Tác phẩm văn chương như một sinh thể tinh
thần
Phạm Quang Trung
I.1.1. Từ khi loài người xuất hiện cho đến nay,
dường như, không một sản phẩm tinh thần nào lại được xã hội quan tâm
rộng rãi như văn chương. Có người từ bản chất nhân văn phổ biến của văn
chương để tìm lời giải. Có người lại đi từ bản chất ngôn từ sâu rộng của
văn chương để tìm câu trả lời. Ưu thế của văn chương so với các họat
động tinh thần khác của con người là ở đó. Mà sự phức tạp của văn chương
so với các họat động tinh thần ấy cũng từ đó mà ra. Cần nhấn mạnh tới
mặt sau của vấn đề. Ai cũng quan tâm, nên ai cũng có thể bàn luận về văn
chương, thậm chí ai cũng có thể đưa ra quan niệm văn chương của riêng
mình. Mọi rầy rà khởi nguồn từ đây. Cùng với sự phát triển của tri thức,
sự rầy rà xem ra ngày một tăng. Để rồi, cho tới giờ, từ hữu hạn, quan
niệm về văn chương vốn mang tính ý thức rất cao đang có nguy cơ bị đẩy
dần tới ranh giới của vô hạn. Nghĩa là vô cùng. Nghĩa là càng ngày càng
rời xa, hơn thế, đi tới xóa nhòa mọi tiêu chí. Giờ thì không một ai còn
đủ can đảm liệt kê những quan niệm văn chương đã từng được công bố mà
lại không e sợ rơi vào thiếu hụt. Dầu chỉ là những quan niệm cơ bản
nhất. Dẫu chỉ là những ý kiến do những tên tuổi có thẩm quyền nhất cho
mọi thời đại đã từng phát ngôn.
I.1.2. Từ đó đã thật sự xuất hiện những hiểm họa
văn học mới. Trước đây, văn hào Lỗ Tấn bảo rằng, trên đời vốn không có
đường, người đi mãi thành đường. Giờ lại khác, trên lãnh địa văn học,
người đi lại nhiều quá, đến mức chẳng còn đường nữa. Bởi thế đã xuất
hiện sự hoài nghi nhận thức mới khi nhân lọai bước vào thời kỳ mà các
học giả phương Tây gọi là hậu hiện đại. Nhiều người đã đặt trong ngoặc
đơn các lọai hình tri thức mà họ gọi là truyện và tự sự, nhất là các
siêu truyện và siêu tự sự. Bất tín nhận thức đã trở thành cảm quan chung
chi phối, quán xuyến chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong tình hình đó, không
lấy làm ngạc nhiên nếu như vài thập kỷ trở lại đây trên thế giới xuất
hiện ngày một lan rộng xu hướng phủ nhận mọi ý định đưa ra định nghĩa về
văn chương. Nhiều người, như các học giả Hoa Kỳ, tiêu biểu là Morris
Weitz, William Kennick, Morgart Macdonald … đều nhất loạt lên tiếng chỉ
trích những ai cố công đi tìm khái niệm văn chương. Đơn giản vì, với họ,
là không thể. Họ tỏ ý rất tâm đắc với câu nói của Augustin: “Xét cho
cùng thời gian là gì? Không ai hỏi, tôi còn cảm thấy rõ ràng, nhưng nếu
có người bảo thử giải thích, thì tôi liền cảm thấy mông lung, mơ hồ”(1,
tr. 337). Sự hòai nghi lý luận của họ dựa hẳn vào triết học phân tích
ngôn ngữ của nhà nghiên cứu người Anh L. Wittgenstein (1889 - 1851). Ông
đã đưa ra lý thuyết nổi tiếng cho rằng, mọi diễn ngôn (discourse), về
bản chất, đều chỉ là những trò chơi ngôn ngữ. Như mọi trò chơi khác,
theo ông, diễn ngôn nào cũng tùy thuộc vào cách chơi. Mà cách chơi lại
do luật chơi được quy ước trong từng trường hợp cụ thể chi phối. Không
có luật chơi chung cho mọi trò chơi, cho mọi diễn ngôn. Rõ ràng, ông
hướng trọng tâm chú ý vào hiệu quả thực tế, hiệu quả cụ thể của từng
diễn ngôn. Đã thế thì mọi hình thái phát ngôn trừu tượng sẽ không còn cơ
sở tồn tại. Mọi khái niệm, do vậy, cũng mất hết ý nghĩa.
II.1.1. Cho dầu như vậy, nhân loại từ ngàn năm
nay, và có lẽ ngàn năm sau nữa, vẫn không thôi khắc khoải trước một câu
hỏi: rốt cục văn chương là gì? Trên Báo Văn nghệ số 31 / 2006 mới đây,
một nhà văn phải nói là khá thành đạt, hai lần trong một bài báo ngắn,
thảng thốt một cách thành thật bởi chính câu hỏi ấy, để rồi phải tự thú
nhận là “không thể tự trả lời”. Cũng nên xem đó là cách trả lời của một
nhà văn. Riêng những người chuyên nghiên cứu văn chương thì không thể
không tự trả lời. Bằng một hệ thống chứng lý rõ ràng. Bởi lẽ, làm sao có
thể tìm hiểu, phân tích, đánh giá văn chương mà lại không có một quan
niệm cho thật rành rọt và xác định về đối tượng hành động của mình? Sẽ
hòan tòan lạc lối, mất phương hướng – ai cũng đều biết như vậy! Chỉ còn
mỗi một việc là phải bằng mọi cách xác lập quan niệm văn chương cho bản
thân. Trước quá nhiều quan niệm văn chương hiện tồn, tính chủ động của
nhà nghiên cứu phải rất cao. Vì ai cũng muốn có một quan niệm đáng tin
cậy nhất, theo nghĩa là đúng đắn và phù hợp hơn cả với bản chất đích
thực của văn chương chân chính xưa nay. Buộc phải có cách ứng xử khoa
học và hữu hiệu đối với những quan niệm văn chương đã có. Xem ra quan
niệm nào cũng có những cơ sở tồn tại riêng, có sức cuốn hút riêng đến
mức gần như không thể không cần trau dồi và vận dụng. Kinh nghiệm cho
hay, không nên quá đề cao đến mức độc tôn một quan niệm, một phương pháp
nào cả. Cần soi tỏ văn chương từ nhiều góc nhìn, bằng nhiều cách xem
xét. Chúng bổ sung cho nhau, giúp ta dần dà có một hình dung tương đối
đầy đủ về văn chương vốn là một đối tượng sống động, xa lạ với mọi sự áp
đặt và mọi định kiến khác nhau trên đời.
Riêng những người chuyên tâm làm lý luận thì lại
có một chức phận khác, cần xem là đòi hỏi mang tính đặc thù. Đó là phải
có một hệ thống quan niệm văn chương riêng cho mình. Không nhất thiết
phải hòan tòan khác lạ - thật khó có sự khác lạ như vậy, nhưng phải
riêng – riêng trong hệ thống, riêng trong cách tiếp cận, để đi tới cái
riêng trong niềm tin khoa học. Trên cơ sở cái riêng của cá nhân, nhà lý
luận có điều kiện tiếp nhận, thâu thái cái đa dạng, khác biệt và độc đáo
của người khác. Có thể coi đây chính là lẽ tồn tại của nhà lý luận với
tư cách là một nhân cách khoa học. Chưa tạo lập được cái riêng này chưa
thể được gọi là nhà lý luận theo đúng nghĩa của nó. Trong bài viết này,
tôi xin tập trung trình bầy quan niệm tác phẩm văn chương như một sinh
thể tinh thần, rất mong nhận được sự chia sẻ của bạn đọc xa gần. Đây là
vấn đề rộng, lớn. Và khó, tất nhiên. Do vậy, tôi chỉ xin được trình bầy
suy nghĩ bước đầu trên những nét đại lược nhất.
II.1.2. Trước nay, quan niệm văn chương thật đa
dạng, nhưng nếu nhìn từ các yếu tố tạo nên đời sống văn chương thì có
thể quy vào 5 hướng quan niệm chính sau: 1. Xu hướng xã hội (như quan
niệm của R. Stone: “Văn chương là sự thật được hiển lộ và được nhận diện
” ); 2. Xu hướng tâm lý (như quan niệm của G. Santayana: “Văn chương là
bản năng sáng tạo khi ý thức được mục đích của bản thân”); 3. Xu hướng ý
thức (như quan niệm của Nguyễn Đăng Mạnh: “Văn chương là một hình thái
tư tưởng nghệ thuật bằng ngôn ngữ của con người”; 4. Xu hướng tiếp nhận
(như quan niệm: “Tác phẩm văn chương là một quá trình”); 5. Xu hướng bản
thể (như quan niệm S. Langer: “Văn chương là sự sáng tạo hình thức ký
hiệu tình cảm nhân lọai”). Bốn hướng đầu có thể xem là cách nhìn ngọai
quan. Duy hướng sau cùng xuất phát từ cái nhìn nội quan. Nhiều trào lưu,
trường phái lý luận, phê bình văn chương chủ chốt xuất hiện và ảnh hưởng
sâu rộng trong thế kỷ XX
như Hình thức luận Nga, Phê bình Mới Anh – Mỹ, Ký hiệu học nghệ thuật,
Cấu trúc luận … thuộc xu hướng này. Trong việc xác định bản thể văn
chương, rõ ràng, cách nhìn nội quan tỏ ra có ưu thế hơn hẳn. Tất nhiên,
ở đây, mỗi trào lưu, mỗi trường phái có những sắc thái khác nhau mặc dầu
cùng coi tác phẩm (đúng hơn là văn bản) văn chương là chủ âm (xin mượn
từ dùng của R. Jacobson).
Cũng có thể dựa vào mối quan hệ giữa văn chương
với các hình thái ý thức xã hội khác trong định hướng nghiên cứu của nhà
lý luận để phân chia các quan niệm trước nay. Đại để có 3 hướng cơ bản
sau: 1. Xu hướng khoa học nghiêng về nhận thức luận, coi
lý luận là khoa học về văn chương ; 3. Xu hướng triết học nghiêng
về ý thức luận, coi lý luận là triết học về văn chương; 3. Xu hướng nghệ
thuật nghiêng về bản thể luận, coi lý luận là cốt tủy của văn chương.
Theo tôi, hai xu hướng sau, nhất là xu hướng nghệ thuật có nhiều triển
vọng hơn cả trong việc đi sâu vào đặc trưng của văn chương, bởi hai lẽ
sau:
- Một là, hướng tiếp cận này tỏ ra thích hợp với
đối tượng của lý luận là văn chương hơn. Như nhiều người đã nói, tác
phẩm văn chương là một loại sản phẩm rất đặc thù, không chỉ hòan tòan
khác biệt với các lọai sản phẩm vật chất, mà còn khác biệt với mọi sản
phẩm tinh thần của con người và xã hội. Rất thú vị là ngay từ đầu thế kỷ
XIX, điều này đã được học giả Phan Huy Chú phát hiện ra trong khi phân
biệt hai khả năng trước thuật và ca vịnh tập trung trong con người bách
khoa Lê Quý Đôn. Trong bài Đề tựa Quế Đường thi tập, ông nhận xét tinh
tế : “Việc trước thuật của Lê công như sông dài bể rộng, đầy tràn, tít
tắp, không nơi nào không đến, thế mà sự kỳ diệu của những lời ngâm vịnh
của ông lại cũng như chim (ríu rít) mùa xuân, hoa (tươi nở)đúng kỳ”(2,
tr. 101). Không gì thỏa đáng hơn từ kỳ diệu để nói về văn chương, Cũng
không gì thích hợp hơn khi so sánh văn chương với tiếng chim, với sắc
hoa, nghĩa là với những sinh thể sống động nhất. Hẳn nhiên, lý luận văn
chương muốn thật sự là“cái danh để gọi cái thực”(Công Tôn Long tử) thì
buộc phải mang những nét đặc thù. Chẳng phải vô cớ mà ngay từ năm 1894,
trong Lời nói đầu cuốn Lịch sử văn học Pháp, nhà nghiên cứu nổi tiếng G.
Lanson đã nhất mực khẳng định: “Cả đối tượng, cả phương tiện nhận thức,
văn học đều không phải là khoa học hiểu theo đúng nghĩa của từ này”(4,
tr. 72).
- Hai là, nếu ta thừa nhận có tiến bộ trong văn
chương, thì hướng tiếp cận nghệ thuật giúp ta có thể dễ dàng nhận ra sự
vận động, tiến triển của bản thân văn chương hơn các cách tiếp cận khác.
Vì chỉ với cách xem xét này, quan niệm mới đích thực được xem là ý thức
của văn chương. Quan niệm tựa như cái tôi của một chủ thể. Chỉ một khi
văn chương ý thức được chính mình trong quan hệ với những lĩnh vực khác
nhau của xã hội mới nảy sinh cái tôi, nghĩa là mới hình thành được quan
niệm tồn tại dưới dạng thông thường hoặc dạng lý luận. Dưới hình thái lý
luận, cố nhiên, tự giác và triệt để hơn nhiều. Để rõ hơn, ta có thể so
sánh hai khái niệm thân xác và tính dục. Không nên đồng nhất chúng với
nhau. Tính dục không phải là một nhân tố tự nhiên mà mang tính lịch sử
rõ rệt. Điều này đã được M. Foucaulk biện giải đầy sức thuyết phục trong
cuốn Lịch sử tính dục (1976). Ông dựa vào thực tế xưng tội – thú tội của
những người theo đạo mà bản thân hiểu biết khá kỹ, và cho rằng, trong
thời Trung đại, người ta chỉ kể về lỗi lầm của hành vi gắn với thân xác
của con người, Tuy nhiên, bắt đầu từ thời Cải cách và Phản cải cách thì
“diễn ngôn xưng tội” mới có hình thức mới: trước linh mục, các con chiên
không chỉ kể về hành vi đã phạm, mà còn thú nhận cả ý nghĩ nảy sinh
trước, trong và sau hành vi đó nữa. Và ý thức về tính dục từ đó mới dần
dà được hình thành, góp phần nâng cao tính chủ thể toàn diện của cá nhân
con người (3, tr. 60 - 61).
II.1.3. Nhiều nhà lý luận đã đưa ra những quan
niệm văn chương theo hướng bản thể -
nghệ thuật, đóng góp những cái nhìn sát đúng, mang hơi thở hiện
đại, làm phong phú thêm tư tưởng văn chương, mở rộng thêm cách thức tiếp
cận văn chương, tăng hiệu quả của mọi họat động, nhất là sáng tác và phê
bình văn chương. Đóng góp của họ là lớn, rõ, và quý. Càng đáng trân
trọng đối với công cuộc Đổi mới văn chương và văn học ở nước ta diễn ra
từ 20 năm nay, khi mà tinh thần hội nhập, đa dạng hóa, đa phương hóa,
trên nền tảng thực tiễn, lý luận dân tộc đang đặt ra nhiều vấn đề vừa
cấp thiết vừa lâu dài, buộc chúng ta phải nhanh chóng có lời giải thỏa
đáng và phù hợp nhất. Tuy nhiên, cần thấy giới hạn của mọi lối nhìn và
cách tiếp cận. Thái độ tôn sùng một lọai quan niệm văn chương nào đó
không chỉ tỏ ra lỗi thời, mà còn trở nên nực cười trong con mắt của
những người am hiểu. Chẳng phải ở ngay trên quê hương của những quan
niệm đó đã từng xuất hiện không ít lời phàn nàn, chê trách lắm khi gay
gắt đó sao! Chẳng phải nhiều khi các chủ nhân của chúng cũng đã thẳng
thừng tuyên bố rời bỏ hoặc thực chất đã vượt qua quan niệm một thời của
chính họ đó sao! Xin nêu một trường hợp điển hình: R. Barthes. Ông là
nhà cấu trúc luận, rồi hậu cấu trúc luận người Pháp danh tiếng. Đóng góp
của ông cho tư duy văn học của nhân lọai trong thế kỷ XX vừa khép lại là
không thể phủ nhận được. Thế nhưng, nhiều đồng hương giàu tâm huyết và
có hiểu biết của ông lại không ngớt lên tiếng phê phán ông. Óai oăm
thay, thái độ khoa học của họ về cơ bản lại hòan tòan có cơ sở. J.
Brenner cho rằng: “Barthes (và một vài tên tuổi khác) lôi cuốn vào các
buổi giảng và diễn thuyết của họ rất nhiều sinh viên để làm cho họ lạc
đường”. Còn Le Clézio, một nhà văn hiện đang rất được hâm mộ tại Pháp
thì lại viết về những năm tháng thống trị của chủ nghĩa cấu trúc thế
này: “Người ta đã tưởng văn học sắp chết. Đó là thời kỳ sấy khô”. Còn
thái độ của R. Barthes thì ra sao? Vào những năm cuối đời, khi viết hồi
ký, chính ông cũng cảm thấy mình có thời đã lầm lạc, rồi lên tiếng phàn
nàn là các học trò của ông khiến ngay bản thân ông cũng không thể nào
đọc cho nổi (Xem Văn học Nước ngòai, Số 4 / 1997).
II.1.4. Từ đó, chúng ta buộc lòng phải suy nghĩ
thật kỹ càng trước khi có ý định cổ xúy hoặc đưa ra một lọai quan niệm
văn chương nào đó là vì thế. Tuy nhiên, cũng khó mà hòan tòan tuân theo
cách thức của Giáo sư Phan Ngọc. Bằng thao tác luận quen thuộc của mình,
một lần Giáo sư đòi hỏi một định nghĩa thơ phải: “1. Có giá trị phổ quát
…;2. Mang tính hình thức, giúp người ta nhận diện được ngay thơ để làm
thơ, đọc thơ, giảng thơ có kết quả” (Xem Tạp chí Văn học, số 1 / 1991).
Yêu cầu đầu thì phải nhẽ. Vì, nói gì thì nói, đó là một đòi hỏi mang
tính bắt buộc đối với mọi khái niệm, phạm trù khoa học. Yêu cầu sau thì
không thể. Bởi, không một định nghĩa nào làm được như thế cả. Mà cũng
không nên theo. Bởi, một định nghĩa thơ, hay văn chương nói chung, mang
tính hình thức tương tự sẽ khó tránh khỏi sơ giản, máy móc. Có lẽ ý kiến
của Giáo sư Lê Chí Dũng đáng để nhiều người tham khảo hơn. Một lần, ông
bảo, chẳng quan niệm văn chương nào tránh khỏi phiến diện cả. Muốn hạn
chế sự phiến diện chỉ có cách nương theo quy luật của sinh học (ý ông
muốn nói đến tính tự nhiên của vạn vật).Ta có thể chia sẻ với Giáo sư.
Đâu như nhà thơ yểu mệnh Lãng Thanh có một bài thơ mang cái tên đầy ý
nghĩa - “Thiên nhiên là người thầy vĩ đại của tôi”. Vậy nên, cái cần
tránh nhất là sự khô cứng của lý luận. Tôi nghĩ tới những ý thơ thật
thấm thía của Nguyễn Duy. Không mấy người có nhiều vần thơ chế nhạo
những cái nhợt nhạt, thô thiển, chết chóc, thiếu sức sống sâu sắc như
anh. “Người đâu tơ lụa xênh xang / Chạm tay da thịt mọc tòan cỏ
may”(Lụa) - Không nên trở thành một nhà lý luận như thế! “Lụa chi mà nõn
mà nà / Thò tay lành lạnh yêu ma quỷ thần” (Bạch) – Cũng không nên viết
một công trình lý luận như vậy!
III. Từ những điều vừa phân tích, tôi muốn tin
theo quan niệm:“Tác phẩm văn chương là một sinh thể tinh thần của con
người và xã hội”.
III.1. Người ta có thể từ nhiều điểm xuất phát
khác nhau để tạo lập hệ thống lý thuyết. Phổ biến ở ta là từ triết học
và mỹ học. Ưu thế của điểm tựa này rất dễ thấy: lý luận tìm ngay được
tính phổ quát – một yêu cầu cơ bản trước tiên của bất cứ một hệ thống lý
thuyết khoa học nào. Mặt hạn chế cũng dễ bộc lộ: lý luận dễ rơi vào xám
ngắt – cái điều mà bất cứ nhà lý luận nào cũng muốn tránh. Nên theo
khuynh hướng chiết trung: vừa coi trọng nền tảng triết – mỹ, vừa chú ý
thích đáng tới thực tiễn văn chương, đặc biệt là các ý kiến phát biểu về
nghề của các nhà văn. Chẳng hạn, nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải
về“những trang viết đẹp”còn lại mãi với cuộc đời, khi chúng khiến ta
“luôn luôn chan chứa lòng thương yêu, sự đồng cảm”, khi ở chúng “sự sống
hiện lên rực rỡ, tươi tắn, chói lòa nhiều màu sắc”(Tạp chí Văn học, Số
11 / 2002). Rồi ý nghĩ của
nhà văn Cuba A. Carpentier về quá trình sáng tạo: “Tất cả những điều tôi
viết là sự dựng lại những sự kiện từng xảy ra, từng được quan sát, được
nhớ lại và tập hợp lại, sau đó biến chúng thành một cơ thể hòan chỉnh,
một cơ thể sống”(Tạp chí Văn học, Số 2 / 1977). Tôi đặc biệt quan tâm
tới cụm từ một cơ thể sống, diễn tả rất chuẩn xác kết quả lao động sáng
tạo linh diệu của nhà văn. Nếu vậy thì cần lưu tâm tới sự thừa nhận của
nhà văn M. Proust về vai
trò to lớn của vô thức trong quá trình sáng tạo: “Càng ngày tôi càng ít
coi trọng trí tuệ … Chỉ khi không dùng tới trí tuệ, nhà văn mới có thể
nắm bắt phần nào cảm xúc của mình, có nghĩa là một phần của cái tôi và
chất liệu duy nhất của nghệ thuật. (4, tr.77). Xem trọng ý kiến phát
biểu trong những tình huống khác nhau của các nhà văn, nhất là những tác
gia cổ điển, không có nghĩa là một mực tin theo họ. Cái chính là giúp
các nhà lý luận thêm hiểu họ, tăng sự cảm thông với tư chất do nghề văn
tự nhiên tạo ra trong họ. Nếu thiếu những điều này sẽ không hy vọng tạo
lập nên một thứ lý luận dồi dào sự sống và sức sống văn chương như mong
mỏi da diết bấy lâu của chúng ta.
Cố nhiên, chúng ta cũng không được rời bỏ hệ
thống triết - mỹ khi xây dựng lý thuyết văn chương. Chỉ có điều, bấy lâu
nay, nhiều người có khuynh hướng đề cao triết – mỹ phương
Tây, giờ thì nên bổ sung thêm triết – mỹ phương Đông, gồm ít nhất
là Trung Hoa và Ấn Độ. Nên nhớ, người phương Tây càng ngày càng bị cuốn
hút bởi minh triết ảo nghĩa Á Đông. Không có cớ gì mà ta lại xem thường.
Đặc biệt lưu tâm là những trào lưu mà trước đây, do nhiều nguyên do lịch
sử đặc biệt, không ít người xem nhẹ, thậm chí bỏ qua. Tư tưởng Lão gia,
Phật giáo là những ví dụ điển hình. Chủ trương “thần vận” của Tư Không
Đồ, “diệu ngộ”của Nghiêm Vũ đã đành là có xu hướng huyền bí, nhưng chẳng
lẽ lại không giúp ta tránh bị sa vào giản đơn tới mức thô thiển khi tiếp
nhận thực thể văn chương? Từ đó, chúng ta cũng sẽ đỡ khe khắt hơn trong
nhìn nhận, đánh giá để đi tới tiếp thu nhiều điểm khả thủ trong quan
niệm nghệ thuật của Nhóm Xuân Thu nhã tập trước Cách mạng. Rồi Bản tuyên
ngôn tượng trưng của Nhóm Dạ Đài ngay sau Cách mạng nữa. Ví như, yêu cầu
cảm thụ thơ sau của họ: “Chúng ta không được dùng lý trí, không được
dùng cảm tính, có nghĩa là không được chỉ dùng một quan năng tách bạch
của chúng ta – dù là quan năng nào đi nữa. Hãy đem tất cả linh hồn, hãy
mở tất cả cửa ngách của tâm tư mà lý hội”.
Ta cũng cần nhấn mạnh tới cơ sở tạo dựng lý luận
văn chương từ những thành tựu mới mẻ của khoa học hiện đại, nhất là tóan
học, vật lý học, tâm - sinh lý học … Ở đây, có thể chia sẻ với nhà thơ
Lê Đạt. Khi đi tìm mối liên hệ giữa “thơ và vật lý hiện đại”, ông cả
quyết rằng: “Những nguyên lý bất định, nguyên lý bổ sung của vật lý
lượng tử đã giải phóng nhân lọai khỏi lý thuyết nhân quả tất định cứng
nhắc…góp phần thiết kế cho nhân lọai một phạm trù mở, cái khác …mở ra kỷ
nguyên đối thọai” (Xem Văn nghệ, Số 30 / 2006).
Tôi chỉ xin đề cập tới lĩnh vực tóan học, cụ thể là quan niệm
fractal. Đó là một dạng hình học mới do nhà tóan học Mỹ gốc Do Thái B.
Mandelbrot sáng tạo ra vào năm 1975. Fractal là gì? Có thể hình dung cấu
trúc này qua một ví dụ tiêu biểu. Lấy một tam giác đều có cạnh là đơn vị
độ dài. Chu vi của nó sẽ là 3. Nếu giữa các cạnh, ta dựng tiếp 3 tam
giác đều nhỏ, có cạnh là 1/3. Chu vi vi hình thu được sẽ là: 3 x 4/3.
Tiếp tục quá trình đó mãi, ta sẽ thu một hình giống bông tuyết với chu
vi 3 x 4/3 x 4/3 … Điều kỳ diệu là diện tích bông tuyết có chu vi vô hạn
đó lại rất hữu hạn, vì nó không thể vượt quá tam giác ban đầu. Sở dĩ có
dạng hình học mới này vì các loại hình học phẳng Euclide, hay hình học
cong Riemann không thể mô tả chính xác được các cấu trúc xù xì, gồ ghề,
phức tạp, không đều. Mà trong thực tế thì đầy rẫy những cấu trúc loại
này. Hình học fractal biểu lộ một dạng cấu trúc có tổ chức ẩn chìm trong
những loại hình phi tổ chức. Đó là thứ trật tự trong hỗn lọan, rất tương
thích với cấu trúc của sự sống, trong đó có văn chương. Nhưng tại sao
fractal lại là hình học của tự nhiên? Nhà nghiên cứu Đỗ Kiên Cường giải
thích: “Tôi cho rằng căn nguyên có lẽ khá đơn giản. Tự nhiên luôn họat
động một cách giản dị, tiết kiệm và hiệu quả. Cách thức càng giản dị
càng tốt. Chi phí thì tối thiểu mà kết quả phải tối đa. Fractal chính là
một cách để đạt được các mục tiêu dường như mâu thuẫn đó một cách đồng
thời”. Bằng cách nào? Ông luận giải tiếp: “Hình học fractal dựa trên một
quy cách không thể đơn giả hơn, đó là tự đồng dạng Nó tiết kiệm và hiệu
quả, khi có thể thu được cái vô hạn từ cái hữu hạn, như bông tuyết …(Xem
Văn nghệ, Số 17 – 18 / 2003). Tôi cho rằng cấu trúc fractal khá tương
hợp với cấu trúc của một tác
phẩm văn chương vốn là một thực thể tinh thần
đồng dạng với chính sự sống muôn màu muôn vẻ của tự
nhiên.
III.2. Từ những cơ sở nêu trên, thấu triệt cách
nhìn bản thể - nghệ thuật, ta nên xem văn học là một ngành khoa học nhân
văn thuần túy . Vì đối tượng của văn học là văn chương. Mà văn chương
thì như bất cứ hình thái nghệ thuật nào khác“khi tính người đã mất thì
nghệ thuật cũng không còn nữa” (B. Brecht – 5, tr. 107). Đã vậy thì có
thể từ đặc tính cơ bản của con người để xác định tính chất chủ yếu của
tác phẩm văn chương, như: tính hữu cơ, tính độc đáo, tính cụ thể, tính
vận động, tính gợi cảm, tính giới hạn …Nói khác đi, ở đây, ta xem tác
phẩm như một thực thể sống, có điều, đây là một dạng sinh thể tinh thần
linh diệu vào bậc nhất của con người và xã hội . Giáo sư Hồ Ngọc Đại tại
cuộc Hội thảo về dạy văn tổ chức ở thị xã Hòa Bình vào ngày 23 / 11 /
1987 đã gọi văn chương là “cái - con - văn”. Ông còn ví văn chương với
“một người con gái xinh đẹp”(Xem Tạp chí Cửa Việt, Số 1 /1990). Ta không
nghĩ là ông chỉ nói chơi chơi cho vui. Rất nhiều sự thật ẩn trong câu
nói ấy. Chẳng phải Nhóm Xuân Thu nhã tập trước ông đã từng so sánh thơ
với giai nhân là gì! Sự thật này được nhiều nhà văn thuộc các chân trời
và các thời đại khác nhau thừa nhận. Nhà thơ Pháp S. Mallarme coi thơ là
sự sống của ngôn từ (6, tr. 211). Nhà văn Nga V. Oveskin yêu cầu người
sáng tác phải “đem được vào tác phẩm của mình hơi thở của cuộc sống thực
sự (4, tr. 230). Nhà văn Đan mạch P. Tafdrup lại đòi hỏi: “Mỗi từ (trong
thi ca) dang cánh chim bay” (Tạp chí Thơ, Số 2 / 2006, tr. 75). Nhà thơ
Hy Lạp Y. Ritsos chê trách một số nhà văn đã “không biết sử dụng hơi thở
của ngôn ngữ”( Văn học Nước ngòai, Số 2 / 1997, tr. 137) ... Nhiều nhà
mỹ học nổi danh trên thế giới cũng lớn tiếng chia tay với thứ
lý thuyết khô cứng bằng những đòi hỏi tương tự. Nhà ký hiệu học
văn hóa E. Cassirer cho rằng, mặc dù nhà thơ không thể sáng tạo ra thứ
ngôn ngữ hoàn toàn mới mẻ, “nhưng nhà thơ đã thêm vào tất cả cái vốn có
không những chỉ một sắc thái mới, mà còn thêm vào một sức sống mới” (Bàn
về con người -1, tr.439). Đặc biệt, nhà ký hiệu học nghệ thuật S. Langer
còn nói đến tính đồng cấu và tính đối ứng của ký hiệu nghệ thuật với
hình thức của sự sống. Bà viết: “Nếu muốn làm cho một ký hiệu được sáng
tạo ra có thể khơi gợi được mỹ cảm mọi người, thì nó phải được triển
khai dưới hình thức của tình cảm, tức là nó phải xuất hiện với tư cách
một ký hiệu hoặc hình ảnh thu gọn của họat động sự sống, phải tự trở
thành một loại hình thức logic tương tự với hình thức cơ bản của sự
sống” (1, tr. 460). Bà còn chỉ ra sự gặp gỡ giữa tác phẩm nghệ thuật và
sự sống ở các tính chất hữu cơ, vận động, nhịp điệu, và sinh trưởng. Tác
phẩm nghệ thuật như vậy được sáng tạo ra, chứ không phải do chế tạo mà
thành (1, tr. 461).
III.3. Quan niệm bản chất của tác phẩm như một
thực thể tinh thần sẽ chi phối tới cách nhìn nhận lao động sáng tạo của
nhà văn. Liên quan tới vấn đề này, thiết tưởng cần lưu ý tới bài thơ
được nhà văn gốc Czech M. Kundera rất ưa thích: Các nhà thơ không sáng
chế ra các bài thơ / Bài thơ nằm đâu đó phía sau kia / Lâu lắm rồi nó
vẫn ở đó / Nhà thơ chỉ có việc khám phá ra nó (Văn học Nước ngòai, Số 4
/ 2006, tr. 171). Chắc ông không có ý định phủ nhận tinh thần sáng tạo
đích thực của người nghệ sỹ. Có lẽ, ông chỉ muốn đề cao tính độc lập
tương đối của tác phẩm – con đẻ tinh thần của nhà văn với chính người đã
cho nó sự sống. Dễ liên tưởng đến bài“Cho một ngày sinh”của Đòan Thị
Tảo. Bài thơ sinh ra như đứa trẻ ra đời là hiện tượng giao hòa kỳ diệu
của Đất và Trời, đâu có giản đơn,
thường tình như nhiều người nghĩ.“Ngày chị sinh trời cho làm thơ
/ Cho nết buồn vui bốn mùa trăn trở / Cho làm một câu hát cổ / Để người
lý lơi”. Thì ra, cụm từ quen thuộc thai nghén tác phẩm nhằm để chỉ quá
trình ấp ủ dự đồ sáng tạo của nhà văn tồn tại từ bao đời nay lại hàm
chứa một sự thật sâu xa mà cũng rất hiển nhiên.
Nhà văn viết ra một tác phẩm thực ra là sinh hạ
một sinh thể. Mà đã là sinh thể thì thật linh diệu - phức tạp khôn cùng
mà biến hóa cũng khôn lường. Muốn vậy, nhà văn phải chiếm lĩnh, rồi đi
tới đồng hóa đời sống. Trong nghệ thuật, hiểu thôi là chưa đủ, hiểu phải
đi cùng với cảm. Hơn thế cảm, hiểu phải đi cùng với tin.
Cao hơn, hiểu, cảm, tin phải chuyển thành hành động. Đúng như
chúng ta thường đòi hỏi, nhà văn không chỉ quan sát mà còn phải chiêm
nghiệm, không chỉ nhìn ngắm, lắng nghe mà còn phải tham gia, hơn
thế, phải chủ động can thiệp vào đời sống. H. Miller trong “Thời của
những kẻ giết người” có những nhận xét rất xác thực về Rimbaud: “ Đây là
một người cắt đứt với bằng hữu và thân quyến vào lúc tuổi còn xanh để
cảm nghiệm cuộc đời trong sự tròn đầy của nó …”. Rồi: “Chàng bị xâu xé
từ đầu tới chân trong tất cả mọi lãnh vực của con người chàng”(7, tr. 54
- 55). Chỉ khi ấy, nhà văn mới có được chất liệu sáng tạo, từ đó mới
mong truyền linh hồn làm
nên sức sống cho tác phẩm.
Vậy nên, trong lĩnh vực sáng tác văn chương,
không nên chỉ dừng lại ở yêu cầu nắm bắt chân lý. Ngay cả cầu tìm chân
lý, với nhà văn, xem ra cũng chưa đủ. Đúng hơn, có lẽ là cầu tìm sự thật
ở đời. Khi đó, nói như người Ấn Độ xưa, nhà văn mới mong thâu nhận được
chân tri, để có được sự giải thóat trong tự do vô cùng tận của sáng tạo.
Đúng như Kinh Thánh dạy: “Chân lý sẽ giải thóat cho ngươi”. Theo ý nghĩa
này, nhà văn đích thực, ở một mức độ nào đó, cần có phẩm chất của người
hiền, nếu không muốn nói là của bậc thánh. Tài và tâm ở họ không bao giờ
tách rời. Họ không thể nghĩ một đằng mà nói và làm một nẻo. Nhất quán
đến cùng. Chân thật đến cùng. Không còn tồn tại ranh giới giữa người
sáng tạo và thành phẩm sáng tạo. Dẫu là mong manh nhất. Sức sống và sức
mạnh thật sự của sáng tạo nghệ thuật đích thực có lẽ là nằm ở chỗ đó.
TÀI LIỆU CHÚ THÍCH
1. Phương Lựu -
Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Văn học, 2001.
2. Viện Văn học - Tạp chí Văn học, Số 2 / 1977.
3. Nhiều tác giả - Văn học hậu hiện đại thế
giới–Những vấn đề lý thuyết, Nxb Hội Nhà văn, 2003.
4. Viện Văn học
- Phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Văn học, 1995.
5. Nhiều tác giả
- Nhà văn bàn về nghề văn,
Hội VHNT Quảng Nam - Đà Nẵng, 1983.
6. Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn học, Nxb
Khoa học Xã hội, 1993.
7. H. Miller - Thời của kẻ giết người, Hồng Hà
xuất bản, 1971.
Phạm Quang Trung