Trang Chủ . Kim Âu . Lưu Trữ. Báo Chí .  BBC . RFI . RFA . VOA . Tác Giả . Chính Trị . Văn Nghệ . Khoa Học . Kỹ thuật . Mục Lục . Quảng Cáo . Photo . Photo 1. Tinh Hoa . Liên lạc

 

Một Trang Lịch Sử (tài liệu US Senate)

 

 

 

 

MINH THỊ

Bài trong trang này nhằm cung cấp thông tin phục vụ yêu cầu tham khảo, điều nghiên của Người Việt Quốc Gia trong tinh thần "tri kỷ, tri bỉ", " biết ta, biết địch" để nhận rơ những âm mưu, quỷ kế, ngôn từ và hành động của kẻ thù và có phản ứng, đối sách kịp thời. V́ mục đích chiến đấu chống kẻ thù chung là Cộng Sản nên nhận được bài cùng lập trường là chúng tôi tiếp sức phổ biến. V́ thế có những tác gỉa chúng tôi đăng bài nhưng chưa liên lạc được. Nếu tác gỉa nào cảm thấy không hài ḷng xin liên lạc qua email, chúng tôi sẽ lấy bài của quư vị xuống trong ṿng 48 tiếng. 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lời ṭa soạn:

Tuần Báo Chính Nghĩa phát hành tại Atlanta, Georgia đă 14 năm nay. Lập trường, quan điểm và chủ trương của chúng tôi rất rơ ràng: Chống Cộng, Chống bọn bịp bợm buôn bán chiêu bài ái quốc, Chống bọn đội lốt tôn giáo để lũng đoạn tinh thần của Người Việt Quốc Gia. Chống Ḥa Giải-Ḥa hợp với cộng sản. Chống bọn hoạt đầu chính trị đang khom lưng, quỳ gối với cộng sản để xin ghế. Chống bọn đấu tranh dân chủ giả hiệu.. v́ hành động của những nhóm người này tác hại sâu xa đến tinh thần chống cộng của Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại. Chúng tôi tin rằng trên toàn thể các Cộng đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại, ngoài Tuần Báo Chính Nghĩa không có tờ báo giấy thứ hai dám đăng tải những bài viết chống lại cả một bọn người đang khom lưng, quỳ gối xin được bưng bô cho Cộng Sản để được chúng thí cho chút “xương thừa, máu văi” trên bàn tiệc xương máu của Dân Tộc Việt Nam. Bọn chúng không đông nhưng bọn chúng đă no cơm, ấm cật, đă làm giàu tại hải ngoại từ lâu qua những đồng tiền quyên góp dưới những chiêu bài bịp bợm quần chúng; v́ thế bọn chúng thừa phương tiện: đài phát thanh, truyền h́nh,báo giấy để lũng đoạn nhằm chiếm lấy thắng lợi trong cuộc chiến cuối cùng trên mặt trận văn hóa, chính trị để đạt tới mục đích nhuộm đỏ toàn Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại. Chính sách tâm công của Cộng Sản vô cùng hiểm độc nhưng đại khối Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại lại thờ ơ đến mức độ vô tâm thể hiện qua mấy chữ “khối thầm lặng”.
Ư thức đại cuộc của dân tộc vốn không phải là của riêng ai nên chúng tôi tiếp tay quảng bá những bài viết phù hợp với lập trường, quan điểm của chúng tôi không chỉ trên điện báo mà ngay trên báo giấy (điện báo có tầm ảnh hưởng rộng nhưng không sâu, số lượng tham gia diễn đàn lớn nhất chỉ vài ngàn, những ư kiến, bài viết trên điện báo không gây hại cụ thể cho các tác giả - websites Chính Nghĩa không thuần túy là một tờ điện báo mà chỉ là một bộ phận của Tuần Báo Chính Nghĩa.) Chúng tôi chấp nhận tất cả mọi khó khăn với tư cách của một con dân VNCH, khó khăn đến đâu chúng tôi cũng không hăi sợ bởi đối với một Người Việt Quốc Gia Chân Chính điều đáng sợ nhất là “Vong Thân”. Đối với chúng tôi chỉ có một điều khó khăn lớn nhất mà chúng tôi không thể làm được: đó là việc phản bội lại Tổ Quốc và Dân Tộc.Tất nhiên đối với chúng tôi Tổ Quốc và Dân Tộc đứng trên tất cả. Không có tôn giáo nào, thế lực nào, đảng phái nào, tổ chức nào, cá nhân nào có quyền đứng trên lợi ích của Tổ Quốc và Dân Tộc. Thực tế không một Người Việt Quốc Gia Chân Chính nào bài xích tôn giáo. Nhưng những người quốc gia cầm bút không thể ngồi yên v́ bọn kiêu tăng khoác áo cà sa, đội lốt tu hành kia chẳng phải là đức Phật. Huống chi chúng sinh đang ch́m trong bến Mê mà cứ ngỡ rằng ḿnh đă t́m ra biển Giác nên Kẻ Sĩ buộc phải ra tay.
Xảo ngôn, vọng ngữ vốn phản lại Phật tính. Kẻ nào nói xấu người hiền th́ như ngửa mặt nhổ nước miếng lên trời. Lớp áo tu hành vốn chỉ là h́nh thức, h́nh thức không phải là nội dung và bản chất. Hăy nh́n việc họ làm, đừng nghe lời họ nói. Lắm kẻ mồm mép lúc nào cũng tự nhận là phật tử thuần thành nhưng THAM, SÂN, SI quá ư lộ liễu. Khi Sự Thật phơi bày th́ lập tức mọi người thấy ngay “những cái bồ dao găm” trong bụng họ. Lịch sử đă chỉ rơ: chính v́ nhóm kiêu tăng, mạt tăng lộng hành dẫn tới Pháp mạt rồi Quốc mạt chứ đào đâu ra Pháp nạn. Quốc mạt hay Pháp mạt đều bắt nguồn từ thượng tầng chức sắc trong hàng giáo phẩm và quần chúng trở thành nạn nhân v́ sự mê muội, tối tăm của ḷng cuồng tín. Người cầm bút có trách nhiệm phải dũng cảm nói lên SỰ THẬT để thức tỉnh quần chúng trong thời kỳ mà những kẻ khoác áo tu hành c̣n tệ mạt hơn những phường hạ lưu thế tục. Kim Âu

 

Nhớ lại cuộc thảm sát Thanh Bồ - Đức Lợi, Đà Nẵng

24-8-1964

 

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

 

 

 

 

 

 

Xin Bấm PLAY để nghe âm thanh

 

 

Cuộc Thảm Sát Bắt Đầu :

Khi nói đến Thanh Bồ, th́ nhiều người đều có kèm theo Đức Lợi. V́ phường Thanh Bồ nằm phía mặt tiền, cổng quay mặt ra đường Đống Đa, c̣n phường Đức Lợi lại nằm phía sau Thanh Bồ sát bờ biển. Ngoài chiếc cổng nhỏ ở góc đường Bạch Đằng, người dân Đức Lợi và Thanh Bồ thường ra vào thành phố cùng một cánh cổng chính dẫn ra đường Đống Đa. Ngoài ra, hai khu này đa số là đồng bào miền Bắc di cư. Bởi thế, mọi người đều gọi chung là Thanh Bồ-Đức Lợi.

Sau khi đốt cháy ṭa Thị Chính Đà Nẵng, các thầy chùa như: Thích Minh Chiếu, Thích Như Huệ, Thích Hạnh Đạo ... và những hạ bộ như : Phan Xuân Huy, La Thành Tỵ ... là đám cầm đầu ra lệnh cho đoàn biểu t́nh đi thẳng xuống Thanh Bồ- Đức Lợi.

Lúc Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc đến trước một cao ốc cho Mỹ thuê, phía trái cánh cổng Thanh Bồ, quay mặt ra đường Đống Đa. Đám này đă kiếm chuyện gây hấn với các nữ công nhân tại cao ốc này, chúng hét to bằng những lời lẽ hạ cấp, tục tỉu, vô giáo dục nhưng tôi chỉ ghi lại một câu thôi, nguyên văn như sau :

“ Ê ! Mấy con đĩ Mỹ ... Mấy con đĩ Mỹ ...”

Lúc đó, các nữ công nhân đang lau nhà ở lầu 01. Bỗng nghe những lời lẽ ấy. Tự ái và danh dự bị tổn thương. Nên trong số người đó, có chị Phạm Thị Liễu quê ở xă Kỳ Hà, Quảng Tín, ra Đà Nẵng làm công. V́ uất ức nên chị Liễu đă bưng nguyên xô nước bẩn đang lau nhà đem tạt thẳng xuống đầu đám “ Phật giáo Cứu quốc”.

Việc làm này của chị Liễu, nếu b́nh tâm mà suy xét, th́ không thể trách chị được. Bởi các chị ấy, là những người dân từ các làng quê đă bị Việt cộng đánh chiếm, hoặc đă mất an ninh v́ sợ bị VC bắt đưa lên rừng núi làm du kích, nên họ đă chạy về thành phố, nhưng chính quyền lại vô trách nhiệm, chẳng hề giúp đỡ một chút ǵ cả. Nên họ phải tự t́m cách để mưu sinh. Họ là những phụ nữ thật đáng thương. Ngược lại, “Phật giáo cứu quốc” chẳng những không hề thương xót mà lại c̣n buông những lời hạ nhục họ nữa ? !!!

Nhưng, mọi chuyện chưa kết thúc ở đó. V́ sau khi bị tạt nước lau nhà, Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc đă dùng gạch, đá ném lên ṭa cao ốc này, làm mấy cánh cửa kiếng vỡ tan. Thấy vậy, một người Hoa Kỳ mới dọa bằng cách lấy súng tùy thân bắn mấy phát chỉ thiên. Rồi bảo công nhân vào nhà đóng cửa lại.

Không làm ǵ được chị Liễu. “Lực lượng Phật giáo Cứu quốc” bèn kéo nhau tới trước cổng Thanh Bồ. Tay múa gậy, mồm la hét :

“ Cần Lao ác ôn ! Chúng mầy ở trong nầy ! Chúng mầy ra đây ! Chúng mầy không ra, th́ chúng tao cũng vô lôi cổ chúng mầy ra mà đánh cho chết hết.”

Tiếp theo là những tiếng hét to hơn :

“ Bọn Cần Lao ác ôn, chúng nó ở trong nầy ! Vô đi ! Vô đi ! Giết sạch hết đi ! ”

Nghe những tiếng la hét như thế, đồng bào có mặt ở đó cứ tưởng là chúng la cho đỡ tức, v́ bị tạt nước bẩn. Không ai ngờ là chúng giết người thật.

Thanh Bồ-Đức Lợi Máu Lửa :

Khi nghe những tiếng la hét vang dậy của lũ lục lâm. Và thấy đồng bào hoảng hốt. V́ Thanh Bồ-Đức Lợi cũng là khu Tổng kho, trong đó gồm có : Kho gạo, kho lương thực … Nên các chủ kho là những người đă có sáng kiến xây dựng lên chiếc cổng, mục đích để bảo vệ an ninh và tài sản của các kho. Họ thấy lo sợ nên đă bảo hai thiếu niên Pḥng Vệ Dân Sự (PVDS) ra đóng cổng lại.

Thấy vậy, “Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc” liền xúm nhau xông vào phá cổng và túm lấy hai thiếu niên, rồi dùng gậy gộc, gạch., đá, nắm đấm, chân giày. Chúng cũng đă xúm nhau vào đấm, đá, đánh, đạp vào tấm thân gầy yếu của hai em, cho đến khi cả hai đếu gục chết.

Thương xót hai em, một Hạ sĩ quan Không quân không biết từ đâu chạy ra t́m lời phân giải. Th́ lập tức lũ côn đồ này liền vồ lấy vị quân nhân, rồi cũng dùng gậy gộc, gạch, đá, đánh anh cho đến khi chết hẳn.

Nhưng “Phật Giáo Cứu Quốc” cũng chưa chịu buông tha. Mà chúng cùng nhau bẻ dây kẽm gai ở bờ tường rào, đem cột vào cổ hai thiếu niên và vị quân nhân. Rồi chúng xúm nhau đem treo cả ba cái xác chết này lên cổng Thanh Bồ mới hả dạ.

Trước mắt mọi người lúc ấy. Xác chết của hai em bé, bị treo lơ lửng trên cổng Thanh Bồ. Hai cái cổ của hai em bị găy nơi bị cột dây thép, máu ứa ra từ những chổ có mắt kẽm gai đâm vào. Đầu ngă sang một bên. Áo quần đẫm máu. Cả khuôn mặt đă biến dạng, sưng vù. Bốn ḍng máu đỏ sẫm ứa ra từ hai chiếc miệng của hai em dù đă chết. Nhưng bốn con mắt ngây thơ của hai em đều mở to nh́n xuống đám “ người” đă nhân danh là “ Lực Lượng Phật Giáo Cứu Quốc”!!!

Nhưng chưa hết đâu. Bởi trong cơn say máu người “Phật Giáo Cứu Quốc” đă ồ ạt xông vào khu dân cư Thanh Bồ-Đức Lợi. Tay vung gậy gộc, gạch, đá mồm la hét :

“Cần lao ác ôn đâu ! …Giết hết …! ”

Rồi có những tiêng la to :

“Hăy đốt nhà chúng nó ! Đốt hết ! Đốt sạch đi !

Chúng cũng đă dùng loa phóng thanh kêu gọi :

“Yêu cầu đồng bào Quảng Nam, hăy mau mau tách rời khỏi dân Bắc cầy, và gia nhập vào Lực lượng Phật giáo Cứu quốc, th́ nhà sẽ được chừa ra không bị đốt.”

Nhưng đồng bào Quảng Nam chẳng có một người nào chịu nghe lời của chúng cả. V́ chỉ có người ngu tới tin là “ Gia nhập LLPGCQ, th́ nhà sẽ được chừa ra không bị đốt”. V́ lửa đâu có biết phân biệt cái nhà nào là của người Quảng hay người Bắc. Bởi nhà cửa liền nhau, hể đốt một cái là nó sẽ lan ra cháy sạch hết cả Thanh Bồ-Đức Lợi.

Vả lại, qua những năm dài chung sống với người Bắc di cư, người Quảng Nam đâu có thấy “ Cần Lao ác ôn” ở chổ nào, mà họ chỉ thấy đồng bào miền Bắc với những tấm ḷng đầy nhân ái. V́ thế, máu của đồng bào Quảng Nam đă ḥa lẫn với máu của đồng bào miền Bắc trong cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi !

Sau một hồi la hét, chẳng thấy bóng dáng ai cả. Chúng đă dùng xăng tưới vào mấy căn nhà nhà của đồng bào ở đầu con đường chính dẫn vào Thanh Bồ-Đức Lợi và châm lửa đốt.

Lúc này, dân Thanh Bồ-Đức Lợi đa số là ngư dân nên đàn ông đă ra biển. Chỉ c̣n đa số là phụ nữ và trẻ em.

Khi ngọn lửa bốc cháy, th́ những người không ra biển hôm ấy đă kêu gọi mọi người chạy ra phường Đức Lợi ở ven biển phía sau Thanh Bồ. Rồi tất cả đồng bào Thanh Bồ- Đức Lợi đều bồng bế nhau lên thuyền cùng chạy ra khơi để tỵ nạn Phật giáo.

Trừ bốn nạn nhân đă bị chết thảm trước mắt đồng bào, đó là : Ông Trần Sô sau khi bị đánh chết, đă bị dập đầu, hai em bé và vị Hạ sĩ quan Không quân sau khi bị đánh chết đă bị treo cổ trên cổng Thanh Bồ bằng dây kẽm gai. Ngoài ra, không ai biết chính xác được về con số thương vong, trong cuộc thảm sát này. V́ ngay cả chính quyền lúc ấy đă làm ngơ, không hề để tâm đến, không hề giúp đở đồng bào lâm nạn. Nhưng người ta đều biết đă có những cụ già, em bé, phụ nữ mang thai không chạy kịp, nên sau đó người thân chỉ c̣n t́m lại được nắm xương khô trong đống lửa đă tàn, v́ cả hai phường Thanh Bồ-Đức Lợi đă bị cháy sạch.

Riêng số đồng bào chạy thoát được lên thuyền, cũng lâm vào cảnh rất thương tâm:

Bởi, khi cố chạy từ trong đám cháy để thoát thân, nên rất nhiều người lớn, bé đă bị bỏng, bị thương, mà họ không hề mang theo được một thứ ǵ để cứu thương cả. V́ thế, có những phụ nữ mang thai đă sinh non trên thuyền, đă chết cả mẹ lẫn con. Đến lúc các thuyền t́m cách đưa những người bị thương đến các bệnh viện, th́ có người đă chết. C̣n các bệnh viện lúc ấy đă chứa đầy bệnh nhân và cũng là nạn nhân của Phật giáo tại Thanh Bồ-Đức Lợi.

Cũng trong “ Mùa Biển Động- tập 1” Nhà văn Nguyễn Mộng Giác có viết về cuộc thảm sát này như sau :

“Cháy, cháy. Chúa ơi ! Chúng nó đốt nhà. Cứu tôi với ! ... Khói ngùn ngụt bốc lên, cùng với tiếng nỗ gỗ và tre nỗ lốp bốp ... Thanh niên cầm sẵn Garant vẫn được phát cho Nhân dân tự vệ khu từ trước. Toán thanh niên ô hợp cầm biểu ngữ truy lùng Cần Lao vừa hiện ra th́ tất cả chuông nhà thờ đều rung lên liên hồi. Cuộc thánh chiến bắt đầu.”

Những điều nhà văn Nguyễn Mộng Giác đă viết ở trên. Tôi chắc chắn chỉ đúng với chuyện đốt nhà, và cái đám “truy lùng Cần Lao”. Nhưng “Thánh chiến” th́ KHÔNG. V́ “Phật giáo Cứu quốc” đánh, giết người, đốt nhà, c̣n đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi chỉ biết bồng bế nhau chạy lên thuyền ra khơi để trốn. Chứ không có vũ khí, không chống trả lại PGCQ, nên không có thánh chiến. Và tôi cũng khẳng định là dân Thanh Bồ-Đức Lợi không có “cầm sẵn Garant” không có nhân dân tự vệ, mà chỉ có Pḥng Vệ Dân Sự (PVDS). Lúc đó, chỉ được phát gậy để pḥng gian. Mà PVDS cũng chỉ toàn là thiếu niên v́ các thanh niên từ 18 tuổi trở lên đều đă lên đường nhập ngũ.

Về Lực Lượng Nhân Dân Tự Vệ, ( LLNDTV) th́ ai cũng biết là sau tết Mậu Thân 1968, chính phủ mới cho thành lập lực lượng NDTV có vũ trang. Nhưng đa số là nữ và những người ngoài hạn tuổi quân dịch. Đều được phát súng Carbine M.1 hoặc M. 2. C̣n súng Garant th́ có phát nhưng v́ NDTV đa số là thiếu nữ, nên nhiều người khi bắn không kềm giữ súng được nên lúc bắn thường hay bị giật mạnh, khiến báng súng dộng vào ngực rất đau. Một điều khó nữa là súng Garant lúc đó khó t́m được đạn, v́ loại súng nầy vốn là của lực lượng Dân Vệ rồi chuyễn sang cho Nghĩa Quân để lại, khi họ đem giao nộp để nhận súng R.15. Thêm nữa là súng Garant cồng kềnh, và nặng các thiếu nữ và những người già thuộc LLNDTV không chịu nhận. Tôi dám chắc là nhà văn Nguyễn Mộng Giác không rành về các loại súng và bắn súng như tôi đâu, dù tôi là phái yếu.

Tuy nhiên, tôi cảm thông được là nhà văn Nguyễn Mộng Giác, vừa viết vừa run. Vừa sợ không bán được sách. Bởi mười năm trước đây. Chính ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng, Chủ nhiệm Bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong và tôi cũng từng bị lũ lục lâm hăm dọa, khi ông chấp nhận đăng những bài viết của tôi trên báo. Ông đă hỏi tôi: “Có dám bất chấp mọi thứ hay không ?“ Và tôi đă trả lời với ông rằng tôi đă sẵn sàng trước khi viết. Dù bây giờ ông đă ra đi, nhưng cho đến giờ nầy và măi măi tôi vẫn giữ bút hiệu Hàn Giang kèm theo tên thật để nhớ về ông Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng.

Vậy, từ nay nếu có viết về các biến cố “Tranh Đấu” của các thầy chùa tôi dám mong nhà văn Nguyễn Mộng Giác hăy viết những ǵ thật trung thực và đầy đủ. Đó là điều mà những người cầm bút phải luôn luôn tâm niệm.

Trở lại với cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi. Tôi muốn nhắc đến một người dù đă chết. Đó là tướng Nguyễn Chánh Thi.

Ấy là, sau khi nhà cửa của đồng bào bị “Phật giáo Cứu quốc” đốt cháy sạch sẽ, Thanh Bồ-Đức Lợi chỉ c̣n một băi cháy, với từng đống cột, kèo và từng vật dụng đă trở thành những đống than, tro. Th́ không biết tại sao tướng Nguyễn Chánh Thi lại ngồi trên một chiếc xe tăng thiết giáp. Chỉ huy một đoàn thiết kỵ, trang bị vũ khí đủ loại ầm ầm tiến về phía Thanh Bồ-Đức Lợi.

Khi đến trước cổng Thanh Bồ, tướng Thi đă dùng loa phóng thanh kêu gọi như sau:

“Yêu cầu tất cả Cần Lao hăy mau mau ra đầu hàng trong ṿng bốn tiếng. Nếu sau bốn tiếng đồng hồ mà không ra đầu hàng tôi sẽ cho san bằng tất cả “.

Sau bốn tiếng đồng hồ, không thấy động tĩnh. Tướng Thi đă ra lệnh cho đoàn xe tăng thiết giáp tiến sâu vào Thanh Bồ-Đức Lợi. Lúc đó, tướng Thi thấy được toàn cảnh chỉ là một băi cháy. Ông bèn dùng loa phóng thanh hỏi có ai trong khu này không , Th́ bỗng có mấy cụ bà xuất hiện. Hỏi ra, các cụ vừa khóc vừa cho biết là con cháu chưa đứa nào dám trở về cả. Nên các cụ liều thân về trước xem thử t́nh h́nh ra sao, không ngờ tất cả đều cháy sạch sẽ.

http://media3.washingtonpost.com/wp-dyn/content/photo/2007/06/26/PH2007062602198.jpg

Nguyễn Chánh Thi

Người ta thấy khuôn mặt tướng Thi lúc ấy có vẻ như đang suy nghĩ điều ǵ ? Rồi ông buột miệng nói :

“Đ. M. Cái thằng Minh Chiếu nó bịp tao mà. Chỉ có mấy bà già. Cần Lao đâu ? “

Sau đó, tướng Thi đă ra lệnh cho “Lực lượng Phật Giáo Cứu Quốc” phải rút khỏi các khu của đồng bào miền Bắc di cư.

Qua những sự kiện đă kể ở trên, tướng Thi bây giờ đă chết. Nhưng Ḥa thượng Thích Minh Chiếu, Ḥa thượng Thích Như Huệ, Ḥa thượng Thích Hạnh Đạo, Ḥa thượng Thích Minh Tuấn... hiện c̣n sống, đang có mặt tại Hoa Kỳ và Úc Châu. Ngày 1/10/2003, đă được đại hội Phật giáo “Suy cử” vào “Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất”. Tất nhiên, phải biết rơ hết tất cả mọi căn nguyên.

 

 

 

 

Thích Như Huệ

HT Thích Hạnh Đạo

 

 

 

 07

Đại đức Thích Minh Tuấn

 

 

 

 

 trai.gif

TT Thích Minh Chiếu Trưởng Ban HDPT tỉnh phát biểu khai mạc

 

Cảnh Ngộ Của Đồng Bào Thanh Bồ- Đức Lợi Sau Cuộc Thảm Sát.

Sau cơn máu lữa, quay thuyền trở lại, th́ đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi đă bàng hoàng trước một băi than, tro tàn rộng lớn, trăi dài theo ven biển. Những tiếng khóc ngất, kẻ lịm đi trước nắm xương tàn khô của người thân vừa t́m được trong sân nhà cũ !!!

Nhưng cái khó khăn nhất trước mắt. Là mọi người phải đối diện với cảnh màn Trời chiếu đất! Tất cả đều bị cháy sạch. Không có bộ áo quần thứ hai, không c̣n một chiếc đũa ăn cơm!

Trước cảnh Trời sầu đất thảm ấy. Các vị đă chứng kiến cuộc thảm sát. Trước hết là các vị Linh Mục của các giáo xứ như: Linh Mục Nguyễn Quang Xuyên, Quản nhiệm Nhà thờ Chính Ṭa, Linh Mục Nguyễn Văn Phương, Linh Mục Hoàng Hồ, Linh Mục Đinh Văn Lợi, Linh Mục Lê Như Hảo, Linh Mục Lê Như Hào...

Kế đến là các tôn giáo như : Mục Sư Minh (xin lỗi tôi quên họ). Mục Sư Dương Thạnh, và các tín hữu Hội Thánh Tin Lành ĐN. Mục Sư Dương Thạnh hiện nay là Chủ tịch Tổng Liên Hội Tin Lành Viêt Nam. Quản nhiệm ngôi nhà thờ Tiên khởi của Hội Thánh TLVN tại số 164, đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng.

Giáo Sĩ Trần Văn Quế, Chánh Phối Sư Cao Đài Miền Trung, Giáo sĩ Trần Thanh Thuyền, Phụ tá Chánh phối sư, Đặc trách ngoại giao Cao Đài Miền Trung và Hội Thánh Cao Đài thuộc “ Trung Hưng Bửu Ṭa Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài Miền Trung ” ở số 35, đường Nguyễn Hoàng, Đà Nẵng. Tôi xin nói thêm là Cao Đài Miền Trung không trực thuộc Cao Đài Tây Ninh.

Và các vị nhân sĩ tại Đà Nẵng đă kêu gọi đồng bào đóng góp giúp đỡ như : Bác sĩ Trần Đ́nh Nam, Bác sĩ Thái Cang, Bác sĩ Huỳnh Tấn Đối, Bác sĩ Lê Nguyên Các, Giáo sư Trịnh Thể, Giáo sư Nguyễn Văn Xuân, Luật Sư Vũ Đăng Dung, Luật Sư Đặng Vũ Niết, Luật Sư Trương Thị Thúy và các Đoàn thể chính trị tại ĐN ..

Sau khi được sự giúp đỡ. Đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi đă tự dựng lên những chiếc lều bằng vải bạt, hoặc bằng lá. Rồi họ phải làm lại từ đầu như mười năm trước. Khi phải đứt ruột để rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn nơi cố lư của miền Bắc thân yêu, để vào miền Nam chạy trốn cộng sản.

Về phía chính quyền. Cũng có một số người muốn giúp đỡ, nhưng họ nói họ rất sợ tướng Nguyễn Chánh Thi. Bởi lúc ấy, sau khi tướng Tôn Thất Xứng v́ sợ Phật giáo nên đă vào Sài G̣n tránh mặt. V́ vậy, tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Tiền Phương đă xử lư Thường vụ Tư lệnh Quân Đoàn 1, kiêm Tư lệnh Quân khu 1, kiêm xử lư Đại Biểu Chính Phủ tại Vùng 1 Chiến Thuật. Mà ác hại thay, tướng Thi lại có vai tṛ quan trọng trong cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi. V́ thế, như đă nói là các viên chức chính quyền tại ĐN, rất sợ tướng Thi và thầy chùa. Mà trước mắt là cái chết thảm khốc của ông Trần Sô và hai em bé và vị quân nhân Không quân đă làm mọi người khiếp đảm, nên không có ai dám ra mặt giúp đỡ đồng bào. Ngay khi Phật giáo tưới xăng và đốt nhà của đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi mà sở cứu hỏa cũng đành ngồi nh́n ngọn lữa đốt sống đồng bào, trong đó có những cụ già, em bé, những phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh, cùng lúc với nhà cửa và tài sản do mồ hôi nước mắt của họ đă bao năm gầy dựng bởi “Ăn dè hà tiện”.

Và cũng chính v́ những điều đă nói ở trên. Bởi, những kẻ cầm đầu của cuộc thảm sát này, không hề bị xét xử theo luật pháp nghiêm minh. Nên nó đă di hại cho đến các cuộc Bạo loạn miền Trung: Mùa hè 1966- Cuộc thảm sát Mậu Thân 1968- và 30/4/1975: Ngày nước Việt Nam Cộng Ḥa rơi vào tay cộng sản. Và không biết nó sẽ c̣n di họa cho đến bao giờ--? !!!

 

 

 

Thay Cho Lời Kết.

Như cả nước Việt Nam đều biết. Mấy chục năm qua Phật giáo đă từng đẻ ra rất nhiều những tổ chức ngoại vi. Từ danh xưng “Gia đ́nh Phật tử” do Bác sĩ Lê Đ́nh Thám, một đảng viên cộng sản kỳ cựu thành lập. Thực ra, cũng là một cách “Đoàn ngũ hóa nhân dân”.

 

 

 http://gdptvnac.net/tammin1.jpg

Cho đến những tổ chức sau này. Nhưng có những tổ chức đă gây ra máu lữa nhiều nhất mà ai cũng biết, nó được dán lên những nhăn hiệu khác nhau như sau :

*- Lực lượng Phật giáo cứu quốc, Lực lượng Thanh niên Phật tử cứu quốc: Cuộc thảm sát Thanh Bồ-Đức Lợi : 24/8/1964.

*- Phật Giáo Xă Hội Đảng, Quân đoàn Vạn Hạnh , Lực lượng Tranh thủ Cách mạng, Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử: Cuộc bạo loạn miền Trung: Mùa hè 1966. Và Cuộc thảm sát Tết Mậu Thân: 1968.

*- Lực lượng Phật giáo Ḥa hợp, Ḥa giải : 30/4/1975, Đưa xe ra tận núi rừng để rước bộ đội cộng sản Bắc Việt vào các thành phố, trên khắp lănh thổ của Việt Nam Cộng Ḥa.

Nhưng lịch sữ đă chứng minh. Trên mặt địa cầu này. Tất cả những cuộc chiến chinh, đều có căn nguyên, có mục đích. Riêng những cuộc “Đấu tranh” của Phật giáo tại Việt Nam với những lư do mà họ đă nêu ra đều không phải là thật.

Theo tôi, với khối óc và cặp mắt b́nh thường. Tôi khẳng định rằng: Sỡ dĩ bao nhiêu năm qua, Phật giáo cứ liên tục gây ra không biết bao nhiêu máu lữa. Không biết bao nhiêu người đă chết thảm dưới bàn tay của những tên Tăng Phỉ và lũ Hạ Bộ. Ấy chính bởi cái cuồng vọng là muốn tái lập triều Lư. Phật giáo luôn luôn mơ màng về một triều đại Phật giáo là quốc giáo, và chỉ c̣n có Phật giáo.

Chính v́ vậy, để đạt được cái cuồng vọng ấy. Phật giáo đă chủ trương phải tiêu trừ, tận diệt hết tất cả các tôn giáo khác. Đồng thời, cũng phải tận diệt hết tất cả các đảng phái chính trị . Để cuối cùng, chỉ c̣n duy nhất Phật giáo là tôn giáo và cũng là Phật đảng. Tất cả phải thần phục Phật giáo.

Tôi nghĩ rằng, trong tương lai, dù không c̣n cộng sản. Dù bất cứ một đảng phái nào, một vị nào dù tài cao đức trọng có đứng ra lănh đạo đất nước. Th́ Phật giáo cũng cứ ca những bài : Độc tài, Gia Đ́nh trị, Pháp nạn... Rồi cũng lại, Tranh đấu, Biểu t́nh, Xúi dục người khờ dại tự thiêu, nếu không có ai chịu tự thiêu, th́ bức tử, rồi đem ra đốt, có khi đem xác chết ra để đốt, rồi hô hoán là họ “tự thiêu”. Tôi sẽ chứng minh những điều đă nói, bằng những tài liệu và h́nh ảnh làm giặc của thầy chùa thật chính xác trong thời gian tới.

Nghĩa là, ngày nào chưa thành lập được một Việt Nam Phật Quốc. Th́ ngày đó, Phật giáo c̣n “tranh đấu”.

Nhưng ở đời “Mưu sự tại nhân, Thành sự tại Thiên“. Theo tôi, Phật giáo nên theo lời Đức Phật đă dạy mà hăy “Tự đốt đuốc t́m đường mà đi”. Bởi PG qua bao nhiêu năm vẫn c̣n ngủ mê trong đêm dài tăm tối.

Tuy nhiên, nếu vẫn cứ ôm hoài cái cuồng vọng tái lập Lư triều. Th́ hăy cứ mơ, cứ tưởng, cứ phiêu lưu măi trên con đường đầy chông gai và đầy bất trắc. Nhưng cũng phải nên nhớ kỹ rằng :

“Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ”.

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

================================

 

PHỤ CHÚ:

 

Chú Ư: Phần tài liệu dưới đây để nh́n rơ bộ mặt của Nguyễn Đắc Xuân và những tên Cộng Sản phật giáo, trí thức dính máu đồng bào vô tội. Xin đừng quên những nạn nhân vô tội đă chết oan ức .

 

Ai gây ra vụ đốt phá

Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẵng 45 năm trước ?

 NguyenDacXuan

Nguyễn Đắc Xuân

tác giả gửi ngày 27 tháng 1, 2009

Bốn mươi lăm năm trước, ai gây ra vụ đốt phá xóm đạo Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẵng vào ngày 25-8-1964 ? Đây là một câu hỏi những người trong cuộc hiện c̣n tại thế cần phải trả lời cho lịch sử Phong trào đấu tranh đô thị ở miền Nam Việt Nam.

Ông Lê Công Cơ - một người lănh đạo bí mật thanh niên sinh viên học sinh Giải phóng ở các đô thị Đà Nẵng-Huế trong hồi kư Năm Tháng Dâng Người (Nxb Phụ Nữ, 2006) kể lại rằng:

“Tiếp sức với Huế (đấu tranh chống Nguyễn Khánh với Hiến Chương Vũng Tàu do Khánh nặn ra), lực lượng của ta tại Đà Nẵng đă chủ động tổ chức băi khóa và xuống đường. Hàng vạn học sinh Đà Nẵng giương cao biểu ngữ:

- Đả đảo Hiến chương Vũng Tàu !

- Đả đảo Nguyễn Khánh!

[...]

 

Ḍng biểu t́nh cứ kéo qua các phố chính tại Đà Nẵng không dứt, càng về trưa ḍng người càng đông nghịt, ngăn tất cả các lối đi trong thành phố. Sơn Hải và Cẩm Nhung cùng một số cốt cán của ta dẫn đ̣an biểu t́nh đến thẳng khách sạn Đà Nẵng, nơi mà các gia đ́nh cố vấn Mỹ ở.

Đ̣an biểu t́nh vừa đến th́ một số lính Mỹ đứng trên tầng cao khách sạn ném chai lọ xuống và to mồm chửi tục. Lập tức, ḍng người biểu t́nh ào vào xông lên khách sạn, lính Mỹ nổ súng, cuộc ẩu đả xảy ra mỗi lúc một ác liệt. Cuộc biểu t́nh lui về phía Thanh Bồ Đức Lợi để tránh đạn, th́ từ phía sau nhiều tóan thanh niên được trang bị gậy gộc xông vào đánh túi bụi đám đông đang cố thủ dọc đường rầy xe lửa. Thế là một cuộc đánh nhau đă diễn ra giữa đ̣an biểu t́nh với khu Thanh Bồ Đức Lội, cho măi tới xế chiều đ̣an người được tăng viện mỗi lúc một đông hơn và cơn giận đă biến thành ngọn lửa đốt rụi nhiều nhà tại đây.

Tôi đến tận nơi lúc trời gần tối, gặp Sơn Hải và anh Đồng đang gào thét :“đả đảo Mỹ” với hàng ngàn người biểu t́nh. Tôi kéo anh Đồng lại và nói ngay:

- Hăy hướng dẫn đ̣an biểu t́nh về ngay Ṭa Thị chính Đà Nẵng bên bờ sông Hàn.

Hàng vạn người tràn qua đường Bạch Đằng nối theo không dứt và tràn vào chiếm ṭa Thị chính”. (tr. 208-209).

 

Qua đọan trích trên chứng tỏ ông Lê Công Cơ (CS) đă lănh đạo các cơ sở Giải phóng ở Đà Nẵng mà chủ chốt là Sơn Hải, Cẩm Nhung và sau đó có thêm anh Đồng hô hào quần chúng Đà Nẵng chủ động đến khách sạn Đà Nẵng chống Mỹ, chủ động chống lại thanh niên Thanh Bồ Đức Lợi và cũng chủ động gây lên cuộc đốt phá khu Thanh Bồ Đức Lợi và chủ động hô hào đồng bào rút khỏi Thanh Bồ Đức Lợi để về chiếm ṭa thị chính Đà Nẵng.

 

Có đúng như vậy không ?

 

Trong lúc đó, Phạm Văn Liễu, trước năm 1966, từng đứng đầu ngành công an cảnh sát Việt Nam Cộng Ḥa , trong hồi kư Trả Ta Sông Núi lại cho rằng cuộc bạo động ở Thanh Bồ Đức Lợi do sự hiềm khích giữa Phật tử và thanh niên Thiên chúa giáo Đà Nẵng gây ra:

“Ngày 25-8, bạo động đổ máu ở xă Thanh Bồ, Đà Nẵng. Khi một đ̣an biểu t́nh đi ngang qua trạm tự vệ của xă Thanh Bồ, một số tự vệ có thái độ khiêu khích. Những người đi biểu t́nh bèn tấn công trạm tự vệ trên. Tự vệ Thiên chúa giáo nổ súng khiến 11 người chết, 42 người khác bị thương. Hàng ngàn Phật tử bèn tràn vào đốt phá xă Thiên chúa giáo nầy. Khỏang 500 căn nhà trong xă chỉ c̣n ít chục căn nguyên vẹn”. (Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi tập 2, Nxb Văn Hóa tại Hoa Kỳ, 2003, tr.143).

 

Cái dư luận “Phật tử gây ra vụ đốt phá khu Thanh Bồ Đức Lợi” đă qui trách nhiệm cho ông Ḥang Văn Giàu - người đứng đầu đ̣an Sinh viên Phật tử Huế lúc ấy. Nhiều người hỏi tôi (một Sinh viên Phật tử của Ḥang Văn Giàu những năm 1963-1964) dư luận ấy có đúng không ? Tôi đă kể lại rằng:

- Lần đầu tôi nghe chuyện Thanh Bồ Đức Lợi bị đốt phá ở pḥng riêng ông Ḥang Văn Giàu (Đ̣an trưởng đ̣an SVPT Huế), trên dăy lầu sau Morin. Hôm ấy ông tiếp sinh viên ban sử địa Đại học Văn khoa Lê Đ́nh Cai. Không biết hai người đă trao đổi với nhau trước đó những ǵ, tôi đến sau chỉ nghe ông Giàu phê b́nh Lê Đ́nh Cai đă gây ra vụ đốt phá Thanh Bồ Đức Lợi trái với đường lối bất bạo động của Phật giáo. Lê Đ́nh Cai ngồi chống cằm nghe rất buồn. Lê Đ́nh Cai vốn có họat động với Đ̣an SVPT nhưng từ sau ngày bị ông Giàu phê b́nh như thế Lê Đ́nh Cai xa dần chúng tôi. Có người giải thích rằng Lê Đ́nh Cai bị SVPT bỏ rơi nên mới chuyển qua họat động cho đảng Đại Việt. Người khác lại bảo Lê Đ́nh Cai đă là đảng viên Đại Việt trà trộn vào họat động với Phật tử sau khi bị khuyết điểm với Phật giáo Lê Đ́nh Cai ra mặt họat động cho Đại Việt thế thôi. Lê Đ́nh Cai có thời là bạn học sử với tôi nhưng chưa bao giờ tôi hỏi chuyện ấy thực hư như thế nào.

 

Biết chắc Phật tử không gây ra vụ Thanh Bồ Đức Lợi cho nên trong Nhật kư của tôi viết ngày 25-8-1964, (do Nhận Thức xuất bản tháng 11-1964), có đọan:

“Ngày hôm qua đă nói h́nh như có đến ba bốn người chết và mấy người bị thương. Máu đă chảy th́ không có nước sông biển nào rửa sạch. Máu của những người yêu nước chỉ có lịch sử mới đánh giá được. Người ta đă tự tạo ra những đối lực dùng người VN trị người VN những người VN ở Đànẵng và ở Thanh Bồ ơi, ai là người VN của người VN ai là người VN không phải của người VN?

Dù sao ḿnh cũng phải nhận rằng: đó là một bài học của những người thiếu kỹ thuật và ít sành tâm lư. Con người vốn có mặc cảm có tội dù cái mặc cảm không phải do con người thời đại đă tạo nên mà do khúc quanh của lịch sử.

 

Chúng ta phải đổ máu để tranh đấu cho nước VN nhưng chúng ta đừng làm vấy máu của người VN”. (Nguyễn Đắc Xuân, Chứng Nhân Của Miền Trung Tranh Đấu, Nxb Nhận Thức, Huế 11-1964, tr. 38 và 39)

Mới đây trên Website tại địa chỉ “www.giaodiemonline.com/thuvien/mluc/ mluc_II06/606_khaiphong- hvg.htm-63k”Thêm một nạn nhân của nạn lộng quyền ở trại tị nạn Songkhla: Hoàng Văn Giàu” của Trường Giang. đăng lại tờ Khai Phóng - một tạp chí của cư sĩ Phật giáo đầu tiên trên đất Mỹ, xuất bản năm 1981, mở đường cho tiếng nói giải hoặc lịch sử, trong số 4, tháng 6/81 có đề cập đến tai ương chính trị mà ông Ḥang Văn Giàu đă gặp phải trên bước đường “lưu đày” trong bài mang tựa đề :

Trong bài viết ấy có một đọan đề cập đến vụ Thanh Bồ Đức Lợi như sau:

“Biến cố này xảy ra năm 1964, và khởi sự từ một cuộc biểu t́nh do Đảng Đại Việt Cách Mạng tổ chức để phản đối Thủ tướng Nguyễn Khánh trong việc tranh chấp quyền lực giữa lănh tụ đảng này với Thủ tướng Nguyễn Khánh.

Kẻ tổ chức cuộc biểu t́nh này là Lê Đ́nh Cai, đặc trách Thanh niên, Sinh viên Học sinh của Đảng này tại miền Trung v́ thiếu tổ chức và lănh đạo cho nên sự việc đă xảy ra như sau : Đám biểu t́nh được hướng dẫn qua một khu dân cư, một bên kia là khu các bar, các room-for-rent cho lính Mỹ thuê ở. Đám biểu t́nh bị các cô bán bar trêu ghẹo diễu cợt. Một số người biểu t́nh phản đối, đấu khẩu, một số lấy đá ném các cô. Các cô ấy hoảng hốt kêu cứu các ông bạn Mỹ. Những người Mỹ này tưởng lầm bị biểu t́nh tấn công, lấy súng bắn. Dân biểu t́nh hoảng hốt dạt về phía bên làng Công giáo. Vốn sẳn mặc cảm bị đàn áp sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm đổ, nhưng người dân nơi đây tưởng là đám biểu t́nh tấn công, nên họ đă nổ súng vào đám biểu t́nh khiến có người chết và người bị thương. Quân đội và Cảnh sát phải đến can thiệp và đ̣i giải giới dân Thanh Bồ Đức Lợi. Họ không chịu. Quân đội phải nổ súng thị uy và tiến vào. Trong lúc đó, một số nhà bị cháy, một số do chính dân trong khu đốt để vu cáo cho quân đội theo phe biểu t́nh đàn áp họ. Tướng Nguyễn Chánh Thi là người biết rơ vụ này. Ngoài ra, một nạn nhân khác của vụ Thanh Bồ Đức Lợi đă viết sách có nói đến vụ này, đó là nhà văn Lệ Hằng và quyển “Bản Tango Cuối Cùng”, sách đă được tái bản ở Hoa Kỳ. Tác giả là người Công giáo và ở Thanh Bồ Đức Lợi. Phật tử Huế cũng như Hoàng Văn Giàu không dính líu ǵ đến vụ này” .

 

Tiến sĩ Quán Như Phạm Văn Minh tại Úc châu, trực tiếp hỏi chuyện lịch sử Ḥang Nguyên Nhuận (tức Ḥang Văn Giàu), c̣n lưu lại trên Website tại địa chỉ

www.giaodiem.com/doithoai/phongvanhvg.htm, đă đặt câu hỏi :

“Có những điều không sáng tỏ và đă trở thành mục tiêu để người ta công kích anh như vụ đem bàn thờ Phật xuống đường, vụ Thanh Bồ, các hành động chống Mỹ như đốt xe, đốt pḥng thông tin, thư viện, đ̣i Mỹ rút quân... Hypothetically nếu làm lại th́ theo anh nên làm thế nào?”

Ḥang Nguyên Nhuận (tức Ḥang Văn Giàu) đáp:

[...] Thanh Bồ Đức Lợi ở Đà Nẵng là một biến cố xảy ra ngoài ư muốn của chúng tôi và cũng không do chúng tôi tự ư gây ra trước. Sự việc xảy ra là v́ giáo dân trong vùng đă bị tẩy năo nên quá lo sợ sẽ bị trả thù. Họ đă phản ứng quá đáng rồi gây đổ máu v́ trong tay họ sẵn súng đạn mà họ đă thủ đắc một cách hợp pháp qua chính sách Ấp Chiến Lược và âm mưu thành lập các đặc khu yễm trợ cho chiến dịch xâm nhập Miền Bắc của Mỹ. Giáo dân trong vùng đă nổ súng và ném lựu đạn vào đoàn biểu t́nh tay không. Lệ Hằng đă nói lư do nào gây ra vụ này trong quyển Bản Tango Cuối Cùng. Lệ Hằng là người Thanh Bồ Đức Lợi và đă sống ở đó trong thời gian xảy ra vụ nầy. Tướng Thi lúc đó là Tư Lệnh Khu XI Chiến Thuật hẳn cũng c̣n nhớ vụ này khi ông cho lệnh tước khí giới của những toán dân quân tự vệ trong Thanh Bồ.[...]”

Ḥang Văn Giàu đề cập đến “giáo dân Thanh Bồ Đức Lợi có sẵn súng đạn” và tướng Nguyễn Chánh Thi “cho lệnh tước khí giới” các giáo dân.

Vậy tướng Nguyễn Chánh Thi c̣n nhớ vụ Thanh Bồ Đức Lợi như thế nào ?

Trong hồi kư Việt Nam Một Trời Tâm Sự, Nguyễn Chánh Thi viết:

“Đ̣an biểu t́nh được một số người quá khích và Cộng sản xúi giục có ư định đốt phá các làng di cư Tam Ṭa, Thanh Bồ và Đức Lợi. Tôi nhận được kêu cứu của vị tham mưu trưởng Quân đ̣an, cho biết là t́nh trạng rất nguy hiểm mà thiếu tướng Tôn Thất Xứng và ông Thị trưởng Đà Nẵng là Lê Quang Mỹ vắng mặt (Tin cho biết, tướng Xứng đi sài G̣n, c̣n Lê Quang Mỹ lánh mặt v́ được tin dân chúng có ư định đốt ṭa Thị chính và bắt ông ta làm con tin). (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam Một Trời Tâm Sự, Anh Thư xuất bản tại California, 1987, tr.245).

Qua các tư liệu hiện có ta có thể khái quát sự kiện Thanh Bồ Đức Lợi như sau:

 

Nhân kỷ niệm một năm Pháp nạn, (21.8.1963-21-8-1964) Sinh viên học sinh và đồng bào Phật tử xuống đường tranh đấu chống độc tài Nguyễn Khánh và Hiến chương Vũng tàu. Không khí tranh đấu ở Huế lan vào các tỉnh miền Trung. Lê Đ́nh Cai - đặc trách Thanh niên, Sinh viên Học sinh của Đảng Đại Việt, mượn danh nghĩa Sinh viên Phật tử Huế vận động quần chúng Đà Nẵng (trong đó có nhiều người là Phật tử), đi biểu t́nh “phản đối Thủ tướng Nguyễn Khánh”, một phần v́ mục đích chống độc tài của quần chúng và một phần thể hiện “việc tranh chấp quyền lực giữa lănh tụ đảng này với Thủ tướng Nguyễn Khánh”. Thấy quần chúng Đà Nẵng xuống đường tranh đấu chống Nguyễn Khánh và Hiến chương Vũng Tàu, ông Lê Công Cơ-người lănh đạo bí mật thanh niên sinh viên học sinh Giải phóng, chưa biết đó là cuộc xuống đường do đảng Đại Việt giật dây cũng vận động cơ sở hợp pháp tham gia. Đoàn biểu t́nh diễu qua khách sạn Đà Nẵng - nơi có các bar, các room-for-rent cho Cố vấn quân sự Mỹ thuê ở. Đoàn biểu t́nh bị các cô bán bar diễu cợt. Một số người biểu t́nh phản đối, đấu khẩu, một số lấy đá ném các cô. Các cô ấy sợ hăi bèn kêu cứu với “cố vấn” Mỹ. “Cố vấn” Mỹ tưởng lầm là ḿnh bị biểu t́nh tấn công nên xách súng ra bắn tứ tung. Đoàn biểu t́nh tay không hoảng hốt chạy dạt vào các làng Thiên chúa giáo di cư Thanh Bồ, Đức Lợi ở bên kia đường sắt. Thanh niên Thiên chúa giáo trong các làng di cư nầy, vốn có mặc cảm là người của chế độ Ngô Đ́nh Diệm vừa bị lật đổ, nghĩ rằng họ bị Phật tử tấn công, nên sẵn vũ khí đă thủ đắc một cách hợp pháp qua chính sách Ấp Chiến Lược và âm mưu thành lập các đặc khu yễm trợ cho chiến dịch xâm nhập Miền Bắc của Mỹ, đă nổ súng và ném lựu đạn vào đoàn biểu t́nh tay không.

Thông tin đồng bào và Phật tử bị giết phát tán khẩn cấp khắp thành phố Đà Nẵng, dân chúng các nơi đổ về, một cuộc xung đột đốt phá đẫm máu diễn ra ở Thanh Bồ Đức Lợi. Cuối cùng ông Nguyễn Chánh Thi -tư lịnh khu 11 chiến thuật của Quân đội VNCH phải đưa một tiểu đ̣an Biệt động quân và một Tiểu đ̣an bộ binh đi kèm theo đến tước khí giới của những toán dân quân tự vệ trong Thanh Bồ mới dẹp yên được. Theo Đ̣an Thêm (1945-1964, Việc từng Ngày, Nam Chi Tùng Thư, 1966, tr. 402) cuộc xung đột ấy đă có “11 người chết, 42 bị thương, nhiều nhà bị đốt”. Những con số của Đ̣an Thêm ghi được nhỏ hơn con số thực tế nhiều lần.

Sự kiện gọi là “vụ Thanh Bồ Đức Lợi” là một việc đáng tiếc do sự hiểu lầm từ nhiều phía (“Cố vấn” Mỹ, Thanh niên tự vệ Thiên chúa giáo ở Thanh Bồ Đức Lợi, quần chúng trong tay những người thiếu kinh nghiệm tổ chức đấu tranh). Nguyên nhân gây ra sự kiện nầy do tâm lư bất ổn của các thành phần tham gia, không một ai muốn nó xảy ra như thế cả.

Đính chính sự kiện nầy để cho nó đúng với thực tế đă xảy ra, đồng thời ghi lại một sự kiện không vui trong lịch sử đấu tranh chống Mỹ và chống các chính quyền tay sai ngọai bang ở các đô thị miền Nam 45 năm trước.

Gác Thọ Lộc, đầu năm 2009

 

Nguồn: Tạp chí Lịch sử Quân sự Việt Nam (CSVN), số Xuân 205 (1-2009) từ tr.51 đến tr.54

 

 

Vào lúc : 10:55 - 20/10/2008

 

Những ai từng quen biết tôi (đặc biệt là từ sau năm 1975 đến nay), từng đọc bài “Hậu quả của cái chết của tôi” trên Đông Dương Thời Báo và Nghiên Cứu Huế (số 1, năm 2000) gần mười năm nay, đọc Nhă Ca hồi kư vừa xuất bản ở Hoa Kỳ chắc họ đă có ư kiến, đă thấy Nhă Ca dựng thêm một h́nh tượng “Nguyễn Đắc Xuân lớ ngớ đi t́m thăm Nhă Ca” như thế nào rồi. H́nh tượng nầy ngược với h́nh tượng “Nguyễn Đắc Xuân khát máu ngồi xử án chôn người, bắn một người bạn có mâu thuẫn với ḿnh” trong Giải khăn sô cho Huế của Nhă Ca xuất bản 1969. Đối với tôi, đoạn hồi kư Nhă Ca viết về tôi quá lạ.

 

Người cầm bút xứ Huế

Sinh ngày 15-7-1937 tại Huế.

Ba tuổi theo gia đ́nh sống ở Đà Lạt, Đà Nẵng, Quang Ngăi cho đến năm mười bảy tuổi mới về lại Huế.

Cựu học sinh Quốc Học Huế (1956-1961), Cựu sinh viên Đại học Văn khoa và Đại học Sư phạm Huế. Từ năm c̣n ngồi trên ghế trường Trung học đă bắt đầu làm thơ, có thơ in từ năm 1959. Tham gia các Phong trào đấu tranh chống Mỹ ở đô thị, đến năm 1966 (học xong Đại học Sư phạm Việt Hán) theo bạn Hoàng Phủ Ngọc Tường ra vùng kháng chiến, làm thơ viết báo. Năm 1974, ra Hà Nội đi dự Đại hội Sinh viên Quốc tế lần thứ 11 tại Hungary, sau đó đi Trung Quốc chữa bệnh gan đến sau 30-4-1975 mới trở về lại Huế. Từ đó đến năm hưu trí (1998), đă từng công tác ở Hội Văn nghệ Thừa thiên Huế, Tuyên huấn Thành ủy Huế, Hội Văn nghệ TP Huế (Chủ tịch Hội), tạp chí Sông Hương (Phó TBT kiêm thư kư Ṭa soạn), báo Lao Động (Trưởng VP Miền Trung và Tây Nguyên). Bên cạnh cuộc đời làm cán bộ công chức, NĐX có một đam mê sưu tầm tư liệu và nghiên cứu Huế và triều Nguyễn. Đă xuất bản trên 50 đầu sách, tham dự hàng chục Hội thảo khoa học về văn hoá lịch sử Triều Nguyễn và Huế.

 

 

HẬU QUẢ CỦA “ CÁI CHẾT ” CỦA TÔI

Nguyễn Đắc Xuân

Một ngày vào năm 1970, cơ sở của Thành uỷ ở Huế gởi báo cáo ra cho biết Chánh phủ Nguyễn Văn Thiệu ở Sài G̣n vừa trao cho nhà văn nữ Nhă Ca một giải thưởng lớn dành cho cuốn Bút kư Giải Khăn Sô Cho Huế - cuốn sách nói xấu lực lượng cách mạng trong tết Mậu thân. Đặc biệt chương 7 Chuyện Từ Thành Nội viết xuyên tạc các hoạt động cách mạng của anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường - Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, và các vị nhân sĩ trí thức trong Liên minh các LLDTDC và HB Thành phố Huế .v.v. Anh Tống Hoàng Nguyên-phụ trách an ninh của Thành uỷ cho tôi mượn cuốn sách, tôi đọc thấy ở Chương 7 viết về nhân vật Đắc “là một sinh viên trẻ trung, hăng hái..Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên ṭa nhân dân, kêu án tù h́nh hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tội”. Bài ghi chép xem Đắc như một dẫn chứng về tội ác nhồi sọ trí thức của Cộng sản.

Biết Nhă Ca viết ám chỉ ḿnh, nhưng đọc xong chương sách tôi không hề giận tác giả, chuyện phục vụ tâm lư chiến rẻ tiền, cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhă Ca phụ trách nguyên cả một chương tŕnh của đời Tự Do của Mỹ tôi c̣n lạ ǵ. Chỉ buồn cười thôi. Các hoạt động của tôi ở Huế dân Huế biết, các đồng chí đồng sự của tôi hiện c̣n đang sống đều biết rất rơ. Giữa một cuộc chiến đấu lớn lao, đông đảo như thế, tôi xử ai và tôi giết ai tôi không thể làm một ḿnh và chắc chắn 30 năm qua những đối tượng ấy không thể làm thinh trước dư luận báo chí trong và ngoài nước. Tôi đă mở toà án ở đâu và xử ai ? Đến nay ở nước ngoài có lẽ Nhă Ca có thể viết rơ ra để chứng minh tính chân thực của cuốn sách được Nguyễn Văn Thiệu trao giải năm nào. C̣n tôi,-một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưởi, không có quyền hành ǵ, nếu tôi muốn làm những việc như Nhă Ca viết th́ cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ư làm, làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không c̣n đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa. Những chuyện Nhă Ca bóp méo sự thật vẽ rắn thêm chân chẳng quan hệ ǵ với tôi.

Nhă Ca hay Trần Thy Nhă Ca là bút hiệu của cô Thu Vân. Thu Vân học một lớp với bà chị họ Nguyễn Thị Xuyến của tôi. Tôi gặp Thu Vân ở nhà chị tôi ở đường Chi Lăng nhiều lần. Cô không đẹp, khuôn mặt hơi nặng nên bọn em trai của chị tôi cùng thế hệ với cô lúc ấy ít người để ư đến cô. Năm cô đang học đệ Tam hay đệ Nhị ǵ đó ở trường Đồng Khánh cô có làm một bài thơ nhan đề Quê ngoại (hay Quê mẹ ?) và gởi cho báo Văn nghệ Tiền Phong- một tờ báo lá cải ở Sài G̣n lúc ấy. Bài thơ chưa được đăng th́ cô nhận được thư của một người mang tên Hoài Nam - nhân danh một người có quyền ở báo Văn Nghệ Tiền Phong, báo cho cô biết bài thơ cô đă bị vứt sọt rác, nhưng may mắn Hoài Nam nhặt được, đọc thơ thấy tác giả là một cô gái Huế có tâm hồn nên đă đưa bài thơ lên báo. Hoài Nam trở thành ân nhân của Thu Vân. Từ đó Thu Vân và Hoài Nam có quan hệ t́nh cảm với nhau. Tôi không nhớ rơ vào năm 1959 hay 1960 ǵ đó, Thu Vân hồ hỡi lên ga Huế đón bạn Hoài Nam ra thăm người yêu ở Huế. Tàu đến, cô hồi hộp vô cùng. Nhưng quái lạ, trong những khách đi tàu xuống ga cô không thấy có người nào để cô có thể nhầm đó là Hoài Nam được cả. Cô nữ sinh Thu Vân thất vọng đứng nép ḿnh bên sân ga. Bỗng nhiên cô thấy có người đàn ông đi sau cùng, tay xách cái túi con, mặt rỗ, tóc đỏ bù xù trước mặt. Thấy Thu Vân, người đó hỏi:” Cô có phải là Thu Vân không ?”. Vượt quá sức tưởng tượng của ḿnh, Thu Vân đáp :” Không. Tôi không phải là Thu Vân”.

Hai người lặng lẽ ra ga, mỗi người đi về mỗi ngă. Thu Vân về nhà ở Bến Ngự. Người khách chính là Hoài Nam về nhà Ngô Đức Chương-một người làm thơ ở với mẹ già tại một ngỏ hẹp của đường Ngô Đức Kế trong Thành Nội. Như chợt có khách thơ, Chương mượn tôi[1] cái giường bố cho Hoài Nam nằm. Hằng ngày Hoài Nam viết truyện ngắn hay làm thơ đăng trên nhật báo Công Dân của Lê Trọng Quát kiếm tiền độ nhựt. Về sau, có lẽ hối hận về hành động phủ phàng của ḿnh, Thu Vân đă t́m đến với Hoài Nam và hai người đă yêu nhau thật sự ngay trong nhà Ngô Đức Chương. Sau đó Thu Vân bỏ học vào nam với Hoài Nam và hai người có hai bút hiệu mới là Trần Dạ Từ và Trần Thy Nhă Ca.

Trong những năm Huế luôn có những phong trào đấu tranh chống Mỹ Thiệu Kỳ, ở Sài G̣n Trần Dạ Từ viết cho mấy tờ báo của Chu Tử thân chính quyền Sài G̣n và có quan điểm chống Cộng rất gay gắt. Trần Dạ Từ có nhiều bài viết xuyên tạc phong trào đấu tranh ở miền Trung, xúc phạm đến nhiều bậc đáng tôn kính ở Huế. Do đó mùa hè năm 1966, Trần Dạ Từ ra Huế tiếp tục nói xấu phong trào miền Trung đă bị anh em Sinh viên Quyết tử chiến lại tại sân bay Phú Bài và buộc anh phải rời miền Trung. Sau đó tôi quá bận với việc đối phó với những lời đe doạ “ làm cỏ” phong trào miền Trung của Thiệu Kỳ, tôi không theo dơi được những bài viết của Trần Dạ Từ về miền Trung nên không rơ anh đă có ư nghĩ về tôi như thế nào. C̣n tôi, lúc ấy chuyện quan điểm đấu tranh bất b́nh với nhau là chuyện b́nh thường. Không riêng ǵ những người tay sai Mỹ-Thiệu Kỳ có quan điểm khác chúng tôi, ngay trong hàng ngũ sinh viên tranh đấu chúng tôi vẫn có những chuyện không chịu nhau và sát phạt nhau. Nhưng khi hết tranh đấu rồi lại chơi với nhau bằng t́nh bè bạn. Những quan điểm trái ngược nhau trong lúc đấu tranh trở thành những kỷ niệm. (Dĩ nhiên những người tôi nói đây thuần túy sinh viên, trí thức, không thuộc phe nhóm đảng phái chính trị nào). Tôi đă nghĩ và đă sống suốt những năm sinh viên như thế.

Sau 1975 về lại Huế, trong các chiến dịch “chống văn hoá độc hại của Mỹ ngụy” (3.1976) nhiều người đặt bài cho tôi viết lên án Nhă Ca. Tôi từ chối. Lư do: Thứ nhất, sách của Nhă Ca có nêu đích danh tôi đâu mà tôi phải lên tiếng. Thứ hai, dù sao Nhă Ca cũng là bạn của chị tôi, nỡ nào tôi lại “đánh” người dưới ngựa bạn của chị ḿnh. Nếu sau giải phóng tôi viết bài đả kích Nhă Ca, ngành nội chính sẽ có thêm căng cứ để kéo dài thời gian học tập của cô lâu hơn. Như vậy nó trái với con người của tôi. Tôi không viết.

Bẵng đi mấy năm không c̣n có dịp nhắc đến Nhă Ca nữa. Rồi đến một dạo trước năm 1980 (tôi không c̣n nhớ đích xác năm nào) tôi vào Saigon, được anh Phương H ở báo Đại Đoàn Kết cho mượn một chiếc xe đạp để đi t́m mua tài liệu cũ về Huế xưa. Nhà anh ở trên tầng cao của cái Building ngay ngă tư Đồng Khởi-Lê Thánh Tôn. Khi gởi xe cho người giữ ở tầng trệt xong, tôi thả bộ dọc đường Đồng Khởi t́m mua cho con anh Phương H một gói bánh. Cách đó khoảng năm sáu gian phố ǵ đó tôi thấy có cái quán giải khát vắng vẻ, bên ngoài kê một cái tủ kính bên trên có mấy thẩu bánh (ga-tô hay bánh thuẫn ? ). Nh́n vào trong không thấy khách chỉ có một người đàn bà với nét mặt nặng và buồn, mái tóc thề tóc cắt ngắn ngang vai. Tôi hỏi:” Chị làm ơn bán cho mấy cái bánh!”. Người đàn bà đến mở nắp thẩu lấy bánh cho tôi. Khi tay cô vừa chạm vào mấy cái bánh trong thẩu th́ như bị điện giật cô rút tay ra và chụp cái nắp nhôm xuống miệng thẩu kêu một cái cốp rồi quay lưng vô nhà. Tự nhiên tôi kêu lên :

-” Thu Vân ! Tại sao thấy moa, toa lại bỏ đi ?”.

Người đàn bà quay lại nét mặt thảng thốt:

-” Tôi nghe người ta nói anh đang t́m tôi để giết tôi nên sợ quá ...!”.

-” V́ chuyện nhân vật Đắc toa viết trong giải Giải Khăn Sô Cho Huế phải không ?” Tôi hỏi và nói tiếp-” Chuyện của nhân vật Đắc có liên quan ǵ đến moa mà moa t́m giết toa ! Mà làm sao moa có thể giết toa dễ dàng đến vậy !”

Nghe thế có lẽ Nhă Ca thấy đúng là con người thật của tôi khác với con người cô tưởng tượng sau khi tôi tham gia kháng chiến, cô lấy lại tư thế b́nh thường. Cô không mời nhưng tôi vẫn vào kéo ghế ngồi. Nhă Ca miễn cưỡng ngồi vào ghế đối diện tiếp tôi. Tôi không gọi cô là Nhă Ca, không nói chuyện sách vở mà gọi cô là Thu Vân và chỉ nói về chuyện chị Xuyến tôi vừa vượt biên qua Úc.

Thu Vân cho biết Hoài Nam đang c̣n học tập chưa về, cô được về sớm để chăm sóc các con. Hoàn cảnh cô đang rất khó khăn. Khó nhất là không ai có sổ gạo. Đến khi câu chuyện trở nên thân t́nh tôi hỏi thật cô:

- V́ sao năm 1968 Thu Vân lại viết về nhân vật Đắc để ám chỉ tôi như thế?

Thu Vân trả lời rất thành thật :

- Lúc đó ai cũng nói anh chết rồi, chớ ai ngờ ...

- Sao Thu Vân lại nỡ dựng chuyện ác cho em của một người bạn ḿnh như thế ? Tôi hỏi với giọng trách móc.

- Như anh biết đó - Thu Vân giải thích- viết kư th́ phải có những con người bằng xương bằng thịt ḿnh biết rơ ràng mới hay, chứ anh nghĩ lính giải phóng ở miền Bắc vào tôi nào có biết ai đâu ?

- Té ra như vậy.

Sở dĩ có chuyện không tốt ấy xảy ra là v́ nhiều người tin tôi đă chết. Hồi tháng 10.1996, trong một bữa cơm thân mật ở nhà chị Tr My-anh Phạm Doăn Để ở quận 18 Thủ đô Paris tôi kể lại chuyện gặp lại Nhă Ca trên đường Đồng Khởi trên đây, hai anh chị cười vang :

- “Thế mà bao năm nay anh chị cứ trách Xuân !”.

- Vâng, không phải chỉ có anh chị trách mà c̣n nhiều người nữa.

Người ta nói tôi đă chết không phải v́ ghét tôi hay bịa ra để có chuyện nói với những người thích bày chuyện. Ngay những người rất thương tôi “đă có đầy đủ chứng cứ về cái chết” của tôi.

Sau ngày giải phóng 1975, tôi vào Nha Trang thăm một người bạn vong niên ở 12 Bến Chợ - nhà thơ cổ điển Quách Tấn. Lúc đó mắt anh đă yếu, tôi bước vào nhà rồi mà anh vẫn không nh́n ra tôi. Thấy anh ngồi bên cạnh cái bàn thờ kê giữa nhà, tôi mừng quá gọi lớn :

- “Thưa anh, anh vẫn khoẻ chứ ?”.

Quách Tấn ngước mắt nh́n tôi đầy vẻ kinh ngạc :

- “ Ai mà nghe quen quen đó ?”.

-“ Em đây ! Nguyễn ...- người được anh hướng dẫn để nghiên cứu về Bích Khê và Đào Tấn thuở nào đây !”.

Quách Tấn hốt hoảng:

-” Chú Xuân, chú là người hay là ma hiện về đó ?”

Tôi đâm ngạc nhiên :

- ” Em là Xuân đây chứ sao lại là ma !”.

Giọng đoan chắc, Quách Tấn nói tiếp:

-“ Chú chết rồi mà! Tôi đă cúng cơm cho chú nhiều lần rồi mà! “

Tự nhiên tôi khóc. Quách Tấn cũng khóc. Hai anh em ôm nhau. Quách Tấn nói trong nước mắt:

- “Chú chết rồi làm sao chú có thể sống lại và về thăm tôi đây ! Tôi không thể nào hiểu được”.

Sau cái phút bàng hoàng đó, Quách Tấn kể chuyện anh đă nhận được tin tôi đă chết như thế nào :

Năm ấy, sau khi lực lượng giải phóng rút ra khỏi Huế, một người học tṛ cũ của anh là sĩ quan, trong lúc chỉ huy quân đội dọn dẹp những đổ nát trong Thành Nội, th́ phát hiện trong một ngôi nhà sập ở đường Âm Hồn có mấy xác chết đă śnh thối, bên cạnh có một tay nải may bằng vải dù bọc cái ví da đựng 200$ bạc Sài G̣n, một Thẻ Sinh viên mang tên Nguyễn Đắc Xuân, một số thư từ, trong đó có thư của l.m.N.N.L. gởi cho Nguyễn Đắc Xuân từ tháng 7.1966 và một xấp nhật kư. Anh sĩ quan nầy vốn là học tṛ cũ của Quách Tấn nghĩ cái tay nải nầy là của một trong những người đang nằm chết đây. Người sĩ quan liền giấu cái ví và đem về Nha Trang bí mật khoe với thầy. Biết chuyện ấy Quách Tấn đă khóc và không dám nói với người học tṛ cái tay nải nầy là của chính một người bạn vong niên của ḿnh. Quách Tấn giấu gia đ́nh dẹp một góc bàn thờ bên cạnh chỗ anh đang ngồi hôm nay đặt một chén cơm cúng tôi. Kể đến đó anh lại ôm tôi :

-“ Không ngờ chú vẫn sống và nhớ vào thăm tôi. Đời sao mà có chuyện lạ kỳ đến vậy ! Làm sao chú có thể sống được, chú kể cho anh nghe coi !”.

Nghe đến đó tôi hiểu ra ngay. Chuyện thật đơn giản.

Hôm đó có lẽ quân giải phóng đă chiếm Huế trên mười ngày rồi. Suốt ngày làm việc, đêm ngủ dưới hầm đất, thân thể chúng tôi đứa nào cũng bẩn như hủi. Nhân một buổi trưa vắng tiếng súng tôi theo chân cô Đoan Trinh - con cụ Nguyễn Đoá, về nhà cô ở đầu kiệt 2 đường Âm Hồn xin nước giếng tắm. Tôi mới vào pḥng tắm, vừa cởi cái tay nải ra khỏi thắc lưng treo lên cửa th́ pháo Mỹ rót ầm ầm xuống khu vực chúng tôi đang có mặt. Nhà cụ Đoá sập, một vài bộ đội tự vệ đang trú trong nhà chết và bị thương nặng. Tôi hoảng hốt chui ra khỏi nhà chạy thụt mạng vào phía Đại Nội. Và từ đó chiến trường quá ác liệt, tôi không c̣n có dịp trở lại kiệt 2 Âm Hồn để t́m cái tay nải nữa. Không ngờ nó đă văng đến cạnh một người nào đó đă chết và cuối cùng lọt vào tay người sĩ quan học tṛ cũ của anh Quách Tấn.

Quách Tấn ở tận Nha Trang Khánh Ḥa mà c̣n biết chuyện tôi đă “chết “ cụ thể đến thế huống chi Nhă Ca lúc đó đang ở Huế ? Và không riêng ǵ Nhă Ca, có một sinh viên lúc ấy tưởng tôi “chết” thật đă ung dung “mượn” cái luận văn tốt nghiệp của tôi ở Đại học Sư phạm Huế về Hát Bội để chế biến lại làm luận văn Cao học của ḿnh và vẫn được chấm đậu như thường. Sau 1975, gặp tôi ở trường Âm nhạc Huế, anh Hoàng Hữu Pha- người anh con ông bác ruột của Hoàng Phủ Ngọc Tường, báo cho tôi biết chuyện ấy, không những tôi không buồn mà ngược lại tôi đă bảo anh Pha :

-” Tôi không c̣n cần cái luận văn ấy nữa, có người đă biết sử dụng nó như thế cái công làm luận văn của tôi không đến nỗi không có ích”.

Cuộc đời tưởng đă chết mà lại sống, ôi có ǵ quư hơn nữa đâu !

Nhân đây tôi cũng ghi lại chuyện anh T.M.T. gặp tôi trong Tết Mậu thân. T.M.T. là một sinh viên hoạt động rất tích cực khi thành lập Đoàn sinh viên Quyết tử. Trong 3 đại đội của Đoàn, T.M.T. làm đại đội trưởng Đại đội 1. Đại đội nầy vừa “ra trường Văn Thánh” là vào Đà Nẵng hoạt động ngay. Tôi phụ trách đoàn nên phải ở lại Huế tiếp tục huấn luyện cho Đại đội 2 và 3. Đại đội 1 có một tiểu đội “tác động tinh thần” phụ trách phát thanh, báo chí. Phần lớn những ngựi trong tiểu đội là bạn thân tôi và về sau tôi được biết nhiều người trong tiểu đội là cơ sở của giải phóng.

Một buổi chiều đang ở Đông H tôi được anh Lư Văn Nghiên (sinh viên Hán Học) điện thoại gọi tôi vào để giải quyết khó khăn của Đại đội. Tôi vào ngay Đà Nẵng, tôi đến “bản doanh” của Đại đội tại trường Bồ Đề, T. đi vắng, anh em phản ảnh cho biết mấy hôm nay không hiểu sao chiều nào T. cũng say và có nhiều hành vi khó hiểu. Ví dụ như trong một đêm anh em đang ngủ, T. cho người lăn một cái thùng phuy rỗng trên đường Quang Trung ầm ầm, rồi hô hoán là “xe tăng địch”, gọi anh em dậy xả súng bắn tơi bời, làm náo động cả Thành phố Đà Nẵng. Lực lượng ly khai ở Đà Nẵng (do đại tá Đàm Quang Yêu, thiếu tá Tôn Thất Tương, thiếu tá Tôn Thất Trai đứng đầu) lên án sinh viên Quyết tử làm loạn, đ̣i giải giới sinh viên. Tôi mời họp Đại đội ở cái pḥng đầu tiên của dăy lầu xây thẳng góc với đường Quang Trung. Họp được một lúc th́ T. chân thấp chân cao về. Thấy tôi đang ngồi ở bàn thầy giáo chủ tŕ cuộc họp, T. rút dao găm đeo bên hông ném thẳng vào mặt tôi, anh em đội viên hét lên, tôi cúi đầu kịp và cây dao oan nghiệt cắm sâu vào cái bảng đen sau lưng tôi. Anh em bắt T. giam lại và bầu Lư Văn Nghiên thay T. làm Đại đội trưởng. Sau đó Lư Văn Nghiên đưa Đại đội vào Tam Kỳ rồi Quảng Ngăi hoạt động. Hôm Đại đội từ Quảng Ngăi về, T. đến Tổng hội sinh viên đ̣i phục chức Đại đội trưởng. T. doạ sẽ bắn chết những ai không nghe lời T. Dĩ nhiên là chẳng có ai sợ và cũng chẳng có ai nghe theo lời T. Từ đó T. trở thành một người đối lập với sinh viên tranh đấu, sinh viên làm ǵ T. cũng t́m cách quậy phá. Một buổi tối sinh viên tuyệt thực ở bùng binh Morin, để bớt căng thẳng chúng tôi tổ chức hát và ngâm thơ. Tôi đọc một bài thơ mới. Khi mới đọc đến câu:

“ Đă bảy lần tham gia tranh đấu

Bảy lần phải đổ máu, mồ hôi

Dân tộc nầy chưa có ḥa b́nh,

tôi vẫn c̣n tranh đấu măi không thôi ...”

Đang nằm với anh em sinh viên tuyệt thực, T.liền đứng dậy rút súng lục chĩa sau lưng tôi:

-” Không tranh đấu nữa, câm mồm ngay không thôi tau bắn nát óc !”.

Thật kinh khủng. Nhưng cho đến lúc đó tôi vẫn cho rằng T. không được làm Đại đội trưởng nên bất măn, uống rượu say làm bậy thôi. Khi cuộc tranh đấu bị đàn áp, T. ở lại không bị hề hấn ǵ trong lúc nhiều sinh viên chỉ tham gia tranh đấu sơ sơ cũng đều bị tù đày. Thế mới biết T. là người của ai. Những người am hiểu t́nh h́nh đảng phái ở Huế lúc đó cho tôi biết T. là đảng viên đảng Đại Việt, anh ta được chỉ đạo tham gia tranh đấu để loại trừ ảnh hưởng của Giải phóng và lái phong trào theo đường lối chính trị của đảng Đại Việt. Đến khi không lái được th́ quay qua phá hoại. Chuyện đó cũng dễ hiểu. Trong những năm trước đă xảy ra một số trường hợp tương tự như thế rồi. Sau khi chúng tôi lên rừng, T. bộc lộ rơ ư đồ chính trị của ḿnh, anh lên án chúng tôi là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.

Đến tết Mậu thân, h́nh như đến ngày mồng ba mồng bốn ǵ đó, đội công tác thanh niên chúng tôi đang đào hầm trú ẩn cá nhân trước sân một ngôi nhà ở kiệt 1 đường Âm Hồn, vào lúc xế chiều, có người dẫn độ T. vào gặp tôi. Thấy tôi đang đứng trước thềm nhà, T. hồ hỡi phấn khởi giang hai tay đến ôm tôi và nói:

- “ Bọn tự vệ bắt ḿnh, ḿnh nói là bạn với X. nên họ đưa ḿnh qua đây !”

Nghe T. nói như vậy anh tự vệ dẫn độ T. giang ra. T. đặt tôi vào một hoàn cảnh rất khó xử. Giả như tôi không giận T. mà sau lưng tôi là anh Hoàng Minh Loan- Thành ủy viên, chính trị viên của đội công tác thanh niên, một người rất am hiểu t́nh h́nh tranh đấu ở nội thành và chung quanh tôi có nhiều sinh viên đă biết rất rơ hành vi chống đối sinh viên tranh đấu của T., tôi cũng không thể tỏ ư thân thiện với T. lúc nầy được. Nếu tôi không thể hiện rơ về lập trường quan điểm chính trị của ḿnh tôi sẽ bị t́nh nghi “quan hệ với địch” và sẽ bị tống cổ lên rừng ngay, hậu quả sẽ không lường hết được. Bản năng tự vệ trong tôi buột tôi phải la lên :

- “ Tao mà là bạn của mày được sao !”- Tôi chỉ cái hầm cá nhân đang đào dang dở trước sân nói tiếp- “ Chuyện chi c̣n có đó. Xuồng ngồi dưới cái hầm cá nhân đó !’.

Trong cuộc chiến tranh nhân dân vừa qua, đảng viên của những đảng phái chống Cộng nếu họ bị bắt giữa lúc giao tranh th́ họ khó ḷng sống được. Trường hợp của T.M.T. dễ chết như không. Nhưng không hiểu sao, anh Hoàng Minh Loan lại giao T. cho tôi quản lư giống như các anh đă giao hoạ sĩ Lê Văn T i cho Đội công tác thanh niên ngay lúc lực lượng giải phóng mới chiếm được Huế. Các anh muốn thử thách người quần chúng Phậ tử nầy chăng ? Thật khó cho tôi.

Cuối cùng tôi đă có một giải pháp. Bên cạnh chỗ tôi đóng quân có nhà của ông nhạc nhà báo Vĩnh Tháp. Vĩnh Tháp ở Vỹ Dạ lên nhà vợ ăn tết gặp lúc chiến sự xảy ra anh tham gia với chúng tôi. Tôi đưa cho T.M.T. một xấp giấy manh và bảo qua nhà anh Vĩnh Tháp ngồi tường thuật những hành động phá hoại phong trào sinh viên của T. T.vâng lời. Chúng tôi gởi cho Vĩnh Tháp một ít tiền lo chuyện ăn uống cho T. Nhưng sau đó chúng tôi bị căn cứ Mang Cá rót đạn cối vào nhà, phải di chuyển ngay chỗ ở. Và tôi cũng không c̣n có dịp gặp lại T. nữa. Sau Tết Mậu thân nhiều tháng, chúng tôi bị Mỹ rượt chạy lên tận miền tây ở biên giới Lào, mất hẵn liên lạc với Huế cho nên tôi cũng không biết t́nh h́nh Huế sau khi chúng tôi trở lại rừng xanh ra sao. Hơn một năm sau tôi mới nghe tin T. đă chết trong tết Mậu thân.

Những khi gặp những người quen biết T., chúng tôi thường đưa ra mấy giả thiết về trường hợp T. chết như sau: Một : sau khi khu vực nhà ông nhạc của anh Vĩnh Tháp bị bom đạn, T. đă trốn ra bên ngoài rồi bị bom đạn lạc giết chết ở dọc đường, hai : T. ra ngoài chạy loạng quạng bị tự vệ hay bộ đội bắn chết; ba: cũng có thể, sau khi T.được tôi gởi qua nhà anh Vĩnh Tháp, những người lănh đạo lực lượng vũ trang trong Thành nội lúc ấy cho bắt lại và “giải quyết” theo lời phán xét của ông thần chiến tranh. Rất tiếc sau nầy có nhiều lần gặp lại anh Vĩnh Tháp, tôi hỏi anh lúc ấy T. đă chết như thế nào, anh bảo : “Lúc đó ác liệt quá ḿnh ḿnh cũng không c̣n nhớ.” (Hiện nay anh Vĩnh Tháp c̣n khoẻ mạnh ở Vỹ Dạ Huế).

Tôi thoát ly đúng vào lúc cuộc chiến tranh chống Mỹ diễn ra ác liệt nhất. Có biết bao đồng chí đồng đội của tôi đă ngă xuống nhưng ít có cơ hội để tôi viết về họ. Cái chết của T. cũng thế. Nhưng v́ Nhă Ca đă viết không đúng với sự thực, nếu tôi không viết thêm đoạn nầy th́ người đọc trong các thế hệ sau sẽ khó có được một tư duy đúng đắn về sự kiện nầy.

Lịch sử rất khách quan, không ai vu khống được và cũng không xuyên tạc được. Những ai cố t́nh xuyên tạc, vu khống lịch sử là tự ḿnh gởi lại tương lai một tội lỗi không thể bào chữa được.

Nguyễn Đắc Xuân

ĐDTB, ngày 17/6/06

Trích ĐDTB

NDVN, ngày 28/9/06

Lời bàn:

Giả tỷ như lời ông Nguyễn Đắc Xuân là thật, là bà Nhă Ca gán tội giết đồng bào ở Huế năm Mậu Thân cho ông là "sai người, sai tên", nhưng ông vẫn cố tảng lờ không trả lời vậy ai là thủ phạm thật giết đồng bào vô tội ở Huế ? nếu không phải là ông th́ phải là đoàn ngũ cán bộ csvn khác chứ! Chưa kể chuyện của "ông T." mắc mớ chi với đề bài đánh trống chạy tội "giết người" của ông đây?

Đă thế trong bài nầy ông Xuân viết giải thích như là ông là người tốt, không nhớ thù dai, không quên t́nh nghĩa bạn bè? Xin lỗi nghe, láo quá đi! Láo như vẹm chính tông.

Người tốt, người khôn, người hiểu chuyện, người hai mang, và đă từng tiếp xúc và sống tại Miền Nam và trong bộ đội, cả 2 bên, th́ làm ǵ mà không biết bọn cs tuyên tuyền xảo trá mà theo bọn csvn giết nhân dân đồng chũng của ḿnh? Hơn nữa lại là người có học có trí thức biết nhận xét đúng sai? Tôi nghĩ ông là người láo khoét và đần độn thật sự hay v́ là sự cố thù hằn riêng tư ǵ đó với người Việt Quốc gia nên muốn đi ngược lại họ chống lại kẻ thù riêng mà thôi!

 

Nguồn: Tạp chí Sông Hương

 

=============

 

Thư viết tay ngày 24.7 của Thượng tọa Thích Minh Tuấn (Pḥng Thông tin Phật giáo Quốc tế đánh máy lại), minh xác :

 

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Tu viện Nguyên Thiều, B́nh Định

« Phật lịch 2552, Nguyên Thiều ngày 24/7/2008

 

« Kính gởi : Ḥa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN « (v/v xác minh các thông tin bịa đặt, ngoài phạm vi quản lư của Tu viện)

« Ngưỡng bạch Ḥa thượng,

« Sau lễ tang của Ḥa thượng Bổn sư của chúng con, Đức Tăng thống Giáo hội. Tại Tu viện Nguyên Thiều vốn u buồn lại c̣n u buồn hơn khi tiếp nhận những thông tin cho rằng phát xuất từ bản thân con (Minh Tuấn) và thầy Đồng Thọ. Cụ thể là việc công bố Chúc Thư của Ḥa thượng Tăng thống và các nguôn tin có liên quan. Để minh bạch việc này, con xin khẩn bạch Ḥa thượng như sau :

« 1- Việc công bố Chúc Thư của thầy Đồng Thọ và sự xác nhận của Minh Tuấn theo thông tin là hoàn toàn bịa đặt, sai sự thật, v́ thực tế, Minh Tuấn chưa bao giờ sử dụng phương tiện nào, và phát biểu ư kiến nào trên mạng thông tin bằng lời hoặc bằng văn bản.

 

« 2- Việc công bố Chúc Thư là việc làm trọng đại của Chư Tôn giáo phẩm Giáo hội. Tu viện và Môn đồ của Ḥa thượng không thể nào có khả năng lạm tác và làm một việc phi lư, phi đạo như thế được.

« Nay con xin khẩn tŕnh và minh xác việc này để Ḥa thượng thẩm tường và đề cao cảnh giác dư luận.

« Kính bái thư

(kư tên)

« Thích Minh Tuấn »

Pḥng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải dưới đây nguyên văn Bản Tường Tŕnh của Đại đức Thích Đồng Thọ và thư viết tay của Thượng tọa Thích Minh Tuấn :

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT

Tu Viện Nguyên Thiều, xă Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh B́nh Định

 

 

 

1.- Thân Thế và Sự Nghiệp :

Bác sĩ : Lê Đ́nh Thám

Pháp danh : Tâm Minh

Tự : Châu Hải

Sanh năm Đinh Dậu (1897) tại Quảng Nam.

Chánh quán làng Đông Mỹ (Phù Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Là thứ nam của cụ Đông các Đại học sĩ sung chức bộ Thượng thơ Lê Đỉnh (triều Tự Đức) và cụ kế mẫu Phan Thị Hiếu.

Lúc nhỏ theo Nho học, thụ huấn trực tiếp với cụ Thượng thơ thân sinh ở nhà cùng với bào huynh Lê Đ́nh Dương.

 

(Lê Đ́nh Dương là nhà Cách mạng, tham gia Việt Nam Quang Phục hội cùng với cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài. Phụ trách lănh đạo phong trào Duy Tân khởi nghĩa tại Nam Ngăi. Bị bắt tại Ban Mê Thuộc năm 1926. Không chịu để bị tra tấn, không chịu tủi nhục trước công sứ thực dân Sabatier, nên đă dùng độc dược Cyanure de Mercure để tự vẫn năm 1919, thọ 26 tuổi . Ông đă tốt nghiệp Á khôi Đông Dương Y sĩ khóa đầu tiên năm 1915, tại trường Cao đẳng Y khoa Đông Dương – Hà Nội).

Tuy tuổi nhỏ, cả hai vị tỏ ra thông đạt kinh sách, văn bài thi phú. Ứng đối nhanh nhẹn. Nổi tiếng là thần đồng.

Lớn lên theo Tây học. Thông minh xuất chúng nên luôn luôn dẫn đầu lớp. Được thầy yêu bạn quư từ cấp Tiểu học cho đến Đại học. Cụ đỗ Thủ khoa Đông Dương Hà Nội và Y khoa Bác sĩ ngạch Pháp quốc năm 1930 tại Y khoa Đại học đường Hà Nội./span>

Ra trường nhằm phong trào Duy Tân khởi nghĩa thất bại, bào huynh th́ bị bắt đày lên Ban Mê Thuộc. Cụ bị Pháp theo dơi gắt gao. Trong thời gian phục vụ tại bệnh viện B́nh Thuận, Song Cầu, Qui Nhơn, Tuy Ḥa (1915-1923), ngoài công tác chuyên môn, cụ chỉ lo học hỏi và nghiên cứu thêm Nho, Y, Lư và Số.

Năm 1926, về phụ trách Y sĩ điều trị tại bệnh viện Hội An, trong dịp viếng thăm chùa Tam Thai (Ngũ Hành Sơn), tại Non Nước, Đà Nẵng. Khi đọc đến bài kệ sau đây, ghi chú trên vách, cụ liền chú ư đến Phật giáo :

Bồ đề bổn vô thọ,

Minh cảnh diệt phi đài,

Bổn lai vô nhứt vật,

Hà xứ nhạ trần ai ?

Tiếp đó, cụ được tin nhà cách mạng Phan Chu Trinh từ trần ở Sài G̣n, cụ cùng một số thân hào nhân sĩ và công chức trí thức Quảng Nam tổ chức lễ truy điệu rất trọng thể và cùng thọ tang cụ Phan. Một tháng sau bị đổi đi Hà Tĩnh

Năm 1926, được về Huế làm Y sĩ trưởng tại viện bào chế và vi trùng học Pasteur; cọng tác với Bác sĩ Mormet, Giám đốc Y tế Trung Phần, đă phát minh ra Sérum Mormet, được Y giới Pháp Việt trọng vọng.

Cuối năm ấy, cụ lên Trúc Lâm thọ giáo với tổ Giác Tiên về tham nghĩa của bài kệ ở chùa Tam Thai, rồi phát tâm cùng Thượng tọa Mật Khế nghiên cứu giáo lư, học hỏi kinh điển, tụng kinh niệm Phật và phát nguyện trường trai, phát nguyện quy y, thọ Ưu bà Tắc giới và có Pháp danh Tâm Minh từ đó.

Năm 1929-1932, sau hai năm thọ giáo với Ḥa thượng Phước Huệ, đồng thời chịu ảnh hưởng của cuộc trùng hưng Phật giáo Trung Hoa của ngài Thái Hư Đại sư qua sách báo Hải triều âm; cụ vâng lời Ḥa thượng Phước Huệ, Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh và Tịnh Khiết đứng ra triệu tập 18 vị đồng sự pháp lữ thảo điều lệ thành lập hội An Nam Phật Học, đặt trụ sở tại chùa Trúc Lâm, cụ làm Hội trưởng dưới sự chứng minh của quư Ḥa thượng nói trên. Cụ bắt đầu thuyết pháp tại chùa Từ Quang. Giảng kinh luận tại tư thất cho một số tín hữu nhiệt tâm cầu đạo

(Thượng tọa Giải Ngạn, Thượng tọa Minh Châu, Sư bà Diệu Không, lúc nầy chưa xuất gia, đều được theo học khóa nầy).

Năm 1933, phụ trách Y sĩ Giám đốc Bài lao Huế, cụ là một danh y uy tín nhất đế đô.

2.- Về Phật Học :

*.- Khởi công trùng tu tổ đ́nh Từ Đàm làm trụ sở Trung ương cho hội.

*.- Cử hành Đại lễ Phật Đản đầu tiên vô cùng trọng thể ở chùa Diệu Đế, gây ảnh hưởng lớn lao đến mọi giới.

*.- Chủ trương xuất bản Nguyệt san Viên Âm, cơ quan ngôn luận và truyền bá giáo lư của hội. Cụ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút của Nguyệt san.

*.- Thiết lập cơ sở đào tạo Tăng tài: Cấp Trung, Tiểu học tại Bảo Quốc, Pháp sư Trí Độ làm Đốc giáo.

(Quư Ḥa thượng Thiện Hoa, Thiện Ḥa, Thiện Siêu, Thiện Minh, Trí Quang, Trí Tịnh, Nhật Liên, … đều xuất thân tại trường nầy).

Cất Đại học tại Tây Thiên do chính cụ trực tiếp giảng diễn về Luận học, triết Đông và Tây.

(Quư Ḥa thượng Đôn Hậu, Trí Thủ, Mật Nguyện, Mật Hiển, Mật Thể,… đều xuất thân từ trường nầy).

 

Năm 1944, cụ sắp xếp chương tŕnh để di chuyển Phật học viện lên Kim Sơn. Thành lập Ṭng lâm Kim Sơn Huế. Thời cuộc không cho phép, công tác tạm ngưng sau hai năm sinh hoạt.

Năm 1945, cuộc đảo chánh Nhật, chánh phủ Trần Trọng Kim mời giữ chức Giám đốc Y tế Trung phần kiêm Giám đốc Bậnh viện Huế.

Năm 1946, chiến cuộc bùng nổ, dân chúng Huế tản cư. Cụ đưa gia đ́nh về lại Quảng Nam. Tham gia kháng chiến chống Pháp.

Năm 1947-1949, làm Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến miền Nam Trung bộ tại Liên khu Năm.

Mùa hạ năm 1949, được điện mời đi Bắc, đề bạt làm Chủ tịch Phong trào Ḥa b́nh Thế giới.

Mặc dầu t́nh thế đảo điên, nhân tâm điên đảo, nhưng cụ vẫn an nhiên diễn giảng, phiên dịch Phật pháp. Cuối cùng bộ Thủ Lăng Nghiêm cũng được dịch và xuất bản năm 1961 tại chùa Quán Sứ - Hà Nội.

Ông từ trần ngày 23 tháng 04 năm 1969 (tức ngày mồng Bảy tháng Ba năm Kỷ Dậu) tại Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi.