* { margin: 0; padding: 0; } .imgbox { display: grid; height: 100%; } .center-fit { max-width: 100%; max-height: 100vh; margin: auto; }

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearning Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Giấc mơ lănh tụ      

                     

Phần vào đề (1) 

Hoạt động chính trị của TT Thích Trí Quang

Theo Đất Việt 70

 

 

 

Hoạt động chính trị của TT Thích Trí Quang

[Theo "Lịch sử Tranh Đấu Phật Giáo Việt Nam", Tập 1, của Kiêm Đạt, trang 172, do Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản năm 1981 :Thương Tọa TTQ là đệ tử của Ḥa Thượng Trí Độ, một trong những nhà lănh đạo Phật Giáo 1966 ở miền Bắc.  Thượng Tọa Thích Trí Quang có 3 anh em : Thích Diệu Minh, thành viên trong Mặt Trận  Tổ Quốc của CS tại Quảng B́nh năm 1947, hiện đang nắm chức vụ quan trọng tại Hà Nội;  Phạm Chánh, một trong những lănh tụ kháng chiến vào 4/6/1947; Phạm Đại, y tá trong quân đội Việt Minh từ 1947].

Thượng Tọa Thích Trí Quang xuất gia từ hồi c̣n nhỏ, đệ tử của ḥa thượng Thích Trí Độ, một vị chân tu nổi danh ở Huế.  Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Thượng Tọa Thích Trí Quang ở lại Huế nhưng vẫn liên lạc giúp đỡ các cán bộ kháng chiến.

Đất nước chia đôi sau hiệp định Geneva, Hoà Thượng Thích Trí Độ ra Bắc tập kết theo CS.  Thượng Tọa Thích Trí Quang ở lại Huế đọc sách, đánh cờ tướng.

Mùa Phật Đản năm 1963, vụ hạ cờ Phật Giáo của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, Thương Tọa TTQ và Thượng Tọa Thích Thiện Minh lănh đạo phong trào tranh đấu của Phật Giáo đ̣i "Tự Do Tín Ngưỡng".

Tại Saigon, Thượng Tọa Thích Tâm Châu được suy cử làm chủ tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo.  Cuộc tranh đấu ở Saigon bùng nổ mănh liệt.  Thượng Tọa Thích Trí Quang cùng Thượng Tọa Thiện Minh rước Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết vào Saigon với mục đích nắm giữ vai tṛ đấu tranh ở Trung Ương.

Khi chính quyền của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chấp thuận thương thuyết với khối Phật Giáo, một cuộc họp ở chùa Xá-Lợi dưới quyền chủ tọa của Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết, có Thượng Tọa Thích Trí Quang phụ tá.  Thượng Tọa Thích Trí Quang đă đưa ra thành phần của phái đoàn Phật Giáo do Thượng Tọa Thiện Minh làm Chủ tịch, gồm các đại diện của Đại Diện Phật Giáo miền Trung là cốt cán gồm TT Thiện Minh, TT Huyền Quang; Phật Giáo miền Bắc có Thượng Tọa Tâm Châu, Đại Đức Đức Nghiệp; Phật Giáo miền Nam có TT Thích Thiện Hoa. 

Thành phần phái đoàn thương thuyết với chính quyền đă cho thấy Phật Giáo chịu sự lănh đạo của các vị Tăng miền Trung, nơi phát xuất cuộc tranh đấu chống chính quyền. Ngày 20/8/1963, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm vây chùa bắt Tăng Ni và Phật Tử tranh đấu, Thương Tọa Trí Quang trốn vào Toà Đại Sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi xin tị nạn chính trị, được ông Cabot Lodge, Đại sứ Mỹ ở Saigon chấp thuận.

Sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, trở về chùa Xá Lợi,  Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đuợc thành lập gồm 2 viện : Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạọ  Thượng Tọa Thích Trí Quang được cử làm Chánh Thư Kư viện Tăng Thống.  Thượng Tọa Thích Tâm Châu được đề cử làm viện trưởng Viện Hóa Đạo.

Hồi nầy, khối Phật Giáo được coi là khối mạnh nhất, chính quyền rất nể v́.  Khi cuộc chỉnh lư của Nguyễn Khánh bắt giam các tướng đảo chánh ông Diệm là Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính xảy ra th́ khối Phật Giáo im lặng, không một phản ứng.  Nguyễn Khánh làm thủ tướng. Khối Phật Giáo tham gia chính quyền với Trần Quang Thuận (một nhà sư Pháp danh Thích Trí Không phá giới lập gia đ́nh) làm Bộ Trưởng Xă Hội, giáo sư Bùi Tường Huân làm Tổng Trưởng Văn Hóa Giáo Dục.

Nguyễn Khánh lập Hiến Chương Vũng Tàu. Khối Phật Giáo miền Vĩnh Nghiêm do Thượng Tọa Thích Tâm Giác lănh đạo phối họp với ban Đại Diện Sinh Viên Việt Nam do Nguyễn Trọng Nho lănh đạo đấu tranh phải tiêu hủy Hiến Chương Vũng Tàu.

Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu chỉ định ông Trần Văn Hương, Đô Trưởng Saigon làm Thủ Tướng.  Nội các của ông Hương bị Phật Giáo tẩy chaỵ  Cuộc tranh đấu Phật Giáo bùng nổ.  Tại Việt Nam Quốc Tự, Thượng Tọa Tâm Châu, Thượng Tọa Thích Trí Quang, Đại Đức Hộ Giác tuyệt thực phản đối cuộc đàn áp của chính quyền Trần Văn Hương.

Ông Trần Văn Hương bị Nguyễn Khánh lật đổ đưa ra Vũng Tàu cô lập.  Một số nhân vật trong Thượng Hội Đồng như ông Trần Văn Văn, Bác sĩ Lê Khắc Quyến cũng bị cô lập. Hồi nầy, tại các tỉnh miền Trung, nhóm Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Tôn Thất Hạnh, v.v...thành lập Ủy Ban Cứu Quốc dưới danh nghĩa diệt Cần Lao, đă gây mâu thuẫn nặng nề với Thiên Chúa Giáo qua những cuộc khủng bố trắng ở Thanh Bồ, Đà Nẵng, cũng như ở một vài nơi khác.  Nhóm Cứu Quốc nầy đặt dưới sự lănh đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang đă tạo ra một luồng dư luận cho rằng nhóm nầy là cán bộ nằm vùng của CS, hoạt động theo phương thức đấu tranh của CS.

V́ Ủy Ban Cứu Quốc nầy, mâu thuẫn xảy ra trong hàng ngũ lănh đạo; khối Phật Giáo rạn nứt mạnh mẽ.  Sự thật, ngay khi thành lập Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đă có sự chia rẽ. Cụ Mai Thọ Truyền, Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt, một nhân sĩ uy tín ở miền Nam đă góp công không ít trong cuộc tranh đấu của PG dưới thời cố TT Ngô Đ́nh Diệm, đă nh́n rơ âm mưu của Thương Tọa Thích Trí Quang và Thượng Tọa Thích Thiện Minh định thao túng khối Phật Giáo để hoạt động chính trị, nên cụ Mai Thọ Truyền tách Hội Phật Học Nam Việt ra khỏi Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

 

Phần chính : Giấc mơ lănh tụ

Ai gây ra nông nỗi

 

 

 

1. Thượng Tọa Thích Trí Quang :

Thượng tọa Thích Trí Quang tên thật là Phạm Quang, sinh năm 1922 tại làng Diêm Điền (c̣n được gọi là Nại Hiên hay làng Kẻ Nại) ở phía Tây ngoại ô thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng B́nh. Đây là một làng nổi tiếng có nhiều người hoạt động cho VC. Các cán bộ CS của làng này cũng thuộc vào loại quá khích và sắt máụ Mặt khác, vào năm 1885, khi Phong trào Văn Thân nổi lên, chính dân làng Diêm Điền và làng Đồng Đ́nh đă tiến vào đốt nhà thờ Sáo Bùn của công giáo ở phía Nam thành phố Đồng Hới, thiêu sống luôn mấy trăm giáo dân ở đó. Số giáo dân c̣n sống sót phải bỏ làng chạy về phía Bắc thành phố Đồng Hới và về sau lập một giáo xứ mới tại đây lấy tên là giáo xứ Tam Ṭạ Sự thù ghét công giáo của dân làng Diêm Điền đă in sâu vào tâm trí của TT Trí Quang từ lúc ông c̣n niên thiếu.

Dân làng Diêm Điền chứa chấp du kích VC. Trong thời gian Pháp chiếm đóng Đồng Hới, từ 1947-1954, ít ai dám đi sâu vào làng Diêm Điền, mặc dù làng này ở sát phía Tây thành phố và bên làng có đồn của Quân đội Quốc gia VN trấn đóng.

Gia đ́nh ông có 4 anh chị em : Phạm Quang, Phạm Minh, Phạm Chánh và Phạm Đại. Mấy người em của ông chỉ học tới sơ học (lớp 3), đă gia nhập bộ đội Việt Minh từ năm 1946. Phạm Chánh có cấp bậc Trung Sĩ, chỉ huy một tiểu đội du kích của VC, đă bị Pháp bắn chết ở Đức Phổ, phía Tây Đồng Hới vào ngày 4/6/1947 khi mới 21 tuổi. Đây là người mà vài sử gia PG gọi là "một trong những lănh tụ kháng chiến".

Phạm Đại là một y tá bộ đội, đă ở lại miền Bắc sau Hiệp định Genevạ Sau khi Phạm Chánh qua đời, vợ của Phạm Chánh từ chiến khu trở về xin cấp giấy phép hồi cư để phụng dưỡng bố mẹ chồng ở Diêm Điền. Thiếu úy Huỳnh Công Tịnh, Trưởng pḥng 2 của Trung đoàn Nguyễn Huệ đóng ở Đồng Hới, đă cứu xét đơn, bắt cô ta làm tờ cam kết không tiếp tục hoạt động cho Việt Minh, rồi cấp giấy phép cho hồi cư, nhưng thông báo cho Trưởng đồn Diêm Điền biết và ra lệnh phải theo dơi v́ đây là một thành phần nguy hiểm. Vợ của Phạm Chánh là một cô gái có nhan sắc, mới về nhà cha mẹ chồng được 2 tuần th́ đă lân la đến khu đồn Diêm Điền đùa cợt và ít lâu sau cô đă bắt bồ được với Trưởng đồn. Thấy hành vi của cô khả nghi như hỏi về t́nh trạng của đồn, theo dơi các cuộc hành quân nên các đơn vị ở đây đă tương kế tựu kế. Vợ Phạm Chánh đă làm nội gián và cô ta đă bị giết khi t́m cách ngủ với Trưởng đồn ngay trong đêm VC tấn công vào đồn này.

Trong cuốn "The Lost Revolution" (nxb. Harper and Row, 1965), Robert Shaplen có ghi lại rằng khoảng tháng 5/1964, sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ, người em thứ hai của TT Trí Quang là Thích Diệu Minh, một Ủy viên của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng B́nh, đă cùng với một cán bộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, lén vào chùa Từ Đàm thăm ông. Nhưng thực ra Phạm Minh không có đi tu, có lẽ khi vào tới Huế, Phạm Minh đă mặc áo cà sa và lấy tên là Thích Diệu Minh để dễ trà trộn.

Dân làng Diêm Điền chuyên về nghề mộc, làm ruộng và đi làm mướn, không có thành phần khoa bảng, ít ai học hết tiểu học. Giọng của dân làng này hơi ngọng, TT Trí Quang cũng có giọng đó nên ông đă gặp nhiều khó khăn khi nói trước quần chúng. Ông đă cố gắng luyện giọng lại nhưng không như ư muốn. Năm 1954, khi Hiệp định Geneva được kư kết, mặc dù ở ngay ngoại ô thành phố Đồng Hới, có thể di cư vào nam dễ dàng, nhưng đa số dân làng này đă ở lại với VC. 

Như đa số các tăng sĩ thời đó, học vấn của TT Trí Quang chỉ có hạn. Về Hán học, ông học với các sư, chứ không học với các nhà Nho. Hán học của ông do đó là Hán học của nhà Phật, không phải Hán học của nhà Nho. Loại Hán học này chỉ hướng vào việc t́m hiểu kinh Phật, nên kiến thức tổng quát của ông không nhiều. Về Tây học, ông chưa học hết Trung học Đệ nhất cấp.. Thời của ông, đậu diplôme (trung học đệ nhất cấp) không phải là chuyện dễ dàng. Có thể ông chỉ học hết tiểu học (Primaire), v́ ở Đồng Hới cho tới năm 1945 chỉ có trường Tiểu học. Khi vào Huế, ông đă học thêm Hán học và Phật học, chứ không học thêm ở một trường Tây nào. Về Phật học, ông tốt nghiệp Trường An Nam Phật Học ở Huế năm 1943. Nghe ông thuyết pháp và đọc 2 tác phẩm của ông là "Cuốn sách nhỏ của người xuất gia" và "Cuốn sách nhỏ của người tại gia", người ta có thể thấy là kiến thức của ông không nhiều và không sâu sắc. Trong bài "Địa vị và nhiệm vụ hộ pháp của người Phật tử tại gia", ông viết :

"Cái thành kiến quái gở cho rằng "tôi phải hy sinh sự tư lợi của tôi cho sự lợi tha" cũng sẽ phải tan ră v́ nguyên tắc này, bởi v́ không có sự lợi tha nào đúng nghĩa từ ngữ áy mà thiếu tự lợi tức sự áp dụng Phật pháp trước hết, hay đối lạị cũng chẳng có một sự tự lợi nào đúng nghĩa của danh từ ấy mà không v́ mục đích lợi tha tức v́ lợi ích chung mà áp dụng Phật pháp.

"Thật là một lỗi lầm đáng khinh bỉ khi một người đă sống trong Phật pháp vô thượng mà không thẳng thắn bộc lộ rạ Họ bảo như thế để moi người thấy ḿnh không cố chấp tín ngưỡng của ḿnh, nhưng họ có biết đâu rằng cố chấp là một việc mà thành thật là một việc khác. Không thành thực bộc lộ tư cách Phật tử của ḿnh th́ làm sao cảm hóa người được. Họ c̣n đi hợp tác với ngoại đạo tà ma. Họ bảo để tỏ tư cách quảng đại của Phật tử, nhưng lời ấy chỉ là che đậy những lư do lấy Đạo làm bàn đạp cho lợi lộc cá nhân của ḿnh mà thôi, chứ Phật tử sao đi hợp tác với ngoại đạo ?"

 

Ông cũng có dịch một số kinh Phật bằng chữ Hán ra chữ Việt. Khi VC cướp chính quyền năm 1945, ông gia nhập Mặt Trận Việt Minh. Trong cuốn No More Vietnam, Nixon cho biết là ông đă bị Pháp bắt 2 lần trước năm 1954 v́ hoạt động cho Việt Minh. TT Trí Quang không hề dấu diếm mục tiêu của ông khi ông tuyên bố Giáo hội Phật giáo thích hợp với chế độ CS (He was a disciple of Thich-Tri Đo, the leader of the Communist dominated Budhist Church in North Vietnam, and had once said that Budhism was entirely compatible with communism).

 

Sau khi có lệnh của Việt Minh phải tản cư khỏi Huế vào cuối năm 1946, ông đă về lại Diêm Điền ở Đồng Hới, nơi quê quán của ông, nghỉ lại đây một thời gian ngắn rồi cùng Thích Mật Thể đi ra Vinh. Ông ở Vinh mấy tháng lại quay về Đồng Hới và giữ chức Chủ tịch Ủy ban Phật giáo Cứu quốc Quảng B́nh. Năm 1947, Pháp chiếm Đồng Hới, ông ở Diêm Điền qua cư ngụ ở làng Trung Nghĩa, phía Tây làng Diêm Điền, v́ Diêm Điền quá sát thành phố, rất khó hoạt động. Những địa diểm mà ông thường xuyên lui tới để hội họp với Ủy ban Kháng chiến tỉnh Quảng B́nh là Đức Phổ, Thuận Lư và Phú Quư, các nơi này Pháp chưa kiểm soát hoàn toàn được.

Cùng hoạt động với ông có 2 cán bộ nội thành của Việt Minh là Nguyễn Toại ở Đồng Đ́nh và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú. Đồng Đ́nh và Đồng Phú là 2 làng nằm ngay trong thành phố Đồng Hới. Nguyễn Toại (thường được gọi là Toại béo) trước làm Nhà Đèn Huế, theo CS tản cư ra Đồng Hới vào cuối năm 1946 cùng lượt với TT Trí Quang. Cả Nguyễn Toại, Nguyễn Tịch và TT Trí Quang đều bị Pháp bắt năm 1947. Trong thời gian hoạt động cho Việt Minh, Nguyễn Toại đă chỉ điểm nhiều thành phần đảng phái quốc gia có lập trường chống CS cho Việt Minh bắt thủ tiêu, nên khi Nguyễn Toại bị bắt, có người đă tố cáo với Pháp về chuyện này, do đó Pháp đă đem Nguyễn Toại ra xử bắn. Nguyễn Tịch trốn được khỏi nhà giam vào ban dêm.

TT Trí Quang chỉ bị giam một thời gian rồi được trả tự do. Nhưng ít lâu sau ông bị bắt trở lại v́ Pḥng 2 của Pháp thấy ông vẫn c̣n liên lạc với các cán bộ giao liên của Việt Minh. Sau một thời gian giam giữ, ông được một viên chức thuộc địa của Pháp ở Huế bảo lănh. Ông làm tờ cam kết không hoạt động cho Việt Minh nữa, nên được thả ra. Nhận thấy không c̣n hoạt động ở Đồng Hới được, ông trở về Huế và chuyên lo Phật sự, nhưng bên trong vẫn bí mật hoạt động cho Việt Minh.

Năm 1953, Hồ Chí Minh thành lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh để gây phong trào phản chiến, vận động dư luận quốc tế và quốc nội làm áp lực buộc Pháp ngưng chiến. Ḥa thượng Thích Trí Độ là Ủy Viên Trung Ương của tổ chức này. Thượng Tọa Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy Ban.

Sau cuộc di cư năm 1954, TT Trí Quang làm Hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học ở Huế. Lợi dụng cương vị này, ông đứng ra lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh, một tổ chức phản chiến do Việt Minh lập năm 1953. Ông đă quy tụ được một số trí thức Phật Giáo thời đó tại Huế như bác sĩ Lê Khắc Quyến, bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, ông Nguyễn Văn Đảng, giáo sư Tôn Thất Dương Ky....

Mục tiêu của Ủy Ban này là ngụy ḥa, kêu gọi ḥa hợp ḥa giải dân tộc và tổ chức bầu cử ngay để thống nhất 2 miền Nam Bắc.

Với t́nh trạng xă hội và chính trị vô cùng xáo trộn của miền Nam lúc dó, HCM tin rằng nếu có bầu cử chắc chắn CS sẽ thắng như năm 1945, v́ họ đă gài lại vô số cán bộ nằm vùng hoạt động tại miền Nam. TT Trí Quang đă làm công tác dân vận đó giúp VC nên nhóm của ông bị bắt. Chức Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học của ông giao lại cho TT Thích Giác Nhiên.

V́ TT Trí Quang đang làm Hội trưởng Hội Phật Học ở Huế nên công an tŕnh nội vụ cho ông Ngô Đ́nh Cẩn giải quyết. Sau khi xem hồ sơ của TT Trí Quang, ông Ngô Đ́nh Cẩn thấy TT Trí Quang là người đồng hương nên quyết định chiêu hồi cả nhóm này. Ông Ngô Đ́nh Cẩn cho TT Trí Quang xem hồ sơ của Pḥng 2 Pháp để lại, trong đó ghi rơ từng trường hợp ông hoạt động cho VC khi ở Quảng B́nh và tờ cam kết của ông không tiếp tục hoạt động cho VC nữa. Sau đó ông Ngô Đ́nh Cẩn nói với TT Trí Quang rằng nếu Thượng Tọa chịu giữ lời cam kết và hợp tác, chính phủ sẽ giúp đỡ cho. Trước cái thế chẳng đặng đừng này, TT Trí Quang đă chấp nhận hợp tác và ông Ngô Đ́nh Cẩn đă dùng TT Trí Quang để nắm khối Phật giáo miền Trung. Nhiều người đă ngăn cản ông Ngô Đ́nh Cẩn về chuyện này, nhưng ông Ngô Đ́nh Cẩn tin rằng ông đă nắm hồ sơ TT Trí Quang trong tay, TT Trí Quang sẽ không dám phản lại ông. Ông Ngô Đ́nh Cẩn đă yểm trợ rất nhiều cho các hoạt động của Phật Giáo tại chùa Từ Đàm để tăng uy tín cho TT Trí Quang và thỉnh thoảng có đến chùa Từ Đàm ăm cơm chay với TT Trí Quang.

Chùa Từ Đàm được xây cất từ 1703, đời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu, có tên là Ấn Tôn Tư.. Đến đời vua Hiến Tổ, hiệu là Thiệu Trị (1841-1847), triều đ́nh cho rằng tên chùa phạm húy nên đổi thành chùa Từ Đàm. V́ được xây cất từ lâu nên chùa bắt đầu hư nát. Ông Ngô Đ́nh Cẩn đă giúp cho TT Trí Quang trùng tu lại nên trông rất mới mẻ, quan khách cứ tưởng như chùa mới xây.

Bác sĩ Lê Khắc Quyến được cử giữ chức Giám đốc Bệnh viện Trung Ương Huế, mặc dù ông chỉ là Y sĩ Đông Dương (chưa có luận án), không phải là Bác sĩ ngạch Pháp. 

Ông Nguyễn Văn Đẳng được bổ nhiệm làm Tổng thư kư Ṭa thị chính Đà Nẵng năm 1955 và đến năm 1962 được đưa ra làm tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên kiêm Thị trưởng thành phố Huế. Khi vụ Phật Giáo xảy ra vào tháng 3/1963 ở Huế, ông đang làm thị trưởng ở đó. Ông được coi là một Phật tử thuần thành nên không hề bị đ̣i nợ máu khi ông ra lệnh cho Thiếu tá Đặng Sĩ dẹp cuộc biểu t́nh trước đài phát thanh. Thiếu tá Đặng Sĩ, người thừa hành, bị đ̣i nợ máu, v́ Đặng Sỹ là người Công giáọ Ngày 1/6/1963, cả ông Nguyễn Văn Đẳng lẫn Thiếu tá Đặng Sỹ đều bị ngưng chức và về đợi lệnh ở Bộ Nội vu.. Sau này ông Đảng được cử giữ chức Đại biểu Chính phủ tại Trung phần.

Trong trận Tết Mậu Thân, ông Đẳng bị mất tích. Mọi người đều tưởng ông đă bị giết, nhưng sau 30/4/75 ông trở lại Huế. Điều này làm nhiều người ngạc nhiên về vai tṛ của ông. Hiện ông ở Hoa Kỳ.

Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng đi theo Việt Minh từ 1945 đến năm 1951 th́ trở về Hà Nội và theo học trường Dược tại Hà Nội. Năm 1954, khi mới di cư vào Nam, ông đă tham gia Ủy Ban Bảo Vệ Ḥa B́nh của TT Trí Quang. Sau khi được chiêu hồi, ông Ngô Đ́nh Cẩn đă nhờ Linh mục Cao Văn Luận giúp NCT lấy xong bằng Dược sĩ rồi giao cho Nguyễn Cao Thăng đứng đầu hăng bào chế dược phẩm OPV tại Saigon để kinh tài cho Đảng Cần Lao. NCT cũng được ông Ngô Đ́nh Cẩn đưa ra làm Dân biểu Quốc hội Lập hiến trong cuộc bầu cử 1957.

Khi Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống, NCT lại được chọn làm Phụ tá TT đặc trách liên lạc với Quốc hộị Ông có nhiệm vụ vận động các dân biểu bỏ phiếu ủng hộ các dự luật và các đường lối do Hành pháp đưa rạ Nguyễn Văn Ngân, nhập ngũ khóa 13 Thủ Đức, đang ở Sư đoàn 7, được NCT đưa về làm Phụ tá, có nhiệm vụ xách cặp tiền đi theo và chi tiền cho các dân biểu khi có lệnh của NCT. Khi NCT qua đời, Nguyễn Văn Ngân được cử giữ chức vụ của NCT v́ đă quen công việc.

TT Trí Quang chỉ trá hàng ông Ngô Đ́nh Cẩn. Các nhân viên t́nh báo có cho ông NDC biết TT Trí Quang vẫn tiếp tục liên lạc với VC nhưng ông không quan tâm nhiềụ Ông tin ông có thể tương kế tựu kế.

Tháng 5/1963, khi có lệnh hạn chế treo cờ các tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo, TT Trí Quang đă lợi dụng cơ hội này phát động phong trào Phật Giáo chống chính phủ Ngô Đ́nh Diệm với thủ đoạn và chiến thuật mà VC thường áp dụng (bàn sau).

Năm 1964, khi Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất (khối Ấn Quang) được thành lập, TT Trí Quang giữ chức Chánh thư kư Viện Tăng Thống.

Sau khi Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc "chỉnh lư" và lên nắm chính quyền, TT Trí Quang đă lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, sau biến thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, trong đó có nhiều đặc công CS nằm vùng lănh đạo 2 tổ chức này. Lực lượng của ông mở cuộc đánh phá Công giáo và các đảng phái Quốc gia, dưới chiêu bài "diệt dư Đảng Cần lao", đ̣i Mỹ rút quân, ngụy ḥa, gây rối loạn cả miền Nam VN. Lực lượng của ông đă bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan vào tháng 6/1966. Trong cuộc họp báo ngày 7/6/1966, Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận tuyên bố TT Trí Quang là CS nên sẽ bị bắt, nhưng sau đó ông vẫn không bị bắt.

Sau 30/4/1975, nhóm Ấn Quang do ông lănh đạo đă tổ chức mừng giải phóng và coi thắng lợi của VC là thắng lợi của Phật Giáọ Nhưng đến năm 1976, Hà Nội giải thể Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhóm ông cũng bị loại theo.

Trong cuộc lục soát chùa Ấn Quang của lực lượng an ninh CS vào đêm 6/4/1977, các Ḥa thượng Huyền Quang, Thiện Minh, Quảng Độ và một số tăng sĩ đă bị bắt, nhưng công an không đụng đến ông. Ông chỉ bị quản thúc tại chỗ và mọi việc liên lạc giữa ông với người ngoài không có ǵ khó khăn lắm.

TT Trí Quang được coi là người lănh đạo nhóm Phật giáo quá khích và cực đoan trong tông phái Phật giáo Ấn Quang ở miền Trung. Nhiều người nghĩ rằng ông đă sống và hoạt động với VC nhiều năm nên đă học được nhiều kỹ thuật đấu tranh chính trị và thủ đoạn của CS. Nh́n cách điều động các cuộc đấu tranh của ông, người ta thấy ông có nhiều mưu lược. Ông điều hành cuộc đấu tranh của Phật giáo miền Trung đúng phương pháp mà VC thường xử dụng. Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm chỉ ra lệnh hạn chế việc treo cờ tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo, ông phao tin chính phủ ra lệnh triệt hạ cờ Phật giáo.

Trong vụ nổ tại đài phát thanh Huế tối 8/5/1963, Bác sĩ Lê Khắc Quyến, một "đồng chí" của ông, khám nghiệm tử thi các nạn nhân, đă cho ông biết các nạn nhân bị chết v́ một chất nổ bằng plastic cực mạnh, nhưng ông vẫn tuyên truyền kích động, phao tin các nạn nhân bị chết v́ súng bắn, lựu đạn và xe tăng cán...

Vừa kư kết xong với Ủy Ban Liên Bộ một thông cáo chung giải quyết vụ Phật giáo, ông tung ngay một "mật điện" giả để hô hoán chính quyền t́m cách không thực thi thông cáo chung và hô hào tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh, v.v...

Nhưng một sĩ quan t́nh báo cao cấp của VNCH thời đó đă nói : TT Trí Quang chỉ là ấu chúa, mọi việc trong triều đều do Thái sư và Thừa tướng lo. Thái sư là Vơ Đ́nh Cường, c̣n Thừa tướng là Nguyễn Trực.

Thích Trí Quang quê ở Quảng B́nh nên Huế không phải là đất dụng vơ của ông. Ở Huế thời đó lại có quá nhiều thành phần xuất sắc, nên TT Trí Quang nằm trong hạng vô danh tiểu tốt. Khi nhóm TT Thích Thiện Chiếu, Thích Trí Độ, Thích Mật Thể, ...đi tản cư và ở lại Nghệ An theo Việt Minh, một ḿnh TT Trí Quang bị Pháp bắt nên phải từ Quảng B́nh quay lại Huế, vai tṛ của ông mới được chú ư. Sau này ông Ngô Đ́nh Cẩn đă giúp đỡ tối đa và tạo uy tín cho ông, đưa ông trở lại làm Hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học để nắm khối Phật Giáo Miền Trung, ông mới có chút uy tín. Nhưng mọi lực lượng đều nằm trong tay Vơ Đ́nh Cường.

Vơ Đ́nh Cường lănh đạo Ban Huynh Trưởng Cố Vấn Gia Đ́nh Phật Tử, một tổ chức do bác sĩ Lê Đ́nh Thám thành lập tại Huế năm 1944. Năm 1949, bác sĩ Lê Đ́nh Thám được Hồ Chí Minh gọi ra Bắc, Vơ Đ́nh Cường đứng lên lănh đạo tổ chức này và hoạt động cho Việt Minh. Chính Vơ Đ́nh Cường nhận chỉ thị của Khu Ủy Tri.-Thiên-Huế, hoạch định các kế hoạch, chiến thuật và thủ đoạn đấu tranh rồi đẩy TT Trí Quang đi theo, c̣n Nguyễn Trực là người điều động.

 

 

 

* Các tổ chức ngụy ḥa :

 

 

 

Các tổ chức ngụy ḥa này thường được VC thành lập hoặc để vận động phản chiến trong hàng ngũ quốc gia hoặc để yểm trợ cho những yêu sách của VC trên bàn hội nghi..  Để hiểu rơ hơn về điểm này, ta hăy t́m hiểu sau đây những tổ chức ngụy ḥa chính do một số tăng sĩ hay cư sĩ PG đảm nhiện hay thành lập để yểm trợ cho các chiến thuật của VC.

1.  Phong Trào Vận Động Ḥa B́nh Thế Giới :

Năm 1949, trong khi chờ đợi củng cố lại lực lượng vừa bị Pháp đánh tan khắp nơi, HCM thành lập Phong Trào Vận Động Ḥa B́nh Thế Giới để vận động dư luận quốc tế buộc Pháp phải thỏa hiệp với chính phủ HCM.  Cư sĩ Tâm Minh, tức BS Lê Đ́nh Thám, đă được HCM cử giữ chức Chủ Tịch Phong Trào này, v́ các tăng sĩ PG không ai có khả năng ngoại ngữ và tư thế bằng ông.  Nhưng HT Thích Trí Độ được đưa vào làm Ủy Viên Trung Ương của phong trào để chỉ đạo đường lối. 

 

2. Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết : 

Năm 1953, HCM thay Phong Trào Bảo Vệ Ḥa B́nh Thế Giới bằng Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh với mục đích vận động dư luận thế giới buộc Pháp phải chấp nhận một giải pháp ḥa b́nh cho Đông Dương.  Cư sĩ Lê Đ́nh Thám được chuyển qua làm Chủ Tịch Ủy Ban nàỵ  HT Thích Trí Độ giữ chức Ủy viên Trung ương của Ủy ban.  TT Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy ban.

 

Năm 1954, sau hiệp định Geneva, TT Trí Quang vào Huế làm Hội trưởng Hội VN Phật Học ở Huế.  Ông đă lợi dụng cương vị này để cùng một số trí thức PG lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh, tại miền Nam.  Ủy Ban này mang tính chất ngụy ḥa, tiếp tay cho HCM trong việc kêu gọi ḥa hợp ḥa giải, hiệp thương để tiến tới bầu cử thống nhất 2 miền trong thời hạn 2 năm sau hiệp định Genevạ  HCM tin rằng trong khi t́nh h́nh miền Nam đang rối loạn v́ giáo phái, chưa có tổ chức, nếu có bầu cử, nhất định CS sẽ thắng v́ trong những năm kháng chiến chống Pháp họ đă gài vô số cán bộ nằm vùng ở lại để vận động.  Phong trào này đă bị Ngô Đ́nh Cẩn ra lệnh bắt chiêu hồi. 

Ngày 27/2/1965, TT Thích Quảng Liên thành lập Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Ḥa B́nh và Hạnh Phúc Dân Tộc.  Phong trào này là hậu thân của Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh của TT Trí Quang lập năm 1954.  TT Quảng Liên là Tổng Ủy Viên Tổng Vụ Pháp Sự của GHPG Ấn Quang.  Song song với Ủy ban này, ông cho thành lập thêm một tổ chức thứ hai có tên Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết để phối hợp hoạt động.  Cả 2 phong trào đưa ra chủ trương ngụy ḥa, kêu gọi Hoa Kỳ và chính phủ VNCH phải chấm dứt chiến tranh. 

Ngày 5/3/1965, Tổng Nha Cảnh Sát ra một thông cáo thông báo dân chúng biết Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Ḥa B́nh, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận Động Ḥa B́nh, Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh hay Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, v.v... tuy có nhiều danh xưng khác nhau nhưng cùng là một tổ chức do các cán bộ đặc công của CS đặt ra làm suy yếu tinh thần chống Cộng của miền Nam.  Cảnh sát đă đưa ra tài liệu của VC nhằm hướng dẫn cách thức thành lập và cổ động cho các phong trào nàỵ  Trước những bằng chứng không thể phủ nhận được, ngày 11/3/1965, Viện Hóa Đạo ra một thông cáo nói rằng Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Ḥa B́nh là do TT Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan ǵ đến Viện Hóa Đạọ  Ngày 17/3/1965, TT Quảng Liên tuyên bố từ chức Chủ tịch của Phong trào. 

Những người tham gia 2 phong trào này đă bị chính phủ Phan Huy Quát ra lệnh bắt và điều tra.  Trước đó, ngày 1/3/1965, chính phủ Phan Huy Quát đă tuyên bố xác định chỉ nói chuyện ḥa b́nh khi nào CS chấm dứt xâm lăng.  Ngày 19/3/1965, 3 người thuộc Phong Trào Ḥa B́nh bị trục xuất ra Bắc là BS Thú Y Phạm Văn Huyến, kư giả Cao Minh Chiếm và GS Tôn Thất Dương Kỵ..  Ngày 4/8/1965, Ṭa Án Quân Sự Mặt Trận xét xử vụ những người tham gia Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Ḥa B́nh và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết do TT Quảng Liên thành lập và làm Chủ tịch, xác nhận hoạt động của 2 tổ chức này có liên hệ với CS, tuyên án 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị tù treo và tha bổng 6 ngườị  Nhưng TT Quảng Liên lại không bị bắt hay bị truy tố.  Chính sự tránh né này của chính phủ Quát đă làm cho một số tăng sĩ PG miền Trung trong GHPG Ấn Quang tin rằng chính quyền không dám đụng tới họ và họ đă trở thành những thành phần bất khả xâm phạm trong xă hộị  Với ư nghĩ đó, nhóm tăng sĩ miền Trung thừa thắng xông lên, gây ra biết bao tai biến nghiêm trọng sau nàỵ  Đây cũng là thời kỳ mà người ta gọi là "nạn kiêu tăng". 

 

3. Lực Lượng Ḥa Giải Dân Tộc : 

Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris vừa được kư kết th́ ngày 31/1/1973, một nhân vật khác hiện ra, TT Thic'h Thiện Minh, đă vội phổ biến một thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Ḥa Giải Dân Tộc, cử luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ tịch với nhiệm vụ đ̣i "nghiêm chỉnh thực thi ngưng bắn" và tiến tới lập chính phủ ḥa hợp ḥa giảị

TT Thích Mẫn Giác cho biết việc thành lập lực lượng nói trên là do quyết định của Hội Đồng Viện Hoá Đạo theo đề nghị của Nghị sĩ Vũ Văn Mẫụ  HT Thích Trí Thủ, TT Trí Quang và TT Thiện Minh đă yểm trợ mạnh mẽ cho quyết định này ?  Viện Hoá Đạo GHPG Ấn Quang đă lập lực lượng nói trên để làm ǵ ? 

Điều 12 của Hiệp định Paris dự liệu thành lập tại miền Nam VN một Hội Đồng Quốc Gia Ḥa Giải và Ḥa Hợp Dân Tộc sau khi ngưng bắn.  Hội Đồng này gồm 3 thành phần : VNCH, MTGPMN và các thành phần ở giữa.  Lúc đầu Hà Nội cương quyết đ̣i Hội Đồng này phải được tổ chức từ trung ương đến địa phương như một chính quyền song hành với chính phủ VNCH.  Nhưng sau khi Hoa Kỳ ném bom B52 xuống Hà Nội 12 ngày đêm, Hà Nội mới chịu giới hạn quyền của Hội Đồng vào việc tổ chức bầu cử mà thôị  Hà Nội tin rằng trong 3 thành phần của Hội Đồng, họ sẽ chiếm 2 thành phần là MTGPMN và các tổ chức thân Cộng trong thành phần thứ ba, nên sẽ thắng khi cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại miền Nam.  TT Thích Thiện Minh được chỉ thị thành lập "thành phần thứ ba" gồm các tổ chức thân Cộng để tham gia Hội Đồng, đó là Lực Lượng Ḥa Giải Dân Tộc nói trên. 

Thông bạch do TT Thích Thiện Minh công bố đă bị các đảng phái quốc gia và báo chí công kích nặng nề nên lực lượng này không hoạt động được.  

 

* Các tổ chức gây bất ổn và liên hệ với CS : 

 

1. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc và Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng : 

Năm 1964, TT Trí Quang đă cho tái sinh Hội cứu quốc trong Mặt Trận Việt Minh dưới danh hiệu Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc.  Sau khi bị lật tẩy, ông cho đổi thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng.  Mục tiêu của 2 tổ chức này là gây biến động chính trị tại miền Nam để tiến tới cướp chính quyền.  

Dưới chiêu bài "chống đàn áp PG" và "diệt Cần Lao Thiên Chúa Giáo", 2 tổ chức trên đă tung hoành từ Quảng Trị tới Saigon, không coi chính quyền và luật pháp quốc gia ra ǵ, nhưng đến tháng 6/1966 th́ bị chính phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan. Sau biến cố Mậu Thân 1968 và nhất là sau 30/4/1975, người ta mới khám phá ra các thành phần chủ lực trong 2 lực lượng này đều là CS nằm vùng như TT Thích Minh Châu (Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh), 2 Đại Đức Thích Hạnh Tuệ và Thích Nhất Chí, Hoàng Phủ Ngọc Tường (sẽ nói sau), Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Hàm...

2. Dùng Đại học Vạn Hạnh làm cơ sở hoạt động nội thành cho VC :

Viện Đại học Vạn Hạnh được xây cất vào ngày 9/6/1965.  Khi hoàn thành, TT Thích Minh Châu dược GHPG Ấn Quang cử làm Viện Trưởng, ông đă biến nơi này thành một căn cứ địa an toàn cho đặc công CS nằm vùng và các tổ chức chống chính phủ. Chính nơi đây là địa điểm phát xuất các toán biểu t́nh và bạo động.  

Ngày mất nước 30/4/1975, dưới quyền điều khiển của Nguyễn Trực, họ đă cầm cờ PG ra Ngă Tư Bảy Hiền đón "quân giải phóng".  Các tài liệu của VC xác nhận TT Thích Minh Châu là cán bộ nội tuyến và Viện Đại Học Vạn Hạnh là cơ sở hoạt động nội thành.

3. Nhận chỉ thị của VC để hoạt động :

Trong thời Đệ II Cộng Ḥa, nhóm tham mưu của Viện Đại Học Vạn Hạnh vẫn lén lút ra Huế họp với Khu Ủy Tri.-Thiên -Huế để báo cáo và nhận chỉ thị hoạt động quấy phá miền Nam.  Mỗi lần đi đều bị nhân viên t́nh báo của VNCH theo dơi và chụp h́nh.  Các tài liệu này sau đó được thông báo cho Viện Hóa Đạo và Viện Đại học Vạn Hạnh biết kèm theo lời cảnh cáọ  Nhưng ít lâu sau, công việc này lại tái diễn.

Các TT Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ và Thích Bữu Phương đă nhiều lần đi Tây Ninh họp với VC.  Lần họp tại chùa Từ Vân ở G̣ Dầu Hạ, Tây Ninh, đă bị cơ quan an ninh phát giác.  TT Thích Hộ Giác bị Bộ Quốc Pḥng VNCH buộc phải từ chức Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy PG.  TT Thích Quảng Độ từ khi du học Ấn Độ về đă có lập trường thân Cộng và hoạt động cho MTGPMN.  Chỉ sau 30/4/1975, khi ông cũng như TT Thích Thiện Minh không được tin dùng, ông mới quay lại chống chế độ và bị bắt.

Chính quyền miền Nam đă không bắt các vị sư tăng trên đi an trí hay truy tố họ ra ṭa v́ sợ gây hoang mang dư luận và hơn nữa cơ quan t́nh báo không muốn phá vỡ đường dây để đễ theo dơi ho..

* Các h́nh thức yểm trợ các đ̣i hỏi của CS :

Ăn rập với các đ̣i hỏi của VC, nhóm cực đoan thân Cộng miền Trung trong GHPG Ấn Quang đă phát động rất tinh vi nhiều chiến dịch nhằm yểm trợ các đ̣i hỏi của VC.

1. Chiến dịch "Việt Nam, Đóa Hoa Sen Trong Biển Lửa".

Ngày 3/6/1966, Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp th́ được một nhóm phản chiến của Mỹ mời thăm Hoa Kỳ.  Nhân dịp này, ông đă công bố chủ trương 5 điểm của GHPG Ấn Quang như sau :

 

- Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.

- Quân đội Mỹ rút luị

- Ngưng oanh tạc Bắc Việt.

- Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ

- và tái thiết miền Nam không điều kiện.

 

5 điểm đ̣i hỏi này giống hệt 5 điểm đ̣i hỏi của MTGPMN.

Năm 1967, Đại Đức Nhất hạnh cho xuất bản cuốn "Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Budhist Proposal for Peace" (Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, môt đề nghị ḥa b́nh của Phật giáo), nói về cuộc tranh đấu của PG từ 1963-1966 và những chết chóc tang thương do Hoa Kỳ và quân đội VNCH gây ra.  Ông lên án Ngô Đ́nh Diệm đàn áp PG, Nguyễn Cao Kỳ độc tài quân phiệt và ca tụng HCM là anh hùng dân tộc.  Ông tuyên bố MTGPMN do những người quốc gia chống chế độ Ngô Đ́nh Diệm lập ra chứ không phải do Hà Nội lập ra, nhưng v́ Mỹ đă đổ quân và vũ khí vào VN, nên họ "nghiêng theo khối CS, và càng ngày càng trở thành công cụ của khối CS", nhưng ở dưới ông lại trích dẫn lời của Lê Duẩn tuyên bố trong Đại hội đảng kỳ 3 (1960) xác nhận "Đảng ta" lănh đạo Mặt Trận. Trong bộ Lịch Sử Đảng CSVN do Nhà xuất bản Sách Giáo khoa Mác-Lênin ở Hà Nội ấn hành, Hà Nội chính thức xác nhận rằng MTGPMN được thành lập do Nghị Quyết của Đại hội III của Đảng CSVN họp tại Hà Nội vào tháng 9/1960.  Đại Đức Thích Nhất Hạnh biết rơ điều đó, nhưng khi làm công tác tuyên truyền cho VC, ông đă cố t́nh bóp méo sự thật để biện hộ cho sự xâm lăng của Hà Nội. 

Năm 1968, khi ḥa đàm Paris bắt đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức của GHPG Ấn Quang ở hải ngoạị Đại Đức Nhất Hạnh ra ngoại quốc năm 1964, thường trú tại Pháp.  Đọc những bài ông viết sau 1977, người ta thấy lập trường chính trị của ông đă có nhiều thay đổi. 

 

2. Thành lập Nhóm Ḥa Giải, sau đổi thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bộ : 

 

Sau Đại hội PG kỳ 3 của GHPG Ấn Quang tổ chức tại Saigon ngày 20/8/1968, luật sư Trần Ngọc Liễng tuyên bố thành lập Nhóm Ḥa Giải gồm 25 ngườị  Nhóm này sau biến thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bô..  Ngày 15/11/1969, LS Liễng đưa ra một tuyên bố khẳng định "hướng đi của dân tộc VN là ḥab́nh trên cơ sở độc lập, tự do và dân chủ".  Tiếp theo, ông kêu gọi thành lập một chính phủ ḥa giải để chấm dứt chiến tranh, triệt thoái quân đội ngoại lai ra khỏi miền Nam thật sớm.  Các báo ở Saigon hỏi ông tại sao không nói ǵ về phía CS, ông không trả lờị  Mục tiêu của bản tuyên bố này là yểm trợ cho các đ̣i hỏi của Cộng Sản Bắc Việt tại ḥa đàm Paris. 

 

3. Tuyên ngôn 6 điểm của Phái đoàn PG Ấn Quang : 

Tháng 10/1970, TT Thích Thiện Minh cầm đầu một Phái đoàn PGVN qua Nhật Bản dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Ḥa B́nh họp tại Tokyo từ 16-22/10/1970.  Phái đoàn này gồm có TT Thích Thiện Minh, TT Thích Huyền Quang, TT Thích Ḿnh Tâm, Đại Đức Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và 2 cư sĩ Ngô Văn Giáo và Vĩnh Bữụ  Tại hội nghị nói trên, phái đoàn đă đưa ra đề nghị 6 điểm của PGVN như sau : 

  1. Các phe lâm chiến phải bắt đầu xuống thang ngay lập tức  để đạt đến một cuộc ngưng bắn toàn diện vào lúc 18  giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26/1/1971). 

  2. LHQ sẽ chỉ dịnh một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội Kiểm Soát Ngưng Bắn gồm cả đại diện của Quân  đội VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN. 

  3. Chính phủ VNCH phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên, trí thức, tu sĩ và tất cả những người đă bị tạm giam v́ tranh đấu cho ḥa b́nh và chủ quyền của dân tộc. 

  4.  Chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt t́nh trạng thối nát, độc tài và bất lực ở miền Nam VN bằng cách để cho người Việt tự do chọn đại diện đa số dân chúng có bản chất ḥa giải dân tộc, không liên kết và có đủ khả năng để :

     - Thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt  thoái mau chóng toàn thể quân lực Hoa Kỳ ở VN và những liên  hệ ngoại giao, văn hóa và kinh tế giữa Hoa Kỳ và VN.  

    - Thương thuyết với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam  VN về những thể thức tổng tuyển cử để bầu lên một  chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng chính trị ở Nam VN,  một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc  tế, trong đó mọi người VN thuộc bất cứ khuynh hướng  chính trị nào đều có thể tham dư.. 

  5.  Các chính phủ Hoa Kỳ, Sô-viết, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa  và các quốc gia liên hệ khác cộng tác với nhau để chấm  dứt đau khổ của người dân Việt bằng cách ủng hộ đề  nghị này cho chính người Việt đề ra. 

  6.  Các phe lâm chiến tại VN, nhân dân ưa chuộng ḥa b́nh trên thế giới, các giáo hội tôn giáo và các nhà nhân bản cấp thời hành động để thúc đẩy các quốc gia có trách nhiệm về chiến tranh VN chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN, Kampuchea và Lào.

Từ các danh từ và văn tự được xử dụng đến nội dung của bản tuyên bố đều giống hệt các bản tuyên bố của MTGPMN.  Bản tuyên bố được viết với lối hành văn lập pháp hay quyết định thay v́ nhẹ nhàng của một đề nghị của một tổ chức quốc tế về tôn giáo và ḥa b́nh.  Sau bản tuyên bố trên, GHPG đă làm mất cảm t́nh của hầu hết các quốc gia trên thế giớị  Phái đoàn Đan Mạch đă vặn hỏi tại sao PGVN chỉ đ̣i quân đội Mỹ rút ra mà không đ̣i tất cả các quân đội ngoại nhập phải rút, trong đó có cả quân đội CS Băc Việt, Phái đoàn PGVN không trả lời được. 

 

* Thành lập "chính phủ Phật Giáo" để giao cho VC : 

Tạp chí Quê Mẹ số 125 & 126 tháng 10-11/1993 đă công bố bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu về cuộc gặp gỡ giữa ông và TTCS Phạm Văn Đồng năm 1976.  Bản tự thuật cho biết vào tháng 4/1975, PG đă thành lập Chính Phủ Phật Giáo Dương Văn Minh để giao miền Nam cho CS Hà Nộị  Sau đây là phần liên hệ đến vấn đề này được đề cập trong bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu: 

TTCS Phạm văn Đồng : 

"- Đấy, theo Cụ biết, trong khi người Mỹ đi rồi, Thiệu xuống rồi, PHật Giáo lại âm mưu lập chính phủ Phật Giáo, đưa Dương Văn Minh lên làm TT.  Lập làm ǵ vậy? Lập chính phủ đó để đánh với Cách Mạng phải không?

 

HT Thích Đôn Hậu đáp :  

- Chuyện ấy có, Phật Giáo chúng tôi có lập Chính Phủ. Nhưng thế nàỵ Thưa Thủ Tướng. Chúng tôi đă hỏi các vị trong Viện Hóa Đạo.Các vị cho biết như sau : "HT nên nhớ rằng, PG chúng ta không ngu si đến độ lập Chính Phủ Phật Giáo, sau khi Mỹ đă bỏ miền Nam, Thiệu vơ vét của cải đi rồi.  Của cải, thế lực ở miền Nam VN chẳng c̣n ǵ, mà Cách Mạng đă đến bên lưng.Ông Dương Văn Minh cũng không đến nỗi dại ǵ muốn lên làm Tổng Thống lúc ấỵ" 

Các vị ở Viện Hoá Đạo nói tiếp : "PG chúng ta, con sâu con kiến cũng thương, huống ǵ con người !  Đă 30 năm chiến tranh, chết chóc đau thương chồng chất.  Bây giờ đây nếu thả lỏng để ông già lụ khụ Trần Văn Hương tuyên bố : "Đánh" !  Thử hỏi cả 2 bên tham chiến chết bao nhiêu người nưa.?  Muốn hạn chế sự chết chóc và tài sản của đồng bào, nên PG chúng ta phải có chủ trương.  Lúc bấy giờ, chẳng c̣n ai lo cho đất nước, ai cũng chạy trối chết, PG đâu thể ngồi như vậy mà nh́n?  Nên phải lập Chính Phủ, đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Nhưng không phải lập để đánh với Cách Mạng. 

 Phạm Văn Đồng hỏi : 

- Vậy tại sao Dương Văn Minh lên, tuyên bố giữ mảnh đất cuối cùng, nếu không phải để đánh với Cách Mạng th́ để làm ǵ? 

Tôi hỏi Thủ Tướng : 

- Khi Dương Văn Minh tuyên bố như vậy, về sau có nổ phát súng nào không? 

- Không. 

- Như vậy, Dương Văn Minh chỉ tuyên bố thôi, chứ không cốt đánh." 

Chính phủ PG nói trên, khi mới nhận chức vào ngày 29/4/1975, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đă ra tuyên bố :

- Hoa Kỳ phải rút khỏi VN trong ṿng 24 giờ kể từ ngày 29/4/1975. 

- Hoa Kỳ phải tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc VN, quyền tự quyết của nhân dân VN và chấm dứt mọi sự dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam VN. 

* Tổ chức mừng Việt Cộng giải phóng Miền Nam : 

  1. Mừng Việt Cộng giải phóng tại Đà Nẵng : 

Ngày 29/3/1975, VC vừa chiếm được Đà Nẵng th́ các tổ chức PG tại đây cắm cờ PG trên xe, chạy khắp thành phố reo mừng. Sau đó, tại các chùa Tỉnh Hội, Phổ Đà, Phật Học, Vĩnh Hội và một vài nơi khác trong thành phố đă bắc loa kêu gọi quân nhân và công chức chế độ cũ ra tŕnh diện.   

Một số được coi là "thành phần ác ôn" đă bị các chùa bắt giữ và giao nạp cho bộ đội VC.  Số c̣n lại bị Ban Lănh Đạo Cách Mạng thành lập ở các chùa nói trên thu hồi thẻ quân nhân hay công chức rồi cấp giấy phép tạm tha cho về để đợi lệnh.  Những người được coi là "có công với cách Mạng" được nhà chùa cấp giấy chứng nhận để khỏi đi học tập cải tạo.  PG Đà Nẵng đă coi chiến thắng của VC như chiến thắng của Phật Giáo và các chùa ở Đà Nẵng đă hoạt động giống như những cơ sở chính quyền của Việt Cộng. 

Tại Saigon, Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu tuyên bố một cách hănh diện rằng khi "quân giải phóng" vào Đà Nẵng, chỉ c̣n một lá cờ duy nhất được tung bay trên thành phố này thôi, đó là lá cờ của Lực Lượng Ḥa Giải của Phật Giáo. 

Nhưng sau khi làm chủ được t́nh h́nh, VC liền dẹp tất cả các Ban Lănh Đạo Cách Mạng ở các chùa và thay thế bằng các Ủy Ban Quân Quản của ho.. 

 

  2. Mừng Việt Cộng giải phóng tại Saigon : 

Như đă nói ở trên, ngày 30/4/1975, một số người trong Ban Giảng Huấn và sinh viên Đại học Vạn Hạnh đă ra Ngă Tư Bảy Hiền đón đoàn quân giải phóng. 

Sau khi VC nắm quyền tại miền Nam, GHPG Ấn Quang lập Ủy Ban Tổ Chức Mừng Chiến Thắng do TT Thích Mẫn Giác, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa Viện Hoá Đạo làm Chủ tịch.  Ủy ban này đă huy động Phật tử tổ chức mừng giải phóng ngày 15/5/1975 và lễ mừng sinh nhật Hồ Chí Minh ngày 19/5/1975.  Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31/12/1993, HT Tâm Châu có ghi lại diễn tiến này. Theo những tài liệu của VC th́ có khoảng 900  người tham gia mừng ngày giải phóng trên. 

Trong diễn văn chào mừng ngày 15/5/1975, TT Thích Măn Giác có nói 

"Cuộc đấu tranh của Phật Giáo cho nền thống nhất tổ quốc cùng là một với cuộc đấu tranh v́ Chủ nghĩa xă hội"

Sau khi GHPG Ấn Quang bị VC tấn công, một số tăng sĩ bị bắt giữ, HT Thích Mẫn Giác đă vượt biên và định cư tại Hoa Kỳ. Trong một đại hội của PG tại Seattle ngày 29/8/1980, bị đồng bào chất vấn, ông đă xác nhận ông có đọc bài diễn văn đó và nh́n nhận sự lầm lẫn của ông.  

 

Phần 4

 

 

 

* Theo VC năm 1968 - Tết Mậu Thân:

 

Tết Mậu Thân 1968, HT Thích Đôn Hậu đă lên đài phát thanh MTGPMN kêu gọi, "Chư Tăng, Ni và đồng bào Phật tử đoàn kết với nhau, nhất tề đứng lên đánh đuổi Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Đế Quốc và bất hợp tác với tay sai Đế Quốc". Kèm theo HT Thích Đôn Hậu phải kể tới Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện sống ở Huế (1992), có chân trong ban biên tập của tạp chí Sông Hương, cùng với các tạp chí như Tuổi Trẻ, Văn Nghệ.... Đă phổ biến các tác phẩm của những tác giả như Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Lưu Quang Vũ...nhà xuất bản Văn Uyển (Hoa Kỳ) đă giới thiệu Hoàng Phủ Ngọc Tường qua truyện ngắn "T́m Ma Phiêu Du Kư" trong tuyển tập Văn Chương Đối Kháng Quốc Nội xuất bản vào tháng 5/1990. Nhưng ông ta là ai và đă làm ǵ?

Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) được về giảng dạy môn Việt Văn trường Quốc Học Huế vào năm 1961, thời ông Đinh Qui làm hiệu trưởng và ông Văn Đ́nh Hy làm giám học. Vào thời đó Huế có 2 giáo sư dạy Việt Văn nổi tiếng, ở trung học đệ nhất cấp có Tôn Thất Dương Tiềm, ở đệ nhị cấp có Hoàng Phủ Ngọc Tường, măi đến sau khi trận tấn công Mậu Thân của VC vào thành phố Huế chấm dứt, cơ quan an ninh VNCH mới biết rơ sự liên hệ 2 người này với CS.

Hoàng Phủ Ngọc Tường  trưởng thành tại Huế, có người em ruột tên là Hoàng Phủ Ngọc Phan, gia đ́nh ở Thành Nội, thuộc thành phần trung lưu, sau khi đỗ xong Tú tài hai, Tường được gia đ́nh cho vào Saigon học Đại học Sư Phạm Triết, ra trường, Tường có luôn bằng cử nhân văn chương. Tường mang triết áp dụng vào văn chương, giáo sư HPNT có một lối giảng dạy rất mới lạ so với các giáo sư Việt Văn khác, chỉ dựa vào các sách của Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản, Hà Như Chi...để soạn bài. Học sinh các lớp văn chương rất mến mộ ông v́ Tường dạy hay, dù dáng người ốm, cao cỡ 1.6m, nhưng giọng nói rất tốt, giảng bài hấp dẫn, cách phục sức giản dị, thân t́nh với học sinh, thầy Tường lúc nào cũng có vẻ như một nhà triết học, trở thành thần tượng của giới trẻ lúc bấy giờ. HPNT có người yêu tên là HTTN, cũng ở Thành Nội Huế, nữ sinh viên Văn Khoa, nhưng v́ những trắc trở, 2 người không lấy nhau được, về sau, cô này lại là vợ của một trong những người bạn của Tường.

Số bạn thân nhất của Tường có thể đếm ở đầu ngón tay : Ngô Kha, Trịnh Công Sơn, Trần Quang Long. Trần Quang Long đă chết, Ngô Kha cũng đă chết, nguyên là giáo sư Việt Văn trường Hàm Nghi Huế, vợ Kha là em gái của Trịnh Công Sơn, cô này đă vượt biển, hiện sống tại Canada và đă tái giá. Trần Quang Long và Ngô Kha đều là những đồng chí của HPNT; năm 1964, Kha và Long lập ra nhóm Quán Bạn, thật ra đây chỉ là địa điểm ngụy trang nhằm để tuyên truyền chống chính phủ, năm 1966, cùng với Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha thành lập Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức, năm 1970, Ngô Kha chủ biên tập san Tự Quyết (Ban biên tập gồm có Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Bửu Ư), năm 1971, Ngô Kha chủ biên tập san Mặt Trận Văn Học Dân Tộc Miền Trung, đặt dưới sự lănh đạo của Thành ủy CS Huế, tháng 6/1973, trong một cuộc hành quân của Quân đội VNCH từ Phá Tam Giang đến cửa Tư Hiền, Ngô Kha đă bị bắn chết khi đang t́m cách vượt thoát ṿng vâỵ. Sau khi biến động miền Trung chấm dứt vào giữa năm 1966 th́ măi đến tháng 10/1967, chính quyền Thừa Thiên, vị tỉnh trưởng lúc bấy giờ là Trung tá Phan Văn Khoa, mới kết thúc hồ sơ của HPNT và một số giáo sư dạy tại trường Trung học Bồ Đề Thành Nội Huế, liên quan đến những hoạt động cho CS, nhưng viên ty trưởng cảnh sát là Đoàn Công Lập, lại là một cán bộ CS nằm vùng, cho nên án lệnh bắt giữ những người trên chỉ được thi hành một cách lỏng lẻo, trong lúc đó th́ CS đă hoàn tất kế hoạch tổng tấn công Tết Mậu Thân.

Hiệp định Geneva năm 1954, một số cán bộ CS tập kết ra Bắc, nhưng số khác được lệnh ở lại để bám trụ, trong đó có Nguyễn Đóa, gốc người Quảng Nam, ra Huế dạy Pháp văn tại trường Bồ Đề Thành Nội vào năm 1955, hiệu trưởng lúc bấy giờ là ông Lê Mộng Đạo, hoàn toàn không hay biết ǵ về việc ḿnh đang điều khiển một trường trung học được xem là trung tâm tổ chức trí vận Trị Thiên và thành phố Huế; Nguyễn Đóa nhận lănh trách nhiệm để xây dựng cơ sở này. Đóa gả con gái cho Tôn Thất Dương Tiềm, được xem là giáo sư có thế lực nhất tại trường này và rất thân cận với tỉnh giáo hội PG Thừa Thiên. Một thời gian sau, Tiềm vào tổ chức, trong tổ chức này c̣n có Vơ Đ́nh Cường, Hoàng Nguyên Cao Tự Phúc (tác giả các nhạc phẩm hay như Đàn Ơi, Xa Rồi), Phan Văn Vinh, Tôn Thất Dương Kỵ,... Tường lúc bấy giờ c̣n là cậu học sinh hiền lành, trầm tư, có khuynh hướng xă hội; trong lớp Tường rất giỏi môn Việt Văn và môn Triết, Tôn Thất Dương Tiềm chú ư, móc nối và tuyên truyền. Năm 1961, Tường được bổ nhiệm về Trường Quốc Học, Tiềm giao cho Tường công tác xây dựng cơ sở trong giới học sinh và sinh viên; qua sự giới thiệu của các thầy ở chùa Từ Đàm, HPNT cùng với Nguyễn Khắc Từ (thư kư của GHPG Thừa Thiên) là bộ năo của tất cả các cuộc xuống đường ở Huế trước ngày 1/11/1963.

Năm 1964, lợi dụng t́nh trạng hỗn loạn của nền Đệ II Cộng Ḥa, cùng với một số cán bộ cơ sở như Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đính, Trần Minh Thảo, Trần Duy Phiên...Tường gia tăng hoạt động trong giới trẻ như cho người nằm trong các ban đại diện học sinh, sinh viên, tổ chức các cuộc nói chuyện chống chính phủ, đ̣i trung lập hóa miền Nam VN, người Mỹ phải rút khỏi VN...

Cùng với một số giáo sư đại học như Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Cao Huy Thuần...Tường nằm trong Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, do BS Lê Khắc Quyến làm Chủ tịch, tuần báo Lập Trường là tiếng nói chính thức của Hội Đồng; bài quan điểm, do Cao Huy Thuần phụ trách, có tác dụng rất lớn tại Huế, Miền Trung, ngay tại Saigon và một số tỉnh Miền Tâỵ

Cuối năm 1965, đầu năm 1966, Tường giao cho Nguyễn Đắc Xuân và Trần Mậu Tư thành lập Đoàn Sinh Viên Quyết Tử. Về sau nhóm của Tường biết rằng Tư là người của 1 đảng phái quốc gia đưa vào nằm vùng trong tổ chức sinh viên này, khi CS tràn vào thành phố Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968, Tường và Xuân đă lùng bắt Tư, Xuân là người đă xử tử Tư bằng cách bắn từng phát một.

Đoàn Sinh Viên Quyết Tử được huấn luyện quân sự trong ṿng nửa tháng, được trang bị vủ khí nhẹ, và đặt dưới sự chỉ huy của Tường, Nguyễn Đắc Xuân và Trần Mậu Tư.

Đoàn Sinh Viên này được máy bay quân sự Sư Đoàn I đưa vào Đà Nẵng, thị trưởng của thành phố này là BS Nguyễn Văn Mẫn, người trách nhiệm quân sự ở đây là Đại tá Đàm Quang Yên đều theo phe chống đối. Chính Tường là người đă tổ chức cuộc tấn công vào 2 làng công giáo Thanh Bồ, Đức Lợi, tạo ra những cuộc đổ máụ.

Tháng 4/1966, Tường, Ngô Kha và Nguyễn Đắc Xuân thành lập Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức để chống lại quân đội trung ương. Tháng 5/1966, phong trào đấu tranh tại Huế bị dập tắt, Tường và Xuân "nhảy núi", riêng những người khác, như Nguyễn Đóa, Trần Minh Thảo chưa bị lộ diện, cho nên vẫn tiếp tục ở lại để xây dựng và phát triển cơ sở.

Cuối năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc tấn công vào thành phố Huế về mặt chính trị, Tường đă âm thầm trở lại thành phố này và trú trong nhà Nguyễn Đóa.

Sau mấy ngày thảo luận, Tường lên núi. Lần này đi theo Tường có Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, giáo sư Lê Văn Hảo, Nguyễn Đóa và bà Đào Thị Xuân Yến (tức bà Thuần Chi). Tối ngày 29 Tết, theo đài phát thanh Hà Nội, một tổ chức lấy tên là Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh được thành lập. Chủ tịch là Lê Văn Hảo, các ủy viên gồm Thích Đôn Hậu, Đào Thị Xuân Yến, Tổng thư kư là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ngày mồng 2 Tết, Tường đă có mặt tại Huế, cùng với Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan (em ruột Tường), Nguyễn Thị Trinh (con gái út của Nguyễn Đóa).

Theo tài liệu của Chính Đạo qua cuốn "Mậu Thân 68 : Thắng hay bại ?" th́ "tại khu tả ngạn, dưới quyền Nguyên, các toán an ninh có 2 nhiệm vụ : lùng bắt các sĩ quan, viên chức cao cấp trong vùng, và bảo vệ một số khuôn mặt chính trị như Thích Đôn Hậu, bà Thuần Chi, Nguyễn Đóa, Lê Văn Hảo" (trang 139), nghĩa là toàn bộ lănh đạo Liên Minh đều có mặt tại Huế trong cuộc Tổng tấn công. Nhưng Lê Văn Hảo (hiện sống tại Pháp) đă trả lời cuộc phỏng vấn của Trần Nghi, đăng trên Quê Mẹ số 105 & 106 tháng 1/1990 :

"- Ông nghĩ sao về dư luận của đồng bào Huế cho là ông chịu trách nhiệm chính trong vụ thảm sát dân chúng Thừa Thiên - Huế hồi Tết Mậu Thân ?

- Dư luận đó không đúng. Thứ nhất, lúc quân đội CS đánh chiếm Huế, tôi không có mặt trong thành phố. Trước Tết 5 ngày, tôi được dẫn lên núi nói là mời họp và sau đó tôi phải ở lại luôn trên đó, không về lại thành phố lần nào cả. Cùng ở với tôi có Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong giới trí thức và văn nghệ sĩ tham gia MTGPMN lúc ấy có Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân là theo bộ đội về Huế và tôi được biết, đă từng ngồi xét xử nhiều người có quan hệ với chính quyền Saigon trong những phiên xử của cái gọi là ṭa án nhân dân.

Thứ hai, trên danh nghĩa, tôi là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên - Huế, tuy nhiên trên thực tế, tôi chẳng có tí quyền nào cả. Tôi chỉ là bù nh́n. Mọi quyền hành từ lănh vực quân sự đến chính trị....đều nằm trong tay các cán bộ cao cấp của CS" (trang 66).

Như thế, theo Lê Văn Hảo, trách nhiệm vụ tàn sát dân lành tại Huế một phần do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường và phần khác do các tư lệnh quân sự, chính trị CS như Tướng Trần Văn Quang, Bí thư khu ủy Trị Thiên - Huế, Lê Minh, Bí thư thành ủy Huế, Lê Chương, Tư lệnh Mặt trận Huế... Nhưng dù ai chịu trách nhiệm đi nửa, th́ lịch sử của VN cũng đă ghi đậm nét:chiếm Huế chưa đầy một tháng ( từ 30/1/1968 - 24/2/1968), CSVN đă tàn sát khoảng 7,000 dân vô tộị Họ bị giết bằng đủ kiểu: bị chặt đầu, bị chôn sống, bị mổ bụng... Một thời đại và nhiều thời đại có thể qua đi, nhưng lịch sử th́ không bao giờ bị tẩy xóa. Thật là bi thảm cho dân Huế.

Ngày 24/2/1968, bộ đội CS bị đánh bật ra khỏi thành phố Huế, tàn quân rút về rừng, trong đó có Nguyễn Đắc Xuân, Phan, Tường...để lại Huế những cảnh chết chóc, tan nát, đau thương. Gia đ́nh Tường ở Huế bị đồng bào oán hờn, căm thù. Người đau khổ nhất là thân phụ của Tường; có lúc ông cụ gần như điên khùng. Tiếp tục đường cách mạng, Tường được đưa ra Hà Nội và rồi trở lại Huế vào năm 1972, móc nối với Trần Quang Long, Trịnh Công Sơn và Ngô Kha để xây dựng và phát triển cơ sở, nhằm mục đích phá hoại chính quyền trong giới học sinh, sinh viên và trí thức. Sau khi Long và Kha chết, người ta không c̣n thấy Tường hoạt động trong vùng này nữạ Ngày 30/4/1975, Tường vào Saigon, trong lần xuất hiện nói chuyện với giới trí thức, người ta thấy có Nguyễn Thị Trinh, Cao Thị Huế Hương (bà con với Cao Huy Thuần). Tường chỉ làm việc ở Saigon một thời gian ngắn, về sau được đưa trở lại làm việc tại Huế. HPNT lớn lên ở Huế, bỏ Huế ra đi vào năm 1966, trở về Huế và ra đi vào khoảng đầu năm 1968 sau khi để lại những giải khăn sô. Một vài nhà biên khảo cho rằng Tường và Hảo là bạn học với nhau, chính Tường là người móc nối Hảo, đồng  bào cố đô và Tường nh́n nhau mỗi ngày...

 

Vài vần ca dao về Huế :

 

Cầu Trường Tiền, sáu vài, mười hai nhịp

Em qua không kịp, tội lắm anh ơi !

Bấy lâu ni chịu tiếng mang lời,

Dẫu có xa nhau đi nữa, cũng bởi ông Trời mà xa...  

 

hay

 

Sông Hương từ thuở uyên đi

Nước trôi lặng lẽ tà huy cấm đ̣

Nam B́nh đă dứt đường tơ

Hồi chuông Thiên Mụ xa đưa tiếng sầu

Bến Thương Bạc, Phú Văn Lâu

Sương thu che khuất nhịp cầu Giả Viên

C̣n đâu sáu nhịp Tràng Tiền

Thời gian gió loạn sô nghiêng vài bờ

Cao cao, vời vợi Cột Cờ

Ba mươi năm cũ, phất phơ đổi màu

Bây giờ c̣n nhớ đến nhau

Th́ trao ánh mắt trền cầu rồi qua...  

 

hay

 

 

Ru em, em ngủ cho muồi

Cho mẹ đi chợ, mua vôi ăn trầu

Mua vôi Chợ Quán, Chợ Cầu

Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh

Chợ Dinh bán áo con trai

Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim...  

 

hoặc

 

 

Chợ Đông Ba đem ra ngoài Giại

Cầu Tràng Tiền đúc lại si mon

Ơi người lỡ hội chồng con

Vô đây gá nghĩa vuông tṛn được không ?...  

 

* Nh́n chung, người ta nhận thấy khi quyết định hợp tác với CS, các nhà lănh đạo PG miền Trung đă có những tính toán sai lầm sau đây :

- Tưởng rằng có thể dung hợp PG với chủ nghĩa CS. Mới tiếp xúc với chính quyền CS, BS Lê Đ́nh Thám đă cho thành lập ngay một tổ chức có tên là Phật Giáo và Dân Chủ Mới ở Bồng Sơn, B́nh Định, nơi ông làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ, để nghiên cứu tổng hợp chủ nghĩa Mác-Lê và PG. Sau đó, Nguyễn Hữu Quán đă cho ra cuốn "Đạo Phật và Nền dân chủ mới" để khuyến dụ tăng ni và Phật tử hợp tác với CS. Điều này chứng tỏ các tăng sĩ và cư sĩ PG thời đó không am hiểu nhiều về chủ nghĩa CS và quan niệm của CS về tôn giáọ Cuối cùng, đa số đành chấp nhận quan điểm "Phật giáo dưới ánh sáng Mác-Lê" mà TT Thích Minh Châu đang thuyết giảng ngày nay để biến PG thành công cụ của CS.

- Không biết ǵ về phương pháp và thủ đoạn của CS nên bị CS lừa rồi vắt chanh bỏ vỏ. Số phận mà BS Lê Đ́nh Thám, HT Thích Thiện Chiếu, HT Thích Trí Thủ, TT Thích Mật Thể, TT Thích Thiện Minh, TT Thích Quảng Đô....phải lănh nhận chính là do hậu quả của sự lầm lẫn nàỵ

- Cho riêng nhóm PG cực đoan miền Trung, tưởng rằng có thể mượn bàn tay CS để loại trừ Thiên Chúa Giáo, tách Giáo hội CGVN ra khỏi Vatican rồi diệt dần, sau đó sẽ cùng CS chiếm địa vị độc tôn.

- Tin tưởng rằng sau khi CS cướp được chính quyền, GHAQ sẽ được ưu đăi, nên đă coi chiến thắng của CS như của chính ḿnh, nhưng cuối cùng họ đă phải lănh nhận tai họa. Một lần nữa xin nhắc lại các bạn trẻ, sau khi đọc loạt bài này và qua kinh nghiệm cho thấy ta không bao giờ nên lẫn lộn giữa đạo và đời và đừng để tôn giáo lôi kéo vào chính trị.. Hăy tự tạo cho ḿnh một chính kiến riêng. Qua hiện tượng "Bác sĩ Lê Đ́nh Thám", ta thấy ông đă phần nào đem PG trộn lẫn với chủ nghĩa CS và đă làm hại biết bao thế hệ đi sau. Xin hăy nhớ kỹ điều này nghe các bạn. Việt Nam dân chủ trong tương lai sẽ sáng ngời, đạo phải ra đạo, không cho đạo nào được xen vào "đời" và "đời" không được quyền xía vào chuyện của "đạo". Nếu đi theo hướng này, nước ta sẽ tránh nạn chia rẽ.

 

Bây giờ ta thử nh́n về quá khứ để ôn lại chuyện xưa.

 

Bối cảnh  

 

Các cuộc tranh đấu của PG kể từ 1963 hầu hết đều phát xuất từ Huế rồi lan rộng ra các tỉnh miền Bắc Trung phần, nhất là ở 2 thị trấn Quảng Trị và Đà Nẵng, rồi tràn nhẹ qua các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngải, B́nh Định..., khi đi vào miền Nam th́ chỉ c̣n cái ngọn. Các cuộc tranh đấu này phát xuất và mạnh ở các tỉnh Bắc Trung Phần v́ những lư do sau đây :

- Trước hết, Huế là trung tâm phát triển mạnh nhất của PGVN trong thời kỳ Pháp thuộc. Các nhà nghiên cứu của Pháp nhận thấy rằng phong trào chống Pháp mạnh nhất phát xuất từ Huế, đó là Phong Trào Văn Thân. Phong trào này do các sĩ phu đạo Nho phát động. Sĩ phu đạo Nho bao giờ cũng lấy "trung quân" và "ái quốc" làm đầu. Vậy muốn vô hiệu hóa phong trào này, có 2 việc họ tin rằng cần phải làm :

(1) tiếp tục duy tŕ triều đ́nh Huế; nhưng vua phải là người của Pháp dựng lên; khi vua đứng về phía Pháp th́ các nhà Nho có ḷng "trung quân" sẽ đi theo.

(2) Phát triển PG mạnh, đưa sĩ phu vào con dường giải thoát của đạo Phật để vô hiệu hóa tinh thần phục quốc của nhà Nho (đạo Khổng là đạo trị quốc).

Việc thiết lập các triều đại nhà Nguyễn đứng về phía Pháp đă được Pháp lo xong ngay từ đầu.Việc "Phật giáo hóa Đông Dương" được giao cho Pasquier khi ông trở lại nhận chức năm 1928. Các viên chức thuộc địa cao cấp đă giao phó cho ông làm công việc nàỵ Năm 1932, BS Lê Đ́nh Thám đă lănh trách nhiệm thành lập Hội An Nam Phật Học và Trường An Nam Phật Học ở Huế. BS Thám làm Hội trưởng c̣n HT Thích Trí Độ được đưa từ B́nh Định ra để làm Giám đốc Trường An Nam Phật Học.

Các tổ chức PG ở Huế, ngoài việc được Pháp khuyến khích, c̣n có một thuận lợi khác là được triều đ́nh Huế bảo trợ.. Bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại, rất sùng đạo Phật, sẵn sàng làm tất cả để giúp PG phát triển. Rất nhiều học tăng ở Nam và Bắc được gởi tới học ở Trường An Nam Phật Học. Số học tăng thuộc 3 tỉnh Quảng B́nh, Quảng Trị và Quảng Nam về đây học nhiều nhất, v́ các Hội Phật Học ở Quảng B́nh, Quảng Trị và Quảng Nam đều do BS Thám lập ra.Nhưng năm 1945, 2 nhà lănh đạo của Hội An Nam Phật Học và Trường An Nam Phật Học đều đi theo Mặt Trận Việt Minh và giữ chức vụ lớn. HT Trí Độ là Chủ Tịch Trung Ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc, c̣n BS Lê Đ́nh Thám trở thành Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bô.. 2 lănh tụ này đi theo Việt Minh đă kéo theo các đệ tử đi theo như Thích Mật Thể, Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Thiện Ân, Thích Minh Châu, Thích Măn Giác, Vơ Đ́nh Cường, Tống Ḥa Cầm,...

Lư do kế là 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên nằm tiếp giáp với vĩ tuyến 17 nên VC nuôi dưỡng được nhiều cán bộ nằm vùng và chỉ huy trực tiếp nhóm nàỵ Trong cuốn "Chiến trường Trị - Thiên - Huế trong cuộc kháng chiến" do Nhà xuất bản Thuận Hoá ấn hành năm 1985, VC cho biết sau khi chương tŕnh tập kết ra Bắc vào năm 1954 kết thúc, họ đă để lại nằm vùng ở Quảng Trị (trái với cam kết trong Hiệp định Geneva) 8,490 đảng viên và ở Huế khoảng 3,000 đảng viên.

Chiến dịch "tố cộng" của TT Diệm đă làm tan tành các chi bộ của CS được thiết lập từ thành thị đến nông thôn. Chính phủ NĐ đă tổ chức tại vùng này tất cả 53,710 lớp tố Cộng với 230,977 người tham dư.. Sau các đợt tố Cộng đó, đă có 3,658 đảng viên CS bị bắt. Số đảng viên và những thành phần thân Cộng phải đi học chỉnh huấn lên đến 29,907 người qua 314 lớp học.

Khi chiến dịch Tố Cộng được phát động mạnh, các cán bộ CS hốt hoảng chạy rút vào núi hay rút về Bắc. Nhưng sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ, một số đảng viên bị giam giữ được thả ra và số đảng viên tạm rút về Bắc bắt đầu xâm nhập trở lại v́ đây là địa bàn quen thuộc. cũng như thân nhân của họ sống tại đây.

Tài liệu trên c̣n cho biết khu Trị - Thiên - Huế có 398 ngôi chùa, 9 Ḥa Thượng, 15 Thượng Tọa, 220 tăng ni và 80,000 Phật tử. Trước tháng 3/1955, 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên thuộc Khu Ủy Khu IV CS, nhưng sau đó được sát nhập vào Khu Ủy Khu V. Đến tháng 4/1966, Khu Ủy Trị - Thiên - Huế được thành lập và trở thành khu biệt lập, trực thuộc Trung ương. Vùng này do Trung tướng CS Trần Văn Quang chỉ huy và Lê Tự Đồng, Bí Thư Khu Ủy lănh đạọ Trong các cuộc đấu tranh Vơ Đ́nh Cường, Nguyễn Trực,...đă nhận chỉ thị và kế hoạch của Khu Ủy này và đẩy TT Trí Quang và phong trào tranh đấu đi lên.

Lư do thứ ba là ḷng căm thù Thiên Chúa Giáo đă được Phong Trào Văn Thân ở Huế khơi lên để làm động lực đấu tranh từ thời vua Tự Đức qua các đời Duy Tân, tới thời Hàm Nghi, vẫn c̣n âm ỉ trong ḷng một số thành phần cực đoan thuộc 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Trong thời kỳ này, người Công giáo đă bị tàn sát, lùng đuổi một cách vô cớ đến nỗi vua Tự Đức phải lên tiếng cảnh cáo Nhóm Văn Thân. Ḷng căm thù được ấp ủ đă bùng phát trở lại khi được cán bộ CS nằm vùng lợi dụng khơi động lên để làm động lực đấu tranh. Chế độ Ngô Đ́nh Diệm được cán bộ CS nằm vùng và nhóm PG cực đoan miền Trung đồng hóa với Thiên Chúa Giáo khi họ hô hào "diệt dư đảng Cần Lao", có nghĩa là diệt Công giáo hay ít ra loại người công giáo ra khỏi chính quyền.

Trong bối cảnh như vậy, CS đă tổ chức và điều động được nhóm PG cực đoan này đi vào mục tiêu của ho.. Sau này, trong Đại hội II của MTGPMN năm 1964, Nguyễn Hữu Thọ đă tuyên bố cuộc đấu tranh của PG tại miền Nam không tách rời cuộc đấu tranh "giải phóng dân tộc". Tài liệu của VC sau 30/4/1975 cho thấy sau mỗi giai đoạn đấu tranh của nhóm trên đều có bản kiểm điểm tổng kết của Khu Ủy Khu V hay Khu Trị - Thiên - Huế.

 

Pháp nạn 63

 

* Ngọn lửa Zippo :  

 

Ngày 1/6/1963, vào khoảng 10 giờ sáng, những người qua đường hiếu kỳ dừng chân lại đông đảo ở ngă tư Phan Đ́nh Phùng và Lê Văn Duyệt, Saigon. Phía góc Ṭa Đại sứ Cao-Miên, bên lề đường Lê Văn Duyệt, một nhà sư mặc áo vàng ngồi trong tư thế kiết già lâm râm tụng niệm. Khi cảnh sát hay tin kéo tới th́ 50 nhà sư khác mặc áo vàng vừa gơ mơ vừa tụng kinh bao quanh nhà sư ngồi ở góc đường, làm thành một ṿng tṛn lớn. 2 b́nh xăng nhỏ được đưa đến.

 

 

Một người đứng đợi sẵn chụp lấy, rưới xăng lên người nhà sư đang ngồi trên lề đường, từ vai trở xuống, rồi mở chiếc quẹt Zippo bật lửa châm ng̣ị Một đám cháy bùng lên cao khoảng 4m giữa tiếng kinh mơ vang rền. Các thông tín viên ngoại quốc được thông báo trước, đă có mặt tại chỗ, vừa chụp h́nh vừa quay phim. Ngày hôm sau, bản tin này cùng với h́nh ảnh được truyền đi khắp nơi trên thế giới.

 

 

Người bị thiêu là HT Thích Quảng Đức, một nhà sư trụ tŕ ở Chùa Quan Thế Âm, số 68 đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận, Gia Định, có tên thật là Lâm Văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Vạn Khánh, Vạn Ninh, tỉnh Khánh Ḥa. Lúc đó ông được 65 tuổi.

 

Vụ thiêu người này được tổ chức rất hoàn bị. HT Quảng Đức được chở đến địa điểm đă định bằng chiếc xe Austin, đi trên đường Phan Đ́nh Phùng, từ hướng Duy Tân tới. Khi đến góc Phan Đ́nh Phùng và Lê Văn Duyệt, xe giả vờ bị chết máy và ngưng lại, tất cả mọi người trên xe bước xuống, tài xế mở coffre xe trước chống lên và lom khom xem máy, trong khi những người khác đưa HT Quảng Đức đi qua bên kia đường và đặt vào vị thế đă định. Các sư tham dự cũng được chuyển bằng xe tới ngay sau đó., xuống xe và quay một ṿng tṛn xung quanh HT Quảng Đức. 2 b́nh xăng nhỏ được đem xuống và thực hiện đúng kế hoạch đă định. Mọi hành động đều được tiến hành một cách mau lẹ, cảnh sát không ngăn trở kịp. Mục tiêu của vụ thiêu người này là làm áp lực cho những đ̣i hỏi của PG trong các cuộc họp đang diễn ra giữa Ủy Ban Liên Phái PG và Ủy Ban Liên Bộ.. Đây là chiến thuật vừa đánh vừa đàm của TT Trí Quang.

Khi thiêu HT Quảng Đức xong, người ta thấy chiếc xe Austin mở coffre vẫn đang đậu bên kia góc đường, phía chợ Đủi. Theo các phóng viên th́ họ nhận ra ngay chiếc xe đó là của Trần Quang Thuận. Những người chứng kiến nội vụ ngay từ đầu cho các kư giả biết người chở HT Quảng Đức đến địa điểm chỉ định, rưới xăng và bật lửa đốt vị sư là Nguyễn Công Hoan.

Nguyễn Công Hoan quê ở Tuy An, Phú Yên. Cha là cán bộ CS tập kết ra Bắc năm 1954. Về sau, Nguyễn Công Hoan trở thành dân biểu đơn vị Phú Yên thời Đệ II Cộng Ḥa, do Phật Giáo đưa ra. Mặc dầu đă có vợ con ở Phú Yên, khi làm dân biểu, Nguyễn Công Hoan đă tằng tịu với cô Đoan Khánh, kư giả báo Trắng Đen. Cô này chuyên săn tin ở Thượng và Hạ nghị viện. 2 người lấy nhau và có một đứa con. Sau khi VC chiếm miền Nam, nhiều người thắc mắc không hiểu sao Nguyễn Công Hoan không đi học tập cải tạo như các dân biểu và nghị sĩ khác của VNCH. Nguyễn Công Hoan chỉ dự một khoá chỉnh huấn ngắn hạn mà thôi. Đến năm 1976, khi Nguyễn Công Hoan được Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra làm đại biểu Quốc hội đơn vị Phú Khánh, người ta mới biết Nguyễn Công Hoan là cán bộ nội tuyến của VCBỗng dưng đến năm 1980, Nguyễn Công Hoan vượt biên qua Phi Luật Tân, sau đó đến Hoa Kỳ và được HT Thích Nhất Hạnh giao coi sóc Nhà xuất bản Lá Bối ở San José, California.

Nguyễn Công Hoan đă đi giao dịch với nhóm Trương Như Tảng, Hoàng Văn Hoan trong khi làm việc ở nhà xuất bản này. Lai lịch của Nguyễn Công Hoan bị báo chí ở San José phanh phui. Bị tố cáo là thành phần phản gián. Nguyễn Công Hoan phải bỏ đi nơi khác. Sau 30/4/1975, Nguyễn Công Hoan và cô Đoan Khánh đă bỏ nhau.Cô Đoan Khánh cũng qua được Hoa Kỳ. Mọi việc thông tin cho các kư giả ngoại quốc đều do Đại Đức Thích Đức Nghiệp và Trần Quang Thuận phụ trách. Đại Đức Đức Nghiệp là mối dây liên lạc chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và PG trong thời gian hoạch định kế hoạch lật đổ TT Diệm. Mọi kế hoạch hành động đều được ông thông báo cho nhân viên Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ.  

 

* Mổ bụng, cắt cổ tự sát :

 

Trong cuốn "Viêt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử", HT Thích Tuệ Giác kể lại câu chuyện xảy ra ở Phan Thiết là vào lúc 5 giờ sáng 17/10/1963, Tỳ Kheo Thích Pháp Quảng đi xích lô đến bia đài ở Phan Thiết, đứng quay về hướng Tây lạy ba lạy và niệm Phật chừng 3 phút. Xong phần nghi lễ, ông nằm ngữa xuống đất, gối đầu vào bậc cấp chót của bia đài, lấy thư tuyệt mạng đặt một bên, rồi rút dao ra rạch bụng. Câu chuyện được mô tả nguyên văn như sau :

"Thầy rạch lần thứ nhất từ trái qua phải cách rún chừng 2 cm. Nh́n lại thấy chưa lủng thấu bụng. Thầy rạch lát thứ nh́ từ hông trái đến rún, lần thứ ba từ rún ra hông phải, lần thứ 4 rồi lần thứ 5, nhưng da cứ dùn lại và đứt ra ngoàị Lần sau cùng, Thầy đưa cao tay đâm xuống chứ không rạch như lần trước. Nhưng lạ lùng thay da chỉ lún xuống, rách (rách ?) rất ít mà không lủng thấu ruột để Thầy cắt một khúc dâng lên cho Vị Tổng Thống độc tài hầu thức tỉnh ḷng người...

"Mổ bụng không thành, Thầy quay ngược dao lên cắt cổ, một tay giữ lấy cuống họng, một tay cầm dao cựa mạnh dưới xương quai hàm. Máu vọt nóng cả tay, xịt có ṿi ra mang tai, bắn lên đầu, cuống họng đứt ĺạ Thầy buông dao nằm chờ chết... " Thấy máu không c̣n vọt ra thành ṿi, Thầy đưa tay móc những máu ứ vứt ra ngoài..."

Đại Đức Thích Pháp Quảng có tên thật là Lê Tuất, sinh năm 1933 tại B́nh Thuận, tu ở chùa Am Bát Nhă, Quận Ḥa Đa, tỉnh B́nh Thuận.

 

* Ng̣i thuốc súng :

Hạn chế việc treo cờ các tôn giáo :

 

Ngày 7/5/1963, trước ngày lễ Phật Đản một ngày, dân chúng Huế đang sửa soạn mừng lễ th́ cảnh sát Huế nhận được lệnh của Phủ Tổng Thống ra lệnh cho các tôn giáo chỉ được treo cờ tôn giáo trong phạm vi cơ sở tôn giáo mà thôi, ở ngoài các cơ sở này chỉ được treo cờ quốc gia.

V́ vậy cảnh sát đă yêu cầu dân chúng bỏ cờ PG phía bên ngoài các cơ sở tôn giáo đi. Lệnh này được ban hành sát ngày lễ Phật Đản nên được hiểu như là một biện pháp nhằm "triệt hạ" cờ PG. Nhiều tín đồ PG kéo tới gặp ông Nguyễn Văn Đẳng, Tỉnh trưởng Thừa Thiên, yêu cầu giải quyết. Ông Đẳng nói rằng cảnh sát đă hiểu lầm lệnh của cấp trên nên ra lệnh cho treo cờ lại.

Mặc dầu lệnh cấm treo cờ tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo được tạm thu hồi kịp thời, sáng hôm sau, 8/5/1963, trong cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm lúc 6 giờ 30, người ta thấy xuát hiện các biểu ngữ chống chính quyền đă được trương lên. Trong lễ Phật Đản được tổ chức tại chùa Từ Đàm, TT Trí Quang đứng lên thuyết pháp đă phản đối mạnh mẽ quyết định cấm treo cờ PG và yêu cầu thi hành chính sách b́nh đẳng tôn giáo.

Tuy quyết định cấm treo cờ tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo được áp dụng chung cho mọi tôn giáo, nhưng được công bố sát ngày lễ Phật Đản nên được hiểu là có mục đích nhắm vào PG. Thật ra, quyết định hạn chế việc treo cờ tôn giáo của chính quyền không có lư do chính đáng, v́ việc treo cờ tôn giáo khắp nơi không phương hại ǵ đến "sự tôn trọng quốc kỳ" cả. Một nguồn tin nói rằng quyết định hạn chế việc treo cờ này là ư kiến của TGM Ngô Đ́nh Thục ở Huế. Đây là quyết định sai lầm chủ chính phủ NĐ.

 

* Những bí ẩn của vụ nổ trước Đài phát thanh Huế :

8 giờ tối 8/5/1963, một số đông đảo Phật tử tập trung trước đài phát thanh Huế yêu cầu phát thanh lại các bài thuyết giảng trong lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm vào buổi sáng, nhưng các nhân viên đài phát thanh từ chối v́ trong đó có bài thuyết pháp của TT Trí Quang chống đối chính quyền. Ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên đă phải cùng TT Trí Quang đến đài phát thanh Huế để giải quyết vấn đề. Trong lúc 2 bên đang nói chuyện th́ có tiếng nổ lớn trước đài phát thanh Huế làm số thường dân chết, bị thương và 5 binh sĩ bị thương.

Hôm sau, các tăng ni ở Huế đă loan báo đi khắp nơi rằng Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh trưởng Nội an kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu khu Thừa Thiên đă ra lệnh bắn súng, ném lựu đạn và cho xe tăng cán lên các Phật tử tập trung trước đài phát thanh Huế, máu chảy lênh láng.

Trong cuốn "Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử", HT Thích Tuệ Giác có ghi như sau :

"Sau đó Thiếu tá Đặng Sĩ ra lệnh đại bác bắn nhiều phát đạn mă tử. PG đồ hoàn toàn náo động, tiếp đến là lựu đạn cay, lựu đạn nổ và súng trường bắn xả vào PG đồ. Một số chen lấn chạy tháo lui, một số khác chen lấn chạy vào đài phát thanh núp trốn. Ông Tỉnh trưởng kêu gọi ngưng bắn nhưng Bảo An đă không tuân lệnh và c̣n cho xe thiết giáp tuôn chạy vào đám đông. Cuối cùng ông Tỉnh trưởng và TT Trí Quang vào đài phát thanh: 15' sau, kiểm điểm lại, chúng tôi thấy đài phát thanh hư hại cánh cửa bên ngoài, và 3 xe Hồng Thập Tự chất đầy một số đông đạo hữu, máu me đầy người, chạy vào bệnh viện Huế.

"4 người bị thương và 8 người bị giết bằng súng, lựu đạn và xe thiết giáp cán. Trong số 8 người chết có 6 Thanh , Thiếu nhi, 2 em bị cán mất nữa đầu, một em bị cán mất đầu, xương sọ bị vụn tan không nh́n được mặt và một em bị mất hẳn đầu".

Trong cuốn III của Bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang (tức Thích Nhất Hạnh) cũng ghi lại :

"Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An và Tiểu Khu Trưởng Thừa Thiên, huy động lực lượng thiết giáp Bảo An, đại bác quân cảnh, hiến binh và cảnh sát thành phố tới vây quanh đám quần chúng mà họ gọi là đám biểu t́nh...

"Thiếu tá Đặng Sĩ ra lệnh bắn đạn mă tử khiến đám đông náo động. Lựu đạn cay, lựu đạn nổ được tung vàọ Đồng thời súng trường và xe thiết giáp được xử dụng vào việc đàn áp. Lúc đó là đúng 9 giờ rưỡi tối. Tiếng la hét của quần chúng át cả tiếng súng và tiếng đạn.

"Một số người ra về nửa chừng nghe tiếng la hét và tiếng súng nổ, đă quay trở lại đá phát thanh để t́m hiểụ Họ bị các xe thiết giáp chận lại. Khi thiền sư Trí Quang và ông Tỉnh trưởng từ trong đài phát thanh ra tới th́ máu đă đổ : 8 người đă thiệt mạng v́ lựu đạn và 4 người bị thương. Xe thiết giáp cán vỡ đầu một thiếu nhi, sọ em nát vụn. Một thiếu nhi khác bị cán mất nửa đầu và một em khác mất hẵn nữa đầụ Xe Hồng thập tự được gởi tới để mang những người bị thương về bệnh viện..."

Cho đến nay, các sử gia PG đều cố t́nh viết theo chiều hướng đó. Chỉ riêng HH Thích Tâm Châu đă tŕnh bày vấn đề một cách dè dặt hơn. Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31/12/1963, ông viết :

"Thông lệ, mỗi kỳ Phật Đản tại Huế, cuốn băng ghi lại buổi lễ Phật Đản được cho phát thanh lại trên đài phát thanh Huế vào 8 giờ tốị Năm nay, lễ PD, có đoạn ghi lại lời tranh đấu chống chính phủ, nên đá phát thanh Huế không dám phát. Quần chúng Phật tử quanh vùng Huế chờ đợi phát thanh về PD không được, lũ lượt kéo nhau tới đài phát thanh mỗi lúc một đông, chính quyền địa phương lo sợ về sự biểu t́nh, Thiếu tá Đặng Sĩ PHó TT Nội an, Thừa Thiên kiêm Tiểu Khu trưởng ra lệnh giải tán. Đột nhiên có tiếng nổ, làm 8 em Phật tử chết và một số bị thương. Do đó trở thành cuộc đấu tranh lớn".

 

 

 

C̉N TIẾP:

 

 

 

 

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Gịng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA ֎ Lam vs Ngo

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

Người quốc gia đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân tộc lên bản vị tối thượng nên không tranh quyền đoạt lợi cho cá nhân, phe nhóm, đảng phái hay bầy đàn tôn giáo của ḿnh. Người quốc gia bảo vệ lănh thổ của tiền nhân, giữ ǵn di sản văn hóa dân tộc, đăi lọc và kết hợp hài ḥa với văn minh, văn hóa toàn cầu để xây dựng con người, xă hội và đất nước Việt Nam cường thịnh phù hợp với xu thế tiến bô của nhân loại.

Kim Âu

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNN

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapital vCreatevResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNG

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vViệt ThứcvViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh

vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân

vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong

vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCSvLuật Khoa 

vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu Trữ

vST/HTVvvThống KêvĐiều Ngự