch
hoàn toàn bị đổ vỡ.
Lẽ ra trong hội nghị sơ kết các cố vấn phải nhận khuyết điểm
về ḿnh trước, nhưng thói đời không có ai tự nhiên nhận khuyết điểm
cả; họ đổ lỗi cho Tướng
Giáp là đă ra lệnh cho Đại đoàn 308 tấn công vào Hugutte7 trong khi
chưa chiếm được Eliance 2. Theo kế hạch tác chiến th́ Tướng Giáp chỉ
ra lệnh cho 308 tấn công sau khi biết chắc đă chiếm được 4 đồn mặt
Đông. Trước cáo buộc của
các chuyên gia, Tướng Giáp đành phải bào chữa rằng trước khi tấn
công th́ ông An cam kết sẽ chiếm Eliance2 trong ṿng 2 tiếng đồng
hồ. Rồi đến khi xung
trận, các cánh quân khác đă báo cáo chiếm xong mục tiêu như đă cam
kết, riêng ông An do v́ không liên lạc được nhưng Tướng Giáp đinh
ninh ông An cũng sẽ chiếm được Eliance2 như các ông kia cho nên ông
mới ra lệnh cho 308 tấn công.
Khi viết hồi kư Tướng Giáp dẫn chứng nguyên văn lời Nguyễn
Hữu An cam kết chiếm Eliacne2 trong ṿng 2 tiếng đồng hồ :
“Tôi hỏi tiếp, t́nh h́nh tổ chức chiến đấu, tư tưởng bộ đội,
t́nh h́nh đoàn kết nội bộ và đồng chí chỉ huy trưởng đại đội chủ
công thế nào/…Các anh đều trả lời rất tốt.
Tôi lại hỏi: – Các đồng chí có tin tưởng không?/ Vũ Lăng
nhanh nhảu: – Báo cáo anh, tin tưởng nhất định làm được./ – Đánh C1
( tức là Eliance 1) trong bao lâu?
– Xin anh 45 phút./
– Có thể để hẳn cho đồng chí một tiếng./
Tôi quay sang Nguyễn Hữu An: – C̣n A 1 (tức là Eliance 2),
Đồng chí cần bao nhiêu thời gian?/
Mức thời gian Vũ Lăng đặt cho đơn vị ḿnh làm cho Nguyễn Hữu
An hơi lúng túng. – A 1 khó hơn, hai tiếng, đồng chí làm được
không?/ Nguyễn Hữu An
vui vẻ đáp: – Báo cáo, làm được./” (trang 262). Nhờ dẫn chứng này mà
người ta thấy được phong cách chỉ huy “trời ơi đất hỡi” của Đại
tướng Vơ Nguyên Giáp :
Đánh trận cũng như thi đấu thể thao, trước một địch thủ kinh
nghiệm hơn ḿnh, được trang bị hơn ḿnh, lại chiếm thượng phong
trong tư thế pḥng thủ, không ai nắm chắc được thắng lợi chứ đừng
nói là chiến thắng trong mấy giờ hay mấy phút.
Cũng như trong thể thao, trước một đối thủ ngang ngữa, chưa
từng gặp nhau, trên một sân đấu xa lạ, không một huấn luyện viên nào
lại ra lệnh cho đội của ḿnh tới phút thứ mấy của trận đấu phải ghi
bàn thắng thứ mấy. Việc ấn định trước thời hạn để chiến thắng gây ra
nguy hiểm cho đơn vị khi người chỉ huy bị nôn nóng bởi thời gian hạn
định, ông ta có thể sẽ có những quyết định nông nỗi, sai lầm.
Thế nhưng “thiên tài quân sự” Vơ Nguyên Giáp đă làm như thế,
ông ta ấn định trước thời hạn phải chiến thắng là 2 tiếng đồng hồ
cho Nguyễn Hữu An đối với một cái đồn mà sau này phải do Đại đoàn
trưởng Vương Thừa Vũ rồi Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba đích thân chỉ
huy chỉ hạ được vào giờ phút cuối của trận chiến, nghĩa là 37 ngày
sau, tức là 888 giờ sau, gấp 400 lần mức ấn định của Vơ Nguyên Giáp.
Măi tới 30 năm sau, khi mà cả hai ông tướng đă ra khỏi quân
đội và đă về già, gặp nhau tại Viện Bảo tàng Quân đội, Tướng Giáp
nói với Tướng An: “Ḿnh
công nhận hồi ở Điện Biên Phủ cậu bị phê b́nh oan”! (trang 281).
Đáng lẽ ra Tướng Giáp phải nói câu này ngay khi ông nhận được
vinh quang sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhưng ông để 30 năm sau
mới nói, chứng tỏ ông không có tinh thần thượng vơ của con nhà binh.
Đổ oan cho thuộc cấp để khỏa lấp lỗi lầm của ḿnh, rồi lại
vênh mặt hưởng trọn vinh quang mà không hề thanh minh cho người ta.
Không những ông đổ oan cho thuộc cấp sau mỗi thất bại mà ông
c̣n tạo cho thuộc cấp tâm lư sẳn sàng nhận lỗi nếu thất bại.
Trong trận tấn công đợt 2 Trung đoàn trưởng Hùng Sinh phải
dẫn quân băng rừng chạy ṿng từ hướng Tây sang hướng Đông của Điện
Biên Phủ để tăng cường tấn chiếm đồn A1, rốt cuộc cả trung đoàn
2.500 người chỉ c̣n hơn 50 người nhưng cũng không thành công. Vậy mà
tâm lư của Hùng Sinh, Vương Thừa Vũ, Nguyễn Hữu An khi đến gặp Vơ
Nguyên Giáp sau trận đánh :
“Văn pḥng tổ chức bữa cơm với một số đồ hộp chiến lợi phẩm
các đơn vị vừa gởi tặng.
Mấy đồng chí cán bộ đều bở ngỡ trước quang cảnh này, v́ họ tưởng bị
Bộ chỉ huy chiến dịch gọi lên để thi hành kỷ luật do không hoàn
thành nhiệm vụ”. (trang 280).
Một trung đoàn 2.500 người mà chỉ c̣n hơn 50 người th́ lỗi
đâu phải do người xung trận không hết ḷng!?
Mà lỗi do người điều nghiên và thiết kế tấn công.
Dĩ nhiên công tác điều nghiên và soạn thảo kế hoạch tấn công
là do các chuyên gia Trung Quốc, thế nhưng đối với các đàn em th́
ông Giáp phải chịu hết trách nhiệm v́ ông đă nhắm mắt chấp nhận kế
hoạch hành quân của các chuyên gia và phân công cho từng đơn vị
trưởng mà không đề pḥng tới sự cố bất ngờ là A1 có một kết cấu
pḥng thủ đặc biệt.
Ngoài ra dầu thế nào đi nữa mà một khi kế hoạch không thành công th́
người điều khiển kế hoạch phải chịu hết trách nhiệm.
Bản thân người xung trận chỉ chịu lỗi nếu họ không hết ḷng
chiến đấu, nhưng chết hết cả trung đoàn th́ chứng tỏ họ đă chiến đấu
như thế nào.
Lẽ ra họ phải t́m gặp Tướng Giáp để bắt đền ông về việc ông đă
bắt quân của họ nhắm mắt lao vào tử địa. Vậy mà ngược lại, họ lại sợ
Tướng Giáp khiển trách về sự không thành công của cả mặt trận.
Họ sợ đến nổi không thấy bị quở trách mà lại được cho ăn đồ
hộp th́ họ cảm động đến ngỡ ngàng!
Mà đâu phải họ là những kẻ hèn nhát, tất cả đều là những
chiến tướng lăn lộn trong lửa đạn từ hồi xung trận bằng mác búp đa,
vào sinh ra tử không biết bao nhiêu lần, thế mà lại khiếp sợ vô lư
trước một ông thầy giáo dạy sử ?
Điều này chứng tỏ phong cách chỉ huy độc đoán, gia trưởng của
Tướng Giáp, ông không hề cho phép cấp dưới được đổ lỗi cho ông.
Hễ chiến thắng là do thiên tài của ông, c̣n hễ bại là do cấp
dưới đă không làm đúng lệnh của ông cho dù lệnh của ông là một lệnh
trời ơi đất hỡi.
Trong hội nghị sơ kết Tướng Giáp cho rằng ông đă điều động
đúng như kế hoạch của ban cố vấn đă vạch ra.
Rồi ông mồm năm miệng mười cho rằng kế hoạch bị thất bại là
do không thanh toán được Eliance2 , mà chỉ huy tấn công Eliance2 là
Nguyễn Hữu An và Hùng Sinh, ông đề nghị hai vị trung đoàn trưởng tự
kiểm điểm. Nguyễn Hữu An
báo cáo là do bị đứt dây điện thoại liên lạc vào giờ chót cho nên
không nhận được lệnh tấn công. Do đó đơn vị của ông phát động tấn
công trễ so với toàn trận địa, mất tính bất ngờ và quân Pháp đă kịp
dồn quân ra tuyến pḥng thủ.
Nghe như vậy các cố vấn không chấp nhận lư do bị đứt điện
thoại của Nguyễn Hữu An, bởi v́ giờ khởi sự th́ ông An đă biết
trước. Vậy th́ đến đúng giờ khởi sự mà nghe tiếng pháo của ta đồng
loạt nổ vào căn cứ th́ bắt buộc phải hiểu là kế hoạch đă diễn ra
đúng như dự trù; lúc đó
chỉ có việc hô quân tấn công như đă tính trước cho dù có bị đứt
đường dây điện thoại hay không.
Nguyễn Hữu An đành phải nhận khuyết điểm.
Tuy nhận khuyết điểm nhưng Nguyễn Hữu An và các vị chỉ huy đại
đoàn, trung đoàn có mặt vào lúc đó đều biết rằng không thể thanh
minh hay tŕnh bày cho đoàn cố vấn rơ về lề lối chỉ huy của Tướng
Giáp. Ông ta thích ra
những lệnh vĩ đại làm nên lịch sử cho nên ông đă ra lệnh cho mọi
người là tấn công giờ nào th́ phải chờ nghe lệnh của ông.
Nhất là trận này là trận có tới 5 sư đoàn tham dự.
Ông muốn rằng sau này lịch sử sẽ khắc ghi cái giây phút ông
tuyên “lệnh tổng tấn công”.
Ngoài ra ông luôn luôn ra lệnh với cái vẻ bí mật, ông thích
thú với cái bất ngờ do chính ông sẽ ban ra vào giờ phút chót. V́ vậy
mà các vị chỉ huy trưởng dầu cho có hiểu trước diễn tiến của kế
hoạch hành quân th́ cũng đành phải chờ nghe chính lệnh của ông v́ sợ
có bất ngờ vào phút chót.
Chắc ăn hơn hết là cứ chờ lệnh chứ đừng có tài khôn mà làm
ẩu. Dẫu cho có được việc
th́ cũng sẽ bị ông ghét v́ đă trái lời ông chứ chẳng
ích ǵ.
Phong cách chỉ huy của Tướng Giáp tương tự như cách chỉ huy
của ông Gia Cát Lượng trong truyện Tam Quốc Chí.
Hoàn toàn trái ngược với cách chỉ huy mà các trường vơ bị
hiện đại đă dạy cho các sĩ quan.
Theo các binh thư quân sự hiện nay, mỗi khi ban một lệnh hành
quân th́ người chỉ huy bắt buộc phải cho những người nghe lệnh biết
rơ t́nh h́nh của địch cũng như của ta, sau đó là quan niệm điều binh
của người chỉ huy đối với t́nh h́nh như vậy, sau nữa là phân công
cho đơn vị nào lănh nhiệm vụ nào trong kế hoạch đó.
Cuối cùng là đặt ra những trường hợp giả định, nếu t́nh h́nh
không biến chuyển như dự trù mà chuyển theo hướng này th́ sẽ đối phó
bằng kế hoạch này, nếu t́nh h́nh biến chuyển theo hướng kia th́ đối
phó bằng kế hoạch kia, vv… Nếu có một cái lệnh rơ ràng, đúng sách vở
như vậy th́ Nguyễn Hữu An không đến nỗi phải nhận khuyết điểm trước
các cố vấn. Một khi nghe
súng các đơn vị bạn khai hỏa th́ ông An thừa biết là lệnh tấn công
đă được ban hành, ông cũng sẽ cho lệnh tấn công.
Nhưng với lối chỉ huy bí hiểm của Tướng Giáp th́ ông An đành
phải chờ, bởi v́ ông Giáp thường dành bất ngờ gây ngạc nhiên hào
hứng vào phút chót. Biết
đâu vào phút chót Tướng
Giáp sẽ dành cho ông một hướng tiến công khác hoặc trụ lại chờ thời
điểm khác.
Một đoạn hồi ức của tướng Lê Trọng Tấn chứng minh cách chỉ huy
đầy kịch tính của Tướng Giáp
khi ông ra lệnh khai hỏa tấn công đồn Béatric:
“Tôi nghe rơ tiếng Đại tướng Chỉ huy trưởng vang lên trong
máy: “Pháo binh đă sẵn
sàng cả chưa?/” – “Báo
cáo tất cả đă sẵn sàng chờ lệnh đồng chí./”
– “Bộ chỉ huy
chiến dịch đồng ư với các để nghị của các đồng chí.
Trận mở đầu mở màn cho chiến dịch lịch sử, tôi hạ lệnh cho
các đồng chí: bắn trúng,
bắn nhanh, bắn mạnh./”.
Chiến dịch lịch sử bắt đầu, tôi nh́n đồng hồ 17 giờ 10 phút”.
Việc ra lệnh bắn trúng hay bắn nhanh là lệnh của ông hạ sĩ
quan khẩu đội trưởng súng nặng chứ đâu phải của ông tướng. C̣n lệnh
khai hỏa là lệnh của ông Tiểu đoàn trưởng có mặt ngay tại trận địa
chứ đâu phải của cái ông ngồi ở hậu cứ.
Ngoài ra bất cứ một người xạ thủ pháo binh nào cũng luôn luôn
thao tác nhanh với tất cả khả năng mà họ có, không cần ông tướng
phải ra lệnh. Và lúc nào cũng chủ tâm bắn trúng chứ không phải đợi
có lệnh của ông tướng mới chịu bắn trúng.
Hơn nữa, bắn mạnh nghĩa là thế nào?
Một khẩu súng đại bác bắn mạnh hay yếu là tùy theo lượng
thuốc nạp, mà lượng thuốc nạp nhiều hay ít là tùy theo mục tiêu ở xa
hay ở gần. Không ai biết
bắn mạnh nghĩa là thế nào. Tuy nhiên cũng nhờ có lệnh như vậy người
ta mời biết ngoài lệnh bắn trúng c̣n có lệnh… bắn trật, ngoài lệnh
bắn nhanh c̣n có lệnh… bắn chậm, ngoài lệnh bắn mạnh c̣n có lệnh…
bắn yếu. Chẳng qua là ra
một cái lệnh cho có để ghi lại cái giây phút hạ lệnh “vô cùng thiêng
liêng” đối với lịch sử.
Ngoài cách đổ lỗi cho thuộc cấp, Tướng Giáp luôn luôn bào chữa
cho các sai sót của ḿnh nghe rất xuôi tai. Ví dụ như trong trận
tổng tấn công: Ngay ngày
đầu ông đă chiếm được cao điểm Dominique1, đây là một vị trí lư
tưởng để bố trí pháo binh bắn trực xạ vào trung tâm pḥng thủ của
Căn cứ Điện Biên Phủ. Thế mà ông không biết lợi dụng vị trí này mà
ra lệnh cho bộ binh chiếm giữ.
Măi đến khi chấm dứt đợt 2, ngày 14-4 ông mới đưa 2 khẩu sơn
pháo 75 ly lên đây và trong ṿng 10 phút , một khẩu 75 ly đă triệt
hạ 4 khẩu 105 ly của Pháp:
“Chỉ trong ṿng 10 phút, lần lượt bốn khẩu 105 của địch câm
họng…Chỉ có điều đáng tiếc là pháo của ta bắt đầu “đói đạn”!
Một số pháo thủ đă chuyển qua làm nhiệm vụ khác”(trang 297).
Rồi cũng từ đó Tướng Giáp không cho sử dụng lợi thế của cao
điểm này nữa v́ lư do không c̣n đạn và pháo thủ đă chuyển sang công
tác khác. Và cho tới ngày cuối cùng của trận chiến, mặc dầu đă có
đạn dược tiếp tế đầy đủ, ông vẫn không dùng lợi thế của vị trí này.
Sở dĩ ông phải nêu lư do không c̣n đạn để bào chữa cho việc
không biết khai thác lợi thế của Dominique1 (đồi E) là v́ sau này
các nhà quân sự
Quốc tế đă đến thăm trận địa Điện Biên Phủ và họ thấy ngay
lợi thế của đồi này và họ viết báo nêu thắc mắc là tại sao ông Giáp
chiếm được vị trí đó ngay ngày đầu mà không sử dụng nó để khống chế
toàn bộ cứ điểm? V́ có
quá nhiều chuyên gia nêu ư kiến nên Tướng Giáp phải bào chữa : “Sau
này, một số nhà quân sự nước bạn tới thăm Điện Biên Phủ, khi đi
nghiên cứu địa h́nh khu Đông thường cho rằng cao điểm quan trọng
nhất là đồi E. Đồi E và
đồi D1 cao nhất trong dăy đồi phía Đông, khống chế cả khu trung tâm.
Đúng là khi chiếm được những vị trí này ta có một lợi thế
trong tay, nhưng lại không có điều kiện triệt để khai thác lợi thế
đó” (trang 297). Mới nghe qua th́ lời bào chữa này nghe cũng xong,
nhưng nghĩ lại th́ ông không giải thích v́ sao ông không có điều
kiện để biết khai thác triệt để.
Phải chăng ông không có điều kiện để theo học một trường lớp
quân sự nào cho nên ông không biết?
Phải chăng ông không có điều kiện làm một người lính thực sự
lăn lộn ngoài chiến trường cho nên ông không biết? Và phải chăng
Trời phú cho ông có cái tài nhớ được Napoléon đánh mỗi trận có bao
nhiêu khẩu đại bác ;
nhưng không thiên phú cho ông được biết rằng Napoleon đặt các khẩu
đại bác đó ở những vị trí như thế nào?
Trong khi đó th́ bất cứ một trường đại học quân sự nào cũng
dạy cho người sĩ quan biết cách nên đặt súng như thế nào ở địa thế
nào (!).
Ngoài chuyện đổ cho các ông Đại đoàn trưởng, Trung đoàn
trưởng; tướng Giáp c̣n
đỗ lỗi cho cả tướng Hoàng Văn Thái là Tham mưu trưởng của chiến dịch
: “Sở chỉ huy nhận định:
Bộ đội đă hoàn thành phần quan trọng nhiệm vụ đợt 2, nhưng
vẫn chưa chiếm được cao điểm pḥng ngự then chốt A1.
174 đă sử dụng cả lực lượng dự bị, không c̣n khả năng giải
quyết A1, 98 đánh xuống C2 không thành công, đă bị tiêu hao, cần
phải điều một đơn vị khác để hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt A1 và
pḥng ngự C1 ban ngày.
Anh Thái đề nghị sử dụng Trung đoàn 102 của 308” (trang 269). Quả
t́nh chỗ dở nhất của Bộ chỉ huy là lệnh điều Trung đoàn 102 đang là
lực lượng dự bị cho “điểm” ở phía Tây Bắc chuyển qua tiếp ứng cho
“diện” ở mặt Đông Nam.
Nếu theo đúng kế hoạch hành quân của các chuyên gia Trung Quốc th́
Trung đoàn 102 chỉ tiếp ứng cho mặt Đông nếu như mặt Đông thất bại.
Nhưng trên thực tế th́ rơ ràng mặt Đông đă thành công, nghĩa
là họ đă chiếm ngay được 3 đồn quan trọng, tiếp tục uy hiếp đồn thứ
tư và vô hiệu hóa được đồn thứ 5 là Eliance 2.
Buộc ḷng quân Pháp phải dồn mọi nỗ lực để cứu ứng cho mặt
Đông. Như vậy đây chính
là lúc mà 308 có
thể đột phá để đánh thẳng vào trung tâm từ phía Tây Bắc.
Trung đoàn trừ bị 102 đă được bố trí sau lưng 308 là nhằm để
hổ trợ cho 308 nếu 308 gặp trở ngại.
Cho tới 8 giờ tối đêm đó Tướng Giáp đă thi hành đúng theo kế
hoạch khi ông ra lệnh cho 308 tấn công, bởi v́ 312 và 316 đă hoàn
thành kế hoạch như dự định. Vậy th́ việc c̣n lại của Tướng Giáp là
ra lệnh cho 102 hỗ trợ cho Trung đoàn 176/316 tiếp tục dọn sạch
Huguette7 để thọc mũi dùi vào trung tâm cứ điểm.Thế nhưng sự kiện cả
trung đoàn 167 bị tiêu diệt trong ṿng nửa tiếng đồng hồ đă khiến
Tướng Giáp mất hồn; ông
ra lệnh cho Tướng Vương Thừa Vũ ngưng tấn công và rút lui ra phía
sau. Rồi đến 3 giờ sáng
th́ ông điều 102 và cả Tướng Vương Thừa Vũ
sang mặt Đông để tiếp tục đánh Eliance2.
Không ngờ Eliance2 lại diệt sạch Trung đoàn 102 khiến cho
toàn bộ kế hoạch đổ vỡ.
Giờ đây khi Tướng Thái đă qua đời th́ ông viết sách đổ cho Tướng
Thái. Vinh quang trận Điện Biên Phủ th́ ông hưởng hết. C̣n lỗi th́
ông quy cho hết người này đến người kia.
Hơn nữa, cái cách đổ lỗi của ông rất tiểu nhân :
Ngày 2-4-1954 Trung đoàn trưởng Hùng Sinh dẫn 2.500 quân tấn
công đồn Eliance2 và cuối cùng th́ cả trung đoàn chỉ c̣n 50 người;
nhưng hồi kư của Tường Giáp cho thấy ông ta đối xử với Hùng
Sinh như thế nào vào sáng hôm sau:
“Hùng Sinh cao lớn bước vào với một chiếc băng trên trán và
đôi mắt sâu trũng v́ thiếu ngủ.
Tôi hỏi – Vết thương thế nào?/ – Thưa, vết xước mănh đạn
thôi, băng để tránh
nhiểm trùng./ Tôi nói
– Tin tức ở đây nắm được th́ quân địch ở A1 tổn thất rất
nhiều, có lúc bọn chỉ huy Mường
Thanh tưởng là đă mất A1!
Tại sao các đồng chí đánh măi vẫn không giải quyết được?/
– Báo cáo anh, chúng tôi rất cố gắng nhưng vướng phải cái hầm
ngầm trên đỉnh đ̣i. Anh
em đă đặt vào đó 80 kilôgam bộc phá giật nổ, nhưng nó vẫn trơ trơ./
– Sao không t́m cửa hầm mà đánh vào?/… “
Con người ta đánh suốt 1 ngày 2 đêm, đến nỗi 2.500 người chỉ
c̣n 50 người, thế mà ông Tướng lại c̣n hạch “Tại sao các anh không
giải quyết được?”. Dĩ nhiên ông Tướng thừa biết nguyên do không hoàn
thành kế hoạch là v́ cái hầm ngầm, ông biết ngay lúc trận đánh đang
diễn ra bởi v́ chính ông đích thân chỉ huy và ra lệnh trên điện
thoại trong suốt trận đánh.
Chắc chắc câu này đă được hỏi rất nhiều lần và được trả lời
rất nhiều lần trong khi trận đánh đang diễn ra.
Như vậy câu hỏi lần này không phải là hỏi để biết, mà là hỏi
để khiển trách theo lối phủ đầu.
Tuy nhiên nếu phân tích kỹ th́ đây là một câu khiển trách rất
vô trách nhiệm, ông Tướng muốn đổ hết trách nhiệm cho thuộc cấp.
Hễ đánh không được là do các anh chứ không phải do tôi.
Lẽ ra ngay khi trận đánh đang diễn ra, biết được kế hoạch bị
khựng lại v́ cái hầm ngầm th́ ông Tướng phải ngay tức khắc ra lệnh
cho công binh sử dụng biện pháp kỹ thuật hoặc ra lệnh sử dụng cảm tử
quân giải quyết bằng chiến thuật đặc công, hoặc ra lệnh rút ra rồi
bao vây để cô lập và vô hiệu hóa đồn A1.
Có rất nhiều biện pháp từ hay đến dở để giải quyết, nhưng
đằng này ông Tướng không có được một lệnh, cho dù là một lệnh rất
dở. Ông chỉ biết hô con
người ta tiến lên, người ta càng chết th́ ông càng hô tiến lên, đến
khi người ta chết hết th́ ông kêu người ta về hỏi tại sao đánh măi
mà vẫn không thắng? Câu
hỏi trên đây đă chứng minh được suốt trận đánh ông Tướng không có ra
một lệnh nào cho Hùng Sinh ngoài cái lệnh là “tiến lên”.
Trong khi trách nhiệm của ông là ngay lúc đó ông phải ra một
hoặc nhiều lệnh để giúp Hùng Sinh giải quyết vấn đề ngay tại mặt
trận. Một khi Hùng Sinh
báo về là đang gặp trở ngại th́ trách nhiệm giải quyết đồn A1 trở
thành trách nhiệm của Tướng Giáp chứ không phải của Hùng Sinh.
Rồi sau khi được Hùng Sinh xác nhận là tại cái hầm ngầm th́
ông Tướng lại hỏi : “Sao không t́m cửa hầm mà đánh vào?”.
Đây là một câu hạch sách vô tội vạ, chứng tỏ ông Giáp không
phải là một quân nhân.
Câu hỏi giống như của một đứa bé con.
Dĩ nhiên là khi đánh một cái hầm ngầm th́ ai cũng phải t́m
cửa hầm mà đánh vào chứ đâu có ai đào hang dưới đáy hầm mà đánh lên.
Cho nên đây chỉ là một câu phủ đầu nhằm trấn áp Hùng Sinh, có
nghĩa là “Hễ ông không biết đánh vào bằng ngơ cửa hầm th́ tức là ông
không xứng đáng là trung đoàn trưởng, một đứa bé con nó cũng biết là
phải t́m cửa hầm mà đánh vào”.
Dĩ nhiên nghe như vậy th́ ông Hùng Sinh hoảng quá và vội
thanh minh rằng ông ta có t́m cửa hầm chứ, nhưng t́m không ra.
Và cũng v́ vội vàng thanh minh cho ḿnh mà ông Hùng Sinh quên
hỏi lại cái câu hỏi mà đúng ra Hùng Sinh phải hỏi ngay từ đầu là :
“Ông giao cho tôi đánh cái đồn có cái hầm ngầm bằng bê tông mà tại
sao ông không cho tôi biết trước để tôi chuẩn bị đồ nghề, hoặc chuẩn
bị quân, hoặc nghiên cứu trước cách đánh.
Đằng này khi tôi phát hiện ra sự kiện bất ngờ này th́ ông
cũng chẳng giúp cho tôi một ư kiến nào cả mà ông chỉ hô tôi tiến lên
là sao? Vậy th́ tôi chỉ theo lệnh ông mà tiến lên cho nên quân của
tôi 2.500 chỉ c̣n có 50 đứa và bản thân tôi cũng bị thương như ông
thấy đây”. Nếu hỏi được
như vậy th́ Hùng Sinh “ngon” rồi nhưng rơ ràng là Hùng Sinh thua trí
một tay láu cá, cuối cùng ông vẫn nghĩ rằng ḿnh có tội đối với Tổng
Tư lệnh.
Sau cùng th́ chính Vơ Nguyên Giáp cũng chẳng biết xử trí cái
đồn A1 như thế nào. Ông
bèn: “Tôi hỏi cả Hùng
Sinh và Nguyễn Hữu An: – Theo các đồng chí, giờ phải đánh tiếp cách
nào th́ giải quyết được A1”. Câu này chứng minh được rằng Tướng Giáp
chẳng biết ǵ về kinh nghiệm quân sự cũng như chẳng có kinh nghiệm
hành động. Nếu thực sự là một sĩ quan chỉ huy có kinh nghiệm chiến
trường th́ ông Giáp hẵn đă có rất nhiều chiến thuật cũng như kỹ
thuật quân sự để giải quyết. Và nếu là một người có kinh nghiệm hành
động th́ ông Giáp không đặt câu hỏi bâng quơ 2 cho vị chỉ huy vừa
mới bị thất bại, bởi v́ nếu họ có cách giải quyết tốt th́ họ đâu đến
nổi thất bại. Ông phải
hỏi những vị chỉ huy có kinh nghiệm khác hoặc ngay cả các chuyên
viên cố vấn Trung Quốc cũng được.
Đằng này có lẽ v́ sỉ diện với các tướng tham mưu như Hoàng
Văn Thái, Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn, Lê
Quảng Ba, v.v…cho nên ông mới hỏi ông Sinh và ông An.
So lại với cung cách chỉ huy của Quân đội Việt Nam Cọng Ḥa
th́ không bao giờ người
làm Tướng lại có cái cách đổ lỗi phủ đầu cho thuộc cấp.
Tướng Phan Đ́nh Thứ
(Lam Sơn) là người nổi tiếng nghiêm khắc với các sĩ quan
thuộc quyền nhưng v́ xuất thân là một Cử nhân Văn chương cho nên các
lời khiển trách của ông rất lịch sự.
Nhưng mỗi khi ông lên tiếng là chết lư, người bị khiển trách
tự thấy tội của ḿnh rơ ràng không thể chối được, và không bao giờ
có ư nghĩ ông Tướng trách oan ḿnh, chỉ biết tự trách ḿnh quá dở.
Một ông tướng khác nổi tiếng là mỗi khi nóng giận ưa chưởi
thề và hay dùng lời lẽ thô tục là Tướng Nguyễn Văn Toàn.
Tuy nhiên ông chỉ nổi nóng lên khi cái lỗi của đối tượng rơ
ràng là quá tệ. Nhưng
mỗi khi như vậy ông chỉ chưởi thề một ḿnh và có cử chỉ tự hành hạ
ḿnh chứ không bao giờ ông trách người phạm lỗi.
C̣n đối với các lỗi do diễn biến bất ngờ không lường trước
th́ không bao giờ ông quy thành lỗi. Trái lại đối với các thuộc cấp
bị sơ hở do thiếu kinh nghiệm luôn luôn được tướng Toàn chia sẻ như
là lỗi của chính ông, ông ưa hỏi:
“V́ sao mà đến nỗi như rứa hả toa?”.
“Toa” là một tiếng thân mật mà ông thường dùng để gọi cấp
dưới của ḿnh. Và một
ông tướng khác nổi tiếng độc đoán là Tướng Đỗ Cao Trí, ông ra lệnh
rất dứt khoát cho nên ông không ưa những câu nói dông dài hay nói
loanh quanh. Trong các
buổi họp hành quân ông luôn luôn ngồi im nghe thuộc cấp tŕnh bày
trước. Sau đó ông thường
nói : “Có ai có ư kiến
ǵ nữa không? Nếu không
th́ tới phiên tôi, tôi quyết định như thế này, như thế này…”. Sau
khi ông đă quyết định mà có ai lên tiếng thêm ư kiến th́ ông gạt
phăng, ông nói : “Các ông đă cho ư kiến xong th́ tôi mới quyết định.
Và tôi đă quyết định th́ tôi chịu trách nhiệm, nhưng nếu quyết định
của tôi bị sai do v́ các ông cho ư kiến sai th́ các ông sẽ lănh đủ
với tôi”. Chỉ có phong
thái chỉ huy như vậy mới được chọn làm tướng, mới được binh sĩ và sĩ
quan dưới quyền hết ḷng kính phục. C̣n phong thái của ông Tổng tư
lệnh Quân đội CSVN trông giống như một ông tướng thời Chiến Quốc bên
Trung Hoa, hễ thắng trận th́ lănh hết vinh quang, c̣n bại trận th́
lôi đầu các tướng tá dưới quyền ra mà chém.
Chiến công tâm đắc nhất của Tướng Giáp :
Sau này các sử gia Quốc tế luôn luôn tưởng tượng Tướng Giáp
là một người hùng với phong thái chỉ huy của một viên vơ tướng
chuyên sông pha ngoài trận mạc.
Thế nhưng trong hồi kư của ḿnh, Tướng Giáp chỉ nhắc tới một
chiến công mà ông tâm đắc nhất, đó là ông đă áp dụng sách vở của
Stalin mà mở một chiến dịch chống lại tâm lư sợ chết và ngại gian
khổ trong hàng ngũ binh sĩ, nguyền rủa những kẻ hèn nhát không dám
hy sinh, phê phán những kẻ mở miệng than thở trước những thiếu thốn
khổ cực: “Đảng ủy Mặt trận thấy không thể bỏ qua những hiện tượng
mới này, quyết định tập họp các bí thư đại đoàn ủy, các đồng chí phụ
trách tổng cục, những người có trách nhiệm nặng nhất trong chiến
dịch, để tiến hành kiểm điểm tư tưởng hữu khuynh tiêu cực … Ngày hôm
sau, phần lớn cán bộ cơ quan chính trị chia nhau xuống giúp đỡ các
đơn vị triển khai một đợt giáo dục cấp tốc cho toàn thể bộ đội…Một
khí thế mới dâng lên khắp nơi sau đợt học tập.
Đây là một thành công rất lớn của công tác chính trị trên mặt
trận Điện Biên Phủ, một trong những thành công lớn trong lịch sử
chiến đấu của quân đội ta”.(trang 329).(sic).
Đây là thành công của chính trị chứ không phải là chiến công.
Nhưng mà là chính trị theo kiểu Stalin và Mao Trạch Đông.
Con người ta khác con vật là ở chỗ biết suy nghĩ, thấy người
đi trước trúng đạn ngă gục th́ tự nhiên ḿnh phải chùn bước ngừng
lại hay nằm xuống để tránh đạn hầu bảo vệ mạng sống của ḿnh.
Nhưng Stalin lại không muốn như vậy, ông muốn các chiến sĩ
của ông ta cứ xông tới, người trước gục ngă, người sau tiến lên.
Đó là phong cách chính trị của Cọng sản, nó phản thiên nhiên,
phản lại quy luật của tạo hóa đă dành sẵn cho con người.
Các ông đă suỵt chó vô gai trong khi các ông đứng ngoài.
Nhằm dụ con người ta sông tới trước, các ông đă dùng tới mánh
lới tuyên truyền nguyền rủa không tiếc lời những người mà các ông
gán cho là sợ chết, hèn nhát. Kích động tâm lư sẵn sàng hy sinh mạng
sống, sẵn sàng chết một cách điên rồ cho các ông.
Chẳng khác nào cho họ dùng thuốc kích thích.
Nhưng rồi nếu họ có chết th́ chỉ được việc cho các ông, c̣n
cá nhân và gia đ́nh họ chịu tất cả mọi thiệt tḥi, mất mát.
Đây là một việc ác!
Nhưng việc ác này lại được một ông tướng mang tiếng sát quân
đă ca tụng như một thành công hiển hách của ḿnh!
Có rất nhiều người cho rằng Cọng sản đă cho lính của ḿnh
uống thuốc kích thích trước khi ra trận, nhưng thực ra Vơ Nguyên
Giáp đă thú nhận loại thuốc của các ông, đó là thi nhau nguyền rủa
không tiếc lời những kẻ nào sợ chết và ca tụng những người sẳn sàng
lao vào chỗ chết mà không cần suy nghĩ.
Xưa nay xă hội dạy cho con người càng ngày càng phản ứng khác
xa với phản ứng của con vật.
Nhưng đằng này các ông đă bày cho dân chúng Việt Nam đi từ
phản ứng của con người xuống thành phản ứng của loài vật.
Mà rốt cuộc là chỉ chết oan mạng để xây đường vinh quang cho
các ông!
Riêng trong trận Điện Biên Phủ, lâu nay báo chí của Pháp cũng
như của Việt Minh đều mô tả các chiến sĩ CSVN không hề sợ chết, họ
chỉ biết lao tới trước với nụ cười ngạo nghễ.
Nhưng hồi kư của Tướng Giáp đă cho thấy sự thực sau đợt tổng
tấn công thất bại: “Qua
đợt chiến đấu vừa rồi nổi lên những gương chiến đấu dũng cảm, mưu
trí, sáng tạo, nhưng trong cán bộ cũng nảy sinh một số biểu hiện
tiêu cực, như ngại hy sinh, gian khổ, chấp hành mệnh lệnh không
nghiêm, cá biệt có cán bộ đă bỏ nhiệm vụ giữa trận đánh”.(trang
326). “Bỏ nhiệm vụ giữa
trận đánh” có nghĩa là từ chối quyền chỉ huy, từ chức giữa trận địa.
Hóa ra các sĩ quan của ông Giáp cũng chỉ là những con người,
họ cũng biết suy nghĩ trước sự sống và sự chết của anh em binh sĩ.
Họ cũng nhân danh quyền sống thiêng liêng của con người mà
căi lại những mệnh lệnh bắt họ phải chết một cách ngu xuẩn.
Ganh tài với người khác : Các nhận xét về phong cách chỉ huy
của Tướng Giáp chỉ căn cứ vào những ǵ chính ông ta viết ra, nói cho
chính xác hơn là căn cứ vào những văn bản mà ông ta đă kư sau khi
người ta viết xong, nghĩa là ông ta hoàn toàn chịu trách nhiệm trước
sự thật, trước lịch sử về những chi tiết được nêu ra trong các cuốn
sách đă được phát hành.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở chỗ nhận xét về con người của ông qua những
ǵ ông tuyên bố th́ chắc chắn trở thành phiến diện, bởi v́ toàn là
những tuyên bố tự đề cao ḿnh hay đổ lỗi cho người khác nhằm thanh
minh cho những lỗi do ḿnh gây ra.
V́ vậy cần phải đánh giá Tướng Giáp qua những thông tin ngược
chiều do những địch thủ của ông trong ĐCSVN tung ra.
Cho tới nay những thông tin ngược chiều đều xuất phát từ phe
nhóm của ông Lê Đức Anh và phe nhóm của ông Lê Duẩn.
Các thông tin này có tính cách như mạt xát và phao vu, không
đáng tin cậy. Tuy nhiên
có hai nguồn tin xác đáng là cuốn sách “Từ Chủ Nghĩa Thực Dân Đến
Chủ Nghĩa Cọng Sản” của lănh tụ Việt Minh Hoàng Văn Chí và hồi kư
của lănh tụ Cọng sản Hoàng Tùng.
Có thể tin được cả hai tác phẩm về những chi tiết có liên
quan đến ông Vơ Nguyên Giáp, bởi v́ khi viết lên những điều này các
tác giả không hề có thành kiến xấu đối với ông Giáp.
Mà trái lại, họ rất nể trọng ông Giáp.
Ngoài ra các tác giả chỉ đề cập tới ông Giáp như một nhân vật
có liên quan chứ không phải là đối tượng cần phê phán.
Ông Hoàng Văn Chí cho rằng ông Hồ Chí Minh đă phao vu cho
Tướng Nguyễn Sơn là có tật dâm đảng, hủ hóa;
rồi lấy đó làm bằng cớ mà gởi trả Nguyễn Sơn về Trung Quốc,
trong khi sự thực th́ Nguyễn Sơn hoàn toàn không có như vậy.
Người đời đọc được chuyện này th́ tin rằng giữa ông Hồ Chí
Minh và Nguyễn Sơn quả có sự hục hặc.
C̣n nguyên do v́ tật dâm đảng th́ có lẽ không phải, bởi v́
trong tập thể lănh đạo ĐCSVN có rất nhiều tay dâm đăng hạng nặng như
Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn… nhưng bác Hồ Chí Minh đâu có
bao giờ quy thành tội, trái lại bác ta rất thông cảm.
Nhưng rồi hồi kư của Hoàng Tùng cho thấy sự thực :
“Chỉ có Nguyễn Sơn về sau có vấn đề phải ra đi. Trước khi mất
(1956) Nguyễn Sơn có tâm sự với tôi rằng, có sai lầm th́ phê b́nh
chứ sao lại đuổi đi .
Ông ta trách Bác. Lúc đó
(1949) tôi có hỏi anh Giáp, anh ta hay hục hặc như thế, để anh ta
làm phó cho anh được không? (Hoàng Tùng là Phó trưởng ban Tổ chức
Trung ương Đảng, có nhiệm vụ sắp xếp các chức vụ trong Trung ương
Đảng). Vơ Nguyên Giáp nói làm phó cho tôi thế nào được, anh ta suốt
ngày chưởi tôi, anh ta c̣n phê b́nh trường Nguyễn Ái Quốc rất ghê.
Sau Bác nói chú Sơn hữu tài nhưng…nên mời chú đi. (Hoàng
Tùng, Những Kỷ Niệm về Bác Hồ).
Đây là một bằng chứng cho thấy Vơ Nguyên Giáp đă “tố” Nguyễn
Sơn chưởi Hồ Chí Minh để thúc Bác khai trừ Nguyễn Sơn.
Nếu không có ư kiến của Vơ Nguyên Giáp hoặc nếu Vơ Nguyên
Giáp lên tiếng bênh vực th́ dĩ nhiên sẽ không có chuyện gởi trả
Nguyễn Sơn về Trung Quốc.
Tâm lư của Tướng Giáp rất dể hiểu:
Ông ta là một đại tướng được phong mà không qua trường lớp
quân sự và hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến trường.
Trong khi đó Nguyễn Sơn tốt nghiệp trường Vơ Bị Hoàng Phố từ
năm 1927. Tham gia tồ
chức Cọng sản đầu tiên của Trung Quốc là “Quảng Châu Công xă”.
Ngay năm 1927 ông đă giữ chức Chủ nhiệm tờ báo “Kháng Địch”,
cơ quan tuyên truyền đầu tiên của Quảng Châu Công xă.
Đến năm 1936 Mao Trạch Đông được bầu làm lănh đạo Cọng sản
Trung
Hoa th́ Nguyễn Sơn cũng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cọng sản Trung Quốc.
Cho đến năm 1945, khi Nguyễn Sơn xin về phục vụ cho xứ sở th́
Mao Trạch Đông rất luyến tiếc v́ Nguyễn Sơn đang chỉ huy một quân
đoàn của Quân đội Mao Trạch Đông;
là một trong 7 tướng c̣n lại của Quảng Châu Công xă;
và là một trong 18 tướng c̣n lại của cuộc chiến Vạn Lư Trường
Chinh. Với tài năng và tŕnh độ như vậy, nếu Nguyễn Sơn có mặt trong
Bộ Tư lệnh Quân đội Việt Minh th́ không chóng th́ chày sẽ có ngày
ông ta giành lấy cái quyền chỉ huy trong tay Vơ Nguyên Giáp.
Ngoài Tướng Nguyễn Sơn, quân đội CSVN c̣n có một nhân tài đặc
biệt khác, đó là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Cao Bắc Lạng ( sau đổi
thành Trung đoàn 174 thuộc Sư đoàn 308 ), người này tên là Đặng Văn
Việt, xuất thân Khóa 1 Lục quân Trần Quốc Tuấn của Đại Việt Quốc dân
Đảng. Đến năm 1950 do
thành tích chỉ huy quân đội ông đă lần lên tới chức Trung đoàn
trưởng của Trung đoàn Cao Bắc Lạng.
Trước khi có trận chiến thắng đầu tiên tại Đông Khê do Đại
tướng Trần Canh của Trung Quốc chỉ huy th́ đă có một trận chiến
thắng tại Đông Khê trước đó do Đặng Văn Việt chỉ huy.
Nhưng Tướng Giáp đă không tính đây là trận thắng đầu tiên của
quân đội CSVN bởi v́ khi Việt đánh trận này th́ không có lệnh của Vơ
Nguyên Giáp và cũng không hỏi ư kiến của Vơ Nguyên Giáp.
Đến khi Tướng Trần Canh đánh trận Đông Khê th́ giao cho Vơ
Nguyên Giáp xua 10.000 quân tấn công 260 quân Pháp đang pḥng thủ
tại Đông Khê. Không ngờ
cuộc tấn công bị trở ngại lớn do không hiệp đồng được với nhau.
Trong lúc t́nh thế bị sa vào nguy cơ có thể thất bại th́
chính Đặng Văn Việt đă ra lệnh cho Tướng Giáp điều chỉnh đội h́nh
chiến đấu và mang lại chiến thắng.
Sau trận này, Việt có thái độ thất vọng về nhân vật “Thiên Tài
Quân Sự” mà lâu nay mọi người hằng ca tụng, anh ta thường phân tích
với bạn bè về những cái dở của nhà “thiên tài quân sự” trong trận
vừa qua. Ngoài ra Việt
c̣n tỏ ư phê phán chuyện Trung đoàn 174 bị tước mất các vũ khí tối
tân của Pháp, Mỹ mà Trung đoàn đă chiếm được trong các trận trước,
nhất là chiếm được kho đạn Đông Khê.
Thế nhưng Tướng Giáp bắt 174 phải nộp các vũ khí đó để trang
bị cho toán quân bảo vệ Chỉ huy sở của Bộ Tổng tư lệnh.
Những lời phê b́nh của Việt đă khiến cho người có trách nhiệm
giám sát Việt là chính ủy Chu Huy Mân phải báo cáo lên thượng cấp để
khỏi bị trách nhiệm một khi thái độ của Việt có thể đưa tới hậu quả
là hạ giá tiếng tăm của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp.
Không may cho Việt là sau đó CSVN cho phép quân Pháp được đưa
máy bay lên sân bay Thất Khê để tản thương một số thương binh của họ
trong trận Cao Bằng. Đại
tá quân y Pháp Huard, trưởng đoàn đón thương binh, bước xuống sân
bay Thất Khê trong bộ đồ dân sự.
Trước kia ông có dạy y khoa cho sinh viên trường Y khoa Hà
Nội. V́ thế khi trông thấy ông th́ một số bác sĩ quân y của Việt
Minh trước kia từng là học tṛ của Huard, hiện đang chăm sóc các
thương binh Pháp đang nằm chờ tại sân bay, đă ùa tới chào hỏi ông
thầy. Sau đó họ kéo một
người học tṛ cũ đến giới thiệu với Huard, đó là cựu sinh viên Y
khoa đang giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 174.
Huard vui vẻ rủ người học tṛ cũ theo trực thăng tản thương
về Hà Nội thăm lại phố phường rồi sáng mai theo đoàn trực thăng tản
thương trở lại Thất Khê.
Người Tiểu đoàn trưởng bảo rằng anh ta chỉ về với điều kiện mặc
nguyên bộ đồ bộ đội và được công khai dạo chơi bên hồ Hoàn Kiếm.
Huard chấp thuận.
Thế là anh ta xin phép Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt rồi nhảy lên
phi cơ trước sự đùa vui của bạn bè.
Sáng hôm sau anh ta trở lại Thất Khê.
Nhưng sau đó Chu Huy Mân báo cáo chuyện này cho Tướng Giáp,
Giáp báo lại cho bác Hồ Chí Minh, và Bác ra lệnh xử bắn ngay v́ tội
mất lập trường. Lệnh xử
bắn do
Chu Huy Mân thi hành và toán xử bắn là quân lính của Việt.
Sau khi bắn xong th́ toán hành quyết buông súng
chạy tới ôm thây vị chỉ huy của ḿnh khóc thảm thiết.
Riêng Đặng Văn Việt bị cách chức Trung đoàn trưởng và bị cho
đi cải tạo chỉnh huấn.
Từ đó tên tuổi Đặng Văn Việt biến mất trong các tài liệu quân
sử của CSVN, coi như anh ta không hề xuất hiện trên cơi đời, ngoại
trừ Vơ Nguyên Giáp có một lần nhắc đến tên anh ta trong tập hồi kư
“Đường tới Điện Biên Phủ” để chứng minh rằng sáng kiến đánh Đông Khê
không phải của Tướng Trần Canh.
Sau này nhiều người đă trách ông Hồ Chí Minh là quá nhẫn tâm
nhưng không ai biết đến
vai tṛ của Vơ Nguyên Giáp đằng sau cái lệnh tử h́nh đó.
Hẵn nhiên là bác Hồ Chí Minh đă có bàn bạc với Đại tướng Tổng
tư lệnh trước khi ra lệnh tử h́nh.
Nhưng Tướng Giáp không hề can thiệp v́ ông ta muốn nhân dịp
bằng vàng để triệt Đặng Văn Việt.
Mặc dầu ngày nay không c̣n chứng cớ để có thể cáo buộc
Đại tướng Vơ Nguyên Giáp nhẫn tâm giết người Tiểu đoàn
trưởng. Tuy nhiên cũng
có một bằng chứng gián tiếp có thể quy tội cho Tướng Giáp, đó là
chỉ cần ông ta nói vô một tiếng th́ anh kia không chết và
Đặng Văn Việt không bị cách chức.
Nếu ông ta nhân danh người chỉ huy của Việt, đề nghị lấy công
trạng của Việt để chuộc tội th́ cũng thừa sức tha tội cho cả hai.
Và nếu Tướng Giáp thực sự trọng tài năng của Việt th́ có lẽ
Việt chỉ bị kỷ luật nhẹ, coi như đó là do tính bồng bột vô tư của
tuổi trẻ. Đáng tiếc là
có nhiều bằng chứng cho thấy con người của Vơ Nguyên Giáp không được
như vậy. Ngay cả khi
viết hồi kư ông cũng vẫn “ếm” tên tuổi và “ếm” công trạng của con
người ta. Nếu không v́
cần bằng chứng và nhân chứng để chứng minh rằng trận Cao Bằng không
phải do Đại tướng Trần Canh chỉ huy th́ nhân vật Đặng Văn Việt và
chiến công của anh ta măi măi không được dư luận biết đến. V́ vậy
nếu chỉ kết tội một ḿnh ông Hồ Chí Minh là tàn nhẫn vô ơn trong vụ
án này th́ có lẽ không chính xác.
Tuy nhiên trong cái rủi cũng có cái may, cũng v́ vụ kỷ luật
này mà Đặng Văn Việt bị đưa ra khỏi nhiệm vụ chỉ huy, sau đó cho ra
khỏi quân đội. Nhờ vậy
mà ông ta thoát chết trong vụ xử tử mấy ngàn sĩ quan chỉ huy vào năm
1953. Nếu Việt c̣n chỉ
huy quân đội th́ chắc chắn anh ta bị xử tử v́ ông ta là sĩ quan tốt
nghiệp Khóa 1 trường Lục quân Trần Quốc Tuấn của Đại Việt Quốc Dân
Đảng (Tùy bút của Trương
Đăng Đệ); lại là con của
Tổng đốc Nghệ An Đặng Hướng.
Năm 1953 gia đ́nh của Việt bị quy là “Đại địa chủ, cường hào
gian ác” (Hồi kư của Phó thủ tướng Đoàn Duy Thành).
Lúc đó nếu Việt c̣n giữ chức vụ chỉ huy trong quân đội, chắc
chắn ông ta sẽ bị xử tử v́ tội là kẻ thù của giai cấp mà lại t́m
cách leo cao, luồn sâu trong Đảng để phá hoại (!).
Sau khi Việt bị triệt th́ tới phiên Nguyễn Hữu An bị trù dập
liên miên bởi v́ Nguyễn Hữu An là bạn thân với Đặng Văn Việt và là
Trung đoàn phó của Việt từ thời c̣n là Trung đoàn Cao Bắc Lạng.
Chính An là người thường bàn luận với Việt về “thiên tài quân
sự Vơ Nguyên Giáp”.
Nhưng qua thái độ của những người lính thuộc Trung đoàn 174 sau vụ
xử bắn cho thấy đă có một sự mất niềm tin trong hàng ngũ binh sĩ của
Trung đoàn 174. V́ vậy mà Vơ Nguyên Giáp buộc phải để cho Nguyễn Hữu
An lên nắm trung đoàn trưởng thay Việt. Từ đó th́ con đường binh
nghiệp của An gặp nhiều lận đận với những đối xử bất công mà người
ta có thể thấy rơ ngay trong hồi kư của Vơ Nguyên Giáp. Tuy nhiên
cũng trong hồi kư, Tướng Giáp có kể lại rằng ông ta đă hai lần nhận
lỗi với ông An và ông An đă hai lần tha thứ.
Sở dĩ ông Tướng phải kể ra chuyện này là bởi v́ khi sách được
viết th́ ông An c̣n sống và rất được nể phục.
Cho nên Tướng Giáp viết lên chuyện nhận lỗi để Tướng An khỏi
lên tiếng phanh phui chuyện ngày xưa.
Hồi kư của Hoàng Tùng xác nhận trong chiến dịch chỉnh phong
1951 Nguyễn Hữu An, Đặng Vũ Hiệp, Lê Liêm đă nằm trong danh sách bị
loại ra khỏi hàng ngũ chỉ huy trong quân đội v́ xuất thân là trí
thức tư sản, một thứ xuất thân mà các tướng như Nguyễn Chí Thanh,
Văn Tiến Dũng, Đỗ Mười không ưa.
Đơn giản v́ các ông có kiến thức cao quá và thông minh quá,
khiến cho các tướng nông dân cảm thấy ngại cho danh tiếng và cái ghế
của họ.
Cựu Đại tá Bùi Tín của CSVN đă nhận xét về các ông tướng của
CSVN : “Xuất sắc hơn cả
có thể là Trung tướng Nguyễn Hữu An, hồi năm 1975 làm Tư lệnh Quân
đoàn 2, sau về làm Tổng thanh tra quân đội, từ năm 1988 ông nhận
chức Giám đốc Trường đào tạo cán bộ chỉ huy ở Đà Lạt;
ông có đầy đủ các đức tính của một viên tướng có tŕnh độ văn
hóa, sống giản dị, đàng hoàng, mực thước, và chân thật… …Tŕnh độ
quân sự và đức độ của ông vượt xa các tướng Lê Đức Anh, Đoàn Khuê,
Đào Đ́nh Luyện…tín nhiệm cũng vượt xa các ông tướng kể trên…”.(Mặt
Thật, trang 200). Nhận
xét của ông Bùi Tín đă giải thích v́ sao Tướng Giáp phải xuống nước
lấy ḷng Tướng Nguyễn Hữu An;
ông ta sợ ông An lên tiếng th́ chỉ có nước thân bại danh
liệt. Nhất là chuyện
chính Đặng Văn Việt đă chỉ huy Vơ Nguyên Giáp trong trận Đông Khê.
Cho nên mặc dầu cố né tránh đề cập tới chiến công và tên tuổi
của Đặng Văn Việt nhưng buộc ḷng Tướng Giáp phải ghi lại đúng sự
thực, bởi v́ Tướng An c̣n đó và tiếng nói của ông ta rất có giá trị.
Có lẽ cảm nhận được sự thù hiềm của Tướng Giáp cho nên Nguyễn
Hữu An lặng thinh trước những thất bại liên tục của Tướng Giáp tại
Eliance2; chứ nếu không
th́ ông An cũng ra một cái lệnh cho Tướng Giáp bỏ Eliance2 mà chuyển
sang đánh các nơi khác, như Đặng Văn Việt đă từng ra lệnh.
Không phải là Vơ Nguyên Giáp không biết tài năng của Nguyễn
Hữu An, ông ta biết An đă cùng Đặng Văn Việt hai lần đánh Đông Khê
và hai lần đều chiến thắng ngoạn mục. V́ vậy Tướng Giáp mới giao
Eliance2 cho Nguyễn Hữu An :
“Trước cuộc họp, Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba nói riêng với
tôi : “Trung đoàn trưởng 98 Vũ Lăng đề nghị được đánh A1 (Eliance
2), nhưng Đại đoàn phải trao cho Nguyễn Hữu An v́ Trung đoàn 174 là
đơn vị chủ công”. A1 được đánh giá là quan trọng nhất trong đợt tiến
công này. Hai trung đoàn
174 và 98 mới bước vào chiến đấu c̣n sung sức. Trung đoàn trưởng 174
Nguyễn Hữu An đă hai lần tham gia tiêu diệt Đông Khê, tŕnh bày
phương án đánh A1, trả lời mọi câu hỏi một cách rơ ràng, chứng tỏ đă
có nhiều kinh nghiệm công kiên” (trang 260).
Trường hợp của Đặng Văn Việt, Nguyễn Hữu An, Lê Liêm là những
đại diện tiêu biểu cho tầng lớp thanh niên trí thức của Hà Nội được
đối xử như thế nào dưới tay của những con người tiểu nhân hạng nặng.
Số phận bất hạnh của đất nước đă khiến cho những con người có
tài đều bị giết hại hoặc sống trong câm lặng.
Bi thảm hơn hết là trận tổng tàn sát các cấp chỉ huy “trí
thức tư sản” trong Quân đội CSVN vào năm 1953, theo như Hoàng Tùng
th́ số cán bộ chỉ huy có tài năng bị thanh toán lên tới “mấy ngàn
người”. Nếu nhân con số
mấy ngàn người với con số mấy chục người thân nhân và binh sĩ của họ
th́ có bao nhiêu vạn người sau này đă quyết định liều chết chống
Cộng?
( Hết trích )
Trích sách Giải Mă Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam, Bùi
Anh Trinh, Chưa xuất bản, đă đăng trên nhật báo Sài G̣n Nhỏ từ 2011
đến 2012.
Vơ Nguyên Giáp và chiến trường Miền Nam
Cho tới nay giới nghiên cứu quân sự của Hoa Kỳ vẫn đinh ninh
rằng mọi chủ trương, mọi điều động tại chiến trường Miền Nam đều do
Đại tướng Vơ Nguyên Giáp phụ trách.
Do vậy mọi sách vở, báo chí của Hoa Kỳ từ trước tới giờ đều
được xây dựng trên căn bản Đại tướng Vơ Nguyên Giáp là người kiến
tạo nên mọi chiến thuật chiến lược của quân đội CSVN tại chiến
trường Miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên người ta bắt đầu đặt một dấu hỏi lớn khi quyển sách
“Đại Thắng Mùa Xuân” của Đại tướng Văn Tiến Dũng được phát hành vào
năm 1976 mà trong đó Vơ Nguyên Giáp chỉ là một cái bóng rất mờ.
Sau đó Vơ Nguyên Giáp đă viết quyển “Mùa Xuân Toàn Thắng” để
thanh minh rằng ông ta vẫn là một Bộ trưởng bộ Quốc pḥng và là tư
lệnh của chiến dịch Mùa Xuân năm 1975.
Nhưng ông càng viết th́ càng ḷi ra sự thật, ví dụ ngày
29-4-1975 tướng Lê Trọng Tấn đánh điện báo cáo là quân của ông ta đă
đến bờ sông Đồng Nai, c̣n cách Sài G̣n 15 cây số.
Tướng Giáp viết:
“Lúc đó vào nửa đêm, tôi đến nhà anh Ba (Lê Duẫn) đề nghị cho
cánh phía Đông đánh vào 18 giờ chiều, sớn hơn giờ G mười hai tiếng.
Anh Ba đồng ư và nói:
“Đánh, đánh thôi anh ạ!
Lúc này, cánh quân nào phát triển thắng lợi là tạo thắng lợi
chung cho toàn chiến dịch”/.
Tôi hỏi: “Điện kư tên anh chứ?/”. Anh Ba đáp:
“Không ! anh là Tổng tư lệnh, kư tên anh”/.
Một thoáng sau, anh Ba nói thêm:
“Kư thêm tên tôi cũng được, hoặc nói rơ đă trao đổi với anh
Ba nhất trí” (Vơ Nguyên Giáp, Mùa xuân toàn thắng, trang 333).
Vô t́nh Tướng Giáp thú nhận mọi mệnh lệnh quân sự quan trọng
ông đều phải hỏi Lê Duẩn;
thậm chí đă được Lê Duẩn đồng ư rồi mà ông cũng không dám kư
tên vào mệnh lệnh, ông đă rụt rè hỏi lại Lê Duẩn là ông có kư tên
vào lệnh đó được không? Với cách hỏi khiêm tốn của Tướng Giáp th́
Tổng bí thư thấy tội nghiệp và cho phép ông kư vào, nhưng chỉ một
thoáng sau Tổng bí thư đổi ư và bảo ghi thêm vào rằng đó chính là
lệnh của ông ta.
Quyển sách của Tướng Giáp khiến cho giới nghiên cứu quân sự
bắt đầu chú ư và cố gắng t́m hiểu thêm vai tṛ thật sự của ông Giáp
trong cuộc chiến Miền Nam cũng như trong trung tâm quyền lực của
ĐCSVN dưới thời Lê Duẩn.
Và rồi mọi sự bắt đầu hé lộ vào năm 1991 khi ông Bùi Tín xuất bản
cuốn sách Hoa Xuyên Tuyết, trong đó cho thấy : Rơ rệt nhất là ở ṭa
soạn báo Nhân Dân tháng 3.1983 nói chuyện từ vụ trưởng trở lên, ông
(Lê Duẩn) ngang nhiên nói “Hồi đó (hồi đánh Mỹ), Bộ trưởng Quốc
pḥng nhát như thỏ đế, vừa đánh Mỹ mà vừa run như vậy này (ông co
người lại run rẩy). Do
đó chúng tôi không để cho chỉ huy, chúng tôi phải trực tiếp nắm t́nh
h́nh và chỉ đạo chiến tranh, và trên thực tế đă thay người khác
trong nhiệm vụ Bộ trưởng Quốc Pḥng”(Bản in lần 2 trang 137)… … Thật
ra không phải chỉ gần đây, mà từ năm 1962, ông Giáp đă bị đụng chạm
khá mạnh…”( trang 141)… …
Sang năm 1996 ông Vũ Thư Hiên phát hành quyển sách “Đêm Giữa
Ban Ngày” xác nhận chuyện ông Giáp bị mất quyền lực là từ năm 1954
chứ không phải 1962, theo ông Hiên th́ sau khi tiếp thu Hà Nội người
ta lục được trong hồ sơ của Pháp để lại có một lá đơn của ông Giáp
xin đi học trường Hậu Bổ là trường dạy làm quan của Pháp, trong thư
lời lẽ rất là tệ mạt.
Chính v́ vậy mà sau khi Trường Chinh bị mất chức Tổng bí thư th́ lẽ
ra Vơ Nguyên Giáp mới là người lên thay thế nhưng ngược lại, uy thế
của Tướng Giáp bị sụt giảm dần dần cho tới khi xảy ra vụ án xét lại
chống đảng vào đầu năm 1964;
đến năm này Vơ Nguyên Giáp trở thành một tội đồ mang án treo
của ĐCSVN.
Rồi đến năm 1998 ông Trần Quỳnh là cựu bí thư của Lê Duẩn đă
cho lưu hành tài liệu “Những kỷ niệm về Lê Duẩn”, trong đó xác nhận
rơ ràng vai tṛ của Vơ Nguyên Giáp trong thời kỳ Chiến tranh Việt
Nam :
“Trong khi toàn Đảng ta tiến hành cuộc đấu tranh để khỏi bị
ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại, và trong khi trào lưu thân Trung
Quốc đang cuồn cuộn th́ xảy ra một sự kiện quan trọng trong đời sống
chính trị của Đảng, đó là vụ án chống Đảng. Không tán thành đường
lối chống xét lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp
theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp
Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ lập một nhóm
vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ chính trị làm
mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng t́nh với Nghị quyết 9,
trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những ủy viên
trong Trung ương. Trong tổ chức đó có Đặng Kim Giang, Lê Liêm. Theo
lời khai của Đặng Kim Giang th́ linh hồn của tổ chức là Vơ Nguyên
Giáp. Họ liên lạc với Đại sứ Liên Xô hồi đó là Secbacốp, một sĩ quan
t́nh báo hướng dẫn họ. Khi nghe Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn báo cáo
về vai tṛ của Vơ Nguyên Giáp cho tổ chức chống Đảng này, Lê Duẩn
nói trước đây Giáp là người không đáng tin cậy lắm tuy được Bác Hồ
rất cưng v́ khéo nịnh.
… Sau khi kết thúc điều tra vụ án chống Đảng và âm mưu lật đổ,
Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đề nghị kỷ luật những người cầm đầu.
Khai trừ ra khỏi Đảng, cách chức, quản thúc một số, nhưng cho hưởng
nguyên các chế độ đăi ngộ…Bộ chính trị nhất trí với mức độ kỷ luật
đề nghị. Riêng về Giáp kỷ luật được đề nghị là khai trừ khỏi Bộ
chính trị, Lê Duẩn không đồng ư. Lê Duẩn nói rằng chúng ta đang cần
đến sự giúp đỡ của Liên Xô trong công cuộc xây dựng Miền Bắc và nhất
là trong sự nghiệp giải phóng Miền Nam. Giáp là người của Liên Xô,
nếu kỷ luật Giáp sẽ động đến Liên Xô ảnh hưởng không nhỏ đến sự viện
trợ của Liên Xô. Tôi đề nghị cứ để Giáp ở lại trong Bộ chính trị. Ta
sẽ có cách làm việc với Giáp làm cho sự ở lại và có mặt của Giáp
không gây ra những hậu quả có hại…
Lê Duẩn gặp Giáp cho Giáp biết quyết định của Bộ chính trị và
dặn Giáp: “Lẽ ra anh bị khai trừ ra khỏi Bộ chính trị, nhưng do tác
động của tôi Bộ chính trị đồng ư để anh ở lại. Vậy anh phải lấy đó
làm bài học, từ rày về sau phải trung thành với Đảng ḿnh, đừng làm
tay sai cho Liên Xô, đừng để lộ bí mật quân sự cho Liên Xô biết”.
Giáp không ngớt lời cám ơn Lê Duẩn. …
Thế là từ ấy trong Bộ chính trị ta, có hai người một người là
tay sai của Trung Quốc, một người là của Liên Xô. Phải có cách làm
việc khéo léo để những vấn đề cơ mật nhất không lọt đến tai Trung
Quốc và Liên Xô. Đối với Hoan th́ không khó. Hoan là một người lười
đọc báo cáo, nhất là những báo cáo dài, và báo cáo về kinh tế. Những
lần họp Bộ chính trị để bàn về quân sự, Hoan không được mời dự. Có
khi qua thư kư riêng Hoan biết Bộ chính trị có họp, Hoan hỏi, Văn
pḥng bảo là họp bàn về kinh tế thấy anh thường không thích dự nên
không mời. Rồi đưa cho Hoan một bản báo cáo về kinh tế do ủy ban kế
hoạch soạn chi chít những con số. Hoan mở ra xem được vài trang thấy
chán, nói thôi, đọc nhức đầu quá, ḿnh cũng ít hiểu, ḿnh không dự.
Đối với Giáp vấn đề khó hơn. Nhưng Lê Duẩn đă dặn ḍ Giáp rồi
cho nên cũng đỡ lo.
Mọi việc quân sự, Lê Duẩn trực tiếp làm việc với Bộ tổng tham
mưu, có khi làm việc trực tiếp với Cục tác chiến. Nơi làm việc có
khi là trong Bộ Quốc pḥng, có khi tại nhà riêng của Lê Duẩn, có khi
tại khu nhà khách Trung ương Quảng Bá, có khi là khu nghỉ mát Đồ
Sơn. Sau đó anh em ở Bộ tham mưu, Cục tác chiến làm đề án tŕnh Quân
ủy, rồi Quân ủy tŕnh ra Bộ chính trị quyết định. Cách làm việc của
Lê Duẩn có tính cách gia đ́nh, không biên bản không ghi âm. Lê Duẩn
nói, anh em ghi chép. Chính cách làm việc này để lại hậu quả là kẻ
có dă tâm nhận ư kiến của Lê Duẩn làm của ḿnh ( Ám chỉ hồi kư Mùa
Xuân Toàn Thắng của Vơ Nguyên Giáp).
Ngoài ra, năm 2008 tài liệu “Bách khoa toàn thư mở Wikipedia”
trong mục tiểu sử Vơ Nguyên Giáp có ghi : “Trong một thời gian ngắn
từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963 ông kiêm thêm chức vụ Chủ
nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước”.
Thực ra không phải là kiêm nhiệm mà sự thực là tại Đại hội
toàn quốc lần thứ 3 ngày 5-9-1960 ông
Giáp bị chính thức thôi chức Tổng tham mưu trưởng, Tướng Chu
Văn Tấn thay thế; và
cũng ngưng chức Bộ trưởng bộ Quốc pḥng của ông Giáp nhưng không cắt
người thay thế.
Việc ngưng chức đă xảy ra trước Đại hội 2 tháng.
Cũng một cách như vậy, tài liệu Wikipedia ghi về tướng Nguyễn
Chí Thanh : “Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng. Cuối năm
1960, ông được cử giữ chức Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương” nhưng
thực ra là tại Đại hội trung ương Đảng họp ngày 28-12-1960 ông Thanh
bị ngưng chức Tổng bí thư Quân ủy, giao cho Đại tướng Văn Tiến Dũng;
c̣n chức Chủ nhiệm Tổng cục chính trị giao cho Trung tướng
Song Hào ( Thực ra việc thay thế diễn ra vào tháng 3-1960 ).
Ông Dũng và ông Hào là cán bộ của Đảng Cọng sản Đông Dương từ
thời 1930, luôn luôn có địa vị trong Đảng cao hơn Nguyễn Chí Thanh
và Vơ Nguyên Giáp. Ông
Thanh chỉ mới vào Đảng năm 1937, c̣n ông Giáp th́ theo như lời chứng
của “bác Hồ” th́ ông vào Đảng năm 1940 ở bên Trung Hoa.
Không ai biết có đúng như vậy hay không bởi v́ có nhiều bằng
cớ cho thấy “bác” làm chứng gian rất nhiều chuyện.
Riêng hồi kư của ông Hoàng Văn Hoan cho thấy năm 1944 ông
Giáp và ông Phạm Văn Đồng c̣n ở ngoài Đảng CSVN.
( Theo hồi kư của Vũ Anh, Đặng Văn Cáp, Hoàng Văn Hoan th́
tháng 10 năm 1940 Nguyễn Tất Thành mới gặp Vơ Nguyên Giáp lần đầu
tiên . Nhưng theo nguyên
tắc tổ chức của Lenin th́ một người đảng viên được kết nạp vào đảng
Cọng sản phải qua một thời gian t́m hiểu và thử thách, gọi là “đối
tượng Đảng”, ít nhất là 2 năm đối với những người thuộc giai cấp
không phải là giai cấp vộ sản.
Đối tượng gia nhập Đảng bắt buộc phải là thành phần có xuất
thân là giai cấp vô sản, tuyệt đối không thâu nhận thành phần trí
thức tư sản, nhưng ông Giáp xuất thân là trí thức tư sản mà không
qua thử thách. Như vậy
nếu có chuyện “Bác” kết nạp Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng năm 1940
là “Bác” đă làm sai nguyện tắc tổ chức của Cọng sản Quốc tế ).
Một bằng chứng khác :
Mùa hè năm 1966, để đáp lại vận động ḥa đàm của phía Hoa Kỳ,
tướng Nguyễn Chí Thanh, Bí thư quân ủy Trung ương cục Miền Nam viết
một bài đăng trên báo Quân đội Nhân dân với tựa đề
“Chiến lược chiến tranh bảo vệ tổ quốc”: “Ư đồ chủ yếu của
chúng ta là chiến thắng quân sự…Chúng ta phải đạt được thắng lợi
quân sự trước khi nghĩ đến những cuộc đấu tranh ngoại giao.
Và thậm chí khi nào chúng ta đấu tranh về ngoại giao, chúng
ta cũng phải tiếp tục nỗ lực chiến tranh của chúng ta, chúng ta sẽ
thừa thắng xông lên nếu chúng ta muốn đạt thành công trong mặt ngoại
giao” (Hồi kư của tướng Westmoreland, bản dịch của Duy Nguyên trang
284).
Sau khi đọc bài viết của Tướng Thanh dưới bút hiệu Trường Sơn,
Tướng Giáp viết một bài báo với tựa đề “Về chiến lược chiến tranh
bảo vệ tổ quốc”, trong đó ông phản bác chủ trương dùng chiến thắng
trên chiến trường để làm lợi thế đàm phán.
Tướng Giáp cho rằng chiến tranh tại Miền Nam không giống như
thời Điện Biên Phủ bởi v́ nhân lực và tài lực của Hoa Kỳ hầu như vô
tận cho nên kiếm được chiến thắng quân sự như trận Điện Biên Phủ là
chuyện không thể nào thực hiện được.
Chẳng qua Hoa Kỳ buộc phải nghĩ tới đàm phán là do kết quả
của chiến tranh du kích, như vậy muốn kiếm lợi thế trên bàn đàm phán
th́ phải tăng cường hoạt động du kích chiến.
Không ngờ bài báo của Tướng Giáp đến tay Tổng bí thư Lê Duẩn.
Hồi kư của Phó thủ tướng Trần Quỳnh ghi lại : “Xem bài báo đó
Lê Duẩn gọi Giáp đến hỏi: “Anh viết bài báo nhắm mục đích ǵ v́ nội
dung của nó tôi thấy sai hết.
Viết để đánh lừa quân địch chăng?
Nếu thế th́ quân đội ta khi đọc bài của anh cũng sẽ bị lừa
nốt. Viết cho quân đội
ta chăng, thế th́ anh tiết lộ bí mật về ư đồ của ḿnh cho địch
biết”. Giáp cứng họng
thanh minh ấp úng, xin lỗi rồi về”.
Sau đó Lê Duẩn chỉ thị cho tờ Quân đội Nhân Dân đăng bài của
Nguyễn Chí Thanh chỉ trích Vơ Nguyên Giáp: “Ông ta (VNG) là một
người bảo thủ, chỉ biết sử dụng những phương pháp cũ rích và những
kinh nghiệm lỗi thời.
Mọi người đều biết là ông ta chỉ lập lại một cách máy móc những ǵ
của quá khứ chứ không có khả năng để phân tách những t́nh h́nh cụ
thể tại địa phương đ̣i hỏi những đáp ứng mới mẻ kịp thời” ( Hoàng
Ngọc Lung, Những Trận Tổng Tấn Công Năm 1968-1969, trang 29).
Đây là một bằng chứng cho thấy năm 1966 Tướng Giáp cũng không
có một chút thực quyền nào về mặt chỉ huy quân sự;
ông ta chỉ được sử dụng như một ông tượng đất nhằm hù dọa các
chuyên gia quân sự Hoa Kỳ và dư luận báo chí thế giới.
C̣n Lê Duẫn mới là người đích thực điểu khiển bộ máy chiến
tranh Miền Nam.
Hồi kư của Tướng Westmoreland cho thấy CIA và t́nh báo quân
đội Hoa Kỳ luôn luôn căn cứ vào những tin tức đăng trên báo chí hay
đài phát thanh của Hà Nội.
Nhưng hồi kư của Trần Quỳnh cho thấy người Mỹ đă hố nặng khi
dùng những tin tức t́nh báo căn cứ trên báo hay đài của CSVN.
Đúng như Lê Duẩn đă nói, những ǵ đăng trên báo đều là để
“đánh lừa” dư luận, nhưng nếu địch tin theo dư luận th́ địch cũng bị
lừa nốt. Vậy mà ngày đêm
trong bộ chỉ huy của CIA tại Sài G̣n có hằng chục, hằng trăm nhân
viên dùng kính hiển vi soi rọi từng câu từng chữ trên báo Nhân Dân
và báo Quân đội Nhân dân của CSVN (sic).
Quả nhiên sau này Hoa Kỳ và Pḥng t́nh báo Bộ Tổng tham mưu
QL/VNCH bị hố một vố nặng khi đọc đựơc một loạt bài của Vơ Nguyên
Giáp đăng trên tờ Quân đội Nhân dân ngày 14-15 và 16-9-1967 với tựa
đề “Chiến thắng vĩ đại, trọng trách to lớn”, trong đó Tướng Giáp kêu
gọi (1) Chiến đấu lâu dài, cho dù 10 năm hay 20 năm (2) Nhắm ưu tiên
tấn công vào các đơn vị quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh (3)
Đánh lớn ở vùng giới tuyến (4) Sẵn sàng đối phó với trường hợp quân
Mỹ đổ bộ Bắc Việt. Đọc
được bài tham luận này CIA và t́nh báo VNCH ráo riết lo đối phó với
chiến lược mới của Vơ Nguyên Giáp mà không ngờ đây chỉ là bài báo Lê
Duẩn bắt Vơ Nguyên Giáp viết rồi cho đăng báo nhằm đánh lừa địch thủ
để bất ngờ tổng tấn công vào các thành phố của Miền Nam Việt Nam vào
dịp tết Mậu Thân.
T́nh báo HK và t́nh báo VNCH quá ngây thơ, nếu quả thực Vơ
Nguyên Giáp có chiến lược như vậy th́ ông ta không đời nào viết báo
“tiết lộ bí mật về ư đồ của ḿnh cho địch biết” (lời của Lê Duẩn).
Thêm một bằng chứng khác, đó là bài tùy bút “Bác Hồ với tết
Mậu Thân năm ấy” của Vũ Kỳ, Bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đăng
trên báo Văn Nghệ , số báo tết Mậu Dần 1998.
Bài viết cho thấy những tháng trước tết Mậu Thân, trong khi
Hà Nội đang ráo riết thi hành kế hoạch chuẩn bị tổng công kích tại
Miền Nam th́ ông Hồ Chí Minh đang nghỉ dưỡng bệnh ở Bắc Kinh và vợ
chồng Vơ Nguyên Giáp đang đi nghỉ bồi dưỡng ở Hung Ga Ri.
Chứng tỏ hai ông không được cho phép dự bàn vào những chuyện
“quốc gia đại sự”.
Cuối cùng, nếu ai c̣n hồ nghi vào các tiết lộ của Bùi Tín, Vũ
Thư Hiên, Trần Quỳnh, Vũ Kỳ th́ c̣n có hồi kư “Mùa xuân toàn
thắng”của Vơ Nguyên Giáp mà trong đó có những chi tiết xác nhận cho
tới tháng Giêng năm 1975 Vơ Nguyên Giáp vẫn c̣n đứng ngoài các hoạt
động chỉ huy quân sự của Hà Nội:
Đại Thắng Mùa Xuân và Mùa Xuân Toàn Thắng:
Sau 30 tháng 4 năm 1975 báo chí thế giới ca ngợi chiến thắng
của quân CSVN th́ ít nhưng ca ngợi Vơ Nguyên Giáp th́ nhiều.
Sự kiện này khiến cho người thực sự điều động cuộc chiến
chống Mỹ là ông Lê Duẩn cảm thấy chạnh ḷng bởi v́ ông biết rơ hơn
ai hết : Ông biết người
làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ là Tướng Vi Quốc Thanh với đoàn cố
vấn 79 người của Trung Quốc nhưng v́ sỉ diện của ĐCSVN mà ĐCSVN đă
để cho Vơ Nguyên Giáp hưởng trọn vinh quang.
Và v́ biết Vơ Nguyên Giáp chẳng có tài cán ǵ cho nên Lê Duẩn
để cho Vơ Nguyên Giáp ngồi chơi xơi nước trong suốt cuộc chiến với
Hoa Kỳ.
Tuy nhiên Lê Duẩn cũng thừa thông minh để biết rằng oai danh
của Vơ Nguyên Giáp có thể hù dọa được các chuyên gia quân sự Thế
giới cũng như Hoa Kỳ, v́ vậy ông ta quyết định duy tŕ chiếc ghế của
Vơ Nguyên Giáp trong Bộ chính trị cũng như trong Bộ Quốc pḥng mà
thực chất chỉ là hư vị để đánh lừa dư luận trong nước cũng như đánh
lừa con mắt nḥm ngó của t́nh báo và báo chí Quốc tế.
Trong khi đó người thực sự đáng được hưởng vinh quang trong
cuộc chiến Miền Nam là Lê Duẩn chứ không phải Vơ Nguyên Giáp.
Ông ta đă lao tâm khổ tứ chỉ huy cả dân sự lẫn quân sự để làm
nên chiến thắng, trong khi đó Vơ Nguyên Giáp không có một đóng góp
nhỏ nào hết, bởi v́ từ 1960 đến 1975 ông ta đang là người bị kỷ luật
ngầm trong nội bộ ĐCSVN v́ tội làm gián điệp cho Liên Xô.
Lẽ ra nếu VNG biết chuyện, cứ tuyên bố kín đáo rằng mọi chuyện
do tổng bí thư Lê Duẫn lănh đạo th́ xong rồi.
Nhưng đằng này ông ta cứ ưỡn ngực ra trả lời phỏng vấn của
báo chí Quốc tế, vô tư nhận lấy vinh quang về ḿnh, khiến cho ông
Tổng bí thư dầu có là thánh cũng không nhịn nổi cho nên ông ta mới
xúi ông Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng viết sách kể rơ người chỉ
huy trực tiếp tại chiến trường Miền nam trong chiến dịch Mùa Xuân
năm 1975 là Văn Tiến Dũng chứ không phải Vơ Nguyên Giáp.
Nhưng do v́ Văn Tiến Dũng không có khả năng viết lách cho nên
Lê Duẩn chỉ định Đại tá Hồng Hà lập ra một ban biên tập, phỏng vấn
Văn Tiến Dũng, đối chiếu với các tài liệu của Quân ủy Trung ương,
rồi viết ra cuốn sách Đại Thắng Mùa Xuân để tung ra cho dư luận
trong và ngoài nước biết rơ về vai tṛ của Đại Tướng Vơ Nguyên Giáp
trong cuộc chiến Miền Nam.
Khi kể lại cho các nhà văn để viết sách, Đại tướng Văn Tiến
Dũng đă khéo léo quy mọi công lao cho Tổng bí thư Lê Duẩn, kể cả các
mệnh lệnh quyết định chiến trường.
Về phần Đại tá Hồng Hà và ban biên tập cũng biết ư Tổng bí
thư cho nên lựa trong tài liệu của quân đội những chứng cớ nào có
ghi lại quyết định quan trọng của Tổng bí thư mà đưa vào sách.
Tinh thần của toàn bộ quyển sách cho thấy cuộc chiến thắng
quân Mỹ là do công lao của Bộ chính trị (Lê Duẩn) và Quân ủy Trung
ương (Lê Duẩn). Đặc biệt
Văn Tiến Dũng khiêm tốn không nhận công về ḿnh nhưng luôn luôn kín
đáo đề cao vai tṛ chỉ huy của Tổng bí thư Lê Duẩn.
Khi cuốn sách Đại Thắng Mùa Xuân được tung ra th́ cả thế giới
bật ngữa, kể cả CIA.
Người ta nửa tin nửa ngờ, cứ cho rằng có thể Văn Tiến Dũng viết bịa,
cố t́nh cướp công của Vơ Nguyên Giáp.
Và người ta chờ đợi phản ứng của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp.
Quả nhiên sau khi đọc sách của Đại tướng Dũng th́ Đại tướng
Giáp bèn nhờ Trung tá Hữu Mai là người chuyên viết hồi kư cho ông,
viết một cuốn sách tựa đề là Mùa Xuân Toàn Thắng để chứng tỏ rằng
ông ta là người thực sự chỉ huy Văn Tiến Dũng vào thời điểm đó.
Và mọi mệnh lệnh, cho dầu có ghi là lệnh của Tổng bí thư,
cũng đều là do ư kiến đề xuất của Vơ Đại tướng. ( Sau này sách được
in lại với tựa đề “Tổng Hành Dinh Trong
Mùa Xuân Toàn Thắng” )
Cuốn sách được in năm 1978, nhưng vừa phát hành th́ Lê Duẩn
cho lệnh tịch thu.
Sau đó là căng thẳng do chiến tranh với Campuchia và Trung
Quốc cho nên mọi chuyện được xếp lại.
Nhưng khi cuộc chiến với Trung Quốc vừa xong th́ Lê Duẩn đuổi
Vơ Nguyên Giáp ra khỏi Bộ Chính Trị, cách chức Bộ trưởng Quốc pḥng,
đưa xuống làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch sinh đẻ Nhà nước.
Thực ra khi viết ra cuốn sách đó Đại tướng đă rào trước đón
sau; một điều “anh Ba
bảo”, hai điều “anh Ba nói” .
Nhưng nội dung toàn quyển sách đều toát lên một ư là “tôi đă
bàn với anh Ba” và “anh Ba đồng ư với tôi”, nghĩa là mọi chiến lược
chiến thuật là do tôi nghĩ ra, anh Ba chỉ là người tuyên bố những kế
hoạch của tôi. Dĩ nhiên
là Lê Duẩn đủ thông minh để thấy ra sự léo lận của Đại tướng, nhưng
khổ nỗi Đại tướng nói có lư quá, với bề dày thành tích có sẵn từ
trận Điện Biên Phủ th́ ai mà không tin.
Ngay trong tựa đề Mùa Xuân Toàn Thắng đă cho thấy mục đích của
cuốn sách là nhằm chọi lại cuốn Đại Thắng Mùa Xuân, là cuốn sách ca
ngợi Lê Duẩn. V́ vậy
chẳng những Lê Duẩn bị chạm nọc mà cho tới Văn Tiến Dũng và mấy ông
viết sách cho Văn Tiến Dũng cũng phẫn nộ v́ lối viết léo lận, không
thành thật của Vơ Nguyên Giáp :
Trong chương 3, Vơ Nguyên Giáp cho biết đầu năm 1974 ông ta bị
bệnh đường ruột phải đi chữa bệnh tại Liên Xô, cho tới tháng 4 mới
trở về nhưng c̣n dưỡng bệnh cho nên mọi t́nh h́nh quân sự ông chỉ
nghe ngóng qua các sĩ quan làm việc trong bộ Tổng tham mưu.
Từ tháng 5 cho tới tháng 7 ông dưỡng bệnh tại nhà nghỉ mát
dành cho Trung ương Đảng ở băi biển Đồ Sơn, tại đây Đại tướng thường
gặp Tổng bí Thư cũng ra nghỉ ở đây ( Theo Trần Quỳnh th́ Lê Duẩn vừa
nghỉ vừa làm việc với quân ủy Trung ương hoặc Cục tác chiến tại nơi
nghỉ ). Đến tháng 8 Đại
tướng Văn Tiến Dũng bị bệnh phải đi trị bệnh ở nước ngoài th́ VNG
mon men đến “xin việc” nơi Tổng bí thư :
Mùa hè năm 1974, anh Văn Tiến Dũng và tôi đều không được khỏe.
Anh Dũng ốm phải đi nghỉ ở nước ngoài. Tôi vẫn c̣n trong kỳ dưỡng
bệnh thường ra nghỉ ở Đồ Sơn.
T́nh h́nh chuyển biến rất nhanh. Không một ai có thể ngồi
yên. Tôi tranh thủ làm việc với đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn hồi
này cũng thường nghỉ ở đấy.
Anh Ba bàn với tôi về một loạt vấn đề chiến lược.
Chúng tôi trao đổi cùng t́m đáp án cho những câu hỏi nóng
bỏng: Cuộc chiến tranh ở miền Nam đă đến giai đoạn nào? Thời cơ lớn
đă xuất hiện chưa? Đă có điều kiện chín muồi cho một cuộc tổng tiến
công chưa? Nếu có, tiến công và nổi dậy như thế nào? Phương hướng
chiến lược ra sao?. Ư của Đại tướng là ngay mùa hè 1974 ông ta đă có
bàn chuyện t́nh h́nh chiến sự với TBT, nghĩa là ông ta đă truyền cho
TBT mọi chiến lược chiến thuật của ông ta.
Thấy sức khỏe của tôi đă dần dần hồi phục, một hôm anh Ba bảo:
“Công việc rất quan trọng, khẩn trương. Anh nắm lấy mà làm”.
Nghĩa là TBT không giao cho một việc cụ thể nào mà chỉ nói
“anh coi có việc ǵ đó làm được th́ làm”.
Chứng tỏ là từ trước tới giờ Đại tướng chẳng có việc ǵ để
làm cả. Thậm chí Tổng
tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đi chữa bệnh ở nước ngoài cũng không
cho VNG tạm thay thế.
V́ vậy ngày 20-9-1974 Lê Duẩn cho gọi hai ông Tổng tham mưu
phó là Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn xuống Đồ Sơn để chuẩn bị tài
liệu cho hội nghị Trung ương Đảng sắp tới mà chẳng kêu Vơ Nguyên
Giáp để cùng bàn bạc. Do
v́ có thân t́nh giao hảo với Tướng Giáp cho nên trước khi đi gặp
Tổng bí thư, hai ông tướng có ghé qua nhà của Tướng Giáp.
Sau khi gặp xong, ngày 22 hai ông trở về và cho Tướng Giáp
biết TBT đă hỏi những ǵ, nói những ǵ.
Khi viết lên chuyện này, Tướng Giáp cho rằng TBT đă biết được
ư kiến riêng của ông qua ông Thái và ông Tấn, trong đó có 2 ư quan
trọng là “Đánh ở Nam Tây Nguyên và sẽ chiến thắng trong ṿng vài ba
năm tới”. Không biết có
thật như vậy hay không nhưng có một sự thật hiển nhiên là TBT chỉ
làm việc với hai ông Phó của tướng Dũng mặc dầu Tướng Dũng đang nghỉ
bệnh, c̣n Tướng Giáp th́ chỉ biết “nghe ngóng” qua hai ông kia.
Nếu Tướng Giáp thực sự có làm việc th́ hai tướng kia phải gặp
ông tại Văn pḥng Quân ủy Trung ương hoặc Văn pḥng Bộ trưởng Quốc
pḥng trước khi đi gặp TBT hay sau khi gặp TBT.
Trong một buổi làm việc, anh Hoàng Minh Thảo, với nhăn quan
một nhà nghiên cứu khoa học quân sự, đă nêu ư kiến:
khi đă chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên th́ trước hết nên
đánh Buôn Ma Thuột, v́ đây là thị xă lớn nhất, là nơi hiểm yếu và
cũng là nơi địch sơ hở nhất. Khó khăn phải vượt qua để tiến công
trên hướng này là thiếu đường hành quân và thiếu nước. Tôi rất tán
thành.
Mấy hôm sau, tôi mời cơm anh Vơ Chí Công và anh Chu Huy Mân
tại gia đ́nh. Lúc đó, trong cán bộ ta có hai ư kiến tranh luận chưa
ngă ngũ: một số đồng chí
chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu, một số khác chọn đồng
bằng Nam Bộ. Trong lúc chuyện tṛ thân
mật tôi đă nói với hai anh: “Thế nào ta cũng đánh Tây Nguyên
trước” ( Mùa Xuân Toàn Thắng, chương 3 ).
Nghĩa là sáng kiến đánh Ban Mê Thuột là của Tướng Hoàng Minh
Thảo. Rồi Tướng Giáp mới
đem ư đó mà nói với Tướng Vơ Chí Công và Tướng Chu Huy Mân nhưng lúc
nói ra th́ mọi người hiểu đó là ư kiến của chính ông..
Sở dĩ Tướng Giáp phải mời cơm Tướng Công và Tướng Mân bởi v́
hai ông từ chiến trường Miền Nam ra, chỉ làm việc với TBT và Tham
mưu Trưởng Văn Tiến Dũng chứ không được phép cùng làm việc, cùng bàn
bạc với chuyên gia quân sự Vơ Nguyên Giáp mặc dầu trên danh nghĩa
Tướng Giáp là Bộ trưởng Quốc pḥng kiêm Bí thư quân ủy trung ương.
V́ vậy tướng Giáp đành phải mượn cớ mời cơm hai ông tướng để
nghe ngóng xem t́nh h́nh Miền Nam ra sao và TBT đă quyết định ra
sao. Đây là một bằng
chứng cho thấy Tướng Giáp không có làm việc đúng như chức vụ của
ông; nếu ông thực sự làm
việc th́ ông sẽ gặp hai tướng tại Văn pḥng Quân ủy Trung ương hay
Văn pḥng Bộ trưởng Quốc Pḥng.
Sáng thứ ba tuần sau, trước khi thảo luận, anh Tấn nói lại ư
của anh Dũng và anh Văn cho toàn tổ: “Anh Dũng chỉ thị đánh đúng vào
Buôn Ma Thuột là chỗ yếu chí tử của địch. Đánh được vào đấy mới
thắng to. Làm đường là rất hợp “khẩu vị” của anh Văn, v́ có đường
mới sử dụng được pháo lớn, xe tăng, mới đánh lớn được Anh Văn bảo
ḿnh bàn kỹ với anh em công binh, cố gắng làm đường để đánh vào Buôn
Ma Thuột. Anh c̣n nhắc kinh nghiệm Điện Biên Phủ, bắc Quảng Trị.
Đường quan trọng lắm”. Tới đây th́ ư kiến đánh Ban Mê Thuột không
c̣n là ư kiến của Tướng Hoàng Minh Thảo nữa, mà là ư của anh Văn,
tức là Đại tướng Vơ Nguyên Giáp.
Người ta có thể thấy rơ tŕnh tự léo lận của tướng Giáp qua 2
đoạn văn trên : Đoạn đầu
ông cho rằng sáng kiến đánh Ban Mê Thuột là của Tướng Hoàng Minh
Thảo, và ông chỉ là người rất đồng ư.
Nhưng sang đến đoạn sau th́ sáng kiến đó được phát đi từ của
miệng của Tướng Văn Tiến Dũng.
Nhưng khi ông Dũng nói ra th́ “hợp với khẩu vị” của tướng
Giáp, có nghĩa là món này là do tướng Dũng xào nấu theo công thức
nấu ăn của tướng Giáp.
Mà công thức này tướng Giáp từng áp dụng tại Điện Biên Phủ, Bắc
Quảng Trị.
Nếu Tướng Hoàng Minh Thảo không phản đối về chuyện Tướng Giáp
nhận vơ th́ có lẽ mọi chuyện cũng yên xuôi và cuốn sách của Tướng
Giáp không đến nỗi bị tịch thu.
Nhưng khổ nỗi là ban biên tập cuốn Đại Thắng Mùa Xuân lại
không chịu yên. Họ mang
cuốn sách của Tướng Giáp đến cho Lê Duẩn xem và họ xin lỗi TBT bởi
v́ trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân họ đă lỡ gán cho Tổng bí thư Lê
Duẩn là người đầu tiên tuyên bố phải đánh Ban Mê Thuột:
Sau khi phân tích t́nh thế suy yếu của địch, đồng chí Lê Duẩn
nói tiếp: “Ta phải giáng
đ̣n chiến lược trong năm 1975. Ở Nam Bộ ta phải tạo thế liên hoàn
trong toàn miền, áp sát vào Sài G̣n hơn nữa, tiêu diệt quân chủ lực
địch nhiều hơn nữa, làm cho các địa phương có sức bung ra khi có
thời cơ. C̣n ở đồng bằng sông Cửu Long, ta phải áp sát vào Mỹ Tho
hơn nữa. Chúng ta đồng ư năm nay mở đầu bằng đánh Tây Nguyên”.
Đồng chí chỉ tấm bản đồ treo phía sau lưng nói: “Cần đánh mở
ra ở Buôn Ma Thuột và Tuy Hoà. Ở Khu 5 ta phải giải phóng từ B́nh
Định trở ra. Ở Trị Thiên, ta phải làm chủ từ Huế đến Đà Nẵng ( Đại
Thắng Mùa Xuân, chương 2 ).
Theo sách Đại Thắng Mùa Xuân th́ đây là lời của Tổng bí thư Lê
Duẩn đúc kết hội nghị Trung ương Đảng vào ngày 8-1-1975.
Nhưng sách Mùa Xuân Toàn Thắng của Tướng Giáp lại chơi ác;
kể lại từng câu từng chữ của Tổng bí thư vào buổi sáng kết
thúc hội nghị đó, nhưng Lê Duẩn phát biểu huyên thuyên như một người
điên :
Vui vẻ, linh hoạt, anh Ba nói:… … Về cách đánh chiến lược, anh
Ba nhắc lại cần nắm vững phương châm, phương pháp của ta là: Tiến
công, nổi dậy, nổi dậy, tiến công, ba mũi giáp công, ba vùng chiến
lược, tiêu diệt, làm chủ, làm chủ, tiêu diệt, tiến lên tổng công
kích, tổng khởi nghĩa.
Vẻ quyết tâm và nhiệt t́nh hiện rơ trên nét mặt, anh nói rất
nhanh: Phải nắm vững chiến lược tổng hợp để tạo ra sức mạnh tổng
hợp, luôn luôn tạo ra sức mạnh mới, thế mới, đánh liên tục và bất
ngờ, tiến tới tổng phản công và nổi dậy… … Ở Nam Bộ, có ba nhiệm vụ
quan trọng: vừa đánh đồng bằng, vừa đánh chủ lực, vừa ép đô thị. Ở
Khu 5, Tây Nguyên th́ đồng t́nh đánh mạnh ở Tây Nguyên, mở đầu từ
Buôn Ma Thuột…
Câu “đồng t́nh đánh mạnh ở Tây Nguyên, mở đầu từ Ban Mê
Thuột”, có nghĩa là ư kiến đánh Ban Mê Thuột không phải là sáng kiến
của TBT Lê Duẩn, mà TBT chỉ đồng ư với ư kiến của Quân ủy Trung ương
mà Vơ Nguyên Giáp là Bí thư quân ủy.
Ngoài ra sách Đại Thắng Mùa Xuân của tướng Văn Tiến Dũng cũng
đă nhấn mạnh ư kiến đánh Ban Mê Thuột là của Lê Duẩn qua cửa miệng
của Lê Đức Thọ :
Hội nghị Bộ Chính trị vừa bế mạc th́ hôm sau, ngày 9-1-1975,
Thường trực Quân uỷ Trung ương họp, có mời thêm các đồng chí Vơ Chí
Công, Chu Huy Mân, Hoàng Minh Thảo, Lê Trọng Tấn để quán triệt và
thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị…. …
Cuộc họp vừa bắt đầu th́ đồng chí Lê Đức Thọ bất ngờ mở cửa
vào và ngồi họp với chúng tôi.
Sau chúng tôi hiểu rằng Bộ Chính trị (Lê Duẩn) chưa thật yên
tâm v́ thấy ư định đánh Buôn Ma Thuột chưa được thể hiện rơ ràng
trong kế hoạch tác chiến, cho nên đă cử đồng chí Lê Đức Thọ đến tham
gia góp ư kiến với chúng tôi là nhất quyết phải đánh Buôn Ma Thuột.
Đồng chí Lê Đức Thọ nói sôi nổi: “Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải
phóng Buôn Ma Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh
được Buôn Ma Thuột là thế nào?”.
Đoạn văn này cho thấy Lê Đức Thọ quyết tâm đánh Ban Mê Thuột
c̣n hơn cả Lê Duẩn.
Thế nhưng sách của Tướng Giáp lại ghi :
Ngay hôm sau, ngày 9-1-1975, Thường trực Quân uỷ Trung ương
họp để quán triệt và triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị. Cùng
tham dự có các đồng chí Vơ Chí Công, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn, và
Hoàng Minh Thảo… … Qua trao đổi, thảo luận, mọi người đều thấy việc
chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong đó Buôn Ma Thuột
là mục tiêu tiến công đầu tiên là một điều tất yếu, không thể khác…(
Nghĩa là một đứa con nít nó cũng phải biết rằng đương nhiên phải
đánh Ban Mê Thuột, ai đó có nhấn mạnh cũng bằng thừa.
Chỉ mong rằng CIA và Ngũ Giác Đài không biết được bằng đứa
con nít mà thôi )…Chúng tôi đang họp th́ anh Lê Đức Thọ đến.
Biết hội nghị đang bàn về đánh Buôn Ma Thuột, anh Sáu cũng
nhất trí như vậy…Nghĩa là ông Thọ đến nghe ké và sau khi nghe xong
th́ cũng đồng t́nh. Vô t́nh Tướng Giáp đụng chạm luôn đến ông Lê Đức
Thọ, một con người hám quyền lực và khắc nghiệt c̣n hơn cả Lê Duẩn.
Đến nông nỗi này th́ Tổng bí thư Lê Duẩn chịu hết thấu, rơ
ràng là Tướng Giáp chơi ông ta sát ván.
Vậy th́ ông ta c̣n nhân từ ǵ nữa mà không cho Tướng Giáp
xuống làm Ủy ban Kế hoạch hóa gia đ́nh cho biết nhục.
Lâu nay ông ta đă nhân nhượng và dung dưỡng cho VNG quá nhiều
nhưng VNG không hề biết ơn mà giờ đây lại c̣n ló ṃi phản bội.
Những chi tiết vô t́nh lẫn cố ư trong sách của Tướng Giáp cho
thấy đến tháng Giêng năm 1975 ông vẫn c̣n ở ngoài bộ chỉ huy quân sự
của Hà Nội, mọi hoạt động của ông chỉ là nghe ngóng mọi mệnh lệnh
của Lê Duẩn qua Cục tác chiến và qua Quân ủy Trung ương.
Chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng và Bí thư Quân ủy Trung ương
chỉ là hư vị, mọi việc đều do Lê Duẫn chỉ huy các ông tướng khác, mà
đứng đầu là Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng.
( Hết trích )
Vơ Nguyên Giáp và sách vở quân sự học của Hoa Kỳ
Người đời không rơ t́nh h́nh nội bộ ĐCSVN nên thường thắc mắc
tại sao một nhân vật đầy uy tín, đầy công lao của chế độ như VNG lại
bị hạ một cách tàn tệ như vậy.
Người ta cũng thắc mắc tại sao người hùng của Điện Biên Phủ
và cũng là người hùng của Mùa Xuân 75 lại chịu lép vế một cách nhục
nhă, hoàn toàn không đáng mặt con nhà binh.
Đâu có ai ngờ rằng ông tướng cũng có nỗi khổ tâm riêng của
ông tướng. Chỉ buồn cười
cho các ông tướng Pháp và tướng Mỹ luôn luôn xem ông Giáp là người
đă hạ họ một cách oanh liệt, họ tự cho rằng họ thua Tướng Giáp cũng
là xứng đáng.
Măi cho tới năm 2005 các nhà viết sử Hoa Kỳ sắp xếp cho ông
McNammara là cựu Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa Kỳ sang Hà Nội gặp
Đại tướng Vơ Nguyên Giáp trên tinh thần cùng nhau rút kinh nghiệm về
chiến tranh. Dĩ nhiên
một khi McNamara đă cất công sang Việt Nam th́ các nhà đạo diễn đă
liên lạc trước với Đại tướng và hai bên đă thỏa thuận những điều sẽ
tuyên bố. Thế nhưng các
ông bô lăo như Lê Đức Anh, Đỗ Mười sợ ông Giáp phát ngôn “chệch
hướng”, ( lợi dụng diễn đàn để tố cáo trước dư luận việc ông bị Tổng
cục 2 vu oan giá họa trong năm 1990 ) nên vận động Ban bí thư Trung
ương ĐCSVN không cho VNG gặp McNamara.
Đại tướng quá tức ḿnh nhưng đành phải chờ 2 năm sau mới có
dịp trả lời cho kư giả Walter Cronkite của cơ quan truyền thông CBS
Hoa Kỳ :
“ Cho tới nay tôi vẫn không hiểu nổi tại sao người Mỹ các anh
lại chấm dứt thả bom Hà Nội (1972). Các anh đă tṛng cổ được chúng
tôi rồi. Nếu các anh
nhấn thêm một chút nữa, chỉ một hoặc hai ngày nữa, chúng tôi đă sẵn
sàng đầu hàng. Cũng
giống như trận tết Mậu Thân, các anh đă đánh bại chúng tôi rồi”.
Nguyên văn : “What we still don’t understand why you
Americans stopped the bombing of Hanoi.
You had us on the rops.
If you had pressed us a little harder, just another day or
two, we were ready to surrender. It was the same at the battles of
Tet. You defeated us”. (
Cuộc phỏng vấn tại Hà Nội ngày 812-2007.
Nguyên văn do Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tấn sưu tầm và đăng trong
tác phẩm “Chiến Tranh Việt Nam, Một Nước Cờ Độc”, trang 24 ).
Đây không phải là suy nghĩ của một Đại tướng bộ trưởng Bộ quốc
pḥng CSVN, mà là dư luận của dân chúng Hà Nội thời đó;
sau năm 1975 những người Hà Nội vào thăm thân nhân của ḿnh ở
Miền Nam cũng đă cho biết chuyện này.
Vậy mà 30 năm sau ông
Đại tướng lại phát biểu quan điểm của ông giống hệt như quan
điểm của người ngồi ở vĩa hè Hà Nội vào thời 1972.
Điều này chứng minh sự hiểu biết về bí mật quốc pḥng của
Tướng Giáp thời 1960-1975 chẳng khác ǵ sự hiểu biết của những người
dân thường.
Dầu sao th́ lời xác nhận của Tướng Giáp giúp cho giới nghiên
cứu quân sử của thế giới có được kết luận sau cùng về cuộc chiến
Việt Nam : Mỹ thua không
phải v́ các tướng CSVN quá giỏi, mà v́ t́nh báo của Hoa Kỳ quá dở.
V́ thế các chiến lược gia Hoa Kỳ cảm thấy không thể nào nuốt
trôi được điều này. Họ
đành giả vờ coi như Tướng Giáp quá già cho nên phát biểu không chính
xác, và họ quyết định giữ nguyên các sách vở về cuộc chiến Việt Nam
tại các thư viện của các trường đại học Hoa Kỳ, mà trong đó quân đội
Hoa Kỳ đă thua do Tướng Vơ Nguyên Giáp quá giỏi.
Một bằng chứng là cho tới năm 2009 báo chí Hoa Kỳ vẫn đưa tin
một cách vô tư về lời phát biểu của ông Chủ tịch Ủy ban Quốc pḥng
Thượng viện Hoa Kỳ John MacCain trong một cuộc viếng thăm Hà Nội :
Khi đi ngang qua bức h́nh của vị tướng có nhiều huyền thoại
của Việt Nam là tướng Vơ Nguyên Giáp, ông McCain đă ca ngợi ông
Giáp, người đă “đạo diễn” những chiến thắng cả người Pháp lẫn người
Mỹ trên chiến trường, và cả hai sau đó đă rút quân ra khỏi Việt Nam.
“Ông ta là một thiên tài quân sự,” McCain nói ( Bản dịch của
Phan Tường Vi ). Trong khi ông MacCain cũng là dân nhà binh, và đang
là chuyên gia quân sự hàng đầu trong chính phủ Hoa Kỳ.
Ông MacCain phát biểu như trên sau khi Tướng Giáp viết 2 cuốn
sách thú nhận rằng ḿnh không phải là người làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ cũng như chiến thắng Xuân 75.
Không có một nhà báo nào thắc mắc về câu này của ông MacCain
bởi v́ hiện nay sử sách Hoa Kỳ và quân đội Hoa Kỳ vẫn cứ khư khư cho
rằng quân Mỹ rút khỏi Việt Nam bởi v́ CSVN có được một “thiên tài
quân sự” bẩm sinh (sic).
Có lẽ các sử gia Hoa Kỳ sẽ sửa lại quan niệm này sau khi ông Vơ
Nguyên Giáp qua đời, lúc đó dư luận sẽ đánh giá lại sự nghiệp của
ông Đại tướng và phát hiện ra ông ta không phải là kẻ làm nên chiến
thắng trong cả hai cuộc chiến.
Nhưng nếu như vậy th́ hơi kẹt cho sử sách Hoa Kỳ, bởi v́ quân
đội Pháp thua Tướng Trần Canh và Tướng Vi Quốc Thanh của Trung Quốc
th́ c̣n có lư. Trong khi
đó tại chiến trường Miền Nam chỉ có Nữ tướng Nguyễn Thị Định là
người được CSVN công nhận có công đầu trong cuộc chiến Miền Nam.
Không lẽ lịch sử Hoa Kỳ lại ghi rằng quân đội Hoa Kỳ thua bà
Nguyễn Thị Định với câu nói nổi tiếng : “Đánh Mỹ cho tới c̣n cái lai
quần cũng đánh”(sic).
Nghĩa là các ông tướng Mỹ thua một bà nhà quê Việt Nam,
mà bà nhà quê này chẳng qua một trường lớp quân sự nào cả.
Nói một cách nghiêm chỉnh th́ quả thực quân đội Mỹ không chết
v́ xe tăng T.54 hay đại bác 130 ly của CSVN, mà chết v́ bị pháo
kích, bị sụp hầm chông, bị bà già gài ḿn trong quán bar và bị các
em bé chăn trâu bắn tỉa.
Những hoạt động này do bà Nguyễn Thị Định chỉ huy (sic).
Các bạn thân mến .
Qua cái chết của ông Vơ Ngyên Giáp, đài RFI và RFA đều ca tụng
vị đại tướng thiên tài của Việt Nam.
Điều này chú không lạ v́ đă đoán trước.
Mới đây chú đọc được trên website của RFI một bài viết ca tụng
Tướng Giáp :
VIỆT NAM –
Bài đăng : Thứ ba 08 Tháng Mười 2013 – Sửa đổi lần cuối Thứ ba
08 Tháng Mười 2013
Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain gợi lại một số hồi ức cá nhân về
Tướng Giáp
Nguyên là một tù binh chiến tranh Việt Nam, ngay sau khi được
tin Tướng Vơ Nguyên Giáp qua đời, Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain, cựu
ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ là một trong những nhân vật đầu tiên
lên tiếng ca ngợi người quá cố qua mạng xă hội Twitter.
Sau đó, trong một bài viết dài hơn được trang mạng báo Mỹ Wall
Street Journal công bố hôm 06/10/2013, ông đă nhắc lại một số kỷ
niệm và đánh giá của ông về cựu đối thủ của ḿnh mà ông đă có dịp
gặp gỡ.
Theo ghi nhận của hăng tin Pháp AFP, ngay từ thứ Sáu, 04/10,
ngay sau khi tin Tướng Giáp qua đời được tiết lộ, trên trang mạng
Twitter, ông John McCain đă ca ngợi vị tướng quá cố là một « chiến
lược gia quân sự tài ba ».
Hai hôm sau, viên cựu phi công bị bắt làm tù binh ở Việt Nam (
máy bay của ông bị bắn rơi vào năm 1967 trên bầu trời Hà Nội) đă
đánh giá sâu hơn về người đă thành công trong việc đánh bật lực
lượng Mỹ ra khỏi Việt Nam, và nhắc lại các kỷ niệm mà ông c̣n giữ
được sau hai lần gặp Tướng Giáp.
Giải thích về lư do v́ sao Mỹ bị thua tại Việt Nam, ông John
McCain nêu lên « quyết tâm sắt đá » của Tướng Giáp, sẵn sàng chấp
nhận những « tổn thất to lớn » và « sự tàn phá gần như hoàn toàn của
đất nước ḿnh » để chiến thắng « bất kỳ đối thủ nào, cho dù đối
phương có hùng mạnh đến đâu chăng nữa ». Tuy nhiên, đối với ông
McCain : « Khó mà có thể bảo vệ chiến lược đó trên b́nh diện đạo
đức, nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự thành công của nó ».
Sau đó Trọng Nghĩa lược dịch bài viết của ông MacCain được
đăng trên báo Wall Street Journal.
Dĩ nhiên là chú không tin ông Mac Cain thực sự ngợi khen
Tướng Giáp, cho nên chú đă vào Website của WJ để đọc bài đó.
Sau đây là nguyên văn của Mac Cain với lời dịch từng câu từng
chữ của chú :
He Beat Us in War but Never in Battle
To defeat any adversary, the late North Vietnamese Gen. Vo
Nguyen Giap permitted immense casualties and the near total
destruction of his country.
Để đánh bại bất cứ đối thủ nào, Giáp được phép thí quân và tha
hồ tàn phá sứ sở của ông ta
I met Gen. Vo Nguyen Giap—who died on Friday—twice. The first
time was in the Vietnamese military hospital where I was taken
shortly after my capture in 1967. My father commanded all U.S.
forces in the Pacific, which made me an object of curiosity in some
quarters of the North Vietnamese government.
Tôi gặp tướng Giáp, người vừa mới từ trần hôn thứ Sáu, hai
lần. Lấn đầu tại một bệnh viện quân sự sau khi tôi bị bắt làm tù
binh vào năm 1967. Do v́
cha tôi chỉ huy quân lực Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương cho nên tôi trở
thành mục tiêu chú ư của một số thành viên trong chính phủ Bắc Việt.
I remember several high-ranking visitors in addition to the
guards and interrogators I saw daily. Giap, North Vietnam’s minister
of defense, was the only one I recognized. He stayed only a few
moments, staring at me, then left without saying a word.
Trong số các quan chức cao cấp ghé tới cùng với các nhân viên
canh giữ và thẩm vần tôi hằng ngày;
tôi nhớ có Giáp, Bộ trưởng Quốc pḥng của Bắc Việt. Ông lưu
lại chỉ vài khoảnh khắc, nh́n thằng vào tôi, rồi th́ quay đi không
nói tiếng nào.
Our second meeting was in the early 1990s, during one of many
trips I made to Hanoi to discuss the POW/MIA issue and the
normalization of relations between our countries. I had asked then
Foreign Minister Nguyen Co Thach and his deputy, Le Mai, to arrange
a brief interview with the legendary commander of the People’s Army
of North Vietnam.
Lấn gặp gỡ thứ hai là đầu những năm 1990, một trong những
chuyến ghé đến Hà Nội để bàn về vấn đề t́m người Mỹ mất tích và b́nh
thường hóa quan hệ giữa hai nước, tôi đă yêu cầu Ngoại trưởng Nguyễn
Cơ Thạch và phụ tá của ông là Lê Mai sắp xếp cho tôi được gặp và
phỏng vấn người chỉ huy thiên tài của quân đội Bắc Việt.
The next day I was ushered into the grand reception room of
the Beaux-Arts presidential palace the French had built for their
colonial governors, where the general was waiting. Smiling,
diminutive, aged but spry, and dressed in a gray suit and tie, he
hardly looked like his wartime reputation as a ruthless fighter with
a fierce temper.
Ngày hôm sau tôi được dẫn vào phóng tiếp tân của cung Văn hóa,
nơi trước đây là Bắc Bộ Phủ của Thống sứ Pháp tại Bắc Kỳ.
Tại đây Tướng Giáp đang đợi sẵn. Ông mĩm cười tiến về phía
tôi với dáng vẻ nhỏ bé, nhanh nhẹn; trong một bộ đố màu xám, thắt cà
vạt. Khó mà tưởng tượng
rằng ông là một ông tướng hét ra lửa trong thời chiến.
Giap greeted me warmly beneath an enormous bust of Ho Chi
Minh, who had led Vietnam in the wars against the French and the
United States. Both of us clasped each other’s shoulders as if we
were reunited comrades rather than former enemies.
Giáp quàng vai thân mật với tôi dưới bức tượng bán thân to lớn
của ông Hồ Ch́ Minh, người đă lănh đạo Việt Nam trong hai cuộc chiến
tranh chống pháp và chống Mỹ.
Cả hai chúng tôi xiết vai nhau như thể là hai đồng chí lâu
ngày gặp lại chứ không phải là hai cựu thù.
I had hoped our discussion would concentrate on his historical
role. After I came home from Vietnam in 1973, I read everything I
could get my hands on about both the French and American wars there,
starting with Bernard Fall’s “Hell in a Very Small Place,” his
classic study of the 1954 siege of Dien Bien Phu, where French
colonial rule effectively ended and Giap’s genius first became
apparent to an astonished world.
Tôi hy vọng cả hai chúng tôi sẽ tập chú vào vai tṛ lịch sử
của ông ta. Kề từ khi
tôi ra khỏi trại giam tù binh năm 1973, tôi đă có trong tay tất cả
những tài liệu nói về chiến tranh Dông Dương và chiến tranh Việt
Nam, bắt đầu là quyển “Địa ngục trong một mảnh đất tí xíu”, một khảo
cứu kinh điển của Bernard Fall về trận Điện Biên Phủ.
Nơi đặt dấu chấm hết cho chế độ thực dân Pháp, và lần đầu
tiên “thiên tài quân sự” của Tướng Giáp đă làm thế giới kinh ngạc.
I wanted to hear Giap describe that nearly two-month long
battle, to explain how his forces had shocked the French by managing
the impossible feat of bringing artillery across mountains and
through the densest jungles. I wanted to talk to him about that
other marvel of logistics, the Ho Chi Minh Trail.
Tôi mong được nghe Tướng Giáp diễn tả lại cuộc chiến kéo dài
trong hai tháng để biết v́ sao lực lượng của ông đă gây sốc cho
người Pháp, với cách điều động súng nặng vượt qua núi cao và xuyên
qua rừng rậm dày dặc.
Tôi cũng mong được bàn luận với ông về một bí thuật tiếp vận khác,
đó là tiếp tế trên đường ṃn Hồ Chí Minh.
I knew he was proud of his reputation as the “Red Napoleon,”
and I presumed he would welcome an opportunity to indulge my
curiosity about his triumphs. I wanted us to behave as two retired
military officers and former enemies recounting the historical
events in which he had played a critical part and I a small one. But
he answered most of my questions briefly, adding little to what I
already knew, and then waved his hand to indicate disinterest.
Tôi biết ông tự hào về danh tiếng của ḿnh như là một
“Napoleon đỏ” , và tôi tin rằng những câu hỏi ṭ ṃ của tôi sẽ là cơ
hội để cho ông tâm đắc với chiến công của ḿnh.
Tôi muốn chúng tôi nói chuyện với nhau trên danh nghĩa hai
cựu chiến binh, và cũng là hai cựu thù, về lịch sử;
mà ông đóng một vai vai quan trọng, c̣n tôi đóng một vai
khiêm tốn. Nhưng ông đă
trả lời tôi thật ngắn, chỉ nhỉnh hơn một chút so với những ǵ tôi đă
biết. Sau đó ông xua tay để tỏ ư không quan tâm.
That is all in the past now, he said. You and I should discuss
a future where our countries are not enemies but friends. And so we
did, two politicians discussing the business between our countries
that had brought me to Vietnam.
Ông nói, tất cả chỉ là quá khứ.
Giờ đây chúng ta hăy bàn về tương lai mà hai quốc gia không
c̣n là kẻ thù, mà là bạn bè.
Và thế là chúng tôi, hai chính trị gia, ngồi bàn với nhau về
vần đề giao thương giữa hai nước, cũng v́ vần đề này mà tôi đă đến
Việt Nam.
Giap was a master of logistics, but his reputation rests on
more than that. His victories were achieved by a patient strategy
that he and Ho Chi Minh were convinced would succeed—an unwavering
resolve to suffer immense casualties and the near total destruction
of their country to defeat any adversary, no matter how powerful.
“You will kill 10 of us, we will kill one of you,” Ho told the
French, “but in the end, you will tire of it first.” Giáp là bậc
thầy về tiếp tế tiếp liệu ( Dân công với xe đạp thồ và kéo pháo qua
núi bằng tay ). Nhưng
danh tiếng của ông c̣n hơn thế nữa.
Chiến thắng mà ông đạt được là do chiến lược bệnh hoạn mà ông
và Hồ Chí Minh tin rằng sẽ đưa tới chiến thắng, đó là thí quân vô
tội vạ và nếu cần th́ hủy diệt toàn bộ đất nước để đánh bại bất cứ
một đối thủ nào, cho dù hùng mạnh tới đâu chăng nữa.
Hồ đă nói với người Pháp : “Các anh giết chúng tôi mười
người, chúng tôi sẽ giết các anh một người.
Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng thắng bởi v́ các anh sẽ năn
ḷng trước”.
Giap executed that strategy with an unbending will. The French
repulsed wave after wave of frontal attacks at Dien Bien Phu. The
1968 Tet offensive against the U.S. was a military disaster that
effectively destroyed the Viet Cong. But Giap persisted and
prevailed.
Giáp thực hiện chiến lược đó của Hồ Chí Minh với một niềm tin
cứng nhắc. Làn sóng chống Pháp đưa tới trận đại hống thủy Điện Biên
Phủ. Trong khi đó cuộc tần công Mậu Thân chống lại quân đội Hoa Kỳ
là một thảm họa đối với quân CSVN nhưng rốt cuộc Giáp vẫn tiếp tục
tồn tại và chiếm ưu thế.
The U.S. never lost a battle against North Vietnam, but it
lost the war. Countries, not just their armies, win wars. Giap
understood that. We didn’t. Americans tired of the dying and the
killing before the Vietnamese did. It’s hard to defend the morality
of the strategy. But you can’t deny its success.
Hoa Kỳ không bao giờ thất bại trong cuộc chiến chống lại Bắc
Việt, nhưng thua trong chiến tranh.
Một đất nước chiến thắng không phải chỉ nhờ vào quân đội,
Giáp hiểu rơ điều đó.
Nhưng chúng ta không hiểu.
Người Mỹ đă mệt mơi v́ tàn sát và chết chóc trước người Việt
Nam. Thật khó để bênh
vực cho cái ác của mưu đổ chiến lược, nhưng chúng ta không thể phủ
nhận sự thành công của nó.
Near the end of our meeting, I made another attempt to test
Giap’s candor. I asked him if it were true that he had opposed
Vietnam’s invasion of Cambodia. He dismissed that too, with
something like, “the party’s decisions are always correct.”
Gần cuối của cuộc gặp mặt, tôi đă thử cố gắng rà lại sự thẳng
thắn của Tướng Giáp. Tôi
hỏi ông rằng có phải ông phản đối Hà Nội xâm lăng Campuchia ?
Ông lại bác bỏ với những lời đại loại như “đảng luôn luôn
quyết định đúng”.
With that, our meeting came to an end. We stood up, shook
hands, and as I turned to leave, he grasped my arm, and said softly,
“you were an honorable enemy.”
Tới đó th́ cuộc họp kết thúc, chúng tôi đứng lên bắt tay;
ông ôm lấy cánh tay của tôi và nói nhỏ “Ông là một kẻ thù
đáng kính”.
I don’t know if he meant that as a comparison to Vietnam’s
other adversaries, the Chinese, the Japanese or the French, who had
killed his wife, or if it was an implicit recognition we had fought
for ideals rather than empire and that our humanity had played a
part in our defeat. Maybe he just meant to flatter me. Whatever his
meaning, I appreciated the sentiment.
Tôi không hiểu ông nói câu đó với ư nghĩa ǵ : có thề là so
sánh với các đối thủ khác như Trung Quốc, Nhật hay Pháp, những người
đă giết vợ của ông. Hoặc
có thể là ông muốn nói chúng tôi chiến đấu cho lư tưởng tự do chứ
không phải là cho chủ nghĩa đề quốc, và nhân dân của chúng tôi đă
đóng một vai tṛ đưa đến thất bại của chúng tôi.
Có thề ư nghĩa này chỉ là để lấy ḷng tôi;
nhưng dù sao đi nữa, tôi vẫn cám ơn t́nh cảm của ông dành cho
tôi.
Mr. McCain is a Republican senator from Arizona
Các bạn thân mến,
so với vài viết thực sự của Mc Cain th́ rơ ràng Trong Nghĩa đă biến
trằng thành đen, bẻ ngay thành cong:
Ông Mac Cain chê bai ông Giáp chỉ biết đẩy quân của ông ta vào
chỗ chết với chiến thuật biển người.
Ngoài ra Tướng Giáp thực sự không có quyến hành và không được
trọng nể đối với nhà cầm quyền CSVN, ông không được phép tự ư nói
chuyện ngoài lề, chỉ được nói những ǵ mà người ta căn dặn trước.
Hơn nữa, ông ta luôn luôn né tránh sự thật, không dám xác
nhận những ǵ mà ĐCSVN đă từng tuyên truyền về ông.
Chứng tỏ những chiến công của ông ta chỉ là thổi bóng bóng.
BÙI ANH TRINH
BÙI ANH TRINH
SỰ THỰC VỀ NHÂN VẬT HỒ TẬP CHƯƠNG
THÁNG NĂM 22, 2015 QUANVAN.NET 4 PHẢN HỒI
( Trích trong bài viết “Lật lại vụ án Nguyễn Tất Thành bán
nước”, đă đăng trên Báo Tổ Quốc.
Nhắm giúp cho những người trẻ tuổi như Santhonytran hiểu thêm
về cách làm việc của các sử gia quốc tế ).
Nguyễn Tất Thành ra khỏi tù và chạy về Nga
lần 2
Năm 1932, ngày 20-4, báo L’Opinion tại Hồng Kông loan tin có
một người Việt Nam nhỏ bé có tâm hồn của một lănh tụ đang bị suy
nhược v́ lao lực trong nhà tù Hồng Kông.
Viên Lănh sự Pháp tại Hông Kông là Soulange Teissier gởi thư
cho bộ Ngoại giao Pháp báo cáo rằng Nguyễn Ái Quốc ( Biệt danh mà
mật thám Pháp đặt cho Nguyễn Tất Thành từ năm 1922 ) đang bị bệnh
lao trong tù, tuy nhiên t́nh trạng bệnh có thể cứu chữa được.
*( Hồ sơ lưu trữ / Văn Khố Pháp; Hồ sơ mang số AOM,SPCE 368,
báo cáo của Chánh mật thám Pháp tại Sài G̣n ngày 19-11-1939
).
Năm 1932, ngày 16-5, Lâm Đức Thụ gởi báo cáo cho mật thám
Pháp, cho biết ông ta vẫn nhận được tin tức về Nguyễn Tất Thành qua
văn pḥng của luật sư Loseby là người đang nhận bào chữa cho Thành (
Hsltr/Quốc gia Pháp; Hồ sơ mang số AOM,SPCE 368,).
Năm 1932, ngày 11-8, báo Daily Worker tại London loan tin
Nguyễn Ái Quốc ( Nguyễn Tất Thành ) đă chết trong trại tù Hồng Kông
v́ bệnh lao phổi. Tuy
nhiên Lănh sự Pháp tại Hồng Kong báo cho mật thám Pháp tại Hà Nội
rằng đó chỉ là tin đồn
thất thiệt ( Tài liệu của Dennis J.Duncanson, “Ho Chi Minh in Hong
Kong, 1931-1932; trang 96 ).
Năm 1932, ngày 27-8, luật sư của Sung Man Cho (Tống Văn Sơ hay
là Nguyễn Tất Thành) và luật sư của nhà cầm quyền Hồng Kông đă thỏa
thuận với nhau về nơi đến của Sung Man Cho sau khi ông ta bị trục
xuất mà không cho ṭa lănh sự Đông Dương tại Hồng Kông biết
(Hsltr/Quốc gia Pháp; hồ sơ mang số AOM, SPCE 639 ).
Năm 1933, ngày 6-1, Nguyễn Tất Thành đến Singapore nhưng bị
chính quyền Singapore bắt vào ngày 11-1 v́ tội di dân lậu rồi buộc
ông phải lên tàu trở lại Hồng Kông.
Tàu Thủy Ho Sang đưa ông đến bến Hồng Kông vào ngày 19-11;
cảnh sát đón ông tại bến tàu và lại tiếp tục giam ông về tội
di dân bất hợp pháp.
Năm 1933, ngày 20-1, để trả lời công điện của Mật thám Pháp
tại Đông Dương, Toàn quyền Hồng Kông gửi công điện cho biết Nguyễn
Tất Thành đă chết trong tù v́ bệnh lao và nghiện thuốc phiện (Hsltr
/Quốc gia Pháp; hồ sơ AOM,SPCE 639).
Năm 1933, ngày 15-2, báo Cahiers du Bolchévisme tại Mạc Tư
Khoa đăng tin đồng chí Nguyễn Ái Kvak ( NTT ) đă hy sinh trong nhà
tù Hồng Kong vào ngày 26-6-1932.
Sự thật về nhân vật Hồ Tập Chương
Quảng cáo
REPORT THIS AD
Sau khi được Toàn quyền Hồng Kong thông báo rằng Nguyễn Ái
Quốc ( Nguyễn Tất Thành ) đă chết th́ mật thám Pháp khóa hồ sơ theo
dơi NAQ. Quả nhiên sau
đó hơn 10 năm họ hoàn
toàn không nhận được tin tức nào chứng tỏ NAQ c̣n sống.
Nhưng cho tới năm 1945 th́ hồ sơ về NAQ ( Nguyễn Tất Thành )
được mở trở lại và mọi h́nh ảnh cũng như bút tích cho thấy Hồ Chí
Minh chính là nhân vật Nguyễn Tất Thành trước đây. Sự xuất hiện trở
lại của Nguyễn Tất Thành khiến cho giới nghiên cứu t́nh báo Pháp
bùng nổ nhiều bàn căi.
Rồi đến năm 1948, sau khi cuốn tự truyện của ông Hồ Chí Minh dưới
tên Trần Dân Tiên được phát hành th́ rộ lên tin Nguyễn Tất Thành
thật đă chết trong tù từ năm 1932, c̣n Hồ Chí Minh chỉ là Nguyễn Tất
Thành giả.
V́ vậy năm 1949, một thiếu tá t́nh báo Pháp tại Sở Cảnh sát
Sài G̣n đă tổng hợp các chứng liệu về Hồ Chí Minh thời 1932 và kết
luận rằng Chính quyền Hồng Kông tung tin NTT chết là để sử dụng NTT
làm điệp báo nhằm theo dơi hoạt động của CSQT tại Viễn Đông, bản
thân ông Thành muốn hoạt động bí mật tại Thái Lan với một tên khác
(Hsltr/Quốc gia Pháp).
Cuối cùng vào năm 1969;
4 ngày sau khi ông Hồ Chí Minh chết , báo New York Time ngày
6-9-1969 đă đăng bài phỏng vấn bà vợ của luật sư Loseby ( Lúc này
ông Loseby đă chết ). Bà
Loseby xác nhận rằng tin Nguyễn Tất Thành bị chết trong tù là do
chính luật sư Loseby tung ra để đánh lạc hướng theo dơi của mật thám
Pháp, nhằm giúp cho NTT không bị mật vụ của Pháp theo dơi để bắt sau
khi ông ta được thả ra khỏi nhà giam. Trước đó mật thám Pháp cũng đă
làm như vậy đối với Hồ Tùng Mậu và Phan Đức, hai ông bị bắt và bị
dẫn độ về VN.
Sau xác nhận của bà Loseby, những khúc mắc về tin Nguyễn Tất
Thành chết năm 1933 đă được giải tỏa.
Nhưng đến năm 2008, tại Đài Loan có một giáo sử sử học tên Hồ
Tuấn Hùng cho xuất bản quyển sách “Hồ Chí Minh Sinh B́nh Khảo”.
Theo giáo sư Hùng th́ ông đọc trong sách của sử gia Quinn
Judge có ghi rằng báo Daily Worker ngày 11-8 loan tin Nguyễn Tất
Thành ( NAQ ) đă chết trong tù
Hồng Kông. Và
sách của sử gia William Duiker cho biết trong Văn khố quốc gia Pháp
một công điện của Toàn quyền Hồng Kông báo cho Mật thám Pháp tại
Đông Dương rằng NTT đă chết trong tù v́ bệnh lao và nghiện thuốc
phiện.
Căn cứ vào những điều trên, giáo sư Hồ Tuấn Hùng viết ra quyển
sách Hồ Chí Minh Sinh B́nh Khảo với giả thuyết riêng của ông :
Đó là Nguyễn Tất Thành đă chết trong tù Hồng Kong, và t́nh
báo Trung Cộng đưa người khác vào thế vị trí của Nguyễn Tất Thành
hầu tiếp tục chỉ huy Đảng Cọng sản Đông Dương.
Người giả Nguyễn Tất Thành tên là Hồ Tập Chương, một người
sắc tộc Miêu ở Đài Loan, có bà con với giáo sư Hồ Tuấn Hùng.
Quyển sách được phát hành vài tháng th́
các sử gia VN và Quốc tế kết luận đây chỉ là một chuyện tưởng
tượng của Hồ Tuấn Hùng. Nhân vật Hồ Chí Minh có phải là Nguyễn Tất
Thành hay không th́ chỉ cần so sánh chữ viết trong đơn xin học
Trường Thuộc địa vào năm 1911 với di chúc của Hồ Chủ tịch th́ cũng
đủ xác định được Nguyễn Tất Thành, Paul Tất Thành, Nguyễn Ái Kvak,
Trần Vương, Lư Thụy, Mai Pín Thầu, Tống Văn Sơ, Hồ Quang, Hồ Chí
Minh…cũng chỉ là một người ( Thủ bút của Nguyễn Tất Thành c̣n lưu
lại trong hồ sơ lưu trữ Quốc gia Pháp, Hồ sơ lưu trữ Mạc Tư Khoa, và
hồ sơ lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ ).
Riêng năm 1931, trước khi NTT bị bắt, có tới 21 thủ bút của
NTT c̣n lưu tại Văn khố Quốc gia HK, được sử gia William Duiker phổ
biến năm 2.000. Và năm
1934, sau khi Nguyễn Tất Thành được thả, thủ bút của NTT c̣n lưu lại
trong bản khai lư lịch của NTT khi ông mới chạy về Mạc Tư Khoa.
Sau đó là thủ bút của ông trong thời gian theo học trường
Stalin. So sánh tự dạng
các thủ bút này th́ NTT trước khi bị bắt và NTT sau khi được thả chỉ
là một người. Và rồi từ
Trường Stalin, nhân vật NTT này đă trở về Trung Hoa năm 1938, và về
VN năm 1941 để nương náu chờ thời tại hang Pác Bó.
Nếu thủ bút của NTT sau khi được thả ( 1934 ) khác với thủ bút
của NTT trong các bản báo cáo gởi về MTK năm 1931 th́ ắt mật vụ của
Stalin đă phát hiện ra ( Mật vụ của Stalin thời đó không đến nỗi tồi
).
C̣n ông Hồ Tập Chương cho tới 30 tuổi chưa viết được chữ La
Tinh th́ làm sao giả cho giống hệt chữ La Tinh của NTT ?
Người bắt đầu tập viết chữ ABC vào năm ngoài 30 tuổi th́ tay
đă cứng, không thể nào nhái chữ ( ABC ) của người khác được.
Ngoài ra đă hơn 30 tuổi th́ không thề nào học nói tiếng Việt
cho chuẩn được bởi v́ lưỡi đă cứng.
Huống hồ giả giọng Nghệ An th́ không thể nào giả nổi. Có hằng
vạn “anh ba Tàu” nói tiếng Việt rất sỏi, nhưng không có anh nào nói
được giọng Nghệ An.
Trong khi đó giả thuyết của giáo sư Hồ Tuấn Hùng cho rằng sau
khi bị bắt th́ NTT đă chết,
sau đó t́nh báo Trung Cọng dựng lên một NTT giả hoạt động cho
t́nh báo Trung Cộng tại Hoa Nam. Và rồi năm 1941 Trung Cộng đưa NTT
giả về VN.
Điều này không đúng với lịch sử Trung Cọng, bởi v́ năm 1932 tổ
chức Cọng sản Trung Quốc chỉ là một nhóm kháng chiến chống lại Tưởng
Giới Thạch, hoàn toàn chưa có ư đồ ḍm ngó tới hoạt động chính trị
của các nước khác.
Cho đến năm 1936 Mao Trạch Đông chính thức nắm quyền của ĐCSTQ th́
tổ chức CSTQ vẫn chưa chiếm được một tỉnh nào của Trung Hoa để làm
trụ sở. Đảng Cọng sản
của Mao c̣n chưa lo nổi cho cuộc tranh giành quyền lực với Tưởng
Giới Thạch trong nội bộ TQ th́ có hơi đâu mà đi ḍm ngó nước khác.
Măi cho tới sau khi chiếm được nước Trung Hoa năm 1949 th́ Mao
Trạch Đông mới bắt đầu để mắt nh́n ra nước ngoài. Do đó giả thuyết
về đặc t́nh Trung Quốc vào năm 1933
của giáo sư Hồ Tuấn Hùng chỉ là tưởng tượng bởi v́ hiện nay
các sử gia quốc tế và cả sử gia TQ chưa hề ghi nhận được một tài
liệu nào nói rằng vào năm 1933 t́nh báo của Mao Trạch Đông đă vươn
tay ra nước ngoài.
Có thể chấp nhận chuyện ông Hồ Tập Chương giống hệt ông Nguyễn
Tất Thành do t́nh cờ có người giống người, cũng có thể chấp nhận
chuyện có người giả chữ giống hệt chữ của ông NTT do có người có hoa
tay đặc biệt. Nhưng
không thể nào có người vừa giống hệt ông NTT mà lại vừa có hoa tay
đặc biệt. Huống hồ lại
thêm nói giọng Nghệ An giống hệt ông NTT.
Lại thêm nhớ mặt, nhớ địa chỉ của tất cả bạn bè quen biết của
ông NTT ở Pháp, ở Nga;
kể cả các viên chức mật vụ của CSQT (sic).
Đặc biệt giáo sư Hùng không có được một h́nh ảnh nào của riêng
ông để chứng minh Hồ Chí Minh là Nguyễn Tất Thành giả, ông chỉ trưng
ra những h́nh của HCM trong tài liệu của Pháp.
Nhưng không cần đợi tới tài điều tra của giáo sư Hùng, ngay
từ năm 1945 các chuyên gia căn cước của mật thám Pháp đă đưa các
h́nh này lên kính hiển vi và xác nhận rằng Nguyễn Tất Thành chính là
Hồ Chí Minh.
Nếu năm 1945 mà các chuyên gia căn cước của cảnh sát Pháp
chứng minh được Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Tất Thành th́ họ
không dại ǵ mà không bí mật làm áp lực buộc ông Hồ Chí Minh phải kư
kết những hiệp ước trở lại thời thuộc địa như họ đă buộc ông hoàng
Cao Miên và ông Hoàng Lào.
Nếu Hồ Chí Minh không nghe th́ họ sẽ tung ra trước dư luận để
khỏi tốn tiền nuôi hằng chục sư đoàn để đi đánh ông Hồ Chí Minh trên
rừng Việt Bắc.
Một khi Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Tất Thành th́ cái ông
tự xưng là cha già của dân tộc Việt Nam sẽ rơi mặt nạ, hiện nguyên
h́nh là một tay lừa đảo;
lúc đó uy tín của tổ chức Việt Minh sẽ bị hủy hoại và tổ chức sẽ tự
tan ră. Nhưng kết quả
điều tra của mật vụ Pháp cho thấy Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Tất
Thành, không thể chạy chối đi đâu được.
Cho nên chính quyền Pháp đành phải quay ra chống đỡ vất vả
với lực lượng Việt Minh càng ngày càng lớn mạnh và rồi cuối cùng
người Pháp thất bại.
Cho tới ngày nay khả năng điều tra căn cước của các chuyên gia
cảnh sát Pháp vẫn thuộc vào hạng thượng thặng của thế giới cho nên
khả năng điều tra của họ thời đó phải ăn đứt khả năng suy đoán mơ hồ
của giáo sư Hồ Tuấn Hùng.
Ngoài ra cách suy đoán của giáo sư Hùng có những lập luận phản
với khoa học điều tra :
– Ông cho rằng “Chiều cao của Hồ Chí Minh cao hơn Nguyễn Tất
Thành, vậy Hồ Chí Minh phải là Hồ Tập Chương”.
Trong khi đó có hằng tỉ người cao hơn ông Nguyễn Tất Thành mà
không phải là Hồ Tập Chương
– Ông cho rằng Nguyễn Tất Thành không rành Hán Tự.
Nhưng tập thơ “Ngục trung nhật kư” của HCM cho thấy tác giả
là một người rất rành văn chương Trung Hoa, vậy Hồ Chí Minh là Hồ
Tập Chương . Trong khi
đó có hằng tỉ người rất rành về văn chương Trung Hoa nhưng không
phải là Hồ Tập Chương.
Đôi lời của Bùi Anh Trinh:
Từ năm 2009 rất nhiều người hỏi tôi về chuyện “Hồ Chí Minh
giả”của giáo sư Hồ Tuấn Hùng.
Tôi chỉ biết trả lời rằng ông Bùi Tín đă vừa cười vừa nói
trên đài phát thanh BBC rằng : “Chuyện ông Hồ Chí Minh giả th́ không
nên bàn đến nữa, các sử gia quốc tếhọ đă nói rằng đây là chuyện
bịa”. Tôi tin vào phán
đoán của các sử gia quốc tế bởi v́ họ có đầy đủ tài liệu và đầy đủ
phương pháp truy t́m sự thật của lịch sử.
Năm nay lại rộ lên chuyện Hồ Tập Chương sau khi báo Thông Luận
cho dịch một vài đoạn về t́nh sử của ông Nguyễn Tất Thành tại Trung
Hoa, trích trong tác phẩm “Hồ Chí Minh Sinh B́nh Khảo” của giáo sư
Hồ Tuấn Hùng. Lần này
th́ người ta đành phải quấy rầy nhà văn Vũ Thư Hiên ( Một người đă
quan sát rất tường tận về diện mạo và sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh
) để xin ư kiến của ông.
Ngày 25-9-2013 BBC đăng bài viết của ông Vũ Thư Hiên với những
nhận xét và lư luận của ông : “Cái đề tài này rơ là tầm phào”.
Cuối cùng ông kết luận : “Theo tôi nghĩ, chuyện Hồ Chí Minh
là một người Tàu tên Hồ Tập Chương của học giả Hồ Tuấn Hùng là một
tưởng tượng tồi”.
Lâu nay tôi ( BAT ) không muốn dính dáng đến chuyện này bởi v́
ngay từ đầu tôi đă biết đây chỉ là chuyện tầm phào.
Tuy nhiên giờ đây tôi phải lên tiếng bởi v́ tôi thấy h́nh như
có ai đó muốn lợi dụng chuyện Hồ Tập Chương để nhằm vào một mục đích
đen tối khác :
Đó là phong trào tung tin “HCM là Hồ Tập Chương” trở lại,
nhưng không như là sách khảo cứu, mà như là một thứ tin vịt, tin vĩa
hè, tin tầm phào ( Hễ ai tin th́ là có thật, c̣n ai không tin th́ là
chuyện bịa ). Rốt cuộc
chỉ có giới khảo cứu coi là chuyện bịa, c̣n giới b́nh dân th́ tin là
chuyện thật bởi v́ những nhà trí thức khoa bảng im lặng;
c̣n lại nơi nơi đều nói, người người đều nói rằng HCM là Hồ
Tập Chương.
Tuy là tin bịa nhưng vẫn có kết quả là dần dần người ta kêu
tên Hồ Tập Chương thay thế tên HCM;
rồi người ta chưởi Hồ Tập Chương và chưởi người Tàu thay v́
chưởi Hồ Chí Minh hay chưởi ĐCSVN.
Cái lối chưởi người Tàu thay v́ chưởi Trung Cọng khiến cho
người Hoa Đài Loan, người Hoa Pháp Luân Công, người Hoa Tây Tạng,
người Hoa Tân Cương, người Hoa Singapore, người Hoa Hồng Kong, người
Hoa Chợ lớn, người Hoa Indonesia, người Hoa tại Hoa Kỳ và khắp nơi
trên thế giới rất khó chịu.
Họ là những người chống cộng mà bị cố t́nh gom vào một rổ với
Trung Cọng th́ họ không tội ǵ mà không quay ra thù nghịch với những
người chưởi bới họ. Vô
t́nh tự ḿnh “gây thù chuốc oán” một cách vô lối.
Dùng chữ “ba Tàu” để mạ lỵ Trung Cọng th́ chỉ làm cho danh dự
của cộng đồng người Việt Quốc gia bị tổn thương mà thôi.
Ngày xưa người Việt Quốc gia luôn dùng chữ “Tàu Cọng” đê nói
về chính quyền Trung Cọng, nhằm tránh gây tổn thương cho người Hoa
tại TQ hay tại các nơi khác trên thế giới.
C̣n ngày nay trong nước dùng chữ “Tàu chệt”, “Tàu khựa” th́
vô t́nh gom tất cả người Hoa vào một rổ với Tàu Cọng.
Sở dĩ người trong nước không dám gọi là Tàu Cọng bởi v́ nó kỵ
húy đối với chính quyền Việt Cọng.
Ngay cả dư luận viên nằm vùng của CSVN cũng né tránh dùng chữ
Trung Cọng hay Tàu Cọng. Vậy mà giờ đây người Việt chống cộng tại
hải ngoại h́nh như cũng có khuynh hướng muốn bắt chước người trong
nước gọi là Tàu chệt, Tàu khựa.
Gọi như vậy chỉ gây ác cảm với người Hoa chống cộng trên khắp
thế giới và gây mất thiện cảm của các dân tộc khác.
Rốt cuộc tự ḿnh làm cho mất bạn và thêm thù.
Việt Cọng và Trung Cọng sẽ rất vui nếu người Việt chống cộng
trên khắp thế giới tự gây thù chốc oán với người Hoa chống cộng trên
khắp thế giới; điều này
cũng làm mất đi thiện cảm của quốc tế đối với công cuộc chống cộng
của người Việt. Tại sao
không gọi là Trung Cọng hay Tàu Cọng mà cứ bắt chước CSVN một điều
gọi Trung Quốc hai điều thưa Trung Quốc ?
Người Việt chống cộng đâu cần phải “dạ thưa Trung Quốc” ?
MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG. KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu