Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Khủng Hoảng Miền Trung

từ ngày 9/3/1966

 

*****

Phạm Bá Hoa

 

 

Đầu tháng 3 năm 1966, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ -Thủ Tướng- và Trung Tướng Cao Văn Viên -Tổng Tham Mưu Trưởng- ra Đà Nẳng duyệt lại t́nh h́nh Quân Đoàn I. Sau chuyến đi, bà Viên nói với tôi đại ư rằng:

 

“Nói là duyệt lại t́nh h́nh chớ thật ra là t́m cách giải quyết những bất đồng giữa Thiếu Tướng Kỳ với Trung Tướng Thi về một số vấn đề, nhưng cuối cùng vẫn không giải quyết được ǵ hết. Trước khi lên phi cơ rời Đà Nẳng trở về Sài G̣n, Trung Tướng Thi đến bắt tay rồi ṿng tay ôm Trung Tướng Viên, mà không hề nói ǵ với Thiếu Tướng Kỳ, làm như chỉ có Trung Tướng Viên trong chuyến đi này. Thiếu Tướng Kỳ là người dễ nóng giận, nhưng lúc bấy giờ ông im lặng, đứng nh́n, xem như không nghe, không thấy Trung Tướng Thi”.

 

Một số vấn đề mà bà Viên nói đến, báo chí tại Sài G̣n cũng đă nói đến, và trong một chừng mực nào đó, được xem là Trung Tướng Thi chống đối Chánh Phủ.

 

Với thái độ im lặng của Thiếu Tướng Kỳ tại phi trường Đà Nẳng, không có nghĩa là ông chịu thua Trung Tướng Thi đâu! Và đây là hành động thể hiện thái độ đó của Thiếu Tướng Kỳ. . .

 

Cách chức Trung Tướng Thi.

Ngày 08 năm tháng 03 năm 1966, buổi họp thu hẹp của Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia gồm Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Trung Tướng Cao Văn Viên, và Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi. Buổi họp có mục đích giải quyết trực tiếp vụ Trung Tướng Thi đă nhiều lần tỏ ra chống lại lệnh của trung ương.

Tôi nói thu hẹp, v́ Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia đầy đủ gồm 11 vị, nhưng buổi họp hôm nay chỉ có 4 vị thuộc trung ương nhưng lại không có vị Tổng Thư Kư, mà lại có vị Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Đại Biểu Chánh Phủ Miền Trung. Có thể nói đây là buổi họp thu hẹp đặc biệt.

Địa điểm họp là văn pḥng cũ dành cho vị Tổng Tham Mưu Trưởng, hiện đang trống. Trung Tướng Viên dặn tôi trước khi ông vào pḥng họp:  

 

“Đây là họp tối mật, chỉ khi nào cần th́ tôi gọi chú. Bất cứ ai khác đều không được vào”. 

“Vâng, tôi hiểu”.

 

Đúng là tôi hiểu mục đích của buổi họp, v́ chiều hôm qua, Trung Tướng Viên có nói với tôi tuy là không nói rơ. Đến 1 giờ trưa, Trung Tướng Viên bước ra với nét mặt đầy ưu tư:

 

“Chú lo ăn trưa ngay và mang vào ăn tại chỗ”.

“Sớm lắm cũng phải 40 phút, v́ phải xuống nhà hàng Thanh Thế thưa Trung Tướng”.

“Th́ xong lúc nào mang vào lúc ấy”.

“Vâng”.

 

Tôi nhờ Đại Úy Có xuống nhà hàng Thanh Thế (gần chợ Sài G̣n) mua ngay 15 phần ăn trưa đựng trong hộp, chỉ có vậy mới nhanh thôi. Tuy có 5 vị họp nhưng tôi phải mua 15 phần, v́ mỗi vị Tướng đều có sĩ quan tùy viên và cận vệ đi theo.

Khi mang thức ăn vào, tôi trông thấy không một vị nào có nét mặt cũng như dáng vẻ b́nh thường hay vui tươi như những buổi họp quan trọng trước đó, điều này cho phép tôi suy đoán là vấn đề cần giải quyết, chẳng những chưa đạt được mà trái lại có thể càng trở nên rắc rối hơn.

Từ lúc bắt đầu họp cho đến lúc chấm dứt khi trời tối hẳn, không một vị nào bước ra ngoài, ngoại trừ trường hợp Trung Tướng Viên bảo tôi lo ăn trưa. Với nét mặt đăm chiêu qua những nếp nhăn trên vầng trán của các vị, tôi đoán là cả ngày họp chẳng đạt được kết quả nào. Riêng Trung Tướng Thi có vẻ như tức giận th́ phải.

Trước khi ra về, Trung Tướng Viên hỏi tôi về công tác chuẩn bị cho ông thăm Sư Đoàn 2 Bộ Binh tại Quảng Ngăi và Sư Đoàn 23 Bộ Binh tại Ban Mê Thuột vào ngày mai 9  tháng 3 năm 1966.

 

“Thưa Trung Tướng, mọi việc tôi đă chuẩn bị xong”.

 

Chuyện thế này. Buổi sáng, ngay khi đến văn pḥng, ông gọi tôi:

 

“Ngày mai, chú tổ chức cho tôi ra Quảng Ngăi gắn huy chương cho Sư Đoàn 2. Sau đó lên Ban Mê Thuột gắn huy chương cho Sư Đoàn 23. Cơm trưa tại đây. Lúc 1 giờ trưa, rời Ban Mê Thuột về Sài G̣n. Có ǵ trở ngại chú tŕnh tôi ngay”.                        

“Có cần sĩ quan Tổng Quản Trị tháp tùng không, thưa Trung Tướng?

“Không cần. Chú giao cho chú Có là được”.

 

Chương tŕnh của Trung Tướng Viên, tôi đă liên lạc với Không Quân cung cấp phi cơ, cất cánh lúc 7 giờ sáng tại băi đậu VIP, theo không tŕnh Sài G̣n-Quảng Ngăi-Ban Mê Thuột-Sài G̣n. Cũng đă thu xếp chương tŕnh với Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 23 Bộ Binh xong lúc sáng. Bây giờ chỉ cần xác nhận giờ là xong. Tôi điện thoại ra Quảng Ngăi xin tiếp chuyện với Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lăm:

 

“Tôi Phạm Bá Hoa, thưa Chuẩn Tướng. Ngày mai, Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng sẽ đến phi trường Quảng Ngăi khoảng 8 giờ 45. Không có sĩ quan cao cấp nào tháp tùng. Sau khi dự thuyết tŕnh tại bộ tham Sư Đoàn và trao gắn huy chương xong, Trung Tướng sẽ rời Quảng Ngăi lên Ban Mê Thuột chớ không dùng cơm trưa theo ư kiến của Chuẩn Tướng. Xin được xác nhận điều này với Chuẩn Tướng”.   

“Anh tŕnh với Trung Tướng, Sư Đoàn có tiệc trà sau khi gắn huy chương, nếu vậy tôi sẽ mời Trung Tướng dùng tiệc trà trong khi thuyết tŕnh. Nếu có ǵ khác, anh cho ông Tham Mưu Trưởng của tôi biết hỉ”.  

“Nếu tôi không điện thoại lại có nghĩa là Trung Tướng đồng ư, thưa Chuẩn Tướng”.

 

Tôi điện thoại lên Ban Mê Thuột gặp ngay Chuẩn Tướng Vơ Văn Cảnh,  Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh:

 

“Thưa Chuẩn Tướng, xin xác nhận về chương tŕnh ngày mai. Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng sẽ từ Quảng Ngăi đến Ban Mê Thuột khoảng 11 giờ. Giờ chính xác tôi sẽ xác nhận kịp thời. Sau lễ gắn huy chương và dùng cơm trưa tại Sư Đoàn, Trung Tướng sẽ rời Ban Mê Thuột lúc 1 giờ để về Sài G̣n kịp buổi họp với MACV, thưa Chuẩn Tướng”. (MACV, dịch sang Việt ngữ là Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Ḥa).

 “Nếu có ǵ khác, anh gọi tôi ngay nghe anh Hoa. Này, có bao nhiêu sĩ quan tháp tùng với Trung Tướng?

 “Dạ không có vị nào cả, ngoài sĩ quan tùy viên của Trung Tướng, thưa Chuẩn Tướng”.

 

 Sau khi công tác chuẩn bị chuyến đi ngày mai của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng được xác nhận với các nơi liên hệ, tôi ra về. Lúc ấy chẳng c̣n ai trong ṭa nhà chánh ngoài sĩ quan trực và nhân viên an ninh. Vừa về đến nhà th́ chuông điện thoại reo:

 

 “Trung Tá Hoa tôi nghe”.

        “Chú liên lạc t́m Trung Tướng Thi (Nguyễn Chánh Thi) và mời ông ấy ngày mai cùng đi chung phi cơ với tôi ra Quảng Ngăi, c̣n phi cơ của Trung Tướng Thi chờ tại Quảng Ngăi để đón ông Thi ra Đà Nẳng sau khi lễ xong. Phi cơ cất cánh tại Sài G̣n lúc 6 giờ sáng chớ không phải 7 giờ. Chú rơ chưa? 

“Thưa Trung Tướng, tôi nghe rơ”.

Tôi liên lạc và chuyển được lời mời của Trung Tướng Viên đến Trung Tướng Thi đang có mặt tại nhà ông ở đường Gia Long, và được Trung Tướng Thi chấp nhận dễ dàng. Tiếp đến là  liên lạc với Bộ Tư Lệnh Không Quân xác nhận lại giờ cất cánh và không tŕnh chuyến bay. Lại phải cấp tốc liên lạc xác nhận với Chuẩn Tướng Lăm (Quảng Ngăi) và Chuẩn Tướng Cảnh (Ban Mê Thuột).

 

            Lúc 5 giờ sáng ngày 9/3/1966, điện thoại reo vang:

 

 “Trung Tá Hoa tôi nghe”.

 “Chú t́m xem Trung Tướng Có ở đâu và cho tôi biết ngay”.

 “Vâng”.

 

Đó là lệnh của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi điện thoại đến tư dinh Trung Tướng Có trong cư xá Bộ Tổng Tham Mưu, nghe tiếng phụ nữ:

 

“Chào bà. Tôi là Trung Tá Hoa. Xin bà vui ḷng cho tôi tiếp chuyện với Trung Tướng”.

“Nhà tôi lên xe đi rồi anh Hoa”.

“Dạ, cám ơn bà”.

 

Tôi điện thoại đến toán gác cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu, được biết xe của Trung Tướng Có đă ra cổng và quẹo lên hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi gọi lên pḥng VIP trong phi trường:

 

“Tôi, Trung Tá Hoa. Xin lỗi có Trung Tướng Tổng Trưởng Quốc Pḥng ở đó không à?

“Tôi đây anh Hoa. Có việc ǵ không? 

“Dạ, Trung Tướng Viên bảo tôi t́m biết Trung Tướng ở đâu th́ tŕnh lại Trung Tướng Viên chớ không có ǵ, thưa Trung Tướng”.

 

Sau đó tôi tŕnh Trung Tướng Viên. Và ông ra lệnh:

 

“Chú vào văn pḥng ngay, báo cho các nơi hủy bỏ chuyến đi của tôi ra Quảng Ngăi với Ban Mê Thuột. Yêu cầu hai vị Tư Lệnh trao gắn huy chương cho các quân nhân trực thuộc, v́ tôi bận vào giờ chót”.

“Vâng. Chào Trung Tướng”.

 

Trời hăy c̣n tối. Sĩ quan trực cũng như các nhân viên an ninh ṭa nhà chánh, trong mấy năm gần đây đă quen với những trường hợp đèn đuốc sáng choang trong văn pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng, nên không ai ṭ ṃ lên văn pḥng tôi. Tôi gọi Đại Úy Có và chính anh gọi các nhân viên trực thuộc vào văn pḥng làm việc. Sau khi liên lạc xong với Bộ Chỉ Huy Không Chiến, với Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lăm và Chuẩn Tướng Vơ Văn Cảnh xác nhận lệnh của Trung Tướng Viên, nghe tiếng xe bên dưới tôi đến cửa sổ  nh́n xuống lầu thấy xe Trung Tướng Viên vừa ngừng ở thềm tầng trệt. Trung Tướng Viên vào một lúc th́ xe của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, rồi xe của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đến. Cả hai vị, một cách im lặng, lần lượt vào pḥng Trung Tướng Viên. Rồi Trung Tướng Viên vào pḥng tôi ra lệnh có vẻ vội vàng:

 

 “Chú xuống lầu đón Trung Tướng Có và Trung Tướng Thi, hướng dẫn vào pḥng họp hôm qua. Chỉ một ḿnh Trung Tướng Thi vào đó thôi, sĩ quan tùy viên và cận vệ của Trung Tướng Thi ngồi ở pḥng chú và chú trách nhiệm”.    

 

Tôi xuống lầu. Trời vẫn chưa sáng. Xe Trung Tướng Nguyễn Hữu Có dừng trên thềm tầng trệt, trong khi sĩ quan tùy viên chưa mở cửa xe th́ toán cận vệ của Trung Tướng Có từ xe Jeep phía sau nhảy xuống, súng cầm tay trong tư thế sẳn sàng sử dụng. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi xuống xe, toán cận vệ kèm hai bên, và sau lưng Trung Tướng Thi một khoảng ngắn là Trung Tướng Có. 

 

Đến đây th́ tôi hiểu việc ǵ đang xảy ra. Trung Tướng Có bảo tôi đi trước, như là dẫn đường lên pḥng họp hôm qua. Ông nói khẽ:

 

“Vào xong, anh khóa cửa lại và cho Quân Cảnh gác cẩn thận”.  

“Vâng”.

 

Tôi nói riêng với Đại Úy Có:

 

“Anh thay tôi trách nhiệm canh giữ anh tùy viên với cận vệ của Trung Tướng Thi nghe. Lệnh của Trung Tướng đó. Tốt hơn hết là ḿnh "ngăn cản khéo" không cho các anh ấy đi đâu hết, ngoại trừ vào pḥng vệ sinh th́ bảo Quân Cảnh theo giữ”.

 

Đại Úy Có hơi ngập ngừng một chút v́ chưa biết nguyên nhân nhưng anh không hỏi, v́ chúng tôi đă qui ước với nhau rằng, nếu một bên không nói th́ bên kia không hỏi và hiểu rằng đó là lệnh mật.

 

Vẫn chưa đến giờ làm việc. Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Viên, cùng vào pḥng họp, mà trong đó đă có Trung Tướng Thi, cũng là Đại Biểu Chánh Phủ tại Miền Trung.

Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau đó, tôi vào tŕnh Trung Tướng Viên về vấn đề ăn sáng. Đây là tôi cố t́nh vào và sự cố t́nh này cũng có lư của nó, v́ lúc ấy gần 9 giờ (sáng) mà các vị chưa ăn sáng. Trước đây, thỉnh thoảng có những buổi họp đặc biệt trước giờ điểm tâm, các vị thường gọi tôi vào lo các phần ăn sáng. Tôi nghe các vị nói chen kẻ và qua đó tôi hiểu phần nào mục đích của các vị thuộc trung ương, nhằm thuyết phục Trung Tướng Thi chấp nhận giải pháp sang Hoa Kỳ chữa bệnh một thời gian, nhưng Trung Tướng Thi không đồng ư. Âm thanh của Trung Tướng Thi rất rơ ràng và không kém phần mạnh mẽ, cho phép suy đoán là ông không dễ dàng chịu áp lực của bốn vị Tướng đứng đầu chánh phủ và quân đội. 

Trong khi các vị ăn trưa ngay trong pḥng họp, tất cả các sĩ quan tùy viên và cận vệ của các vị cũng đang dùng bữa tại pḥng tôi. Sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Thi nói với tôi là anh cần về nhà Trung Tướng Thi có việc cần, tôi mời anh ngồi xuống và tiếp tục ăn trưa:

 

“Anh thông cảm cho tôi nghe. Cái nghiệp chánh văn pḥng và tùy viên của tụi ḿnh là không có quyền ra lệnh cho ai hết, mà chỉ có nhận lệnh và chuyển lệnh thôi. Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng dặn tôi là tất cả các bạn không nên rời khỏi đây cho đến khi các vị họp xong. Vậy, mời anh hăy tự nhiên với chúng tôi như lúc nào. Thông cảm nghe anh”. 

 

Tôi nghĩ, anh tùy viên muốn ra khỏi đây để báo về nhà Trung Tướng Thi và báo ra Đà Nẳng cho Quân Đoàn biết t́nh trạng của Trung Tướng Thi, v́ rơ ràng là Trung Tướng Thi "bị cưỡng bách" trước mắt anh chớ không phải đến đây để họp như ngày hôm qua. 

 

Cuối cùng cũng không đạt kết quả, nên Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia thu hẹp quyết định "quản thúc" Trung Tướng Thi, lúc đầu dự trù tại câu lạc bộ Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng sau đó đưa về quản thúc tại nhà ông với sự canh giữ của An Ninh Quân Đội và Quân Cảnh.

 

Lúc bấy giờ là buổi chiều, trong pḥng làm việc của Trung Tướng Viên, cả 4 vị Tướng đều mệt mỏi với nét mặt đăm chiêu, và trong nhiều phút không vị nào lên tiếng, chừng như mỗi vị có cách nghĩ riêng của ḿnh th́ phải? Riêng Trung Tướng Thiệu, mặt ông hơi đỏ lên với những giọt mồ hôi lấm tấm hai bên thái dương mặc dù ông vừa từ pḥng lạnh bên kia sang pḥng lạnh này, chứng tỏ là không khí buổi họp rất căng thẳng. Trước khi ra về, Trung Tướng Viên tạt vào pḥng tôi:

 

“Chú mời "Đại Hội Đồng Quân Lực" họp lúc 10 giờ sáng mai (10/3/1966). Không mời Tư Lệnh Sư Đoàn 1 (Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, tại Huế) và Sư Đoàn 2 (Chuẩn Tướng Hoàng Xuân Lăm, tại Quảng Ngăi). Lư do sẽ cho biết khi họp”.

“Pḥng họp nào, thưa Trung Tướng?

“Bên pḥng họp số 2”.

“Vâng”.

 

Đại Hội Đồng Quân Lực có 36 vị, gồm: Tất cả các vị trong Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia. Các vị Tướng Lănh. Chỉ Huy Trưởng binh chủng Thiết Giáp, Pháo Binh, Công Binh, Truyền Tin, Quân Vận, và Biệt Động Quân. Các vị Tư Lệnh Quân Chủng, Tư Lệnh Nhẩy Dù, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, đều là Tướng Lănh, đương nhiên trong thành phần trên rồi. Mỗi lần mời họp đều sử dụng điện thoại, và phải mời các vị ở xa trước để quí vị ấy kịp chuẩn bị phương tiện về Sài G̣n, sau đó mới mời các vị trong Quân Trấn Sài G̣n và lân cận.

Mời xong, chưa kịp thu xếp ra về. Lúc ấy màn đêm xuống khá lâu, điện thoại lại reo:

 

“Trung Tá Hoa tôi nghe”.    

“Chú mời xong chưa?

“Dạ vừa xong, thưa Trung Tướng”.

“Chú xác nhận lại với các vị là họp lúc 8 giờ sáng, tức sớm hơn 2 tiếng đồng hồ. Chú ráng làm ngay trong đêm nay”.

“Vâng. Tôi sẽ lần lượt xác nhận lại, thưa Trung Tướng”.

 

Khi trả lời câu hỏi đầu tiên của Trung Tướng Viên, tôi cứ tưởng sẽ nhận được lời khen của ông, nào ngờ chẳng khen mà lại nhận thêm công tác. Vậy là bắt đầu làm lại. Và cứ theo "bổn cũ" mà làm. Măi đến gần nửa đêm mới rời văn pḥng!

Ngày 10 tháng 3 năm 1966. Tại pḥng họp số 2, c̣n có tên là "Tân Sinh Nông Thôn" trong ṭa nhà trệt bên kia đường, xéo về bên phải của ṭa nhà chánh, Đại Hội Đồng Quân Lực họp dưới sự chủ tọa của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia.

Vào pḥng họp, tôi cảm nhận ngay bầu không khí căng thẳng, ngột ngạt, v́ tất cả các vị đều im lặng. Tuy khi mời không nêu lư do nhưng giữa các vị chắc đă có liên lạc nhau trước nên cũng hiểu được tại sao có buổi họp đặc biệt này. Tôi nhận ra điều này là do vài vị nói chuyện với nhau trước khi vào pḥng họp. 

Mở đầu, Trung Tướng Thiệu tuyên bố lư do. Tiếp đến là Thiếu Tướng Kỳ, rồi Trung Tướng Có, liên tục nêu những lời phát biểu cũng như những hành động của Trung Tướng Thi trong thời gian qua, đă lạm quyền trung ương và chống lại trung ương chẳng khác t́nh trạng "một sứ quân" hay là "một chánh phủ trong một chánh phủ". Thiếu Tướng Kỳ và Trung Tướng Có nói nhiều nhất, nói hăng nhất. Đúng ra là hai vị luân phiên "hài tội" Trung Tướng Thi nhưng Trung Tướng Thi đang bị quản thúc tại nhà ông, nghĩa là không có mặt trong pḥng họp. Những điều mà các vị nêu lên về lời tuyên bố cũng như hành động của Trung Tướng Thi, trước đây báo chí đă đăng tải khi những sự kiện đó xảy ra. Chẳng hạn như Trung Tướng Thi nhân danh Đại Biểu Chánh Phủ, đă ấn định giá biểu từ Huế vào Sài G̣n cho chi nhánh Hàng Không Việt Nam  tại Huế và Đà Nẳng. Theo giá biểu này th́ thấp nhiều so với giá biểu do Tổng Nha Hàng Không Việt Nam qui định. Đến chuyện Trung Tướng Thi tự ư bổ nhiệm Thiếu Tá Nghĩa (dường như là họ Nguyễn) vào chức vụ Tỉnh Trưởng tỉnh Quảng Tín, sau khi trung ương không chấp nhận đề nghị này. Dĩ nhiên là Thủ Tướng Kỳ vẫn bác bỏ quyết định đó của Trung Tướng Thi. Và v.. v..

Phải thừa nhận rằng, Thiếu Tướng Kỳ cũng như Trung Tướng Thi, mỗi vị đều có những cái đúng và những điều sai, v́ cả hai đều có tiếng là nóng tính, dễ giận, nghĩ sao nói vậy, nói tuốt luột những điều ḿnh nghĩ đến mức gọi là "nói thẳng ruột ngựa". Nhưng trường hợp này, theo tôi, Trung Tướng Thi hoàn toàn sai. Quyết định bổ nhiệm Tỉnh Trưởng là quyền của Thủ Tướng tức Thiếu Tướng Kỳ, Đại Biểu Chánh Phủ chỉ có quyền đề nghị mà thôi. Trung Tướng Thi đôi lần đă tuyên bố với báo chí rằng, "các Tướng Lănh cầm quyền ở trung ương có hành động tham những".

Sự kiện đúng hay sai cần phải viện dẫn đầy đủ bằng cớ, chớ Trung Tướng Thi không thể căn cứ vào điều ông nghĩ mà ông tự ư hành động vượt quyền như vậy được. Nếu Trung Tướng Thi cho là các vị Tướng cầm quyền tham nhũng, ông cứ đưa ra ṭa với những bằng cớ rành rành th́ quan ṭa làm sao bao che được. Với lại nếu lời tố cáo của Trung Tướng Thi được minh chứng xác thật với bằng cớ, chắc chắn dư luận -nhất là các cơ quan truyền thông- chẳng ngại ngùng ǵ mà không lên tiếng ủng hộ, như vậy là sự kiện này càng thêm thuận lợi cho Trung Tướng Thi cũng như thuận lợi cho phiên ṭa xét xử. 

Hoặc Trung Tướng Thi phản đối trung ương bằng cách từ chức là cách hay nhất mà ông có thể làm được. Thậm chí, Trung Tướng Thi có thể đứng ra lănh đạo cuộc đảo chánh để thành lập một chánh phủ trong sạch lănh đạo quốc gia, v́ đảo chánh không phải là điều xa lạ cũng không phải là điều khó khăn đối với Trung Tướng Thi. C̣n trong khi đang tại chức với cấp bậc Trung Tướng, mà ông tự tách ḿnh ra khỏi trung ương để chống đối trung ương th́ c̣n ǵ là kỹ luật quân đội, c̣n ǵ là một chánh quyền thống nhất để bảo vệ quốc gia dân tộc đang bị cộng sản xâm lăng!  

Sau nhiều tiếng đồng hồ thảo luận gay gắt, đến phần bỏ phiếu kín: "Thuận hay không thuận cách chức Trung Tướng Thi?". Khi kiểm phiếu có 1 phiếu trắng, c̣n lại đều thuận. Trung Tướng Có, đẩy ghế ra sau, đứng dậy, và lên tiếng:

   

“Trong pḥng họp này, chúng ta là những người có trách nhiệm trong Đại Hội Đồng với tư cách thay mặt toàn quân, bỏ phiếu thuận hoặc không, c̣n phiếu trắng trong trường hợp này là "lưng chừng", không dứt khoát lập trường. Vậy, ai là người bỏ phiếu trắng nên giải thích cho anh em rơ?

 

Vừa dứt câu, có tiếng ghế đẩy thật mạnh, tất cả cặp mắt của những vị có mt gần như đồng loạt quay nh́n, và một người dỏng dạc đứng lên. Đó là Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Nhẩy Dù:

   

“Kính thưa Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia, kính thưa quí vị. Tôi là người bỏ phiếu trắng. Trung Tướng Thi đă một thời là cấp chỉ huy của tôi trong binh chủng Nhẩy Dù, nên tôi không thể hành động chống Trung Tướng Thi cho dù Trung Tướng Thi có sai trái với quân đội. Tôi vẫn biết rằng, hành động của tôi không làm thay đổi được quyết định chung cuộc, nhưng tôi vẫn làm v́ lẽ đó. Và nếu sau này, có điều ǵ xảy ra với Trung Tướng Viên, tôi vẫn hành động như tôi vừa làm. Và bây giờ, quí vị toàn quyền quyết định về tôi: "Ở lại hay ra khỏi Nhẩy Dù, tôi thi hành ngay". Xin cám ơn”.    

 

Cả pḥng họp im phăng phắc. Cuối cùng cũng không có quyết định ǵ về Chuẩn Tướng Đống, có lẽ các vị thừa nhận tính khẳng khái của vị Tướng Tư Lệnh Nhẩy Dù mà không bàn ǵ về ông chăng?

 

Tôi rất khâm phục nghĩa khí và ḷng dũng cảm của Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, ông xứng đáng là vị Tư Lệnh binh chủng Nhẩy Dù. Đành rằng, nếu Đại Hội Đồng Quân Lực có cách chức ông và để ông "ngồi chơi xơi nước" đi nữa, ông vẫn là Tướng Lănh, nhưng thử hỏi có được bao nhiêu vị Tướng khẳng khái như ông. Sau buổi họp, tôi đến chào Chuẩn Tướng Đống và xin được bắt tay ông, chỉ v́ hành động vừa rồi của ông.

 

Thế là quyết định cách chức Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và Đại Biểu Chánh Phủ tại miền Trung của Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia thu hẹp ngày hôm qua, trở thành quyết định chung cuộc của Đại Hội Đồng Quân Lực hôm nay, mà Đại Hội Đồng Quân Lực trên nguyên tắc là thay mặt toàn quân.

Ngay lúc buổi họp vừa chấm dứt, đa số quí vị thành viên Đại Hội Đồng Quân Lực vừa từ từ ra cửa vừa bàn luận t́nh h́nh chiến sự gần như là chuyện bên lề, không biết có phải quí vị muốn chuyển sang bầu không khí trách nhiệm thường xuyên để làm nhẹ đi hoặc quên đi cái không khí căng thẳng trong t́nh đồng đội chen lẫn trong lănh vực chính trị vừa rồi hay không, nhưng rơ ràng là không khí rộn ràng vui vẻ hẳn lên chớ không nặng nề như lúc ngồi trong pḥng họp. Trung Tướng Viên gọi tôi về văn pḥng gặp ông:

    

“Chú t́m Chuẩn Tướng Nhuận và mời đến gặp tôi ngay”.   

“Hy vọng là tôi t́m được v́ nhà Chuẩn Tướng Nhuận ở trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, thưa Trung Tướng”.

 

Đó là Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, là một trong chín Đại Tá được thăng cấp Chuẩn Tướng hồi tháng 7/1964 ngay khi Trung Tướng Nguyễn Khánh vừa thiết lập cấp bậc Chuẩn Tướng. Ông đang là Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Động Quân.

 

Rất may, Chuẩn Tướng Nhuận có mặt tại nhà. Vào văn pḥng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng một lúc, khi trở ra ông tạt vào pḥng tôi và nói là ông hy vọng tôi giúp ông cho kịp. Nói xong, ông vội vàng đi ngay chừng như thời gian gấp rút lắm. Tôi nói vói theo là tôi "sẽ cố gắng", nhưng thật ra tôi chưa hiểu việc ǵ tôi phải làm liên quan đến "hy vọng" mà Chuẩn Tướng Nhuận vừa nói, cho đến khi Trung Tướng Viên bấm chuông gọi tôi:

“Chú làm ngay mấy việc. Thứ nhất, chú thu xếp lấy chiếc C47 đưa Chuẩn Tướng Nhuận và các sĩ quan tháp tùng ông ra Huế ngay chiều nay (10/3/1966). Thứ hai, điện thoại ra Huế yêu cầu Thiếu Tướng Chuân (Nguyễn Văn Chuân) chuẩn bị và thực hiện công tác bàn giao chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho Chuẩn Tướng Nhuận ngay khi ông Nhuận đến Huế. Sáng ngày mai (11/3/1966), Thiếu Tướng Chuân vào Đà Nẳng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I. Thứ ba, điện thoại Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I, đón Thiếu Tướng Chuân và tŕnh bày t́nh h́nh mới nhất để ông Chuân nắm vững t́nh h́nh. Và thứ tư, gởi công điện "hỏa tốc" xác nhận lệnh đó với Quân Đoàn I/Quân Khu I và Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Chú có ǵ cần hỏi thêm không?     

“Dạ không, thưa Trung Tướng”.

 

Một Thông Cáo của Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia được phổ biến trên các làn sóng phát thanh vào buổi tối, theo đó, Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia đă chấp thuận cho Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I, xuất ngoại chữa bệnh mũi một thời gian. Thông Cáo đơn giản chỉ có thế, nhưng đoạn văn này lại là khởi đầu cho một cuộc khủng hoảng chính trị trong nội t́nh Việt Nam chúng ta. Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia xem như giải quyết được sự chống đối của Trung Tướng Thi, nhưng lại phát sinh vấn đề khác, giống như nhiều loại thuốc trị bệnh có kèm theo tác dụng phụ của nó vậy. Vấn đề của Trung Tướng Thi là vấn đề lớn, v́ nếu không lớn hà tất phải triệu tập Đại Hội Đồng Quân Lực, nhưng vấn đề phát sinh th́ lớn hơn nhiều và lâu hơn nhiều.

            Khủng hoảng bắt đầu.

Sự kiện Thủ Tướng là Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ với Đại Biểu Chánh Phủ tại miền Trung là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi bất đồng nhau trầm trọng, không giới nào trong xă hội là không biết. Ấy vậy mà nội dung Thông Cáo như thế th́ làm sao che được mặt bên kia của vấn đề. Xin nhớ rằng, Trung Tướng Thi rất được ḷng của khối Phật Giáo miền Trung, trong đó có cả sinh viên, quân nhân Phật tử, và giới chính trị nữa. Cho nên có tệ lắm th́ người ta cũng nhận thức được sự kiện Trung Tướng Thi bị trung ương cách chức và đưa đi lưu vong. Thêm nữa, nếu thật sự Trung Tướng Thi đi ngoại quốc chữa bệnh th́ cần ǵ phải Thông Cáo cho toàn dân biết, chỉ cần cái sắc lệnh của Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia, cho phép Trung Tướng Thi xuất ngoại, đồng thời cử vị Tướng khác thay thế trong thời gian ông ấy vắng mặt là đủ. Chính sự có mặt của bản Thông Cáo ở cấp lănh đạo quốc gia là điều không b́nh thường chút nào

Thế là Phật Giáo có phản ứng. Và phản ứng đầu tiên bằng cuộc mít tinh biểu t́nh tại Đà Nẳng, đ̣i chánh phủ phục chức cho Trung Tướng Thi. Đ̣i hỏi này nhanh chóng lan ra Huế và vào vài tỉnh lân cận phía nam Đà Nẳng. Khí thế của các cuộc mít tinh biểu t́nh ngày càng mạnh mẽ với số người tham gia ngày càng đông, đông đến độ khó ước lượng được là bao nhiêu. 

Trước t́nh h́nh này, tôi cảm thấy các vị lănh đạo trung ương dường như không tiên liệu đến, hoặc có tiên liệu nhưng tiên liệu không đến mức báo động cao như vậy. Ngay ngày phản ứng đầu tiên của khối người đông đảo tại Đà Nẳng, Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Có, với Trung Tướng Viên, họp trong pḥng Trung Tướng Viên. Rồi những ngày sau đó là họp liên miên, không giờ giấc ǵ cả. Chúng tôi lo ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, và ăn tối luôn. Với thành phần như vậy, có thể gọi là "Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia thu hẹp của thu hẹp", v́ không có mặt Trung Tướng Tổng Thư Kư, và hai vị Tướng Tư Lệnh Không Quân với Tư Lệnh Hải Quân. Phải có 3 vị này mới đủ thành phần thu hẹp của Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia.

Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận, được Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia cử vào chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, đồn trú tại Huế và Quảng Trị, rất có thể v́ ông là người sinh trưởng tại miền Trung và là một Phật tử, hy vọng ông có thể thuyết phục được những thành phần chống đối. Nhưng ngay khi nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1, ông đă tuyên bố đứng vào "hàng ngũ lực lượng tại Huế chống lại trung ương". Do đó mà ông được xem là Tư Lệnh của lực lượng chống đối tại đây. Sự kiện này cho thấy quí vị trong Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia đă quá đơn giản khi bổ nhiệm một Tướng Lănh vào một chức vụ rất cần uy tín, bản lănh, với một phong cách vừa thuyết phục vừa cương quyết, mà theo tôi, Chuẩn Tướng Nhuận không có những yếu tố đó. 

Tôi không rơ là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi có đề nghị hay không, mà các vị lănh đạo quyết định cho ông trở ra Đà Nẳng gọi là để giải thích sự việc với đồng bào, yêu cầu đồng bào chấm dứt những xáo trộn trong khi chánh phủ cần tập trung nỗ lực vào t́nh h́nh quân sự. Ngày 17/3/1966, chiếc C47 của Không Quân đưa Trung Tướng Thi ra Đà Nẳng. Trước khi lên phi cơ tại phi trường Tân Sơn Nhất, ông tuyên bố với báo chí rằng:

 

“Tôi chẳng có bệnh mũi ǵ cả, mà cho dù có bệnh đi nữa th́ tôi cũng điều trị tại Việt Nam chớ không đi nước nào hết. Sự thật là như vậy”

 

Lời tuyên bố này chính là sự xác nhận rơ ràng và dứt khoát. Cũng có nghĩa là ông đă vạch trần nội dung bản Thông Cáo ngày 10/3/1966 của Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia nói về ông. Tôi nghĩ, các vị trung ương chắc đă phải cảm nhận "cái tát" khi xem câu trả lời ngắn ngủi đó trên các báo tại thủ đô Sài G̣n.

Rồi sau đó. Cứ mỗi lần Trung Tướng Thi xuất hiện ở Đà Nẳng, Huế, hay Quảng Nam, đều được sự ủng hộ nồng nhiệt của đám đông mít tinh biểu t́nh. Và những lời tuyên bố của ông đều chung một ư là ông cùng với đồng bào nơi đây chống lại các Tướng Lănh cầm quyền tại trung ương.

Thế là cuộc "khủng hoảng miền Trung" -báo chí thường gọi như vậy- tự dưng được "trung ương" tăng cường thêm hai Tướng Lănh, do đó mà khí thế càng thêm mạnh! Sai lầm nghiêm trọng của trung ương trong quyết định chọn người vào chức vụ quan trọng, hy vọng sẽ là một trong những bài học lănh đạo trong tương lai đối với những thế hệ tiếp sau.

Tiếp đến, Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu, Tổng Thư Kư Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia bay ra Huế, cũng với hy vọng trong một chừng mực nào đó, ông có thể thuyết phục được Trung Tướng Thi. Ông đến ṭa đại biểu chánh phủ (Huế) cùng với Trung Tướng Thi, trong khi bên ngoài đông nghẹt thanh niên sinh viên. Từ trong đám đông đó có người bước ra hỏi Trung Tướng Chiểu:

 

“Trung Tướng có công nhận hành động của chúng tôi là đúng không?

“Đúng”. Trung Tướng Chiểu trả lời.

“Trung Tướng công nhận là đúng. Vậy Trung Tướng có ở lại Huế với chúng tôi không?

“Có”.

 

            Lập tức, một nhóm thanh niên ùa vào hoan hô Trung Tướng Chiểu và công kênh ông ra xe đưa đến khách sạn bên khu chợ Đông Ba. Nhóm thanh niên này nói là luôn luôn túc trực bên cạnh Trung Tướng Chiểu và ông cần ǵ cứ gọi họ. Chữ "túc trực" ở đây được hiểu là "canh giữ" Trung Tướng Chiểu.

 

Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan -cánh tay phải của Thủ Tướng Kỳ- Tổng Giám Đốc Cảnh Sát kiêm Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, cử nhiều toán Cảnh Sát, An Ninh, T́nh Báo dưới quyền ông ra Huế và Đà Nẳng, bám sát t́nh h́nh. Mỗi ngày báo cáo hai lần về Phủ Thủ Tướng và thông báo văn pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng. C̣n chính ông, sự đi lại giữa Đà Nẳng với Sài G̣n bất cứ lúc nào mà ông cho là cần thiết.

 

Ngoài ra, tổng đài điện thoại Cộng Ḥa trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, được lệnh thu băng toàn bộ các cuộc nói chuyện bất cứ là ai, bất cứ từ đâu đến, mà ngang qua hệ thống viễn liên này và tŕnh lên văn pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng vào đầu giờ buổi sáng, và cuối giờ buổi chiều. Đây là nguồn cung cấp thông tin xác thật nhất về những lời đối thoại giữa các tỉnh miền Trung với Sài G̣n, bất luận người nói chuyện là ai cũng đều thu vào và tŕnh lên tất cả. Nhờ đó mà tôi biết được những lời đối thoại giữa các vị Tướng từ trung ương với vị Tư Lệnh Quân Đoàn I cũng như với các vị Tư Lệnh khác.        

Tuy có được những công điện mật mă thường xuyên của nhóm an ninh t́nh báo, cùng với những tờ tŕnh của tổng đài điện thoại Cộng Ḥa, nhưng trong những cuộc đàm thoại giữa Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Có từ Sài G̣n với Thiếu Tướng Chuân tại Đà Nẳng, th́ không thể nào hiểu được t́nh h́nh thật sự khi nh́n từ Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Tướng Thiệu gọi tôi:

    

“Chú liên lạc với Thiếu Tướng Chuân, hỏi t́nh h́nh hôm nay ra sao rồi cho tôi biết”. 

“Vâng. Tôi gọi ngay, thưa Trung Tướng”.

 

Tôi điện thoại ra Đà Nẳng và Thiếu Tướng Chuân đang có mặt tại văn pḥng:

 

“Tôi Hoa đây thưa Thiếu Tướng. Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia muốn biết sự thật của t́nh h́nh bây giờ ra sao. Hoặc là Thiếu Tướng tiếp chuyện trực tiếp với Trung Tướng, hoặc tôi sẽ chuyển tŕnh lại Trung Tướng, thưa Thiếu Tướng”.

“Anh tŕnh với Trung Tướng Chủ Tịch là t́nh h́nh không có ǵ đáng ngại đâu. Như thế là được rồi, tôi khỏi phải tŕnh nữa”.

 

Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, những tháng cuối năm 1954 là Trung Tá, Chỉ Huy Trưởng Trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, lúc ấy tôi là sinh viên sĩ quan trừ bị của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức trong số hơn 200 sinh viên gởi lên đây học, v́ Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức không đủ cơ sở. Từ đó, tôi thường liên lạc với ông trong t́nh thầy tṛ.

 

Tôi tŕnh lại Trung Tướng Thiệu th́ Trung Tướng Có bảo tôi gọi cho ông nói chuyện trực tiếp với Thiếu Tướng Chuân. Kết quả cuộc đàm thoại đó cũng là những tin tức mà tôi nhận lúc nảy thôi.     

Một tháng sau ngày cách chức Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, hầu như tất cả sinh hoạt  tại Đà Nẳng, Huế, và vài tỉnh lân cận, nói chung là rất xáo trộn, đôi lúc được xem là hỗn loạn nữa. V́ vậy mà pḥng làm việc của Trung Tướng Viên trở thành nơi làm việc hằng ngày của Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Có. Hội họp liên tục và những quyết định về t́nh h́nh miền Trung cũng như liên quan đến các đại đơn vị khác, đều xuất phát từ đây.

Trung Tướng Có quyết định, chính ông phải ra Đà Nẳng để biết rơ t́nh h́nh, chớ mờ mờ ảo ảo như thế này th́ không thể giải quyết được mà có thể ngày càng trầm trọng đến mức nguy hiểm. Trung Tướng Thiệu và Trung Tướng Viên, khuyên Trung Tướng Có không nên mạo hiểm, v́ rất có thể là Thiếu Tướng Chuân đă bị phía chống đối quản thúc canh giữ nên Thiếu Tướng Chuân không thể tŕnh bày sự thật được. Nếu sự thể xảy ra như vậy th́ Trung Tướng Có sẽ tự ḿnh dấn thân vào thế bị động của Thiếu Tướng Chuân luôn. Nhưng Trung Tướng Có vẫn giữ nguyên quyết định, và ông đi Đà Nẳng.

Đến căn cứ Không Quân Đà Nẳng, Trung Tướng Có gọi về cho biết, con đường từ căn cứ Không Quân đến bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I đầy chướng ngại vật, nhưng phía chống đối mở lối cho xe của Quân Đoàn đến đón ông. Rồi cũng không khác Thiếu Tướng Chuân về cách tŕnh bày t́nh h́nh, và Trung Tướng Thiệu tin là Trung Tướng Có đă bị quản thúc cùng với Thiếu Tướng Chuân. Thế là trung ương tiếp tục lún sâu vào thế bị động.                

 

Biện pháp quân sự.

Ngày 14/4/1966, trung ương quyết định chuyển quân ra Đà Nẳng để giải quyết t́nh h́nh. Nói cho thật đúng là Thiếu Tướng Kỳ quyết định sử dụng biện pháp mạnh. Trung Tướng Thiệu không phản đối nhưng cũng không hẳn là đồng ư, Trung Tướng Viên vẫn như từ ngày đầu đến giờ là không tham gia quyết định nào cả v́ ông cho rằng đây là vấn đề chính trị, vấn đề của chánh phủ mà ông chỉ thi hành lệnh thôi. Trước khi ra về, Trung Tướng Viên gọi tôi vào pḥng:

 

“Sáng sớm mai tôi và bộ chỉ huy hành quân ra Đà Nẳng, chú lo mấy việc sau đây: Chuẩn bị giường xếp và lương thực 7 ngày cho 10 người ăn. Chú Có và vài chú trong toán an ninh theo tôi. Chú t́m ngay Trung Tá Mă Sanh Nhơn cùng đi với tôi. Trung Tá Nhơn sẽ là Thị Trưởng Đà Nẳng thay cho Bác Sĩ Mẫn đă theo phía chống đối. Chú liên lạc với văn pḥng Thiếu Tướng Kỳ để biết giờ phi cơ Caravelle cất cánh. Chú lo ngay cho kịp”.          

 

Giao công tác lo gường xếp với lănh lương khô cho Đại úy Có xong, tôi liên lạc với chánh văn pḥng của Thủ Tướng Kỳ được biết, bộ chỉ huy hành quân sẽ đi bằng phi cơ Caravelle của Hàng Không Việt Nam và cất cánh lúc 3 giờ sáng trước pḥng VIP. Điều tôi lo nhất là không biết có t́m được Trung Tá Mă Sanh Nhơn hay không v́ gần đây tôi ít có dịp liên lạc với anh, nhưng cuối cùng tôi cũng t́m được. Khi ra sân bay, tôi thấy có một cô gái người Huế cùng đi với Trung Tá Nhơn, và theo lời Trung Tá Nhơn th́ cô này có khả năng giúp anh thuyết phục thanh niên học sinh Đà Nẳng.

 

Trong cuộc chuyển quân này, Không Quân Hoa Kỳ dứt khoát không cho mượn phi cơ vận tải hạng nặng C130 để chở chiến xa, họ nêu lư do phương tiện chiến đấu chỉ sử dụng trong chiến tranh chớ không can dự vào cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ, nhất là đàn áp đồng bào. Họ nói rất đúng, nhưng liệu lư do đó c̣n có mặt trái của nó hay không? Hăy chờ.

Tại phi trường, tôi được biết Chuẩn Tướng Trần Thanh Phong, Trưởng Pḥng 3/Tổng Tham Mưu, đă điều động Thủy Quân Lục Chiến và Nhẩy Dù vào cuộc hành quân này. Ngoài Thủ Tướng Kỳ, Trung Tướng Viên, c̣n có Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến và Chuẩn Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Nhẩy Dù.

Từ căn cứ Không Quân Đà Nẳng, Đại Úy Nguyễn Hữu Có, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng, điện thoại về tôi:

 

“Trung Tướng và bộ chỉ huy đă đến nơi và trú đóng trong căn cứ Không Quân. Theo tin tức th́ ngoài đường phố đầy nghẹt bàn thờ và người của phía chống đối khi họ biết lực lượng tổng trừ bị ra đây giải quyết t́nh h́nh. Có vẻ rắc rối lắm. Trung Tướng Có (tại bộ tư lệnh Quân Đoàn I) tức giận về việc Nhẩy Dù với Thủy Quân Lục Chiến có mặt ngoài này đó anh. Có ǵ lạ tôi sẽ gọi về anh”.

 

Vậy là "không khí chiến tranh" giữa trung ương với địa phương rất sẳn sàng xảy ra, nếu như phía trung ương có một hành động nào đó mà phía chống đối cho là khiêu khích. Trong ngày đầu tiên, lực lượng trung ương án binh bất động, phía chống đối củng cố công tác bố trí lực lượng trên đường phố trong tư thế "nghênh chiến". Cái đau ở chổ "cả hai phía đều là phe ta cả!" 

 

Trung Tướng Có điện thoại về pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng nói chuyện với Trung Tướng Thiệu:

 

“Tại sao trong khi tôi đang dàn xếp với bên kia th́ anh lại đưa quân ra thế này? Bây giờ không c̣n cách nào nói chuyện với họ được v́ họ không tin tôi nữa!

“Ông Kỳ đó”.

“Anh cho rút về ngay đi. Nếu không th́ t́nh h́nh sẽ nguy hiểm lắm”.

“Được. Tôi sẽ cho lệnh rút về”.

 

Trung Tướng Thiệu ngồi tại bàn viết của Trung Tướng Viên, tự ông viết tay công điện ra lệnh chuyển lực lượng tổng trừ bị về Sài G̣n và kư ngay trên bản thảo đó. Ông gọi tôi:

 

“Chú đánh máy xong, tŕnh Trung Tướng Viên kư và gởi đi ngay cho tôi. Xong, tŕnh lại tôi”.

“Vâng, tôi làm ngay thưa Trung Tướng”.

 

Ngay đêm hôm đó (15/4/1966), Thủ Tướng Kỳ và Trung Tướng Viên về lại Sài G̣n, giao cho Chuẩn Tướng Trần Thanh Phong chỉ huy. Lệnh này gây rắc rối, v́ Chuẩn Tướng Phong kém cấp bậc và kém thâm niên, nên Thiếu Tướng Khang và Chuẩn Tướng Đống cũng trở về Sài G̣n và trao quyền chỉ huy cho hai vị Tư Lệnh Phó của hai ông.

 

Tôi thuật lại cuộc nói chuyện giữa Trung Tướng Thiệu với Trung Tướng Có, đồng thời tŕnh công điện "hỏa tốc" (có nghĩa là phải gởi ngay) cho Trung Tướng Viên mà tôi đă đánh máy xong. Ông không nh́n vào mà nói:

 

“Chú để trên bàn cho tôi”.

 

Sáng hôm sau, Trung Tướng Thiệu đến sớm trong khi Trung Tướng Viên chưa đến, khi đi ngang bàn tôi ông ra hiệu tôi theo ông vào pḥng:    

 

“Chú làm xong chưa?  

“Thưa Trung Tướng, xong rồi, nhưng Trung Tướng Viên chưa kư”.  

“Tại sao?

“Tôi không rơ, thưa Trung Tướng”.-

“Khi Trung Tướng Viên tới là chú tŕnh ngay cho tôi”.

“Vâng”.

 

Trung Tướng Viên đến, và sau khi ông điện thoại với Thiếu Tướng Kỳ, tôi không rơ là Thiếu Tướng Kỳ nói ǵ mà Trung Tướng Viên duyệt kư công điện đó.

Lực lượng rút về xong th́ Trung Tướng Có cũng được phía chống đối cho “tự do” sang căn cứ Không Quân về Sài G̣n. Trung Tướng Chiểu từ Huế cũng vậy.

Trung Tướng Tôn Thất Đính, một trong năm vị Tướng bị ba vị trong nhóm lănh đạo “Chỉnh lư ngày 30/1/1964” quản thúc tại Đà Nẳng rồi chuyển lên quản thúc ở Đà Lạt, 3 tháng sau đó được tự do nhưng không được giữ các chức vụ có quân có quyền. Trường hợp như vậy báo chí thường gọi là “Tướng không quân”. Trung Tướng Đính ngỏ ư với bà Cao Văn Viên -có lẽ ông tin chắc là đến tai Trung Tướng Viên, và rồi Trung Tướng Thiệu với Thiếu Tướng Kỳ cũng biết-  Theo đó, Trung Tướng Đính bắn tiếng rằng: “Nếu được tín nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, ông có khả năng giải quyết được t́nh h́nh một cách êm dịu”. Bà Viên nói cho tôi nghe như vậy.

Và chắc là nghe xuôi tai, với lại trong khi chưa chọn được vị nào khác, Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia thu hẹp, quyết định cử Trung Tướng Tôn Thất Đính vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I  thay Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, và tôi được lệnh lo phi cơ đưa ông và các sĩ quan tháp tùng ra Đà Nẳng. Ngày hôm sau, một mẫu tin trên nhiều nhật báo tại thủ đô Sài G̣n có nội dung vắn tắt như thế này:

 

“Trước khi lên phi cơ, Trung Tướng Đính tuyên bố là cọp về rừng”.     

 

Đúng là “cọp lại về rừng”, v́ sau khi Trung Tướng Đính nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I th́ ông tuyên bố tại Đà Nẳng cũng như sau đó tại Huế, là ông chờ ngày này đă lâu lắm rồi. Đồng thời ông nói thẳng ra rằng ông đứng về phía lực lượng chống đối trung ương. Thế là không khí đấu tranh trong hàng ngũ chống đối chánh phủ càng thêm hăng hái, v́ có thêm một Tướng lănh vừa từ trung ương ra là chống lại trung ương ngay. 

 

Lúc này hầu hết vũ khí dự trữ trong các kho Tiếp Vận tại Huế và Đà Nẳng, đều bị phía chống đối lấy trang bị cho lực lượng của họ. Tư Lệnh lực lượng chống đối tại Huế là Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Tại Đà Nẳng, phía chống đối tổ chức một Quân Đoàn lấy tên là “Quân Đoàn Trần Hưng Đạo” do Đại Tá Đàm Quang Yêu giữ chức Tư lệnh. Có một số Cảnh Sát và quân nhân Phật tử tham gia. Nói là Quân Đoàn nhưng thật ra chỉ là một số quân nhân và cảnh sát Phật tử tập hợp lại thôi, chớ có tổ chức Sư Đoàn Trung Đoàn ǵ đâu. C̣n Đại Tá Đàm Quang Yêu, đang là Chỉ Huy Trưởng Đặc Khu Quảng Đà (tức Quảng Nam Đà Nẳng), được phía chống đối đưa ông vào chức Tư Lệnh Quân Đoàn Trần hưng Đạo.

Theo đề nghị của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, đang có mặt tại Đà Nẳng, Trung Tướng Viên bảo tôi liên lạc với Cục Quân Cụ (quản trị các loại dụng cụ chiến tranh) đưa lên căn cứ Không Quân 500 khẩu súng trường loại MAS 36 (do Pháp sản xuất từ đệ nhị thế chiến) mà Cục không cần biết lư do. Không Quân chuyển số súng này ra Đà Nẳng và dùng trực thăng đưa đến hai Quận phía bắc thành phố Huế, trang bị cho các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lực lượng t́nh nguyện sẽ chống cộng sản và chống cả lực lượng đang chống đối trung ương. 

Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia thu hẹp, đă lần lượt thất bại trong việc chọn người giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I sau khi cách chức Trung Tướng Thi, ngay việc hai vị Tướng lănh từ trung ương ra Huế và Đà Nẳng t́m hiểu và giải quyết t́nh h́nh tại chỗ, cũng đều thất bại. Từ những thất bại đó, những va chạm qua lại đă xảy ra là điều không tránh khỏi, và trong nội bộ đă h́nh thành hai nhóm:

Nhóm thứ nhất gồm: Trung Tướng Thiệu, Trung Tướng Có, và Trung Tướng Đặng văn Quang, Tư Lệnh Quân Đoàn IV.

Và nhóm thứ hai gồm: Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Viên, Thiếu Tướng Khang, và Chuẩn Tướng Đống.

Sở dĩ tôi dùng chữ “Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia thu hẹp” v́ những quyết định đều do những vị trong số 4 vị trên đây đưa ra chớ không phải đầy đủ trong thành phần Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia 11 người. Tŕnh bày như vậy, tôi có ư lách phần trách nhiệm của 7 vị c̣n lại trong Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia không có mặt trong những quyết định liên quan trực tiếp đến t́nh h́nh xáo trộn gần hai tháng qua. Với lại chữ “thu hẹp” mà tôi dùng ở đây cũng không hoàn toàn đúng nghĩa nữa, mà phải gọi là “thu hẹp của thu hẹp”'. 

Trong khi đó, các vị lănh đạo phía chống đối chuyển mục tiêu đấu tranh sang đ̣i xây dựng một chế độ dân cử. Mục tiêu của phía chống đối, bước đầu là phục chức cho Trung Tướng Thi, khi Trung Tướng Thi về lại Đà Nẳng th́ chuyển sang bước thứ hai là đấu tranh đ̣i Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, và Trung Tướng Có từ chức, và bây giờ là bước thứ ba hoàn toàn về chính trị.

Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia, rơ ràng là từ lúc khởi đầu đến bây giờ đều trong thế bị động, tuy đă có nhiều cố gắng để tái lập ổn định t́nh h́nh nhưng tất cả đều không thành công. Từ đó dẫn đến rạn nứt trong nội bộ thành hai nhóm, và nếu t́nh trạng này không sớm chấm dứt th́ rồi đây đất nước sẽ như thế nào? Danh dự và trách nhiệm đối với quốc gia dân tộc, quí vị quên rồi sao? Lẽ nào lại thế!  

Dù thế nào đi nữa th́ Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia, cũng phải t́m một vị Tướng khác ra thay Trung Tướng Đính, và vị đó là Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao. Thiếu Tướng Cao từ sau cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963, chỉ giữ những chức vụ không có quân trong tay và những chức vụ cũng chẳng có ǵ quan trọng theo đúng nghĩa của nó. Các vị chọn Thiếu Tướng Cao cũng là điều khó hiểu, v́ Thiếu Tướng Cao là tín đồ Thiên Chúa Giáo. Thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cầm quyền, ông rất được tín cẩn. Bây giờ được cử vào chức vụ có trách nhiệm giải quyết cuộc khủng hoảng với Phật Giáo, th́ liệu mức độ thành công có được bao nhiêu! Lại thêm một chọn lựa liều lỉnh nữa chăng?

Khi Thiếu Tướng Cao từ pḥng Trung Tướng Viên bước ra, chẳng những ông không có được nụ cười như lệ thường mà trái lại nét mặt của ông chứng tỏ rằng ông rất lo âu về chức vụ mà Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia vừa giao cho ông. Nếu nhận xét cho thật đúng th́ Thiếu Tướng Cao sợ hăi!

Đây là lần thứ tư tôi được lệnh lo phi cơ đưa vị Tướng ra Đà Nẳng nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I trong một t́nh h́nh rối ren nội bộ.

Chỉ vài ngày sau khi Thiếu Tướng Cao có mặt tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, sau giờ làm việc chiều trở về, điện thoại nhà tôi reo:

 

“Trung Tá Hoa tôi nghe”.   

“Chú liên lạc t́m sĩ quan tùy viên của Thống Tướng Westmoreland hỏi xem giờ nào phi cơ cất cánh và băi đậu ở đâu?

“Thưa Trung Tướng, tôi chưa rơ việc này, xin Trung Tướng cho lệnh rơ hơn”.

“Tôi cần đi Đà Nẳng ngay bây giờ. Ông Westmoreland cho tôi mượn chiếc U 21 của ổng. Chú hỏi rồi cho tôi biết ngay”.

 

Thống Tướng William C. Westmoreland, đang là Tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam. U 21 là chiếc phi cơ phản lực, dường như 8 chỗ ngồi mà Không Lực Hoa Kỳ dành riêng cho ông. Mọi thu xếp xong xuôi, và phi cơ cất cánh lúc 8 giờ tối tại băi đậu của Không Quân Hoa Kỳ, và trên phi cơ chỉ một hành khách duy nhất là Trung Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. Trung Tướng Viên 3 ngôi sao, Thống Tướng Westmoreland 4 ngôi sao, phối hợp nhau trong mọi vấn đề rất chặt chẻ. Mỗi tuần vào đầu giờ làm việc chiều thứ hai đều họp cấp cao tại văn pḥng Trung Tướng Viên, giải quyết những vấn đề vượt quá trách nhiệm của hai bộ tham mưu, hoặc v́ hai bộ tham mưu không đồng quan điểm nên chưa giải quyết được. Ngoài ra, Thống Tướng Westmoreland c̣n cử một Đại Tá (lúc đó là Đại Tá Freund, ông này thường nói tiếng Pháp), làm sĩ quan liên lạc của ông và có văn pḥng tại Bộ Tổng Tham Mưu (ở tầng trệt ṭa nhà chánh).  

Trước khi lên phi cơ, Trung Tướng Viên dặn tôi:

“Chú chờ tôi ở đây và rất có thể là tôi về khuya lắm”.

 

Tôi muốn biết chuyện ǵ xảy ra, nên điện thoại hỏi bà Viên v́ tôi tin là bà biết. Và đúng như vậy, bà Viên cho biết:

 

“Thiếu Tướng Cao nói ổng bị ông Loan (Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan) cho người mưu sát ổng ngay tại văn pḥng, nên ổng đă bỏ Quân Đoàn chạy sang tị nạn bên Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đệ Tam Thủy Bộ Hoa Kỳ. Trung Tướng ra đó giải quyết ngay trong đêm”.

 

Bỗng dưng tôi có dịp quan sát căn cứ Không Quân về đêm. Dưới ánh sáng như ban ngày do hệ thống đèn pha cực mạnh, những bộ phận chuyên viên bảo tŕ phi cơ và chuẩn bị bom đạn với hỏa tiển để phi cơ sẳn sàng cất cánh lên đường ra trận. Những toán quân nhân làm đêm, không phân biệt Việt Nam hay Hoa Kỳ, đều hoạt động liên tục. Cứ độ nửa tiếng đồng hồ là chiếc xe bán thức ăn nước uống của Hoa Kỳ đến để bán cho các quân nhân Việt Mỹ. Làm việc ban đêm là một nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhưng nh́n vào cung cách và thái độ của những quân nhân chuyên viên đó, tôi nhận thấy tấm ḷng của họ, tấm ḷng của “Người Lính Không Quân” đối với “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm”. Xứng đáng biết bao hỡi những chiến sĩ Không Quân âm thầm trong đêm tối.

 

Trung Tướng Viên về đến lúc 3 giờ sáng. Trước khi lên xe, ông đưa tôi cái thơ không niêm, và nói:

 

“Tôi về nhà luôn. Chú ghé đưa thư này cho bà Cao và nói rằng, Thiếu Tướng Cao nhờ trao tận tay. Ngoài ra ông Cao không có dặn ǵ thêm”.

 

Nhà Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao trong cư xá Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng tôi không ghé ngay mà tôi vào luôn văn pḥng. Tôi muốn biết t́nh h́nh xảy ra như thế nào và tôi nghĩ là thư của Thiếu Tướng Cao có thể có những tin tức liên quan đến. Thế là tôi sao chụp một bản trước khi ghé nhà Thiếu Tướng Cao trao cho bà ấy. Sỡ dĩ tôi hành động như vậy là v́ từ cái đêm Tổng Thống Diệm ra lệnh thiết quân luật 20/8/1963 để lùng bắt Thượng Tọa Thích Trí Quang cho đến nay, tôi ghi chép những sự kiện xảy ra, và đồng thời sao chụp các bản tài liệu kèm theo bản văn ghi chép theo câu “nói có sách mách có chứng”, để sau này cung cấp cho những sử gia hoặc giả tôi sẽ đăng báo hoặc viết thành sách. Một phần những bản văn ghi chép cùng những bản sao chụp có được, tôi đă thiêu hủy trước khi vào tù tháng 6/1975, chỉ c̣n lại “tài sản” lưu giữ trong kư ức và một bao đựng những trang giấy viết tay do quân cộng sản lục soát khám xét nhà tôi mấy ngày liền và xé bỏ tung tóe trước khi bọn họ rời khỏi.

Năm 1986, tôi thuật lại cho các bạn trong pḥng giam số 1 trại tù Nam Hà nghe trong 9 đêm liền. Thuật lại như vậy, tôi nghĩ, sự lưu giữ trong kư ức sẽ được dài lâu v́ phát ra cũng có nghĩa là thu lại, và mặt khác, trong số các bạn trong pḥng giam có những bạn chứng kiến tận mắt hoặc đă tham gia một số sự kiện tại địa phương trong thời ấy như Đại Tá Đàm Quang Yêu chẳng hạn, xác nhận những ǵ tôi thuật. Có lẽ nhờ vậy mà những ǵ “tồn trữ trong kư ức” của tôi đă giúp tôi hoàn thành quyển “Đôi Ḍng Ghi Nhớ”, góp mặt trong hằng loạt sách hồi kư xuất bản tại hải ngoại.

Trở lại thư của Thiếu Tướng Cao. Tôi biết hành động như vậy là không đúng, nhưng tôi muốn có dữ kiện ghi chép chính xác. Tôi không biện minh cho việc tôi làm, nhưng rơ ràng là tôi không hề có ư định ǵ ngoài điều tôi vừa tŕnh bày. Thư ông chưa đầy trang giấy, chỉ vắn tắt rằng : 

“..... V́ có người ám hại nên ông phải ra ngoại quốc t́m kế mưu sinh và sẽ gởi tiền về giúp đỡ gia đ́nh. Cuối cùng, ông cầu xin Đức Mẹ che chở cho vợ con ông”.

Ngày hôm sau, tôi được bà Viên cho biết thêm như thế này:

 

“Nhận chức xong, Thiếu Tướng Cao duyệt lại t́nh h́nh từng nơi, đặc biệt là ông chú trọng đến Đà Nẳng và Huế. Ông thấy cần ra Huế để nắm vững t́nh h́nh tại đây về lực lượng dưới quyền ông cũng như lực lượng của phía chống đối. Thiếu Tướng Cao đến Huế bằng trực thăng của Hoa Kỳ, khi chuẩn bị đáp th́ từ đám đông phía dưới có người bắn lên và xạ thủ trên trực thăng đă bắn chết người đó. Ông quay về Đà Nẳng. Rồi ngay trong pḥng làm việc của ông tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, bất ngờ ông phát hiện kịp thời một sĩ quan của ông Loan (Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan) dí súng vào đầu ông từ phía sau, nhưng đúng lúc có một sĩ quan Hoa Kỳ bước vào nên hắn không hành động được. Ông Cao quá tức giận và nói cho ông Loan biết là ông sẽ rời bỏ Quân Đoàn. Ông Loan qú xuống ôm chân Thiếu Tướng Cao và nói trong vội vàng: 'Thiếu Tướng hiểu lầm rồi, không có chuyện mưu sát ǵ đâu. Tôi lạy Thiếu Tướng, xin Thiếu Tướng đừng bỏ Quân Đoàn. Ngay sau đó, ông Cao sang Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đệ Tam Thủy Bộ Hoa Kỳ xin Tướng Waltz -Tư Lệnh- giúp cho ông sang Hoa Kỳ tị nạn chính trị. Thiếu Tướng Cao viết thư đó tại văn pḥng Tướng Waltz”.

 

 

Lại biện pháp quân sự.

Trở lại văn pḥng của Trung Tướng Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. Từ sau ngày Thiếu Tướng Cao bỏ Quân Đoàn I, các vị Tướng lănh đạo quốc gia và quân đội, gần như làm việc bất kể ngày đêm tại pḥng làm việc của Trung Tướng Viên, có hôm đến nửa đêm mới rời nơi đây. Trong một buổi tối, vẫn là Trung Tướng Thiệu, Thiếu Tướng Kỳ, Trung Tướng Có, và Trung Tướng Viên, và đây là lần đầu tiên Trung Tướng Viên tŕnh bày quan điểm của ông một cách mạnh mẽ, ông nhân danh Tổng Tham Mưu Trưởng, ông không chấp nhận một quân đội trong một quân đội như t́nh trạng hiện nay. Và ông đề nghị với các vị có mặt là phải dùng biện pháp quân sự để giải quyết dứt khoát t́nh h́nh.

Buổi họp đi đến quyết định là chấp thuận kế hoạch của Trung Tướng Viên, và ngày 15/5/1966 là ngày chuyển quân ra Đà Nẳng. Lần chuyển quân này được phía Hoa Kỳ trực tiếp cung cấp vận tải cơ hạng nặng C130 và vận tải hạm chở chiến xa từ Sài G̣n ra phi cảng và hải cảng Đà Nẳng. Vẫn Thủy Quân Lục Chiến và Nhẩy Dù như lần trước, cộng thêm lực lượng Thiết Giáp. Và rồi diễn tiến cuộc “hành quân” giải tỏa t́nh h́nh hỗn loạn tại Đà Nẳng được thực hiện rất thuận lợi, không một cuộc nổ súng nào xảy ra giữa lực lượng chánh phủ với lực lượng chống đối, ngoại trừ tại một ngôi chùa nhỏ có vài phát súng bắn ra nhưng không gây thiệt hại nào. Tại Huế cũng trong một t́nh h́nh tương tự như vậy. Đại Tá Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Phó Nhẩy Dù, được cử ra phía bắc Huế tiếp xúc với một Trung Đoàn của Sư Đoàn 1 Bộ Binh ủng hộ trung ương, tiến vào thành phố Huế với nhiệm vụ giải tỏa lực lượng chống đối. Nhiệm vụ hoàn thành trong yên tịnh.

Sự kiện gần như trái ngược với dự đoán của giới truyền thông cũng như của nhiều thành phần khác trong xă hội khi được biết trung ương lại đưa quân ra Đà Nẳng. Bởi v́ trước đó một tháng, trung ương đă chuyển quân ra Đà Nẳng, và đă thất bại nên rút quân về. Rơ ràng là có một điều ǵ khó hiểu, v́ lực lượng chống đối đang bừng bừng khí thế, bỗng dưng tịt mất hoàn toàn như ngọn đèn đang sáng th́ tắt phụt khi có người ngắt ḍng điện vậy. Phải chăng khi không khí mít tinh biểu t́nh lên đến cường độ nào đó th́ có thêm ngọn đèn xanh, và đến lúc này th́ đèn xanh tắt và đèn đỏ được “ai đó” bật lên hay không? Xin quí vị nhớ lại cuộc chuyển quân ngày 15/4/1966, Hoa Kỳ khước từ yểm trợ phương tiện vận tải hàng không với lư do không bàn căi vào đâu được, thế nhưng cuộc chuyển quân lần này cũng cùng mục tiêu như lần trước, lại được yểm trợ đầy đủ theo nhu cầu. Liệu quyết định như vậy có liên quan đến “ai đó” nói trên hay không?   

Xin lược lại vài sự kiện gần như có mối liên hệ với nhau để dẫn đến t́nh h́nh vừa nêu.

Thứ nhất, là sau ngày lực lượng chống đối nêu yêu sách đ̣i tiến đến sinh hoạt dân chủ mà bước đầu là bầu cử Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo Hiến Pháp, th́ Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia tuyên bố chấp nhận tổ chức bầu cử quốc hội vào ngày 11/09/1966. Tôi nghĩ, chắc là Hoa Kỳ có ảnh hưởng nếu không nghĩ là họ áp lực đến quyết định này.

Thứ hai, là Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, trước đó ông không có ư kiến ǵ về những quyết định của những vị lănh đạo quốc gia, nhưng bất ngờ ông đưa đề nghị biện pháp quân sự và cuộc hành quân đă diễn ra thật tốt đẹp. Đúng ra khi nói đến hành quân phải nói đến chiến thắng, nhưng tôi thấy không ổn nếu dùng chiến thắng để chỉ cuộc hành quân này, v́ “phe ta đánh phe ḿnh” với lại “bất chiến tự nhiên thành”. Về đề nghị của Trung Tướng Viên, liệu ông có biết là đèn xanh cho phía chống đối đă tắt và đèn đỏ đă bật lên chăng? Cho dù các câu hỏi có đặt ra hay không th́ những sự kiện cùng những quyết định nói trên đă diễn tiến rất nhịp nhàng, và những ai quan tâm đến đất nước, có thể đă tự hỏi như vậy, hay hơn thế nữa.

Và thứ ba, cũng có thể là vị nào đó, khi thấy Trung Tướng Thi bị cách chức liền nhập cuộc với những thành phần ủng hộ Trung Tướng Thi, và dần dần nắm quyền lănh đạo cuộc chống đối trung ương, từng bước đ̣i hỏi tiến đến xây dựng cơ cấu dân chủ trong sinh hoạt quốc gia, khi được trung ương chấp nhận bầu cử Quốc Hội Lập Hiến th́ xem như mục tiêu đấu tranh đạt được nên ra lệnh chấm dứt chăng? Nhưng trong trường hợp này, có phải là Trung Tướng Viên đă mạo hiểm trở lại quyết định của Thủ Tướng Kỳ đă không thành công cách đó một tháng không? Nếu đúng như vậy, quả là Trung Tướng Viên rất dũng cảm cho cuộc mạo hiểm của ông nhưng t́nh cờ lại đúng thời cơ.

 

Nh́n lại chuỗi biến cố.

Và tôi cũng tự hỏi: “Liệu từ cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ngày 1/11/1963 của Trung Tướng Dương Văn Minh, cuộc Chỉnh Lư ngày 30/1/1964 của Trung Tướng Nguyễn Khánh với Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, rồi cuộc Biểu Dương Lực Lượng ngày 13/9/1964 của Trung Tướng Dương Văn Đức, đến Thiếu Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh Trung Tướng Nguyễn Khánh ngày 19/2/1965, rồi quân đội nhận trách nhiệm lănh đạo quốc gia ngày 19/6/1965, và cuộc khủng hoảng này từ ngày 9/3/1966, có liên quan với nhau trong một chuỗi biến cố chính trị, hay chỉ là những sự kiện riêng lẽ?   

Nếu riêng lẽ, th́ tại sao trong cuộc “Đảo Chánh” Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm có một người Mỹ (Trung Tá Conein) trong pḥng Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân lănh đạo đảo chánh từ lúc bắt đầu đến khi Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu bị giết chết? Tại sao trong cuộc “Chỉnh Lư” của Trung Tướng Nguyễn Khánh, Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, và Đại Tá Cao Văn Viên, cũng có một người Mỹ tại bản doanh ngay trong tư dinh của Trung Tướng Nguyễn Khánh từ đầu đến cuối? Tại sao viên chức t́nh báo tại ṭa đại sứ Hoa Kỳ ra lệnh cho Trung Tướng Dương Văn Đức (ngang qua Trung Tá Tạ thành Long), người đứng đầu cuộc “Biểu Dương Lực Lượng” phải rút quân về vị trí? Tại sao Trung Tướng Nguyễn Khánh yêu cầu ông Đại Sứ Taylor giúp đỡ khi bị Thiếu Tướng Lâm Văn Phát “Đảo Chánh” th́ ông trả lời là không can thiệp vào nội bộ chính trị của Việt Nam Cộng Ḥa, đồng thời khuyên Trung Tướng Nguyễn Khánh nên ra ngoại quốc? Rồi tại sao Hoa Kỳ chuẩn y không văn bản cho Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ sau khi Tướng Tư Lệnh Không Lực Hoa Kỳ có lời ủng hộ? Và tại sao Hoa Kỳ không giúp không vận và hải vận chuyển quân và chiến cụ ra Đà Nẳng lần thứ nhất trong khi lực lượng chống đối trung ương với khí thế rất mạnh, đến cuộc chuyển quân và chiến cụ lần thứ nh́ chỉ cách đó một tháng th́ Hoa Kỳ yểm trợ hoàn toàn, cùng lúc với sự tê liệt (hoặc hiểu theo cách nào đó cũng tương đương như vậy) của lực lượng chống đối tại Đà Nẳng cũng như tại Huế?  

Hoặc tất cả những sự kiện đó là một chuỗi biến cố chính trị liên quan với nhau? V́ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm không đồng ư để Hoa Kỳ thiết lập căn cứ quân sự trên lănh thổ Việt Nam theo chiến lược Domino của họ, nên ông bị các Tướng Lănh của ông lật đổ với ngọn đèn xanh của ông Đại Sứ Hoa Kỳ, nhân chính sách không b́nh đẳng tôn giáo lên cao điểm. Rồi họ không muốn vương vấn chút ảnh hưởng nào của Pháp trong giới Tướng Lănh Việt Nam nên nhóm Tướng thân Pháp (Trung Tướng Minh, Trung Tướng Đôn, ...) bị hạ bệ, đồng thời gầy dựng nhóm Tướng cầm quyền thân Mỹ (Trung Tướng Khánh, Trung Tướng Khiêm). Khi Trung Tướng Khánh “lên ngôi”, chỉ thỏa măn nhu cầu chiến lược Domino mà không thực hiện chế độ dân cử, để rồi cuộc biểu dương lực lượng của Trung Tướng Đức là một cảnh cáo của Hoa Kỳ đối với Trung Tướng Khánh phảng phất tính độc tài.

Tiếp đến là Thiếu Tướng Phát với Sư Đoàn 25 Bộ Binh trong tay nhưng không đủ bản lănh lật đổ, lại là cơ hội tốt giúp cho Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, đẩy luôn Trung Tướng Nguyễn Khánh lưu vong. Vài tháng sau đó, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, nhân danh quân đội nhận trách nhiệm lănh đạo quốc gia theo yêu cầu của chánh phủ dân sự Phan Huy Quát. Đây là lời yêu cầu trên văn bản, nhưng văn bản c̣n có mặt trái hay không th́ tôi không rơ. Nhưng vẫn chưa thực hiện chế độ dân cử (theo tôi, là do yếu tố an ninh hơn là yếu tố độc tài quân phiệt) cho đến khi cuộc “Khủng Hoảng Miền Trung” đ̣i hỏi mới chấp nhận. Liệu sự chấp nhận bầu cử Quốc Hội Lập Hiến có phải là sự thúc giục của Hoa Kỳ từ phía sau, hay thật sự là do phía chống đối đ̣i hỏi? Nhưng rơ ràng là đến lúc này th́ Hoa Kỳ hài ḷng và kết thúc chuỗi biến cố chính trị mà họ điều hướng trong 3 năm qua. 

Nếu đúng như vậy th́ tại sao Hoa Kỳ phải kiên nhẫn trong một thời gian khá dài với một thái độ âm thầm nhưng rất hiệu quả để hướng đến một chế độ dân cử? Ta biết rằng, cơ chế thượng tầng kiến trúc của Hoa Kỳ gồm Lập Pháp, Hành Pháp, và Tư Pháp, được tổ chức và điều hành theo quan niệm “Kiểm Soát và Cân Bằng”, nhưng Quốc Hội có tiếng nói mạnh hơn về chính sách viện trợ ngoại quốc. Trong chính sách này, tiêu chuẩn có tính cách quyết định viện trợ hay không viện trợ là chế độ “dân chủ hay không dân chủ” tại quốc gia mà họ cứu xét viện trợ. V́ vậy mà Hành Pháp Hoa Kỳ khi thực hiện chiến lược quân sự tại Việt Nam Cộng Ḥa, vẫn phải trong khuôn khổ chính sách viện trợ của Lập Pháp. Điều đó có nghĩa là, khi Hành Pháp sử dụng các Tướng Lănh lật đổ chế độ dân cử Việt Nam Cộng Ḥa, th́ họ phải bằng mọi cách xây dựng lại chế độ dân cử để tránh áp lực của Lập Pháp, ảnh hưởng đến chiến lược quân sự tại Á Châu của họ. Và họ đă thành công, tuy cũng gần 3 năm sau kể từ ngày lật đổ Tổng Thống Ngô đ́nh Diệm. 

 

Trở lại t́nh h́nh Miền Trung.

Dưới quyền của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, các thành phần Cảnh Sát và An Ninh Quân Đội lần lượt bắt giữ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Trung Tướng Tôn Thất Đính, Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, và Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Riêng Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân đă theo lệnh về Sài G̣n họp và bị giữ từ hạ tuần tháng 4/1966. Ngoài ra, lực lượng an ninh c̣n bắt giữ nhiều người nữa, trong số đó có Đại Tá Đàm Quang Yêu, Tư Lệnh Quân Đoàn Trần Hưng Đạo của phía chống đối, và bác sĩ Mẫn, Thị trưởng Đà Nẳng.

 

Song song với công tác bắt giữ một số nhân vật, là công tác bổ nhiệm các nhân vật khác thay thế: (1) Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lăm, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I. (2) Đại Tá Ngô Quang Trưởng, nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. (3) Đại Tá Phan Ḥa Hiệp, nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh. (4) Trung Tá Lê Chí Cường, đang là Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu, nhận chức Thị Trưởng Đà Nẳng.

 

Tiếp đó là nhiều chức vụ trưởng cơ quan đơn vị tại Đà Nẳng và Huế đă tích cực tham gia lực lượng chống đối trung ương, đều bị thay thế.

 

Một quyết định đăi ngộ dành cho những sĩ quan được xem là có công được ban hành không văn bản, mà chỉ bằng điện thoại do văn pḥng tôi phụ trách chuyển đến vị Tư Lệnh Nhẩy Dù, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, và Chỉ Huy Trưởng binh chủng Thiết Giáp. Rằng, những sĩ quan do các vị Tư Lệnh và Chỉ Huy Trưởng chọn và đề nghị lên Tổng Tham mưu Trưởng, sẽ được du lịch Hong Kong một tuần lễ. “Sự vụ lệnh” do Bộ Quốc Pḥng cấp với lư do “công vụ đặc biệt”. Với lư do như vậy, các sĩ quan sẽ được ngân sách quốc pḥng đài thọ tiền vé phi cơ khứ hồi cùng với khoản tiền trên căn bản tiền công tác ngoại quốc mỗi ngày nhân lên cho 7 ngày. Ngoài ra, vị trưởng đoàn được cấp thêm một khoản nữa gọi là phụ cấp ngoại giao.

Có tất cả 4 danh sách và mỗi danh sách gồm 7 sĩ quan. Được quyền đưa vợ tháp tùng và trường hợp này th́ Bộ Quốc Pḥng chỉ đài thọ tiền vé phi cơ mà thôi. Danh sách khi được Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng duyệt y (thật ra Trung Tướng Viên không thêm bớt một sĩ quan nào) th́ văn pḥng chúng tôi làm mọi việc và mang tay lên Bộ Quốc Pḥng trao cho chánh văn pḥng. Tiếp đó là ông Tổng Trưởng ra lệnh cho Tổng Giám Đốc Tài Chánh và Thanh Tra Quân Phí làm thủ tục ngay. Nghĩa là thủ tục rất nhanh chóng. Hai vị Tư Lệnh Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đứng đầu danh sách của binh chủng.

Đầu tháng 7 năm 1966, Trung Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, gọi tôi vào văn pḥng và ra lệnh:

    

“Chú mời các vị trong Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt về họp trong hai ngày 8 và 9 (7/1966) tại pḥng họp số 2 (tức pḥng họp Tân Sinh Nông Thôn). Chú liên lạc với An Ninh Quân Đội tổ chức thu băng để làm biên bản. Không một ai được vào pḥng khi đang họp. Chú lo thức ăn trưa tại chỗ”. 

 

     “Thưa Trung Tướng, về an ninh pḥng họp có cần tổ chức đặc biệt hay như thường lệ?         

 

“Không cần đặc biệt lắm đâu, tùy chú xem t́nh h́nh mà thích ứng. Chú mời các vị Tướng bị giữ vào pḥng bên cạnh, chú phải luôn luôn có mặt tại chỗ và lo ăn sáng ăn trưa cho các ổng. Chú lần lượt mời từng vị vào pḥng họp của Hội Đồng mỗi khi tôi thông báo”.

 

Thành phần Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt, không phải là thành phần của Hội Đồng Quân Lực, v́ chỉ gồm các Tướng Lănh mà thôi.

            Ngày họp. Bàn ghế trong pḥng họp được xếp theo h́nh chữ U, đáy chữ U là bàn của chủ tọa đoàn, gồm: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Trung Tướng Cao Văn Viên, và Trung Tướng Linh quang Viên trong chức vụ Thư Kư của Hội Đồng, phụ trách đọc các bản cáo trạng. C̣n trên đầu chữ U có bục gỗ dành cho vị Tướng “bị cáo”, tạm gọi là “vành móng ngựa”. Bên góc trái cuối pḥng họp có cái pḥng nhỏ được thiết trí máy thu băng và máy khuếch đại âm thanh. Chỉ có chuyên viên truyền tin và sĩ quan An Ninh được ra vào pḥng này. Trước cửa có Quân Cảnh gác. Phía sau lưng pḥng họp là một pḥng khá rộng dành cho 5 vị Tướng “bị cáo” ngồi chờ đến lượt, đồng thời cũng là nơi mà văn pḥng tôi lo ăn sáng ăn trưa cho quí vị ấy. Tôi được ra vào pḥng họp lẫn pḥng thu băng.

Buổi họp bắt đầu. Trung Tướng Thiệu, rồi Thiếu Tướng Kỳ, tŕnh bày lư do với các vị Tướng Lănh thành viên của Hội Đồng, cũng là cách cung cấp cho các thành viên nắm được nguyên nhân và sẳn sàng thực hiện nhiệm vụ đặc biệt trong hai ngày họp này. Khi pḥng họp sẳn sàng, theo lệnh Trung Tướng Viên, tôi mời Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi vào trước và hướng dẫn đến bục gỗ. Ông bước vào “vành móng ngựa” với thái độ thản nhiên như một vị chủ tọa đă từng đứng lên bục gỗ này để ban huấn thị vậy. Trung Tướng Thiệu:

“Hôm nay, Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt họp để nghe Trung Tướng tŕnh bày về những việc làm của Trung Tướng trong thời gian xáo trộn chính trị tại Miền Trung, v́ có những điều mà Hội Đồng chưa biết chắc là Trung Tướng có phải đă hành động như thế hay không, để Hội Đồng có quyết định không nhầm lẫn. Mong rằng, Trung Tướng cho biết sự thật”.     

Sau đó, Trung Tướng Linh Quang Viên, với tư cách Thư Kư của Hội Đồng đă đọc bản cáo trạng với từng lời tuyên bố cũng như những hành động của Trung Tướng Thi trong thời gian nói trên. Đọc xong, Trung Tướng Thiệu mời Trung Tướng Thi biện minh về những lời cáo trạng vừa nêu.

Trung Tướng Thi, vẫn b́nh thản tự nhiên, và nói một cách mạnh mẽ rằng:

 “Bây giờ tôi có nói như thế nào đi nữa th́ quí vị cũng không tin tôi, do đó mà tôi không có điều ǵ để tŕnh bày với quí vị. Quí vị quyết định như thế nào th́ tùy quí vị”.

Theo tôi, Trung Tướng Thi dùng chữ rất hay. Ông nói “quí vị quyết định thế nào là tùy quí vị” chớ ông không nói “quí vị quyết định thế nào th́ tôi thi hành thế ấy”.

Thiếu Tướng Vĩnh Lộc -Tư Lệnh Quân Đoàn II- nói gần như tha thiết với Trung Tướng Thi là nên tŕnh bày sự thật để anh em trong Hội Đồng hiểu rơ được sự việc. Trung Tướng Thi vẫn giữ nguyên câu nói của ông vừa rồi, và ông xin ra khỏi pḥng họp.

Có thể thừa nhận là Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi có dũng khí của người làm Tướng, điều mà không phải vị Tướng nào cũng có được như ông. Nhưng cũng có thể là ông thấy không có cách nào để biện minh nên thà tỏ ra cứng rắn vẫn hơn chăng? Theo tôi, Trung Tướng Thi quả là có dũng khí của vị Tướng.

Vị kế tiếp là Trung Tướng Tôn Thất Đính. Rất dễ dàng trông thấy Trung Tướng Đính có cố gắng b́nh tỉnh nhưng ông đă không nén được nỗi lo âu trên nét mặt khi bước vào “vành móng ngựa”. Trung Tướng Thiệu cũng nói những lời như đă nói với Trung Tướng Thi, và rồi Trung Tướng Viên đọc cáo trạng của ông. Trung Tướng Đính dần dần lấy lại sự b́nh tỉnh, rồi bắt đầu ồn ào với những lời biện minh, nhưng là biện minh một cách gượng gạo nên không đủ lư lẽ để xóa bỏ được câu cáo trạng nào cả.  

Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao là vị thứ ba vào “vành móng ngựa”. Tiếp đến Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, và sau cùng là Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận. Trung Tướng Thiệu và Trung Tướng Viên (Linh Quang Viên), theo điệp khúc như đă đối với Trung Tướng Thi, Trung Tướng Đính, nghĩa là một vị giới thiệu mục đích buổi họp và vị kia th́ kê khai những “tội” của từng vị bị cáo. Bản cáo trạng của Trung Tướng Thi, Trung Tướng Đính, và Chuẩn Tướng Nhuận rất dài, v́ các vị này chống đối trung ương từ đầu, c̣n cáo trạng của Thiếu Tướng Cao với Thiếu Tướng Chuân th́ ngắn thôi, v́ không chống nhưng cũng không làm tṛn nhiệm vụ trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I. Thiếu Tướng Cao với Thiếu Tướng Chuân khá b́nh tỉnh khi biện minh và biện minh ngắn gọn, trong khi Chuẩn Tướng Nhuận khóc sướt mướt với những lời tŕnh bày toàn kêu oan, chỉ v́ ông một ḷng lo giải quyết t́nh h́nh xáo trộn tại Huế.

Lúc bấy giờ tôi được lệnh cho phát lại đoạn băng thu cuộc đàm thoại giữa Chuẩn Tướng Nhuận (tại Huế) với vị sư tại chùa Ấn Quang (Sài G̣n). Trong đoạn băng đó có lời của Chuẩn Tướng Nhuận rằng: “..... Thưa Thầy, con quyết tâm đấu tranh đến khi nào ba tên Thiệu, Kỳ, Có từ chức mới thôi .....”. Nghe xong, Chuẩn Tướng Nhuận ̣a khóc.

Thật ḷng mà nói, tôi không hiểu tiếng khóc của ông có nghĩa là thú nhận lời của ông, hay đó lại là nước mắt kêu oan chỉ v́ ông muốn lợi dụng những vị lănh đạo Phật Giáo để giải quyết t́nh h́nh, chớ những lời đó không phải là thật ḷng? Cho dù là như thế nào đi nữa, rơ ràng là phong cách của Chuẩn Tướng Nhuận không xứng đáng với cấp bậc mà Trung Tướng Nguyễn Khánh, với chức năng Quốc Trưởng trao gắn cho ông một năm trước đó.  

Ngày hôm sau, Hội Đồng Kỷ Luật thảo luận gần như suốt ngày để đạt đến một kết luận thống nhất, kết luận đó trở thành “bản án” và bản án này làm cho “một loạt những v́ sao rơi rụng”. Bản án trừng phạt mỗi vị “60 ngày trọng cấm” và giải ngũ bắt buộc. Riêng Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận bị giáng xuống cấp Đại Tá, và giải ngũ. Trong khi thảo luận, Trung Tướng Cao văn Viên và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, có nhắc lại lời viết của Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao trong một phúc tŕnh tŕnh lên Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm sau vụ thất bại trận Ấp Bắc (Mỹ Tho) đầu năm 1963. Lời viết đó là “....... Khi tôi (tức Thiếu Tướng Cao) giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, tôi đă từng trăm trận trăm thắng ......” Và đối với Chuẩn Tướng Nhuận, Thiếu Tướng Kỳ  cho là chỉ xứng đáng làm một Thượng Sĩ thôi. 

H́nh phạt “trọng cấm” là h́nh phạt cao nhất đối với sĩ quan mà quy chế qui định. Thông thường một sĩ quan khi bị phạt một lần hay nhiều lần cộng lại lên đến 60 ngày trọng cấm th́  bị giải ngũ, v́ xem như sĩ quan đó có thành tích xấu, không xứng đáng là sĩ quan nữa. H́nh phạt nhẹ hơn là h́nh phạt “khinh cấm”.

 

Một tuần sau ngày họp nói trên, một biên bản được hoàn thành với 157 trang đánh máy quay ronéo một mặt, cở 21x27 phân, b́a màu xanh, được mang tay đến các vị thành viên của Hội Đồng Kỷ Luật Đặc Biệt. Xem xong, phải hoàn lại Cục An Ninh Quân Đội. Riêng tôi được “tặng” một bản ngoài số bản quay ronéo, nhưng cuối cùng tôi phải đốt một phần cùng với nhiều tập tài liệu mà tôi đă ghi chép từ tháng 8 năm 1963. Khi tôi vào tù, nhà tôi bị lục soát một tuần lễ nên ban đêm vợ tôi đă lén đốt một phần nữa. Và phần c̣n lại th́ bị quân cộng sản lục soát khám xét, chúng xé từng mảnh hoặc vứt từng trang tung toé khắp nhà. Sau cuộc lục soát này, vợ tôi lượm lại từng trang từng mảnh cho vào bao, đến khi tôi ra tù mới góp nhặt dán lại, cũng bổ túc được một số chi tiết khi tôi lén lút viết lại và lần lượt nhờ người mang qua Mỹ. Phần viết lại này được 1600 trang giấy học tṛ.  

“Cuộc khủng hoảng miền Trung” kết thúc bằng bản án nói trên, nhưng với nét nh́n chung cuộc th́ các vị Tướng Lănh lănh đạo quốc gia đă phải chấp nhận tiến đến xây dựng cơ cấu dân chủ, mà bước đầu là bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 11/09/1966. Như vậy:

Theo quí vị quí bạn, “ai thắng và ai thua” trong cuộc khủng hoảng này?

Và cuộc khủng hoảng gần 3 tháng qua, phải chăng là một thử thách khả năng và bản lănh của các vị Tướng Lănh trong trách nhiệm lănh đạo quốc gia thời chiến? Nếu là thử thách, theo quí vị quí bạn, th́ các vị ấy như thế nào? 

Thưa quí vị quí bạn, trong cuộc “Khủng Hoảng Miền Trung”, tôi là Trung Tá, chánh văn pḥng của Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng.

(Trích trong quyển “Đôi Ḍng Ghi Nhớ” ấn bản lần 4 tháng 7 năm 2007 do nhà sách Tú Quỳnh phát hành)        

 

                                                                                                         Houston, tháng 7 năm 2009

                                                                            *********

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: