Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

47 năm không nguôi thuơng tiếc Tổng thống Ngô đ́nh Diệm:

 

ĐỆ I CỘNG H̉A của Miền Nam

 

 

 

                                 Huỳnh văn Lang                                      

 

 

 

  "...Trong các sách tôi viết về cái chết của hai nguời Anh Em nầy, luôn luôn tôi có câu kết sau đây: Thương cho Tổng thống Ngô đ́nh Diệm và tiếc cho ông Ngô đ́nh Nhu!

Hôm nay tôi xin lập lại! Thuơng ở đây là thuơng khóc, khóc cho một con nguời đầy đức độ, ái quốc mănh liệt, cả đời tranh đấu, kiên tŕ tranh thủ cho Độc lập Quốc gia, cho Tự do Dân tôc, cho Hạnh phúc Đồng bào., đúng là một vị Anh hùng dân tôc, một vĩ nhân của đất nước!                                                                         

 Tiếc là thuơng tiếc, thuơng tiếc cho một đầu óc uyên thâm, cho một ḥai bảo rộng lớn, cho một viễn kiến cao sâu…mà trong ḍng lịch sử, dân tộc VN đă sản sinh ra, nhưng được mấy người, thử hỏi?..." HVL  

                   

                 ĐỆ NHỨT CỘNG H̉A của Miền Nam (1955-1963)                                                                             

 

Huỳnh văn Lang

 

Nội dung của bài nói chuyện hôm nay là những sự kiện hay những biến cố quan trọng nhứt đă đưa đến sự h́nh thành ra Đệ nhứt Công ḥa của miền Nam VN (1956-1963), mà cái ID của nó là Hiến Pháp năm 1956, cũng là phần kết của bài nầy.

Hưởng ứng lời kêu gọi của thủ tuớng Ngô đ́nh Diệm (NĐD) về giúp nước, từ Chicago, Illinois, tôi về đến Sài g̣n ngày 24 tháng 8, 1954 và liền sau đó v́ thời cuộc đưa đẩy, thủ tướng NĐD đă đặt để tôi vào những địa vị, nếu gọi được là địa vị hay đúng hơn là cương vị, để tôi thành ra chứng nhân cho những sự kiện tôi muốn ghi lại ra đây.  

 

Những sự kiện tôi tŕnh bày sau đây có ba giá trị khác nhau: là chứng nhân, không chứng nhân nhưng biết thật chắc chắn và một ít chuyện không biết chắc, quí vị sẽ phân biệt được 3 giá trị khác nhau đó.                                                                                           

 1.- Cương vị thứ nhứt. (Phụ tá Bí thư của thủ tướng NĐD)

Đầu tiên tôi tạm thời thay thế anh Vơ văn Hải là bí thư của Thủ tướng, để anh tạm thời giữ chức Chánh văn pḥng, th́nh ĺnh bỏ trống. Ba ngày đầu tôi ăn ngủ trong dinh Gia long, sau được đưa ra ngủ nghỉ ở khách sạn Kinh hoa, Chợ lớn, nhưng luôn luôn về dinh Thủ tướng ăn cơm trưa và tối cho đến khi Thủ tướng cho lệnh bộ Tài chánh cấp cho villa số 140, đường Hai bà Trưng, SG. Cho nên tôi may mắn làm việc bên Thủ tướng cho đến ngày 10 hay 11 tháng 10, 1954. Chính trong thời gian ngắn ngủi 45 ngày nầy đă xảy ra biến cố Nguyễn văn Hinh, Tổng tham mưu quân đội Quốc gia VN muốn đảo chánh.

Để dễ hiểu rơ biến cố nầy thiết nghĩ cũng nên nhắc lại, trước đó, ngày 16, tháng 6, ông Ngô đ́nh Diệm được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng, lập nội các VN thay thế chánh phủ hoàng thân Bửu Lộc. Thiết nghĩ khi bổ nhiệm NĐD, Quốc trưởng Bảo Đại (BĐ) có hội kiến với bộ Ngoại giao Mỹ và cũng có thể với chánh phủ Pháp nữa, v́ Pháp dù có thua trận ở Điện biên phủ trong tháng 5 rồi, nhưng vẫn c̣n nắm quyền Ngoại giao và Quốc pḥng ở VN với một đạo quân viễn chinh dù đă thua trận nhưng vẫn c̣n hùng hổ, đang khi anh em NĐD lại có tiếng là chống Pháp.

Cũng chắc chắn là chánh phủ Hoa kỳ không có liên quan trực tiếp ǵ đến chuyện bổ nhiệm nầy, v́ dù ông Diệm có bôn ba ở Hoa kỳ gấn 3 năm đi nữa, ông có quen thân với nhiều nhận vật có tiếng nói trong chánh trường Hoa kỳ, nhưng thật ra Hoa kỳ chưa nghĩ đến chuyện thay thế Pháp ở Đông dương, cho đến khi chạm mặt với Nga/Tàu ở hội nghị Genève trong tháng 7, 1954.

Sau khi được bổ nhiệm, bất chấp lời can gián của ông Ngô đ́nh Luyện ở Pháp và ông Ngô đ́nh Nhu ở VN, Thủ tướng NĐD về Sài g̣n ngày 26, cùng tháng 6, 1954. Tổng liên đoàn Lao công VN cổ động đón tiếp, nhưng số người đến phi trường TSN chưa đến 500. Bốn ngày sau Thù tướng bay ra Hà nội để xem xét t́nh h́nh và tiếp xúc chánh khách ngoài Bắc, để rồi trở về Sài g̣n thành lập Nội các, ra mắt ngày 7 tháng 7, 1954: Thủ tướng kiêm bộ Quốc pḥng và Nội vụ. Chánh phủ chưa kịp làm ǵ th́ ngày 20 cùng tháng Hiệp định Genève kư kết giữa Pháp và Việt minh (VM) thoạt đến, toàn dân dở khóc dở cười, có ḥa b́nh hay đúng hơn ch́ là đ́nh chiến giữa hai phe, nhưng đất nuớc lại bị chia đôi. (1)

(1)   Ngày 21-07-54, đang khi Tồng thống Eisenhower họp báo để giải thích hiệp định Genève cho quốc dân Mỹ, th́ ngoài đường có một nhóm sinh viên VN biểu t́nh lên án các cường quốc chia đôi đất nước của họ. Hôm sau ở trước trụ sở Liên hiệp quốc (UN), New-york, cũng có một nhóm sinh viên VN biểu t́nh, đông hơn. Cả hai cuộc biểu t́nh đều do ĐVL, ĐTC & HVL tổ chức, h́nh HVL có lên báo, lên T. 55 năm sau nh́n lại...

Bao nhiêu vấn đề chánh trị xă hội cả văn hóa…đổ dồn về miền Nam với 36,000 quân viễn chinh Pháp và trào lưu Bắc kỳ di cư chạy giặc CS bắt đầu, người Pháp dự đóan là khoảng 60,000 người, Thủ tướng NĐD hy vọng 100, 000… không dè trào lưu chạy giặc CS bộc phát như thác lũ, quá sự tuởng tượng của mọi người, nghĩa là trong ṿng 300 ngày do Hiệp định Genève qui định số người Bắc kỳ di cư lên trên 860,000. Thủ tướng vui bao nhiêu th́ càng lo nhiều hơn nữa…

Khi về đến VN, tôi cảm thấy rơ ràng t́nh trạng quá yếu kém của chánh phủ NĐD cũng như uy tín của tân Thủ tướng quá thấp. Không thấy chánh phủ Bửu Lộc bàn giao lại cái ǵ, ngoài cái dinh Gia long và sở Nội dịch với năm bảy chiếc xe cũ kỹ, không có một tiểu đội canh gác. Thủ tướng kiêm bộ Quốc pḥng, mà không có quân đội, bộ Nội vụ không có Công an Cảnh sát, trong lúc đô thành Sài g̣n - Chợ lớn là B́nh xuyên, miền Tây Nam kỳ lục tỉnh là Ḥa hảo, miền Đông là Cao đài, quần chúng người Nam nghe nói đến NĐD, nhưng không biết NĐD là ai.

 

Ngoài ra sau lưng tướng Ely, Cao ủy Pháp là cả một tập đoàn thực dân đang hôi quyền thế, hôi cả tài sản như buổi chợ chiều. Trong lúc người Mỹ mới nhảy vào chánh trường VN chưa có một chủ trương rơ ràng... Tắt một lời, xă hội miền Nam đang ở trong một t́nh trạng vô cùng hỗn mang gần như tuyệt vọng, vô phương cứu văn. Dư luận Quốc tế cho chánh phủ NĐD không thọ quá 6 tháng.

Ưu tư số 1 của Thủ tuớng NĐD là phải nắm lấy quyền hành, là thủ tướng kiêm Quốc pḥng, cho nên đầu tiên ông phải nắm quân đội.

Tham mưu trưởng Nguyễn văn Hinh (vợ đầm tức nhiên là dân Pháp), cần phải thay thế. Và chính tướng Hinh lại khai chiến trước, ngày 09-09-54 chỉ trích Thủ tướng trên đài phát thanh Pháp Á do anh Phan cao Phái (anh của chị Minh Châu bạn của người viết) quản lư và đ̣i cải tổ chánh phủ. Thủ tướng Diệm phản pháo ngay, ngày 11-09-54 chỉ thị tướng Hinh phải đi Pháp trong ṿng 24 tiếng, gọi là để khảo sát tổ chức quân đội Pháp trong ṿng 6 tuần. Tướng Hinh từ chối và vận dụng quân đội trong tay ḿnh để làm loạn, muốn đảo chánh, cho 1 tiểu đội thiết giáp chạy chung quanh dinh Độc lập (mới được Cao ủy Ely giao trả tuần trước) vửa hăm dọa, vừa chửi bới, cùng một lúc cho đài phát thanh quân đội ra rả tố cáo chánh phủ nào là độc tài, nào là tham nhũng v,.v. (Những đêm đó tôi ngủ trong dinh Thủ tướng, sẵn sàng để Thủ tướng xử dụng như một thông dịch viên và đi đêm với CIA Mỹ, khi đại tá Landsdale từ Manila qua VN, đóng đô ở hộp đêm Ma Cabane, trước cửa vườn Tao đàn, cách dinh Thủ tướng một con đường. Đại tá Lansdale có nhiệm vụ giúp chánh phủ NĐD ổn định t́nh h́nh). Nội các NĐD sắp sụp đổ đến nơi, v́ ngày 20-09-54, 9 trên 18 bộ trưởng yếu bóng vía đệ đơn từ chức. Nên lưu ư là cuộc khủng hỏang nầy xảy ra đúng lúc cuộc Bắc kỳ di cư bộc phát như lũ lụt sông Hồng, CS Hà nội chận đường, đe dọa, bắt cóc, thủ tiêu…vẫn không be nổi. 

 

Nhưng với sự hợp tác chặt chẽ giữa CIA và ṭa Đại sứ Mỹ, Thủ tuớng NĐD giải quyết được cuộc khủng hoảng do tướng Nguyễn văn Hinh gây ra, nhưng không phải là không đổ mồ hôi hột: đại sứ Heath cho tướng Hinh biết là nếu có đảo chánh trong t́nh thế nầy th́ Mỹ sẽ cúp viện trợ quân sự ngay, đang khi đại tá Lansdale t́m cách tách tuớng Hinh ra khỏi tham mưu của ông ta là 2 nhơn viên pḥng nh́ của Pháp, Lansdale biếu hai sĩ quan nầy hai vé máy bay đi Manila du hí năm ngày.

Qua tháng sau, 1954 thủ tướng NĐD cất chức tướng Hinh và bổ nhiệm tướng Lê văn Tỵ lên thay. (Cũng là lúc thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh có công tác khác, nên những chuyện sau đây tôi không phải là chứng nhân, nhưng biết được rơ ràng.)

Đại sứ Heath và tướng O’Daniel, trưởng đoàn cố vấn quân sự Mỹ, lại yêu cầu thủ tướng Diệm nên giữ tướng Hinh lại trong quân đội. Ông Diệm từ chối. Trước sự cứng rắn của Thủ tướng, đại sứ Heath thay đổi thái độ, từ bạn ra thù ngay và gửi điện tín về Washington, tố cáo thủ tướng là bất tài, không có khả năng dung hợp…cần phải thay đổi.

Nhưng lúc bấy giờ tổng thống Eisenhower và Hội đồng an ninh Quốc gia, cả đa số Lưỡng viện Quốc hội lại nhận thấy Thủ tướng Diệm có thể lănh đạo mặt trận chống Cộng ở Đông nam Á châu, nên hoàn toàn bác bỏ đề nghị của đại sứ Heath và Tổng thống Eisenhower gửi đặc sứ qua thay thế là tướng Collins, bạn thân tín của ông. Đặc sứ Collins đến Sài G̣n mang theo bức thơ của Tổng thống Mỹ xác nhận ủng hộ một ḿnh Thủ tướng NĐD và muốn thảo luận với Thủ tướng một chương tŕnh viện trợ kinh tế quân sự qui mô hơn.

Nhưng lại không dè tướng Collins và tướng Ely là huynh đệ chi binh từ Đệ nhị Thế chiến. Tai hại là đặc sứ Mỹ bị Cao ủy Pháp chi phối hoàn toàn, ngày một ngày hai tuớng Collins thay đổi thái độ đối với Thủ tướng NĐD, có nghĩa là ủng hộ mưu đồ “Diệm must go’’ mà thực dân Pháp đă dàn dựng từ 4, 5 tháng nay.

Ngày 08-12-1954, hai tướng Collins và Ely vào dinh Độc lập chính thức đề nghị với Thủ tướng NĐD nên bổ nhiệm Phan huy Quát làm bộ trưởng Quốc pḥng và Bảy Viễn làm bộ trưởng Nội vụ. Tất nhiên Thủ tướng NĐD từ chối và phải từ chối, v́ nếu ông chấp nhận th́ chẳng hóa ra ông chịu thua và mất gần hết quyền hành - Quốc pḥng và Nội vụ là hai bộ quan trọng nhứt của chánh phủ nên ông đă kiêm nhiệm - để cho người Mỹ, qua ông Quát, Đại việt và người Pháp, qua Bảy Viễn, tướng cướp tha hồ giựt dây.

Thế là lại khủng hoảng! Collins c̣n cực đoan hơn nữa. là đề nghị với Washington: Nên đưa Bảo Đại về, đem Phan huy Quát lên làm thủ tướng thay thế NĐD và ban hành t́nh trạng khẩn trương, tập hợp các lực lượng quốc gia để thống nhứt hành động. Nếu không thực hiện giải pháp nầy được, th́ tốt hơn Mỹ nên rút ra khỏi VN.

Không dè tướng Collins lại dứt khoát đến thế. Trong quan hệ giữa Collins và Ely, làm như có bóng một người đàn bà, tôi không rơ lắm nên không nói ra đây. Tuy nhiên trong khủng hoảng nầy tôi biết rơ một việc, ai là người đă giúp chánh phủ Mỹ khỏi sai lầm trầm trọng, đó là Thượng nghị sĩ Mansfield.

Nhận được phúc tŕnh và đề nghị dứt khoát, nếu không nói là cực đoan hay ngu xuẩn của đặc sứ Collins, TT Eisenhower, Hội đồng An ninh Quốc gia và Foster Dulles, bộ ngoại giao, hội nhau lại, hết sức hoang mang, như bị một búa bổ vào đầu, tóa hỏa tam tinh, nên phải kêu gọi đến ư kiến của bên Dân chủ đối lập, mà người có thớ nhứt là Thượng nghị sĩ Mansfield:

TNS Mansfield đến ṭa Bạch ốc góp ư: Ông Diệm là một tích sản ḿnh vừa thu nhận, dù có nhỏ bé cách mấy đi nữa th́ cũng là một tích sản, tại sao ḿnh phải phiêu lưu đi đổi với những giá trị khác, mà ḿnh mù tịt không hiểu biết hay chưa hiểu biết mảy may ǵ hết.

Thế là Thủ tướng NĐD lại thắng, tất cả chánh phủ Mỹ đều chấp nhận ư kiến của TNS Mansfield v́ là khôn ngoan nhứt và ngày 14-12-54 chánh phủ Hoa kỳ chỉ thị cho tướng Collins: Trong t́nh thế hiện nay, không có một chọn lựa nào khác hơn là tiếp tục viện trợ cho VN và ủng hộ Thủ tướng Diệm.

Nhưng chưa hết, tướng Collins với thực dân Pháp c̣n quậy nữa, mà năng nổ quyết liệt nhứt là bảy Viễn, B́nh Xuyên.

2.- Cương vị thứ hai. ( Công cán ủy viên bộ Tài chánh)

(a)   Tiền.

Cuộc khủng hoảng Nguyễn văn Hinh giải quyết chưa xong hay gần xong (10-10-54) th́ thủ tướng NĐD gửi tôi qua bộ Tài chánh để giúp bộ trưởng Trần hữu Phương, cũng là bạn thân của tôi từ khi c̣n ở Paris, làm Công cán ủy viên, để hằng ngày theo dơi diễn tiến Hiệp định Paris, mới hợp lại để thay thế Hiệp ước Pau, cũng có nghĩa là phủ định tất cả những kư kết của Hiệp ước nầy.

Nhờ đường lối dứt khoát của thủ tướng Mendès-France như ở Hội nghị Genève (20-07-1954), trong một thời gian kỷ lục hôi nghị Paris kết thúc, kư kết giữa 4 nước đêm 30 tháng 12, 1954: Pháp nh́n nhận toàn vẹn chủ quyền tài chánh và tiền tệ (hối đoái) của 3 nước Việt-Miên-Lào và cho thi hành việc bàn giao ngay trong ṿng 3 ngày, tức là ngày 02-01-1955.

Từ rày viện trợ quân sự, kinh tế, nhân đạo của Mỹ và các nước sẽ đi thẳng vào tay VN, không phải qua tay Pháp nữa. Nhờ theo dơi diễn tiến của hội nghị Paris rất sát– ngày 23 hay 24 tháng 12-54, bộ Tài chánh nhận được điện tín của phái đoàn VN do ông Duơng tấn Tài cầm đầu, đại khái “hoàn toàn thắng lợi và sẽ kết thúc trong ṿng 7 ngày’’, và ông bộ trưởng Tài chánh dành cho tôi cái danh dự được mang điện tín nầy vào tŕnh Thủ tướng, cùng giải thích cho Thủ tướng biết rơ những kết quả tốt đẹp của Hiệp định Tài chánh & Tiền tệ ở Paris) - nên trước đó năm bảy ngày bộ Tài chánh, do đề nghị của tôi đă giữ lại đuợc một ngân phiếu 15 triệu đô của bộ Ngọai giao Mỹ viện trợ chuơng tŕnh di cư Bắc kỳ, chờ qua mươi ngày sau bỏ vào trương mục VN ở một ngân hàng Mỹ bộ Tài chánh tự do chọn lấy, hơn là phải bỏ vào trương mục VN ở Pháp quốc Ngân hàng (Banque de France) như trước kia. Độc lập tài chánh và nhứt là tiền tệ (hối đoái) là từ đây. Từ đây chánh phủ VN được toàn quyền tổ chức cũng như quản lư tài chánh và tiền tệ của ḿnh.

Trước đây Pháp đă viện trợ cho các giáo phái xây dựng lực lượng quân sự tất cả trên dưới 20 ngàn quân, không phải chỉ có khí giới thôi mà c̣n có một số tiền mặt khá quan trọng khác nữa.

Từ đầu năm 1955, Pháp sẽ ngưng viện trợ và các giáo phái cần viện trợ phải đến với chánh phủ NĐD. Chính yếu tố tiền ở đây, dù không phải là yếu tố duy nhứt, nhưng là yếu tố quan trọng nhứt đă định đoạt lấy thái độ các giáo phái đối với chánh phủ NĐD và giúp chánh phủ NĐD thống nhứt quân đội quốc gia VN, chấm dứt t́nh trạng sứ quân do thực dân Pháp cấu tạo từ 9 năm qua.

(2) Ngày 14-01, đại tá Nguyễn văn Huệ, tham mưu truởng của tuớng Trần văn Sóai, Ḥa hảo đem 3,500 về với quân đội quốc gia. Ngày 13-02-55 tuớng Trinh minh Thế, Lực lượng Kháng chiến Liên Minh Quốc gia Cao đài dẫn 5,000 quân về với thủ tướng NĐD. Ngày 10-03-55 Thiếu tá Nguyễn văn Đầy, Lực lượng Ḥa hảo Quốc gia đem 5,000 quân và ngày 31 cùng tháng tướng Nguyễn thành Phuơng, Tổng tư lệnh Quân đội Cao đài đem toàn quân lực của ḿnh về theo thủ tướng NĐD. Tướng Nguyễn giác Ngộ, Lực lượng Dân xă Ḥa hảo, từ 23 tháng 2 đă hứa đem 8,000 quân về, nhưng phải đợi qua tháng 5, khi thủ tướng NĐD dẹp xong lực lượng BX mới chịu thi hành lời hứa.

(b)  Tiền

Trên đây là hậu quả tích cực xây dựng uy tín và củng cố quyền hành của Thủ tướng. Thủ tưởng NĐD khởi sự được các giáo phái ủng hộ, mà sau lưng các Giáo phái là cả một khối dân chúng miền Nam.

Để rồi qua ngày 01-01-55, Thủ tướng kư nghị định chấm dứt đặc quyền Đại thế giới (cờ bạc) và B́nh khang (đĩ điếm) của B́nh xuyên, tức là trực tiếp phá vỡ ngay nguồn tài chánh khổng lồ, nếu không nói là duy nhứt của lực lượng B́nh xuyên. Gián tiếp nguồn tài chánh của Quốc trưởng BĐ ngày một ngày hai phải cạn kiệt: trước đây mỗi ngày BX phải đóng hụi chết cho Quốc trưởng BĐ đúng 1 triệu đồng, theo hối xuất thời đó là trên 28,500 Mỹ kim. (Từ lâu Quốc trưởng BĐ đă có một đời sống vuơng giả kiêm Playboy tại lâu đài Thorenc ở Cannes; Nam phương Hoàng hậu có tàu (Yatch), BĐ có mấy xe Sport hiệu Ư.)

Có phải đây là một yếu tố trong nhiều yếu tố tiêu cực bắt buộc Quốc trưởng BĐ nghĩ đến chuyện cất chức NĐD, để cho Bảy Viễn lên thay, thử hỏi?

(Nói về tiền, tôi muốn nhắc đến một trường hợp ghê gớm hơn. Sau tuần lễ vàng (1945), HCM dùng một số vàng lớn, dưới mọi h́nh thức, để mua chuộc hai tướng Tàu là Lư Hán và Tiêu Văn - do Thống chế Tưởng giới Thạch sai qua VN để giải giới quân Nhựt cùng một lúc hậu thuẩn các lực lượng quốc gia như VNQD đảng, Đại việt Cách mạng…- để hoàn toàn bỏ rơi các đảng phái quốc gia, cho Việt minh lấy thế thượng phong và sát hại các đảng phái quốc gia, cướp lấy chính nghĩa giải phóng dân tộc, độc quyền yêu nước, độc quyền kháng Pháp).

3.- Cương vị thứ ba. (Bí thư Liên kỳ bộ Cần lao Nhân vị CM đảng)

Sau khi giải quyết khủng hoảng tướng Hinh xong và được tin tranh thủ thắng lợi giành được Chủ quyền tài chánh và tiền tệ, Thủ tướng NĐD mừng lễ Giáng sinh rất vui vẻ và lạc quan hơn. Tôi được Thủ tướng gọi đến tham dự lễ Giáng sinh, nửa đêm ngày 24 tháng 12, năm 1954, được tổ chức ngoài sân sau dinh Độc lập. Và nhứt là vinh dự được Thủ tướng đích thân chỉ định tôi ngồi hàng ghế đầu, ngay sau lưng của ông. Sau đó c̣n cho riêng tôi một món quà Giáng sinh đáng giá nữa. Biết đâu ông đă nghĩ đến chuyện giao cho tôi quyền điều hành Viện hối đoái Quốc gia (VHĐ) từ giữa đêm hôm đó?

Trong 4 tháng đầu năm 1955, ngoài VHĐ, phần lớn tôi để th́ giờ và tâm trí vào công tŕnh văn hóa của anh em chúng tôi, là trường Bách khoa B́nh dân, khai giảng ngày 15, tháng 11,1954. Vửa điều hành một trường sở có trên 1,200 học sinh, vừa giảng dạy 2 lớp tối, từ 6 giờ 30 đến 9,00 giờ, tôi không trực tiếp liên hệ với những biến cố hay sự kiện lịch sử xảy ra cho VN lúc đó nữa. Tuy nhiên, dù không chứng kiến, tôi vẫn theo dơi luôn và đuợc biết rơ những chuyện sau đây.

- Ngày 12-01-55 thuơng cảng Sài G̣n được giao trả cho chánh phủ NĐD.

- Cùng ngày 12-01-55, tướng Agostini Pháp bàn giao toàn quyền quản lư quân đội VN cho tướng Lê văn Tỵ.

Đến đây th́ Thủ tướng NĐD xuất hiện rơ ràng như là một nhân vật có đủ khả năng tranh thủ độc lập toàn vẹn cho Quốc gia. Nhưng thực dân Pháp và tay sai chưa chịu bỏ cuộc. Bất hạnh là chính Quốc trưởng BĐ lại để cho chúng lợi dụng, nếu không nói là đồng lơa với chúng. Nên BĐ và Pháp thúc đẩy Mặt trận Thống nhứt Toàn lực Quốc gia ra đời, là ngày 03-03-1955: ngoài Cao đài, Ḥa hảo, B́nh xuyên c̣n có Bs Nguyên tôn Hoàn, Đại việt miền Nam, Phan quang Đán, đảng Dân chủ, Hồ hữu Tường… Hộ pháp Phạm công Tắc được BĐ mời lănh đạo Mặt trận..

Phản ứng của Hoa thịnh đốn: Không thể Mỹ chi tiền mà để Pháp thao túng chánh truờng VN, nên ngày 08-03-55 TT Eisenhower tái xác nhận ủng hộ NĐD và bản sao gửi BĐ, gián tiếp khuyến cáo đừng thọt gậy bánh xe, gây khó khăn cho NĐD nữa và khuyên Thủ tướng NĐD chống lại đ̣i hỏi của Mặt trận và bảo các các giáo phái nên rút khỏi Mặt trận. Nhưng bị áp lực của B́nh xuyên và BĐ các giáo phái không nghe theo liền.

Ngày 21-03-55 Mặt trận gửi tối hậu thơ cho Thủ tướng NĐD: trong ṿng 5 ngày, phải cải tổ nội các theo mô h́nh nhân sự của Mặt trận. Thủ tướng NĐD mời vào hội với ông, nhưng ông dứt khoát từ chối.

Mà sáu ngày sau (27-03-55) ông c̣n cho lệnh đại tá Đỗ cao Trí đánh chiếm bộ chỉ huy Công an Cảnh sát do BX nắm giữ.  

Thế là chiến tranh giữa thủ tuớng NĐD có quân lực Quốc gia ủng hộ và BX có Pháp hậu thuẫn đă khởi sự và hai bên có cả một tháng để chuẩn bị đánh lớn, cũng gọi là hưu chiến.

Cũng là lúc, ngoài cái nợ văn hóa (trường Bách khoa B́nh dân) và cái nợ chuyên môn (Viện Hối đoái Quốc gia) tôi mang thêm cái nợ chánh trị nữa. Đầu tháng 04, 1955, ông Ngô đ́nh Nhu, Tổng bí thư Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng (CLNVCM) đă giao hay là nhờ tôi đứng ra phát triển đảng CL (Cần lao) trong Nam và tôi đă nhận lănh, một cách tự nguyện, nhưng hết ḷng theo truyền thống của gia đ́nh “là làm cái ǵ phải làm đến nơi đến chốn, không làm th́ thôi’ và tôi đă khởi sự ngay, là thành lập Liên kỳ bộ Nam Bắc việt, bí thư là Chí Nguyện,.   

Đến lúc cuộc khủng hỏang B́nh xuyên đến hồi gây cấn nhứt, nghĩa là có đánh nhau, có đổ máu… là cơ hội thử lửa (Baptême du Feu) cho Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt vừa mới thành lập với một tiểu tổ cơ bản và đầu năo, gổm 8 thành viên. Nhưng với bao nhiêu đó Liên kỳ đă tích cực ủng hộ chiến dịch đánh B́nh xuyên, bất chấp thiết quân luật Liên kỳ đă đi rải khắp các nẻo đừơng Sài G̣n/Chợ lớn và Gia định cả ngàn tờ ‘’hịch’’ tố cáo tội ác của B́nh xuyên trong 8 năm qua. (Toàn là sự thật, không một chút tuyên truyền láo).

Và như chúng ta biết, biến cố B́nh Xuyên lại kéo theo sau sự kiện Truất phế Quốc truởng Bảo Đại. Lại thêm một cơ hội nữa cho Liên kỳ tập sự nhúng tay vào chánh trị, là giúp củng cố chánh quyền NĐD và giúp công xây dựng nền móng cho ṭa nhà Đệ nhứt Cộng ḥa của miền Nam VN, luôn luôn không quên những cán bộ CS để lại miền Nam. (V́ thế mà Liên kỳ vội bỏ đô thành Sài G̣n/Cholon để trọng tâm vào các tỉnh miền Tây).

Trên đây là hai biến cố hết sức quan trọng mà với sự hạn hẹp của một con người, cá nhân tôi ở cương vị bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, dù muốn dù không cũng đă trở thành chứng nhân như nhiều nhân chứng khác, nếu không nói là trực tiếp tham gia vào những biến cố lịch sử VN trong khoảng thời gian đó.

Tiếp tục chủ trương triệt hạ quyền lực B́nh xuyên, sau khi cải tổ Nội các (24-04-1955) có sự tham gia của Ḥa hảo (Trung tướng Trấn văn Soái và ông Lương trọng Tường) và Cao đài (Thiếu tướng Nguyền thành Phương), ngày 25 tháng 4, 1955 Thủ tướng NĐD ra sắc lệnh cách chức Lai văn Sang, Tổng giám đốc CS Quốc gia. Như thế tức là tấn B́nh Xuyên vào vách tường. Cũng là lúc đặc sứ Collins v́ quá bất măn với Thủ tuớng NĐD nên đi về Washington để ráo riết vận động cho cả Chánh phủ Mỹ chuyển hướng 180 độ, tức là ‘’Diệm must go’’ cho kỳ được, và lần nầy ông thành công. Rơ ràng ṭa Đại sứ Mỹ ở Sài G̣n đứng về phe Thực dân Pháp là tướng Ely, Bảy Viễn…hơn là phe Quốc gia của Thủ tướng NĐD. 

 

Ba ngày sau là ngày 28-04-55, B́nh Xuyên:

  a) khai chiến, pháo kích vào dinh Độc lập. Cùng một lúc, BĐ gửi điện tín

 b) triệu ông Diệm và tướng Tỵ qua Pháp để tường tŕnh về t́nh h́nh trong nuớc và

c) bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ, tư lệnh Ngự lâm quân Đalat làm Tổng tư lệnh quân đội Quốc gia VN thay thế tướng Nguyễn văn Hinh, được toàn quyền sử dụng mọi phuơng tiện cần thiết để giải quyết cuộc tranh chấp giữa thủ tướng Diệm và các giáo phái.

Lưu ư: Ba sự kiên a,b, c ghi trên hoàn toàn ăn khớp với nhau. Cùng ăn khớp với vận động thành công của tướng Collins ở Washington, ‘’Diệm must go’’.

Đặc biệt lưu ư đến chi tiết nầy: Thay thế tướng Hinh, tức là hoàn toàn phủ nhận quyền hành của Thủ tướng, coi chuyện Thủ tướng NĐD bổ nhiệm tướng Tỵ như ‘’ne pas’’. Như thế chẳng hóa ra là cất chức Thủ tướng rồi c̣n ǵ nữa? Chuyện triệu Thủ tướng qua Pháp, không với ai khác mà là với tướng Tỵ, vừa được thủ tướng bổ nhiệm Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia VN. Đúng là một tiểu xảo chánh trị bất xứng.

Được lệnh của Quốc trưởng BĐ, Thủ tưởng Diệm đă khôn ngoan, t́m được một lực lượng vô song để đương đầu với Quốc trưởng, không c̣n là Quốc truởng của một nuớc, của Quốc dân nữa mà là đại diện cho một tập đoàn Thực dân rất hùng hậu. Lực lượng vô song nói ở đây là Quốc dân.

Một điều cần nói ở đây là khi Thủ tướng đi t́m một lực lượng vô song đó không phải là không có cố vấn của CLNVCM đảng, lúc đó là ai? Là Ngô đ́nh Nhu, là Trần Quốc Bửu, Trần Trung Dung, Trần Chánh Thành, có cả BS Bùi kiện Tín và ai ai nữa…cả nhóm Tinh thần, trong đó có Bs Huỳnh kim Hữu. Biết rằng tất cả những nhân vật nầy không một ai gia nhập Cần lao, nhưng đều chấp nhận chủ trương của ông Ngô đ́nh Nhu và do ông Nhu chi phối theo đường hướng Cần lao của ông..

V́ đó mà Thủ tường NĐD cấp tốc triệu tập các Chánh đảng và Nhân sĩ Quốc gia, ngày hôm sau là ngày 29-04-1955, để xin ư kiến: Nên tuân lệnh Quốc trưởng BĐ triệu qua Pháp hay không? Như thế tức là muốn đặt Hội nghị trước một sự chọn lựa dứt khoát: Bảo Đại hay là Ngô đ́nh Diệm?

Ở đây tôi muốn nói đến tính cách đại diện bao quát của Hội nghị, chưa bao giờ miền Nam có một Hội nghị gồm đại diện của những 18 đoàn thể nếu không nói là chính đảng và có những 34 nhân sĩ  tên tuổi.

(3) 18 chánh đảng là: - Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN – VN Phục quốc hội – Thanh niên Quốc dân Xă VN –VN Dân chủ Xă hội – Phong trào tranh thủ Độc lập VN –Phụ nữ Quốc dân xă VN – VN Cần lao Nhân vị Cách mạng đảng – Tịnh độ Phật giáo đồ VN – Tổng Liên đoàn Lao công VN – Phong trào Dân chúng Liên hiệp VN – Phong trào Cách mạng Quốc gia – Tập đoàn Công dân – Nhóm Tinh thần – Xă hội Công giáo – Thanh niên Dân chủ VN –Cựu Chiến sĩ Kháng chiến VN – Nghiệp đoàn Kư giả VN – Hội tương trợ Đồng bào Nghệ Tỉnh /B́nh.

Rất tiếc là không c̣n đâu có danh sách 29 nhân sĩ. Trong số những nhân sĩ nầy tôi quen thân với BS Huỳnh kim Hữu và ông Huỳnh minh Y, bố vợ anh Huỳnh sanh Thông và anh Dư phước Long và năm ba nhân sĩ nữa, toàn là người Nam kỳ.

Như thế có thể khẳng định tính cách đại diện bao quát của dân miền Nam. Dù biết rằng có những đảng chánh trị chỉ có vài ba chục đảng viên và không có một cây súng trong tay để đánh Pháp và chống CS Việt minh. Tuy nhiên cũng được cả năm bảy đoàn thể chánh trị có thực lực, nghĩa là có cả ngàn nếu không nói là mấy chục ngàn đảng viên và có năm bảy ngàn cây súng. Đó là VN Dân xă đảng Ḥa hảo do bí thư Nguyễn bảo Toàn (Nguyễn giác Ngộ) đại diện, VN Phục quốc hội Cao đài do đại tá Hồ hán Sơn (Nguyễn thành Phưong) đại diện và Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN do Nhị Lang (Tŕnh minh Thế) đại diện và Tịnh độ cư sĩ do Đoàn trung C̣n đại diện.

Đặc biệt là có những đoàn thể thanh niên, phụ nữ và trí thức. Nói được là gần toàn dân miền Nam có đại diện chánh thức đến phó hội. Cũng có vài gương mặt Bắc kỳ di cư, nhưng thiết nghĩ không có đại diện cho di cư Bắc kỳ v́ khi đó Bắc kỳ di cư chưa định cư. .

Ngày 29-04-1955, đúng10 giờ hội nghị gồm đúng 52 đại diện cho 18 đảng phái và 34 nhân sĩ khai mạc tại pḥng khánh tiết dinh Độc lập. Thủ tướng NĐD từ trên lầu đi xuống và có mấy lời: Cám ơn và nêu lư do mời đến hội, để rồi xin rút lui để tất cả hội viên tự do thảo luận. Nói xong vài câu Thủ tướng NĐD bỏ lên lầu, không muốn ở lại, e có thể gây ảnh hưởng thế nầy hay thế nọ.

Hội nghị bắt đầu làm việc ngay là bầu:

Chủ tọa đoàn: ông Nguyễn bảo Toàn, bí thư Dân xă đảng, Ḥa hảo.

Thư kư: ông Phạm việt Tuyền, nhà báo.

Và họ đă nghiêm chỉnh làm việc.

(Sáng ngày hôm đó c̣n có 3 trái pháo kích BX bắn vào dinh Độc lập, có một trái nổ ngay đúng lúc Hội nghị bắt đầu làm việc)

Nhưng đang khi các hội viên yên lặng chăm chú đọc chương tŕnh nghị sự, th́ ông Nhị Lang đứng lên tuyên bố:

“Thưa quí vị, tôi được chỉ thị đ̣an thể chúng tôi là Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN đến đây gặp quí vị không phải đề nói chuyện về việc Thủ tuớng NĐD có bổn phận hay không bổn phận thi hành lệnh của Bảo Đại. Mà là trái lại, tôi xin thẳng thắn đặt vấn đề là đă đến lúc chúng ta cần trút bỏ quyền hành của ông Quốc trưởng vô dụng kia đi. Là v́ ông ta đang làm một việc trái với nguyên tắc lănh đạo quốc gia. Thử hỏi, thành phố Sài G̣n đang có biến, dân chúng đang xôn xao lo sợ, tại sao ông BĐ lại chọn ngay lúc nầy để bắt buộc Thú tướng phải bỏ nước sang bên Pháp xa xôi kia, để ‘’tham khảo ư kiến?’’ Tham khảo cái gỉ? Phải chăng đây là mưu kế để nhắm lật đổ Chánh phủ nầy? Vậy tôi xin tuyên bố dứt khoát, nếu quí vị bằng ḷng thảo luận việc truất phế Bảo đại ngay bây giờ,th́ tôi ở lại. Bằng không, tôi xin phép ra khỏi pḥng hội nầy ngay!’’.

Lúc bấy giờ cả cử tọa sửng sốt hay bàng hoàng trước đề nghị quá táo bạo của Nhị Lang, cũng vừa lúc đại tá Hồ hán Sơn, đại diện tướng Cao đài Nguyễn thành Phương đứng lên và tuyên bố tiếp:

“Nhân danh Việt Nam Phục Quốc hội, chúng tôi đồng ư với Mặt Trận Quốc gia Kháng Chiến, yêu cầu quí vị đừng bận tâm tới lệnh triệu thỉnh vô lư của Bảo đại nữa, mà hăy đồng tâm làm một cuộc cách mạng, chấm dứt ngay vai tṛ của ông Quốc trưởng BĐ kia đi cho xong. Nếu ư kiến nầy không được hưởng ứng, tôi cũng xin rút lui ngay tức khắc!’’

Đến đây th́ ṭan thể cử tọa không c̣n rụt rè nữa, nhứt là khi chủ tọa đoàn Nguyễn bảo Toàn cũng đứng lên tuyên bố hoàn toàn ủng hộ sáng kiến của hai ông Nhị Lang và Hồ hán Sơn, nên đều hoan hô lên, trăm người như một, có người c̣n la lên đả đảo Bảo Đại và có người cởi giày ném vào mặt bức h́nh BĐ treo cao giữa pḥng. Ông Vũ văn Mẫu, một giáo sư Bắc kỳ, với một nhân sĩ nữa chạy lại cồng kềnh Nhị Lang lên vai và bảo đứng lên gỡ bức ảnh đi. Ông Nhị Lang cực khổ lắm mới hạ đuợc bức ảnh đồ sộ của Quốc trưởng và ném xuống đất.

Sau mươi phút sôi nổi, ồn ào… hội nghị ngồi lại để bầu ra một Ủy ban Cách mạng Quốc gia, gồm 3 nhân vật đầu năo là Nguyễn bảo Toàn, Chủ tịch, Hồ hán Sơn, Phó chủ tịch, Nhị lang làm Tổng thư kư.

Với sự đóng góp của nhiều cố vấn, một giờ sau Ủy ban đă thảo xong một bản Kiến nghị.

Và sau khi nghe Chủ tịch Nguyễn bảo Toàn đọc hai lần, tât cả hội viên là 52 người đều chấp nhận và kư tên.

Xong rồi th́ các hội viên yêu cầu Chủ tịch đi lên lầu mời Thủ tướng NĐD xuống để nghe kết quả của nghị hội.

Thủ tuớng NĐD xuống lầu, tất cả mọi người đều đứng lên, ông đứng trước cử tọa, mặt xẩm xuống, vẻ buồn buồn hơn là lo âu, bầu không khí bỗng chốc trở nên yên lặng lạ thường…

Chủ tịch Ủy ban vừa cảm động vừa quả quyết đọc lớn cho mọi người đều nghe:

Thay mặt cho toàn thể Hội nghị, tôi xin tŕnh Thủ tướng kết quả của Hội nghị là bản Kiến nghị gồm 3 điểm nầy:

 

Kiến nghị: 

 

1.- Truất phế Quốc trưởng Bảo đại

2.- Giải tán Chánh phủ Ngô đ́nh Diệm

3.- Ủy nhiệm chí sĩ Ngô đ́nh Diệm thành lập chánh phủ mới để trừng trị bọn phiến loạn B́nh xuyên, thu hồi chủ quyền quốc gia, yêu cầu triệt thoái quân đội viễn chinh Pháp và tổ chức bầu cử quốc dân đại hội.

Làm ngày 29, tháng 04, 1955

 

Đại diện 18 chánh đảng và đoàn thể cùng 34 nhân sĩ kư tên:  

 

Vừa nghe Truất phế Quốc trưởng BĐ, mọi người đều thấy mặt Thủ tướng đỏ lên rồi lần lần biến sắc. Ông hoàn toàn bị cú sốc. Nghe xong thấy ông lặng người, tay nhận lấy bản kiến nghị và cố gắng lấy lại b́nh tĩnh, hết sức chậm răi trả lời gần như từng chữ một: Xin quí ngài cho tôi… được có th́ giờ… suy nghĩ kỹ… về vấn đề trọng đại nầy! Xin cám ơn quí ngài!

Sau đó các hội viên lần lượt êm lặng đến bắt tay từ giă Thủ tướng, thấy vẻ mặt ông âu lo rơ ràng…. lúc đó là 5 giờ chiều. Hội nghị đă kết thúc và giải tán.

Đến đây th́ cuộc Cách mạng kể như là xong và Thủ tướng Diệm bị đặt trước một sự đă rồi. Vốn Thủ tuớng NĐD chỉ muốn dẫn vào nhà một con tuấn mă để nhờ giúp qua suối, không dè nh́n lại là một con bạch hổ, ông không cỡi th́ nó sẽ thịt ông, nhưng nếu ông dám leo lên lưng nó, th́ chỉ một cái nhảy vọt nó đưa ông lên tới đỉnh núi cao vời vợi. Thật ra khi đến giai đoạn nầy Thủ tướng NĐD vẫn c̣n nghĩ đến một chế độ Quân chủ lập hiến, chưa nghĩ đến một chế độ Cộng ḥa, cái đó là chắc. Thành ra khi biết chuyện Truất phế là sự đă rồi, ông không tái mặt làm sao được!

Chiều tối lại, lúc 8 giờ đài phát thanh Sài G̣n đưa tin cho toàn quốc và Thế giới biết ở miền Nam VN đă xẩy ra cuộc cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo đại. Cùng một lúc Ủy ban Cách mạng Quốc gia kêu mời các nhân sĩ và đồng bào ngày hôm sau đến hội tại ṭa Đô chánh Sài G̣n để nghe Ủy ban thuyết tŕnh về biến cố lịch sử vừa xảy ra.

Và ngày hôm sau, từ sớm các giới nhân sĩ, các đại diện các chánh đảng, thanh niên sinh viên phụ nữ, báo chí.. phấn khởi tụ tập đầy nghẹt pḥng khánh tiết ṭa Đô chánh Sài G̣n. Ông Nguyễn bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị lang thuyết tŕnh về Cuôc Cách mạng Truất phế BĐ ngày hôm trươc, tất cả cử tọa đều nhiệt liệt hoan hô, triệt để ủng hộ. Và thêm một màn hạ bệ Bảo Đại một lần nữa, có người bắt thang leo lên gỡ bức ảnh to tướng h́nh Quốc trưởng BĐ treo trước cửa ṭa nhà và ném xuống đất, rồi có những thanh niên nhảy lên dậm đạp cho nát bét (Tôi đă chứng kiến màn hạ bệ do anh bạn ĐTC điều khiển). Đang khi đó ba tướng Nguyễn giác Ngộ (Ḥa hảo), Nguyển thành Phuơng (Cao đài) và Trịnh minh Thế (Mặt trận Quốc gia Kháng chiến) được Ủy ban Cách mạng giới thiệu, đứng ra tŕnh diện để công chúng hoan hô, như là những anh hùng đă tạo ra thời thế. Và chúng tôi đă nghĩ vậy, v́ sau lưng của Ủy ban Cách mạng đă có ba tướng nầy cho ư kiến, nếu không nói là cho chỉ thị, nên ba ông đại diện Nguyển bảo Toàn, Hồ hán Sơn và Nhị Lang đă hành động, đă lên tiếng hết sức đồng nhịp với nhau (synchronized) và nhờ vậy mà lôi kéo tất cả Hội nghị một cách dễ dàng, nhứt là khi các thành phần hội nghị đă sẵn có tiềm thức phản hoàng rồi.

(5) Vốn cái ư phức phản hoàng nầy có trong Nam từ thời vua Tự Đức tức là gần cuối thế kỷ 19 khi vua Tự Đức nhượng cho Thực dân Pháp 3 tỉnh miền Đông, rồi 3 t́nh miền Tây Nam kỳ lục tỉnh một cách dễ dàng quá. Rồi đến khi phong trào Kháng Pháp trong Nam, như của Thủ khoa Huân, của Trương công Định, của Thiện hộ Dương, của Cố quản Trần văn Thành… lại bị triều đ́nh nhà Nguyễn bỏ rơi gần như hoàn toàn. Đề rồi qua đầu thế kỷ 20, phong trào Tây học, như các nhà cách mạng Đệ tứ Nguyễn an Ninh, Nguyễn văn Nguyễn, Tạ thu Thâu, Hồ hữu Tường và nhứt là Phan chu Trinh đă gieo rắc trong Nam nhứt là trong giới trí thức ư thức phản hoàng hay Cộng ḥa. Ngoài ra chế độ thuộc địa Pháp là chế độ thuộc địa có văn hóa cộng ḥa hơn là quân chủ, cho dù nó phát xuất từ thời Napoleon III.…

Đến đây th́ cuộc Cách mạng đă được chánh thức hóa bằng một văn kiện có rất nhiều chữ kư rất nặng giá v́ đại diện cho nhiều đoàn thể chánh trị hay quần chúng và công khai hóa bằng đài phát thanh, bằng sự xác nhận trước công chúng của thủ đô Sài G̣n/ Chợ lớn. Như thế phải nh́n nhận là cuộc Cách mạng nầy đă thành tựu một cách tuyệt đối rồi. (Period, Point final). Và theo tôi cuộc Cách mạng nầy là biến cố lịch sử quan trọng nhứt từ ngày Việt Minh cướp chánh quyền trên tay Chánh phủ Bảo đại/ Trần trọng Kim tại Sài G̣n ngày 23-08-45 (ở Hà nội là ngày 19 tháng 8, 1945) 10 năm truớc, v́ nó có tính cách quyết định, dù chỉ là đập đổ, san bằng. Nhưng muốn xây dựng cái ǵ th́ phải đập đổ và san bằng trước cái đă. Đó là một lẽ tất nhiên. C̣n chuyện xây dựng là chuyện của hồi sau.

Cuộc Cách mạng Truất phế Quốc trưởng Bảo đại nầy là tác động của dân miền Nam nói chung, trong đó quần chúng Nam kỳ lục tỉnh qua các đại diện của họ đă đóng một vai tṛ chủ động, không ai có thể chối căi điều đó. Dù là tiêu cực hay là đập đổ và san bằng, nhưng tích cực là nó đă dọn đường cho sự h́nh thành ra Đệ nhứt Cộng ḥa, v́ ngay lúc đó chính Thủ tướng NĐD c̣n nghĩ tới chế độ Quân chủ lập hiến. Nhưng tai hại vô cùng, chỉ năm năm sau cũng chính quần chúng Nam kỳ lục tỉnh (không quơ đũa cả nắm) qua Mặt trận Giải phóng Miền nam đă đóng một vai tṛ quá ư quan trọng, dù không phải là chủ động đă khởi sự tàn phá, không phải chỉ Đệ nhứt CH mà cả Đệ nhị CH nữa.

Sau 15 năm dọn đường, đúng hơn là làm cổ sẵn cho CS Miền Bắc thôn tính hoàn toàn, đúng hơn là thuộc địa hóa miền Nam, cho đến bao giờ? Truất phế BĐ là một tác động Cách mạng sáng suốt hợp t́nh, hợp lư bao nhiêu, th́ tác động gọi là Mặt trận Giải phóng miền Nam, là một cái sai lầm ghê gớm, nếu không nói là ngu xuẩn tày đ́nh bấy nhiêu, như lịch sử 34 năm qua đă chứng minh quá hùng hồn, v́ hệ lụy tai hại vô cùng, cho quyền lợi, cho cả quyền làm người của dân miền Nam nói chung và dân Nam kỳ lục tỉnh nói riêng. Tuy nhiên, tôi c̣n hy vọng, dù mong manh đi nữa, sẽ có ngày quần chúng miền Nam nói chung và Nam kỳ lục tỉnh nói riệng sẽ đứng lên làm một cuộc Cách mạng nữa. Và lần nầy là một cuộc Cách mạng vô cùng thiết yếu cho sự sống c̣n của cả một dân tộc VN, không riêng ǵ cho miền Nam hay Nam kỳ lục tỉnh. Đó là sứ mạng của lịch sử giao phó cho dân miền Nam, không riêng ǵ người trong nước hay ở hải ngoại.

(Ở đây cũng nên nhắc lại những biến cố rất quan trọng sau đây, nhưng tôi kể là bên lề v́ nó không có tính cách quyệt định, nó như là mấy màn của một tấn bi hài kịch lịch sử mà các diển viên, từ những tên lưu manh hạng nặng, những nhà ngoại giao ngu ngơ, cho đến những chánh trị gia lổi lạc phi thường, những anh hùng rất thông minh và can trường… mà vai nào cũng đặc sắc cả, đặc sắc ở đây không có nghĩa là vai tṛ nào cũng tốt đẹp đáng vỗ tay.

Đầu tiên là chuyện của một ông tướng Nguyễn văn Vỹ, tư lệnh Ngự lâm quân, Đà Lạt, được Quốc trưởng BĐ bổ nhiệm ngày 28, tháng 04 - cùng một lúc triệu Thủ tướng Diệm và Tổng Tham mưu Lê văn Tỵ qua Pháp – làm Tổng tham mưu quân đội Quôc gia VN thay thế tướng Hinh được toàn quyền hành động. Được bổ nhiệm xong, tướng Vỹ vội kéo Ngự lâm quân về ngay Tổng tham mưu bắt tướng Tỵ, kéo vào dinh Gia long toan lật đổ chánh phủ NĐD.

Lúc đó là 6 giờ chiều. Nhưng ngẫu nhiên Ủy ban Cách mạng, sau khi tŕnh diện ở ṭa Đô chánh đă đổi tên là Hội Đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia kéo nhau vào dinh Độc lập và một lần nữa Nhị lang lại là người táo bạo nhứt dám dùng một khẩu súng tay (chưa chắc đă lên đạn), bắt tướng Vỹ phải đưa tay lên đầu hàng, nghĩa là cuộc phản đảo chánh cùa tướng Vỹ bỗng chốc hóa ra mây khói. Đến đây đúng là tṛ hề, v́ mới năm phút trước tướng Vỹ áp lực Thủ tuớng NĐD từ chức, bây giờ ông phải nhờ Thủ trướng che chở cho ông khỏi mất mạng. Để rồi đầu hàng Cách mạng, kư cả hai tay giấy cam kết trở lại hợp tác với Thủ tướng. Nhưng hai ba giờ sau lại phản phé, muốn lật ngược lại thế cờ. Song đến chừng đó th́ không c̣n một ma nào coi ông có chút ǵ nghiêm chỉnh cả, nên mọi người đều bỏ rơi ông, bắt buộc ông phải cuốn gói rút quân chạy về Đà lạt, lúc đó đă 3 giờ sáng.

Chuyện thứ hai là chuyện của một ông đặc sứ Collins của TT Eisenhower. Sau khi không chinh phục được Thủ tuớng Diệm theo đề nghị ngu ngơ cải tổ chánh phủ của ḿnh, ông tự cho ḿnh bị khinh bạc, mất mặt với bạn bè chi binh, biết đâu lại không có miệng lưỡi của một mụ đàn bà xúi bậy vào…ông vội bỏ VN trở về Mỹ chính hai ngày trước khi BX khởi chiến. Ông về Mỹ ráo riết vận động với Quốc hội, với bộ Ngoại giao, với hội đồng An ninh Quồc gia và triệt để khai thác t́nh tự bạn chi binh với chính TT Eisewhower. Sau 5 ngày vận động không ngừng nghỉ, ông thành công: TT Eisenhower gửi tối hậu thư tuyên bố “Diệm must go’’ để ông Đặc sứ mang về Sài G̣n, phổ biến cho các đảng phái liên hệ, cũng có thể như là món quà đáng giá triệu đô cho bạn chi binh của ông là tướng Ely và nhứt là cho Bảy Viễn.

Nhưng không ai dè, chính trong thời gian ông ở Mỹ thủ tướng NDD đă kư sắc lệnh mở chiến dịch Hoàng Diệu do đại tá Duơng văn Minh làm tư lệnh, để phản công B́nh Xuyên và ngày một ngày hai quân đội Quốc gia VN đă đánh bật hai trung đoàn BX ra khỏi địa bàn Sài G̣n/Chợ lớn, tàn quân BX rút chạy vào Rừng Sát, hoàn toàn tan ră và chiến dịch đă kết thúc trong ṿng mươi ngày và ngày mùng 8 tháng 5 đại tá Dương văn Minh kéo quân khải hoàn về.

Quân đội Quốc gia tổn thất vài mươi sinh mạng. Chẳng may lại mất một tướng tài, cũng là một nhà chánh trị đầy hứa hẹn. Sáng ngày 02-05-1955 tướng Tŕnh minh Thế kéo quân qua cầu Tân thuận để truy kich quân binh BX, một người lính Pháp trong tàn quân BX bắn sẻ từ bên kia cầu, tướng Thế chết ngay trên “command car’’. (Sau nầy người Pháp có bắn tin là đă trả được thù cho tướng Chanson và Thái lập Thành, tay chơn của Pháp, v́ hai nhân vật nầy đă bị quân của tuớng Thế ám sát chết ở Sadec năm bảy năm trước.)

Sau khi thành công xoay chuyển Washington hơn 180 độ, tướng Collins hớn hở bay về VN. Trên con đường bay về Sài G̣n th́ Washington được tin thủ tướng NĐD với quân đội Quốc gia trung thành, như vũ như băo phản công BX mà chiến thắng ở trong tầm tay của Thủ tướng rơ ràng. Đánh BX để chứng minh Thủ tướng có đủ bản lănh và tài ba để ổn định t́nh thế, bất chấp những mưu mô lươn lẹo của thực dân Pháp và cố chấp ngu ngơ của tướng Collins. Cho nên Washington lập tức phải trở lại ủng hộ thủ tướng NĐD c̣n hơn trước (statu quo ante) và đă vội vả đánh một điện văn khác để thủ tiêu bức thơ của Collins đang cầm tay. Cho nên khi ông Đặc sứ vừa xuống phi trường TSN th́ cũng vừa lúc một nhân viên ṭa đại sứ chạy đến tŕnh cho ông một diện văn hỏa tốc. Ông phải mở ra xem liền, tôi không thấy gương mặt của ông đặc sứ Collins lúc bấy giờ, nhưng tôi chắc là ông phải đổ mồ hôi hột, dù trời Sài G̣n tháng 5 không nóng lắm, nhưng có thể ông cảm tưởng là đă tới tháng 8 rồi! Tội nghiệp cho ông Đặc sứ, quá nhiều ego (tự ái), làm mất sáng suốt!)

Đến đây th́ phải nh́n nhận là trên thực tế chế độ quân chủ của nhà Nguyễn với 13 triều đại (1802-1954) đă thật sự cáo chung, sau một thời gian 9 năm (1945-1954) hấp hối. Vốn độc lập của VN do quân đội Nhựt ban cho (09-03-1045), không do tranh đấu, do hi sinh mà được, tất nhiên không giá trị bao nhiêu, nên Nguyên thủ quốc gia phung phí một cách vô ư thức là phải.Tuy nhiên trong mấy tháng độc lập quốc gia (09-03 đến 24-08-1945), chánh phủ Trần trọng Kim cũng làm được một việc cho quốc dân là Cải tổ hệ thống giáo dục quốc gia theo định hướng dân tộc. Nhưng cùng một lúc làm một việc vô cùng tai hại cho quốc dân nhứt là ở miền Nam kỳ lục tỉnh.

Vốn ngày 02-05-1945, Hoàng đế Bảo đại đă kư sắc luật phóng thích tất cả tù nhân chánh trị, mà trong đó 90% là cán bộ CS, bị Pháp giam giữ ở Côn đăo từ phong trào Sô viết-Nghệ tỉnh (1929-30) và cuộc nổi dậy trong Nam (1939-1940) của Đệ tam Quốc tế, mà tổng số lên đến trên 10,000. Nhờ đó mà ngày một ngày hai (tháng 6, tháng 7, 1945) cả mấy ngàn cán bộ CS, (trong đó có Lê Duẫn, Tôn đức Thắng, Phạm Hùng, Lê văn Lương…toàn là cán bộ cao cấp), sau nhiều năm tôi luyện vừa lư thuyết vừa kỹ thuật hành động được đón tiếp nhiệt liệt trở về Cần thơ, Sóc trăng, Trà vinh…để rồi làm ung thúi chánh trường miến Nam, đưa VM nắm lấy thế thuợng phong, đàn áp các Giáo phái, giết hại các nhà ái quốc chân chính, cướp lấy chánh nghĩa quốc gia, thầu công cuộc kháng Pháp cho đến Điện biên phủ, tháng 5, 1954. 

 

4.- Cương vị thứ tư là một cương vị hỗn hợp.

Khi tôi vừa điều khiển VHD, các trường BKBD và Hội Văn hóa B́nh dân, với chức vụ Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, tôi đă trở thành một cố vấn đa dạng (tiền tệ, văn hoá và an ninh) của Thủ tướng NĐD. Ở đây tôi không nói tôi đă làm những  ǵ, tôi chỉ nói đến những ǵ tôi thấy tôi nghe, cũng là chứng nhân cho những biến cố lịch sử kể ra sau đây.

Thật ra từ đây vai tṛ của CLNVCM (Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng ) đảng càng ngày càng trở nên quan trọng và rơ ràng hơn. Nói đến Cần lao trong giai đọan nầy, ngoài lư thuyết Nhân vị, không phải chỉ là những thành viên đầu năo của nó là Ngô đ́nh Nhu, Trần quôc Bửu, Trấn chánh Thành, Trần trung Dung… , và trong chừng mực hạn hẹp của nó là Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt, (thành lập từ đầu tháng 04, 1955 và giải tán đầu năm 1958), mà c̣n phải kể những đoàn thế do Cần lao lănh đạo, như Tập đ̣an Công dân, Phong trào Cách mạng Quốc gia… Tất cả đều nh́n nhận Thủ tướng sau là Tổng thống NĐD làm lănh tụ tối cao, biểu tượng cho chính nghĩa Quốc gia hay Dân tộc, chống lại Hồ Chí Minh , biểu tượng cho chủ nghĩa Quôc tế Mac-lêninit (4)

(4) (Cũng lạ là trong những cuộc khủng hoảng vừa kể trên những người cận kề bên ông Diệm nhứt toàn là người Trung hay người Bắc, chỉ có một ḿnh tôi là người Nam, mà cuộc Cách mạng Truất phế BĐ lại hoàn toàn là do tác động của người miền Nam. Có phải v́ thế mà thủ tướng Diệm phải suy nghĩ cả 2 tháng mới khởi sự hành động một cách dứt khoát với BĐ.)

Và thành tích cụ thể và rực rỡ nhứt của CL, là cuộc Trưng cầu Dân ư, kéo theo là Quốc hội lập hiến với Hiến pháp 1956 của nó, cũng là cái ID (lai lịch) của Đệ nhứt Cộng ḥa của miền Nam (1956-1963). 

 

a.- Trưng cầu dân ư.  

 

Ngày 22 tháng 10, thủ tuớng NĐD qua hệ thống truyền thanh đă kêu gọi quốc dân ngày hôm sau nên dùng cái quyền tự do của ḿnh, cũng là nhiệm vụ của người công dân, phải đi đầu phiếu để chọn lựa giữa Quốc trưởng BĐ và ông, tức là chọn một thể chế Quân chủ hay Cộng ḥa.

Và ngày 23 tháng 10, 1955 quốc dân miền Nam đă nhiệt liệt huởng ứng lời kêu gọi của Thủ tướng NĐD, náo nức kéo nhau đi đầu phiếu và kết quả hết sức tốt đẹp cho thủ tướngNĐD:

5,838,907 cử tri đi bầu.

5.721.735 lá phiếu Truất phế Quôc trưởng BĐ và bầu NĐD lên thay thế, như là Quốc trưởng VN.

Như thế Thủ tướng NĐD thu về cho ḿnh gần 98% số phiếu đi bầu. Thật ra th́ Thủ tướng Diệm không cần đến một phân xuất cao đến thế. V́ ai ai cũng đinh ninh ông thắng và thắng lớn.

(Ai nói ǵ th́ nói theo tôi kết quả hay những con số nầy hoàn toàn trung thực với ư người dân, nếu có một hai thùng phiếu không hợp lệ v́ nhân viên chánh quyền quá sốt sắng đến chỗ ngu xuẩn, th́ chỉ là một con số quá nhỏ, không đáng kể.)

Như thế Quốc dân miền Nam muốn chấm dứt chế độ Quân chủ và ủy nhiệm cho ông NĐD nhiệm vụ thiết lập chế độ Cộng ḥa dân chủ. Cho nên cách nầy hay cách nọ Truất phế Quốc trưởng BĐ như là mẹ đẻ ra các Biến cố lịch sử kế tiếp, như là một quá tŕnh tiến hóa chánh trị bất di bất dịch của lịch sử.

Ngày 26 tháng 10, 1955, Thủ tướng NĐD tuyến bố Hiến chương tạm thời, theo đó từ rày VN là một nước Cộng ḥa, người lănh đạo là Quốc trưởng kiêm luôn chức Thủ tướng, tức là Tổng thống nước Việt Nam Cộng ḥa.

Đến đây th́ uy tín của Thủ tướng lên đến tuyệt đỉnh, trong nuớc cũng như trên thế giới, v́ tuyệt đại đa số Quốc dân ủng hộ ông. Nhờ đó mà ông giải quyết tất cả các vấn đề tồn kho với Pháp để hoàn thành độc lập Quốc gia trọn vẹn: a) Pháp phải giao trả lại cho VN hoàn toàn chủ quyền tiền tệ tài chánh (VN không c̣n phải ở trong khu vực đồng quan Pháp nữa), b) chủ quyền Ngoại giao (Cao ủy Pháp được giải tán, từ rày tướng Ely chi là một đại sứ, bộ Ngoai giao VN giao thiệp thẳng với bộ Ngoại giao Pháp) và c)chủ quyền Quốc pḥng, quân đội Pháp lục tục rút quân cho hết trong ṿng 6 tháng-

b-Xây dựng chế độ Công ḥa.

Ngày 23-01-56 Thủ tướng kư nghị định tổ chức bầu Quốc hội lập hiến.

Ngày 04-03-56, Quốc dân miền Nam nhiệt liệt hứng khởi đi đầu phiếu, bầu 123 dân biểu cho Quốc hội Lập hiến.

Ngày 26-10-56 tân Hiến pháp được công bố.

Nước Việt nam Cộng ḥa ra đời, Thủ tướng NĐD được xác nhận là Nguyên thủ Quốc gia, dưới danh xưng là Tổng thống, kiêm chức vụ Thủ tướng, với 2 nhiệm kỳ là tối đa, mỗi nhiệm kỳ là năm năm. 

 

Kết luận.

Hiến pháp 1956 hay là ID của Đệ nhứt Cộng ḥa ở miến Nam.

Thử t́m hiểu cái ID nầy xem. Như trên đă nói, từ ngày Hội nghị các chính đảng và các nhân sĩ miền Nam đă làm Cách mạng Truất phế Quốc trưởng BĐ (ngày 29-04-1954), vai tṛ của CLNVCM đảng càng ngày trở nên hết sức quan trọng, với chủ thuyết Nhân vị cũng như với tổ chức nhân sự của nó. Ảnh hưởng của nó trên những biến cố chánh trị đưa đến kết quả là Hiến pháp VN Cộng ḥa 1956 đều luôn luôn có tính cánh quyệt định nếu không nói là chủ động. Và cây nào sanh ra trái nấy là một lẽ tất nhiên.

Ngay trong trang đầu của Hiến pháp có hai từ ngữ Duy linh và Nhân vị. Thiết nghĩ hai từ ngữ nầy cũng đủ để giái thích tất cả bản chất của một Hiến pháp như là bản luật tối cao của một nước, của một Quốc gia hoàn toàn độc lập. Nhưng nội dung với những điều khoản của nó không khác mấy với những Hiến pháp các nước khác, kể cả nước CS, như là định đoạt chủ quyền thuộc về toàn dân, định đọat nhiệm vụ và bảo đảm quyền lợi của nguời dân với đầy đủ những quyền tự do của nó, tự do đi lại, cư ngụ, tự do tư tưởng, tư do ngôn luận, tư do tín nguởng., đủ thứ tự do….

Nhưng lại khác với các hiến pháp khác và hoàn toàn trái ngược với hiến pháp của CHXHCN ở chỗ thi hành hay áp dụng, mà phương châm hành động là Chủ thuyết của Hiến pháp.

Muốn hiểu lập luận nói trên th́ nên so sánh Hiến pháp của nước Việt nam Cộng ḥa của miền Nam dân chủ và Hiến pháp của Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa của miền Bắc CS. Nếu hai chữ Duy linh và Nhân vị đă đủ để giải thích bản chất của Hiến pháp VN Công ḥa, th́ hai từ ngữ Duy vật (Xă hội Chũ nghĩa) và Đảng ngay trang đầu Hiến Pháp CHXHCN cũng quá đủ để giải thích bản chất của Hiến pháp nầy.

Vốn chủ thuyết Duy linh Nhân vị là một lư thuyết lấy Chân lư lịch sử, lấy Sự thật khoa học làm căn bản để giải thích mọi diễn tiến của xă hội con người, cũng như nhận định con nguời (Nhân vị) như là một giá trị tuyệt đối, ngang hàng với trời đất, tức nhiên Nhân vị của con người thành ra mực thước đo lường các giá trị khác. Tuy nhiên Nhân vị c̣n phải có trách nhiệm với cộng đồng, để đưa cộng đồng cùng đồng tiến. (Ba ngôi sao biểu hiệu của CLNVCM đảng có nghĩa là nhân vị, cộng đồng và đồng tiến).

Hiến pháp Đệ nhứt CH đă bảo đảm cho Quốc dân miền Nam được nhiều năm hết sức an lạc: Kinh tế phát triển tốt đẹp dù phải nhận thêm gần 1 triệu di cư chạy giặc CS từ miền Bắc, Xă hội được an b́nh, an sinh xă hội được bảo đảm, Giáo dục được tổ chức có qui củ theo định hướng duy linh truyền thống dân tộc, vừa tiến bộ theo trào lưu khoa học của nhân loại, Văn học được nẩy nở tưng bừng…

Đang khi đó th́ thuyết duy vật sử quan của CS lại lấy ảo tưởng (thiên đàng XHCN) tức là sai lầm, cũng là gian dối , làm cứu cánh tối hậu cho xă hội, để rồi lấy Đảng làm con đuờng hay Đạo để đưa tới cứu cánh. Tức nhiên Đảng hay Đạo thành ra mực thuớc đo lường Đạo đức của con người, mà người CS gọi là Đạo đức Cách mạng. Cho nên tất cả những hành vi, nhửng hoạt động của con nguời, từ tiêu thụ đến sản xuất, từ giết nguời cướp của, từ đánh đĩ hảm hiếp, tham nhủng gian lận…đến cả tố khổ cha mẹ, phản bội bạn bè anh em….đến cả bán trăm ngàn đàn bà con gái trẻ con, bán nước, bán biển, miển sao có lợi cho Đảng, miển sao củng cố được quyền lực của Đảng, tất cả, tất cả đều là Đạo đức Cách mạng, đúng theo tư tường của HCM..

Cho nên Hiến pháp của CHXHCN, một bản luật tối cao của một nước hóa ra một dụng cụ để phụng sự Đảng hơn là quốc dân, nếu có sự đối chọi giữa quyền lợi của Quốc dân và quyền lực của Đáng th́ bắt buộc Hiến pháp phải luôn luôn đứng về phía của Đảng, bất chấp đến tất cả những tiêu chuẩn công lư, công bằng, phong hóa cao thấp lớn nhỏ hết. Kinh nghiệm điển h́nh là những vi phạm hiến pháp trắng trợn của Nhà nước như đàn áp tự do ngôn luận, tư do tư tuởng, tự do tin nguỡng…luôn luôn được Ṭa án chấp nhận một cách dứt khoát như là hợp Hiến, hợp pháp, như là lẽ phải. Như thế việc chống án là một việc illogic, một việc vô lư, không phải lẽ.

Kết quả tối hậu là một xă hội, một nước chỉ gồm có hai thành phần: Đảng thành là Thiên chúa tối cao và Quốc dân thành ra tín hữu hèn hạ bất đắc dĩ, cũng gọi là nô lệ. Tất cả tài sản hữu h́nh (đất đai, nhà cửa, cơ xưởng…) và vô h́nh (trí thức nếu có, dư luận, cả tôn giáo…) lần lần trở thành sở hữu của Đảng.

Hiến pháp của Việt nam Cộng ḥa đă trở thành một thế lực bảo đảm sự phát triển xă hội của miền Nam trong cả hai thập niên (1955-1975), dù Hiến pháp của Đệ nhứt Cộng ḥa sau 02-11-63 có bị thay đổi đi nữa th́ tinh thần của nó vẫn c̣n tồn tại, chẳng những trong Hiến pháp Đệ nhị Cộng ḥa, mà c̣n dan díu bỏ chạy theo cả triệu thuyền nhân, để rồi thấm nhuần vào tâm hồn của Công đồng người Việt hải ngoại tản mát năm châu bốn bể. 

 

TT Ngô đ́nh Diệm và ông Ngô đ́nh Nhu. 

 

Trên kia tôi có nói đến những biến cố lịch sử đă dọn đường cho sự xuất hiện và thành h́nh VN Đệ nhứt Cộng ḥa, với một ID có bản chất nhân bản rơ ràng. Đó là một diễn tiến chánh trị, đầy gian truân, đầy nghiệt ngă, đúng là một trường hợp mang nặng, rất nặng, đẻ đau và rất đau.

Qua diển tiến của lịch sử, không cần dài ḍng, sau những sự kiện hết sức phức tạp ghi trên, quí vị cũng nhận thấy ngay h́nh ảnh khi ẩn khi hiện, nhưng luôn luôn bất khuất của một người Anh và của một người Em. Và Anh Em Họ phải tài ba thế nào, phải dũng cảm kiên tŕ làm sao, mới khắc phục bao nhiêu trở ngại khó khăn tày đ́nh,mới phá vở bao nhiêu mưu đồ bát quái, để sau cùng sản sinh ra được một đứa con tinh thần ưu tú, khỏe mạnh, đến thế nào mà xă hội VN của chúng ta mới có được những năm tháng (1956-1963) độc lập, tự đo và hạnh phúc. Tất nhiên không hoàn hảo v́ giặc ngoài và nhứt là giặc trong… nhưng vẫn c̣n để lại được cho dân tộc, không riêng ǵ ở miền Nam mà c̣n cho cả nước, một legacy, một di sản chánh tri (độc lập & tư do), văn hóa ( chân lư & phóng khoáng), kinh tế (nhân bàn & công binh). Cái legacy nầy đă nảy sinh ra một cái tinh thần với bản chất quốc gia hay dân tộc, mà người viết có kỳ vọng sẽ là động lực bất khuất để đoàn kết và làm Cách mạng lật đổ một chế độ có bản chất hoàn toàn gian dối và sắt máu Mác-lêninit.

Hôm nay là ngày mùng 8, tháng 11. mới tuần trước đây, hội ‘’Ái hữu người Việt Quôc gia Hải ngoại’’ đă tổ chức Lễ giỗ cho hai người Anh Em, TT Ngô đ́nh Diệm và cố vấn Ngô đ́nh Nhu và quan trọng hơn nữa: Trên 30 Hội đoàn, Đoàn thể đă tập hợp hành lễ Truy điệu hai người Anh Em tại công viên Tự do, Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, thành phố Westminster. Trong các sách tôi viết về cái chết của hai nguời Anh Em nầy, luôn luôn tôi có câu kết sau đây: Thương cho Tổng thống Ngô đ́nh Diệm và tiếc cho ông Ngô đ́nh Nhu!

Hôm nay tôi xin lập lại! Thuơng ở đây là thuơng khóc, khóc cho một con nguời đầy đức độ, ái quốc mănh liệt, cả đời tranh đấu, kiên tŕ tranh thủ cho Độc lập Quốc gia, cho Tự do Dân tôc, cho Hạnh phúc Đồng bào., đúng là một vị Anh hùng dân tôc, một vĩ nhân của đất nước! Tiếc là thuơng tiếc, thuơng tiếc cho một đầu óc uyên thâm, cho một ḥai bảo rộng lớn, cho một viễn kiến cao sâu…mà trong ḍng lịch sử, dân tộc VN đă sản sinh ra, nhưng được mấy người, thử hỏi?

Tôi được may mắn và danh dự gần gũi với hai người Anh Em nhiều tháng nhiều năm, từ những lúc gian truân trầy trật. Trước ṭa án xét xử của lịch sử, là nhân chứng trong nhiều nhân chứng cho hai người Anh Em, tôi tự cho ḿnh luôn luôn trung thực.

Thành thật cám ơn tất cả quí vị! 

 

 Huỳnh văn Lang 

Westminster, ngày 08-11-2009

  

 

 

 

TỔNG-THỐNG NGÔ Đ̀NH DIỆM ===

 

CỐ TỔNG-THỐNG NGÔ Đ̀NH DIỆM

BÍ-MẬT TIẾP-XÚC VỚI CỘNG-SẢN VIỆT-NAM 

====

 

Đến nay th́ việc họ Ngô bắt tay với ông Hồ Chí Minh cộng-sản Bắc Việt không c̣n là một nghi-vấn, như vài nhân-vật thân-Diệm trước đây đă cố che-giấu vụ này (xin xem thêm phần "PhụLục1" dưới cùng).

Theo Ông QUÁCH T̉NG ĐỨC

(Cựu Đổng Lư Văn Pḥng của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm):

Theo tiến-sĩ Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Ḥa, trong bài “Mạn Đàm với cựu Đổng-Lư (Văn-Pḥng Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm) Quách Ṭng Đức” th́:

[Ông Ngô Đ́nh Nhu đă t́m cách thương-lượng với Bắc Việt để loại ảnh-hưởng của Hoa Kỳ. Ông Nhu đă mời Manelli, Trưởng Phái-Đoàn Ba Lan trong Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Đ́nh-Chiến để nhờ liên-lạc với Hà Nội qua Đại-Sứ Pháp là Roger Lalouette đưa đề-nghị mở cuộc tiếp-xúc giữa 2 bên. Bắc Việt chấp-nhận ngay. Ông Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao Nguyên rồi nửa đường rẻ xuống vùng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại-diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ đă xác-nhận điều này. Trong cuộc gặp-gỡ, 2 bên đồng ư tái-lập trước tiên về liên-lạc bưu-điện và sau đó về giao-thương để tiến tới thống-nhất đất nước trong ḥa-b́nh. Sau cuộc tiếp-xúc đó, ông Nhu cố ư tiết-lộ nội-dung cuộc tiếp-xúc cho báo-chí biết để ngầm thông-báo cho Washington.

Ông Quách Ṭng Đức xác-nhận là “chính ông Nhu có đề-cập đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng-lănh tại Bộ Quốc-pḥng và ngày 23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán-bộ xây-dựng Ấp Chiến lược khoá 13.”

Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử dụng trung gian cuả bốn đại sứ: Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ư), Goburdhun (Ấn Độ) và Manelli (Ba Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đ́nh chiến) cũng như Tổng lănh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon, để liên lạc với Hànội. Ông QTĐ nói có nghe dư luận này nhưng không biết rỏ chi tiết. Ông cũng có nghe xầm x́ rằng ông Nhu đă gặp một đại diện Văn pḥng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, B́nh Tuy. 

Song song với sự tiết-lộ của ông Nhu, Tổng-Thống Pháp De Gaulle lên tiếng kêu gọi loại bỏ “ảnh-hưởng ngoại-quốc” ra khỏi VN, c̣n Hồ Chí Minh lên tiếng nói rằng "một cuộc ngưng bắn có thể được 2 bên thỏa-thuận.”

Ông Nhu đă hội kiến với Maneli lần đầu vào ngày 25/8/63 tại Bộ Ngoại giao VNCH và kế đó là vào ngày 2/9/63 tại pḥng đọc sách của ông (“War of the Vanquished”, Mieczyslaw Maneli).

Ông Quách Ṭng Đức xác-nhận: một Tết Nguyên-Đán trước 1963, một cành đào đỏ lộng-lẫy được trưng-bày nơi pḥng khánh-tiết Dinh Độc-lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tịch Nhà nước Cọng hoà Xă hội Miền Bắc”. Ông Đức kết-luận: “hành-động độc-lập (không cho Mỹ biết) của ông Nhu đă làm Washington tức-giận hơn. TT Kennedy bật đèn xanh cho Lodge tiến-hành cuộc đảo-chánh nhanh chóng hơn."

Theo một tài-liệu cho là di-chúc của Hồ Chí Minh, th́: “Đầu năm 1963, hồi đó tôi (Hồ Chí Minh) c̣n chưa bị bọn quanh tôi bao vây chặt-chẽ quá, tôi có nhờ mấy nhân-viên Ủy-Hội Kiểm-Soát Quốc Tế Đ́nh-Chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào lớn rất đẹp để tặng cụ Ngô đ́nh Diệm, kèm theo một bức thư, trong thư đó, tôi có chân t́nh yêu cầu cụ Ngô cùng tôi thảo luận trong t́nh anh em, để hai bên cùng lo cho dân chúng hai miền, trên căn bản thi đua làm cho dân giàu, nước mạnh, theo đường lối riêng của từng người. Truyện này lộ ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam.”]

 

*

 

Ta thử so-sánh giữa 2 con đường, v́ chỉ có 2 con đường mà thôi:

-- Con đường thứ nhất là tạm uyển-chuyển nhường-nhịn Đồng-Minh Hoa-Kỳ để đạt thắng-lợi diệt Cộng, rồi sẽ tranh-đấu giành lại thế mạnh của ḿnh, một việc dễ làm đối với chú Sam trong bối-cảnh khai-phóng của Thế-Giới Tự-Do. Về điểm này, ông Hồ Chí Minh có một câu nói để đời. Năm 1946, họ Hồ rước Pháp, đuổi Tàu; được hỏi, ông trả lời: “Tôi thà chịu ngửi cứt Tây 5 năm, c̣n hơn phải ăn cứt Tàu suốt đời”. Ông giải-thích thêm: “Pháp là ngoại-bang, ở xa, sẽ cút; c̣n Tàu, láng-giếng, sẽ ở lại luôn”. Vậy ta cũng có thể nói: “Mỹ là ngoại-bang, ở xa, sẽ rút; c̣n Cộng, nội-thù, sẽ diệt chúng ta.” 

-- Con đường thứ hai là chịu ḥa-giải ḥa-hợp với họ Hồ (nghĩa là nạp mạng cho địch) để rồi nếu không bị họ thảm-sát như các nhân-vật Quốc-Gia trong vụ Ôn Như Hầu (CSVN bất-thần tấn-công vào trụ-sở VN Quốc Dân Đảng ở Hà Nội trong đêm 27-6-46 thảm-sát hầu hết các lănh-tụ các đảng-phái đối-lập) th́ cũng trở thành bù-nh́n tay-sai cho họ nuốt gọn Miền Nam; nhưng đă vào tṛng cộng-sản độc-tài th́ khó ḷng mà tháo cũi sổ lồng.

 Ông Diệm đă chọn con đường thứ hai. 

Măi đến hôm nay, có người vẫn cho con đường thứ nhất là sai (nghĩa là bị Mỹ cướp hết, hoặc đa-số, quyền-lợi của quốc-gia ḿnh. Vậy th́ Nhật-Bản, Tây-Đức, Nam-Hàn (ngay cả Pháp nữa)... th́ sao? họ cũng bị Mỹ "chèn-ép" lúc đầu, sao họ trở nên giàu mạnh từ bao lâu nay? 

Thử hỏi: một người dân Việt miền Nam nào đó mà có lời-lẽ hoặc cử-chỉ cho là xúc-phạm đến Ngô Tổng-Thống th́ người đó có yên thân hay không, huống ǵ tự ư hành-động (độc-lập) ra ngoài chính-sách đường-lối của gia-đ́nh họ Ngô th́ bị mất mạng là chuyện tất-nhiên. Vậy th́, khách-quan mà nói, họ Ngô đơn-phương thương-lượng với kẻ thù chung là cộng-sản Bắc Việt mà không hội-ư với Mỹ trước (điều mà Đồng-Minh cần làm với nhau), lại với ư-đồ đầu-hàng cộng-sản, loại bỏ ảnh-hưởng của Hoa Kỳ, tức là phản bội Đồng Minh, th́ có lẽ nào Hoa-Kỳ khoanh tay chịu đựng hay sao? (Huống chi then-chốt vẫn là ḷng dân miền Nam Việt-Nam). 

Phản-bội Đồng-Minh tức cũng đồng-thời phản-bội cử-tri, ân-nhân, và chí-hữu của ḿnh.

 

LÊ XUÂN NHUẬN

 

Phụ chú: Vị nào muốn tin là cố Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm, nếu không bị giết, có thể giữ vững Miền Nam; và ông Hồ Chí Minh thật ḷng khen ngợi, muốn "sống chung ḥa-b́nh" với ông Ngô Đ́nh Diệm, cùng thành-tâm tiếc-thương khi ông Diệm chết (chuyện này do một đồ-đệ của họ Ngô bịa ra), xin mời đọc bài của Lê Chân-Nhân (một bút-danh khác của Lê Xuân Nhuận) đă được phổ-biến trên các diễn-đàn liên-mạng mấy năm vào cuối thế-kỷ thứ 20:

 

 

 

Giă-Từ Thế-Kỷ Hai Mươi: 

CỐ TỔNG-THỐNG NGÔ Đ̀NH DIỆM MUỐN DÂNG MIỀN NAM VIỆT-NAM CHO CỘNG-SẢN BẮC-VIỆT 

Trước khi giă-từ Thế-Kỷ 20, tôi tưởng chúng ta cũng nên thử t́m giải-đáp cho một thắc-mắc vẫn c̣n tồn-đọng từ thập-niên '60 của Thế-Kỷ 20: 

1/ Cứ theo nhiều người (trong đó có tôi) th́ chúng ta phải đặt chủ-quyền quốc-gia lên trên hết; nói cách khác, v́ tinh-thần dân-tộc, chúng ta không chấp-nhận để cho ngoại-bang lấn-lướt quyền quyết-định việc nước của chúng ta. Do đó, việc cố Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm chống lại Hoa-Kỳ trong dự-định đổ thêm nhiều quân vào VNCH (Mỹ-hoá chiến-tranh Việt-Nam) là một việc đúng. 

2/ Cứ theo một số nhân-vật Hoa-Kỳ (trong đó có cựu Bộ-Trưởng Quốc-Pḥng McNamara, cựu Ngoại-Trưởng Henry Kissinger) th́ Mỹ không nên tán-đồng hay nhúng tay vào việc lật đổ chế-độ Diệm, và họ rất tiếc là Hoa-Kỳ đă làm như thế. 

3/ Một số nhân-vật Quốc-Gia thân-Diệm dựa vào các ư-kiến trên của phiá Hoa-Kỳ để khẳng-định rằng nếu không có cuộc chính-biến 1-11-1963, nghiă là nếu cố Tổng-Thống Diệm vẫn c̣n sống và tiếp-tục lèo-lái công-cuộc chống Cộng của quốc-dân Việt-Nam (bất-chấp thời-lượng nhiệm-kỳ, từ 1955 đến 1975 là 20 năm!), th́ Việt-Nam Cộng-Hoà hẳn vẫn c̣n tồn-tại và phát-triển, giàu-mạnh chứ không sụp-đổ như vào Tháng Tư Đen năm 1975. 

4/ Thế nhưng, nếu ta đọc hết và đọc kỹ các ư-kiến của Mỹ chống việc chống Diệm, nghiă là ước chi Hoa-Kỳ hồi đó không gia-tăng lực-lượng và hoạt-động quân-sự mà cứ để cho ông Diệm trực-tiếp tiếp-xúc với Bắc-Việt để cả hai miền Nam Bắc cùng tự giải-quyết vấn-đề nội-bộ Việt-Nam với nhau, th́ ta thấy rằng các nhân-vật Mỹ tên-tuổi kể trên đă lư-luận khác hẳn, về kết-quả của việc ông Diệm bắt tay với Bắc-Việt: Không phải là VNCH vẫn c̣n đứng vững, mà là Bắc-Việt “thống-nhất Việt-Nam” (nuốt chửng Miền Nam) sớm hơn, chiến-tranh Việt-Nam chấm dứt sớm hơn, và, quan-trọng hơn hết là, Mỹ đă có thể tránh được thiệt-hại lớn-lao (về vật-chất là lên đến hơn năm-vạn-tám mạng ngựi, và trăm-tư-tỷ đô-la; và về tinh-thần là ô-danh bại-trận, thay v́ “được” ông Diệm – ông Diệm sau ngày thỏa-hiệp với CSVN -- yêu-cầu rút ra, rút ra trong danh-dự -- xem "Phụ-Lục 2"). 

5/ Có một số người vẫn c̣n tin rằng: nếu để cố Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm toàn-quyền và tự-lực lo lấy, th́ Mỹ đă khỏi tổn-thất như trên, mà Việt-Nam cũng đă thoát được các thảm-cảnh đă xảy ra, nhất là không bị cộng-sản tràn ngập. Vấn-đề tôi xin đặt ra hôm nay là: Về phiá cộng-sản th́ họ đă có quyết-tâm và kế-hoạch thôn-tính Miền Nam (qua việc cài lại cán-bộ nằm vùng tại Miền Nam sau Hiệp-Định Geneva 1954, nhất là qua Nghị Quyết 15 đầu năm 1959 chủ-trương bạo-lực cách-mạng giải-phóng Miền Nam khiến Tổng-Thống Diệm phải ban-hành Luật 10-59, cụ-thể là việc thành-lập "Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam" từ năm 1960) với sự viện-trợ tối-đa của Khối cộng-sản quốc-tế; về phía Hoa-Kỳ th́ họ hẳn thấy chỉ dùng chính-trị, kinh-tế, ngoại-giao... th́ vẫn chưa đủ, nên phải dùng đến quân-sự (đổ thêm quân vào Việt-Nam).

Vậy th́, về phiá VNCH, nghiă là về phần cố Tổng-Thống Diệm, -- người đă tin dùng cán-bộ t́nh-báo chiến-lược Vũ Ngọc Nhạ của Bắc-Việt làm cố-vấn cho ḿnh, cùng với nội-tuyến-viên Phạm Ngọc Thảo được Tổng-Giám-Mục Ngô Đ́nh Thục nhận làm con nuôi -- “chúng ta” làm cách thế nào mà thắng cộng-sản (ít nhất th́ cũng c̣n nguyên, không bị cộng-sản lấn chiếm) khi mà cộng-sản chắc-chắn là quyết tiến lên, Hoa-Kỳ rút ra, phủi tay, không c̣n phối-hợp và yểm-trợ về quân-sự, dĩ-nhiên giảm-thiểu nếu không cắt hết viện-trợ kinh-tế và các mặt khác, trong lúc chúng ta không được nước ngoài giúp đỡ (Mỹ mà rút đi th́ ai mà chịu nhảy vào?), thua sút Cộng-Sản cả về dân-số, quân-số, vũ-khí, tiếp-liệu, viện-trợ, khả-năng tự-túc, nhất là đoàn-kết và ổn-định nội-t́nh? 

LÊ CHÂN-NHÂN  

B

 

Ông Hồ Chí Minh trả lời phái-bộ ngoại giao Ấn-Độ rằng "He is a patriotic man”: ông Ngô Đ́nh Diệm là một người yêu nước (Cũng như sau này -- thật không? -- họ Hồ tỏ ư thương tiếc trước cái chết của họ Ngô). Câu nói (khen) cuả họ Hồ đối với họ Ngô chỉ là một câu nói "chính trị", và "ngoại giao". 

Ông Hồ Chí Minh cần (tự) đánh bóng thêm con người cuả ḿnh, nên phải học đ̣i nói-năng lịch-sự, nhất là khi nói với một nhà ngoại-giao nước ngoài. (Ngày xưa, bên Tàu, tướng của phe này bắt được tướng của phe kia, đă công-khai khen tài-năng & tiết-tháo của kẻ thù, rồi mới ra lệnh chém đầu!) Quan-trọng hơn hết, ông ấy c̣n mong thuyết-phục ông Ngô Đ́nh Diệm chịu tổ-chức tổng-tuyển-cử, và xa hơn nữa là chịu "về" với ḿnh, th́ không lẽ chê-bai người ta để rồi ḿnh lại sẽ ngồi chung bàn hội-nghị, kư chung văn-bản với người ta? hoặc giả ḿnh sẽ thu-dụng người ta làm người hợp-tác với ḿnh?

 Câu nói (khen) cuả ông Hồ Chí Minh về ông Ngô Đ́nh Diệm thật ra là một câu nói cố ư "giết người".

a) Trước ông Ngô Đ́nh Diệm: vào các năm 1945 và 1946, ông Hồ Chí Minh đă "khen" các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam... nồng-nhiệt đến mức nào để các ông ấy chịu đứng chung vào "Chính-Phủ Liên Hiệp" do ông Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch; để rồi sau đó, may mà họ trốn kịp chứ không th́ họ cũng đă bị giết cùng với các nạn-nhân khác trong vụ Ôn Như Hầu rồi. 

b) Sau ông Ngô Đ́nh Diệm: vào các năm 1973, 1974, và đầu năm 1975, ông Hồ Chí Minh (qua các lănh-tụ Đảng thừa-kế chủ-trương đường-lối cuả ḿnh) đă "khen" ông Dương Văn Minh ngon-ngọt đến mức nào (Hà Nội tuyên bố chỉ nói chuyện với ông DVM mà thôi, tức là công-nhận ông nầy là một "nhà yêu nước") để ông Dương Văn Minh sa vào bẫy, nhận chức Tổng-Thống miền Nam trong t́nh-h́nh đă nát bét vô-phương cứu-chữa rồi, tức là giết chết ông ấy, v́ đầu-hàng tức là tự-sát (thân-bại danh-liệt, chết cả về mặt tinh-thần). 

c) Đối với ông Ngô Đ́nh Diệm: ông Hồ Chí Minh biết chắc là những ǵ đại-sứ Ấn Độ nói với, và những ǵ ông này nghe từ, ông Hồ Chí Minh, đều sẽ lọt vào tai CIA (Ấn Độ trung-lập nghiă là "đu dây" giữa cộng-sản và tư-bản, chứ không phải thuần-túy thân cộng-sản). Trong trại "cải-tạo", tôi có đọc một cuốn sách dịch từ tác-phẩm của Liên-Xô, kể thành-tích Liên Xô (chỉ một ḿnh Liên Xô mà thôi) đánh thắng Đức Quốc-Xă, và (cũng chỉ một ḿnh) Liên Xô lôi được Đức Quốc-Xă ra Toà-Án Quốc Tế, tác-giả đă để lộ ra là hầu hết phương-tiện tổ-chức TAQT, kể cả từng chiếc xe Jeep cho các sĩ-quan Liên Xô đi, từng vật-phẩm văn-pḥng, v.v... đều do Hoa Kỳ cung-cấp. Trong chiến-tranh Việt-Nam cũng thế, sau 1954 với Ủy-Hội Quốc Tế Kiểm-Soát Đ́nh Chiến, là 1973 với Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Và Giám-Sát Ngưng Bắn gồm Ba Lan, Hung Ga Ri, Iran, và Canada (sau đó th́ Indonesia thay thế) cũng như Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-Bên rồi 2-Bên (có Cộng-Sản Bắc-Việt và MTGPMN trong đó), tất cả trụ-sở làm việc, phương-tiện di-chuyển (như tàu bay, xe hơi), tài-xế, công-nhân, thậm chí lương-thực, v.v... đều do Hoa Kỳ đài-thọ. Dĩ-nhiên tai+mắt cuả CIA đă được gài vào (xem hồi-kư “Cảnh Sát Hóa” của Lê Xuân Nhuận). 

Ông Hồ Chí Minh lại c̣n công-khai gửi vào miền Nam biếu ông Ngô Đ́nh Diệm một cành hoa đào để chúc Tết nữa!

Do đó, ông Hồ mà "khen" (và làm thân với) ông Ngô là một câu hỏi mà CIA cần t́m câu trả lời. 

Rốt cuộc, ông Ngô Đ́nh Diệm đă mắc mưu ông Hồ Chí Minh, t́m cách lén-lút liên-lạc với đối-phương, và bị CIA biết được, nên đă đánh mất tín-nhiệm và hậu-thuẫn cuả Hoa-Kỳ, kết-quả là cái chết.

(Về phiá nội-bộ Miền Nam, chế-độ Ngô Đ́nh Diệm đă đánh mất ḷng dân, nhiều nhất là kể từ đầu thập-niên '60, cụ-thể với vụ 18 nhà chính-trị trong đó có đến 11 Tổng-Trưởng, Bộ-Trưởng cuả chính Đệ-Nhất Cộng-Hoà họp tại nhà hàng Caravelle ra Tuyên-Ngôn đ̣i ông NĐD thay-đổi chính-sách vào tháng 4-1960, cuộc đảo-chính hụt ngày 11-11-1960, vụ ném bom Dinh Độc-Lập đầu năm 1962, rồi đến việc cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật-Đản, nổ chết người tại Đài Phát-Thanh Huế tối 8-5-1963, tổng-tấn-công chuà-chiền đêm 20-8-1963, rồi Hoà-Thượng Thích Quảng-Đức (và các vị khác) tự-thiêu, Phật-Tử khắp nơi xuống đường, v.v...

Chính ông+bà Trần Văn Chương, Đại-Sứ tại Mỹ và Quan-Sát-Viên tại Liên-Hiệp-Quốc, là cha+mẹ đẻ của bà Ngô Đ́nh Nhu, thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu, Ngoại-Trưởng và là cộng-sự-viên lâu năm nhất của Tổng-Thống Diệm, mà cũng quyết-liệt chống lại chế-độ họ Ngô. Đó là những tín-hiệu, những cảnh-báo trước, từ phía người dân Miền Nam. Hoa-Kỳ đă thấy rơ tính-chất độc-tài hại dân của tập-đoàn họ Ngô và tinh-thần đối-kháng của sĩ-phu và quần-chúng Việt-Nam từ lâu, cũng như biết trước về dự-mưu đảo-chính cuả số tướng VNCH liên-hệ từ nhiều năm qua. Thế nhưng măi đến tháng 9-1963 Tổng Thống Kennedy mới trả lời báo-chí rằng muốn chiến-thắng Việt-Cộng th́ phải thay-đổi chính-sách và nhân-sự cuả chính-phủ Ngô Đ́nh Diệm, và đại-sứ Henry Cabot Lodge mới trực-tiếp đề-nghị Tổng-Thống NĐD cải-tổ (nhưng ông Diệm vẫn không nghe theo!).

Như thế, thái độ và quyết định cuả Hoa Kỳ tùy-thuộc rất nhiều vào ḷng dân Miền Nam Việt-Nam.

 

LÊ CHÂN-NHÂN

 

 

Phụ-Lục 1:

 

Theo ông NGUYỄN HƯNG ĐẠT

(Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam, Moscow):

"V́ Mỹ muốn đổ quân vào, nên để thương thuyết, cụ Hồ đă thông qua Đại tá Phạm Ngọc Thảo liên hệ với cố Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm cho Đặc phái viên đặc biệt, Tướng Nguyễn Tài - Thứ trưởng Bộ Công An (chứ không phải Nội vụ) của chính phủ VNDCCH đến Sài G̣n. Ông Tài là em ruột nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan. Nhân chứng Đại tá Thảo nói rơ với ông Diệm ḿnh là người CS trước lúc môi giới thương thuyết.

Tướng Huỳnh Văn Cao (trong hồi kư "Một Kiếp Người") đă viết : [Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, hiện là sĩ quan của Miền Nam, diện hồi chánh, nhưng đă từng là bạn thân của Lê Duẩn, ngày đám cưới của Thảo tại Thiên Hộ Đồng Tháp th́ Lê Duẩn đă đích thân đến dự. Khi tôi c̣n là Tư Lệnh Sư Đoàn 7 kiêm Khu Chiến Tiền Giang th́ Thảo làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Kiến Ḥa, người được Tổng Thống Diệm tin cậy. Trong những giây phút thân t́nh, Thảo đă thỏ thẻ với tôi: "Nếu Đại Tá Tư Lệnh muốn quen biết với ông Lê Duẩn th́ tôi có thể sắp xếp được."

Cho nên đă có lần tôi thưa với cụ Diệm: "Sao Cụ cứ để Trung Tá Thảo làm Tỉnh Trưởng Kiến Ḥa lâu vậy, Cụ không sợ Thảo rủ rê cháu theo Cộng Sản hay sao?" Cụ Diệm đáp lại: "Ừ, để xem đứa nào rủ được đứa nào?" Lúc ấy, tôi đă hiểu là Tổng Thống Diệm tin chắc không thể nào Thảo rủ rê tôi được, nhưng đồng thời có nghĩa là Tổng Thống Diệm biết rơ Thảo là Cộng Sản].Ông Diệm cho ông Tài ở ngay bên cạnh ḿnh trong Dinh Gia Long. Nhân vật mà Thiếu tướng Đỗ Mậu, Phụ trách An ninh Quân đội, viết (trong hồi kư "Làm Thế Nào Để Giết Một Vị Tổng Thống") là những nhân vật cao cấp cuả Chính phủ có thấy một người mang một lá cờ đỏ sao vàng nhỏ bằng con tem trên ve áo, chính là người này.

Ông Nguyễn Tài bị bắt ngay sau Đảo chính 11.1963, bị biệt giam đến cuối tháng 4.1975, may nhờ một hạ sỹ không theo lệnh chỉ huy ném lựu đạn vào xà lim. Anh này báo với Ủy ban Quân quản đến cứu con người liệt hai chân này.Tết Việt nam 1963, thông qua Ủy hội Quốc tế, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mang vào tặng Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm một cành đào. Tiếc thay,v́ không thay đổi được lập trường thoả hiệp với CS mà Mỹ giết ông Diệm. Nhà độc tài Pinochett không bị giết v́ không làm điều này."(trong bài viết "Tiểu sử cuả Cụ Hồ Chí Minh cần phải được xem xét lại" – BBC 05-05-2005)

 

Theo ông NGÔ KỶ

 

(Kư-giả):

 

(Tháng 9 năm 1963) ... Trong thời điểm này, Hoa Thịnh Đốn bất măn việc Pháp đứng làm trung gian giải quyết chiến tranh Việt Nam. Đại Sứ Pháp đến miền Nam Việt Nam thảo luận bí mật với Hồ Chí Minh và Tổng Thống Diệm qua trung gian của người Ba Lan tên Mieczyslaw Maneli, thành viên Polish Member of the International Control Commission, cơ quan này được thiết lập để quan sát Hiệp Định Genève. Trong suốt nhiều tháng, Maneli qua lại Sài G̣n - Hà Nội nhiều lần để t́m giải pháp thương thảo. Vào tháng 07 năm 1963, Bắc Việt đồng ư căn bản là lập chính phủ Liên Hiệp cầm đầu bởi Tổng Thống Diệm để miền Nam trở thành trung lập. Họ muốn Mỹ phải rút quân.(trong bài "Khui hồ sơ "Tối Mật": Mỹ chủ mưu thanh toán anh em Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm")

 

Theo ông VIỆT THƯỜNG

 

(Cựu đảng-viên cao-cấp Cộng-Sản Việt-Nam):

"... Nguyễn công Tài đă dành nhiều thời gian để nghiên cứu hàng núi hồ sơ về gia đ́nh nhà ông Ngô Đ́nh Diệm và những người kế cận, cũng như những người đối lập. Tài liệu cập nhật từ nhiều nguồn, nhưng phần đóng góp của nội gián Phạm ngọc Thảo là rất quan trọng. Làm sao phải chọn người tiếp xúc thật đúng mà lại bảo toàn bí mật. Cuối cùng, sau nhiều ngày đêm suy nghĩ, Nguyễn công Tài đă lựa nhân vật Mă Tuyên, người Tàu ở Chợ-lớn đang làm công việc kinh tài cho gia đ́nh ông Ngô Đ́nh Diệm.

Thông qua dịch vụ buôn bán táo bạo, Nguyễn công Tài đă tiếp xúc trực tiếp được với Mă Tuyên. Và, cái thời điểm để đưa ư kiến cho Mă Tuyên "gợi ư" với anh em ông Ngô Đ́nh Diệm là sau tháng 2-1962, sau cái ngày mà hai trung uư của quân đội ông Diệm là Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử ném bom dinh Độc Lập làm đảo chính. Sự việc của hai trung uư Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử tuy không thành công nhưng nó lại là lư do hợp thời để Nguyễn Công Tài làm cuộc tiếp xúc với anh em ông Diệm, Nhu thông qua thương gia người Tàu ở Chợ-lớn là Mă Tuyên. Tín hiệu có thuận lợi. Quả nhiên ông Nhu nhận sự tiếp xúc một cách thận trọng và kéo dài thời gian để mặc cả cho cái giá đi đêm. Nguyễn công Tài có nhận xét là anh em ông Diệm, Nhu tuy học ở Pháp và Mỹ về nhưng óc bài ngoại cực đoan như "Tự Đức" và cũng có mộng Việt Nam sẽ gồm cả Miên và Lào và phải là cường quốc ở châu Á.

Sự việc tin đi mối lại chỉ dừng ở đó. Phải cho đến lúc được phép của ông Line, Nguyễn công Tài cung cấp cho ông Nhu một số tài liệu chứng minh người Mỹ muốn lưu lại ông Diệm c̣n vợ chồng ông Nhu phải đi lưu vong nước ngoài, cũng như họ trước sau cũng buộc ông Diệm phải từ bỏ chế độ độc tài, gia đ́nh trị, phải chia quyền lănh đạo cho các đảng phái cũng như phải có chính sách b́nh đẳng tôn giáo. Ông Nhu chấp nhận một cuộc gặp gỡ với phái viên đặc biệt của ông Line. Có thể đây chỉ là giải pháp pḥng ngừa mà cũng có thể ông Nhu muốn hiểu rơ hơn ư đồ của địch. Những điều này c̣n là bí ẩn đi theo ông Nhu xuống tuyền đài.

Phạm Hùng nhận những chỉ thị toàn quyền hành động từ ông Line tại phủ toàn quyền Đông Dương ở Ba-Đ́nh (Hà-nội) và cấp tốc đi Nam bằng cả ba thứ phương tiện: thủy, bộ và hàng không.

Đầu tháng 2-1963, cuộc họp "bí mật" giữa ông Ngô Đ́nh Nhu và Phạm Hùng diễn ra tại một địa điểm kín đáo ở quận Tánh Linh, tỉnh B́nh Tuy. Trong cuộc họp này có cả Nguyễn công Tài cũng được dự. Khi chia tay, cả hai bên đều hỷ hả. Nội dung cuộc họp vẫn c̣n nằm trong bí mật cho đến nay.

Đầu tháng 11-1963, các tướng trong quân đội của ông Diệm làm đảo chánh thành công. Anh em ông Diệm, Nhu theo đường hầm trốn vào Chợ-lớn ở nhà Mă Tuyên. Phải chăng hai anh em ông Diệm, Nhu định chờ người của Phạm Hùng và Nguyễn công Tài đến đón ra bưng biền?

Người duy nhất c̣n lại là Nguyễn công Tài, sau này "t́nh cờ" làm cái việc xét căn cước, cảnh sát của miền Nam đă bắt được Nguyễn công Tài. Người Mỹ đă cho giam Nguyễn Công Tài ở Bạch Đằng (Sài-g̣n), cho hưởng mọi tiện nghi vật chất rất cao và cũng được ngồi xe hơi (tất nhiên có bảo vệ) đi "tham quan" phố xá Sài-g̣n. Đến 1975, trước khi đứt phim miền Nam, Mỹ đă thả Nguyễn công Tài ra..."

 

Theo ông QUANG PHỤC

 

(Kư giả, chủ nhiệm “Góp Gió”):

“Chúng tôi nhận định rằng chính gia đ́nh ông (Ngô Đ́nh Diệm), cụ thể là ông bà Ngô Đ́nh Nhu, và Đảng Cần Lao của ông ta đă làm hại ông, khi âm mưu thỏa hiệp với CS Hà Nội từ năm 1958 khi ra lệnh cho các Tỉnh trưởng ngưng bắt các cán bộ cộng sản và thu hồi vũ khí tự động của Bảo An, Dân Vệ, thay vào đó bằng súng mousqueton và dao găm.” (Hồi kư “Công và Tội” của Nguyễn Trân, trang 269)

(trích từ cuốn “Hăy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử” của Quang Phục Vơ Văn Sáu, 2004, trang 39)

 

Theo Trung Tướng HUỲNH VĂN CAO:

 

“Đọc hồi kư Một Kiếp Người của Trung tướng Huỳnh Văn Cao, tới đây th́ vấn đề ông Nhu có liên hệ với CS không cần bàn căi nữa. Cả tướng (Trần Văn) Đôn, tướng Huỳnh Văn Cao và Nha An Ninh Quân Đội của Đại tá Đỗ Mậu đều báo cáo (rằng) Đại tá Phạm Ngọc Thảo là VC nằm vùng, nhưng cả 2 ông Diệm và Nhu lẫn cha Thục vẫn cứ cố ư bảo vệ cho Thảo.

Trong hồi kư Một Kiếp Người của Huỳnh Văn Cao cho biết Đ/tá Thảo c̣n dám cả gan “móc nối” ông Cao (lúc c̣n Đại tá), đ̣i giới thiệu để ông Cao làm quen với Tổng bí thư Lê Duẫn, Các sĩ quan dưới quyền ông Cao rất tức giận v́ biết Thảo là VC nằm vùng, đ̣i giết Thảo (các trang 79-80). Ông Nhu nghe Thảo báo cáo bèn dọa “Kẻ nào đụng tới Thảo (tôi) sẽ bỏ tù rục xương” (trang 90). Đồng thời, nơi trang 84, Tướng Huỳnh Văn Cao c̣n cho biết cả Đại tướng Harkins cũng nghi ngờ TT Diệm. Bỏi v́ cuộc hành quân nào của QLVNCH sắp mở ra mà báo cho Tổng Thống phủ th́ VC đều biết trước! Cho thấy người Mỹ, CIA đă biết và theo dơi bám sát ông Ngô Đ́nh Nhu từ lâu. Và người Mỹ nhiều lần đ̣i Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu. Các tướng lănh cũng đ̣i loại trừ ông Nhu nhưng ông Diệm cương quyết giữ ông Nhu!

(trích từ hồi kư “Một Kiếp Người” của tướng Huỳnh Văn Cao - theo Quang Phục trong cuốn “Hăy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử” của Quang Phục Vơ Văn Sáu, 2004, trang 30)

 

 

Theo NEW YORK TIMES và THE WASHINGTON POST:

 

 

 

Hồ sơ tối mật của Ngũ Giác Đài: Người Mỹ Làm Thế Nào Để Giết Tổng Thống Việt Nam? Ba tác giả Lan Vi, Hồng Hà và Dương Hùng đă sưu tầm, phiên dịch các bài báo đăng trên 2 tờ báo kể trên, trong đó có tiết lộ về những cuộc thảo luận bí mật giữa Tổng Thống Diệm và Hà Nội đằng sau lưng người Mỹ...

(trích từ cuốn “Hăy Trả Lại Sự Thật cho Lịch Sử” của Quang Phục Vơ Văn Sáu, 2004, trang 41)

 

Theo Trung Tướng TÔN THẤT ĐÍNH

 

(Cựu Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, Thượng Nghị Sĩ VNCH):

“Trong khi đó, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu lại phạm vào một lỗi lầm ngoại giao to lớn là khước từ sự giúp đỡ về an ninh của Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge, chạy vào nhà Mă Tuyên là Trung Tâm Liên Lạc xưa nay của ông Nhu với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Không phải cuộc binh biến 1-11-63 đă đưa đến cuộc thảm sát 2 ông, mà chính quyết định liều lĩnh này đă làm cho 2 ông gánh lấy thảm họa! Sao lại đi đến một trung tâm liên lạc với cộng sản mà Mỹ đă biết từ lâu rồi!”

(trích trong cuốn hồi-kư “Nghĩa Bỉển T́nh Sông (Hai Mươi Năm Binh Nghiệp” của Tôn Thất Đính, trang 443)

 

Theo Luật Sư HOÀNG DUY HÙNG

 

(Nhà văn, nhà báo, nhà hoạt-động cộng-đồng tại Texas):

 

(Phỏng dịch:) "Các cuộc gặp họp bí mật với Cộng Sản.Sau Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 15 vào năm 1959, Lê Duẫn câu kết với Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn để củng cố quyền lực ở Miền Bắc. Do đó, họ gây sức ép với Hồ Chí Minh, và kể từ năm 1965 trở đi th́ quyền lực thực sự đă nằm trong tay họ. Năm 1963, Hồ đă hai lần gửi người vào tiếp xúc với Ngô Đ́nh Nhu. Hồ muốn liên minh với chính phủ Diệm để chống lại áp lực của Duẫn. Diệm và em là Nhu cũng muốn nhân cơ hội này để chống lại áp lực của Hoa Kỳ. Ngô Đ́nh Nhu giả vờ đi săn ở các khu rừng Tánh Linh, Khánh Ḥa và B́nh Long, nhưng trong thực tế là hội họp với các cán bộ cao cấp của Miền Bắc do Hồ Chí Minh phái vào. Có một lần Phạm Hùng, người mà sau năm 1975 th́ được cử làm Thủ Tướng, đă mang vào trao cho Nhu những thông điệp trực tiếp của Hồ Chí Minh. Các cuộc thương thảo đă phải ngưng lại v́ vài tháng sau th́ Diệm và Nhu bị sát hại. V́ các cuộc họp mật này mà Hoa Kỳ đâm ra nghi ngờ Diệm và Nhu. Ngày 1-11-1963, các tướng QLVNCH phổ biến trên đài tin tức về các cuộc gặp mật giữa Nhu và cộng sản để mong dân chúng hậu thuẫn trong việc lật đổ chính phủ Diệm... Nhiều năm sau đó, vào ngày 1-11-2001, tờ Newsweek đă đăng tải một bài với h́nh của Tổng Thống Diệm, b́nh luận rằng Hành Pháp Kennedy vào năm 1963 đă khám phá ra rằng Diệm và Nhu là "công cụ của cộng sản" nên kết quả là họ phải lật đổ chính phủ Diệm..."

 

(trích từ bản thảo tác phẩm "A Common Quest for Vietnam's Future - a brief of Vietnam War, the First and Second Republic of Vietnam" của Hoàng Duy Hùng)

 

 

Theo ông MINH VƠ

 

(Nhà b́nh luận thời sự):

Ngô Đ́nh Nhu: Hiệp thương Nam-Bắc -- Đài Tiếng nói VNHN – Phỏng vấn Minh Vơ

Người hỏi là nhà báo Hồng Phúc Lê Hồng Long, chủ nhiệm báo Thế Giới Ngày Nay. Cuộc phỏng vấn này đă được phát thanh ngày chủ nhật 07/10/2007 trên đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại.

Hỏi: Trong cuộc mạn đàm giữa ông và ông Cao Xuân Vỹ mới đây, ông Cao Xuân Vỹ có nói đến cuộc tiếp xúc giữa ông Ngô Đ́nh Nhu với... Phạm Hùng, cán bộ cao cấp của Việt Cộng.

Hỏi: Về phía nhà cầm quyền miền Bắc, phản ứng của họ ra sao, và những đ́ều kiện họ đưa ra là ǵ?

Đáp: Theo bà Hammer, tác giả cuốn A Death In November, th́ khi ông Goburghun, đại sứ Ấn đi Hà Nội với tư cách chủ tịch Ủy Ban Kiểm Sóat Đ́nh Chiến, đến gặp ông Hồ Chí Minh th́ thấy ông ta chẳng những không thấy có ǵ ngăn cản cuộc hiệp thương với Saigon...Khi Maneli đến Hà Nội tŕnh bày kế hoạch theo sự hướng dẫn của các ông Lalouette và Goburghun, th́ chỉ hai ngày sau Hà Nội đă có đáp ứng: Hà Nội sẵn sàng khởi sự thương thuyết bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, bí mật hay công khai. Bộ trưởng ngoại giao Xuân Thủy, theo chỉ thị của chủ tịch và thủ tướng sẽ sẵn sàng tŕnh lên một danh sách những hàng hóa có thể trao đổi giữa hai miền. C̣n điều kiện, Hà Nội chỉ cần thấy Mỹ rút khỏi miền Nam, th́ sẵn sàng bàn thảo về bất cứ vấn đề ǵ?

 

(trích từ Tài Liệu ĐÀN CHIM VIỆT – 30-10-2007)

 

 

 

Theo Linh Mục An-Tôn TRẦN VĂN KIỆM 

(Bạn thân của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm): 

"Về sau khá lâu, tôi nghe một nguồn tin nói rằng: Khi bị Hoa ḱ dồn ép tới đường cùng, ông Diệm có nhờ giáo sư Bửu Hội làm trung gian mở một vài cuộc hoà đàm bí mật với đại diện ông Hồ tại Tánh Linh, khiến cho một số chính khách Mĩ đă dựa vào đó mà gỡ tội cho ông Cabot Lodge, đại sứ Tổng Thống J.F.Kennedy…"

(trích từ bản thảo cuốn hồi-kư "Có phải Hoa thịnh đốn đă đưa ông Diệm về làm Tổng thống Đệ nhất Cộng hoà Việt Nam?" của L.m. An-tôn Trần văn Kiệm) 

(Trở Lui)

 

 Phụ Lục 2:

Theo báo Mỹ “Chicago Tribune”

(June 1, 1997):

While the coup against him was being plotted, Diem was negotiating a political compromise with Ho, who was just as troubled by his dependence on Chinese support in the North as Diem was by the growing American presence in the South. In retrospect, the elimination of Diem destroyed the only realistic prospect for a negotiated settlement and the honorable withdrawal of the U.S. from the conflict.

(trích từ bài viết "A Fatal Mistake: Looking anew at Ngo Dinh Diem's 1963 ouster as president of South Vietnam")

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/portal.html

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: