Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Phan Nhật Nam

 

Tù binh và ḥa b́nh

 

Lời mở đầu

 

Ḥa B́nh, 28-1-1973

 

Để mở đầu cho tập bi kư, tôi lấy ngày tháng nầy

để làm dấu - Ngày Ḥa B́nh - Một thứ ḥa b́nh quái dị, đắng như thuốc mà quê hương trong cơn thập tử phải uống vào. Nhân dân tự vệ đi đập cửa từng nhà hối thúc gia chủ treo cờ, Tổng Thống Thiệu đọc trên tivi gởi đến toàn dân thông điệp lịch sử - Thông điệp báo tin một ḥa b́nh đe dọa. Thông điệp gồm những ngôn từ nóng, những thành ngữ giản dị đầy h́nh ảnh, thông điệp dồn dập không thể có được ở cấp nguyên thủ của bất cứ quốc gia nào... Quê hương Việt Nam đón nhận ḥa b́nh trong trạng thái buốt sống lưng.

Tôi đi trong Sài G̣n ngày 28-1 với cảm giác xôn xao kỳ lạ. Tháng năm chinh chiến quá dài biến đổi chiến tranh nên thành một hiện tượng hằng có, thường trực; dứt ra, ngỡ ngàng như ra khỏi vùng quen thuộc. Sự quen thuộc khốn nạn. Ở Tây Ninh, Cộng sản tứ bề vây kín Ṭa Thánh, quốc lộ 15 bị đóng mấy “chốt” ở bắc và nam Long Thành, đường đi ra Trung, lên Đà Lạt bị ḱm kẹp...Cộng sản cố giữ một đoạn Quốc Lộ 1 ở Trảng Bom, ḥa b́nh được đón nhận bằng một loạt vi phạm ào ạt cùng xẩy đến khắp bốn quân khu. Đă có ḥa b́nh chưa?

...Vẫn c̣n được an ủi lớn - Chưa có trận đánh quy mô cấp tiểu đoàn trở lên!! Sự an ủi tội nghiệp như hơi thở hồi dương của xác thân đă chết phần chân tay.

Nhưng “ḥa b́nh” h́nh như được ráp nối dần. Những phái đoàn Nam Dương, Gia Nă Đại trong Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đ́nh chiến đến Sài G̣n, những người mặc áo đại cán may bằng vải kaki Nam Định đă có mặt tại Tân Sơn Nhất. Những cán bộ Cộng sản từ Hà Nội, Ba Lê, mật khu lần đầu tiên tập trung tại trên đất quốc gia. Cuộc họp lịch sử khai diễn. Tổ quốc bước qua một chặng đường mới. Con đường dài dầy đặc hỏa mù dậy lên ào ạt như khói súng của những trận đánh trên bốn quân khu. Ḥa b́nh đến với những ngựi chết ngỡ ngàng không nhắm mắt. Những buổi họp thành h́nh quanh chiếc bàn nỉ xanh trong căn pḥng kín cửa. Bằng lời nói uyển chuyển, thái độ ḥa nhă, những con người đối cực ngày hôm qua, hôm kia, trao đổi với nhau một đề tài bi thảm - Tù binh, vật thụ nạn trực tiếp đau đớn nhất của chiến tranh, món quà tội nghiệp của ḥa b́nh bắt đầu được ngă giá.

Hôm nay, ngày khởi đầu màn bi kịch lặng lẽ, những người tù bắt đầu được thả để ở yên trong một khoảng trống nào đó hay sẽ mặc lại bộ áo chiến binh, nhận một thứ vũ khí để bắt đầu lại vở bi kịch trường thiên không đứt đoạn.

Được đi chứng kiến và sống cùng “chiến trường” bi thiết lặng lẽ nầy, người viết với trái tim trung tín, thẳng thắn cố gắng ghi lại sau đây những diễn tiến đă được một lần ghi nhận. Sự ghi nhận chủ quan - Lẽ tất nhiên, nhưng cũng không thể vượt khỏi chủ quan của một người - Người Việt Nam.

...Tôi mở cửa căn pḥng, hơi lạnh tỏa ra dễ chiụ. Tường gỗ đánh vẹc-ni nâu, sàn lót thảm, bàn nỉ xanh, vẻ yên tĩnh trang trọng của nơi tiện nghi theo lối Mỹ, trăm phần trăm Mỹ với không khí thơm thơm sạch sẽ của toàn khối vật chất được khử trùng lọc sạch. Trong căn pḥng nhỏ đẹp gọn ghẽ trơn láng nầy, vấn đề gai góc nhất của hiệp định ngưng bắn - Ba mươi ngàn tù binh của hai bên và năm trăm sáu mươi mốt tù binh Mỹ sẽ được giải quyết, trả giá và cân nhắc từng trăm, từng chục, hoặc từng người tùy theo nhiệp độ khí hậu của bốn bên. Con người chỉ c̣n lại là một con số trống. Tù binh, giờ nầy anh nghĩ ǵ?

... Xin giới thiệu với quí vị - Đại Úy Nam. Tôi đứng dậy cúi đầu chào. Những con mắt mở ra vừa phải ḍ dẫm... Tôi đang đối diện với cán bộ cộng sản thực thụ, những người đàn ông trung niên, nghiêm trọng cứng nhắc trong những bộ quân phục may bằng vải kaki Nam Định màu ô-liu. Đây là những cán bộ trung cấp ṇng cốt vừa từ Ba Lê đến, những chuyên viên hội nghị, những người có thể ngồi thật lâu nói thật nhiều trên nhiều đề tài mơ hồ, đối cực và vô bổ. Những kịch sĩ thiên bẩm, thiện nghệ, biết ḱm hăm t́nh cảm trong tất cả mọi trường hợp. Ư nghĩ đầu tiên tôi nghĩ về họ qua những nét mặt h́nh như không biết cười!!

Phiên họp bắt đầu, Đại Tá Đắt, đại tá của những đại tá, thâm niên cấp bậc mười lăm năm, con người quen thuộc với tù binh và nhà giam từ những ngày cách đây hai mươi năm, một chuyên viên của tù, không thể ai hơn ông trong chức vụ nầy. Phiên họp mở đầu bằng thông báo của hoạt động trong ngày, bổ túc việc trao trả, trao đổi danh sách tù nhân của hai bên...

Thứ tự phát biểu xoay theo chiều kim đồng hồ VNCH, Mỹ, Mặt Trận Giải Phóng và Bắc Việt... Lư luận trao đổi qua những ngôn từ trầm lắng, kiểm soát và ngăn chận. Lư luận không theo cùng hệ thống, không phải là câu trả lời những câu hỏi, nhưng tùy theo chiến pháp của hai bên, Việt Nam Cộng Ḥa thông báo số tù binh được dự trù trao trả trong ngày, nhưng v́ đến giờ họp, vẫn không thực hiện được v́ người của Mặt Trận ở Thạch Hăn, Quảng Trị không chịu qua sông nhận tù và tù binh ở Biên Ḥa không chịu lên máy bay đi Lộc Ninh. Đại Tá Russell của Mỹ nêu vấn đề Mặt Trận không trả tù Mỹ ở Lộc Ninh đúng như đă hẹn. Những vấn đề đặt ra rơ ràng gọn như một miếng bánh nhỏ. Tôi chờ đợi câu trả lời của hai phe cộng sản. Nhưng buổi họp đă lộ dần tính chất chạy trốn, sự tránh né lộ liễu buồn cười. Đại Tá Lê Trực, trưởng đoàn Mặt Trận xoay quanh vấn đề danh sách tù binh dân sự và Trung Tá Tấn, trưởng đoàn Bắc Việt thông báo nhà nước Hà Nội thả thêm một trung tá phi công Mỹ sáng nay ở Gia Lâm v́ lư do nhân đạo: Mẹ ông ta bệnh nặng!!

Như những ḥn bi được rơi tự do trên một độ dốc lồi lơm, các đề nghị, câu hỏi, vấn đề thảo luận do Việt Nam Cộng Ḥa đưa ra được biến dạng thành những câu hỏi khác, những vấn đề tổng quát mà chỉ có thể giải quyết được trong thời gian tương lai. Các câu trả lời cho những câu hỏi trực tiếp không có trong suốt phiên họp.

Tôi lắng tai nghe, tay ghi và tinh thần giản ra trong một niềm lạnh nhạt thú vị... À ra “chiến pháp” tân kỳ của cộng sản là thế - Không bao giờ trả lời một vấn đề trực tiếp, cứ xoay ṿng một cách vô tích sự, càng lâu càng tốt, càng xa càng tốt, sự rơ ràng phải được bao bọc dưới lớp màn mù mờ khó khăn. Khó khăn hóa, mơ hồ hóa mọi vấn đề do đối phương đưa ra, dù chỉ là những vấn đề kỹ thuật, thủ tục, của trọng tâm lớn... Trịnh trọng như những công chức già, xoay xở như một anh đánh bạc thiện nghệ, người cộng sản kéo dài phiên họp trong một ră rời cố ư và đúng hệ thống. Hội nghị Ba Lê kéo dài trong bốn năm hay bốn mươi năm cũng có thể được với những chuyên viên hội họp này, họ tránh né và lật đổi vấn đề một cách sỗ sàng bằng những giọng nói nghiêm trọng bất chấp sự hiện thực không thể chối bỏ được. Đại Tá Đắt đưa ra tai nạn buổi sáng nay (12-2-73) tại Biên Ḥa: Tù binh cộng sản không chịu lên xe ra phi trường, họ đ̣i phải gặp đại diện Bắc Việt đến để cam kết và bảo đảm sự nhận lănh... Đại diện tù binh tuyên bố không tin thực chất của đại diện Mặt Trận (Đại Tá Lê Trực)... Sự thật rơ ràng: Tù binh Bắc Việt không tin vào đại diện MTGP...

Đối diện với sự thật trên, Trần Tấn chậm răi mở cuốn sổ nhỏ, đằng hắng lấy giọng: Thưa quí vị, theo điều 1 và 2 của Nghị Định Thư về Tù Binh chỉ xác định có ba loại tù: Tù của Hoa Kỳ và các nước ngoài, của VNCH và của Chánh phủ lâm thời Cộng Ḥa miền Nam... Vậy theo tinh thần này và thỏa thuận của ḥa hội Ba Lê, chúng tôi xin xác nhận không có tù binh Bắc Việt tại miền Nam!!

Đúng sách vở và chiến pháp! Tôi muốn ph́ cười v́ vẻ mặt trang nghiêm, ánh mắt long lanh bằng ḷng với phản ứng sắc bén đúng theo “tinh thần Nghị Định Thư” của Tấn... Tinh thần Hiệp Định, một dụng tâm tráo trở của những tay bợm siêu đẵng được căn cứ và nhắc nhở với những ngôn từ trang trọng như giáo điều thiêng liêng. Buổi họp, sự vô liêm sĩ đứng đắn kéo dài trong vô ích. Bốn giờ đi qua không vấp váp.

À, ra thế là cộng sản, cộng sản chính cống, hạng A, loại cán bộ nồng cốt hy vọng trở thành Ủy viên trung ương trong tương lai, Lê Trực, Bí thư của Tướng Trà, Bộ trưởng Quốc pḥng của “Chính phủ” lâm thời chỉ là một “chuyên viên” đi đủ qua ba đề mục: bổ túc danh sách tù quân sự, nêu con số 140 tù dân sự của VNCH và đ̣i hỏi VNCH thêm vào con số bảy ngàn v́ c̣n hằng vạn người nữa! Ba đề mục được Trực kéo đi kéo lại trong bốn tiếng đồng hồ không mệt mỏi bất chấp câu hỏi của Đại Tá Đắt: Tại sao quí vị không trả tù chúng tôi đúng 8 giờ 30 ở Lộc Ninh như đă hứa? Mặc cho các câu hỏi rọi rơ như ánh mặt trời hắt vào mặt, Trực qua lại ung dung giữa ba bấn đề của ḿnh như con cá vùng vẫy trong chiếc hồ bơi riêng rẽ. Bắc Thạch Hăn, nơi thuộc về Bắc quân làm sao Trực có thể cho và nhận chỉ thị trực tiếp?! Tội nghiệp cho vẻ kiêu hănh ốm yếu của Trực sau khi lập lại một đề tài tránh xa sự thật... Trực đă ở Ba Lê trong bao lâu?

Tôi ngồi đối diện với cộng sản, nghe những trả lời trống, những lư luận trơn, nghe những hằn học đóng kịch và dễ dăi vô duyên. Thấy rơ toàn bộ cấu tạo và chiến pháp của cán bộ cao cấp đối phương - Một đối phương quá nhiều huyền thoại và huyễn hoặc. Thấy rơ người để xét lại ḿnh. Không tự tôn cũng chẳng nên tự ti. Tôi kết luận. Đấy chỉ là những chuyên viên b́nh thường ở âm tượng ngôn ngữ, ở khí phách tia nh́n... Chỉ là những chuyên viên bàn giấy học thuộc bài, nhớ thuộc vở, biết nghe lời thượng cấp, theo đúng chỉ thị, làm việc bằng trí nhớ được tập luyện hơn phản ứng sôi nổi linh động của tâm lư. Đó là một đội cầu gồm nhiều cầu thủ trung b́nh chuyên lối chơi cộng đồng không có quyền nẩy nở phản ứng cá nhân. Toàn thể đặc tính của cán bộ cộng sản có thể thâu tóm một cách tổng quát không sợ sai lầm.

Chiến tranh, ḥa b́nh đă được thực hiện và điều hành bởi lớp cán bộ cao cấp này. Những người vâng lời cứng ngắc, quyết chí như một mũi tên hụt hơi, những người nh́n lịch sử bi thương của dân tộc qua những sự kiện được đánh số và phân loại. Tôi đă đối diện với đối thủ tàn ác thô bạo ở chiến trường, nay lại gặp phải một đối phương cố chấp qua chiếc bàn rộng lót nỉ màu xanh. Sự tàn ác thô thiển nơi chiến địa hay cứng cỏi cực đoan trong căn pḥng có chung một tính chất - Tính chất tổng quát của những phản ứng được hệ thống hóa sau thời gian dài định lượng và kiểm chứng. Tôi không gặp được Người trên hai chiến trận, đây chỉ là những cán bộ tốt biết vâng lời và che dấu t́nh cảm riêng tư tuyệt đối. Cảm giác lăng đăng kết tụ dần như hơi khói thuốc không tan được trong căn pḥng kín cửa. Có một điều đau đớn chập chờn ám ảnh không rời dần lộ mặt - Chiến tranh đă xảy ra thật hợp lư - Người cộng sản quả t́nh chỉ sống được trong thế giới cường bạo và chấn động. Biện chứng pháp duy vật há không phải là luận lư xây dựng trên “sự nổ” hay sao? Căn pḥng ŕ rầm máy lạnh bỗng chốc mang vẻ đe dọa như cơn im lặng của trái phá sau khi bay ra khỏi ṇng...

 

Tháng 2-1973

 

Cây Bút Kaolo

 

Đột nhiên thấy được cả một chuỗi ngày thơ ấu trải dài trước mặt như khi mở cuốn Album nh́n lại h́nh ảnh của ngày quạ. Bên tay phải, hơi chéo về trước mặt, Trung Tá Tuấn Anh của phái đoàn Bắc Việt đặt lên trên chiếc thảm xanh cây viết nâu có những sọc ngang vàng đục. À! Viết Kaolọ. Lâu lắm, hai mươi năm đi qua, ngày vừa đỗ tiểu học, món quà đắt giá nhất có được lần đầụ: Cây viết Kaolọ. Cây viết nặng và lớn so với bàn tay nhỏ bé, tôi cẩn thận vặn khẽ từng ṿng phần cuối của cây viết, ng̣i bút thuỷ tinh h́nh tháp có những ṿng xoắn ốc từ từ ló ra khỏi ổ bút. Lũ trẻ chung quanh trầm trồ... Cây viết giá ba mươi lăm đồng, viết mấy cũng không “rè”, viết chiều nào cũng được. Tôi hân hoan vặn ngược lại, ng̣i bút rút dần vào ổ. Hai mươi năm, xă hội qua muôn ngàn biến đổị Đứa bé chưa bao giờ uống nước đá bào ngày nào đă lớn, lớn để chứng kiến những đảo lộn đến chót cùng kinh ngạc, những biến đổi ngược ngạo, chớp nhoáng bừng bừng lạ lùng xảy ra hằng ngày qua, theo năm tớị. Biến dạng ở tâm linh và thế giới chung quanh. Biến đổi hệ thống lư luận và cách nh́n. Biến đổi từng mẫu ư nghĩ, từng cái chắc lưỡi khẽ rung để che dấu niềm kinh ngạc sững sờ.

Năm 1950 ông Nixon phản đối chính sách hoà hoăn với Trung Cộng của Ngoại Trưởng Dean Acheson. Năm 1972 con người đối nghịch với cộng sản đó khẽ sửa lại vạt áo Chu Ân Lai, hành động vượt xa lịch sự ngoại giaọ Cũng năm ấy, Thượng Nghị Sĩ McCarthy nổi bật hẳn lên khỏi những đồng viện v́ tính chất diều hâu siêu đẳng của ḿnh. Năm 1968, tinh thần McCarthy lại biến tướng thành McGovern sau này. Những năm 50, chiếc xe đạp bánh đặc vẫn được xem là dấu hiệu của sung túc giàu có. Năm 1972 ở Sài G̣n xe gắn máy Sachs hoặc Solex đă được xem như vật cũ kỹ hết xài, xe hơi Ford Mustang chỉ là phương tiện di chuyển đắt giá b́nh thường. Đức Quốc Trưởng Bảo Đại năm xưa nay chỉ c̣n là một ông già hết thời dù báo Figaro mở chiến dịch thăm ḍ và báo Sài G̣n yểm trợ. Vua Bảo Đại đă là một điều của dĩ văng. Hiện tượng Perón không thể nào có được ở Việt Nam, nơi hai mươi năm chiến tranh đảo lộn hết toàn thể giá trị tinh thần và đời sống. Người Việt Nam, giống dân chai lỳ chịu đựng nhất của nhân loạị

Nhưng người Cộng Sản ở miền Bắc “h́nh như” không thay đổị. Y phục, hệ thống tổ chức, phương cách chuyển đạt ư nghĩ, lư luận, hút điếu thuốc, thở khói, để tay lên bàn, sửa cái kính... Tất cả đều có vẻ chung chung, quen quen h́nh như đă gặp, đă nghe, đă thấỵ. Năm 1950, tại chiến khu bên tả ngạn sông Hương nay thuộc vùng Ashau, tôi hỏi đồng chí “Chú Nhan”:... Sao súng chú quá lớn? ” Đáp ngay: “ Súng chú dùng để bắn Tây! ”. Phản ứng đối đáp nhanh chóng đúng “tinh thần kháng chiến” này sao quá giống với câu trả lời ở phi trường Lộc Ninh khi được hỏi v́ sao ống quần quá rộng. Đáp: “ Để dễ tác chiến chống Mỹ Nguỵ! ”. Hai mươi năm hơn đi qua đă không thay đổi ǵ ở trong những đầu óc đó. Vẫn chỉ là kháng chiến, chống lũ bán nước, đấu tranh công nông, cộng sản đại đồng, hỗn độn va chạm khô cứng vào nhau dưới một đầu tóc rẽ ngôi giữa, hai bên hớt cao trắng phếu...

Trung Tá Tuấn Anh, người có khuôn mặt lặng lẽ, trí thức nhất của phái đoàn Bắc Việt, tuy có một nụ cười tươi, nhưng nụ cười đó h́nh như có tính toán, có sửa soạn. Nụ cười được định lượng dè chừng chợt tắt ngay nếu phải nghe một lời vượt ra khỏi hệ thống Trung Tá có nghĩ rằng Đông Dương sẽ trở thành một vùng Balkan nhưng tiến bộ và tự do hơn không? Những lần tắt nụ cười đó thường làm người tiếp chuyện ngạc nhiên, nhưng khi nh́n thấy cây viết Kaolo được cẩn mật để trên bàn, ng̣i bút đi ra chậm chậm nghiêm trọng th́ ḷng tôi chợt hiểu. Hai mươi năm hơn đi qua không có thay đổi trên miền Bắc có nhiều hệ thống nghiêm cẩn không suy suyển đó; 138 trang cuốn Chiến Tranh Nhân Dân và Quân đội Nhân dân của Vơ Nguyên Giáp (Nhà xuất bản Sự Thật- 1959) rặt một thứ lư luận thô thiển đến hàm hồ. Trang 112, Giáp định nghĩa Quân đội Nhân dân -Đây là một quân đội thực sự của nhân dân, của nhân dân lao động, thực chất là công nông, một quân đội do giai cấp công nhân lănh đạo!!! Không xa đó Giáp viết tiếp: “Đảng của Quân đội nhân dân đó..” Và Đảng của Giáp năm 1930 là ǵ? Hăy đọc lại nguyên tên: Đảng Cộng Sản Đông Dương... Tiếp tục bước chót của lư luận: “Nhân dân tức là toàn thể đảng viên Cộng sản ”. May quá, Giáp chưa đi đến bước chót của thái độ liều lĩnh này...

Tôi đă đi trên đường vào An Lộc trong tháng 6 năm 72, tôi đă tiến theo Nhảy Dù để vào Quảng Trị cuối tháng 7... Dọc quốc lộ 13, dọc quốc lộ 1, trên những đoạn đường chết với câu hỏi vang dội: “ Sao người Cộng sản có thể tàn ác tỉnh táo đến độ này ” Tại sao họ có thể xuống tay tận diệt những người dân vô tội không chút e dè như thế này. Nhưng bây giờ th́ tôi có thể hiểu. Người cộng sản đă hướng dẫn hành động theo sát với tất cả những giáo điều đă xâm nhập vào từng hơi thở, ư nghĩ của họ. Cuộc đấu tranh vũ trang để thực hiện Chủ nghĩa xă hội do quân đội nhân dân đảm trách. Nó chiến đấu cho quyền lợi của nhân dân lao động cách mạng, được ủng hộ của nhân dân Liên Xô, của nhân dân tiến bộ yêu chuộng hoà b́nh trên thế giới!... Vậy, Nhân Dân miền Nam, những nhân dân không cách mạng, không giác ngộ, không ủng hộ cho cuộc chiến đấu kia ắt hẳn được xếp vào loại nhân dân địch, nhân dân “nguy”., loại nhân dân cần phải... Tiêu diệt!! Chúng ta, người của miền Nam chắc sẽ không bao giờ chấp nhận một thứ hệ luận kỳ quái xuẩn ngốc độc địa kia, chúng ta cũng không nghĩ có một thứ lư luận sơ đẳng tàn hại như thế đă được thành h́nh làm phương châm chỉ đạo cho bao nhiêu hành động cuồng sát. Nhưng thật sự đă xảy ra, xảy đến tột độ kinh hoàng, xảy đến trong chót cùng kinh ngạc... Mậu Thân ở Huế, tháng 4-72 ở Quảng Trị, tháng 3-72 trên đường 13 hướng An Lộc-Chơn Thành, dù tôi là người lính chiến thuần tuư đă đi trong ḷng cái chết qua thời gian đằng đẵng cũng đă không hiểu nỗi tâm trạng đối phương hằng vang dội trong ḷng măi măi câu hỏi trên. Nhưng hôm nay trong căn pḥng kín cửa nh́n cây viết cũ kỹ trên tấm nỉ xanh ḷng chợt khám phá ra nguyên lư của hệ thống giết người... Kinh khiếp thật, người Cộng sản đă giết người qua định nghĩa. Định nghĩa cấu tạo từ mùa thu cách mạng, hệ thống hoá thêm bởi mười chín năm trời trong “chủ nghĩa xă hội. Định nghĩa ví như một lá cờ đuôi nheo nhàu nát được mang ra làm chỉ đạo cho cuộc tàn sát tận t́nh. Tôi hiểu ông Ngô Đ́nh Diệm, người quân tử vụng về của thời đại chỉ v́ không theo kịp với nhịp biến động của thế giới chính trị nên phải trả giá bằng cái chết tàn khốc, sự kiện không canh tân hoá ư niệm chỉ đạo điển h́nh qua chiếc bàn gỗ nặng nề của thời Louis XIV. Vậy nên, viên sĩ quan cộng sản làm sao đuổi kịp được thế giới, hiểu kịp được tâm tư của người dân miền Nam khi trên tay vẫn c̣n nâng niu hoài cây viết cũ, đầu óc đặc kịt những lư luận “sắc bén” của đồng chí Đại Tướng, một ông giáo sử địa của những năm 1930, soạn thảo phương châm chỉ đạo chiến tranh bằng những luận cứ hồ đồ: “Cuộc vũ trang đấu tranh của nhân dân Việt Nam thành công trước tiên chính là nhờ sự thắng trận của Hồng quân Liên Xô đối với Phat-xít Đức, Nhật..”. Vừa phải thôi, chính v́ cuộc thắng trận khốn nạn đó, Pháp mới có thể trở lại Việt Nam để cùng anh dự tiệc máu người Việt Nam qua chín năm dàị. Thế nhưng luận cứ trên đă viết thành lời, đă đại chúng hoá bằng những tờ ronéo nhem nhuốc, phổ biến đến mỗi cán bộ xă ấp, mỗi “chiến sĩ” với đầu óc bít kín như những viên gạch được xếp đầy đặn chờ hơi nóng nung đốt, để hôm nay - 1973, ở Lộc Ninh, ở Thạch Hăn đâu đâu cũng chỉ nghe: Chủ nghĩa Mác, Lê-Nin dạy chúng ta rằng: Chiến tranh, nhà nước, quân đội đều là những hiện tượng lịch sử, những hiện tượng đó đặt cơ sở trên các giai cấp xă hội đối nghịch và sẽ không c̣n nữa khi xă hội loài người không c̣n chia thành giai cấp đối nghịch, nghĩa là khi chủ nghĩa Cộng sản đă thắng khắp thế giới...!!! Chủ nghĩa Mác, Lê-Nin, Cách Mạng tháng 10 h́nh như chỉ c̣n là tài liệu nghiên cứu cho một giai đoạn lịch sử đă đi qua... Nhưng Trung Tá Năm Tích - Tư lệnh phi trường Lộc Ninh - gă nông phu phụ bạc ruộng đồng để hân hoan cùng “quân hàm tương đương” cứ lập đi lập lại hoài bài học đó. Phải chăng trong đầu óc đặc cứng đó chủ nghĩa xă hội đă được thực hiện toàn hảo trên quân hàm mà Năm Tích suốt đời không bao giờ có ư niệm?!!

Tháng 3-1973

 

Những sợi tóc bạc trên thảm nỉ xanh

 

Ngồi trước mặt tôi là hai người tóc bạc, một thượng tá và một trung tá của lực lượng vũ trang thuộc Mặt Trận giải phóng, cả hai đều trên tuổi năm mươi, tóc bạc trắng quá nửa đầu, da mặt xám xanh và ánh mắt khác lạ. Người mang cấp bậc thượng tá, Nguyễn Hoàn quê Bến Tre, ngoài nụ cười tươi ít khi xử dụng thường có thái độ tự tin bằng cách ngồi ngữa người nh́n đến người đối thoại, tia nh́n phát từ đôi mắt màu xanh da trời lóng lánh một màn mỏng bóng loáng, đôi mắt có vẻ thâm độc kỳ dị, phản chiếu tính chất hung tàn bệnh hoạn như kẻ bạo dục đứng nh́n nạn nhân quằn người dưới tra tấn của hắn. Ở đây, đôi mắt của Thượng Tá Nguyễn Hoàn có một tính chất bạo ngược phát động từ tinh thần đă mất hẳn những rung động tế vi nhân bản, tinh thần lạnh cô đặc của Goering, Rudolf Hess, những người tự tin và tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa, quyết định của tổ chức. Người đă đồng hóa bản thân vào vận động lịch sử, người xóa bỏ ḿnh, hết c̣n là một nhân vị. Nguyễn Hoàn có đôi mắt của một bộ máy điện tử dùng để đo phản ứng con người. Người thứ hai, Bùi Thiệp mang quân hàm Trung Tá gốc Qui Nhơn, Thiệp có khuôn mặt nặng nề b́nh thản gồm nhiều nét nhăn ôm thành ṿng tṛn từ trán xuống miệng, những nét nhăn của một con hổ; khuôn mặt Thiệp là một con hổ phiền năo, mệt mỏi. Nhưng con hổ nhọc mệt vẫn c̣n vẻ hung tợn căn bản; cũng thế, Thiệp như đang lúc tỉnh giấc của con vật vừa xong bữa tiệc máu.

Tôi không vẽ nên quá độ những đường nét của đối phương, nhưng v́ muốn biểu hiện một cách trung thực, phản ảnh đứng đắn toàn thể không khí của những cán bộ cộng sản mà tôi đă làm việc, đối diện, nghe và nói cùng họ trong suốt thời gian dài, nên dùng nhiều h́nh ảnh, ẩn dụ để sáng tỏ h́nh tượng biểu hiệu của hai nhân dáng, hai cá tánh. Nguyễn Hoàn, Bùi Thiệp, cũng có thể rằng đây chỉ là bí danh, nhưng chắc rằng cả hai thuộc vào lớp cán bộ mùa thu, những cán bộ xuất phát từ 1946, có thể đă vào đảng và có đảng tịch từ những năm trước 1945-46... Cả hai đều được định quân hàm vào năm 1956, sau đợt chỉnh bị toàn quân tại Hà Nội. Họ là những cán bộ tập kết ra Bắc năm 1954 để sửa soạn trở về Nam theo những điều khoản của Hiệp Định Genève năm 54. Nhưng dù không trở về Nam đúng trong năm 1956, họ cũng là những cán bộ của Mặt Trận vào những ngày đầu tiên thành lập. Trước khi về Sài G̣n, Thiệp và Hoàn đă có những tháng năm dài công tác tại ḥa hội Ba Lê. Tóm lại, đây là loại cán bộ cốt cán của Mặt Trận với quá tŕnh đấu tranh dằng dặt đầy ứ những kết quả, đúng tiêu chuẩn do Đảng “đề xuất”...

Quá tŕnh tranh đấu liên tục c̣n được phản ảnh cụ thể ở thái độ nghiêm túc, hạn chế, ở phương tức lư luận theo sát ba nhịp của tam đoạn luận, đi đủ chu kỳ cần thiết của một nhịp duy vật biện chứng. Những lư luận phát khởi từ chuẩn bị kỹ càng được ôn tập, phê b́nh và xếp đặt theo tiến tŕnh của đề tài thảo luận bằng một phương pháp giản dị dễ ghi nhận và xử dụng. Để bác bỏ lời tố cáo của Việt Nam Cộng Ḥa về sự kiện tù quân sự và dân sự c̣n bị giam giữ ở khắp lănh thổ Đông Dương với những bằng cớ xác đáng như lời nhắn tin của những người tù trên các đài phát thanh Hà Hội, đài Giải Phóng, h́nh ảnh, thơ từ gởi về Nam theo những người bạn tù đă được trao trả. Những sự kiện chắc chắn, cụ thể tưởng rằng khó để từ chối được, nhưng Hoàn và Thiệp (hay tất cả ủy viên trưởng ban, phó trưởng ban hay Hoàng Anh Tuấn, Sĩ, Giang của cấp trưởng phái đoàn) đều dung dị né lách vấn đề theo đúng điều đă học tập. Trước tiên, họ xử dụng lời bác bỏ v́ tính cách “bịa đặt, dựng đứng” sự kiện do VNCH bày vẽ nên, tiếp theo họ tŕnh bày những tài liệu cung cấp từ báo Đối Diện, cuốn bạch thư của Hồ Ngọc Nhuận, kháng thư của các hiệp hội, đoàn thể quốc tế đ̣i đấu tranh và cải thiện đời sống lao tù ở VNCH... Cuối cùng lời kết luận, căn cứ vào tài liệu vừa được tŕnh bày (luôn nhấn mạnh sự chính xác của tài liệu bởi tính chất: Tài liệu phát xuất từ những giới chức, đoàn thể thuộc VNCH hay khối tự do) để đưa ra lời tố cáo: “Chính VNCH đă, đang c̣n giam giữ hằng trăm ngàn người với chế độ ngược đăi tàn nhẫn nên Chính phủ lâm thời giành lại quyền phản kháng để tố cáo VNCH trước quốc tế và quốc nội đă vi phạm các điều khoản của hiệp định, nghị định thư về trao trả tù quân dân sự!!!” Những luận điệu móc nối khít khao được tŕnh bày bằng giọng nói khuôn thước vừa đủ cường độ gây nên ấn tượng quyết tâm nhưng cũng không ra khỏi tính chất ḥa hoăn của tinh thần ḥa giải dân tộc. Không những chỉ cùng nhau xử dụng chung một phương thức lư luận, những cán bộ cộng sản luôn luôn dùng một số từ ngữ, cách ngắt câu, chấm dứt vấn đề theo đúng tiêu chuẩn, chỉ thị đă được phổ biến học tập và huấn luyện. Những sự kiện trên thoạt đầu gây trong ḷng tôi nể nang v́ thấy cán bộ đối phương đă chuẩn bị kỹ càng vấn đề thảo luận và thực hiện mục tiêu tranh luận theo phương pháp thuần nhất. Nhưng vào thời gian của tháng thứ sáu, thứ bảy, sau khi đă nhiều lần nghe những động từ “đề xuất, triển khai, lên khung vấn đề, kết tập phương án...” những thành ngữ “tinh thần hoà hợp và hoà giải dân tộc, chấp hành nghiêm chỉnh tinh thần và lời văn của hiệp định ngưng bắn, đấu tranh cho hoà b́nh tự do...” trong tất cả mọi đề tài, phương thế thảo luận, tôi đâm ra hoài nghi với ư nghĩ: Tất cả ưu điểm của Cộng sản chỉ thế nầy sao? À Chỉ là diễn dịch vấn đề bằng một số luận cứ sơ đẳng giản dị, với những từ ngữ quen thuộc đă được tập dượt để áp dụng cho tất cả mọi lớp cán bộ trong bất cứ mọi trường hợp; một hệ thống lư thuyết chỉ đạo gồm toàn những từ ngữ, luận lư thô thiển được áp dụng đồng loạt phổ quát từ anh lính gác ở bờ bắc sông Thạch Hăn đến gă thiếu tướng ngồi ở bàn hội nghị!! Hoài nghi biến dần thành xác định, sự nể nang ban đầu rút lui thành cảm giác năo nề v́ nhận thấy. ăSự chiến đấu của nhân dân cách mạng yêu nước Việt Nam đă được sự ủng hộ nồng nhiệt của nhân dân yêu chuộng ḥa b́nh trên toàn thế giới... đă là một thành ngữ ṃn nhẵn, cũ kỹ từ những ngày kháng chiến trong cộng đồng dân tộc của những năm 1940... Hai mươi, ba mươi năm một sáo ngữ đă mất hẳn tính chất và hiệu lực vẫn được xử dụng trang trọng đồng loạt từ bài báo của tạp chí Học Tập, cơ quan ngôn luận đảng Lao Động đến nhận định của Vơ Nguyên Giáp về chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng... Từ ngữ cũng được, “cũng phải được” lập lại nghiêm chỉnh trong bài phóng sự “Về các xă giải phóng...” do một anh văn công viết trong một hóc hẻm của đồi núi Quảng Trị đăng trên báo Giải Phóng (Lại giải phóng... Cũng chỉ cùng quê quán với “giải phóng quân” của 1945, 46, từ thằng Mạ giải phóng của Lư Cẩm Dương...)

Thật lạ, người cộng sản xây dựng lư thuyết trên yếu tính đối kháng, hủy diệt, giải thích lịch sử trên căn bản tái tạo của hủy thể tiến bộ, thế nhưng trên rất nhiều khía cạnh họ lại phô trương tận lực tính chất bảo thủ kiên tŕ, thái độ duy tâm cùng cực. Ở những năm tháng đầu tiên khi đảng Lao Động vừa được cải danh, Đại Hội Đảng nhóm dưới một gốc đa, trong hang núi vào những năm 1941, 42, th́ số từ ngữ mà đám cán bộ hôm nay, năm 1973 dùng như một thứ đá lót đường căn bản cho lư luận, đă là những chữ nghĩa được phổ biến “học tập”; kể từ thuở ấy, ngôn ngữ của thời kỳ “huấn luyện” th́ làm sao theo sát và phù hợp với đời sống thực tế hôm nay. Sự kiện này mở ra thêm hai bước lớn với những ư nghĩ sau: Quả t́nh người Cộng Sản đă không có tiến bộ tối thiểu trong phạm vi ngôn ngữ, văn chương hay rộng răi hơn, họ không có được tiến bộ trong toàn thể vận động văn hoá. Chúng ta sẽ quá độ khi đánh giá đối phương qua một vài từ ngữ xử dụng, những danh từ quê kệch trống trải vô nghĩa được cố công g̣ ép vào những ư nghĩa xúc tích để tạo nên tác động tuyên truyền cho đám đông. Nhưng có sự thật phải được chấp nhận: Mỗi thời đại, mỗi giai đoạn xă hội có một ngôn ngữ riêng biệt, đồng thời ngôn ngữ đó cũng mang tính chất tiến bộ theo nhịp độ của xă hội khai sinh nó. Không thể phủ nhận sự biến hoá kỳ ảo của ngôn ngữ Việt Nam khi so sánh cú pháp, từ, ngữ, văn phong của hôm nay với mười, hai, ba mươi năm trước... Điều này chắc chắn và xác thật như chiều hướng tiến hóa của văn hoá nhân loại, tiến theo chiều cao lẫn chiều rộng, trong đó những khuyết điểm, trở ngại trước sau sẽ dần bị đào thải v́ tính chất chậm chạp ứ đọng của nó. Thế nên, thật lố bịch khi dùng những chữ nghĩa đă ối đọng, mất hết giá trị đích thực ở nội dung lẫn sức mạnh phô diễn bề mặt, những từ ngữ “chết” được cấu tạo bởi một nhu cầu chính trị giai đoạn chứ không do khát vọng văn hoá của con người. Như trong năm 1973 mà lập lại những “t́nh hữu nghị Việt, Trung, Xô, nước anh em Liên Xô vĩ đại, các nước anh em yêu chuộng hoà b́nh trên toàn thế giới...” Làm ǵ có được “nước anh em” của thời đại tráo trở và tan vỡ này, làm ǵ có được h́nh tượng Liên Xô vĩ đại khi bằng những kẻ hở của Hiệp ước Varsovie Nga đă xua quân vào Ba Lan, Tiệp Khắc và chắc chắn rằng Liên Xô vĩ đại đă hoàn toàn tan biến khi Âu Châu khai hội Helsinki với sự tham dự bắt buộc của Mỹ và Gia Nă Đại, những nước xa Âu Châu một đại dương mà Nga không phản đối được. Cũng không thể lấp liếm để bảo rằng đó chỉ là những ngôn ngữ tuyên truyền b́nh dân xuất hiện trên báo Học Tập, trên tạp chí Việt Nam để phổ biến giáo dục tới từng anh em xạ thủ cao xạ, “tên lửa” mang quân hàm binh nhất, hạ sĩ, v́ đây cũng là ngôn ngữ của di chúc Hồ Chí Minh, của Vơ Đại Tướng, của Đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẫn, của Trung Tướng Trà, Đại Tá Sĩ, ngôn ngữ cơ sở “khung” của cộng sản Việt Nam trên bước đường thực hiện cách mạng vô sản! Sự kiện chữ viết thật ra chỉ phản ảnh khía cạnh của tinh thần, v́ không thể có tinh thần tiến bộ nào đang tâm sử dụng một số ngôn ngữ cũ kỹ từ ba mươi, bốn mươi năm trước, không thể dùng xe hơi những năm đầu tiên lập nghiệp của ông Ford để dự cuộc đua hai mươi lăm giờ với những chiếc xe có sức mạnh như một phi cơ phản lực, không thể dùng luận lư của Trương Tửu ở những năm 1930, 40 để giải thích sự đột biến trong ḷng những nhân vật tiểu thuyết ră rời của thập niên 1960, 1970. Và giai cấp công nông chắc hẳn không thể phát động đấu tranh được trong xă hội mà nạn nhân chính chỉ là người trí thức bị đe dọa từ vật chất đến tinh thần. Chế độ Sô Viết của năm 73 bị tai tiếng, đe dọa không phải v́ thành công vượt bực của Skylab Hoa Kỳ sau năm mươi chín ngày thành công hoàn hảo trong không gian, không phải v́ mấy lộ quân Trung Quốc dàn dọc theo sông Issouri, cũng không v́ các công trường Tây Bá Lợi Á nổi loạn, nhưng chỉ bị lung lay, ngột ngạt v́ lá thư vài trăm chữ của người viết văn Solzhenitsyn. Thế nên, trong thực trạng này, mô thức xă hội tinh truyền với giai cấp công nông vô sản có một vẻ cưỡng ép thô bạo mà lịch sử đă và đang dẫn chứng không thể nào thực hiện được. Nhưng cuối bản chúc thư, Hồ Chí Minh, bộ óc siêu đẳng của cộng sản Việt Nam vẫn hạ bút: Sau khi chết đi, tôi sẽ được gặp các cụ Karl Marx, cụ Lenin... Ông Karl Marx, ông Lenin những khuôn mặt lớn của triết học Đức, lịch sử cục bộ nước Nga, người đă có công giải thích và thay đổi khối cộng sản trong một khoảng thời gian hạn chế, hiện nay đang được xác định lại giá trị chính quê hương của họ. Vậy, ở Việt Nam, nơi cách kinh đô cách mạng vô sản nửa ṿng thế giới, sau khoảng thời gian dài hơn nửa thế kỷ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin vào lẽ tất thắng của một chủ thuyết rất hạn chế địa bàn thành công cũng như thời gian phát triển, thật sự đă là một lầm lẫn vô cùng nghiêm trọng... Thế nhưng người cộng sản Việt Nam vẫn không chịu hiểu cùng phần soi sáng của lịch sử...

”Các cô chú khi đi công tác hăy đổ máu cho thật nhiều, biến ruộng vườn thành chiến trường, cày cuốc thành vũ khí, nông dân là chiến sĩ...” Ông Hồ Chí Minh đă thốt ra lời vàng ngọc chỉ đạo cho đám cán bộ trước khi lên đường như thế. Lời nói không phải là phản ảnh của tâm tính bạo ngược, tôi không tin như thế, v́ ḷng của một người già đă qua số tuổi sáu mươi không thể nào c̣n tính hăng để có nhu cầu bạo ngược nh́n máu chảy... Nhưng lời nói đó phản ảnh niềm tin tất thắng của kẻ tin tưởng tuyệt đối vào hành động; ḷng tin đă theo đúng đường vận chuyển của lịch sử, không phải chỉ riêng dân tộc mà c̣n cả nhân loại. V́ Hồ Chủ Tịch đă tin như thế, toàn thể ủy viên của Ủy ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động đă tin như thế, Ủy viên Trung ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng đi theo đà mê măi nồng nhiệt thắm đỏ này nên đă có hiện tượng giết người tỉnh táo ở Huế trong Tết Mậu Thân, nên từ năm 1964, 65 ủy ban hành chánh xă vùng Lưỡi Câu, Mơ Vẹt đă thành h́nh với đồng chí chủ tịch xă Nguyễn văn Hằng quê Nam Định được cải tên thành Thạch Mét (1) Ơ. Niềm tin sắt đá trên cũng làm sáng tỏ phần sâu xa của Sinh Bắc Tử Nam - thể hiện ư niệm chiến lược quyết thắng với toàn cơi Đông Dương rực đỏ. Người cộng sản đă tin chắc chắn như thế nên họ đă bỏ qua sự kiện những trái bom rơi từ pháo đài bay B29 Mỹ xuống nhà ga Đà Nẵng, bến tàu Hải Pḥng sau ngày 6-3-1945, nơi những căn cứ có cắm lá cờ mặt trời đỏ của Nhật. Họ đă quên rằng chiến tranh Việt Nam không c̣n là chiến tranh chống đế quốc và phong kiến, không thể có một chiến tranh giải phóng thuần túy khi thế lực quốc tế đă chọn Việt Nam làm nơi ḥa giải. Trái bom Mỹ năm 1945 đă báo hiệu chiến tranh không c̣n là cuộc thánh chiến giữa hiệp sĩ giải phóng dân tộc cùng tên khổng lồ thực dân đế quốc; trái bom là điểm nối đầu tiên của hai ư hệ đối cực đang t́m đường gần nhau qua xương máu Việt Nam. Người cộng sản không thể nào chấp nhận và hiểu được hiện trạng, phải hai mươi tám năm sau đại chiến thứ hai, những thế lực quốc tế mới dần thoát khỏi t́nh trạng chiến tranh lạnh nằm trên sợi dây thăng bằng với cơn nổ dứt điểm từ chiến tranh Việt Nam (2) Ơ. Thế giới đă đứng b́nh yên trên chiếc trục tàn bạo chôn sâu xuống thân thể đau đớn quê hương ta. Người cộng sản Việt Nam không thể hiểu những sự kiện giản dị nầy, cũng như khi họ tổng tấn công vào An Lộc, Quảng Trị, Kontum là mở rộng cửa kho bom B52 đă đầy ứ sau thời gian chờ đợi. Một chiếc B52 bị bắn rơi ở Hà Nội có là bao so với lực lượng khủng khiếp gồm 200 B52, 500 phản lực cơ chiến đấu đồng lực dội bom, đánh phá suốt hai mươi bốn giờ trong ngày 5-12-1972 trên nửa mảnh quê hương điêu linh. Cuộc không tập có giá trị tuyệt đối: Chứng tỏ một lực lượng không quân to lớn có thể xử dụng chớp nhoáng từ ngoài khơi biển Thái B́nh, từ những ḥn đảo bất khả xâm phạm Guam, Midway, Wake để đánh phá bất kỳ những mục tiêu nào trên nội địa Châu Á. Xong, người Mỹ an tâm rút khỏi Việt Nam, Thái Lan sau cuộc “tập dượt” với mục tiêu: miền Bắc Việt Nam. Người Mỹ đă hoàn toàn thành công khi chứng tỏ cùng Nga và Tàu khả năng siêu đẳng của ḿnh, đồng thời tŕnh bày đủ quan niệm tự hạn chế. Hai cường quốc cộng sản cũng an tâm, thúc đẩy Bắc Việt kư Hiệp định. Chiến cuộc Đông Dương coi như dứt điểm, Bắc Việt, Khmer Đỏ uy hiếp Nam Vang, Kompongcham, lính sư đoàn 320 Bắc Việt tấn công trại Lệ Minh, công trường 9 bao vây căn cứ Tống Lê Chân vào tháng thứ mười sáu. Tất cả chỉ là xung đột cục bộ địa phương, một địa phương nhỏ bé ch́m đắm giữa bao la của ba đỉnh lớn, Tàu, Nga, Mỹ. Người không tin vào điều này nên nhất định đi nốt bước đường “chiến thắng”. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khuynh khoát Lào, Miên dưới bóng dáng âm u của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Người cộng sản như con kiến leo lên miệng chén với ảo tưởng rằng đă thoát xa vực thẳm. Ông Hồ Chí Minh nếu có chút anh hồn thiêng liêng chắc hẳn phải đau đớn khi nh́n thấy Kissinger ngồi trên xe từ Gia Lâm tiến về Hà Nội đi qua dăy nhà ga xụp đổ của trận oanh tạc cuối năm 1972. Tưởng như là ngày hôm qua. Ông Hồ chỉ mới chết vào ngày 3-9-1969.

Bên kia chiếc bàn xanh, hai người cán bộ cộng sản tóc bạc lại thêm một lần nữa lập lại một số lư luận quen thuộc (mà tôi đă thuộc ḷng sau ba tháng cùng làm việc): “Chấp hành nghiêm chỉnh Hiệp định ghi nhận của quí vị về vấn đề tù VNCH bị bắt ở Nam Lào, chúng tôi cũng đ̣i quí vị trả vô điều kiện 200.000 tù chính trị... Dẫn chứng là “cuốn sách trắng” của Hồ Ngọc Nhuận, lời tuyên bố của Đại Tướng Dương Văn Minh, bản kháng thư do các dân biểu Trương Gia Kỳ Sanh, Hồ Hữu Tường, kháng thư của Ủy ban cải thiện chế độ lao tù tại miền Nam Việt Nam... Tôi rút tờ ghi chú của phiên họp ngày 20 tháng 4; có tất cả những chi tiết này đă ghi đủ từ ngày ấy. Đợi chờ sự thay đổi nào trong ḷng những cán bộ này v́ họ đang nói tiếp: Điều 1 Hiệp Định Ba Lê đă bảo đảm quyền dân tộc tự quyết, nước Việt Nam độc lập, thống nhất như Hiệp định Genève 54 đă qui định... Thế nên làm ǵ có hiện tượng có nước Bắc Việt xâm lăng Nam Việt...” làm sao có thể xử dụng từ xâm lăng cho người trong một nước với nhau! Luận lư và luận lư, tôi nghe bao nhiêu lần, tôi đă thấy bao điều sơ hở vô lư, nhưng đợi chờ ǵ ở những người nầy, khi họ vẫn không lay chuyển trước câu trả lời:

“ Quí vị hăy trả lời cho chúng tôi: Có hay chăng hiện tượng giải phóng người một nước ra khỏi cộng đồng dân tộc đó? Có hiện tượng “giải phóng” nào để giải thích trường hợp của 300.000 người đi “giải phóng” trở thành hồi chánh viên, người dân các xă “giải phóng” ở Lộc Ninh, Darkto, Gio Linh, Đông Hà cố vượt qua biên giới sống và chết để thoát ra nơi “giải phóng”...

Nhưng luận lư trả lời đă bất nhẫn đến độ cụ thể như thế, thế nên tôi cũng chẳng có hy vọng thay đổi ǵ nơi họ. Nơi huấn luyện đă thay thế bản năng, nơi học tập đă thay đổi cho tư duy, nơi chỉ thị đă bao trùm lên mọi lối nhỏ của hệ thần kinh. Đợi chờ ǵ ở những người hơn ba mươi tuổi đảng này?!! Càng hợp lư hơn khi nh́n lại những sợi tóc bạc trắng, sau ba mươi năm trong tập thể “vô sản cách mạng”; họ đă là ủy viên với quân hàm Trung, Thượng Tá, họ đă là thủ trưởng có quyền hạn của cấp ủy trung ương mặt trận; dứt ra khỏi vùng “đất hứa” này họ sẽ là ǵ? Họ c̣n được ǵ nếu không hiện nguyên h́nh một cựu giáo viên tiểu học, thứ thầy đồ “raté” bị loại khỏi đời sống đă ầm ầm tiến những bước vượt ngoài ư niệm. Tưởng tượng cảnh Bùi Thiệp trở về làng xưa ở B́nh Định với một túi vải kaki mang ở vai, đôi dép râu đế vỏ xe hơi dưới chân, nếu không có quân hàm trên vai với chút uy quyền tội nghiệp, Thiệp sẽ c̣n là ǵ trước làng xưa tiêu tán, không gia đ́nh, không vợ con, chỉ có chiếc bóng ngă dài trên đất vàng khô le lói chút nắng cuối ngày. Không có quê hương “vô sản cách mạng” với quân hàm trung tá đó Thiệp c̣n là ǵ trước sự thật tàn nhẫn như hư không này? Thiệp không c̣n ǵ, quả thật vậy. Chỉ c̣n những sợi tóc trắng chảy mềm trong kẻ tay.

Tháng 4-1973

 

 

>>Đi Bắc Về Nam

 


 


 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: