TẠP GHI VĂN NGHỆ

 

Quang Dũng, chàng thi nhân bất hạnh

của thời đại chúng ta

 

Nguyễn Mạnh Trinh

 

 

 

Thi sĩ một đời tài hoa mà không dám làm thơ nữa. Chuyện không tưởng tượng được mà đă xảy ra. Thi sĩ, có những câu thơ hào hùng , của mênh mang chiến địa. Thi sĩ một thời đă có những bài thơ được trân trọng chép trong những cuốn sổ tay của những người lính mang tâm tư tuổi trẻ chiến đấu cho đất nước. Thế mà , sau khi đă có những bài thơ để đời , người thi sĩ ấy sống như một người vô danh ở phần đời c̣n lại và suốt đời lận đận về đường cơm áo. Người thi sĩ ấy, sau năm 1954 , vào sống ở Hà Nôi , thành một anh phóng viên đi lượm lặt tin tức về viết thành những bài vô thưởng vô phạt như “ Đọc bích báo nhà máy nước “, “ Đọc bích báo nhà máy diêm Hà nôi và nhà máy Gia Lâm”, “ Đọc bích báo hai trường Tân Trào và Trưng Vương”, “ Công nhân nhà máy đèn đấu tranh cho thống nhất “v.. và Quanh quẩn với góc phố hẹp, với những mảnh đời bị bó rọ trong nan lồng, văn chương như bị cùn ṃn đi. Có lúc ông ghi lại đời sống của thế giới chung quanh bằng những bài bút khí khá sống động ht́ lại bị cấp trên phê b́nh rằng đó là sự nhấm nháp lại những mảnh đời cũ khi mà Đảng đ̣i hỏi phải có ngay những con người những h́nh tượng của hiện thực xă hôi chủ nghĩaà

Thi sĩ bất hạnh ấy là Quang Dũng , bút hiệu của Bùi Đ́nh Diệm, sinh quán tại làng phương Tŕ, huyện Đan Phượng , tỉnh Hà Đông. Oạng sinh năm 1921 và từ trần năm 1988, cách nay đă hơn hai chục nămà

Thi sĩ yêu quê hương và h́nh như lúc nào trong tâm thức cũng lẩn quẩn những bước chân hay những h́nh bóng của quê nhà. Với Quang Dũng , quê hương là con sông Đáy hiền ḥa một ḍng lửng lơ chậm răi giữa hai bờ xanh tươi những băi mía nương dâu. Quê hương là Bương , Cấn, là núi Sài Sơn, là những làng đồi, có những giếng nước trong soi đôi mắt cô thôn nữ đa t́nh:

“Bao giờ trở lạo đồng Bươn g, Cấn

Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng

Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc

Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng..”

Sơn Tây, nơi có “ đôi mắt người Sơn Tây/ u uẩn chiều lưu lạc / buồn viễn xứ khôn khuây.” Sơn Tây, nơi “vừng trán em mang trời quê hương/ mắt em d́u dịu bùôn Tây Phương/Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm / em có bao giờ em nhớ thương/”

Bài thơ “ Đôi mắt người Sơn tây” mang cái u uẩn của người xa xứ , luôn hoài ợ niệm nhớ về quê làng xưa, thôn ấp cũ. Chiến tranh làm mọi người trôi dạt , nhưng vẫn mong có ngày trở về , để nghe tiếng sáo thanh b́nh , thấy lại đỉnh Ba V́, để thấy lại quê Bất bạtà

Và cũng chính Quang Dũng , đă có những câu thơ hào sảng , đă có những tâm t́nh rất nhân bnả và đă bị đố kỵ và phê b́nh như là một chứng tích cón sót lại của giai cấp tiểu tư sản. Bài “ Lính râu ria “ có những câu thơ rất thật , rất lăng mạn của những chàng trai Hà Nôi , dù đời sống cam khổ nhưng vẫn tươi vui và nhiều mơ mộng.

Khuya khoắt bờ sông vắng

Lửa hồng qúan tản cư

Lính mấy chàng vất vả

T́m sống một đêm thơ

Một anh gọi cà phê

Một người kêu thuốc lá

Một anh nh́n sau trước

“chị ơi ly rượu nhỏ”

rượu nhỏ một ly thôi

đời lính đă kham rôi

một ly cho đỏ mật

cho lên hương cuộc đời..”

Nhưng , dù có men rượu để quên nhưng sao vẫn thổn thức tấm ḷng nhớ vợ thương con. Chiến sĩ , đâu phải tấm ḷng gỗ đá, khi bế con người ma 2lại rưng rưng nhớ đến hơi sữa thơm của con ḿnh;

“ “ Chị ơi cháu ngủ đâu

thế rồi bế con chị

anh lim dim cúi đầu

cô bé cười chúm chím

mắt non nh́n như sao

má hồng như trái mận

mùa đang độ ngọt ngào

bnà tay như rễ cây

bộ râu như bàn chải

anh hôn con người ta

anh ôm gh́ bé măi

cô bé năm tháng trời

anh vừa tuổi ba mươi

con anh giờ nơi đâu?

Anh mím cười rười rượi

Khi anh về đă xa

Chị dọn hàng đi ngủ

Chép miệng trong hơi chăn

Chị buồn chi không rơ

Khuya khoắt bờ sông vắng

Tiếng súng rền xa xa

Bước chân người rạo rực

Tiếng hát ch́m đêm xa”

Thơ, ở đó là tấm ḷng mở ra với người. Thơ là những giây đàn rung măi ngân nga những âm điệu của thiên thu c̣nmăi. Thế mà , những quan chức băn nghệ như Tố Hữu đố kỵ tài năng, đă d́m thi sĩ vào những ngơ cụt của cơm áo nghiệt ngă , của những trường quy khắc nghiệt để những bài thơ tuyệt tác như thế trong một đời thi nhân t́a hoa chỉ có mấy bài. Những bàn tay đồ tể , đă giết đi những con người thi sĩà

Và , không phải Quang Dũng chỉ là một thi sĩ , mà ông có nhiều tài hoa khác , như về hôi họa , về âm nhạc. Ông c̣n là nhạc sĩ có những bài hát được truyền tụng môt thời . Bài hát “ Ba V́” thông dụng trong thời kháng chiến có những câu như:

“ Ba V́ mờ cao

làn sương chiều xa buông

gió về hương ngát thơm

đưa hồn về đâu?..

Một bản nhạc của tấm ḷng yêu quê hương thiết tha!

 

Quang Dũng (1921-1988) từ trần vào ngày 14 tháng 10 năm 1988 th́ hơn hai mươi năm sau , t́nh cờ tôi giở đúng một trang sách cũ viết nhân ngày kỷ niêm năm năm ngày mất của thi sĩ. Bài viết “ Khúc Độc Hành Quang Dũng” của một tác giả tên Văn Chinh đăng trong nguyệt san Văn Nghệ Quân Đội xuất bản ở Hà Nội tháng 10 năm 1993. Trong đó tôi t́m được một vài đoạn làm tôi suy nghĩ. Như:

“Dọc con đường đến hiệu cà phê Hói, tôi cứ trân trân ngó tấm lưng gấu hơi gù của Quang Dũng, ḷng cứ thắc mắc măi. Một thân h́nh cao to quá khổ, mỗi bữa ăn hết một cân gạo cơm mậu dịch với năm mét phiếu vải và mười ba cân rưỡi gạo, ông sống thế nào nhỉ ?

Vậy mà ông đă đổ vạ cho tôi những tội danh “ anh hùng cá nhân tiểu tư sản”! Trong sổ tay chép thơ hồi tôi c̣n đi học có bài Tây Tiến. Bị phát hiện, tôi phải làm kiểm điểm. Tôi c̣n nhớ rất rơ những day dứt tự xỉ vả và cả quá tŕnh phấn đấu đầy nhọc nhằn xóa bài thơ khỏi trí nhớ và thản nhiên đốt cuốn sổ tay thơ. Cũng c̣n nhớ cảm giác chân thành thích thú rồi chân thành ghét bỏ Tây Tiếnà”

Ơ ḱa, tại sao một bài thơ có thể gọi là tuyệt tác của thi ca Việt Nam mà lại bị coi như tài liệu quốc cấm như the?ă. Tại sao mà phải nhọc nhằn xóa bỏ bài thơ , phải đốt bỏ, phải tự kiểm điểm để ghét bỏ nó.? Có phải v́ chính sách chủ trương của lănh đạo văn nghệ Đảng như vậy ?

Nhà thơ Quang Dũng đă tự nói về bài thơ tuy tâm huyết nhưng lại gây tai họa cho cuộc đời ḿnh như sau trong bài viết “Nhớ về Tây Tiến “ in trong Sách Nhà Văn nói về Tác Phẩm , Nhà xuất bản Văn Học :

“..Chúng tôi lúc đầu đi bằng ô tô, sau chuyển sang hành quân bằng đôi chân, thực sự nếm mùi Tây Tiến: mở rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm” heo hút cồn mây súng ngửi trời”, những chiều “oai linh thác gầm thét”, những đêm “ Mường Hịch cọp trêu ngươi” .. tôi mô tả trong thơ rất là thựcà Hồi ấy trong đoàn chúng tôi có rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn nên bộ đội không những bị ốm mà c̣n chết v́ sốt rét cũng nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà dân cứ mỗi lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung ra đến nhà trưởng thôn để tiễn một con người vĩnh biệt núi rừng. Tiếng cồng ở Tây Tiến thật buồn. Buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng cồngà “

Tại sao một bài thơ mà mang lại nhiều hứng cảm cho tác giả đến cả mấy chục năm sau lại bị để ư và coi như là có “vấn đề” ? có phải v́ thành phần “tạch tạch sè(tiểu tư sản)” của lư lịch tác giả? Hay v́ ḷng ghen tài của thợ thơ Tố Hữu người cầm cân nẩy mực lănh đạo văn nghệ của Đảng ? Hoặc v́ ư tưởng lăng mạn của bài thơ nói thực cái tâm cảm của một người yêu nước ? Chỉ biết, về sau, một tài năng thơ như Quang Dũng mà phải long đong mưu sinh và những tác phẩm sau cũng là những gượng gạo, những bươc chân đi trong ṿng kiềm tỏa, mang mang tâm thức của một người bất đắc chí lầm lũi trong cuộc nhân sinh. Cơm áo bó buộc, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, những nhu cầu tối thiểu của một con người cũng chưa đầy đủ, chưa nói đến cái nổi hăi sợ cứ luôn ám ảnh. Hoàn cảnh ấy làm sao mà có được môi trường sáng tác tốt cho văn chương hiển lộng?

Nhà văn Phan Lạc Tiếp khi từ hải ngoại trở về thăm quê nhà có ghé đến thắp hương trên bàn thờ nhà thơ Quang Dũng và cảm khái :

“..Và những ngày cuối đời của Quang Dũng thật buồn. Ốm đau nằm không c̣n nói được . Và đến lúc ấy, lúc nằm chờ chết , Hà Nội mới cho in tác phẩm của anh, “ Mây Đầu Ô “ vào tháng 5 năm 1986. bạn bè đến thăm và mừng táv phẩm anh phải nhờ con viết và kư hộ. Cứ vất vưởng như thế “ làm khổ vợ con”:

“ Răng long , đầu bạc lo cơm áo

Tay em : ch́a khóa của đời anh

Cái nghèo đeo đuổi măi không thôi

Chăn không có đắp , tiết đông rồi

Các con oán mẹ không tháo vát

các con trách cha không thức thời..”

Từ xưa đến nay, chiến tranh đă là một hứng khởi cho thi nhân. Chỉ có nỗi niềm của người chinh phu chinh phụ cũng đủ làm cho tâm tư người đọc rung động thiết tha với biết bao nhiêu liên tưởng trùng điệp. Có mấy ai không cảm thấy chất ngất qua những câu Lương Châu từ của Vương Hàn đời Thịnh Đường “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi. Dục ẩm t́ bà mă thượng thôi. Túy ngọa sa trường quân mạc tiaú . Cổ Lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà cụ Vân B́nh Tôn Thất Lương đă dịch:

‘ Rượu bồ đào, chén dạ quang

Ngập ngừng muốn uống tiếng đàn giục đi

Say nằm băi cát li b́

Xưa nay chinh chiến người đi ai về”

Hay, đọc những câu Chinh Phụ Ngâm, những xúc cảm lại rưng rưng trong tâm thức.Những hùng tráng trộn lẫn với những thiết tha, nỗi nhớ mong cộng với niềm cô quạnh, tất cả làm thành một thế giới lăng mạn cho kư ức mỗi người. Những h́nh ảnh tạo dựng bằng thi ca đă thành những vệt ghi chép hằn trong bộ óc nhớ maĩ tận ngàn sau.

Tôi lại nhớ đến những câu thơ Nguyễn Bắc Sơn. Những vần hào sảng ngang tàng. Những h́nh ảnh đẹp mà buồn bă, những câu thơ hùng tráng mà vẫn đầy chất lôi cuốn Thơ như những giong tay đi vào một thế giới lửa đạn, những câu như :

”Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu.

Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo.

Mang trong đầu những ư nghĩ trong veo.’’ hay

“ Lỡ mai đụng trận may c̣n sống .

Về ghé sông Mao phá phách chơi.

Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm.

Đốt tiền mua vội một đêm vui “.

Những nỗi buồn rất thật. Chiến tranh của những người yêu ḥa b́nh, cầm súng để tự vệ. Bao nhiêu năm , những thanh niên cùng huyết thống giết nhau v́ tṛ chơi chủ nghĩa. Máu xương chồng chất, sinh lực dân tộc bị phung phí vào đấu trường bày ra bởi những cường quốc chia hai phe quốc cộng tương tàn lẫn nhau.

V́ chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai, miền Bắc gây ra cuộc chiến để bao nhiêu bi kịch xảy ra suốt mấy chục năm cho dân tộc. Thơ Nguyễn Bắc Sơn buồn như tâm sự mênh mang thiên cổ, của tấm ḷng thi sĩ sinh bất phùng thời . Thơ là kết tinh từ nỗi đau gửi gấm lại cho đời những hằn dấu chung mang của cả một thế hệ. Thơ có chia sẻ chung của những con tim đập những nhịp đập của thời quốc biến vang dội từ tiếng trống thúc quân xa xưa đến âm vọng chinh phu chinh phụ bây giờ. Tôi thích thơ Nguyễn Bắc Sơn bởi lắng nghe một mẫu số chung của thời đại chúng tôi từ ngôn ngữ chân thành và nhịp điệu giục giă . Những người lính, không chỉ đơn thuần là những chiến sĩ mà là những con người tràn đầy t́nh cảm. Thơ nẩy sinh từ traí tim.

Trở lại bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng vẽ laị những hào hùng của những chàng trai Hà Nội.Theo lời nhà văn Mai Thảo khi c̣n sinh tiền hay kể về đơn vị đặc biệt này th́ Trung đoàn Tây Tiến thành lập từ đầu năm 1947 gồm những chàng trai tiểu tư sản xuất thân từ thành thị. Họ xuất quân đi về phía biên giới Lào với những địa danh như châu Mai, châu Mộc sang Sầm Nứa rồi ṿng qua phía tây Thanh Hóa. Lính Tây Tiến có những học sinh cũ các trường Bưởi, Thăng Long, Bảo Hộ như Quang Dũng, Vạn Thắng, Tuấn Sơn, Như Trang. .. Lại có những nhân vật đặc biệt như bác sĩ Phạm Ngọc Khuê, hay cô y tá nổi tiếng hoa khôi một thời của Hà Thành mỹ danh Phương Lan một thời đă làm rung động những trái tim trai trẻ.

Quang Dũng viết bài thơ trong cái hào khí một thời, chất ngất xúc cảm,đầy ắp không khí của Kinh Kha bên bờ Dịch Thủy:

“ Sông Mă xa rồi, Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

 

Những câu thơ mang lại tai họa cho Quang Dũng. Những câu thơ mà ngày sau có người đọc lại bị lôi cuốn vào những xúc động trùng trùng. Thơ như những làn kiếm sắc, vút lên rồi loang loáng ánh trăng. Những ngôn ngữ có âm vang của đồng vọng thiên cổ, của những hy sinh vô bờ mà con dân nước Việt ra đi không tiếc nuối xác thân:

“ .. Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mă gầm lên khúc độc hành”

Tây tiến là một cuộc hành quân qua Lào từ ngơ Tây bắc để mở một mặt trận mới nhằm chia sẻ chủ lực của quân Pháp. Địa h́nh cực kỳ hiểm trở, và cuộc di hành đầy gian khổ đói rét. Trung đoàn Tây Tiến sau cuộc hành quân trở về bị hao hụt quân số trầm trọng . nhưng, theo Đỗ lai Thúy th́ nhan đề của bài thơ c̣n một ư nghĩa nữa :

“..Đó là một chuyến đi về phía Tây, phía núi , phía mặt trời lặn, phía, theo quan niệm dân gian, của những người chết. Không phải ngẫu nhiên mà xưa nay nghĩa địa làng , những làng ma đều ở phía tây. Và người chết đều được chôn chân về hướng núi, Tây Tiến như vậy, là từ (ch́a khóa của bài thơ, bó lá dứa gai treo trước cổng những ngôi nhà tang tóc , điềm báo về cái chết.

Anh bạn dăi dầu không bước nữa

Gục bên súng mũ bỏ quên đời..”

Nhưng cũng có lúc , sự lăng mạn đă đưa suy tưởng đến vùng liên tưởng xa hơn không gian và thời gian hiện tại. Mơ mộng giống như một sự thúc đẩy như h́nh ành vườn lê thơm ngọt của Tào Tháo gợi ra khi cả đoàn quân đang khát nước đến cực độ. Con người chiến sĩ cùng với tâm thức thi sĩ đă vượt qua những khắc nghiệt của chiến tranh, những gian nan của thiên nhiện cheo leo hiểm ác. Một phản xạ lạc quan của những người v́ ḷng yêu đất nước mà quên ḿnh:

“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

ḱa em xiêm áo tự bao giờ

khèn lên man điệu nàng e ấp

nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

người đi châu Mộc chiều sương ấy

có thấy hồn lau nẻo bến bờ

có nhớ dáng người trên độc mộc

trôi ḍng nước lũ hoa đong đưa..

 

Những câu thơ diễn tả lại một tâm trạng của một thế hệ . Có câu thơ nào gợi lại cho chúng ta một cảm giác mạnh mẽ hơn câu thơ “áo bào thay chiếu anh về đất. Sông Mă gầm lên khúc độc hành” Chữ “ gầm lên khúc độc hành” thật nhiều gợi cảm, thật nhiều liên tưởng đến những h́nh ảnh một thời hào hứng của đất nước chiến tranh.

Rồi câu “mắt trừng gởi mộng qua biên giới. Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơ mà “lại bị phê b́nh là đầy chất tiểu tư sản mà mục tiêu nhắm đến của những cuộc đấu tranh giai cấp. Kháng chiến gian khổ mà c̣n nghĩ đến t́nh cảm lăng mạn ngại khó ngại khổ không chịu hy sinh!!!

Đảng chuyên chế muốn con người thành những bộ máy vô tri không yếu mềm t́nh cảm. Thành ra, chế độ ấy đă mang cơm áo làm ṿng kim cô để trói buộc con người. Cũng như, những Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường một đời trí thức thông minh tài hoa hết mực mà bị chế độ trù dập đến khi chết mà vẫn c̣n thấy “sợ“. Họ đánh vật với sinh kế chưa xong nói ǵ đến chuyện thực hiện những tâm đắc của đời ḿnh. Một người như Nguyễn Tuân mà giới văn nghệ gọi là Nguyễn Bất Tuân với nhiều giai thoại cũng phải chịu khuất phục và thú nhận ḿnh sống c̣n đến lúc đó là biết sợ.

Quang Dũng thời kháng chiến tài hoa là như vậy, anh dũng là như vậy mà sau này bị loại khỏi quân đội, làm một nhân viên có cấp bậc lương thấp kém nhất và lúc nào cũng lẩn quẩn với sinh kế, vật lộn đến hụt hơi với cái ăn cái mặc. Người ông to cao nên sức ăn cũng nhiều hơn người thường nên bị đói kinh niên. Thảm thương cho người thi sĩ khi qua một câu chuyện kể về một bữa ăn giữa Quang Dũng và Nguyễn Tuân . Khách là Quang Dũng ăn hết tám bát xôi thịt trong khi người mời là Nguyễn Tuân chỉ ăn có một bát . Và câu mời lễ phép “ Thưa ông , ông dùng nữa ạ?” của tác giả Vang Bóng Một Thời Với câu trả lời b́nh thản của Quang Dũng “ Vâng “ tới tám lần như một điệp khúc nhói đau, của những người sinh ra lầm thế kỷ . Một người văn vơ toàn tài, biết vơ nghệ , đánh kiếm , lại thơ văn trác tuyệt , thế mà cứ lủi thủi trong góc hẹp thành phố để có lúc phải thét lên trong Mây Đầu Ô :

Mây ở đầu ô mây lang thang

Ôi ! chật làm sao

Góc phố phường

Mây ở đầu ô

Hẹn những chân trời xa lạ”

Cho nên, khi Quang Dũng được nghe những bài thơ như Đôi Bờ hay Đôi Mắt Người Sơn Tây được nhạc sĩ Phạm Đ́nh Chương phổ nhạc qua giọng hát Thái Thanh th́ nước mắt lại ṛng ṛng vừa cảm khái vừa sợ sệt. Cũng như khi nghe ai đó tán thưởng câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm “ th́ thi sĩ lại chắp tay lại than thở “ Tôi suốt một đời khổ v́ những câu thơ này!”. Ôi một chế độ bạo tàn đă làm sĩ khí Bắc Hà chỉ c̣n như trong chuyện cổ tích. Đă xa xôi lắm rồi có phải những ngẩng cao đầu đứng dậy nh́n ánh mặt trời?

Thế mà vẫn c̣n những câu thơ sống măi. Như bài thơ Tây Tiến, như Đôi Mắt Người Sơn Tây.

  Trang Chủ . Kim Âu . Lưu Trữ. Báo Chí . RFI . RFA . Tác Giả . Chính Trị . Văn Nghệ . Khoa Học . Mục Lục . Quảng Cáo . Photo . Photo 1. Tinh Hoa .

Một Trang Lịch Sử (tài liệu US Senate)

 

 

 

 

MINH THỊ

 

Bài trong trang này nhằm cung cấp thông tin phục vụ yêu cầu tham khảo, điều nghiên của Người Việt Quốc Gia trong tinh thần "tri kỷ, tri bỉ", " biết ta, biết địch" để nhận rơ những âm mưu, quỷ kế, ngôn từ và hành động của kẻ thù và có phản ứng, đối sách kịp thời.

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám