MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record vCBO
v US Gov vCongressional Record vPBS
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vReuter vAP vWorld Tribune
v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
v MediaMattersvSourceIntelvNewsupvIntelnews
v GlobalSecvGlobalIntelvEnergyv
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation vVeteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian vPolitical Insider vLaw vMedia
v RamussenvWikileaksvFederalist
v The Online Books vBreibart vInterceipt
v AmericanFreePress vPoliticoMagvAtlantic
v National Public Radio vForeignTrade vSlate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng
v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn
v Việt Thức v Việt List v Việt Mỹ v Xây Dựng
v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta v Eurasia
v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ
v Người Việt Seatle v Cali Today v
v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương
v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong
v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới
v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm
v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
http://archive.org/stream/causesoriginsles00unit#page/280/mode/2up
http://openlibrary.org/books/OL23285197M/Causes_origins_and_lessons_of_the_Vietnam_War.
OSS và Hồ Chí Minh -
Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật
Tác giả : Dixee R. Bartholomew - Feis
Dịch giả : Lương Lê Giang
Lời nói đầu
Năm 1995, là năm Mỹ b́nh thường hoá quan hệ với Việt Nam. Cùng năm đó, tôi viết lời giới thiệu và đứng tên để xuất bản cuốn "Tại sao Việt Nam" (Why Vietnam?) của A. Patti.
Cuốn sách được xuất bản tại Mỹ 10 năm trước đó (1985). Tác giả của cuốn sách là người chỉ huy cao nhất của tổ chức t́nh báo chiến lược OSS (tiền thân của CIA) đă có mặt ở Việt Nam khi Cách mạng tháng Tám 1945 vừa thành công.
Nội dung cuốn sách là câu trả lời lấy từ tứ thơ của một bài ca cổ Ái Nhĩ Lan về câu chuyện gă thuỷ thủ già nỡ bắn chết con chim báo băo. Con chim báo băo chính là những kư ức lịch sử về một thời kỳ Mỹ và Hồ Chí Minh từng là đồng minh chống phát xít. Chim báo băo chết, tất nhiên con tàu của gă thuỷ thủ già bị lạc vào giông băo.
Cũng năm ấy, đoàn các cựu chiến binh của nhóm OSS cộng tác với Hồ Chí Minh đến thăm Hà Nội và gặp lại những người đồng minh từ nửa thế kỷ trước. Tôi may mắn được tham dự và chứng kiến và chợt nhận ra rằng trong lịch sử cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, lực lượng nước ngoài duy nhất đứng bên cạnh Hồ Chí Minh chỉ có… Hoa Kỳ! Năm 1997, tôi lại may mắn được tháp tùng các cụ Việt Minh sang tận New York để gặp các cụ OSS hàn huyên cho giới sử học nhiều nước cùng nghe để làm sâu sắc hơn cái kư ức đă có thời bị quên lăng ấy. Nhiều nội dung các câu chuyện kể được phản ánh trong cuốn sách này.
Có hẳn một đêm "tŕnh diễn" tại “Nhà châu Á" ở New York. Hai nhóm các cụ OSS và Việt Minh gặp nhau cùng kể lại chuyện cũ cho một cử toạ, ngoài quan khách của hai bên, số đông là những nhân viên CIA đến dự có phần v́ ṭ ṃ trước câu chuyện hợp tác giữa hai bên mà trong kư ức thế hệ của họ chỉ thấy sự thù địch trong một cuộc chiến vô cùng khốc liệt.
Cụ Charles Fenn là người cao tuổi nhất trong nhóm OSS, năm đó đă xấp xỉ 90 đi cùng một cô bạn gái rất trẻ. Cụ ít nói, chỉ quan sát. Cụ là người đầu tiên trong đơn vị gặp Hồ Chí Minh; sau này cũng lại là người đầu tiên từ nước Mỹ viết cuốn tiểu sử đầu tiên bằng Anh ngữ và bị trục xuất v́ việc làm ấy…
Trước khi chia tay, Cụ gọi tôi và một anh bạn cùng đoàn chỉ để nói một điều tâm đắc nhất: "Mỹ không có bạn, Mỹ chỉ có đồng minh. Cụ Hồ của các bạn biết Mỹ nên hợp tác được với Mỹ". Tôi hỏi: Vậy th́ Đồng minh là thế nào? Cụ trả lời: Cùng có lợi!
Cũng trong hai năm 1995 và 1997 tôi lại may mắn có mặt trong cả hai cuộc gặp giữa Cựu Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ Mc Namarra và Đại tướng Vơ Nguyên Giáp đều diễn ra ở Hà Nội.
Cả hai lần ông khách Mỹ chỉ chốt vào một câu hỏi: "Liệu có cơ hội nào bị bỏ lỡ hay không khiến hai quốc gia không thiết lập được sự hợp tác mà quay sang đánh nhau?". Th́ cũng cả hai lần vị lăo tướng của chúng ta đưa về một nguyên lư: "Việt Nam là nước nhỏ, chỉ mong hoà b́nh hợp tác với thiên hạ. Chúng ta đă từng hợp tác cho đến khi chính lợi ích của nước lớn đă khiến Mỹ chọn con đường khác".
Năm 1998. Tôi lại may mắn có mặt tại nhà riêng của Đại tướng Vơ Nguyên Giáp trong cuộc gặp con trai của cố Tổng thống Mỹ J.F. Kennedy. Năm ấy, giữa hai người tuổi cách nhau tṛn nửa thế kỷ, vị Đại tướng 88 tuổi nói với vị khách Mỹ 38 tuổi rằng: thế hệ các bạn chỉ biết lịch sử mối quan hệ Việt-Mỹ là một cuộc chiến tranh tàn khốc và đầy thù hận kéo dài 30 năm, nhưng nên nhớ rằng trước đó đă có những trang sử của quan hệ tốt đẹp và của tinh thần hợp tác. Tương lai các bạn trẻ cả hai nước phải viết tiếp những trang sử tốt đẹp ấy.
Đại tướng chỉ vào những tấm ảnh chụp cùng Bác Hồ tiếp các bạn Mỹ trong những ngày Đất nước độc lập đầu tiên làm bằng chứng.
Năm 2005. Tôi lại may mắn được tháp tùng vị Thủ tướng Việt Nam đầu tiên đi thăm nước Mỹ. Ở chặng đầu tiên, thành phố Seattle, có một người ra đón và tiếp kiến đầu tiên Thủ tướng của chúng ta lại chính là một cựu chiến binh OSS đă từng rất gần gũi với Bác Hồ. Đó là cụ Mac Shin người báo vụ viên được OSS cử đi theo nhà lănh đạo Việt Minh về chiến khu Việt Bắc sớm nhất.
Rồi ở chặng cuối, thành phố Boston, ông chủ tập đoàn LDG chủ tŕ cuộc đón tiếp đă giương cao tấm bích chương vẽ cách cứu phi công Mỹ có in lá cờ hoa và cờ đỏ sao vàng và nói lớn với cử toạ rằng: cách đây 60 năm chúng ta đă từng hợp tác chống phát xít th́ giờ đây tại sao chúng ta không hợp tác để làm giàu cho hai quốc gia?
C̣n ông cựu thượng nghị sĩ MacGovern nổi tiếng đại điện cử tri bang Massachusetts, đă từng ra tranh cử tổng thống với R. Nixon th́ phát biểu rằng sở đĩ cương lĩnh tranh cử của ông là chống cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam bởi lẽ trong Đại chiến thế giới lần thứ Hai ông là một phi công ném bom ở vùng Đông Nam Á. Do vậy ông biết Hồ Chí Minh từng tổ chức cứu phi công Mỹ bị Nhật bắn rơi, do vậy không thể làm một cuộc chiến tranh với những người như Hồ Chí Minh. Ông nói thêm rằng, cuộc tranh cử ấy ông đă thất bại, nhưng giờ đây lịch sử chứng minh rằng những cử tri của thành phố Boston và của bang Massachusetts là những cử tri ưu tú nhất v́ lịch sử chứng minh rằng rốt cuộc hai dân tộc chúng ta đă hoà b́nh hợp tác với nhau.
Năm 2006. Tôi lại có may mắn tham gia vào thành phần Việt Nam trong cuộc tiếp xúc giữa Quốc hội hai nước, nhân phái đoàn do Chủ tịch Hạ viện Mỹ sang thăm Hà Nội. Trong phát biểu chào mừng buổi sáng cũng như mở đầu tiệc chiêu đăi buổi tối, ông Chủ tịch Quốc hội Việt giam nhắc lại một lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1946 rằng: "Việt Nam chủ trương hoàn toàn độc lập và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ", và khẳng định rằng đó cũng là thông điệp của Việt Nam "ngày hôm nay". Và bữa tiệc chiêu dăi này hiểu theo nghĩa nào đó đă được dọn sẵn từ 60 năm trước!…
Tất cả những ǵ chứa đựng trong những sự kiện trên có thể t́m thấy trong cuốn sách đang có trên tay của các bạn - bản dịch "OSS và Hồ Chí Minh - đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật". Đây là một công tŕnh nghiên cứu được coi là hoàn chỉnh nhất về lịch sử quan hệ Việt-Mỹ trong thời kỳ đại chiến Thế giới lần thứ Hai, cũng là một thời đoạn quan trọng trong tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lịch sử cuộc Cách mạng tháng Tám 1945. Nó sẽ rất bổ ích cho những ai đang chứng kiến những tiến triến quan trọng trong quan hệ Việt-Mỹ ngày hôm nay gắn liền với tiến tŕnh hội nhập và không ngừng Đổi mới của dân tộc Việt Nam.
7.2007
Dương Trung Quốc
Lời giới thiệu
Những vụ nổ làm rung chuyển Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 đă dẫn đến những thay đổi to lớn trên toàn thế giới. Cuộc tấn công của Nhật Bản đă kéo nước Mỹ vào ṿng chiến bên cạnh Anh, Liên Xô và Trung quốc trong nỗ lực đánh bại thế lực quân sự Đức, Italia và Nhật Bản. Khi chiến tranh lan rộng ra khắp các mặt trận châu Âu và Thái B́nh Dương, rất ít quốc gia tránh được sự tàn phá về kinh tế, quân sự chính trị và xă hội của thảm hoạ này.
Chiến tranh cũng hoà giải các dân tộc và quốc gia có đường hoàng ít nhiều đối nghịch nhau trong thời b́nh. Một mối quan hệ "bất ngờ" như vậy đă xuất hiện giữa người Mỹ và người Việt Nam (lúc đó được biết đến với cái tên An Nam hay Đông Dương). Người Việt Nam sống ṃn mỏi dưới ách thống trị thực dân nhiều thập kỷ ở Đông Nam Á như một phần Đông Dương thuộc Pháp bao gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Campuchia.
Các mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ c̣n có nhiều thăng trầm, và cuối cùng đẫn đến một cuộc chiến tranh khác gần 20 năm sau. Nhưng vào năm 1941, không có người Mỹ và người Việt Nam nào dự cảm dược tương lai này. Trên thực tế, khi người Mỹ c̣n đang choáng váng v́ cuộc tấn công Trân Châu Cảng và mới chỉ bắt đầu sẵn sàng cho cuộc chiến lâu dài phía trước, th́ một số người Việt Nam đă phân tích việc nước Mỹ tham chiến có thể có ư nghĩa đối với họ và với cuộc đấu tranh v́ tự do, thoát khỏi ách thực dân của họ: "Chúng ta phải ngăn ngừa ảo tưởng rằng Tưởng Giới Thạch và quân Anh - Mỹ sẽ mang lại tự do cho chúng ta", Tổng bí thư Đảng cộng sản Đông Dương Trường Chinh lên tiếng cảnh báo. "Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của chúng ta", ông nói tiếp, "rơ ràng chúng ta phải t́m kiếm các đồng minh - cho dù họ chỉ là nhất thời, dao động, hay có điều kiện - nhưng cuộc đấu tranh này phải là thành quả của những nỗ lực của chính chúng ta". Là một người cộng sản cứng rắn, hẳn ông sẽ hết sức ngạc nhiên khi biết rằng một trong những nhà tư bản nổi bật nhất ở Mỹ, luật sư triệu phú William J. Donovan, người sau đó đứng đầu một tổ chức sẽ đóng vai tṛ quan trọng trong việc "giới thiệu" hai quốc gia, cũng đồng chia sẻ triết lư tranh thủ các đồng minh.
Donovan, giám đốc Cơ quan T́nh báo Chiến lược (OSS), một cơ quan thời chiến trong quân đội Mỹ thực thi các chiến dịch t́nh báo và phản gián, c̣n nhận ra sự cần thiết sử dụng đồng minh trên diện rộng - dù là "nhất thời, dao động, hay có điều kiện". Mặc dù chính ông chống đối chủ nghĩa cộng sản, nhưng trong suốt cuộc chiến, OSS của Donovan đă sát cánh cùng tổ chức bí mật của những người cộng sản trên khắp châu Âu. "OSS không phải là một tổ chức hoạch định chính sách, Donovan nhiều lần nhấn mạnh, và với nước Nga là một đồng minh cùng tham chiến, nhiệm vụ của ông là hợp tác trong mục tiêu chung - đánh bại phe Trục trong thời gian ngắn nhất có thể!". Những suy xét tương tự được các đặc vụ của Donovan tuân thủ triệt để khi hoạt động vời những người cộng sản ở châu Á, v́ đôi khi họ là những người hiểu rơ nhất t́nh h́nh chính trị và quân sự trong khu vực.
Nói một cách đơn giản, sứ mạng của OSS tại châu Á là nhằm đánh bại phát xít Nhật và chấm dứt sự áp bức tàn bạo của Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Và điều đó có nghĩa là, cần phải có sự hiện diện của t́nh báo quân đội Mỹ tại Việt Nam lúc đó đang bị Nhật Bản chiếm đóng, một khu vực nằm ngoài những quan tâm của Mỹ thời kỳ trước chiến tranh nhưng lại đặc biệt quan trọng bởi nằm kề cả Trung Quốc và đảo quốc Nhật Bản.
Do đó các nhân viên OSS buộc phải tuyển mộ đặc t́nh, sau đó là các nhóm vũ trang quân sự dưới sự bảo trợ của OSS rồi phái họ trở lại khu vực này. V́ vậy dường lối của hai dân tộc gặp nhau trong một thời khắc ngắn ngủi - một thời khắc vừa nguy hiểm lại vừa đầy hứa hẹn đối với tương lai của cả hai nước.
Trong ba năm tồn tại ngắn ngủi của ḿnh, tổ chức OSS đă tham gia nhiều chiến dịch và hoạt động t́nh báo bí mật, đă tuyển mộ cả nam lẫn nữ phù hợp với những nhiệm vụ của nó. Edmond Taylor, một cựu thành viên của OSS, đă bày tỏ quan điểm của ḿnh về nhân tố căn bản đằng sau tổ chức này: "Tôi nghĩ Donovan đă hy vọng chứng minh qua OSS rằng, như thường lệ nguồn dự trữ chưa được khai thác của ḷng dũng cảm của con người, tài nguyên và tính năng động của ư chí cá nhân sẽ tạo thành tiền đề của chiến thắng. V́ rằng, trong một thế giới ngày càng được cơ giới hoá, nhân cách vẫn không chỉ là phẩm chất đạo đức mà c̣n là giá trị chiến lược". Có thể sự có mặt của chính những con người như thế trên lănh thổ Việt Nam khiến cho t́nh thế mà họ đổi đầu trở nên quá phức tạp và, đôi khi quá nhiễu loạn đối với họ. V́ những người Mỹ ấy không chỉ chứng kiến sự tàn bạo của quân Nhật mà c̣n dối mặt với thực tế ảm đạm của chủ nghĩa thực dân Pháp từ viễn cảnh Việt Nam.
Có thể thực tế này đă được tổng kết đầy đủ nhất trong một bài ca Việt Nam nổi tiếng hồi những năm 30: "Đại hoạ thay v́ quyền hành bị quân xâm lược Pháp - những kẻ vốn có dă tâm tàn bạo, cướp đoạt. Vô sỉ thay khi bày mâm ra người ta chẳng có ǵ để ăn ngoài rễ cây và lá; khốn khổ thay khi cầm đũa lên rồi buông tiếng thở dài v́ thiếu muối".
Sự mô tả điều kiện thảm khốc và tương lai ảm đạm của hầu hết nông dân ở nông thôn Việt Nam này rơ ràng tố cáo người Pháp - "những kẻ xâm lược man rợ". Thật vậy, hầu hết người Việt Nam nhận được quá ít nhưng lại đau khổ quá nhiều dưới ách thống trị thực dân 50 năm tính đến thời điểm đó. Trong khi người Pháp tâng bốc những thành quả của sứ mạng khai hoá th́ t́nh cảnh của nông dân càng trở nên tồi tệ hơn.
Tuy nhiên, người Pháp, tầng lớp chóp bu người Việt và người Hoa - những kẻ hợp tác với Pháp - được hưởng những thành quả lao động của người nông dân. Những báo cáo của người Việt thời kỳ này như đất đỏ, hồi kư của Trần Tử B́nh và Trần Văn Mai có nhan đề Hồi ức của một người Việt Nam về cuộc sống tại đồn điền cao su thuộc địa. Ai gây ra tội ác này? đă làm sáng tỏ điều bài ca khẳng định rằng ách thống trị của Pháp rất hà khắc và rằng trung nông chịu nhiều đau khổ dưới ách thực dân. Nếu là người Pháp th́ Nam Kỳ nói chung và Sài G̣n nói riêng thoả măn h́nh ảnh ám chỉ danh hiệu "Ḥn ngọc Viễn Đông". Nhưng có rất ít người Việt Nam được đắm ḿnh trong vẻ đẹp lộng lẫy của ḥn ngọc thuộc Pháp này.
Từ gốc rễ của nỗi thất vọng như vậy, các nhà lănh đạo và phong trào đ̣i độc lập Việt Nam nổi lên. Có rất nhiều đối thủ với đủ trào lưu tư tưởng tranh đua lănh đạo quần chúng bất măn, kể cả những người theo chủ nghĩa quân chủ thân Nhật, Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ), các nhóm Mác xít cách mạng, nổi bật nhất là Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) - chính đảng nắm quyền điều khiển Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (c̣n gọi là Việt Minh), và những nhóm Trotskit ít tiếng tăm hơn. Tất cả đều cố gắng củng cố sức mạnh đối với quan điểm chống Pháp đang lan tràn khắp nơi. Cuối cùng, sau khi loại bỏ Quốc dân Đảng và kết nạp nhiều đối thủ của ḿnh vào hàng ngũ Việt Minh, những người cộng sản đă chiếm ưu thế. Đến năm 1945 Việt Minh bắt đầu thu hút được một số lượng thành viên lớn chưa từng có và rơ ràng đă trở thành lực lượng nổi bật nhất trong các nhóm người Việt đấu tranh giành chính quyền và độc lập. Lúc đó, Việt Minh chủ yếu được nh́n nhận như phong trào chống thực dân, ủng hộ độc lập và có lẽ cả dân tộc chủ nghĩa chứ không như tổ chức cộng sản. Thực tế là lúc đó có rất ít người Việt Nam hiểu chủ nghĩa cộng sản đại diện cho cái ǵ, nhưng hầu hết đều đau đớn nhận thức được chủ nghĩa thực dân Pháp là ǵ trong cuộc sống của họ.
Đến cuối năm 1945, Việt Minh dường như đă hiểu rơ hơn bất kỳ chính đảng nào khác cách sử dụng khát vọng mănh liệt của hầu hết người Việt vào mục đích lật đổ ách thực dân của ḿnh. Nhà sử học Huỳnh Kim Khánh biện luận rằng bí quyết để Việt Minh đứng lên nắm quyền là "kỹ năng phân tích t́nh thế cách mạng, tổ chức, tuyên truyền, và khả năng lănh đạo không nghi ngờ ǵ nữa, cực giỏi đối với tất cả, không có ngoại trừ các đảng phái chính trị Việt Nam". Tuy nhiên, ông Khánh cũng chỉ ra rằng, "những kỹ năng này đă không đem lại kết quả nếu không có thời cơ cách mạng thuận lợi". Một trong số những người đầu tiên hiểu được "thời cơ cách mạng thuận lợi" đến cuối chiến tranh sẽ nổi lên thành nhà lănh đạo Việt Minh và rồi cuối cùng trở thành người Việt Nam được đánh giá cao nhất trên thế giới.
Sinh năm 1890 tại Nghệ An, một tỉnh có truyền thống cách mạng, phần lớn thời trai trẻ Hồ Chí Minh bôn ba năm châu bốn biển, phải làm đủ nghề lặt vặt và thử nghiệm một loạt triết lư chính trị. Ngay sau khi Chiến tranh thế giới 1 kết thúc, ông, lúc đó có tên Nguyễn Ái Quốc, đi đến kết luận rằng chủ nghĩa cộng sản đă đưa ra những luận cứ rơ ràng nhất chống lại chế độ thuộc địa và một viễn cảnh sáng sủa nhất cho công cuộc thống nhất và điều hành một nước Việt Nam độc lập. Là một nhà văn có bút lực đầy thuyết phục và là một nhà ái quốc mạnh mẽ, ông đă sống phần lớn những năm đầu của cuộc đời hoạt động ở nước ngoài và đă trở về Việt Nam thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới 2 - thời điểm thích hợp nhất trong lịch sử Việt Nam.
Chiến tranh thế giới 2 đă gắn kết nhiều tầng lớp xă hội, tạo ra thời cơ vàng cho Hồ Chí Minh và Việt Minh. Năm năm chiếm đóng Ḥn ngọc Viễn Đông thuộc Pháp của Nhật Bản đă làm cho cảnh bần cùng của đại bộ phận người dân Việt Nam trở nên tồi tệ hơn, và cơ bản làm suy yếu vị thế của Pháp trong mắt của cả những kẻ thực dân bị quản chế và Đồng Minh. Ngoài khả năng bảo vệ lập trường chống thực dân, Việt Minh c̣n có thể yêu cầu hợp tác với Đồng Minh trong cuộc chiến chống Nhật Bản. Mặc dù các hoạt động chống Nhật của Việt Minh chỉ nhỉnh hơn hoạt động quấy rối đối với quân đội Thiên Hoàng, nhưng lại có tác dụng tuyên truyền tuyệt vời đối với phong trào. Hơn nữa, Việt Minh đă hưởng nhiều thuận lợi từ cuộc đảo chính của quân Nhật diễn ra vào tháng 3 năm 1945, cuộc đảo chính đă chấm dứt một cách hiệu quả ách thực dân Pháp trong một thời gian ngắn, sau đó là thất bại của Nhật, tạo ra một khoảng trống quyền lực mà Hồ Chí Minh và Việt Minh tiến vào.
Các binh sĩ Mỹ thuộc lực lượng OSS cũng gặp phải, (đôi khi theo đúng nghĩa đen), t́nh huống chiến tranh này. Như một phần sứ mạng của họ, những người được chọn vào OSS thường hoạt động bí mật với nhiều nhóm kháng chiến ở châu Âu và Thái B́nh Dương. Trong Chiến tranh thế giới 2, quyết định hoạt động với nhiều nhóm như vậy đă bị nghi ngờ. Đặc biệt là sự cộng tác ngắn ngủi giữa OSS và Việt Minh đă trở thành chủ đề tranh luận lớn, nhất là sau sự dính líu không thích hợp của Mỹ vào Việt Nam từ năm 1965 đến 1975. Những bất đồng về việc liệu Hồ Chí Minh có trở thành một "Tito châu Á" hay đứng về phe Liên Xô hay không đă thu hút sự chú ư của nhiều học giả. Những ư kiến tranh luận này thậm chí đă xuất hiện trong các thành viên OSS, những người biết Hồ Chí Minh từ những năm 1940. Một cựu đặc vụ của OSS cho rằng Hồ Chí Minh "hoàn toàn cứng rắn". Ông ta bổ sung thêm, "Tôi không tin rằng có cách thức nào đó để bàn bạc với ông ấy". Một người khác lại mô tả t́nh h́nh có phần hơi khác:
"Bạn phải xét đoán ai đó trên cơ sở những ǵ người đó muốn. Hồ Chí Minh không thể là người Pháp, và ông biết ông có thể chống Pháp trong những giới hạn của ḿnh. Ông e ngại Trung Hoa và ông không thể bàn bạc với họ bởi họ sẽ đ̣i cho đủ mới thôi. Quá xa xôi, Moskva thích hợp cho việc phá cầu nhưng lại không thật thích hợp để xây chúng lại. Nếu không có chiên tranh, tất nhiên Hồ Chí Miịnh không thể có cơ hội chống lại thực dân Pháp. Nhưng lúc này ông đă lên yên cho dù không rơ con ngựa ông đang cưỡi là ǵ. Lúc đó chắc chắn ông đang giúp chúng ta. Chúng ta và người Pháp có thể giúp ông trong tương lai. Tôi nghĩ ông đă sẵn sàng giữ thái độ thân thương Tây".
Tuy nhiên nếu quả thực trong những năm cuối chiến tranh các thành viên OSS ở Việt Nam hiểu hết vấn đề th́ họ đă thấy những ư kiến như vậy hầu hết đều không ăn nhập. Giống như các cơ quan thời chiến, OSS quan tâm đến việc giành thắng lợi và t́m kiếm đồng minh trợ giúp cho sứ mạng đó - bao gồm những người cộng sản và các nhóm dân tộc chủ nghĩa bản xứ đủ loại thành phần c̣n ít được biết đến. Và cho dù giám đốc OSS và nhà lănh đạo Việt Minh không thể gặp nhau th́ một số điểm tương đồng giữa hai người và những triết lư của họ đă khai sáng mối quan hệ giữa các thuộc cấp của William Donovan và Hồ Chí Minh.
Giống như Donovan, Hồ Chí Minh tin giá trị nội tại của "những nguồn dự trữ ḷng can đảm của con người cùng tài nguyên chưa được khai thác", và tầm quan trọng của phẩm giá con người là yếu tố chiến lược giành thắng lời. Cả hai ông đă nhận ra tài năng, trí tuệ và phẩm chất khó diễn tả nhưng cần thiết mà nhà sử học Robin Winks gọi là "phẩm chất tiên quyết”, ở những người khác. Hai ông cũng hiểu cần phải uỷ quyền cho những người có "phẩm chất tiên quyết" để thúc đẩy trao đổi, cho dù là để mở rộng sự tham gia vào Việt Minh và giải phóng Việt Nam khỏi ách cai trị của Pháp hay, trong trường hợp của Mỹ, để thu thập trên diện rộng tin tức t́nh báo cho việc đánh bại Nhật Bản và giải phóng các dân tộc dang sống dưới ách chiếm đóng tàn bạo của chúng.
Thoạt tiên, cả Hồ Chí Minh và Donovan tuyển mộ một số lượng lớn các học giả vào tổ chức của ḿnh, đặc biệt là Hồ Chí Minh trong việc thành lập Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội giữa những năm 1920 và Donovan trong Ban nghiên cứu và phân tích quan trọng bậc nhất của OSS. Theo ḍng thời gian, tổ chức của cả hai ông đều mở rộng, thu hút một lượng lớn thành viên thuộc mọi tầng lớp xă hội.
Bất chấp những thành tựu giáo dục nhân viên đặc vụ, cả Hồ Chí Minh và Donovan đều tin tưởng cao độ vào cộng sự cũng như vào chính bản thân ḿnh, bởi tin rằng những người chiến đấu sát cánh bên họ phải "can đảm, dũng cảm và kiên tŕ", và phải đặt nhu cầu của họ phụ thuộc vào đ̣i hỏi của đại nghĩa. Đối mặt với những tiêu chuẩn cao như vậy, hên cho cả Việt Minh và OSS là thủ lĩnh của họ may mắn có những phẩm chất thu hút quần chúng - cái làm cho họ trở nên nổi tiếng. Cả hai được xem là những người lịch thiệp và khó bị chọc giận, có sức thuyết phục và có đầu óc cởi mở, và trên hết không thể phủ nhận họ có tinh thần ái quốc cùng quyết tâm sắt đá phụng sừ những nhu cầu cơ bản của dết nước ḿnh. Và không nghi ngờ ǵ nữa, Hồ Chí Minh hẳn đă đồng ư với tuyên bố của Donovan vào năm 1941 rằng "Có một sức mạnh tinh thần trong chiến tranh, rằng về lâu về dài nó sẽ mạnh hơn bất kỳ cỗ máy nào". Hồ Chí Minh mong đợi chiến thắng cuối cùng - giành độc lập từ tay Pháp - trong khi Donovan quan tâm đến mục tiêu nhanh chóng đánh bại phe Trục hơn. Nhưng cả hai ông đều tin rằng họ tiến hành một cuộc chiến hợp đạo lư và chính nghĩa và rằng cuối cùng họ sẽ chiến thắng.
Tất nhiên, người của Donovan tin họ đang tham gia vào một cuộc chiến chính nghĩa để giải phóng thế giới khỏi móng vuốt của phát xít Đức và quân phiệt Nhật. Nhưng chiến tranh kết thúc phần lớn họ thường muốn về nhà. Tuy nhiên, với các đặc t́nh của OSS ở Đông Dương thuộc Pháp, nhiệm vụ của họ vẫn chưa kết thúc ngay cả sau khi Nhật thất trận: họ c̣n phải chuẩn bị cho sự đầu hàng chính thức và hồi hương của quân Nhật và truy lùng những tội phạm chiến tranh. Để thực hiện những mục tiêu của ḿnh, quân Mỹ trên bộ cần phải hợp tác với người Việt Nam, người Pháp, Anh và Trung Quốc; và họ thấy sứ mạng của ḿnh bị cản trở nghiêm trọng bởi những mục đích và lư tường thường trái ngược của các phe nhóm.
Hơn nữa, có lẽ nghĩ rằng ḿnh không thiên vị, nhiều người Mỹ trẻ tuổi đă dốc ḷng cho chủ nghĩa lư tưởng dẫn họ đến kết luận, đặc biệt là sau khi đă chứng kiến điều kiện sống ở Việt Nam, rằng chủ nghĩa thực dân Pháp cũng nên bị cáo chung cùng cuộc chiến. Nhiều thành viên OSS tin họ đang hành động theo ước nguyện của Tổng thống Franklin Roosevelt vốn được biết là có quan điểm chống chủ nghĩa thực dân Pháp và thậm chí c̣n đi xa đến mức đề cập một cách rơ ràng đến t́nh h́nh Đông Dương. Ngoài ra, tài hùng biện của ông trong suốt cuộc chiến và những tuyên bố chính thức của ông, như Tuyên bố Đại Tây Dương, chỉ làm tăng thêm nhận thức này. Mặc dù tất cả đều cảm thấy có lư do chính đáng để đồng cảm với người Việt Nam, nhưng nhiều thành viên OSS tại Việt Nam đă trở thành mục tiêu chỉ trích gay gắt, nhất là từ phía thực dân Pháp. Những lợi ích và lối sống mà người Pháp có được, đặc biệt là ở Sài G̣n và miền Nam, đă khiến họ không sẵn ḷng thay đổi đường hướng và ḷng căm ghét của ḿnh đối với những đề xuất rằng họ nên từ bỏ quyền kiểm soát Ḥn ngọc Viễn Đông. Đại diện Pháp tại Hà Nội Jean Sainteny đă đặc biệt thẳng thắn trong những chỉ trích OSS của ḿnh khi mô tả những người phục vụ tại Việt Nam năm 1945 là "hoàn toàn chẳng biết mô tê ǵ" về t́nh h́nh Đông Dương và thực ra là t́nh h́nh của toàn châu Á.
Theo quan điểm của ông ta, những người đó đă tin tưởng một cách ngây thơ rằng họ ủng hộ khái niệm chống thực dân, nhưng thay vào đó, họ lại đang tham dự cả vào tṛ chơi "chống người da trắng" của người Nhật Bản, và Việt Nam và dọn đường để Việt Nam làm mồi cho "chủ nghĩa cộng sản châu Á". Dẫu vậy quan điểm của những người làm việc cho OSS năm 1945 không đổi mầu bởi lối nói khoa trương của chiến tranh lạnh chưa xảy ra cho đến thời điểm ấy. Thay vào đó họ đánh giá t́nh h́nh như đă chứng kiến trên thực địa vào năm 1945. Dựa vào đánh giá kinh nghiệm trong suốt ba mươi năm của ḿnh ở Đông Dương trước chiến tranh cũng như những trải nghiệm trong cuộc chiến, sĩ quan OSS Austin Glass hẳn là không đồng ư với Sainteny. Tháng 7 năm 1945, ông viết báo cáo cuối cùng của ḿnh cho OSS:
"Tôi không tin ngườí Pháp từng hiểu được tâm tính của người Việt Nam bởi đa số họ quá tự cao tự đại và tham lam để có thể hiểu được nguyện vọng của dân tộc khác. Quyền tự do họ đă tuyên bố cho ḿnh lại bị từ chối đối với dân tộc khác. Họ nói quá nhiều về "phẩm giá" Pháp, nhưng lại thường xuyên nhẫn tâm chà đạp nhân quyền và phẩm giá những dân tộc bị họ nô dịch. Minh chứng cho điều đó là t́nh cảnh bán nô lệ của cu li đồn điền, việc cưỡng bức nông dân đào kênh mương, mở đường… hay tuyển mộ họ vào đội quân bản xứ để lao động khổ sai. Gần đây, mưu toan thống trị Syria của người Pháp đă làm thế giới kính hoàng - nhưng đó là những ǵ họ đă và đang làm ở Đông Dương gần 100 năm nay".
Giống như Glass, nhiều thành viên khác của OSS đă nói hoặc viết về những lo ngại của họ trước sự phục hồi chế độ cai trị của Pháp tại Đông Dương. Các báo cáo của họ đă được đọc, được đệ tŕnh và bị lăng quên, bởi lúc đó, "người Đông Dương" về mặt chính trị không mấy quan trọng đối với Mỹ.
Khi những tranh căi về sự dính líu của Mỹ tại Việt Nam nổi lên, đặc biệt là trong thập niên 60 và 70, một số chính khách và nhà báo đă lật lại những báo cáo của OSS và các nhân viên đă phục vụ cơ quan này. Nhưng đến lúc đó, "hoạt động t́nh báo" vẫn c̣n mờ nhạt. Đầu năm 1946, William Donovan thuyết phục cử toạ chiếu cố đến công tác của các đặc vụ của ông và những dính líu của nó đối với tương lai: "Có nhiều thanh niên nam nữ - những người mà ḷng yêu nước và kỹ năng đặc biệt trong loại h́nh công tác t́nh báo này đă được thử thách và rèn luyện trong chiến tranh - đang thiết tha được tuyển dụng. Giá như chính phủ của chúng ta đủ khôn ngoan để sử dụng họ". Tuyên bố cuối cùng dường như làm cho đôi mắt xanh của ông bốc lửa và cử toạ thời hậu chiến có lẽ đă hiểu hầu hết những ǵ ông nói: "Những thanh niên nam nữ này có thể là cứu tinh của hoà b́nh".
Liệu tuyên bố của ông có đúng với t́nh h́nh Việt Nam hay không không nằm trong phạm vi của tác phẩm này. Tuy nhiên, những hoạt động và phối hợp của các thành viên OSS trên bộ, của các cá nhân và các nhóm mà họ cùng làm việc chỉ rơ tầm quan trọng của thời gian, địa điểm và con người, nói một cách khác là tầm quan trọng của những sự kiện ngẫu nhiên trong việc thấu hiểu mối quan hệ day dứt đă phát triển giữa Mỹ và Việt Nam. Chúng ta chỉ có thể suy đoán rằng, cuộc chiến tại khu vực này đă có thể được ngăn ngừa bởi sự sáng suốt của các điệp viên nếu họ được chú ư đến, và nếu như các ư kiến của họ không bị xếp xó.
OSS và Hồ Chí Minh -
Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật
Tác giả : Dixee R. Bartholomew - Feis
Dịch giả : Lương Lê Giang
Archinede Patti và Vơ Nguyên Giáp tại Hà Nội
Sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới 2 chỉ làm tăng khát vọng dính líu tích cực vào lĩnh vực quốc tế của Roosevelt. Mặc dù lúc đầu ông hy vọng tham gia vào cuộc chiến, nhưng hoàn cảnh đă ngăn cản ông đến với quân đội, và đo đó những bài học mà ông rút ra từ kỷ nguyên mới, từ những nỗ lực chấm dứt chiến tranh nhiều hơn là bản thân cuộc chiến. Theo dơi và lắng nghe tổng thống và phản ứng của công chúng khi Wilson kêu gọi chủ nghĩa lư tưởng Mỹ bằng Chương tŕnh 14 điểm, Roosevelt trở thành người ủng hộ chủ nghĩa thực dụng của Wilson. Được hoàn cảnh thuyết phục, Roosevelt hiểu rằng "một chính khách có tham vọng cùng những cam kết theo chủ nghĩa quốc tế lúc này không thể tiến lên cùng thành tích quân sự và các mỹ từ, mà người anh họ của ông trước đó đă sử dụng rất hiệu quả "Khẩu hiệu" dành cho công chúng thời hậu Chiến tranh thế giới I là "Giải trừ quân bị và hoà b́nh".
Mười năm sau đó, Roosevelt tiếp tục xây dựng danh tiếng chính trị của ḿnh: đặt cơ quan cao nhất của đất nước vào tầm ngắm của ông. Là một chính khách tốt, ông theo dơi sát sao tâm trạng của công chúng và đưa ư kiến của nhân dân vào những mục tiêu của chính sách đối ngoại của chính ông. Bằng cách đó, khi xuất hiện những vấn đề quốc tế trong quá tŕnh vận động tranh cử của Roosevelt, ông tập trung vào chủ nghĩa hoà b́nh - cái "Chế ngự suy nghĩ của công chúng ở bất cứ đâu", và ông tin đó là "chủ nghĩa hiện thực chính trị đơn giản hậu thuẫn cho nỗ lực quốc tế v́ hoà b́nh". Roosevelt hiểu toàn bộ khát vọng của người dân Mỹ là không muốn vướng vào những cuộc chiến của châu Âu vốn được cho là một phần của toà nhà đế quốc.
Ông viết: "Toàn bộ xu thế của thời đại đêu chống chiến tranh mở rộng thuộc địa".
Khi cuộc Đại suy thoái ập đến, Roosevelt tập trung vào những yếu kém của nền kinh tế Mỹ, và trong khi thừa nhận t́nh cảm của công chúng đối với việc tránh những dính líu quốc tế hao tiền tốn của, ông vẫn giữ thái độ im lặng đối với các vấn đề chính sách đối ngoại. Cái im lặng này trong nhiều trường hợp khiến mọi người lầm tưởng cảm giác thực của ông về sự phụ thuộc lẫn nhau cơ bản của các dân tộc, và làm xa lánh một số người có cảm tưởng rằng ông đă từ bỏ những quan điểm theo chủ nghĩa quốc tế của ḿnh.
Những chiến lược vận động tranh cử tập trung vào những rủi ro của quốc gia thay cho quốc tế của ông đă phát huy tác dụng và ông được bầu làm tổng thống năm 1932. Theo quy luật tất yếu, nhiệm kỳ đầu tiên ông tập trung vào chế ngự những vấn đề quốc nội khốc liệt của thời đại. Mặc dù có lẽ đă tiên liệu t́nh trạng rối loạn toàn cầu sắp đến, nhưng Roosevelt không thể hành động dựa vào những nghi ngờ của ông ngay cả khi chúng hiện hữu.
Trong số những dấu hiệu cảnh báo sớm về việc chiến tranh sắp nổ ra là cuộc xâm lăng của Nhật vào miền Bắc Trung Quốc. Bất kỳ ai t́m kiếm phát súng cảnh báo của Chiến tranh thế giới 2 đều không cần để ư xa hơn việc Nhật Bản chiếm Măn Châu bằng vũ lực năm 1931. Dù Roosevelt, giống như hầu hết các chính khách trên thế giới, chỉ trích Nhật Bản xâm lược và sau đó sát nhập Măn Châu, được người Nhật đổi tên thành Măn Châu quốc, nhưng ông không có ư định can dự vào cuộc tranh chấp xa xôi này.
Tuy nhiên ở đầu nhiệm kỳ thứ hai của ông (1936 - 1940), những hoạt động của Nhật Bản một lần nữa gây ra lo lắng. Năm 1937, khi chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, Roosevelt một lần nữa lên án những hoạt động quân sự của Nhật Bản nhưng không cố gắng ngăn chặn sức mạnh quân sự của Thiên Hoàng lúc này đă sẵn sàng giày xéo hầu hết những khu vực đông dân và sản xuất của Trung Quốc. Sự bất hành động của Roosevelt có thể thấy phổ biến trong tính thực dụng chính trị được điều khiển bởi những mối quan tâm trong nước v́ đương nhiên công chúng Mỹ không ủng hộ những hành động quân sự của Mỹ nhằm bảo vệ Trung Quốc - dẫu rằng hầu hết người Mỹ thông hiểu t́nh h́nh đều muốn Nhật bại trận.
Thiện cảm của Roosevelt rơ ràng c̣n dành cho người Trung Quốc. Nền tảng giáo dục mà ông sớm có được, ở nhà và tại trường, (nền tảng ấy nhấn mạnh nhu cầu tôn trọng sự toàn vẹn lănh thổ của Trung Quốc cũng như lợi ích thương mại của Mỹ trong khu vực) khát vọng thúc đẩy hoà b́nh quốc tế, và tất nhiên, mức độ lo lắng về những ǵ Nhật Bản có thể làm tiếp theo - tất cả đă thuyết phục ông giúp Trung Quốc nếu có thể, nhưng bằng những cách không gây đối kháng với cả Nhật Bản lẫn những người theo chủ nghĩa biệt lập Mỹ.
Số đông các quốc gia khác cũng theo dơi cuộc xung đột Trung - Nhật, nhưng các nước Tây Âu có những tài sản thuộc địa ở châu Á th́ đặc biệt lo lắng. Cả Anh và Pháp đều có lư do xác đáng để quan ngại. Đến đầu năm 1938, Hồng Kông thuộc Anh và Đông Dương thuộc Pháp là hai trong số những điểm c̣n lại mà từ đó các phương tiện chiến tranh có thể được chuyển vào Trung Quốc. Những nguồn tiếp tế này đặc biệt cần cho sự tồn tại của chính quyền Tưởng Giới Thạch, và Nhật Bản nhận thức rơ thực tế đó. Người Pháp đặc biệt lo ngại Nhật Bản có thể tấn công Bắc Kỳ, nơi những trang thiết bị có tầm quan trọng sống c̣n được vận chuyển bằng đường thuỷ đến Hải Pḥng và từ đó theo đường sắt đến Vân Nam hoặc Lạng Sơn rồi theo đường bộ vào trung tâm Trung Quốc.
V́ lư do đó, Toàn quyền Catroux đă "miễn cưỡng" cho phép vận chuyển đạn được cho Tưởng Giới Thạch qua ngả Hải pḥng "v́ sợ Nhật trả đũa". Đặc biệt, ông ta lo rằng Nhật Bản có thể ném bom đường sắt bằng những máy bay xuất phát từ các hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi đảo Hải Nam. Như đă lưu ư từ trước, Catroux nhận ra rằng ḿnh đang "đơn thương độc mă", rằng rất khó xoay sở nên ông ta đă có một số nhượng bộ đối với Nhật Bản nhưng vẫn cho phép một ít hàng viện trợ đến Trung Quốc.
Trong khi theo dơi t́nh h́nh châu Á, Roosevelt đă thúc giục các cố vấn của ông t́m kiếm những biện pháp hoà b́nh giúp tiếp tục mở những tuyến tiếp tế đến trung tâm Trung Quốc, nhưng ông không thể - về mặt chính trị và quân sự - gửi quân tới bảo vệ Đông Dương hay bất kỳ thuộc địa nào khác của châu Âu.
Những lo ngại về khả năng bành trướng của Nhật tiếp tục kéo dài sang năm 1939 và được bổ sung thêm bằng những tranh chấp giữa Pháp và Nhật về quyền sở hữu quần đảo Trường Sa (nằm giữa Việt Nam và Philippines trên biển Đông). Lúc đó chính quyền Roosevelt đă tạo ra một sự khác biệt ôn hoà giữa những yêu sách của Pháp đối với Đông Dương và quần đảo Trường Sa.
Trong một cuộc đàm luận với đại sứ Pháp Ren Doynel de Saint-Quétin về mối đe doạ của Nhật, Maxwell Hamilton, một nhân viên ngoại giao Mỹ, đă nói rơ: "Những suy xét tương tự có khả năng tác động đến Chính phủ về sự chiếm đoạt lănh thổ bằng sức mạnh ở châu Âu cũng có thể áp dụng đối với việc Nhật Bản giành lănh thổ bằng sức mạnh như trường hợp Hồng Kông hay Đông Dương thuộc Pháp". Khi được vị đại sứ hỏi liệu những suy xét tương tự có được áp dụng đối với trường hợp Nhật xâm chiếm quần đảo Trường Sa hay không, Hamilton đă phác ra quan điểm của Mỹ: "Có thể có sự chiếm đoạt không đặt thành vấn đề như trường hợp Anh sở hữu Hồng Kông hay Pháp sở hữu Đông Dương, trái lại có tới hai yêu sách một của Pháp và một của Nhật, đ̣i chủ quyền quần đảo Trường Sa. Rơ ràng, Đông Dương thuộc Pháp đă đi vào khung cấu trúc tinh thần của tổng thống và nhân viên trong Bộ Ngoại giao, nhưng như một khu vực địa lư không thể phủ nhận dưới sự kiểm soát của Pháp, và quan trọng đối với chính phủ kiên gan của Tưỏng Giới Thạch, chứ không như một vùng đất của nguởí bản xứ có những quyền và khát vọng của riêng ḿnh".
T́nh h́nh trở nên phức tạp hơn đáng kể trong năm 1940. Khi Roosevelt phát động chiến dịch tranh cử tổng thống nhiệm kỳ ba, ông phải hành động trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: trung hoà yêu cầu đ̣i đứng ngoài cả t́nh trạng hỗn độn ở Trung Quốc lẫn chiến tranh đang ngày một khốc liệt ở châu Âu của những người ủng hộ chính sách biệt lập và niềm tin của chính ông rằng, Mỹ sẽ phải vào cuộc để bảo vệ nền dân chủ và tự do thương mại cực kỳ quư giá đối với Mỹ và bị chỉ trích trong thiết lập cũng như duy tŕ hoà b́nh thế giới. Được an ủi phần nào rằng niềm tin của chính Roosevelt cuối cùng có thể có ảnh hướng lớn nhưng khi nhận ra những khó khăn của ông với công luận Mỹ, th́ cả Anh và Pháp đều sợ rằng sự can thiệp của Mỹ đơn giản là sẽ không xảy ra. Ngày 16 tháng 6 năm 1940, tại một trong những yêu cầu cuối cùng của ḿnh nhờ Mỹ trợ giúp khi quân Đức đang tràn qua nước Pháp, Thủ tướng Pháp Paul Reynaud đă công khai tuyên bố: "Tôi phải nói với ngài… Nếu ngài không bảo đảm với nước Pháp trong những giờ tới rằng Mỹ sẽ tham chiến ngay lập tức th́ bộ mặt của thế giới sẽ thay đổi. Rồi ngài sẽ thấy nước Pháp ch́m nghỉm như một kẻ đang chết đuối và biến mất sau khi đă mỏi mắt nh́n về xứ sở của tự do mà từ đó nó t́m kiếm sự bảo vệ". Mặc dù Roosevelt đă cung cấp nhiều nguyên vật liệu bằng tất cả khả năng của ông trong những giới hạn của pháp luật Mỹ và sự phê chuẩn của nghị viện, nhưng ông không thể đề nghị can thiệp quân sự và ông không thể ngăn chặn việc nước Pháp đầu hàng.
Với sự sụp đổ của Pháp trước Đức Quốc xă, việc Đông Dương cuối cùng sẽ rơi vào tay một thành viên trong phe Trục xem ra không thể tránh được. Nhật Bản tiếp tục gây sức ép lên Chính phủ Vichy đ̣i thêm nhượng bộ và Mỹ tiếp tục phản đối những hành động của Nhật. Tuy nhiên không phải măi đến khi Nhật bắt đầu chiếm đóng miền Bắc Việt Nam vào tháng Chín th́ áp lực của nền kinh tế Mỹ mới được đem ra để áp đặt một lệnh cấm vận đầy đủ về sắt và thép rời. Nhưng, bất chấp những cố gắng lớn nhất của chính quyền Roosevelt, không một trừng phạt kinh tế và tài ngoại giao nào có vẻ có tác dụng trong năm 1940 và chắc chắn cả trong năm 1941, hai chính phủ Nhật Bản và Mỹ đang nhảy nhót theo những điệu nhạc khác nhau.
Roosevelt cố ngăn chặn sự bành trướng của quân Nhật vào phần c̣n lại của Việt Nam và sự lan rộng hơn nữa của chiến tranh Thái B́nh Dương bằng đề nghị trung lập hoá Đông Dương thuộc Pháp như một nước giống Thuỵ Sĩ cùng với mở rộng cửa tiếp cận thương mại. Nhật Bản bác bỏ đề nghị đó.
Đến cuối mùa hè năm 1941, quân Nhật tiến vào miền Nam Việt Nam. Đáp lại, Mỹ đóng băng các tài sản của Nhật. Tuy nhiên, việc này không cho thấy dự định đáng tin cậy nhằm "bảo vệ" Việt Nam, hay thậm chí Trung Quốc trước Nhật Bản. Các nhà ngoại giao Mỹ tiếp tục các cuộc thảo luận với Tokyo hy vọng tŕ hoăn, thậm chí có thể cả tránh, một cuộc chiến tranh trên Thái B́nh Dương dựa trên "những lo ngại vẫn tiếp diễn" của Roosevelt rằng "những nguồn tài nguyên khan hiếm phải được huy động chống Hitler". Nhưng khi hè chuyển sang thu, "Báo chí, công chúng và ư kiến chính thức đều đồng loạt phản đối bất kỳ chính sách nhượng bộ nào đối với Nhật Bản". Và với thất bại ngoại giao của cả hai phía, cuộc tấn công Trân Châu Cảng tháng Mười hai đă đưa nước Mỹ vào ṿng xoáy của chiến tranh thế giới chống lại cả ba cường quốc trong phe Trục và kéo căng các nguồn lực của nước Mỹ giữa hai mặt trận.
Khi Mỹ trở thành nước tham chiến chính thức trong Chiến tranh thế giới 2, th́ quan điểm của Roosevelt về Pháp và Đông Dương thuộc Pháp cũng dần thay đổi. Cuối cùng tổng thống và các phụ tá của ông tiếp tục cam kết với người Pháp rằng vị thế quốc tế của họ, cả ở châu Âu và như một cường quốc thuộc thực dân, sẽ được bảo đảm trong thời hậu chiến.
Chẳng hạn, tháng 1 năm 1942, trong một nỗ lực ngăn chặn hợp tác của Vichy với phe Trục, Roosevelt đă chuyển một bức thông điệp năm điểm cho đại sứ Mỹ ở Pháp, đô đốc William Leahy, để sử dụng nếu điều kiện cho phép - hoặc là với thống chế Pétain hoặc với tướng Weygand". Điểm số hai đề cập trực tiếp đến các thuộc địa của nước Pháp khẳng định rằng: "Từ Pháp trong tâm trí tổng thống bao gồm Đế chế thực dân Pháp". Cũng trong thông điệp đó, tổng thống đă bảo Vichy coi chừng bất kỳ sự quy phục khả dĩ nào nếu Đức tấn công hoặc nước Pháp hoặc bất cứ thuộc địa nào của Pháp. Ông khuyến cáo rằng: "Việc sẵn sàng chấp nhận một cuộc tấn công như vậy" của họ chỉ có thể được xem như "chơi tṛ chơi của Đức".
Tuy chính phủ Vichy rơ ràng muốn tránh xung đột thêm hoặc với những kẻ chiếm đóng Đức hoặc người Mỹ, nhưng họ không hoàn toàn hợp tác với bất kỳ bên nào. Cũng tháng đó, đại sứ Leahy chuyển đi những nội dung trao đổi giữa ông với đô đốc Jean François Darlan và toàn bộ những ấn tượng của ông khi xem Vichy như đồng minh. Về Đông Dương thuộc Pháp, Leahy viết: "Tôi tham khảo những bản tin trên báo về một cuộc tấn công của Đồng Minh vào một sân bay bị Nhật chiếm đóng tại Hà Nội và bày tỏ ư kiến rằng ở nước Pháp chúng tôi phải được chuẩn bị cho hoạt động quân sự của Đồng Minh chống Đông Dương bị Nhật chiếm đóng, đặc biệt là các căn cứ và hải cảng bị Nhật sử dụng. Darlan đáp lại rằng không có các căn cứ ở Đông Dương và các hải cảng không hữu ích. Khẳng định của Darlan, tất nhiên, chẳng hơn ǵ một lời nói dối trơ trẽn không làm ǵ để giảm bớt những nghi ngờ của người Mỹ. "Ấn tượng chung của tôi như kết quả của cuộc trao đổi này", Leahy kết luận, "Mỹ không thể hy vọng vào bất kỳ sự hợp tác nào của Vichy".
Trong những cuộc trao đổi với người Anh vào tháng 1 năm 1942 Roosevelt đă có quan điểm hơi khác về thuộc địa. Mặc dù mục đích tối thượng của ông là thiết lập một quan hệ đối tác thời chiến vững vàng giữa hai nước, nhưng Roosevelt cố gắng làm cho nhà lănh đạo Anh Winston Churchill nhận thức rơ một số quan điểm của công luận Mỹ đối với chủ nghĩa đế quốc và nhu cầu "đồng cảm với những mục tiêu phi vật chất thời hậu chiến" đối với Anh. Cụ thể, Ấn Độ là điểm bất đồng.
Với việc quân Nhật tiến về ḥn ngọc trên vương miện của đế quốc Anh, "tiếng nói phản đối gia tăng tại Mỹ đ̣i Anh phải thay đổi chính sách đế quốc của nước này". Về phần ḿnh, người Anh không khóc mà cũng chẳng cười trước sự can thiệp của Mỹ vào công việc của nước họ.
Trong một phát biểu gây ấn tượng mạnh, Roosevelt than với phu nhân của tác giả Louis Adamic(1) rằng Churchill "không hiểu phần lớn người dân chúng tôi có cảm giác ra sao về nước Anh và vai tṛ của nó trong đời sống của các dân tộc khác… Tất nhiên có nhiều loại người Mỹ, nhưng là một dân tộc là một quốc gia, chúng tôi phản đối chủ nghĩa đế quốc - chúng tôi không thể chịu đựng được nó". Mặc dù cảm tưởng của Roosevelt về quan điểm của công chúng Mỹ có thể chứa đựng nhiều sự thật, nhưng dĩ nhiên ở đó không hề có quyết tâm lớn nhằm cáo chung chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn cầu. Ví dụ, sự đồng cảm, tuy đôi khi kiêu ngạo, biểu lộ đối với người Ấn Độ và khát vọng độc lập của họ hiển nhiên không mở rộng đến Burma, cũng là một thuộc địa của Anh có những nhà ái quốc đầy khao khát. Như một phần giác thư gửi Churchill năm 1942 đề cập đến những cộng tác viên Burma, Roosevelt đă thể hiện rơ sự thiếu bằng chứng xác thực với những người bị chủ nghĩa thực dân áp bức:
"Tôi chưa từng thích Burma và người Burma! Và người dân nước ngoài hẳn là đă có khoảnh thời gian khủng khiếp với họ từ 50 năm qua. Ơn Chúa là các ngài khoá chặt NÓ - THẤY CHÚNG TA - THẤY CÁC BẠN - THẤY (ám chỉ chính khách Burma gây nhiều tranh căi U Saw)(2). Tôi ước chi ngài tống chúng vào một chiếc chảo rán có tường bao quanh và mặc xác chúng trong món nước sốt của chính chúng".
Để giữ công luận Mỹ ủng hộ Anh, Roosevelt đă tế nhị thúc giục Churchill thay đổi một số biện pháp ở Ấn Độ, ngoại trừ Burma không được mấy quan tâm. Các thuộc địa của Pháp về cơ bản rơi vào cùng một hạng như Burma. Đặc biệt v́ ít người Mỹ biết rơ về những nước này huống hồ là về những khát vọng dân tộc chủ nghĩa của họ, nên Roosevelt có thể đề cập đến người Pháp và đế chế của họ như những nhu cầu quân sự và ngoại giao thời chiến phù hợp nhất không theo t́nh cảm ngạo mạn của những người chống đế quốc hay khát vọng của các dân tộc thuộc địa. Ví dụ, khi Mỹ mưu toan thiết lập lănh sự quán của ḿnh tại Brazzaville, Equatorial Africa thuộc Pháp (nay là Congo), thứ trưởng Bộ ngoại giao Sumner Welles một lần nữa cố xoa dịu lo ngại của người Pháp về thế giới thời hậu chiến: như đă vài lần thông báo với chính phủ các ngài, chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ công nhận quyền hạn tối thượng của người Pháp đối với lănh thổ Pháp và các thuộc địa của Pháp ở hải ngoại. Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ thiết tha hy vọng có thể thấy sự tái thiết độc lập và toàn vẹn lănh thổ của nước Pháp".
Những tuyên bố có tính an ủi này được lặp lại ít thường xuyên hơn trong năm sau khi Roosevelt trở nên tỉnh ngộ hơn với cách điều hành của cả nước Pháp Vichy và nước Pháp Tự do dưới sự lănh đạo của De Gaulle, người mà ông không tin tưởng và thân thiện. Nhằm tạo dựng một thế giới hoà b́nh sau chiến tranh, khai thác chủ nghĩa lư tưởng, giành được sự đồng thuận của công chúng Mỹ, và tạo ra cảm giác tin tưởng đối với Đồng Minh trong người dân Mỹ, Roosevelt bắt đầu nói về trong số nhiều vấn đề khác, khả năng uỷ trị quốc tế thời hậu chiến.
Trong cuộc đàm đạo với Bộ trưởng ngoại giao Nga Vyacheslav Molotov giữa năm 1942, Roosevelt "đă bày tỏ niềm tin tưởng của ông rằng sự cáo chung của các thuộc địa sẽ đáp ứng hoà b́nh thế giới bằng ngăn chặn những cuộc đấu tranh thời hậu chiến đ̣i độc lập và rằng sự uỷ trị quốc tế cần được thiết lập đại diện cho các thuộc địa cũ cho đến khi chúng sẵn sàng cho một chính phủ tự trị". Trong ảo tưởng của Roosevelt về thế giới sau chiến tranh, Mỹ, Liên Xô, Anh và có khả năng cả Trung Quốc sẽ là các "sen đầm" thế giới chịu trách nhiệm về an ninh quốc tế, kể cả giám sát những quốc gia được uỷ trị. Mặc dù kế hoạch uỷ trị nếu được thực hiện có thể gặp phải sự phản đối dữ dội trong những người Mỹ không ủng hộ chủ nghĩa thực dân, nhưng nó cũng mang nhiều nỗi kinh hoàng đến cho những kẻ nắm giữ các đế quốc - nhất là Anh và Pháp. Như sẽ thấy, Roosevelt có khuynh hướng làm dịu những vấn đề với nước Anh, ông nhấn mạnh rằng những thuộc địa trong t́nh trạng tranh chấp như Triều Tiên sẽ là vùng lănh thổ đầu tiên được đặt dưới sự uỷ trị, nhưng ông trở nên cực kỳ căm ghét đế quốc Pháp.
Suốt năm 1943 Roosevelt đưa ra nhiều tuyên bố về kế hoạch uỷ trị đă được thiết lập một cách lỏng lẻo của ông và về t́nh h́nh thuộc địa nói chung, nhấn mạnh đến mối liên kết giữa chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh. Trong một cuộc trao đổi với con trai Elliott, Roosevelt nói rơ học thuyết của ông rằng nếu không có thay đổi trong hệ thống thuộc địa trước chiến tranh th́ thế giới sẽ c̣n lâm vào một cuộc chiến tranh nữa ngay khi kết thúc cuộc chiến này. Tất nhiên ông không xa rời mục đích. "Vấn đề là", ông tuyên bố, "hệ thống thuộc địa có nghĩa là chiến tranh. Cứ bóc lột các nguồn tài nguyên của Ấn Độ, Burma, Java; cứ lấy đi của cải của những nước này nhưng không đem lại cho họ thứ ǵ như giáo dục, mức sống tử tế, những nhu cầu tối thiểu về y tế - tất cả những ǵ người ta đang làm là tích trữ rắc rối dẫn đến chiến tranh".
Thật thú vị, đến năm 1943, Burma, nước mà ông đă đề cập đến một cách mỉa mai trong giác thư gửi Churchill chỉ một năm trước, lại trở thành một trong những ví dụ về một dân tộc bị áp bức xứng đáng được thay đổi. Nhưng tuyên bố này và những tuyên bố tương tự khác liên quan đến các thuộc địa của Anh và Hà Lan có vẻ quá ôn hoà khi so sánh với những chỉ trích người Pháp của Roosevelt. Đặc biệt, ông đă nhấn mạnh một cách khác thường đến Đông Dương thuộc Pháp - khác thường bởi mặc dù sự thống trị của đế quốc Pháp đă mang đến cho người nông dân Việt Nam cảnh bần hàn, nhưng đấy dĩ nhiên không phải là hoàn cảnh đặc thù trong thế giới thuộc địa. Trong một cuộc trao đổi với Elliott, ông đă lên án sự cai trị của Pháp:
"Người Nhật lúc này kiểm soát thuộc địa đó. Tại sao Nhật lại quá dễ dàng xâm chiếm vùng đất ấy? Người dân Đông Dương đă bị áp bức trắng trợn đến mức họ tự nhủ: Bất kỳ cái ǵ cũng hẳn tốt hơn phải sống dưới ách thống trị của Pháp! Một miền đất có nên thuộc về Pháp hay không? Theo logic nào, theo tục lệ hay theo quy luật lịch sử nào? … Cha đang nói về một cuộc chiến khác, Elliott ạ… Cha đang nói về những ǵ sẽ xảy ra với thế giới của chúng ta nếu sau cuộc chiến tranh này chúng ta lại bỏ mặc hàng triệu người trở lại t́nh trạng bán nô lệ như cũ".
Một lựa chọn đối với quyền lực thuộc địa của Pháp, tổng thống đề nghị người Anh rằng Đông Dương thuộc Pháp cũng như Triều Tiên, nên trở thành những quốc gia được Mỹ, Liên Xô và có thể cả Trung Quốc uỷ trị. Chính phủ Anh không ủng hộ ư tưởng này và nêu rơ, trong số những vấn đề khác, rằng Trung Quốc không phải và không thể được xếp loại như một cường quốc thế giới bên cạnh Anh, Mỹ và Liên Xô. Tuy nhiên theo Roosevelt, đề nghị này có một ư nghĩa hoàn hảo. Với nhiều người Mỹ, Trung Quốc là "đồng minh được mến chuộng nhất" bởi nước này "chưa bị đổi màu bởi chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa đế quốc, là nạn nhân hơn là kẻ thực hành quan điểm chính trị dựa trên sức mạnh. Trung Quốc trên tất thảy, được xem như một đồng minh dân chủ tự nhiên của Mỹ". Và có vẻ logic là, chia sẻ sự gần gũi về địa lư với cả hai quốc gia, Trung Quốc nên có chân trong việc dẫn dắt hai thuộc địa theo hướng chế độ tự trị dân chủ. Trung Quốc bị tác động bởi nạn tham nhũng và tranh chấp nội bộ, v́ vậy chỉ là một lựa chọn không đáng kể với tư cách quốc gia trông coi một lănh thổ được uỷ thác quốc tế. Song nếu một chính phủ vững chắc về mặt chính trị thân thiện với Mỹ xuất hiện tại đó th́ kế hoạch uỷ trị trọn vẹn của Roosevelt đă có tiềm năng.
Giả dụ rằng t́nh trạng của các thuộc địa là chiếc ch́a khoá đích thực cho nền hoà b́nh bền vững sau chiến tranh và góp phần xây dựng sức mạnh quân sự và kinh tế Mỹ, th́ Roosevelt "đă hy vọng hệ thống uỷ trị sẽ cho phép Mỹ thiết lập các căn cứ hải quân và không quân dài hạn tại những vị trí chiến lược trên Thái B́nh Dương và bất kỳ nơi nào không phải đương đầu với mối ác cảm Mỹ truyền thống đối với quan điểm chính trị dựa vào sức mạnh". Trong ư kiến của Roosevelt, "một hệ thống quyền lực tập thể v́ lợi ích của các nước đang nổi lên sẽ làm giảm quyền năng quân sự của Mỹ" và "có thể cung cấp tài chính cả trợ giúp những dân tộc bị bóc lột lẫn một hệ thống an ninh khả thi khu vực Thái B́nh Dương cho tối thiểu hai mươi năm". Roosevelt nh́n nhận Đông Dương như một yếu tố quan trọng đảm bảo an ninh châu Á sau chiến tranh, v́ thế điều duy nhất phù hợp là ông cần trao cho thuộc địa đó vai tṛ chính trong kế hoạch uỷ trị. Trung Quốc và Liên Xô, cả hai có vấn đề của riêng ḿnh, hầu như chỉ biết phục tùng kế hoạch của Mỹ.
Trên thực tế, những chỉ trích người Pháp của Joseph Stalin rơ ràng cũng tương tự của Roosevelt. Tóm lại là "toàn bộ giai cấp thống trị Pháp đă mục ruỗng đến lơi", và "đang tích cực tiếp tay cho kẻ thù của chúng ta". Stalin đă xác định rằng "giao vào tay Pháp bất kỳ vị trí chiến lược nào sau chiến tranh sẽ chẳng những không đúng đắn mà c̣n nguy hiểm nữa", và Đông Dương thuộc Pháp rơi vào loại đó. Những nghi ngờ về ư định và mục đích của kế hoạch uỷ trị chỉ làm tăng sự phản đối của Anh đối với các cuộc tranh luận về vị thế của Đông Dương sau chiến tranh. Những phản đối nóng nảy của Churchill tại Hội nghị Teheran năm 1943 đă bị Roosevelt đáp trả gay gắt: "Xem đây, thưa ngài Winston", ông vặn lại, "về vấn đề Đông Dương thuộc Pháp ngài đă thua với tỷ số phiếu".
Thậm chí sau những hội nghị năm 1943 tổ chức ở Cairo và Teheran, Roosevelt tiếp tục nói về vấn đề chấm dứt ách thực dân của Pháp, đặc biệt là ở Đông Dương và thuộc địa châu Phi Dakar, cả hai được xem là cần thiết cho các căn cứ quân sự Mỹ nhằm bảo đảm an ninh thời hậu chiến. Và nước Anh tiếp tục phản đối kế hoạch này một phần v́ những ẩn ư về số phận của Đế quốc Anh. Mặc dù Churchill nhất quyết là sự tan ră của đế quốc không xảy ra trong nhiệm kỳ của ông, bằng việc kư kết Tuyên bố Đại Tây Dương bên cạnh Roosevelt tháng 8 năm 1941, ông đă mở toang cửa tranh luận về ư nghĩa của “sự giải phóng, tự quyết” và những thuật ngữ này có thể ứng với ai. Thực vậy, điểm Ba của Tuyên bố đă gây ra nhiều bất ổn trong người Pháp và dem lại hy vọng cho những người theo phong trào đ̣i độc lập trên toàn thế giới, trong đó có người Việt Nam. Điểm này ghi rơ: "Các bên tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc lựa chọn h́nh thái chính phủ tương lai của ḿnh, và hy vọng chứng kiến các quyền tối thượng và tự quản được khôi phục cho tất cả những ai đă bị tước đoạt các quyền đó bằng vũ lực".
Trong bối cảnh Chiến tranh thế giới 2, tuyên bố này có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một mặt, cách diễn đạt bảo thủ ám chỉ khát vọng chỉ đối với sự giải phóng các lănh thổ bị Đức Quốc xă và Nhật Bản chiếm đóng. Mặt khác, cách diến đạt thoáng hơn ám chỉ một cam kết cáo chung toàn bộ chủ nghĩa thực dân, bênh vực cho những dân tộc phụ thuộc đă thực sự bị tước đoạt các quyền của ḿnh. Cả Roosevelt và Churchill đều hy vọng rằng những mục tiêu khái quát được thể hiện trong Tuyên bố Đại Tây Dương, bao gồm cả điểm Ba, sẽ giúp gắn công luận Mỹ vào nỗ lực chiến tranh của Anh và đặt nền tảng cho tăng cường viện trợ của Mỹ trong cuộc chiến chống chủ nghĩa Quốc xă. Sau khi Mỹ chính thức tham chiến, Tuyên bố Đại Tây Dương c̣n trở nên quan trọng hơn, như một trong những mối liên kết chủ yếu gắn cuộc chiến tranh này với một thế giới lư tưởng hơn thời hậu chiến.
Đến cuối năm 1944, những tuyên bố của Franklin Roosevelt cho thấy, chí ít trong những trường hợp đă được lựa chọn, ông đă quy cho lối giải thích gây tranh căi hơn của điểm Ba. Với chủ trương thay đổi hệ thống thuộc địa, Roosevelt tiếp tục đưa Pháp ra chỉ trích đồng thời đặc biệt nhấn mạnh đến t́nh h́nh Đông Dương. Theo quan điểm của ông, trong suốt thời kỳ chiếm đóng Việt Nam, Pháp đă thất bại trong cải thiện mức sống của người dân và, v́ những thất bại của họ, đă từ bỏ quyền cai trị. Ngoài ra, Bộ trưởng ngoại giao Cordell Hull tin rằng một trong những nguyên nhân Roosevelt quá quan tâm đến Đông Dương là vùng đất này đă là "bàn đạp cho cuộc tấn công của Nhật vào Philippines, Malaysia và Đông Ấn thuộc Hà Lan". Vào tháng Giêng, Roosevelt gửi một giác thư cho Hull, nêu rơ:
Dù mối quan tâm của Roosevelt về Đông Dương thuộc Pháp bắt nguồn từ khát vọng trừng phạt Pháp chủ yếu là v́ những nhà thực dân "tồi" hay chủ yếu v́ thất bại của họ trong việc "đương đầu" với Đức và Nhật th́ vẫn rơ ràng Đông Dương đă trở thành một yếu tố quan trọng trong suy nghĩ của Roosevelt về chủ nghĩa thực dân. Ngoài xem xét những ǵ Pháp đă và không làm được, Roosevelt c̣n tập trung vào vấn đề t́nh h́nh thuộc địa có ư nghĩa ǵ đối với Mỹ "trong bối cảnh ông lo ngại thất bại trong trợ giúp những khát vọng đ̣i độc lập ở châu Á sẽ làm mất thể diện của Mỹ trong mắt một tỷ con người". Một kế hoạch uỷ trị quốc tế "có thể giúp nâng cao sự nghiệp chính nghĩa của Đồng Minh trong các dân tộc thuộc địa bởi nó có thể cho thấy rằng mục đích của chiến tranh không phải là tái thiết các đế quốc châu Âu". Kế hoạch này có ư nghĩa đa quốc gia hơn là quên lăng các cựu thuộc địa của Mỹ và "sự gắn bó bên ngoài của nó với chế độ tự quản quốc gia" có thể giúp tạo ra dư luận trong nước "kiên quyết hậu thuẫn việc Mỹ tiếp tục can dự vào những vấn đề hải ngoại".
T́nh cảm chống thực dân của Roosevelt hầu như là sự bày tỏ ư kiến của công chúng có học thức, nhưng không phải lúc nào chúng cũng được chia sẻ bởi những nhân vật quân sự chủ chốt - những kẻ chắc chắn phải chịu trách nhiệm về xử lư t́nh trạng tách rời các thuộc địa cũ của châu Âu. Tuy nhiên, tại Trung Quốc, tướng Joseph Stilwell và Albert Wedemeyer là những người chống thực dân và "nói chung kiên quyết phản đối việc châu Âu chiếm giữ lănh thổ châu Á như những thuộc địa chính thức. Họ tin tưởng một cách đơn giản rằng chủ nghĩa thực dân sai, hơn nữa c̣n nghĩ rằng các cường quốc thực dân như Anh, Pháp, Hà Lan và Trung Hoa Dân Quốc quá yếu ở châu Á để có thể làm được nhiều trong cuộc chiến thực sự chống Nhật Bản". Theo dơi kế hoạch của các cường quốc thực dân, năm 1944 Wedemeyer báo cáo rằng Anh, Hà Lan và Pháp đă có mọi dự định giữ lại các thuộc địa của họ, và ông cảm thấy, như nhà sử học Bradley Smith đă tổng kết, "không nghi ngờ ǵ nữa, chính phủ ba nước đó dứt khoát đă đạt được một thoả thuận riêng rẽ về những vấn đề này". Để minh chứng, Wedemeyer dẫn ra việc Pháp huấn luyện lính dù, những người sau đó sẽ được thả xuống Đông Dương, ở Ấn Độ.
Ông được thuyết phục rằng, những nước đế quốc dự định đ̣i lại quyền thống trị thuộc địa của ḿnh sau khi đánh bại Nhật với sự giúp đỡ của Mỹ, và ông cương quyết đề nghị Mỹ phải xem xét "một cách thận trọng tất cả những yêu cầu về nguyên vật liệu để đảm bảo chắc chắn rằng người ta có thể "đẩy mạnh nỗ lực chiến tranh hơn là những mục đích thời hậu chiến". Có lẽ John Davies, cố vấn chính trị của Stilwell, đă tổng kết khúc triết nhất những ǵ nằm trong ư nghĩ của nhiều người Mỹ - những người, theo lời Roosevelt, "không tiêu hoá được" chủ nghĩa đế quốc: "Tại sao thanh niên Mỹ lại cần phải chết để tái tạo các đế chế thực dân của Anh cùng các chư hầu Hà Lan và Pháp của họ chứ?".
Tất nhiên, có những người ở cả trong giới quân sự và chính quyền không chống đế quốc và vẫn duy tŕ mối quan hệ tương đối hữu hảo với những đối tác châu Âu của họ, trong đó có người Pháp. Giám đốc OSS, William J. Donovan là một trong số những người này. Mặc dù cả Roosevelt và Donovan đều là người New York và muốn nổi danh trong nước cũng như quốc tế, nhưng thành phần của hai ông hoàn toàn khác nhau. Trong khi Roosevelt nhảy cỡn lên với giới tinh hoa châu Âu th́ Donovan giao du với đám trẻ cần lao trong cộng đồng Ai-len ở Buffalo và giành được biệt danh "Bill liều"(3), biệt danh này theo ông suốt sự nghiệp của ḿnh.
William Joseph Donovan
Sinh năm 1883 trong một gia đ́nh Công giáo Ai-len công nhân đường sắt thuộc thế hệ đầu tiên, William Joseph Donovan thành thạo công việc nặng nhọc và hiểu rơ những hy sinh mà ông bà gốc Ai-len di cư của ḿnh đă phải trả để đến Mỹ. Ông đă phải làm việc vào ban đêm và mùa hè để kiếm tiền trang trải học phí đại học và giúp việc với tư cách là quản lư trụ sở nam sinh viên để đổi lấy chỗ ở và cơm tháng.
Donovan nổi trội trên sân bóng nhưng lại tŕnh diễn rất tồi trong lớp học, tuy nhiên nhân cách và cố gắng của ông đă mang lại cho ông kết quả cuối cùng ở cả hai lĩnh vực. Ông tiếp tục theo học tại Đại học Luật Columbia như Franklin Roosevelt, cho dù cả hai ông thuộc về những giới xă hội khác nhau khi ở đó.
Sau khi tốt nghiệp Donovan bắt đầu hành nghề luật, sau đó gia nhập một nhóm những người trẻ tuổi mưu toan thành lập đơn vị Bảo vệ Quốc gia địa phương. Tháng 5 năm 1912, ông trở thành thành viên danh dự của Phân đội I thuộc Binh đoàn Kỵ binh New York thứ nhất, và đến tháng 10 được thăng hàm đại uư. Con đường thăng tiến của Donovan tiếp tục với việc ông làm rể một gia đ́nh giàu có ở Buffalo và lời mời năm 1916 của John D. Rockefeller đi châu Âu lúc đó đang điêu đứng v́ Chiến tranh thế giới lần thứ I nhằm giành được sự chuẩn y từ những nước tham chiến cung cấp đồ cứu trợ chiến tranh cho Ba Lan - lúc đó đang bị giày xéo bởi ư định tiêu diệt nước Nga Sa hoàng của quân Đức.
Khi Donovan đă quen với London và châu Âu như một phần sứ mạng của ông th́ nghĩa vụ quân sự đ̣i hỏi ông quay về Mỹ. Năm 1916, Donovan và Binh đoàn Kỵ binh New York thứ nhất nhanh chóng được điều tới Texas giúp dàn xếp những rắc rối với nhà cách mạng người Mexico, Pancho Villa, người đă thao túng thị trấn nhỏ Columbos ở New Mexico.
Donovan đă dành ra sáu tháng cưỡi ngựa theo sau Villa và huấn luyện người của ông ta thành những chiến binh cứng rắn. V́ ông, cũng giống như Roosevelt và nhiều người khác, tin rằng nước Mỹ sẽ không thể tránh khỏi việc tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới vẫn chưa có hồi kết.
Ngày 15 tháng 3 năm 1917, chỉ ba ngày sau khi Donovan từ Mexico trở về, ông lại ra tŕnh diện, lần này trở thành chỉ huy Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn bộ binh 69, được biết đến với tên gọi Người Ai-len chiến đấu và được phiên chế vào đơn vị bộ binh 165, Sư đoàn Cầu vồng 42, sau đó lên đường đến những chiến hào đẫm máu của nước Pháp. Ở đó, Donovan và binh lính của ông thu được nhiều kinh nghiệm quân sự - cái mà Roosevelt bị từ chối. Donovan, lúc này là thiếu tá, và người của ông chiến đấu dũng cảm và tiếng tăm của ông nổi như cồn. Dẫu khét tiếng v́ quy định nghiêm ngặt về uống rượu và huấn luyện không ngừng, nhưng viên thiếu tá vẫn được binh sĩ ngưỡng mộ. Một trong số những người cổ vũ nồng nhiệt cho ông, cha tuyên uư của trung đoàn Patrick Duffy, đă viết: "Kết quả của việc theo dơi Donovan qua 6 ngày chiến đấu - sự b́nh tĩnh, thái độ sẵn sàng, tài xoay sở của ông cho thấy lúc này ḷng ngưỡng mộ (của binh lính) đối với ông là không có giới hạn". Không bao giờ chấp nhận ngồi ở nơi an toàn trong khi binh sĩ của ḿnh đang trong ṿng nguy hiểm, Donovan chiến đấu sát cánh cùng những chiến binh người Ai-len chiến đấu, định hàng loạt vết thương và được tặng Huân chương Trái tim màu Tía có hai bó sồi. Ông nhận Huân chương Chữ thập v́ thành tích trong trận đánh thứ hai tại Marne và được thăng chức trung tá. Tinh thần "thường bất chấp hiểm nguy và thành tích trong chiến thắng quân thù tại Landres-et- St. George đă đem lại cho ông Huân chương Danh dự và quân hàm đại tá".
William Donovan trở lại New York như một người con nổi tiếng, được tôn kính và có nhiều cơ hội. Sự trung thành triệt để của ông đối với triết lư lời nói đi đôi với việc làm, nhanh chóng đưa danh tiếng nổi như cồn của ông vốn gắn với chủ nghĩa anh hùng trên chiến trường đến chỗ bị xă hội ruồng bỏ.
Nhờ tiếng tăm trận mạc, ông đă được mời tham gia một trong những câu lạc bộ nam có chọn lọc nhất Buffalo, nơi những nhà lănh đạo quan trọng và có ảnh hưởng lớn nhất thành phố được hưởng đều đặn nguồn cung ứng tiền lăi rượu Whiskey - sau này mới bị cấm bởi Luật cấm nấu và bán rượu(4). Nhưng ngôi sao chiếu mệnh của Donovan cũng đă mọc, và đến năm 1922 ông trở thành công tố viên. Trên cương vị này ông đă hậu thuẫn cho những sửa đổi không được ḷng người. Những cuộc bố ráp bất ngờ theo lệnh Donovan vào chính câu lạc bộ của ông và việc bắt bớ nhiều thành viên của nó là nguyên nhân khiến ông bị tẩy chay khỏi giới thượng lưu Buffalo một thời gian và gây ra khó khăn nghiêm trọng cho sự nghiệp từng có lúc đầy hứa hẹn của ông. Nỗ lực tranh chức thống đốc New York vào năm 1932 của ông thất bại, nhưng sự nghiệp pháp lư của ông tiếp tục tiến triển tốt trong suốt những năm 1920 và 1930, và ông vẫn duy tŕ quan hệ với nhiều chính khách, đáng chú ư nhất là Herbert Hoover(5) trong thời gian ứng cử tổng thống khá thành công của ông này năm 1928.
Song song với việc để mắt đến t́nh h́nh trong nước, Donovan c̣n thường xuyên đi công cán nước ngoài, và giống Roosevelt, ông cho rằng t́nh trạng hỗn loạn đang gia tăng ở cả châu Âu và châu Á chắc chắn sẽ dẫn đến một cuộc chiến mà nước Mỹ không thể tránh được. Donovan, nhà viết tiểu sử Richard Dunlap giải thích, sẽ "đi đến đóng vai tṛ chủ đạo trong cộng đồng người Mỹ, những người v́ lư do yêu nước đă theo kịp những diễn biến quan trọng ở nước ngoài. Cùng lúc đó ông tỏ ra thích thú với những sự kiện lư thú và nguy hiểm tiêu biểu cho diện mạo sát chiến tranh". Tự quảng cáo ḿnh là một luật sư giàu có đại diện cho một số tổ hợp lớn nhất nước Mỹ và lợi dụng danh tiếng quân sự của ḿnh, Donovan đă thuyết phục nhà độc tài Italia Benito Mussolini cho phép ông đi thăm và đánh giá t́nh h́nh quân đội nước này ở châu Phi.
Donovan đến Ethiopia tháng 12 năm 1935, với tư cách là đại diện của Mussolini ông được phép tiếp cận tất cả những ǵ ông mong ước đánh giá - vũ khí, triển khai quân, tinh thần và sức khoẻ của binh lính, t́nh trạng đường sá - và để lại châu lục này dự báo về một chiến thắng nhanh chóng của Italia, và tiếp theo là bước thiết lập thuộc địa của Rome.
Donovan, người có báo cáo trái ngược với những thông tin của Hội Quốc Liên và những tổ chức khác ở cả châu Âu và Mỹ - những người mong muốn Italia thất bại, được triệu tập về gặp Mussolini và sau đó là đại diện Hội Quốc Liên của Mỹ ở Geneva. Trở về Mỹ, ông chuyển những đánh giá t́nh h́nh Italia lên Hội đồng Chiến tranh và viết một báo cáo riêng gửi Tổng thống Roosevelt. Trong ṿng vài tuần, đúng như Donovan dự đoán, Ethiopia rơi vào tay Italia. Dẫu vậy, nghề nghiệp mới của Donovan - theo dơi và đánh giá t́nh trạng hỗn loạn đang gia tăng ở nước ngoài - vẫn chưa thực sự bắt đầu.
Trong khi theo đuổi nghề luật dầy hứa hẹn, Donovan vẫn tiếp tục những chuyến đi dài hơi đến châu Âu với tư cách cá nhân. Mùa xuân năm 1937 ông tới Đức, Czechoslovakia, Balkans, Tây Ban Nha và luôn luôn đánh giá t́nh h́nh chính trị, kinh tế, quân sự một cách cẩn trọng như thể ông đang lên kế hoạch chiến tranh. Phát biểu của ông tại Học viện Chiến tranh quân sự sau khi ông trở về có thể lấy ra từ một bài viết sau chiến tranh: "Chúng ta đang đối mặt với một loại h́nh chiến tranh mới", ông tuyên bố, "không có nhiều trong quan điểm tiến hành chiến tranh, bởi v́ trong chiến tranh những nguyên lư cơ bản vẫn giữ nguyên, nhưng cuộc chiến mới liên quan tới máy móc và vũ khí. Hơn thế nữa, cuộc chiến tranh này diễn ra với tốc độ mới… Đặc trưng thứ hai của cuộc chiến mới là sự kết hợp hoàn hảo giữa không quân và bộ binh". Nhưng dù cho có là một "cựu" anh hùng và ông biết chính xác những ǵ ḿnh nói, lúc đó nhiều người đă không thèm đếm xỉa đến và thậm chí c̣n phẫn nộ với việc ngài uỷ viên công tố giàu có xâm phạm lănh địa của chính quyền Đảng Cộng hoà của Roosevelt - nơi ông chưa thuộc về cho đến thời điểm đó. Tuy nhiên, tổng thống đă lắng nghe báo cáo của Donovan - và phần lớn những ǵ ông nói đều phù hợp với những lo ngại về t́nh h́nh quốc tế của chính Roosevelt.
Tháng 10 đó, khi Roosevelt đọc bài diễn văn được gọi là "Cách ly"(6) tại Chicago th́ Donovan là một trong số ít đảng viên Dân chủ tầm cỡ vừa tán thành vừa lên tiếng ủng hộ cảnh báo của tổng thống:
"Nếu chúng ta có một thế giới mà ở đó chúng ta có thể tự do hít thở và sống trong t́nh bằng hữu, th́ các dân tộc yêu chuộng hoà b́nh phải có những nỗ lực cụ thể để giữ ǵn pháp luật và Các nguyên tắc bảo đảm hoà b́nh. Chiến tranh là một căn bệnh truyền nhiễm cho dù có được tuyên chiến hay không. Chiến tranh có thể nhấn ch́m các quôc gia và các dân tộc cách xa khu vực chiến sự. Chúng ta cương quyết tránh chiến tranh, nhưng chúng ta không thể bảo đảm sinh mạng ḿnh trước những tác động thảm khốc của chiến tranh và những nguy hiểm liên quan. Chúng ta sẽ áp dụng những biện pháp giảm thiểu tối đa rủi ro liên quan, nhưng chúng ta không thể hoàn toàn yên ổn trong một thế giới hỗn loạn, với ḷng tin và an ninh đă bị sụp đổ".
Những chiến thắng chớp nhoáng của quân đội Hitler tại châu Âu năm 1939 và 1940 đă đưa Donovan và Roosevelt lại gần nhau hơn. Lo ngại về vai tṛ của lực lượng phá hoại thứ năm trong sự sụp đổ nhanh chóng của các nước Tây Âu và tâm lư bị quan về khả năng người Anh chống trả các cuộc tấn công của quân Đức, mùa hè năm 1940, Roosevelt cử Donovan đến London để cùng phóng viên Nhật báo Chicago Edgar Mowrer đánh giá t́nh h́nh. Sứ mạng này hoàn toàn không chính thức, với Donovan đây được coi là chuyến công cán cá nhân. Tuy nhiên, những nhân vật quan trọng, trong đó có vua và nữ hoàng, Churchill và đại tá Steward Menzies - "trùm mật vụ Anh" - đă được thông báo t́nh h́nh thực tế và mở cửa tiếp kiến ông. Ngay sau khi trở về Mỹ, Donovan đă được Roosevelt mời cùng đi nghỉ một kỳ nghỉ ngắn tại New England, và trong hai ngày tháng 8 đó ông đă có "cái tai của tổng thống", ông tiếp tục nói những ǵ tổng thống muốn nghe - những điều hoàn toàn trái ngược với những dự báo u ám và khắc nghiệt của đại sứ Mỹ tại Anh Joseph Kenedy. Lượng "bửu bối" ông đặt lên bàn rất phong phú: nhiều mối quan hệ của ông, cả trong và ngoài nước; khả năng thận trọng tiếp cận t́nh h́nh quốc tế dựa trên những suy xét về quân sự, kinh tế chính trị và xă hội; và thực tế là thông điệp của ông phù hợp với chương tŕnh nghị sự đang tiến triển của Roosevelt.
Tất cả những cái đó, kết hợp với một ít giúp đỡ của người bạn "danh giá" Frank Knox, đă đem lại cho Donovan một vị trí trong chính quyền Roosevelt.
Knox trở thành trợ lư hải quân của Roosevelt vào tháng 6 năm 1940. Là một đảng viên Đảng Cộng hoà thân Đồng Minh, Knox mang lại cả trạng thái lưỡng viện cho nội các của Roosevelt và vô số ư tưởng được trù tính ủng hộ nỗ lực chiến đấu của Anh. Một trong những ư tưởng của Knox là đưa người bạn thân và là thành viên Đảng Cộng hoà, Bill Donovan, vào chính quyền Roosevelt. Mặc dù dự định ban đầu của ông thất bại nhưng chính nhờ gợi ư của Knox cho Roosevelt mà Donovan có sứ mạng "bí mật" ra nước ngoài. Tháng 12 năm 1940, Donovan rời nước Mỹ cùng William Stephenson, chỉ huy tác chiến của Cơ quan T́nh báo Anh (MI6) tại Mỹ. Cả hai ông đều đă quen biết nhau. Trên thực tế, chính Stephenson là người đă mở đường cho Donovan tới thăm Menzies(7) trong "sứ mạng" đầu tiên của ông, và họ nhanh chóng trở nên thân thiết, tin tưởng lẫn nhau trên cương vị đứng đầu ngành t́nh báo. Donovan đă dành hơn hai tháng công du. Từ Anh ông đến Tây Ban Nha, Bắc Phi, Đông Âu và Trung Đông, lắng nghe lănh đạo các địa phương, quân đội, hải quân, đảng phái và bắt chước những điệu bộ đánh giá của họ cùng cuộc chiến đang diễn ra.
Danh tiếng của Donovan cũng tăng lên cùng chuyến đi này. Trong cuộc tiếp xúc báo giới nhân chuyến trở về, các phóng viên nhận thấy Donovan "không có ǵ để nói" sau khi đă đi 30.000 dặm trong ṿng 14 tuần. Những kư giả hoài nghi đă đúng khi gán cho ông biệt danh "Người đàn ông bí ẩn, "Thầy tế im lặng". Donovan rơ ràng khoái những biệt danh này cùng địa vị của người nổi tiếng. Ông đă sử dụng "danh tiếng" của ḿnh để gửi thông điệp cho người dân Mỹ. Tin rằng Mỹ sẽ phải tham chiến bên cạnh Anh, biết rơ sức mạnh và hiểu được mục đích của chế độ Quốc xă, vào tháng Sáu, Donovan đă đọc diễn văn gửi đến thính giả của Hệ thống Truyền thông Columbia. Ông đă cảnh báo họ không được để ḿnh bị phỉnh phờ bởi tuyên truyền của chế độ Quốc xă và t́nh cảm biệt lập tại quê nhà - cái khuyến khích người Mỹ tin rằng nước Mỹ an toàn trước cuộc chiến ở châu Âu. Donovan khuyến cáo:
Nếu dân chủ Cơ đốc giáo có thể không thích chiến tranh, nhưng chúng ta không được bỏ qua thực tế là chúng ta có thể buộc phải chấp nhận chiến tranh để sinh tồn. Nếu Hitler thắng, những quyền lợi cốt tử của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng.
Chúng ta sẽ phải phác thảo lại các kế hoạch cho tương lai nền mậu dịch của chúng ta, mức sống của chúng ta, quan niệm của chúng ta về cuộc sống con người, tất cả sẽ có nguy cơ bị tổn hại. Chúng ta sẽ phải đối chọi lại quân đội và hải quân Đức chỉ đơn thuần và để tồn tại. V́ cuộc xung đột giữa hai hệ thống và một mất một c̣n và không thể tránh được…
Hitler tấn công bất cứ thứ ǵ, điều đó ảnh hưởng đến nguyện vọng của chúng ta, của các bạn và của tôi. Hắn cố đặt đội quân thứ năm vào trái tim của mỗi chúng ta - đội quân thứ năm của nghi ngờ và chia rẽ. Nếu những vũ khí đó phát huy tác dụng và đẩy chúng ta ra khỏi Đại Tây Dương, hay nếu hắn ngăn chặn được chúng ta gửi những chuyến hàng viện trợ thiết yếu, th́ thất bại trong cuộc chiến Đại Tây Dương sẽ thuộc về người Anh và chúng ta. Với thất bại đó, trở ngại cuối cùng của nước Đức trên con đường thống trị châu Âu được dỡ bỏ. Tấm lá chắn bảo vệ phía sau mà chúng ta có thể chuẩn bị và trở nên mạnh mẽ bị đập tan. Chủ nghĩa Quốc xă và chủ nghĩa Mỹ quốc sẽ mặt đối mặt. Một nước Đức hùng cường và tự tin cảm nhận sự thôi thúc mạnh mẽ cho một cuộc chinh phạt mới và một nước Mỹ không có đồng minh, chưa sẵn sàng một ḿnh đối mặt với một kẻ thù mạnh đến nhường ấy… Không ai có thể phủ nhận một cách tương đối rằng nguy hiểm đang đe doạ nền cộng hoà của chúng ta. Chúng ta sẽ đối đầu với nguy hiểm bằng tinh thần của các thế hệ ấy, những người đă đi trước chúng ta, hay chúng ta sẽ chờ đợi cho đến khi hiểm hoạ vượt qua ngưỡng cửa nhà chúng ta và chạm đến gia đ́nh và bàn thờ của chúng ta?
Trở về, Donovan cũng phải đến gặp tổng thống, nhưng chỉ đạt kết quả tối thiểu. Mặc dù Roosevelt bắt đầu nghĩ tới giải pháp thay thế "t́nh trạng lộn xộn của t́nh báo Mỹ", song ông không đi đến kết luận mà Donovan là một phần câu trả lời. Nhưng những người khác th́ có. Knox, người đă khích lệ Donovan viết ra những ư kiến của ḿnh về việc thành lập một cơ quan t́nh báo trung ương, và những nhân vật có quan hệ gần gũi với Stephenson cũng như Cơ quan T́nh báo Anh tin rằng Donovan là người cứu chữa những thiếu sót của t́nh báo Mỹ.
Trong một sứ mệnh khám phá sự thật được phác thảo một cách cơ bản nhất nhằm "lôi kéo Mỹ vào mạng lưới t́nh báo Anh", đô đốc John Godfrey, giám đốc Cơ quan T́nh báo Hải quân Anh, sĩ quan Ian Fleming (sau này lừng danh với nhân vật James Bond) đă họp bàn với các nhân viên t́nh báo đại diện cho Quân đội, Hải quân, Bộ ngoại giao và Cục Điều tra Liên Bang Mỹ (FBI). Mặc dù Godfrey và Fleming nhận thấy nhiều ban bệ rơ ràng có hợp tác, nhưng họ lấy làm ngạc nhiên trước cả sự thiếu cộng tác liên ngành và mức cạnh tranh cao độ trong các cơ quan này.
Ngài đô đốc đă rút ra kết luận:
Không có Cục Mật vụ của Mỹ. Người Mỹ có xu hướng trông cậy vào "S.I.S"( của họ, nhưng qua đó họ muốn nói tới lực lượng "đặc nhiệm" nhỏ bé và không có khả năng phối hợp, những người lên đường ra nước ngoài thay mặt cho cơ quan này hay cơ quan khác của chính phủ. Những "đặc vụ" này thường là nghiệp dư có những phẩm chất đặc biệt và không được huấn luyện tại ḷ quan sát. Họ không có các phương tiện liên lạc đặc biệt hay các trang thiết bị khác và ít khi có chỉ dẫn rơ ràng hơn là "đi và nh́n".
Kế hoạch t́nh báo của Donovan dĩ nhiên nhằm chữa trị t́nh h́nh đó. Nhưng theo hệ thống t́nh báo Anh và trên diện rộng là sản phẩm của nhiều cuộc trao đổi đầy kết quả của ông với Stephenson, Donovan đề xuất một cơ quan "duy nhất thực thi nhiệm vụ t́nh báo ở nước ngoài" mà giám đốc phải là người đứng trên các đảng phái chính trị và chỉ chịu trách nhiệm trước tổng thống. Mặc dù cố vấn hải quân hài ḷng với phác thảo của bạn ông ta, nhưng những người khác trong nội các của Roosevelt th́ không. Chẳng hạn, hồi đáp của Bộ Chiến tranh rằng đề xuất "siêu cơ quan kiểm soát toàn bộ tin tức t́nh báo" và "rất có thể dưới trướng đại tá Donovan" có thể "trở nên cực kỳ bất lợi, nếu không nói là tai hoạ", phản ánh quan điểm của FBI và những nhân vật khác, những kẻ không muốn thấy quyền kiểm soát thông tin của ḿnh bị thu nhỏ. V́ mặc dù sự phối hợp thông tin có thể có lợi cho tất cả, nhưng "đố kỵ và cạnh tranh, người Mỹ đă thử nghiệm giả thuyết kiến thức là sức mạnh, song khi kiến thức bị chia sẻ th́ quyền lực cũng giảm bớt". Tuy thế, nhận thức được nhu cầu sửa chữa sự thiếu phối hợp thông tin của ḿnh, ngày 17 tháng 1 năm 1941 Roosevelt đă chỉ thị thành lập Cơ quan phối hợp Tin tức t́nh báo nhằm thông báo một cách hiệu quả cho ông "về những sự kiện quốc tế có thể đe doạ an ninh, hay chí ít là những mối quan tâm của nước ngoài" về Mỹ.
Trước sự kinh ngạc của Bộ Chiến tranh và những kẻ lo sợ quyền lực của ḿnh sẽ giảm bớt, Roosevelt chỉ định Donovan làm người điều phối thông tin.
Khi mới được thành lập, cơ quan của Donovan, được biết đến với tên gọi chung là COI(9), tập hợp tám đơn vị t́nh báo riêng biệt trong chính phủ Mỹ: Quân đội G-2, Cơ quan T́nh báo Hải quân (ONI), FBI trong Bộ Tư pháp, T́nh báo Đối nội thuộc Bộ ngoại giao, Thanh tra Hải quan Bộ Thương mại, Cơ quan T́nh báo Bộ Tài chính, Thanh tra Di dân và nhập tịch, Bộ Lao động và T́nh báo của Uỷ ban Thông tin Quốc gia. Những vấn đề nảy sinh với một hệ thống như vậy là hiển nhiên: cho dù một số lượng lớn tài liệu thô có thể được tập trung, nhưng đó là chủ đề cho ít nhất tám cách diễn giải khác nhau. Thậm chí ngay cả khi xét đến những ư định tốt nhất, th́ thời gian và nỗ lực cần thiết để phân loại, đánh giá và chuyển thông tin cũng thường cản trở việc chia sẻ thông tin được phát hiện giữa các đơn vị với nhau. Trong trường hợp tồi tệ nhất, việc bảo vệ mối quan tâm của riêng từng đơn vị thường ngăn chặn liên ngành chia sẻ và mặc cho tất cả mọi người bị điếc tai bởi tiếng ồn màu trắng(10) của thông tin và thông tin sai lệch. C̣n có nhiều vấn đề khác nữa.
Cho đến khi mở rộng COI, ở đây không có lănh đạo tập trung, không có pḥng xử lư thông tin và không có mối liên kết trực tiếp đến người ra quyết định cuối cùng - Roosevelt. Trong kịch bản tối ưu, những đặc vụ làm việc cho COI sẽ "tổng hợp và truyền bá thông tin t́nh báo" thu được từ cả tám đơn vị và chuyển nó cho những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước.
Donovan sẽ hành động như mối liên lạc trực tiếp với tổng thống. Nhiệm vụ của COI về lư thuyết là bí mật, nhưng COI và Donovan đă được công luận chú ư không lâu sau khi thành lập cơ quan này. Tháng Giêng năm 1942, bài báo của kư giả Walter Karig có tựa đề "Cơ quan bí mật nhất ở Washington" xuất hiện trên tờ Tự do không úp mở ca ngợi cả Donovan và COI. "COI", Karig viết, "là cơ quan siêu gián điệp và phản gián của chính phủ. Biên chế của nó là tập hợp lớn nhất những bộ năo đồ sộ và trí tuệ nhanh nhạy mà một chính phủ từng huy động được từ các giảng đường đại học, cơ sở quân sự, các đoàn ngoại giao và cơ quan báo chí". Những bộ năo đồ sộ của COI liên quan tới "thông tin mật thu thập được bởi tất cả các cơ quan mật vụ liên bang khác" và đặt "rắc rối lên bàn tổng thống" chuẩn bị tuyên truyền và phản tuyên truyền thông qua Ban Thông tin Đối ngoại, và bố trí nhân viên cho Vụ nghiên cứu và Phân tích, trung tâm trí tuệ của COI.
Song, ngay từ đầu COI đă có kẻ thù. Giám đốc FBI J. Edgar Hoover đă mô tả COI là "sự điên rồ của Roosevelt", và cố ư làm phá sản ít nhất một sứ mạng của COI nhằm bảo vệ thế lực của chính ḿnh. Trong khi đó ONI và G-2 rất ít ngỏ lời hợp tác và, trong một vài trường hợp, đă cố t́nh giữ lại thông tin đối với nhóm của Donovan. Ngay trong COI cũng có bất đồng - về thủ tục, cách diễn giải và vai tṛ của Donovan. Những vấn đề của COI đă thúc đẩy Roosevelt băi bỏ cơ quan này ngày 13 tháng 6 năm 1942.
V́ nhiều nguyên nhân, COI đă thất bại, nhưng khái niệm cơ quan mật vụ tập trung được Donovan đỡ đầu đă có chỗ đứng vững chắc. Cùng ngày COI sụp đổ, Donovan trở thành giám đốc kẻ kế vị của nó, Cơ quan T́nh báo Chiến lược (OSS) được thành lập bởi mệnh lệnh quân sự theo thẩm quyền của Ban Cố vấn Quân sự Liên quân (JCS). Sắp xếp mới dưới quyền JCS không diễn ra một cách dễ dàng. Ngay từ đầu quân đội đă chống đối Donovan; ông là dân thường tham gia vào lĩnh vực quân sự theo kiểu tài tử hoặc đề xuất các chiến dịch mà họ phê phán. Trong cả hai trường hợp ông đều là kẻ chen ngang thiếu kinh nghiệm có những kế hoạch đe doạ an ninh, hiệu quả, và thành công quân sự". Tuy thế, JCS cũng đành miễn cưỡng đồng ư tiếp nhận Donovan và OSS với hy vọng kiểm soát được cả ông và tổ chức này.
Bất chấp những lo ngại của JCS, OSS nhanh chóng phát triển các chi nhánh chủ yếu của nó và thuê nhân viên. Một trong năm chi nhánh quan trọng là Chi nhánh nghiên cứu và phân tích (R&A) khá giống với COI; nó tuyển dụng một số người xuất chúng nhất nước Mỹ; chẳng hạn Ralph Bunche(11) được thuê để "xử lư những vấn đề về chính sách và chính quyền thuộc địa, vấn đề của người bản xứ và các quan hệ chủng tộc trong Đế quốc Anh". Các chuyên gia R&A lựa chọn và phân tích dữ liệu rồi chuẩn bị các báo cáo t́nh báo cho cơ quan và tổng thống. Các chi nhánh khác, bao gồm Chi nhánh T́nh báo (SI) tham gia thu thập bí mật tin tức t́nh báo; Chi nhánh Phản gián (X-2) chủ yếu đối phó với những hoạt động gián điệp, Chi nhánh Công tác Đặc biệt (SO) hoạt động sau pḥng tuyến địch, huấn luyện và giúp các nhóm kháng chiến trên khắp châu Âu và châu Á, cung cấp tin tức về mục tiêu, giúp các phi công bị bắn rơi; và Chi nhánh Công tác Tinh thần (MO) có nhiệm vụ tạo ra và phân phát sản phẩm tuyên truyền "đen", tức là loại h́nh tuyên truyền được làm giả một cách tinh vi. Đến khi OSS bị băi bỏ ngày 1 tháng 10 năm 1945, cơ quan này đă phát triển được "hơn 40 chi nhánh và đơn vị với một đội ngũ nhân viên được tuyển chọn kỹ lưỡng lên đến gần 13.000 người".
Suốt chiến tranh thế giới 2, những nam nữ thành viên OSS có nhiều phương thức hoạt động - từ chiến đấu cùng Kháng chiến Pháp phía sau pḥng tuyến địch đến chuẩn bị những báo cáo thống kê về dân số Burma - ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các sĩ quan được OSS lựa chọn và những ai không được Donovan hay nhân viên của ông tuyển mộ th́ phải xin được phục vụ. "Hầu hết những bổ nhiệm vào chức vụ cao nhất trong OSS nghiêng về phía các ứng viên Wasp(12), đặc biệt là những người tốt nghiệp nhóm các trường đại học nổi tiếng ở miền Đông nước Mỹ", nhà sử học Lawrence Mcdonalđ viết, "kích thích những người chỉ trích giễu cợt rằng những chữ viết tắt tên của cơ quan này là "Ôi, xă hội quá ta"(13) và "Ôi, trưởng giả học làm sang"(14). Giành được một vị trí trong OSS - đặc biệt là tại Chi nhánh Nghiên cứu và Phân tích - đối với một số người là ngon lành để phục vụ đất nước mà không phải dấn thân vào nguy hiểm chết người. Barry Katz viết:
Chí nhánh Nghiên cứu và Phân tích đă huy động một tiểu đoàn đáng nể toàn những học giả tiên tiến - những người có thiên hướng sử dụng tưởng tượng, hiểu chiến tranh trong các thuật ngữ chính trị và muốn góp sức. Washington thời chiến không phảí là dưới thời Pericles, Florence dưới thời Medici hay Weimar của Goethe, nhưng ở đây vẫn c̣n cái ǵ đó truyền cảm hứng về nó, cho dù động cơ của những cá nhân riêng biệt thường thực dụng hơn: chuyển đến OSS, nơi được biết đến trong quân đội như những uỷ ban trong suốt" - người ta có thề nh́n xuyên qua nhưng không thể phác thảo chúng.
R&A không phải là nơi duy nhất bị chỉ trích. Robert Sherwood, đă từng là sếp của Ban Thông tin Đối ngoại thuộc COI và là người viết diễn văn cho Roosevelt, một tác giả kịch bản (ông đă nhận 4 Giải thưởng Báo chí Pulitzer từ năm 1936 đến 1949), không mặn mà với MO và không đồng t́nh với sự ưa thích sử dụng biện pháp tuyên truyền đen của Donovan.
Sherwood và những người khác nêu ư kiến rằng tuyên truyền bắt nguồn từ nước Mỹ nên chủ yếu dựa vào sự thật chứ không phải những điều giả dối. Cho dù một số người tin rằng dẫu công tác rất cơ bản của MO trái đạo đức, nhưng tầm quan trọng của việc sử dụng những nhân viên đặc vụ mật, những người loan truyền tin đồn và thông tin sai lạc nhằm gây ra và làm trầm trọng hơn các mối bất hoà trong nội bộ đă được biết đến từ nhiều thế kỷ, và quan điểm của Donovan rơ ràng đă thắng những ư kiến không đồng t́nh. Trong OSS, MO trở thành bộ phận quan trọng của các chiến dịch diễn ra trên toàn thế giới.
Không kể những người phản đối sử dụng tuyên truyền đen, ở đây c̣n có những người chỉ trích đích thân Donovan.
Để chống Donovan, một vài người trong số họ c̣n sử dụng biệt danh cũ "Bill liều", mô tả cả Donovan và cơ quan của ông là hiếu chiến và vô trách nhiệm. Nhớ về OSS và Donovan, cựu Giám đốc CIA Ray S. Cline viết:
"Bill liều" xứng là biệt hiệu của ông ta v́ hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, ông ta cho phép phát triển một dạng hỗn loạn hành chính và thủ tục liều lĩnh nhất, cẩu thả nhất, trong khi tập trung vào tuyên mộ nhân tài ở bất kỳ nơi nào ông ta t́m được - tại các trường đại học, các cơ sở kinh doanh văn pḥng luật sư, trong các đơn vị quân đội, tại các bữa tiệc đứng ở Georgetown, mà thực ra là ở bất cứ đâu ông ta t́nh cờ gặp hay nghe thấy có những chàng trai, cô gái trẻ thông ḿnh và đầy nhiệt huyết muốn góp sức ḿnh. Những trung uư thân cận của ông ta và trợ lư của họ đều làm cùng một công việc tại cơ quan, và điều đó diễn ra trong một thời gian dài trước khi các phương pháp hệ thông cơ cấu nhân sự nhiều thứ tiếng bổ sung được soạn thảo. Donovan thực ra cũng chẳng quan tâm. Ông ta tin tưởng một số người trẻ tuổi có năng lực đến từ hăng luật của ḿnh ở New York có thể gíải quyết ổn thoả những bừa bộn hành chính tồi tệ nhất với lư lẽ rằng thành tích, nếu tốt, sẽ bào chữa cho cơ quan của ông ta và châm trước cho tất cả những bất hợp lư và lộn xộn.”
Donovan và thuộc cấp hầu như rất may mắn trong việc tuyển mộ những thanh niên Mỹ có năng lực về làm cho OSS.
Thực vậy, chính uy tín và huyền thoại cá nhân của Donovan đă lôi cuốn một số người đến với tổ chức này. Kư giả và là điệp viên của OSS Edmond Taylor nhớ lại sự thất vọng đôi lúc xảy ra đối với chính sách của OSS và quan hệ của ông với Donovan.
“Tôi phục vụ trong OSS - Taylor hồi tưởng - Mặc dù đôi khi gắn bó với nó chẳng v́ điều ǵ rơ ràng hơn sự hiện diện vô h́nh của Donovan trong tâm trí tối… Donovan là người đặc biệt tin vào học tập bằng làm việc, và chất tài tử đầy cảm hứng của ông vốn đă giúp tạo dựng bầu không khí trong OSS đôi khi gởi lại những tác phẩm trữ t́nh của Compton Mackenzie hay Evelyn Waugh. Mặt khác, thực tế là nhiều người c̣n chưa qua huấn luyện hay huấn luyện chưa đến nơi đến chốn, nhiều người Mỹ trẻ tuổi thoát chết trong những nhiệm vụ dựng tóc gáy của OSS và giành được những thành tích vẻ vang, thậm chí gây ấn tượng sâu sắc. Tất cả nói lên tằng triết lư của Donovan không hoàn toàn bất ổn.”
Dĩ nhiên là có nhiều điệp viên, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động mà OSS không đạt được các mục tiêu đă dự định của nó. Trong bài báo "Sự ra đời của các chiến dịch đặc biệt", Noel Poirier giải thích rằng "thiếu sót của OSS là kết quả của những nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và kém hiệu quả", và nhà sử học Gian Sutherland nói rơ, "các chiến dịch của OSS ở Bắc Phi không có giá trị chiến lược". Nhưng đặc biệt ở châu Âu, đóng góp của OSS là rất lớn. Đơn cử chiến dịch Italia, "nhiều sư đoàn OSS, từ từng cá nhân trên chiến trường đến những nhà hoạch địch chính sách ở Toà Bạch Ốc" đều góp phần vào thắng lợi cuối cùng của Đồng Minh. Ngoài ra, các nhóm Jedburgh (những đơn vị đặc nhiệm 3 người nhảy dù xuống hậu phương địch để giúp các nhóm kháng chiến) ở Pháp đă phá hoại cơ sở hạ tầng then chốt địch đang sử dụng và được xem là đă làm chậm phản ứng của Đức 48 tiếng đồng hồ trước cuộc đổ bộ ngày D.
Hoạt động của OSS tại châu Á khó khăn hơn nhiều so với ở châu Âu v́ nhiều nguyên nhân, trong đó có đặc trưng chủng tộc lớn hơn, vấn đề ngôn ngữ và những khác biệt văn hoá mà các điệp viên phải giải quyết trên thực địa. Tuy nhiên, ở đó cũng có những vấn đề về triết lư liên quan đến việc tái lập các thuộc địa của châu Âu.
Là người gần gũi với Roosevelt, không nghi ngờ ǵ nữa, Donovan đă nghe được t́nh trạng bất b́nh nhưng không nói ra liên quan đến sự tham gia của Mỹ hay sự phản đối trao trả các thuộc địa ở châu Á cho các chủ cũ châu Âu, nhất là pháp. Dẫu vậy, vị trí cá nhân của Donovan trong vấn đề này không được rơ ràng. Hiển nhiên, Donovan là (và đă từng là trong suốt sự nghiệp của ông) người ủng hộ mạnh mẽ cho Anh và những nỗ lực chiến đấu của nước này. Nhưng Donovan có lẽ cũng phê phán chính sách thuộc địa của Anh. Tác giả Anthony Cave Brown, người được tiếp cận nhiều hồ sơ giấy tờ về đời tư của cả Donovan và người bạn đồng thời là đồng nghiệp của ông - Otto C. Doering, đă viết: "Hồ sơ của ông Donovanl cho thấy ông đă lấy làm tiếc về những khía cạnh nào đó của chủ nghĩa tư bản và đế quốc Anh sau Chiến tranh Thế giới thứ 1, đặc biệt là về ách thống trị của Anh tại Ấn Độ".
Nhà sử học Stein Tonnesson đă đi đến những kết luận khác, đặc biệt liên quan đến chủ nghĩa thực dân Pháp: "Vị giám đốc OSS không chia sẻ về mặt cá nhân với thái độ chống Pháp và chủ nghĩa thực dân của Roosevelt, Tonnesson viết, "nên ông có lẽ chỉ là lựa chọn bất đắc dĩ cho việc thực thi tham vọng chống Pháp của tổng thống". Mặc dù bản chất chính xác trong quan điểm về chủ nghĩa thực dân của Donovan c̣n chưa rơ ràng, nhưng có thể thấy Donovan duy tŕ thành công các mối quan hệ hữu hảo với rất nhiều người châu Âu. Tác giả Brown, giống như những người khác, khâm phục t́nh bạn khăng khít giữa Donovan và Stephenson ở MI6 và quan hệ công tác tốt đẹp với ngài Louis Mountbatten - cả hai đều chứng minh rơ ràng rằng Donovan có thái độ làm việc thân ái với người Anh trong cố gắng chung của họ v́ chiến thắng của Đồng Minh. Donovan cũng có "t́nh yêu sâu sắc nước Pháp", và ông duy tŕ mối quan hệ chân thành với de Gaulle và với giám đốc t́nh báo, đại tá Andre Dewavrin cũng như với nhiều người Pháp khác. Dẫu Tonnesson nhất trí rằng Donovan có thái độ thân Pháp, nhưng ông cũng chống chế rằng về Đông Dương thuộc Pháp, "ḷng trung thành đối với Roosevelt của Donovan hầu như nặng kư hơn t́nh cảm thân Pháp của ông".
Không nghi ngờ ǵ nữa, Donovan trung thành với Roosevelt và làm theo những chỉ thị chính thức được gửi đến cho ông. Nhưng Donovan rơ ràng c̣n là một nhà tư tưởng độc lập và là một người hành động như biệt danh "Bill liều" của ông biểu thị. Ḷng trung thành của ông đối với Roosevelt trong bối cảnh này hàm ư rằng Donovan có thể tránh ủng hộ người Pháp trong nỗ lực cuối cùng giành lại thuộc địa của họ. Nhưng Donovan là một người say mê sâu sắc vai tṛ của t́nh báo và quan niệm thắng cuộc chiến. Thiếu những chính sách rơ ràng về vị trí của Mỹ trên các đế chế của châu Âu, Donovan và OSS hầu như tự do theo đuổi công tác t́nh báo ở những nơi và với những ai mà họ thấy phù hợp - trong đó có Pháp, những kẻ khát khao giành lại thuộc địa như đă khát khao chiến thắng kẻ thù.
Dù sao chăng nữa, như đă bàn đến trong chương I, hầu như trong Chiến tranh thế giới thứ II, Đông Dương thuộc Pháp là một trong những khu vực yên tĩnh hơn của mặt trận Thái B́nh Dương. Đến năm 1944, bất chấp cuộc tấn công quyết liệt nhằm giành lại vùng lănh thổ bị Nhật chiếm đang diễn ra, không có một chiến dịch lớn nào của Đồng Minh được tiến hành tại Đông Dương và nơi này cũng không nằm trong danh sách có vị trí chiến lược hàng đầu để phát động tấn công. Nhưng Đông Dương cũng không hẳn là không quan trọng. Đă có cân nhắc tấn công Indonesia để mở mặt trận phía nam chống quân Nhật tại Trung Quốc. Những thông báo về thời tiết cũng như sự chuyển quân và đồ tiếp tế cũng có ư nghĩa quan trọng đối với lực lượng Mỹ ở Trung Quốc, đặc biệt là Không đoàn 14 của tướng Claire Chennault. Donovan đă biết bao nhiêu, đặc biệt là về t́nh h́nh Đông Dương thuộc Pháp, thật "khó mà xác định", nhưng đối với ông nó không quan trọng bằng Trung Quốc và Philippines trên mặt trận Thái B́nh Dương và dĩ nhiên không b́ kịp tầm quan trọng của chiến trường châu Âu.
Tướng Claire Lee Chennault, chỉ huy phi đội Hổ Bay của Mỹ
Tuy nhiên, trong trường hợp Đồng Minh có thể tấn công Đông Dương thuộc Pháp th́ năm 1944, Kháng chiến Pháp dường như là nguồn cung cấp thông tin tốt nhất cho Mỹ.
Trong một giác thư gửi Tổng thống Roosevelt vào tháng 7, Donovan báo cáo rằng cả de Gaulle và tướng Antoine Bethouart đă nói với ông về phong trào kháng chiến ở Đông Dương. Lúc đó OSS đang cộng tác với tướng Zinovi Petchkoff (người mà Tưởng Giới Thạch gọi là "đại sứ" Pháp tại Trung Quốc) về "vấn đề khoảng 500 lính Pháp", những người được "huấn luyện cho các chiến dịch đặc biệt và sẽ, vào thời gian thích hợp, nhảy dù xuống Đông Dương". Nếu điều đó được thực hiện th́ các đặc vụ Pháp có thể đem lại sự giúp đỡ quư giá cho nỗ lực chiến tranh của Đồng Minh. Ngoài ra họ có thể tập trung chuẩn bị cho việc Pháp đ̣i lại Đông Dương sau chiến tranh. Tuy quan ngại của Donovan trong sử dụng lính dù Pháp đă khép lại vấn đề thực thi quyền hạn mặt trận (liệu chiến dịch này vào tay tướng Anh Mountbatten ở Ấn Độ hay tướng Mỹ Stilwell ở Trung Quốc) nhưng lại không chấm dứt những ư kiến chỉ trích triết lư về bản chất đế quốc có thể chấp nhận được của chiến dịch đặc biệt này.
Mùa hè năm 1944 nhiệm vụ quan trọng nhất của Donovan là cung cấp cho tổng thống, JCS và các chỉ huy quân đội thông tin t́nh báo cần thiết để giành chiến thắng. Lập trường của Donovan là đứng ngoài vấn đề đế quốc, nhiều giới chức trong OSS biết rơ quan điểm của Roosevelt về chủ nghĩa thực dân Pháp và đồng t́nh với ông. Nhờ có họ, và có thể nhờ Donovan, "OSS đă trở thành công cụ chính đối với thái độ và chính sách của Roosevelt". Bradley Smith viết: "Các quan chức cấp cao Mỹ c̣n khó chịu và lúng túng rằng "một nước Mỹ dân chủ lại liên minh với những đế quốc bóc lột nhưng yếu đuối ở châu Á". Nhưng ngay cả "những người của Donovan thực sự nản ḷng bởi viễn cảnh đứng cùng các đế quốc châu Âu" cũng cộng tác tốt với nhau, nhất là với người Anh, v́ một sự nghiệp lớn lao hơn. Các điệp viên OSS có khả năng bị lộ diện trước chủ nghĩa thực dân nhất nằm bên ngoài tôn ty của tổ chức và chắc là đă tự tập hợp vào trong công chúng Mỹ - những người Roosevelt tin là "không thể tiêu hoá" chủ nghĩa đế quốc. Nhưng những thanh niên nam nữ này cũng được tập trung vào mục đích chính của họ - giành chiến thắng. Và việc đạt được mục tiêu thực tế đó để lại rất ít cơ hội cho tranh luận tư tưởng về khả năng tạo ra một "thế giới tự do" không có những dấu hiệu tồi tệ hơn của chủ nghĩa đế quốc mà Roosevelt mường tượng trong những thời điểm thích hợp hơn của ḿnh.
Tại Đông Dương, cố gắng cung cấp viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến chống Nhật Bản đồng thời ngăn cản nỗ lực giành lại thuộc địa của nước này đă chứng thực một nhiệm vụ khó khăn cho tất cả các bên liên quan - từ những kẻ đưa ra quyết định cấp cao nhất đến những người có mặt trên thực địa tại Đông Dương. Dứt khoát không thể bảo đảm rằng viện trợ chống Nhật Bản sau đó sẽ (thậm chí c̣n cùng một lúc) được sử dụng chống lại người Việt Nam. Lúc đó Mỹ đă yêu cầu thông tin về t́nh h́nh dân chúng tại Đông Dương và cần ai đó thu thập tin tức cho họ. Trong khi OSS đang vật lộn để t́m chỗ đứng của ḿnh ở Đông Dương thuộc Pháp th́ những người khác đă t́m ra phương pháp thu thập tin tức t́nh báo trong khu vực này, và OSS sau đó sẽ cố gắng lợi dụng thành công của họ, đặc biệt là kinh nghiệm của đại uư Milton Miles của Hải quân Mỹ, và nhóm 3 người có hiệu quả cao trên phạm vi quốc tế c̣n được biết đến với cái tên GBT.
Chú thích:
(1) Louis Adamic (1899 - 1951) sinh tại Áo - Hung, năm 1913 di cư sang Mỹ. Có nhiều tác phẩm nổi tiếng như "Tiếng cười trong rừng rậm", "Cái nôi của cuộc sống", "Nước Mỹ của tôi".
(2) U Saw: Nhại sang tiếng Anh "you saw" nghĩa là "các bạn thấy".
(3) Wild Bill trong nguyên bản
(4) Prohibition: Luật cấm sản xuất, vận chuyển và buôn bán rượu có hiệu lực từ 1920-1933 tại Mỹ.
(5) Herbert Hoover (1874-1964): Tổng thống thứ 31 của nước Mỹ từ năm 1929 đến năm 1933.
(6) Roosevelt đọc Diễn văn Cách ly (Quarantine Speech) ngày 5/10/1937 kêu gọi cộng đồng quốc tế cách ly các quốc gia xâm lược.
(7) Robert Gordon Menzies (1894-1978), chính trị gia người Australia, giữ chức thủ tướng nước này hơn 18 năm.
( Secret Intelligence Service: Cục T́nh báo.
(9) Central Office of Information: Cơ quan Thông tin Trung ương
(10) White noise: Thông ồn ngẫu nhiên có cùng một mức năng lượng âm trong các tần số.
(11) Ralph Johnson Bunche (1904 - 1971): Nhà khoa học và ngoại giao Mỹ, nhận giải Nobel Hoà b́nh năm 1950.
(12) White Anglo-Saxon Protestant: Người Allglo-Saxon da trắng theo đạo Tin lành.
(13) "Oh So Social" trong nguyên bản.
(14) "Oh Such Snobs" trong nguyên bản.
http://archive.org/stream/causesoriginsles00unit#page/280/mode/2up
http://openlibrary.org/books/OL23285197M/Causes_origins_and_lessons_of_the_Vietnam_War.
OSS và Hồ Chí Minh -
Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật
Tác giả : Dixee R. Bartholomew - Feis
Dịch giả : Lương Lê Giang
3. Miles, Meynier và GBT
Mỹ không phải là quốc gia duy nhất quan tâm đến việc thu thập tin tức t́nh báo về Đông Dương thuộc Pháp. Anh, Nước Pháp tự do và Trung Quốc cũng t́m kiếm thông tin liên quan đến sức mạnh và di chuyển của quân đội Nhật với hy vọng lấy được những đầu mối cho kế hoạch tương lai của họ. Người Anh theo dơi rất chặt chẽ v́ sợ Nhật thành công trong việc đưa Ấn Độ vào GEACPS. Nước Pháp tự do dưới sự lănh đạo của de Gaulle cố xác nhận vị thế như một chính phủ hợp hiến của Pháp nhưng không gây nguy hại cho yêu sách đ̣i chủ quyền của người dân trên khắp Đông Dương. Người Trung Quốc, sợ rằng một cuộc tấn công vào sườn phía nam của họ có thể buộc Tưởng Giới Thạch và các bộ trưởng của ông ta phải rút lui, thậm chí sâu hơn vào nội địa. Cả bốn nước này là kẻ thù của Nhật và nước Pháp của chế độ Vichy do hoàn cảnh, nhưng không nước nào ở tư thế thích hợp để nhận được thông tin trực tiếp từ Việt Nam. V́ vậy, câu hỏi then chốt dành cho họ là làm sao có thể thu được thông tin t́nh báo cần thiết. Câu trả lời đến dưới dạng nhóm 3 điệp viên duy nhất c̣n được gọi là GBT.
"GBT" được tạo thành từ những chữ cái đầu của họ của ba cá nhân đặc biệt: Laurence "Laurie" Gordon, Harry Bernard và Frank "Frankie" Tan. Nhiều năm trước khi mạng lưới GBT sụp đổ, Gordon đă cung cấp thông tin cho người Anh, Bernard cho người Mỹ và Tan cho người Trung Quốc trong cái mà một cựu quân nhân của OSS mô tả là "một ví dụ thực sự sáng ngời của hợp tác quốc tế". Gordon được chấp nhận là lănh đạo nhóm, nhiều người nói một cách đơn giản là bộ ba và mạng lưới thông tin mà GBT thiết lập là nhóm Gordon. Gordon là người có mối quan hệ rộng răi. Sinh tại Canada, ông là công dân Anh, có tư gia tại California, nhưng nhiều dự án kinh doanh đă đưa ông đi khắp thế giới. Sau khi bán đồn điền cà phê của ḿnh ở Kenya, ông thử kinh doanh dầu sinh lời cao, quản lư những hoạt động khoan phá ở Ai Cập, Trung Quốc và Madagascar. Năm 1938 ông đến Hải Pḥng, Đông Dương thuộc Pháp, quản lư các công ty kinh doanh dầu cho Tổ hợp Cal-Texaco có trụ sở tại Beaumont, Texas. Mùa thu năm 1940, khi quân Nhật kéo vào khu vực này, ông đă rời miền Bắc Việt Nam để về Mỹ.
Sau khi ổn định bản thân và gia đ́nh tại California đầu năm 1941, ông báo cho chủ về việc thay đổi chỗ ở của ḿnh, nhưng Cal - Texaco muốn thuê ông trở lại Đông Nam Á để "trông nom những lợi ích của hăng". Gordon đồng ư và bắt đầu thu xếp cho chuyến đi, nhưng những sự kiện tháng 12 năm 1941 đă thay đổi đáng kể kế hoạch của ông. Với việc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng và hai bên tuyên chiến, đi tới Đông Dương đ̣i hỏi phải qua một nước bị kẻ thù chiếm đóng - một kỳ công không dễ dàng từ bên kia đại dương. V́ vậy Cal - Texaco đă nghĩ ra một kế hoạch cài Gordon vào Đông Dương dưới "vỏ bọc bán chính thức".
Thật là một sự trùng khớp ngẫu nhiên, chính người bạn đồng liêu của Bill Donovan, ngài William Stephenson, lại cung cấp vỏ bọc cho Gordon. Stephenson - "người có tên Dũng cảm" của Winston Churchill - đă giúp Gordon gia nhập Cơ quan T́nh báo Anh, và Gordon được "bí mật bổ nhiệm làm đại uư t́nh báo quân đội". Nhiệm vụ của ông là thiết lập một mạng lưới t́nh báo ở Đông Dương phối hợp với Phái bộ quân sự của Nước Pháp tự do (FMM) đóng cùng chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh, nhưng nhiệm vụ của Gordon nói dễ hơn làm nhiều.
Bất luận là quốc tịch nước nào, thu thập tin tức t́nh báo ở mặt trận Trung Quốc đều rất khó khăn. Tướng Tai Li, giám đốc tổ chức t́nh báo của Tưởng Giới Thạch, cố gắng kiểm soát tất cả mọi việc và mọi người ở Trung Quốc, nhất là về việc mua thông tin. Khi Tai Li c̣n tại vị ông ta đă làm như vậy với một bàn tay sắt dưới điều khoản bảo vệ cá nhân chính ông ta. Danh tiếng của Tai Li lan xa: ông ta được biết đến trên khắp Trung Quốc và trong cộng đồng t́nh báo Mỹ, Anh và Pháp. Tại Washington ông ta được biết đến như một kẻ ám sát (Tai Li được cho là đă hạ sát ngay cả mẹ đẻ của ḿnh) đă lập ra các trại tập trung để giam hăm những kẻ thù chính trị của ông ta. Ông ta không thích và không tin cả người Pháp lẫn người Anh, và họ thấy rất khó làm việc với ông ta ngay trong những hoàn cảnh tốt nhất. Đi lại bên trong Trung Quốc rất khó khăn nếu không được tổ chức của Tai Li cho phép, và gần như không làm được bất kỳ việc ǵ nếu không có "những quan hệ" cực kỳ quan trọng. Có được giấy thông hành và những giới thiệu cần thiết đ̣i hỏi những thủ tục rắc rối chỉ ít người biết đến. V́ thế, tháng 6 năm 1942 khi Gordon bước ra khỏi máy bay xuất phát từ New Delhi với hai chiếc radio xách tay mà ông đă kiếm được từ một người bạn tại đó ông đă bước vào một thế giới phức tạp của các thế lực chính trị cả Trung Hoa và Pháp.
Gordon nhanh chóng phát hiện ra những khó khăn khi cố gắng làm việc theo nguyên tắc chỉ đạo của Tai Li và những rào cản ghê gớm hơn liên quan đến hoạt động với FMM ở Trùng Khánh. Năm 1942, de Gaulle không phải là nhà lănh đạo tuyệt đối của Nước Pháp tự do. Dù đương nhiên ông có những người ủng hộ, song nhiều người vẫn trông cậy vào vai tṛ lănh đạo của tướng Henri Giraud, một nhân vật kháng chiến có tên tuổi. C̣n có những ḱnh địch trong các sĩ quan của FMM, và mưu toan làm việc với một nhóm bất kỳ nào cũng tạo ra sự chống đối từ nhóm khác. Gordon thấy ḿnh không thể hoạt động dễ dàng trong FMM và bắt đầu t́m kiếm hậu thuẫn ở nơi khác. Tuỳ viên quân sự Mỹ, đại tá Morris B. Depass Jr. đă giới thiệu ông với đô đốc Trung Quốc Yang Hsuan-cheng, một người có uy tín "đă uỷ quyền cho Gordon kinh doanh tại tỉnh Quảng Tây với điều kiện là ông không được cộng tác với t́nh báo Pháp".
Nằm ở biên giới đông bắc Bắc Kỳ, Quảng Tây là địa bàn tuyệt vời cho hoạt động kinh doanh. Để bảo vệ lợi ích của công ty, Gordon bắt đầu bằng việc lặng lẽ liên kết với các nhân viên của Cal-Texaco c̣n ở lại trong khu vực, nhưng công việc của ông sau đó thể hiện một thiên hướng khác.
Đại uư Archimedes Patti, một điệp viên của OSS từng điều tra GBT như một phần trọng trách của ông ở Đông Dương tháng 2 năm 1945, phát hiện ra rằng: Sau đó, dưới vỏ bọc một nhân viên làm nghề tự do, ông ta (Gordon) đă qua Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ để nối lại những mối liên hệ cũ, tập hợp lại những người Pháp và Việt Nam trung thành, mua những lượng lớn xăng dầu và các mặt hàng khác cung ứng cho thị trường chợ đen Trung Quốc, cùng lúc đó tổ chức một mạng lưới chỉ điểm v́ lợi ích của việc thu hồi tài sản của công ty. Những ǵ lúc đầu có lẽ là sự sắp đặt t́nh cờ sau đó bắt đầu mang dáng dấp của một tổ chức t́nh báo nghiệp dư.
Trong năm hoạt động đầu tiên của ḿnh, để dền đáp lại việc cung cấp thông tin, Gordon đă xoay được quỹ, trang thiết bị từ người Anh và nhân sự từ người Trung Quốc. Quan trọng hơn, ông kiếm được hai bạn hàng người. Đấy ỹ là Harry Bernard và Frank "Frankie" Tan. Bernard là một viên chức của hăng British-owned Asian Tobacco Monopoly và là cựu nhân viên của Cal-Texaco. Được mô tả là "nói ít và biết nhiều", ông là một nhân vật bí ẩn và thú vị. Cái đầu lạnh, cảm giác mạnh về năng lực và sẵn sàng cư xử kín đáo đă khiến ông trở thành một viên chức mẫu mực trong thời b́nh và bây giờ làm ông trở thành tài sản vô giá đối với Gordon. Trong những năm đầu của GBT, vai tṛ của ông thường bị che khuất bởi một Gordon tràn đầy nghị lực. Tuy nhiên sự hiện diện của Bernard bảo đảm cho bộ ba rằng những nhiệm vụ kém phần hấp dẫn của mạng lưới sẽ được hoàn thành mỹ măn. Cho đến đầu năm 1945 các báo cáo của OSS và người Pháp có xu hướng xếp Bernard và Tan như hai thành viên phụ của GBT. Dù vậy, vào thời gian đó Tan đă tạo dựng cho ḿnh tiếng tăm đủ để dệt nên thiên sử hấp dẫn nhất của ḿnh.
Là thành viên trẻ nhất trong nhóm, Tan mang trong ḿnh hai ḍng máu Trung Quốc và Mỹ. Sinh ra tại Mỹ và học tại trường Boston Latin, Tan xuất thân trong một gia đ́nh am hiểu cách mạng: người cha đă dính líu đến cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ nhà Thanh. Sau khi di cư sang Mỹ, cha Tan trở thành một bác sĩ thành đạt nhưng vẫn cảm thấy một hàng rào ngăn cách giữa ông và những người đồng tuế và "bị phân biệt đối xử với người da trắng".
V́ vậy, với những cơ hội có vẻ đang mở ra trên đất nước Trung Quốc đầu những năm 1930, gia đ́nh Tan chọn con đường hồi hương giúp Trung Hoa Dân Quốc xây dựng một đất nước ổn định và thịnh vượng. Sau khi tốt nghiệp đại học ngành cơ khí, Frank Tan đi làm cho General Small tại trụ sở riêng của Tưởng Giới Thạch, qua đó tạo được nhiều đầu mối trong cộng đồng người Hoa.
Thông thạo cả tiếng Anh và tiếng Trung, ông có thể hoạt động hiệu quả trong nhiều môi trường và với nhiều dân tộc khác nhau. Tan cũng liên hệ với người Anh. Dù chuyên môn kỹ sư của ông tỏ ra có ích trong công việc với General Small, nhưng nó không chuẩn bị cho ông đến với vô số vai ông sẽ đóng với tư cách một thành viên của nhóm Gordon. Giống như Gordon, Tan nhận trợ giúp của người Anh - Cơ quan T́nh báo Anh (MI5) đă huấn luyện Tan một số kỹ năng hoạt động bí mật. Ông cũng được huấn luyện cùng Đơn vị kỵ binh Rajputana 10. Năm 1938, Tan đến Đông Dương thuộc Pháp, nơi ông sẽ trực tiếp liên quan trong 7 năm sau đó.
Tan chỉ mới 26 tuổi khi gặp Gordon tại Hà Nội năm 1938. Mặc dù ông và Gordon sớm trở thành những người bạn tốt, nhưng hai người vẫn không cùng định đến hoạt động t́nh báo cho đến chuyến trở lại Đông Dương bí mật của Gordon năm 1942. Tuy vậy Tan không nhàn rỗi chút nào trong những năm tháng đó. Thành tích ban đầu của Tan đă cung cấp cho ông vô số kỹ năng làm nên thành công của GBT, và sau cuộc đảo chính của Nhật vào tháng 3 năm 1945 chính điều này đă làm Tan có tư thế hoàn hảo được trở thành người Mỹ đầu tiên đến Đông Dương cùng Hồ Chí Minh.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến Nhật - Trung, Tan chuyển lậu hàng quân sự Mỹ vào Trung Quốc, một nhiệm vụ không chỉ đ̣i hỏi những kỹ năng che đậy mà c̣n cả ḷng can đảm và sự từng trải. Tất cả những đặc tính đó đă sớm được thử thách khi ông bị Nhật bắt năm 1941 sau khi lên một con tầu dự định khởi hành đi Hồng Kông. Tan đă sử dụng nhiều mối quan hệ của ông trên khắp Việt Nam để làm cho việc đi lại của ông với tư cách là liên lạc viên bí mật giữa Trung Quốc và Đông Dương trở nên dễ dàng. Nghi ngờ những hoạt động của Tan, một tầu tuần tra Nhật đă kéo con tầu kia vào bến và bắt Tan để thẩm vấn. Ư thức được hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc của ḿnh, Tan nh́n quanh căn pḥng thẩm vấn bé nhỏ hầu t́m ra biện pháp trốn thoát khả thi nhưng vô vọng.
Bất chợt Tan than với lính Nhật rằng ông bị bệnh lỵ nặng và cần đi vệ sinh. Cho đây chỉ là tṛ bịp bợm, quân Nhật từ chối đề nghị của ông. Tuy nhiên Tan đâu dễ chịu buông tay. Ông lại than văn và bắt đầu kéo quần xuống như thể để giải quyết "nỗi buồn". Đến nước này các sĩ quan Nhật buộc phải cho ông vào nhà vệ sinh, khoá cửa và cử người gác bên ngoài.
Tan nhảy qua cửa sổ và trốn thoát vào Hăng Texaco của Mỹ. V́ Nhật và Mỹ lúc đó c̣n chưa tuyên chiến nên quân Nhật không thể dùng vũ lực bắt một công dân Mỹ. Nửa đêm Tan được ấn lên thùng một chiếc xe và đưa ra cảng. Tại đây thuyền trưởng một con tầu của Na Uy chuẩn bị đi Hồng Kông đă cho ông lên boong. Quân Nhật tiếp tục truy đuổi, nhưng khi tầu của một nước trung lập đang trên hành tŕnh chúng không thể bắt nó dừng lại. Thất bại ê chề, chiếc tầu tuần tra Nhật kè sát con tầu chở Tan với hy vọng được phép lên boong bắt Tan. May thay, chúng không nhận được cái chúng cần và Tan đến được Hồng Kông an toàn. Từ đây những thành tích chói lọi của ông tiếp tục gắn với sứ mạng quân sự của người Anh đến Burma Road(1).
Cuộc đào thoát của Tan lên tầu Na Uy, một nước trung lập không phải là cuối cùng v́ sau cuộc ném bom Trân Châu Cảng những tầu Na Uy và thuyền trưởng của chúng c̣n trở nên hữu dụng hơn đối với Tan và GBT. Mạng lưới đă thuê những con tầu trung lập để vận chuyển hàng quân sự từ các kho hàng ở Đông Dương thuộc Pháp sang Thượng Hải. Hàng được chuyển qua trước mũi quân Nhật khi GBT đưa chúng ra khỏi cảng Hải Pḥng để lên đường tới Rangoon và Burma Road. Trong một sứ mạng như thế Tan lại bị quân Nhật bắt.
Ông vừa hoàn thành một hợp đồng bán xăng máy bay cho người Pháp để ngăn không cho rơi vào tay Nhật và đang chuẩn bị khởi hành về Việt Nam th́ bị Nhật bắt lần thứ hai.
Chứng cứ về những hoạt động của ông thời gian đó, một tấm séc nhận từ người Pháp có mệnh giá 40.000 đô la nằm trong ví của ông. quân Nhật đă thẩm vấn và khám xét ông nhưng chúng lại quên kiểm tra những thứ đựng trong chiếc ví. Ông được thả và nhanh chóng lên một chiếc tầu Na Uy. Một lần nữa, lần này c̣n có cả nguồn tiền bạc đáng kể, Tan lại về được lănh thổ của Đồng Minh b́nh an vô sự.
Tan cho thành công của ḿnh và GBT là do khả năng "bắt đầu từ dưới đáy". Mỗi thành viên trong nhóm bắt đầu với những nhiệm vụ bí mật đơn giản nhất và rồi phát triển năng lực của ḿnh qua thời gian. Hầu như ngay lập tức cả ba người có thể cung cấp cho Đồng Minh cái mà Tan gọi là "phần đại cương của công tác t́nh báo", hay kiến thức chung như thông tin về vùng quê và "cách đi từ A đến B sao cho không ai thấy bạn". "Kiến thức chung", Tan chỉ rơ, "không thể có được một sớm một chiều. Nó được hiểu là một việc làm hợp pháp đưa bạn đến một xứ sở để bạn hiểu xứ đó và người dân ở đó. Bạn biết ai có thể tin tưởng". Cả ba ông đều có việc làm hợp pháp trong nước. V́ điều hành kinh doanh chính thức tại Việt Nam trước khi chiến tranh bùng phát nên họ có thể tiếp tục sinh hoạt trong những nhóm xă hội có cùng nghề nghiệp chính thức và đưa những người bạn và đồng nghiệp gần gũi nhất từ trước Chiến tranh thế giới 2 vào mạng lưới của ḿnh.
Những mối quan hệ không đếm xuể này đă cung cấp cho họ cơ sở hỗ trợ rộng lớn. Gordon báo cáo rằng ông "có thể ghé thăm nhóm những người bạn Pháp trung thành - những người biết và tin tôi". Điệp viên "số 2" của Gordon trong mạng lưới người Pháp là Helen Tong, thư kư của ông, một người Hoa tỵ nạn đến từ Việt Nam. Chị gái của Helen là Janet cũng làm việc tại văn pḥng của GBT và mẹ họ, bà Tong, điều hành "hộ gia đ́nh" GBT. Cả ba là những nhân viên quư giá - như khả năng phiên dịch từ tiếng Trung sang cả tiếng Anh và tiếng Pháp, kỹ năng văn pḥng và tổ chức của họ. "Số I" của Gordon hay điệp viên quan trọng nhất là Andre Lan, được biết đến dưới mă số "nhân viên số 22", một người quốc tịch Pháp đă có nhiều năm sống ở Đông Dương và đă chỉ đạo đưa nhiều người Pháp vào mạng lưới. Sau này Lan đă được tặng thưởng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh v́ những thành tích của ḿnh.
Bernard hoạt động tương đối đễ dàng trong giai đoạn trước khi Nhật đảo chính. Thực vậy, những thường dân Mỹ từ Việt Nam trở về đầu năm 1943 báo cáo với các nhân viên OSS ở Trung Quốc rằng họ được đi lại "tự do" trong thành phố và c̣n có thể kiếm được cả giấy phép ra ngoài thành phố nữa. Những đầu mối liên lạc người Hoa của Tan cũng hết sức cần thiết. Khi nhóm cần vào Sài G̣n một cách bí mật, họ đến gặp một nhân viên Texaco người Hoa, một trong những đầu mối của Tan, để nhờ giúp đỡ và được đáp ứng. Nói chung, mạng lưới của GBT được tạo dựng bởi "gia đ́nh của những người t́nh nguyện" gồm nhiều quốc tịch: Canada, Mỹ, Pháp; Trung Quốc, Việt Nam và Na Uy.
Không ai trong số ba thành viên kiếm tiền cho những nỗ lực của ḿnh mặc dù chi phí của họ thường được các cá nhân và tổ chức khác đài thọ. Cuối cùng GBT đại diện cho quyền lợi và nhận nguồn tài chính từ những người Hoa, đặc biệt là đô đốc Yang - người đứng đầu cơ quan t́nh báo của Hội đồng Quân sự Trung Hoa Dân Quốc (dưới trướng Tai Li) và tướng Trương Phát Khuê - chỉ huy quân đội Quốc Dân Đảng ở các tỉnh miền nam Quảng Tây và Quảng Đông; cơ quan t́nh báo MI5 của Anh, Nước Pháp Tự do và nhiều người Mỹ, trong đó có các tướng Stilwell và Wedemayer, tướng Chennault - chỉ huy Không đoàn 14 đóng tại Trung Quốc. Gordon, Bernard và Lan tự xem ḿnh là đại diện cá nhân của Chennault và có giấy phép hoạt động thay mặt cho ông ở bất kỳ nơi nào có cơ sở của Không đoàn 14. Bởi tầm quan trọng của các thông tin t́nh báo từ Việt Nam nên tất cả các nhóm này đều muốn kiểm soát các hoạt động của GBT và tiếp cận nhân viên trong mạng lưới của họ. Tuy nhiên, đến giữa năm 1942 thành công của họ có thể được cho là nhờ họ sẵn sàng làm việc với bất kỳ ai trong khi vẫn không phụ thuộc người nào. Dù nhiều người trông cậy nhóm Gordon cung cấp tin t́nh báo về Đông Dương, nhưng GBT không phải là tổ chức duy nhất vật lộn nhằm phát triển một mạng lưới hiệu quả.
OSS đă hoạt động không mệt mỏi từ khi nổ ra chiến tranh Thái B́nh Dương để tạo dựng sự hiện diện tại mặt trận đó nhưng không mấy thành công. Tướng Douglas McArthur có cơ quan t́nh báo riêng và thấy không cần đến OSS trong khu vực tác chiến của ḿnh. Nhưng như nhà sử học R. Harris Smith đă giải thích: "Việc ngăn chặn hoàn toàn OSS khỏi Nam Thái B́nh Dương có một tác dụng phụ quan trọng về mặt tổ chức - Donovan bị buộc phải duy tŕ một căn cứ Trung Quốc cho các chiến dịch ở châu Á". Việc thành lập "căn cứ Trung Quốc" sau đó cũng đẩy OSS vào các vấn đề của Đông Dương. Tuy nhiên, như với bất kỳ vấn đề nào ở Trung Quốc trong những năm 1940, việc thành lập một căn cứ tác chiến là nhiệm vụ không dễ dàng. V́ thế Donovan buộc phải t́m một người hiểu biết về Trung Quốc và có thể đạt được một số thành công khi làm việc trong và xung quanh những ranh giới do Tai Li và Tưởng Giới Thạch tạo ra. Người được lựa chọn cho việc này là đại uư Hải quân Mỹ Milton "Mary" Miles.
Tổng thống Roosevelt đă trao trách nhiệm quan trọng thu thập tin t́nh báo ở Trung Quốc cho hải quân ngay từ đầu chiến tranh, và tháng 3 năm 1942 Miles được cử đến Trùng Khánh để lănh đạo Nhóm Hải quân Trung Quốc. Nhiệm vụ chính của ông là phát triển các trạm khí tượng và một hệ thống cảnh giới bờ biển để hỗ trợ cho Hạm đội Thái B́nh Dương. Trong nhiều lư đo, Miles là lựa chọn hoàn hảo cho vị trí này. Sau khi tốt nghiệp Học viện Hải quân năm 1922, ông bắt đầu chuyến công tác kéo dài 5 năm tại Hương Cảng. Kết quá là Miles trở nên thông thuộc một sổ lượng lớn các hải cảng dọc miền duyên hải Trung Quốc cũng như những con sông chảy ra ngoài lănh thổ nước này. Ông say mê văn hoá và lịch sử Trung Hoa và học được tiếng Quảng Đông và Quan thoại. Sự sành sỏi các món ăn và ngôn ngữ Trung Hoa của ông đă gây được thiện cảm của nhân vật quan trọng nhất - Tai Li. Miles và Tai Li nhanh chóng phát triển mối quan hệ công tác tốt và Tai Li đồng ư giúp Miles theo đuổi mục đích t́nh báo của ḿnh.
Bởi nhóm Hải quân Trung Quốc hoạt động nhằm làm vui ḷng chính phủ Trung Quốc nên Miles rút ra kết luận, cách tốt nhất để thực hiện nhiệm vụ của ḿnh là tạo dựng một "kế hoạch hữu nghị" nhằm kết hợp một mạng lưới t́nh báo của Mỹ và Trung Quốc. Dường như có những chữ kư đích thực từ các chính phủ đáng kính của họ, kế hoạch hữu nghị đă tiến triển, với Hải quân Mỹ đi đầu trong việc thu thập tin tức t́nh báo ở Trung Quốc và Đông Dương láng giềng. Mùa thu năm 1942, Donovan "hăm hở thực hiện một cách liều lĩnh nhiều hoạt động quy mô của OSS ở một nơi nào đó", hy vọng mối quan hệ của Miles với người Trung Quốc cũng là cơ hội đối với OSS. Điệp viên Donovan cử đi đánh giá mối quan hệ Miles - Tai Li đă báo cáo về rằng Miles "đă giải quyết được toàn cảnh lục đục nguy hại, và OSS có thể hoặc chấp nhận đề nghị của ông ta và được đặt vào tư thế hành động, hoặc từ chối nó và có ít cơ hội phát triển căn cứ tác chiến ở đó".
Chấp nhận độc quyền của hải quân về tin t́nh báo trong khu vực, ít nhất cũng là tạm thời, tháng 12, Donovan chỉ định Miles làm giám đốc OSS khu vực Viễn Đông.
Kế hoạch hữu nghị được chính thức hoá và tháng 4 năm 1943 được chính phủ phê chuẩn như Tổ chức Hợp tác Hán - Mỹ (SACO) với Tai Li làm giám đốc và Miles làm phó giám đốc SACO sẽ tham gia huấn luyện du kích, gián điệp, hoạt động phá hoại và ngăn chặn điện đài. Phía Trung Quốc cung cấp nhân lực và Mỹ chịu trách nhiệm huấn luyện, cung cấp vũ khí, cơ sở vật chất và các trang thiết bị khác. Miles đă dày công tạo ra những mối quan hệ cần thiết khiến SACO làm việc cho Hải quân Mỹ và Trung Quốc, và ông không mấy vui khi được bổ nhiệm tại OSS. Một điệp viên được Donovan cử đi thẩm định Miles và kế hoạch hữu nghị đă báo về rằng Miles "100 phần trăm là Hải Quân, và 0 phần trăm OSS". Hơn nữa, Miles cũng nói rơ với điệp viên này là ông sẽ không tha thứ cho bất kỳ "sự can thiệp" nào từ phía OSS và sẽ không chấp nhận "bất kỳ nhân viên nào không do ông chọn lựa", và cũng không hành động dựa vào bất kỳ "chỉ thị nào mà ông không cho là sáng suốt". Thậm chí Miles c̣n doạ "gửi tất cả các đường dây cho OSS nếu các điều kiện của ông không được chấp nhận". Quan hệ của Miles với OSS căng thẳng thậm chí trước khi SACO mở đầu suôn sẻ. Đầu năm 1943 tại Washington, Miles hội kiến Donovan và Uỷ ban Kế hoạch của OSS và lo ngại trước những ǵ tai nghe mắt thấy. Với Miles, vốn tự cho ḿnh là người bạn gần gũi của Trung Quốc, thái độ của những người có mặt là không thể tha thứ. Ông viết: "Cái làm tôi khó chịu nhất là trong những người có mặt có một số thương gia châu Á trước chiến tranh vẫn bám chặt vào đường lối "uy quyền tối cao của người da trắng" cũng như một vài kẻ khác "theo đuôi đường lối Đế quốc Anh", thậm chí c̣n có một hoặc hai quư ông "hăy thay đổi Trung Quốc già cỗi và nghèo đói.. Về những văn pḥng OSS ở Washington th́ tại đó có vài kẻ chẳng mấy quan tâm đến chủ quyền của Trung Quốc và không ưa ǵ chính phủ của Tưởng Giới Thạch".
Bởi vậy, ngay từ đầu việc Miles liên kết với OSS đă diễn ra không xuôi chèo mát mái. Bradley Smith, tác giả cuốn "Những chiến binh bóng tối: OSS và nguồn gốc của CIA", đă kết luận rằng: "V́ cả Tai Li và Miles đều không muốn thấy OSS phát triển và thành công nên thoả thuận của SACO là một trở ngại, một thời gian dài đă hạn chế và kim hăm các hoạt động của OSS ở Viễn Đông". Nhóm t́nh báo của Miles đă góp phần vào những thành công tại Trung Quốc. Tướng Chennault đă ra lệnh cho một "nhóm khá lớn sĩ quan Hải quân của Miles", những người đă cung cấp cho Không đoàn 14 "tin t́nh báo về tầu bè, phải giải thích bằng h́nh ảnh và giữ cho chúng tôi liên lạc thường xuyên với Hạm đội Thái B́nh Dương". "Mối liên lạc hiệu quả này", Chennault tuyên bố, "mang lại nhiều lợi ích cho những cuộc tấn công tầu thuyền địch". Lời ca ngợi của ông có ảnh hưởng lớn trên mặt trận Trung Quốc, và trong trường hợp của GBT cũng vậy, sự chấp thuận của ông đă cho phép SACO nhiều tự do hành động. Khi SACO đang được chính thức hoá tại Washington và Trùng Khánh, Miles vỡ lẽ ra là Đông Dương cũng rơi vào tầm hoạt động của ông.
Trong nghiên cứu ban đầu về t́nh h́nh miền Bắc Việt Nam, Miles nhận thấy trong những thuật ngữ t́nh báo, "Không có những hoạt động như vậy" diễn ra, và hơn nữa "tướng Tai Li hầu như không thể làm ǵ liên quan đến Đông Dương". V́ vậy Miles đă phải trông chờ một nơi nào đó để thực hiện bổn phận của ḿnh. Trở ngại đầu tiên của Miles trong mở rộng thành phần cảnh giới bờ biển dọc theo miền duyên hải Bắc Kỳ liên quan đến quyết định cộng tác với ai ở Việt Nam. Tướng Tai giải thích với ông rằng ở đó có "các nhóm người Pháp, người Anh và người Hoa cũng như một vài nhóm người bản xứ khác, mỗi nhóm có những mục đích và tư tưởng riêng" và rằng trong cộng đồng người Pháp có rất nhiều nhóm đang tranh giành quyền lực.
Mùa xuân năm 1943, Miles yêu cầu Donovan giúp giải quyết t́nh h́nh này. Donovan cử ông trở lại Trung Quốc nhưng ra lệnh cho ông trên đường đi dừng lại ở Bắc Phi.
Cũng vào mùa xuân năm 1943, tướng Henry Honoré Giraud đảm đương quyền kiểm soát Bắc Phi thuộc Pháp, lúc này đă giành lại tự do từ tay chính phủ Vichy và Đức, và rất vui được tiếp kiến Miles theo thỉnh cầu của Donovan. Giraud đề nghị Miles liên lạc với một anh hùng trẻ tuổi của Hải quân Pháp, sĩ quan Robert Meynier, người tạm thời chưa được bố trí sau khi nhận Huân chương Chữ thập chiến(2) v́ đă dũng cảm tấn công tầu ngầm Đức và Italia. Miles và Meynier có thiện cảm với nhau ngay lập tức, và Miles đi đến kết luận rằng ông đă t́m được người giúp đỡ ḿnh. Tuy nhiên ở đây lại nảy sinh bất ổn: Nếu Miles muốn thuê Meynier th́ ông phải chấp nhận vợ Meynier như một phần của hợp đồng. Đă được nghe về người người phụ nữ trẻ, người sẽ được biết đến như "công nương của SACO", Miles hăm hở cho bà tham gia hoạt động.
Colonel Khar Kunjara, Katiou Meynier, and General Dai Li at a banquet in Chongqing
Katiou Meynier, một phụ nữ khả ái mang hai ḍng máu Âu và Á xuất thân trong một gia đ́nh Việt Nam danh tiếng. Theo các nguồn tin của Miles th́ bác của bà, Hoàng Trọng Phu, là tổng trấn Bắc Kỳ và là một thành viên của Uỷ ban Bí mật của Quốc vương Bảo Đại. Ảnh hưởng của ông, như đă được báo cáo, bao trùm khắp đất nước, trong đó có cả khả năng kiểm soát nhóm chính trị được lựa chọn lớn nhất Đông Dương. Cha bà, Đỗ Hữu Thịnh, là một người có quyền lực thực tế. Theo tường tŕnh th́ ông kiểm soát những nhóm chính trị lớn ở Nam Kỳ. Trong nhật kư của ḿnh Miles đă viết những ḍng sau đây về Meynier và cha bà:
Cha bà là lănh đạo nhóm quốc dân cách mạng lớn nhất Nam Kỳ. Tựu chung họ được gọi là những người Cộng sản, Đỏ, Cách mạng và Bônsevich. Trên thực tế, phần lớn bọn họ là đáng lo ngại không phải v́ muốn lật đổ chính phủ mà v́ họ trở thành đại diện lớn hơn cho thành phần dân tộc trong chính phủ do Pháp điều hành. Bất luận thế nào họ cũng không xem ḿnh hoàn toàn có khả năng đánh đuổi Pháp cũng như điều hành chính phủ nếu như Pháp bị đánh đuối. Tôi không tin từ tất cả những ǵ nghe được rằng nh́n chung họ muốn người Pháp ra đi cho dù ở đây có một số hành động xúi giục theo hướng đó. Vai tṛ nổi bật nhất mà họ đóng là đại diện lớn hơn cho người bản xứ trong nghị viện. Vài năm trước, khi nhóm có quy mô lớn mà cha bà Meynier là lănh đạo được chính phủ Pháp nhượng bộ, th́ họ đă tách ra khỏi thành phần Đỏ tả khuynh hơn và trở thành cái được biết là cánh Dân chủ hay Đảng Dân chủ Đông Dương. Cha bà Meynier là lănh đạo của nhóm này và đem theo hầu hết môn đệ của ḿnh. Họ dường như đổi tên nhóm của ḿnh một cách hú hoạ cho phù hợp với t́nh h́nh. Một số người tin rằng họ chống Pháp. Đă sống với họ suốt cả đời ḿnh, bà Meynier có thể được xem là một chuyện gia về vấn đề này.
Bà Meynier, Miles kết luận, "đặc biệt khao khát được bảo vệ người dân nước ḿnh trước cả Pháp và Nhật Bản cũng như trước tất cả những thế lực nước ngoài khác", một t́nh cảm phù hợp với yêu cầu của Miles cũng như của chính bà. Do đó Miles kết luận, có nhiều cái lợi thu được từ bà Meynier và ảnh hưởng của gia đ́nh bà. Tuy nhiên, tướng Giraud thông báo cho ông rằng đưa người nhà Meynier vào nhóm có thể đặt ra, như ông tŕnh bày, "chút ít khó khăn".
"Khó khăn" là Katiou Meynier bị giam trong một trại giam Đức trên đất Pháp. Miles đồng ư với điều kiện giải thoát bà và để OSS thu xếp cho bà đào thoát. OSS yêu cầu Lực lượng Đặc nhiệm Anh (SOE) cả tướng Giraud và de Gaulle cũng giúp lên kế hoạch giải thoát bà. Mặc dù một "đơn vị biệt kích" Pháp đă dàn dựng thành công một vụ "vượt ngục" nhưng ba điệp viên Anh và bảy điệp viên Pháp đă thiệt mạng để giải thoát người phụ nữ sẽ có lúc được gọi là Nữ hoàng của SACO. Dù đau ḷng về cái chết của những người Pháp, nhưng tướng Giraud liên tục cho là cuộc tập kích "xứng với tổn thất v́ danh tiếng của bà (Katiou Meynier) ở Đông Dương".
Rơ ràng là người An Nam sùng bái cái nền tảng mà ở đó bà hiện diện v́ bà vừa là một nữ hoàng lại vừa là một Nữ tu.
Theo Katiou Meynier, sau khi được tự do bà đă đi khắp nước Pháp giống như một "lá thư có dán tem" cho đến khi được bay sang London, nơi bà được tiến sĩ Wellington Ku, đại sứ Trung Quốc tại Anh, đón tiếp. Không may cho Katiou Meynier, khi bà đến, chính quyền Anh có một số nghi ngờ đối với bà. SOE đă bị làm cho có ấn tượng sai về bản chất đích thực của chiến dịch giải cứu bà Meynier. Một lần nữa bất đồng trong quan điểm chính trị của người Pháp lại phát huy tác dụng: SOE hậu thuẫn de Gaulle và kế hoạch đưa Miles và Meynier lại với nhau được hậu thuẫn chủ yếu bởi Giraud. Tuy nhiên, Miles đă thu xếp giữ Katiou Meynier trong ṿng bí mật tại London. Chỉ huy OSS Dunius Morgan đă né tránh người Anh và đăng kư cho bà vào khách sạn Ritz dưới tên Paula Martin, thành viên Quân đoàn nữ hỗ trợ Đồng Minh của quân đội Mỹ (USWAC). Bà được chỉ thị phải giả vờ bị viêm họng không thể nói được và người bạn gái nói tiếng Anh của bà sẽ đối đáp thay bà khi cần thiết. Katiou vào vai rất tốt, và với nét mặt cùng phong cách tao nhă, bà đă yên ổn trải qua khoảng thời gian lưu lại London. Vài ngày sau bà được bay đến Calcutta, nơi bà được đoàn tụ với người chồng đang cháy bỏng niềm mong mỏi của bà.
Dẫu vậy vẫn c̣n một khó khăn khác liên quan đến thiết lập sứ mạng của Meynier tại Đông Dương. Để đơn giản hoá việc tạo ra mạng lưới ở Đông Dương, Robert Meynier đă xoay xoả cho một nhóm người An Nam trẻ tuổi, sĩ quan Pháp và các tu sĩ "được thả" khỏi trại tù binh chiến tranh của Đức ở Bắc Phi. Người Anh cũng có một số nghi ngờ với nhóm này.
Để lẩn tránh nhà đương cục, nhóm đă khoác tấm b́nh phong "Quân đội Tự do Philippines" và đáp máy bay vận tải của Anh đến Bombay. Họ đến nơi mà không gặp bất kỳ sự cố nào bởi, theo Miles, "không ai trong số những người họ tiếp xúc biết về sự khác biệt giữa ngôn ngữ và ngoại h́nh của người Philippines và An Nam". Cả nhóm, bao gồm cả vợ chồng Meynier, giấu ḿnh tại Calcutta trong một ngôi nhà do USWAC và "người Philippines" thuê cho đến khi Miles có thể thu xếp cho họ đến Trùng Khánh.
Với những nhiệm vụ phải triển khai, Miles và Meynier có thể tập trung lên kế hoạch cho sứ mạng của họ: phát triển một mạng lưới t́nh báo tại Đông Dương. Ngày 15 tháng 10 năm 1943 Miles báo cáo rằng "hơn một năm qua tôi đă điều tra các hoạt động chính trị ở Đông Dương, đă trao đổi với nhiều người theo phong trào đ̣i độc lập về vấn đề này và bây giờ tôi có dưới quyền ḿnh một vị người Pháp và An Nam hoàn toàn nhận thức được những điều kiện tại quê hương họ cả trong quá khứ cũng như hiện tại". Nhưng dù Miles có lạc quan th́ hoàn cảnh vẫn không diễn ra như ông mong đợi. Vợ chồng Meynier và những người "Philippines" gặp rắc rối ngay từ khi đến Trung Quốc.
Giấy tờ của Robert Meynier, do cả Giraud và de Gaulle kư, cho thấy ông sẽ tŕnh điện tướng Zinovi Petchkoff và đại tá tham mưu trưởng Emblanc của FMM ở Trùng Khánh. Cả Petchkoff và Emblanc đều bất b́nh v́ không được tham gia chuẩn bị cho nhóm Meynier và không "hoàn toàn kiểm soát" nhóm này. Những cuộc họp đầu tiên với cả hai ông là một thảm hoạ. Trong cơn nóng giận, đại tá Emblanc nói rằng ông sẽ không cho họ vào Đông Dương. Tướng Petchkoff doạ bỏ đi Bắc Phi ngay lập tức và "đưa những chiến sĩ Pháp của ông đi cùng". Sử dụng sự lôi cuốn cuốn của ḿnh, Meynier cố tái cam đoan với vị tướng rằng sứ mệnh của Meynier không hề đe doạ vị trí của Petchkoff cũng như FMM nói chung. Dẫu vậy Petchkoff một lần nữa lại trở nên "cực kỳ bực ḿnh khi ông nghe nói bà Meynier cũng có mặt trong nhóm" bởi v́, ông cho rằng, "v́ bà ta là một người An Nam, điều đó sẽ giúp tăng cường sức mạnh chống Pháp của người An Nam ở Đông Dương". May thay, Meynier t́m ra cách xoa dịu FMM, chí ít cũng trong một thời gian ngắn. Meynier phát hiện ra rằng FMM không hề nhận được bất kỳ nguồn tài chính nào từ người Anh (những người mà họ phụ thuộc) trong vài tháng và ông "có thể làm dịu t́nh h́nh chút ít bằng chuyển giao hơn 2 hoặc 3 ngàn đô la của quỹ OSS để "ngăn không cho họ chết đói".
Kết quả là FMM cho phép Miles và OSS chia sẻ một số tin tức t́nh báo của họ đến từ Đông Dương. Petchkoff đồng ư phái Meynier đi làm nhiệm vụ tạm thời với SACO, và ông cùng những "người Philippines" bắt đầu kế hoạch một cách nghiêm chỉnh. Lạc quan về thành công của cuộc phiêu lưu mới này, Miles báo cáo Donovan, người vào tháng 3 đă trở thành thiếu tướng, rằng "trong ṿng vài tháng chúng tôi có thế có từ 200 đến 300 điệp viên làm việc cho chúng tôi tại Đông Dương nếu chúng tôi cần đến họ".
Nếu sứ mạng của Meynier hoàn toàn thành công th́ OSS sẽ có một mạng lưới bí mật tuyệt vời tại Việt Nam. Meynier lên kế hoạch phát triển một hệ thống chỉ điểm và đặc vụ, những người sẽ "tuyên truyền cho người bản xứ và cổ vũ cuộc kháng chiến chống Nhật của họ"; "phá huỷ" và "quấy phá" tầu Nhật; buôn lậu nguyên vật liệu vào Trung Quốc; và "thuyết phục các sĩ quan hải quân Pháp và binh lính đánh đắm tầu của họ vào thời điểm thích hợp nếu không thể đưa chúng ra chiến đấu cùng chúng ta". Và đến giữa tháng 10 Miles đă xác định được phần lớn nhiệm vụ của ḿnh ở Đông Dương. Trong một chuẩn y yêu cầu ghi nhớ rải truyền đơn tại Việt Nam, Miles lưu ư rằng có những nhóm cách mạng nào đó với nhiều thành viên tồn tại ở phía tây thành phố Sài G̣n. "Những nhóm cách mạng này", Miles bổ sung, "không thân Nhật, nh́n chung, họ ủng hộ người bản xứ". Miles tin truyền đơn, do cả người Việt và Pháp chuẩn bị, sẽ rất có tác dụng trong việc thuyết phục không chỉ những nhóm này mà cả những nhóm khác ở Nam Kỳ ủng hộ sự nghiệp của Đồng Minh. Một nguyên nhân khiến ông lạc quan là ông tin tưởng Katiou Meynier sẽ thành công rực rỡ trong việc thay mặt nước Mỹ tuyên truyền cho người Việt Nam. Trong nhật kư của ḿnh, ông khoác lác rằng "bà rất kính trọng người Mỹ và đă nhận thức được thực tế là trong tất cả các nước liên quan đến Đông Dương, duy chỉ có người Mỹ là không có tham vọng về lănh thổ". Hơn nữa, ông xem bà là "người lư tưởng" trong quan hệ với người bản xứ", một phần v́ Katiou Meynier có sự phê chuẩn chính thức và v́ "bà là công nương theo tiêu chuẩn của ḿnh cũng như công nương của người An Nam". Ngoài phả hệ ra, Katiou Meynier c̣n học rất nhanh tiếng Anh và tiếng Trung và được ghi vào danh sách dưới bí danh Paula Martin với tư cách là tác giả kế hoạch tuyên truyền cho Đông Dương của Miles. Kế hoạch này nhằm vào Đảng Dân chủ Đông Dương, trong số nhiều chính đảng khác, không nghi ngờ ǵ nữa bởi sự tham gia của cha bà vào đó. Đảng này được mô tả là "bao gồm tất cả những người có quốc tịch Đông Dương hoặc gốc Pháp", nhưng bà Meynier khẳng định, phân loại thành "chống Pháp" là sai lầm bởi đấy chỉ là cái mác, các thành viên của nó chỉ mong muốn Việt Nam độc lập. Trong khi viết báo cáo, bà hết sức thận trọng khiến mọi người chấp nhận "Đảng Dân chủ Đông Dương" và "7 hoặc 8 nhóm được gọi là "những nhà cách mạng dân tộc" vừa thiên về chủ nghĩa quốc gia vừa chống Nhật. Mục C của kế hoạch nêu rơ: "Không được quên rằng đối với người Nam Kỳ, không chỉ có "các nhà cách mạng dân tộc" được hưởng sự bảo vệ vũ trang của Nhật mà c̣n cả chính quyền, thường dân và quân Pháp. Như toàn quyền Decoux vẫn thường nói, người Nhật đang giúp chúng ta bảo vệ Đông Dương và duy tŕ chủ quyền của Pháp ở nơi này".
Katiou Meynierl được mô tả là "người nhỏ bé, xinh đẹp, tṛn trịa và đă từng chiến thắng trong một cuộc thi hoa hậu", rơ ràng đă gây ấn tượng và bỏ bùa mê cho Mi1es cũng như nhiều người khác quanh bà, nhưng bà cũng không tránh được nhiều người gièm pha. Trung uư hải quân Robert Larson tuyên bố rằng ông "không muốn tập thói quen đi cùng một người đàn bà hư hỏng". Khi đến Nam kinh cùng nhóm của Meynier, Larson đă viết cho Miles về chuyến đi và địa điểm mới của họ và không thể tránh đưa vào báo cáo của ḿnh một đoạn chỉ trích bà Meynier. Thái độ bực dọc của ông thể hiện cả ở việc bà được nuôi dạy như một "công nương", và thực tế là Larson đang tiến hành một sứ mạng quân sự với công việc phải làm và dĩ nhiên không trông đợi mua vui cho "công nương" trên đường. Bức công văn của ông về bà Meynier đă bổ sung không cố ư một mức độ hài hước vào báo cáo hàng ngày. Ông giận dữ:
Nếu muốn đi tiểu vào lúc nửa đêm th́ bà ta đánh thức chồng (Meynier) dậy, cho nên cả tôi cũng phải dậy luôn, cốt để ông ấy có thể đi cùng bà ta. Một trong số những con mèo của bà ta bị mất thế là tất cả mọi việc đều phải dừng lại lúc 5 giờ 30 sáng để t́m con vật. C̣n về mua sắm, tôi ngạc nhiên là ngài chỉ huy có bao nhiêu là tiền và nếu muốn cái ǵ là bà ta bám riết cho đến khi có được mới thôi.
Chắc chắn nhận thức được thiện cảm ngày một lớn của Miles dành cho gia đ́nh Meynier nên Larson xuống giọng và bổ sung, "Tôi vẫn nghĩ bà Meynier rất hấp dẫn, rất đáng yêu và hội đủ mọi tố chất mà một người đàn bà cần có".
Khi đă an toạ tại Nam Kinh, nhóm của Meynier, gồm cả Katiou, nhanh chóng bắt đầu công việc kinh doanh, siết chặt an ninh nơi ở cho ḿnh và những người Việt Nam làm việc cùng họ, thiết lập một trạm điện đài ở vùng nông thôn bên ngoài thành phố. Tuy nhiên, nhiều vấn đề đối với nhóm đang gia tăng. Các điệp viên OSS đang dùng mánh lới để giành được nhiều hơn quyền kiểm soát sản xuất và sử dụng tuyên truyền, sử dụng "chiến tranh tâm lư". OSS cử thiếu tá Jack de Sibour làm lănh đạo nhóm "Sứ mạng Đông Dương" dưới quyền Miles. Meynier theo dự tính sẽ làm việc trực tiếp với de Sibour mặc dù về mặt kỹ thuật vẫn dưới quyền Miles và SACO đồng thời liên kết chính thức với FMM. Điện tín gửi cho Miles thông báo việc bổ sung de Sibour rơ ràng đă chia rẽ những người được OSS huấn luyện với những người được huấn luyện từ nơi khác. Những "Chiến dịch tinh thần" (Tuyên truyền lật đổ), viết tắt là MO, hoàn toàn là trách nhiệm của OSS, bức điện viết: "Những kế hoạch tổng thể phải được hợp tác cẩn thận bởi đó là lĩnh vực phải được kéo dài và điều hành cẩn thận bởi những người được đào tạo". De Sibour là, bức điện lưu ư, một trong số những người đó. Bản ghi nhớ thông báo bổ nhiệm de Sibour c̣n nêu rơ chỗ nào có thể được hiểu như lời chỉ trích chống sứ mạng của Meynier mà người Trung Quốc có thể "có nh́n nhận không thiện ư về mối quan hệ gần gũi giữa quyền lợi của Mỹ và Pháp ở mức độ ảnh hưởng tới Đông Dương".
Về phần ḿnh, de Sibour cũng đă sẵn sàng lập những kế hoạch đáng tin cậy về công tác MO tại Việt Nam. Ông đă bày tỏ sự tin tưởng chắc chắn rằng v́ phía MO không làm bất cứ điều ǵ "ngoài Sứ mạng SO của Pháp", nên một bộ phận MO của Mỹ cần được thiết lập càng nhanh càng tốt. Và mặc dù rơ ràng liên kết với Miles và SACO, nhưng nhóm của Meynier được xem như một đội của Pháp với những khó khăn hiện hữu. Ví dụ, dù kế hoạch MO thừa nhận rằng Katiou Meynier chính thức hoạt động với nhóm, nhưng những mối quan hệ của gia đ́nh bà được mô tả là từng "có thời gian chống Pháp" nhưng sau "đă ngả theo cách nghĩ của người Pháp" và "hợp tác với họ". Thêm vào đó, de Sibour chỉ ra vô số vấn đề liên quan đến cuộc giằng co chính trị về vai tṛ lănh đạo FMM và nhóm của Meynier mà Giraud và de Gaulle dường như đang thực hiện. Nhưng gạt tất cả những chuyện này sang bên, de Sibour kết luận, những phẩm chất quư giá của nhóm Meynier "hiểu biết hoàn hảo của họ về đất nước", kỹ năng ngôn ngữ, và "sự khan hiếm những điệp viên đáng tin cậy" khi so sánh với "những ǵ đă có dưới sự quản lư của họ" - đă làm cho họ trở thành lựa chọn tốt nhất của người Mỹ cho việc thâm nhập thành công vào Việt Nam thông qua "những lời đồn, tin tức và giấy tờ giả, mua chuộc và chương tŕnh phát thanh "đen".
Tuy nhiên, dù de Sibour và OSS có kết luận những ǵ đi chăng nữa th́ t́nh thế của Pháp ở Trùng Khánh thời gian đó cũng ngăn cản Miles, Meynier và de Sibour thiết lập những mục đích của họ ở Việt Nam. Sự chia rẽ giữa những người ủng hộ de Gaulle và Giraud làm cho quan điểm của Meynier không được bảo vệ: Meynier càng ngày càng được xem là người được Giraud bổ nhiệm, trong khi FMM ở Trùng Khánh lại được de Gaulle hậu thuẫn. Thực tế là việc Tai Li (cũng như Miles) hậu thuẫn cho nhóm của Meynier chẳng giúp được ǵ nhiều cho vị thế của họ. Tai Li buộc tội FMM ở Trùng Khánh do thám chính phủ Trung Quốc, và người Pháp phản công bằng cáo buộc Tai Li ám sát công dân Pháp "để đảm bảo hoạt động phá hoại người Việt ở Bắc Kỳ của Trung Quốc không bị cản trở".
Kết quả của sự tranh giành quyền lực đang diễn ra là gia đ́nh Meynier không được phép vào Đông Dương. Dù sao th́ một nhóm người "Philippines" cũng đă được tiếp nhận. Đặc biệt, một tu sĩ người Việt, cha Bec, đă liên lạc với giới tu sĩ Thiên Chúa giáo khác ở Đông Dương và, cùng với những người trong nhóm Meynier, đă chuyển tin tức ra khỏi Việt Nam. Cha Bec đặc biệt quan tâm đến những phi công Mỹ bị bắn rơi. Ông đă trả lại tên của những phi công Mỹ có máy bay bị bắn hạ và thông tin về số phận của họ. Ông c̣n phân phát truyền đơn kêu gọi người dân Đông Dương biết đồng cảm và giúp đỡ những phi công Mỹ bị bắn rơi. Miles báo cáo rằng Chennault và người của ông ta "rất hăng hái" và rằng họ "thậm chí c̣n đề nghị giúp đưa đại diện của nhóm Meynier vào nước này bằng nhảy dù". Song, theo Miles, "càng hoàn hảo bao nhiêu th́ nhóm của Meynier càng gặp phải thái độ thù địch từ nhóm của người Pháp ở Trùng Khánh bấy nhiêu".
Cha Bec đă phải è lưng cơng gánh nặng chủ yếu này một thời gian dài v́ ông là "một người làm việc quá nổi tiếng". Những đánh giá về khả năng của nhóm Meynier không giống nhau. Nhà sử học Ronald Spector nói rơ rằng Meynier đă thiết lập thành công một mạng lưới điệp viên ở Đông Dương, nhiều người trong số họ "đă hoạt động trong các cơ quan chính quyền Pháp và thậm chí trong cả cơ quan t́nh báo Pháp". "Họ gửi về", ông tiếp tục, "những ḍng thông tin đều đặn về bố pḥng, chuyển quân, các mục tiêu ném bom, những diễn biến chính trị tại địa phương". Miles th́ cho rằng cho đến hết chiến tranh ông "đă liên tục nhận được thông tin về thời tiết, tù binh, t́nh trạng của thương binh, tin t́nh báo về tầu thuyền, các báo cáo về không quân Nhật - và một lượng đáng kinh ngạc tin tức về hải cảng và hàng hải". Đương nhiên công tác chuẩn bị đă đạt kết quả tốt đẹp vào tháng 10 năm 1943 khi các trạm quan sát bờ biển báo tin một đoàn từ 9 đến 10 tầu Nhật đang trên đường đến Hải Pḥng. Thông tin đáng giá này được chuyển tiếp cho Chennault, người đă thành công trong việc thả thuỷ lôi ở cảng Hải Pḥng trong khi những máy bay khác đánh lạc hướng bằng phi vụ ném bom quân Nhật tại sân bay Hải Pḥng. Miles báo cáo, nhiệm vụ đă thành công tốt đẹp: "Khi máy bay xuất hiện, tầu địch trên cảng hoảng sợ. Chiếc tầu vận tải ba ngàn tấn trong khi vội vă tháo chạy đă húc phải thuỷ lôi mới thả và nổ tung ngay tại chỗ, bít kín lối ra vào. Đường vào cảng Hải Pḥng không bao giờ được khai thông trọn vẹn một lần nữa cho đến hết chiến tranh". Ngoài ra, đô đốc William F. Halsey Jr. cũng nhận thấy mạng lưới của Meynier rất hiệu quả. Như Miles đă viết:
Ngày 11 tháng Giêng năm 1945, các trạm quan sát bờ biển Đông Dương mà đại uư Meynier và người vợ công nương của ông đưa vào hoạt động thành công đă đền đáp đầy đủ cho những hy sinh và nỗ lực cộng tác với họ của chúng tôi. Điều đó xảy ra bởi khi đang chuẩn bị một cuộc tấn công mà chúng tôi không biết ǵ về nó, đô đốc William F. Halsey Jr đă hỏi chúng tôi những mục tiêu trên hải phận Đông Dương.
Trưóc câu hỏi này chúng tôi nhanh chóng báo động cho các nhân viên cảng vụ như người gác đèn hải đăng, nhân viên hải quan và những người khác. Họ được lệnh phát điện khẩn theo lệnh của đại uư Miles. Mặc dù bản thân Meynier đă ra đi nhiều tháng nhưng mạng lưới mà ông và vợ ông thiết lập đă đáp lại ngay lập tức. Trong ṿng vài tiếng đồng hồ, ngồi tại Trùng Khánh chúng tôi đă có trong tay một bản danh sách đầy đủ về tầu thuyền ở vịnh Cam Ranh, Sài G̣n và những hải cảng khác do Nhật kiểm soát. Thậm chí chúng tôi c̣n biết rơ cả kích cỡ, tốc độ và hàng hoá của chúng. Một người gác hải đăng báo tin một đoàn tầu 26 chiếc đă đi qua sáng hôm đó, người này cung cấp cả hướng đi và tốc độ của đoàn tầu. Điện báo cung cấp thông tin để chúng tôi chuyển cho đô đốc Halsey nhiều đến mức sau đó ông cho tôi biết là trong chừng mực nào đó cứ rối như canh hẹ. Với lượng thông tin phải xử lư lớn như thế, ông đă buộc phải thay đổi nhiều quyết định của ḿnh. Dường như ông đă điều vừa đủ số máy bay cho mỗi mục tiêu và kết quả là ông có thể "kiểm soát được khu vực bến cảng. " Trên thực tế, các phi công của ông thành công đến mức chỉ trong nội ngày hôm đó đă đánh đắm 40 tầu với tổng trọng tải lên đến 120.000 tấn, trong số chúng có một hàng không mẫu hạm và 11 máy bay của hải quân Nhật.
Sĩ quan OSS Archimedes Patti lại có cái nh́n khác. Nhóm của Meynier, vốn đảm nhận quá nhiều trọng trách trong việc chia rẽ người Pháp, là một thất bại ê chề đối với OSS, ông viết. "Nó đạt được rất ít tiến bộ trong thâm nhập vào Đông Dương, và OSS không nhận được thông tin quân sự mà Donovan đă tiên liệu và Miles từng hứa hẹn". Đánh giá thực tế nhất về cố gắng của họ, chao ôi, lại c̣n tạp pí lù hơn. Không nghi ngờ ǵ nữa, mạng lưới của Meynier chưa từng đem về những tin t́nh báo đắt giá mà Donovan đă hy vọng. Nhưng như cả Chennault và Halsey đă chỉ rơ, nhóm của Meynier đă cung cấp được những tin tức có giá trị về các mục tiêu ném bom và tầu thuyền.
Ngoài mạng lưới của Meynier, Miles c̣n có một kế hoạch khác liên quan đến Việt Nam. Ông đă có kế hoạch lợi dụng "những sắc tộc miền núi" ở cao nguyên để "tiến hành chiến tranh du kích và gián điệp chống Nhật". "Kế hoạch quân sự đặc biệt cho Đông Dương" này được đề xuất bởi một thành viên trong bộ máy nhân sự của Miles, trung uư George Devereaux - người trước chiến tranh đă nghiên cứu dân tộc H'mông. Theo kế hoạch, những điệp viên được huấn luyện đặc biệt sẽ nhảy dù và thiết lập những mối quan hệ thân thiện với các sắc tộc miền núi. Tiếp đó sẽ thành lập và huấn luyện họ cho chiến tranh du kích, vũ khí, thuốc men và các trang bị khác sẽ được thả dù xuống căn cứ của họ. Kể hoạch được OSS, Hải quân Mỹ, Không đoàn 14 chấp thuận, và Chennault thậm chí c̣n "hứa phát động một cuộc oanh tạc đánh lạc hướng nhằm yểm hộ cho việc thả dù". Cho dù được nhiều phía hậu thuẫn nhưng Kế hoạch quân sự đặc biệt cho Đông Dương của Miles vẫn chẳng nên cơm cháo ǵ.
Trên thực tế, nhiệm vụ của Miles tại khu vực này nhanh chóng bị gác lại. Cam kết về sứ mạng của Meynier mới chỉ thực hiện được một phần bởi những khó khăn liên tiếp và từ hai phía với OSS đă làm tăng nỗi thất vọng của ông. Donovan và những người khác thường phàn nàn, mặc dù trên danh nghĩa là một sĩ quan OSS, nhưng Miles đă tỏ rơ thái độ không trung thành với tổ chức này và cung cấp toàn bộ những tin t́nh báo loại một cho hải quân trước. Về phần ḿnh, Miles liên tục bị làm cho bực ḿnh bởi những ǵ ông quan niệm là nỗ lực giành quyền kiểm soát mọi thứ liên quan đến tin tức t́nh báo ở Trung Quốc của OSS. Ngoài ra, trong khi OSS vẫn tự nhận là thân thiện và cởi mở với Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, th́ Miles lại bị số lượng vượt trội của "những kiều dân hoài cổ ở Trung Quốc" trong OSS làm cho phẫn nộ; theo ư kiến ông, họ không có khả năng làm việc với người Trung Quốc. Thái độ không hài ḷng lẫn nhau đă dẫn đến việc Miles rời vị trí giám đốc OSS khu vực Viễn Đông và Donovan chỉ trích ông kịch liệt trong một cuộc trao đổi đáng thất vọng nhất diễn ra vào tháng 12 năm 1943. Tuy nhiên, ngay cả sau khi Miles không c̣n làm việc cho OSS ở Viễn Đông th́ nhóm Meynier vẫn tiếp tục hoạt động suốt cả năm 1944. Trung uư Larson trở thành sĩ quan phụ trách liên lạc với Robert Meynier ở Nam Ninh.
Các báo cáo của trung uư Larson giải thích cho nghiên cứu và hiểu biết ngày càng tăng của ông về Việt Nam. "Câu châm ngôn "nhập gia tuỳ tục" không nơi nào có ư nghĩa quan trọng hơn ở Đông Dương lúc này", Larson viết. "Sự chiếm đóng khu vực này của người Nhật được tiến hành theo một phong cách hấp dẫn. Chính phủ hầu như đă được trao vào tay nhân dân - hay ít nhất cũng là các "công bộc" và quan lại những kẻ có quyền thế trước chiến tranh". Tiếc là Larson đă nói quá nhiều điều tốt về hiệu quả cai trị của người Nhật hơn là về sự hữu hiệu của những nỗ lực tuyên truyền của OSS mà ông mô tả là "không thoả đáng một cách đáng buồn" và "gây tác hại nhiều hơn bất kỳ hoạt động nào khác". Nỗ lực tuyên truyền của người Mỹ, Larson quả quyết, thể hiện "sự thiếu hiểu biết về đất nước này. Đây không phải là một dân tộc thời nguyên thuỷ. Thật vậy, khi xâm chiếm nước này năm 1858, người Pháp đă thấy ở đây có một tổ chức chính trị và xă hội và nó tiếp tục làm cơ sở cho chính quyền của họ". những trang tiếp theo, Larson nói về những sĩ quan Pháp như đại uư hải quân H. Rieunier, người đă ca ngợi "trí thông minh của chủng tộc" trong tiên đoán sự lănh đạo "toàn vương quốc" của người Việt trong những năm tới - để chứng minh cho ư kiến trước đó của ông là người Việt Nam cần phải được tiếp cận như một xă hội phát triển. Larson cũng chỉ ra những yếu kém của ách thống trị thực dân và thói quen của người Pháp vừa khen ngợi lại vừa đè nén tàn nhẫn dân chúng Đông Dương, những người đă chính đáng yêu cầu có được tiếng nói ở đất nước của chính họ. Mặc dù rơ ràng Larson đă chuẩn bị cho t́nh huống này, nhưng vẫn có thể nhận ra ảnh hưởng của Katiou Meynier:
Nếu nhiều người An Nam đ̣i có tiếng nói lớn hơn trong chính phủ của họ th́ đó không phải là một bước phát triển mới, và không phải là chiêu bài hàm ư theo nghĩa đen của bốn tiếng "Cách mạng dân tộc" mà họ hướng tới". Hiển nhiên họ khao khát độc lập cho đất nước ḿnh nhưng họ thừa nhận rằng đây không phải là khả năng tức thời. Phương diện quan trọng của tuyên truyền nhằm vào Đông Dương cần phải nhấn mạnh đến thiện chí của Liên Hợp Quốc dần chuẩn bị cho tự do của đất nước… Ví dụ của Philippines đă làm cho chúng ta có được thiện ư của người An Nam bởi v́ họ muốn và xứng đáng được hưởng một chính sách tương tự trên đất nước ḿnh. Họ cũng xem sự đối xử với Cuba của chúng ta như bằng chứng chúng ta không có tham vọng thuộc địa và chúng ta tin vào quyền tự trị.
Những báo cáo của Larson từ tháng 2 đến tháng 9 đă thể hiện sự thất vọng đang tăng lên của cả ông và Robert Meynier đối với t́nh h́nh. Larson quy những nỗ lực bất thành của nhóm cho người kế vị tổ chức OSS của Miles, trung tá John Coughlin, và người Pháp. Tháng 3 năm 1944, Larson cam đoan rằng "OSS có ít nhất 20 bộ điện đài xách tay nhưng đôi khi không sử dụng được. Có lúc tôi cứ phải hét lên mà chẳng được tích sự ǵ và tôi hết sức bất măn khi thấy Coughlin không chỉ kêu ca về việc thiếu kết quả từ nơi đây, mà c̣n đứng về phía Emblanc và không gửi cho chúng tôi tài liệu chúng tôi cần". Ông nói tiếp, "Cái làm tôi bực ḿnh hơn cả là mưu toan (của OSS) xếp nhóm của Meynier vào loại gián điệp (những kẻ xúi giục) và làm họ sợ. Sẽ không có ai trong chúng tôi sợ hăi". Khi điệp viên OSS Austin Glass, người được giao trách nhiệm phát triển mạng lưới SI cho Đông Dương, tới thăm, cơn giận của Larson lại càng dữ dội bởi cái mà ông cho là sự công kích cực kỳ tiểu nhân. Larson viết cho chỉ huy Hải quân D.D. Wight như sau:
Trong những vấn đề khác Glass thừa nhận rằng Coughlin đă ra lệnh cho ông ấy thẩm tra lời đồn tôi đă ngủ với bà Meynier. Hầu như chắc chắn những đồn đại loại như vậy là chuyện thuận t́nh trong một công tác như thế này, và tôi có thể bỏ qua khi chúng đến từ những người ngoài cuộc. Tuy nhiên, khi một người như Coughlin xía vào chuyện này mà không thèm đếm xỉa đến tôi th́ tôi cực kỳ ghê tởm.
Kết thúc chuyến thăm của Glass, Larson cảm thấy tương đối tin tưởng con người này và những báo cáo ông sẽ viết cho OSS và ông càng hy vọng sẽ nhận được điện đài cùng những trang bị khác mà ông đă yêu cầu nhưng ông vẫn rất căm ghét Coughlin. Trong một bức thư mật gửi cho Wight ông giải thích:
Tin tưởng vào giá tri tiềm tàng của tổ chức của Meynier và với niềm tôn kính cá nhân cao cả dành cho chúng tôi. Glass hết sức ngạc nhiên với những ǵ đă diễn ra trong quá khứ. Tôi cho là ông ấy sẽ cố, nhưng với Coughlin tôi không nghĩ ông ấy sẽ gặt hái nhiều thành công. Coughlin chỉ hơn tôi khoảng 7 tuổi, vậy mà nhiều lần tôi đă nghĩ ông ta hành xử thậm chí c̣n trẻ con hơn tôi và ít kinh nghiệm hơn tôi.
Thật ra, Larson dường như bị xúc phạm bởi suy đoán rằng ông là một phần của OSS. "Coughlin báo cho Glass rằng tôi là một sĩ quan OSS", Larson nổi nóng: "Tôi không được tham khảo ư kiến về vấn đề này và tôi không được thông báo sự việc đúng là như vậy. Tôi không mảy may ao ước được trở thành một trong những sĩ quan của ông ta hay trở thành một thành viên của tổ chức OSS". Larson tiếp tục nói rằng ông xem ḿnh là "một sĩ quan Hải quân và dưới quyền của đại tá Miles" và không phục tùng Coughlin. Ông hứa làm "mọi việc trong thẩm quyền của ḿnh" để tạo ra sự hợp tác giữa OSS và nhóm của Meynier, nhưng ông tranh căi kịch liệt với cả Glass và Wight rằng ông "cần nhiều hơn chút đỉnh so với bị chẹn họng từ phía khác" để làm cho điều đó xảy ra. Meynier, Larson nói rơ, chán OSS chẳng kém ǵ FMM và liên tục doạ "rũ áo ra đi".
Mặc dù thông cảm với những phàn nàn của Larson và thất vọng của Meynier, nhưng Wight vẫn động viên cả hai tiếp tục công việc của ḿnh. Trong phúc đáp lá thư của Larson ngày 26 tháng 3, Wight viết: "Tôi hy vọng ngài sẽ làm hết sức ḿnh để ngăn ngài chỉ huy (Meynier) phản kháng. Cho dù điều đó có thể không giống như nh́n nhận từ Nam Ninh, tôi cho rằng ở dây đă có một số tiến bộ và tiến bộ này có thể bị mất tác dụng hoàn toàn nếu Meynier chịu thua". Có lẽ, những mối quan hệ của OSS với Emblanc và FMM đă tô hồng quan điểm của Larson và Meynier về OSS và ngược lại; dẫu vậy, bất kể nguyên nhân có là ǵ đi chăng nữa th́ những mối quan hệ giữa các phe nhóm thường là không được cải thiện. Những phản đối của Larson tiếp tục kéo dài trong vài tháng nữa và đến tháng 6 th́ kèm theo sự bất măn của cả một tổ chức khác mà Larson tin là chịu ảnh hưởng của OSS.
Đại uư Mullens của cái mà Larson gọi là "Lực lượng không quân giải cứu trên bộ" có căn cứ ở Côn Minh c̣n cắt giảm thêm các hoạt động của Meynier và Larson. Mullens yêu cầu Larson và Meynier "không được mó tay" vào các chiến dịch giải cứu ở Đông Dương. Cả hai ông đều tin đây là một yêu cầu khá kỳ lạ bởi "(người Mỹ) chẳng làm quái ǵ ở Đông Dương (cho những phi công bị bắn rơi)" "một ấn tượng được nhấn mạnh hết lần này đến lần khác bởi chính những phi công thực hiện những phi vụ trên đất nước này". Larson nhắc lại những ǵ ông tin là hàng núi khả năng dành cho các chiến dịch giải cứu và đề nghị Mullens phải có lời giải thích. Mullens báo cho ông, vấn đề đó đơn giản là "thiếu sự tin tưởng" giữa tổ chức của ông ta và nhóm của Meynier. Mặc dù Larson đă tŕnh bày lại lai lịch và quá tŕnh huấn luyện (hầu hết do người Mỹ thực hiện) của các thành viên của tổ chức, nhưng kết quả chẳng được bao lăm. H́nh như cả người Mỹ và người Pháp đều không tin tưởng nhóm của Meynier. Larson tin rằng tiếng xấu của họ xuất phát từ những mưu mẹo của Gordon và người Pháp. Trong báo cáo năm 1944 của ḿnh Larson đă tŕnh bày cuộc trao đổi giữa ông và Mullens rồi nói rơ: "Tôi đă lại thấy những hoạt động của Gordon ở đó".
Dựa vào khung thời gian, Larson hầu như chắc chắn sẽ có phản ứng đối với nguồn dự trữ sẵn có dành cho GBT và sự khen ngợi GBT không tiếc lời của các tổ chức và cá nhân đă giúp nhóm của chính ông ít hơn là chỉ trích. Về người Pháp, Larson tổng kết hai điểm chính. Thứ nhất, "thái độ ngờ vực Mỹ của chính quyền Pháp" rơ ràng không có ǵ đáng ngạc nhiên. Tuy vậy, điểm thứ hai c̣n đáng lo ngại hơn. Larson tin rằng người Pháp đang cố "chơi tṛ OSS chống lại Hải quân" để cản trở bất kỳ sự hợp tác nào giữa hai quân chủng, nhất là trong các quan hệ với người Trung Quốc. Sự phối hợp giữa Tai Li với Miles và nhóm của Meynier đă làm trầm trọng thêm mối quan hệ vốn đă căng thẳng giữa Mỹ và Pháp. Có lẽ chỉ là b́nh thường đối với người Pháp nếu thừa nhận rạn nứt trong các quan hệ Hán - Mỹ sẽ giúp cho sự nghiệp của chính họ. Song Larson cam đoan "nếu người Pháp cảm thấy họ có thể sử dụng người Mỹ để chơi xỏ người Trung Quốc th́ quả là bé cái nhầm và sẽ gặp rắc rối". Khi sự chống đối hoạt động của Miles - Meynier leo thang th́ thái độ thù địch giữa Tai Li, bạn bè của Miles với cấp lănh đạo trong SACO và FMM cũng gia tăng. Kết quả là, Tai Li ra lệnh cho FMM đóng cửa các cơ sở liên lạc với Đông Dương trên đất Trung Quốc. Patti rút ra kết luận là việc này "làm tê liệt hoạt động của lực lượng thân de Gaulle cho đến hết chiến tranh". Hậu quả của sự nghi ngờ lẫn nhau thật nhăn tiền, mùa hè năm 1944 Robert Meynier bị rút khỏi vị trí công tác và gia đ́nh Meynier rời Trung Quốc. Nh́n chung, Miles rất thất vọng về sự sụp đổ của nhóm Meynier, về OSS, và cuối cùng, về vai tṛ của Mỹ trong lịch sử Việt Nam. Liên quan đến vấn đề thứ nhất, ông nói rơ: "Với sự ra đi của gia đ́nh Meynier, chúng tôi cũng rời Đông Dương, để lại một khoảng trống cho Nhật trám vào". Nh́n lại t́nh h́nh năm 1943, ông thậm chí c̣n bị chính phủ của ḿnh và lănh đạo OSS làm đau ḷng hơn:
Với áp lực nhiều hơn từ giới chóp bu trong chính quyền Mỹ phải giữ nguyên những cuộc căi vă của người Pháp, chúng ta hẳn đă, trong vấn đề Đông Dương, tạo ra nhiều điều kỳ diệu. Nhưng bất chấp những nguyên tắc cao quư đă được nêu ra trong Tuyên bố Đại Tây Dương, chúng ta đă không theo đuổi được ngôi sao tự do của chúng ta. Thay v́ đi đầu, chúng ta lại chơi tṛ lănh đạo - theo - sau ở Viễn Đông. Vô t́nh hay cố ư - tôi không biết cái nào - chúng ta đă cho phép ḿnh chịu quá nhiều tác động của Anh và Pháp, những nước mà quyền lợi và lịch sử gắn chặt với nô dịch - không phải là giảí phóng - các dân tộc Viễn Đông. Thời đại đó đă kết thúc, như hầu hết các nhà quan sát đă biết, nhưng Donovan, v́ những nguyên nhân tôi không bao giờ hiểu được, đă liên kết chặt chẽ với những kẻ mơ ước giữ nguyên t́nh trạng châu Á trước chiến tranh. Miles lặp lại những ư kiến thường thể hiện thái độ chống chủ nghĩa đế quốc của Roosevelt trong hai năm trước khi ông mất. Mặc dù Miles không hề cho thấy ông biết tường tận kế hoạch uỷ trị của Roosevelt, nhưng cố nhiên ông tin tưởng nước Mỹ nên đóng vai tṛ thực dụng trong việc ủng hộ "chủ nghĩa dân tộc" ở châu Á. Dù ông quan tâm nhất đến bảo vệ và củng cố chính quyền Tưởng Giới Thạch, nhưng chủ nghĩa thực dụng của ông vượt ra ngoài đất nước này. Kinh nghiệm của ông với Robert Meynier, Công nương của SACO và "những người Philippines" thuyết phục ông rằng dĩ nhiên thành phần tinh hoa trong những người Việt Nam hoàn toàn có thể lănh đạo đất nước ḿnh. Việc Miles tán thành những ước mong có tiếng nói mạnh hơn trong chính phủ của người Việt Nam được thể hiện rơ ràng trong nhật kư của ông.
Như đă nói ở trên, Larson, cấp dưới của Miles, cũng đi đến kết luận này thông qua công tác của chính ḿnh với nhóm của Meynier. Trong một chừng mực nào đó, quan điểm làm sao để hoạt động hiệu quả ở Đông Dương thuộc Pháp của Larson c̣n sắc bén hơn. Mặc dù các mối quan hệ của Robert Meynier chủ yếu là người Pháp, nhưng ông đă sớm kết luận "sẽ không có bất kỳ hoạt động nào thành công ở Đông Dương nếu thiếu hỗ trợ tại chỗ". Larson tin tưởng chắc chắn rằng người Mỹ chiếm ưu thế trong việc giành được sự ủng hộ ở Đông Dương v́ Mỹ được xem là "đỉnh cao của dân chủ và tự trị" lại "không có tham vọng về thuộc địa" ở châu Á. Tuy nhiên, Larson cho rằng người dân phải thường xuyên được bảo đảm mục đích chiến tranh của Mỹ không chỉ nhằm "loại bỏ những lời nói suông" và yêu cầu dân tộc này phải được nói tới như người Việt Nam. "Chúng ta nên nh́n xa [đủ] để không nói đến thuật ngữ "An Nam" mà đúng hơn phải là "Việt Nam", Larson viết. Theo nghĩa đen, "An Nam" có nghĩa là "phương nam bị b́nh định" và nhắc người An Nam nhớ đến lịch sử bị người Trung Quốc nô dịch, trong khi đó "Việt Nam" là cái tên mà họ, chính họ, đă đặt cho tổ quốc của ḿnh".
Ngoài Miles và Larson, và có lẽ bổ sung thêm vào nỗi ngạc nhiên của họ, nhiều sĩ quan OSS trẻ tuổi cũng lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Đông Nam Á và ủng hộ chủ nghĩa dân tộc của người Việt Nam. Những trải nghiệm về Chiến tranh thế giới 2 của những sĩ quan OSS này trùng với những trải nghiệm của Miles và Larson v́ họ thường xuyên gặp gỡ và làm việc với những người Việt Nam tốt nhất và thông minh nhất, đấy là chưa kể đến một số người thân Mỹ nhất. Họ cũng có thể gặp một số điều chán nản tương tự khi cố làm việc, và sử dụng âm mưu khi cần thiết, trong thế giới phức tạp của quan điểm chính trị Pháp. Bất chấp b́nh luận của Miles về chính sách của Mỹ, sự ra đi của gia đ́nh Meynier không tạo ra "khoảng trống để Nhật trám vào". Dù mất những kiến thức đă được tích luỹ và liên hệ với Miles, Larson, và toàn bộ tổ chức của Meynier chẳng khác ǵ một đại hoạ nhưng GBT, vẫn trụ vững trong năm 1944, lại hiệu quả hơn bao giờ hết.
Qua vài năm đầu của chiến tranh, GBT tiếp tục chuyển tin từ mạng lưới rộng lớn của ḿnh ở Việt Nam cho Trung Quốc, Anh, Nước Pháp Tự do và một số nhóm khác nhau của Mỹ, đáng kể nhất là Không đoàn 14 của Chennault. Một điển h́nh về tin tức mà mạng lưới của GBT cung cấp cho tất cả các binh chủng là một loạt báo cáo đề cập đến sự chuyển quân đang diễn ra và có thể diễn ra trong hơn ba ngày vào tháng 11 năm 1944. Dù đơn giản nhưng sự truyền tin cho thấy mức độ chi tiết phi thường về những hoạt động của quân Nhật. Ngày 25 tháng 11, các điệp viên báo tin 800 quân đă "có kế hoạch rời Bắc Ninh về Lạng Sơn". Đêm hôm sau họ báo quân Nhật "rời Sept Pagodas(3) và Vĩnh Yên để đến Lạng Sơn bằng tầu hoả và xe tải", và ngày 27 là "chuyến tàu quân sự số 3048 của Nhật theo lịch tŕnh sẽ đến Phủ Lạng Thương lúc 1:15 phút sáng, Lạng Sơn lúc 6:22 phút chiều và 9:44 phút tối đến Nacham. Những thông tin như vậy cho phép Không đoàn 14 phối hợp ném bom đường sắt đồng thời nâng cao h́nh ảnh của Đồng Minh trong mắt người dân Việt Nam. Một điệp viên chiến trường báo rằng "tất cả mọi người tin rằng vụ ném bom hai đoàn tầu chở đầy quân Nhật, vũ khí và ngựa đă đạt kết quả tốt và vui mừng về điều đó".
Không đoàn 14 liên tục nhận được những thông tin quư giá từ GBT và đánh giá cao mạng lưới của họ. Đại tá Jesse Williams thuộc đơn vị Hổ bay của Chennault báo cho Coughlin rằng GBT "đă gửi về những thông tin tốt nhất từ Đông Dương".
Williams nói rơ, nhiều phi vụ đă dựa vào tin tức của GBT, và so với tin t́nh báo do mạng lưới của FMM và Meynier cung cấp th́ tin của GBT "tốt hơn tất cả những nguồn kia cộng lại". Giới thiệu tuyệt hảo của Williams có kết quả ngay lập tức: OSS đă cấp cho GBT "một số máy thu vô tuyến, một máy phát, hai máy phát điện nhỏ và khoảng 1.000.000 đô la" quy ra tiền Trung Quốc. Mặc dù OSS đă biết rơ về GBT nhưng không phải đến khi Miles bị thải hồi khỏi OSS và tiếp đó là sự sụp đổ mọi niềm hy vọng về nhóm của Meynier th́ nhóm của Donovan mới bắt đầu điều tra Gordon, Bernard, Tan và mạng lưới thông tin mà họ đă gây dựng.
Sử dụng điện đài do người Anh cung cấp, OSS, Chennault và GBT đă thiết lập một mạng lưới chỉ điểm và người đưa tin. Những người này chuyển thông tin đi và đến hàng loạt các trạm điện đài bí mật của GBT. Mạng lưới liên quan đến một lực lượng điệp viên đông đảo, bao gồm cả người Pháp và Việt Nam. Họ cung cấp nhân lực cho các trạm thu phát điện đài.
Khoản viện trợ bổ sung đến dưới các h́nh thức khác. Nhà sử học David Marr đă viết rằng một tu sĩ người Pháp là thành viên "cốt cán" của GBT đă giúp tài trợ cho những nỗ lực của họ bằng quyên góp "tài sản của hội truyền giáo ở Đông Dương".
Toàn bộ hoạt động t́nh báo này được phối hợp từ tổng hành dinh của Gordon ở Long Châu (tỉnh có tầm quan trọng chiến lược Quảng Tây) và được phân cho rất nhiều nhà bảo trợ. Sử dụng thông tin được cung cấp qua ngả Gordon làm ví dụ, nhà sử học Bernard Fall nhấn mạnh vai tṛ của người Pháp trong việc giúp đỡ cả người Anh và Mỹ. Trong cuốn "Chính sách của Mỹ về Việt Nam", ông viết rằng: "Kháng chiến Pháp đă cung cấp những thông tin then chốt về sự di chuyển quân đội và hải quân Nhật cho Gordon, đến lượt ḿnh Gordon lại chuyển tiếp cho Chennault". Fall khẳng định những thông tin này đă cho phép Không đoàn 14 "thực hiện những cuộc tấn công chính xác vào các mục tiêu quân sự của Nhật".
Các học giả khác th́ nhấn mạnh đến vai tṛ của người Việt Nam trong GBT. Theo Cecil B. Currey, từ năm 1942 các cán bộ Việt Minh dưới sự lănh đạo của Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng… đă cung cấp những thông tin hữu ích cho hoạt động t́nh báo của Đồng Minh - nhóm GBT. Phóng viên Robert Shaplen có quan điểm hơi khác về sự hợp tác này. Ông nhấn mạnh hợp tác của GBT với Việt Minh nhiều hơn là ngược lại: "Đến với ông (Hồ Chí Minh) là đại diện của nhóm dân sự các cựu doanh nghiệp Mỹ ở Đông Dương đă có thời cộng tác với người của ông". V́ mạng lưới của Gordon - Tan rơ ràng đă có những mối liên lạc tốt nên OSS biết cơ quan này cần t́m hiểu nhiều hơn về họ cũng như về toàn bộ t́nh h́nh tại Đông Dương thuộc Pháp.
Được giao nhiệm vụ tháo gỡ những bí mật của GBT là thiếu tá Austin Glass - người cũng đă được Coughlin phái đi điều tra Larson và tổ chức của Meynier. Glass rời Washington đến mặt trận Trung Quốc tháng 1 năm 1944 và dành cả năm tiếp theo thực hiện công tác t́nh báo bí mật (SI) trong và ngoài Đông Dương. Trên phần lớn các phương diện, ông là lựa chọn tuyệt vời cho vị trí này. Sau khi học tập 4 năm tại Đại học Michigan, mới ngoài 20 tuổi Glass đă lên đường sang Việt Nam. Hai mươi nhăm năm tiếp theo ông làm cho Hăng Dầu lửa Standard, lập gia đ́nh với một phụ nữ Việt Nam. Năm 1937 ông về hưu, sống cuộc sống tương đối nhàn nhă như "một người làm vườn và trồng lúa" gần Hải Pḥng. Mùa xuân năm 1942 ông được hồi hương trong đợt trao đổi tù binh dân sự và ngoại giao lần thứ nhất với Nhật Bản. Ông trở về Mỹ trên tầu Gripsholm của Thuỵ Điển rồi gia nhập quân đội. Cuối năm đó ông vào OSS. Đă từng sống ở Đông Dương 30 năm, Glass thông thạo tiếng Pháp cũng như "các thứ tiếng bản xứ", ông được mô tả là "được cả người Pháp cũng như người bản xứ yêu mến một cách khác thường" và có hiểu biết sâu rộng "về đất nước và con người khu vực này" mà "không một người Mỹ nào sánh kịp". V́ thế ông rất thích hợp với công tác t́nh báo bí mật - "đưa các điệp viên lọt vào Đông Dương và giữ liên lạc chặt chẽ với người Pháp và các tổ chức bí mật của người bản xứ".
Thời gian ở Trung Quốc Glass công tác gần gũi với FMM, một số người Việt Nam và nhiều đầu mối cá nhân khác, báo về mọi tin tức từ t́nh h́nh kinh tế đến số lượng máy bay Nhật tại sân bay Gia Lâm và Tân Sơn Nhất. Trong yêu cầu lấy được thông tin đáng tin cậy và chính xác của ḿnh ông đă khám phá ra GBT. Báo cáo cho OSS, Glass nêu rơ ông đă có đủ cơ sở để "chứng minh một cách chắc chắn" rằng GBT "được trang bị tốt nhất cả ở trong lẫn bên ngoài FIC (Đông Dương thuộc Pháp) để thu thập tin tức từ khu vực quan trọng này".
Ông mô tả Gordon, Bernard và Tan như "những đường dây sống, những nhân viên mẫn cán và có năng lực". Ông tiếp tục:
Họ là những người thực dụng nhất trong việc lấy thông tin có giá trị chiến thuật cao cả về chính trị và kinh tế. Họ c̣n lấy được nhiều bản sao của tờ Hành động, nhật báo Hà Nội, Đông Dương - tờ tạp chí phát hành hàng tuần tại Hà Nội, và tờ báo chính thức của chính quyền Đông Dương thuộc Pháp. Phần lớn những thông tin hữu ích loại thông thường được lấy từ nguồn này. Thật ngạc nhiên là cả về số lượng và giá trị, tin tức nhận từ nhóm này lại vượt quá nhưng ǵ thu được từ phái bộ quân sự Pháp.
Mặc dù ca ngợi GBT hết lời, nhưng Glass dĩ nhiên không đơn độc trong công tác điều tra nhóm này. Những thành viên OSS khác cũng bắt đầu biết rơ GBT và có những báo cáo tương tự chỉ với đôi chút khác biệt về giọng điệu. Đại tá Robert B. Hall mô tả các mối liên kết của OSS với GBT là "quanh co". Ông hạ thấp tầm quan trọng của các đầu mối người Pháp của nhóm - cái rơ ràng là điểm mạnh của Gordon - có lợi cho các mối quan hệ của họ với Trung Quốc. Nh́n chung Hall xem đấy là những biểu hiện tích cực:
Nhóm Bernard - Gordon không dám hợp tác với người Pháp v́ họ có được sự trợ giúp (không phải về tài chính) mạnh mẽ của người Trung Quốc… Hậu thuẫn chủ yếu đến từ người Anh, nhưng Không đoàn 14 cũng giúp cho một thời gian dài. Họ đă làm một công việc vĩ đại và rất tự chủ. Các mối quan tâm của họ không phải lúc nào cũng trùng với của Đế chế Pháp. Bởi vậy, báo cáo của họ thường không có sự thiên lệch ngoại lệ này. FMM muốn loại họ ra khỏi đường đua hay ít ra là tiếp cận được các nguồn cung cấp thông tin của họ.
Bất chấp Hall đă mô tả quan hệ giữa OSS và GBT là "quanh co", nhưng hai tổ chức này vẫn có mối liên kết tương đối mạnh, dù không công khai: Hall báo cáo rằng "để có được sự giúp đỡ chắc chắn", GBT đă "cung cấp nguồn tài chính của ḿnh cho AGFRTS". AGFRTS là viết tắt của Air and Ground Forces Resources Technical Staff (Ban Tham mưu Kỹ thuật cho Không quân và Lục quân) số 5329 được tướng Donovan đặt tên thánh vào tháng 4 năm 1944 như một nhóm bí mật của OSS. Đầu năm 1944, Donovan vẫn c̣n đấu tranh nhằm phá vỡ mạng lưới của người Trung Quốc, nhưng thoả thuận của Miles với Tai Li vẫn tiếp tục có hiệu lực và SACO về pháp lư là cơ quan thu thập tin tức t́nh báo tại mặt trận Trung Quốc. Nhóm bí mật AGFRTS được thiết lập để đảm đương "toàn bộ trách nhiệm t́nh báo cho Không đoàn 14 của Chennault" và v́ thế thoát khỏi sự kiểm soát của SACO. Khỏi cần phải nói, ḍng thông tin từ GBT chuyển đến AGFRTS vô cùng quan trọng không chỉ với Không đoàn 14 mà c̣n với cả OSS nói chung.
Gordon đă vạch ra một loạt kế hoạch nhằm tăng cường thu thập thông tin ở Đông Dương, một trong số đó ông đă tŕnh bày với Coughlin ngày 11 tháng 9 năm 1944. Trong cuộc gặp với Coughlin, Gordon đă phác thảo một kế hoạch toàn diện cho cuộc kháng chiến của thường dân Pháp tại Việt Nam. Gordon báo cho Coughlin rằng lực lượng bí mật Pháp đă liên lạc với ông và "người Pháp ở FIC cảm thấy thời cơ đă đến" với họ để "tham gia tích cực hơn vào cuộc chiến chống Nhật Bản". Gordon giải thích rằng ngoại trừ ở "một khu vực tách biệt, nhóm kháng chiến hoàn toàn là người Pháp; và có tổ chức cao nhất ở khu vực miền Bắc và miền Trung, có 17 nhóm kháng chiến với tổng số 412 thành viên ở Bắc Kỳ và 8 nhóm kháng chiến ở Trung Kỳ với 94 thành viên nữa". Theo Gordon, Kháng chiến Pháp không cần tiền nhưng dứt khoát cần quân nhu và trang thiết bị, nhất là vũ khí. V́ lư do đó ông đă thăm ḍ OSS. Coughlin đă nêu những nét chính, dẫn giải và đưa ra ư kiến về "Bản kế hoạch Gordon" rồi ngày 20 tháng 9 ông gửi nó cùng đánh giá của ḿnh đi Washington.
Kế hoạch của Gordon trước tiên là cố gắng đưa ra đảm bảo cụ thể cho Kháng chiến Pháp mà chính phủ Mỹ có thế sẵn sàng trợ giúp và trang bị cũng như cấp cho họ "những chỉ thị phối hợp với chiến lược của Đồng Minh". Kháng chiến Pháp muốn người Mỹ đến gặp họ, đánh giá nhu cầu và khả năng của họ, giúp họ thiết lập thêm những trạm điện đài. Về phần ḿnh, họ sẽ tiếp tục giúp các phi công Mỹ và tù binh chiến tranh, và Gordon thậm chí c̣n "cảm thấy chắc chắn" rằng các hoạt động phối hợp giữa OSS và Kháng chiến có thể "bảo đảm giải thoát toàn bộ trại giam (một trại giam tù binh chiến tranh lớn ở Sài G̣n) hay chỉ những thành viên mà những người lập kế hoạch cần đến". Kháng chiến đề nghị sử dụng điện đài của họ "với tần số, mật mă và lịch liên lạc cần thiết" để liên lạc với các tầu ngầm ngoài khơi. Tầu ngầm có thể được sử dụng "cho các cá nhân đến và đi an toàn", thậm chí cho "việc bắt cóc những cá nhân nào đó rồi chuyển về cho Đồng Minh". Coughlin giải thích, các nhóm kháng chiến dân sự được "tổ chức nhằm mục đích phá hoại", và cho dù "đối với Gordon và người Pháp, kế hoạch này chủ yếu liên quan tới kháng chiến, th́ sản phẩm phụ rất tự nhiên của một kế hoạch như thế sẽ là t́nh báo".
Mối quan tâm của Coughlin về những khả năng thu thập tin t́nh báo đă thúc giục ông ta tán thành xét duyệt kế hoạch Gordon. Ông ta đề nghị OSS "lợi dụng tổ chức này", kèm thêm huấn thị "việc này phải được chỉ đạo thông qua Gordon, ít nhất cũng là trong thời gian đầu". Coughlin nhấn mạnh mối quan hệ tích cực của Gordon với người Trung Quốc và thực tế họ đă cho phép GBT "hoạt động mà không gặp bất kỳ cản trở nào" trong mặt trận của họ như một lư do quá đủ để tiếp tục sử dụng Gordon làm liên lạc chính.
Để làm bằng chứng, từ ngày 1 tháng 9 năm 1944 ông ta đă gửi sơ đồ "Bố trí các nhóm chiến đấu và phá hoại" của Gordon đi khắp Bắc Kỳ và Trung Kỳ và c̣n gửi kèm cả bản đồ Đông Dương của GBT xác định những vị trí thích hợp cho nhảy dù hoặc hạ cánh máy bay cho quân Mỹ, những sân bay có thể "dùng được ngay", và các vị trí liên lạc điện đài. Coughlin kết luận vắn tắt về vị trí của GBT:
Chiến trường Đông Dương thuộc Pháp xuất hiện nhiều vấn đề khác xa với ở Trung Quốc. V́ lư do đó GBT không chuyên về bất cứ vấn đề nào. Họ đang quản lư t́nh báo, viện trợ đường không, phát hiện mục tiêu cho không quân, tấn công và phá hoại. Họ mong muốn duy tŕ mối quan tâm tích cực nhưng muốn chắc chắn rằng từng mục phải được xử lư một cách đúng đắn và tất cả các hoạt động lớn sẽ diễn ra đồng bộ. Cuối cùng họ muốn nhận được chỉ thị và sự giúp đỡ đặc biệt, và được tham vấn để cho kinh nghiệm cũng như khả năng của họ có thể được khai thác triệt để.
Trong khi Gordon và GBT rơ ràng rất thận trọng tính đến toàn bộ nhân sự cần thiết sao cho không làm hại hoặc nhiệm vụ hoặc mạng lưới của ḿnh th́ họ cũng cẩn trọng không kém đối với vấn đề độc lập. Coughlin làm rơ, "Gordon không mời chúng tôi tham gia vào cơ quan t́nh báo [GBT] và tuyên bố ông ta không cần giúp đỡ để duy tŕ cơ quan đó. Ông ta không tiết lộ các điệp viên cũng như cơ cấu tổ chức của ḿnh với người ngoài". Dẫu vậy Coughlin vẫn lạc quan về tương lai của sự hợp tác OSS - GBT. "Tôi tin rằng liên lạc và kết hợp với ông ta [Gordonl có thể cho phép chúng ta t́m hiểu đầy đủ về tổ chức của ông ta đồng thời cho phép chúng ta thiết lập một tổ chức của chính ḿnh".
Tháng 11 năm 1944, nhóm GBT đề nghị thảo luận về "Bản báo cáo Đông Dương thuộc Pháp", trong số các chủ đề thảo luận có nhu cầu đối với cuộc kháng chiến của nhân dân và vị thế hiện tại của cuộc kháng chiến này. GBT chỉ ra rằng mặc dù "Quân đội Pháp ở Đông Dương là lực lượng khá nhất để chống lại Nhật", nhưng rơ ràng đội quân này có những hạn chế nghiêm trọng như mối lo thường trực sẽ bị Nhật giải giáp". V́ vậy, có vẻ hiển nhiên với Gordon là "một nhóm dân thường khoẻ mạnh được phiên chế vào các đơn vị chiến đấu và phá hoại sẽ có giá trị lớn lao". GBT tin những thành viên đáng tin cậy nhất của Kháng chiến Pháp là những người như nhóm 22. Nhóm 22 được GBT bảo trợ và là tổ chức dân sự có tầm cỡ duy nhất tồn tại ở Việt Nam trước khi nước Pháp được giải phóng. Gordon đánh giá cao các thành viên của nhóm 22: "Được lựa chọn trong những ngày đầu khi bạn hữu như lá mùa thu và đă chứng minh được ḷng trung thành, khả năng, mục đích kiên định của ḿnh", ông viết: "Họ, theo tôi, không chỉ là nhóm xuất sắc nhất mà đương nhiên là nhóm duy nhất đáng tin cậy ở nước này". Gordon bày tỏ sự quan ngại sâu sắc rằng nhóm 22 đang bị suy yếu bởi sự kết hợp giữa quan điểm chính trị Pháp và thất bại trong một bộ phận của Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ, trong việc công nhận và hậu thuẫn họ. Ông cảnh cáo người Mỹ rằng từ tháng 8, khi Paris được giải phóng, các nhóm kháng chiến thân Đồng Minh "mọc lên như nấm trên khắp đất nước", hầu hết "cố chứng tỏ thiện ư trong mắt Đồng Minh".
Giờ đây Paris đă sạch bóng thù, mối quan tâm của Pháp tập trung vào giải phóng và duy tŕ đế chế. Trong một nỗ lực kiến lập một h́nh thức hợp pháp nào đó với Đồng Minh, tướng Pháp Gabriel Sabattier, chỉ huy Quân đội thuộc địa ở Bắc Kỳ, đă gửi điện cho Gordon qua nhóm 22, thuyết phục ông tạo lập quan hệ chính thức với Kháng chiến Pháp thông qua FMM ở Trùng Khánh. Với việc bổ nhiệm tướng Eugene Mordant làm tư lệnh Kháng chiến, việc này trở nên khó khăn hơn. Mordant bắt đầu chiến dịch vận động thành lập nhóm kháng chiến dân sự của chính ông ta ngay sau khi nhậm chức. Ông ta báo cho nhóm 22 rằng họ nên được sáp nhập vào cơ cấu của lực lượng kháng chiến rộng lớn hơn của ông ta và được đề nghị lựa chọn "những nhiệm vụ nào đó". Nhóm 22 bày tỏ sự bất b́nh của họ với Gordon và nhấn mạnh mong muốn một nhà lănh đạo có "kế hoạch rơ ràng và được Đồng Minh hậu thuẫn". Họ tŕnh bày với ông chi tiết lư do phản đối Mordant và phe của ông ta ở ba điểm chính:
- Họ đại diện cho thất bại về năng lực trong quá khứ.
- Họ không chỉ là những kẻ phản bội t́m kiếm an toàn cho riêng ḿnh mà c̣n vu cho nhóm 22 chống Pháp bởi nhóm này đă đ̣i hỏi có được chỉ thị và sự hợp tác của Đồng Minh.
- Hai ví dụ gần nhất về mệnh lệnh của Mordant được một nguồn tin đáng tin cậy báo cáo tự chúng đă nói lên, không cần giải thích:
Trong một tờ truyền đơn được chuẩn bị vào tháng 10 năm 1944, biểu tượng tuyển người vào Kháng chiến Dân sự không khác ǵ vũ khí chống "Đế quốc Mỹ". Việc làm ghê tởm đó hầu như chỉ nhằm mục đích gây cười, nhưng minh chứng một cách đầy đủ chính sách dao động trong nhóm người này.
Với tư cách là bước đầu tiên huấn luyện dân thường, mọi người bị dồn lên xe quân sự ở Hà Nội và giữa thanh thiên bạch nhật bị đưa ra khỏi thành phố vài dặm tới doanh trại Pháp để huấn luyện. Tất cả những người chứng kiến đều hiểu chuyện ǵ sẽ xảy ra. Việc làm này đă cho lính Nhật cơ hội kiểm tra những cá nhân được tuyển mộ và yếu tố bất ngờ của Phong trào Dân sự đang được điều chỉnh một cách vô vọng.
Tương lai sẽ chứng minh nhóm 22 đúng trên nhiều phương diện. Giải phóng nước Pháp đă cổ vũ nhiều người Pháp ở Đông Dương hy vọng vào chiến thắng của Đồng Minh trên mặt trận Thái B́nh Dương trong một tương lai gần, c̣n Nhật th́ theo dơi hoạt động ủng hộ Đồng Minh của thực dân đă gia tăng. Dĩ nhiên, sự khuyến khích kháng chiến chống Nhật của GBT đă làm họ thay đổi việc thu thập và phân tán thông tin liên quan đến cái mà nhà sử học David Marr mô tả là "đánh giá thái độ chính trị và cổ vũ lực lượng vũ trang bí mật chống Nhật". Đương nhiên, khả năng đánh giá các nguồn thông tin và báo cáo về chúng của Gordon rơ như thanh thiên bạch nhật đối với nhiều người, trong đó có OSS và Không đoàn 14. Tuy thế OSS lại không hoàn toàn thích sử dụng GBT v́ có những biểu hiện nào đó làm cả Coughlin và người tiền nhiệm của ông ta, Donovan, lo lắng.
Trong những lời chỉ trích "Kế hoạch Gordon", Coughlin tính đến quan sát của chính cá nhân ông ta về từng người trong số ba thành viên cơ bản của GBT. Coughlin thú nhận rằng ông ta vẫn chưa gặp Frank Tan, nhưng cho biết ông ta chấp nhận mô tả tính cách Tan "như một người Hoa hoàn toàn đáng tin cậy" của Gordon. Ông ta c̣n thêm rằng Tan "phụ thuộc vào Gordon v́ vị trí của ḿnh sau chiến tranh thế giới". Coughlin b́nh luận, so với Gordon, Harry Bernard "không sắc sảo bằng", và không có cùng "nghị lực". Tuy nhiên Coughlin nêu rơ "Bernard mong muốn tột bực được giúp người Mỹ bằng mọi cách có thể". Điều này trái ngược với Gordon - người được Coughlin mô tả là "cực kỳ thân Anh" và "suy nghĩ dưới dạng duy tŕ Đế quốc Anh". Ông ta bổ sung, "Tôi không hề nghĩ rằng chúng ta nhận được tất cả những tin t́nh báo mà ông ấy thu được, nhưng phần chúng ta nhận được cho đến lúc này cũng đă nhiều hơn những ǵ đă trả cho sự giúp đỡ mà chúng ta phải đáp lại"
Donovan cũng nghi ngờ các mối liên hệ của Gordon.
Trong các cuộc trao đổi với tướng Petchkoff tại Trùng Khánh, Donovan đổ lỗi cho GBT đă gây ra những hiểu lầm giữa Mỹ và Pháp. Trong các cuộc điều tra Gordon của ḿnh, đại tá Paul Helliwell, sếp của SI tại tổng hành dinh OSS ở Côn Minh, lại t́m thấy những điều rất trái ngược. Helliwell báo cáo rằng Gordon mô tả người Anh gia nhập "FLC bằng nỗ lực của chính ḿnh, không hề có sự phối hợp chiến trường", và người Pháp "hoàn toàn không đáng tin cậy". Thậm chí nếu không có những hoài nghi liên quan đến các mối liên hệ của Gordon th́ Donovan cũng khó mà chấm dứt kế hoạch của Gordon. Đề nghị viện trợ cho các nhóm của Kháng chiến Pháp của OSS đă gặp khó khăn tại Washington.
Tổng thống Roosevelt đă đáp lại ư tưởng này trong một giác thư gửi ngoại trưởng Hull. Ông viết: "Về vấn đề Đông Dương, ư kiến của tôi là lúc này chúng ta không nên làm bất kỳ điều ǵ liên quan đến các nhóm kháng chiến hay liên quan đến Đông Dương". Mặc dù Kế hoạch Gordon đă suy yếu, nhưng OSS vẫn nóng ḷng tăng cường vai tṛ t́nh báo của nó tại Đông Dương thuộc Pháp, ở một giới hạn nào đó bằng cách giành được sự tiếp cận lớn hơn đến mạng lưới đang tồn tại của GBT.
Để làm được việc này cũng như để canh chừng Gordon, OSS đă bổ nhiệm trung uư Charles Fenn làm liên lạc viên của nó cho GBT. Fenn, Coughlin tuyên bố, "là người duy nhất ông ta muốn tin tưởng giao phó nhiệm vụ này".
Trong ba tháng cuối cùng của năm 1944, Charles Fenn là sĩ quan OSS duy nhất làm việc cùng GBT và báo cáo về các hoạt động của nó, và khi năm 1945 đến gần, Fenn đă có đầy đủ lư do để hy vọng rằng mối quan hệ tốt đẹp của OSS với GBT sẽ tiếp tục. Tuy nhiên, quan hệ của OSS với GBT sẽ sớm thay đổi.
Tự trấn an ḿnh về khả năng gần như vô hạn của nhóm, Donovan đă quyết định cố đưa nó vào ṿng kiểm soát hoàn toàn của OSS. Cho dù nhiều thành công của GBT có thể được gán cho sự độc lập tương đối của nó đi chăng nữa th́ cũng dễ phỏng đoán phản ứng của Gordon, Bernard và Tan trước bất kỳ nỗ lực nào muốn chiếm quyền kiểm soát nhóm này. V́ thế trong khi Gordon lên đường đi Washington để giải quyết khó khăn mới nảy sinh th́ Fenn liên hệ mật thiết hơn với hai thành viên khác của nhóm. Với sự có mặt của Bernard và Tan, Fenn đă gặp một thành viên mới người Việt được giới thiệu dưới bí danh Hồ Chí Minh.
Chú thích:
(1) Con đường nối Burma với Trung Quốc, tổng chiều dài 1.130 km, được xây dựng trong hai năm 1937 - 1938.
(2) Croix de Guerre trong nguyên bản
(3) Sept Pagodas: 7 chùa trên địa bàn tỉnh Nam Định gồm Đại Bi, Phổ Minh, Phúc Lâm, Cổ Lễ, Chùa Đệ tứ Trần Nhật Duật, Keo và Vọng Cung.
http://archive.org/stream/causesoriginsles00unit#page/280/mode/2up
http://openlibrary.org/books/OL23285197M/Causes_origins_and_lessons_of_the_Vietnam_War.
OSS và Hồ Chí Minh -
Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật
Tác giả : Dixee R. Bartholomew - Feis
Dịch giả : Lương Lê Giang
Deer Team và Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Gíáp
4. Charles Fenn
Trong lời tựa cuốn sách xuất bản năm 1973 của ḿnh có tựa đề Hồ Chí Minh. Giới thiệu tiểu sử, cựu thành viên OSS Charles Fenn viết:
“Dưới chế độ thực dân, kẻ thống trị và người bị trị dường như có số phận nhơ nhuốc như nhau. Kẻ thống trị trở nên vụ lợi ngạo mạn, khinh người, cố chấp, và một số trở nên độc ác. Người bị trị trở nên hèn hạ, biếng nhác, xảo trá, bất tín, và một số trở nên bất trị. Điều đó xảy ra khi kẻ thống trị trở nên đặc biệt độc ác đến mức người bị trị trở nên đặc biệt bất trị. Trong chúng ta những người đủ lớn tuổi để nh́n lại kỷ nguyên thuộc địa vẫn nhớ với nỗi lo lắng khôn nguôi rằng hầu như chúng ta chấp nhận việc khoá miệng người Việt Nam, người Phi, Ấn Độ, Burma, Indonesia và các chủng tộc bị nô dịch khác như một phần mô h́nh chung của xă hội đă được thiết lập.
Nếu ngẫu nhiên chúng ta là người Anh, người Pháp, người Đức, người Hà Lan, Bỉ hay Italia th́ chúng ta cũng tự hào khoác lác về "tài sản" của chúng ta nhiều như chúng ta tự hào khoác lác về "tổng sản phẩm quốc dân" của chúng ta hôm nay". Chúng ta thoả măn rằng người Phi, chẳng hạn, thấp hơn trong nấc thang tiến hoá; và rằng người châu Á, mặc dù có quyền được gọi là con người, cũng không thể được mô tả là giống người khôn ngoan, người ta chỉ phải nhớ những cái tên ứng với những kẻ thống trị (ông chủ, chủ nhân, ngàí) tương phản với một từ miệt thị định cho những kẻ bị nô dịch (người bản xứ). Trước tiên là một thuật ngữ hữu ích để mô tả người bản xứ, cuối cùng nó phân loại kẻ đó với một thân phận chỉ cách loài chó trong gang tấc.”
Những kết luận được Fenn đưa ra trong năm 1973 được thai nghén từ những trải nghiệm trong Chiến tranh thế giới 2 của ông, lúc đầu là phóng viên đưa tin năm đầu của cuộc chiến, sau đó là trung uư thuỷ quân lục chiến làm việc với OSS và GBT. Sự đa dạng trong các cuộc phiêu lưu của Fenn đă sớm thuyết phục ông rằng làm việc với một số trong những người Đông Dương bất trị nhất - ít nhất cũng là trong mắt người Pháp - có thể dẫn đến những kết quả t́nh báo mà người Mỹ cần. Kết luận tiếp theo của Fenn có thể gây phiền toái cho lănh đạo GBT, một số thành viên OSS và cuối cùng là cả hai chính phủ Anh, Mỹ. Bất kể điều đó có xảy ra, Fenn cũng tác động đến những sự kiện không cân xứng với vai tṛ b́nh thường không đáng kể của ông; cả người chỉ trích và người thán phục đều cho là Fenn đă ủng hộ Hồ Chí Minh trở thành nhà lănh đạo tuyệt đối của Việt Minh năm 1945. Những kẻ gièm pha đổ lỗi cho ông, ít ra cũng ở một giới hạn nào đó, về sự mạnh lên của Việt Minh, thất bại sau đó của Đế chế Pháp trước những người cộng sản và thậm chí cả những khó khăn mà Mỹ gặp phải ở nước này. Phái ủng hộ thấy Fenn có đôi chút nh́n xa trông rộng, người đă nhận ra sức mạnh và ư chí của Hồ Chí Minh và phong trào Việt Minh của ông ngay từ đầu, người đă làm cho những lư lẽ của ḿnh được chú ư lẽ ra đă có thể ngăn chặn những tổn thất to lớn về nhân mạng cho tất cả các bên từ năm 1946 đến 1975.
Charles Fenn sinh năm 1909 tại Vương quốc Anh. Năm 17 tuổi ông lên đường ra biển làm phụ trách tiếp viên hạng vé du lịch trên tầu Aquitania của Hăng R.M.S. Sau khi làm việc được 5 năm trên cương vị đó ông di cư tới Mỹ, định cư tại Philadelphia. Không lâu sau ông được nhập quốc tịch Mỹ và bắt đầu làm chân chào hàng dệt may. Dù thành đạt ở nghề này nhưng cuộc hôn nhân của ông với hoạ sĩ nổi tiếng Marion Greenwood đă khuyến khích ông khám phá thêm khía cạnh nghệ thuật của ḿnh. Ông trở thành phóng viên ảnh cho tạp chí ảnh Friday và đến năm 1940 ông lên đường sang Trung Quốc chụp ảnh hậu quả của sự chiếm đóng của Nhật Bản.
H́nh thức của tờ Friday cũng tương tự như tạp chí Life, nhưng tính đại chúng của Life và những quan điểm chính trị cánh tả của Friday đă ngăn cản tạp chí này tăng thêm lượng phát hành vốn hạn chế của ḿnh. Cho dù thích Friday ở nhiều khía cạnh nhưng sau đó Fenn lại t́m một công việc chắc chắn và có thu nhập cao hơn. Giữa năm 1941 ông trở thành phóng viên và nhiếp ảnh gia chiến trường cho hăng AP. Hơn 2 năm sau đó ông đưa tin chiến tranh ở Bắc Phi và châu Á, trong đó có chiến dịch quân sự của Nhật vào Burma. Đầu những năm 40 các phóng viên mới được trả lương theo sản phẩm chứ không phải lương công nhật và Fenn nhanh chóng nhận thấy nguồn sống của ḿnh bị căng quá mỏng. Năm 1943 ông trở lại thành phố New York t́m việc làm. Tại một dạ tiệc ông gặp Buckminster Fuller, quyền cố vấn cho OSS, và được mời đến Washington phỏng vấn.
Fuller đă nhận ra tài năng của Fenn trên cương vị phóng viên và nhiếp ảnh gia cũng như những phẩm chất tiềm tàng đối với OSS nhưng kinh nghiệm của Fenn về Trung Quốc và khả năng nói tiếng Quan Thoại ở mức độ vừa phải mới làm ông ta quan tâm nhiều hơn. V́ thế Fenn trở thành một trong những "chuyên gia" của tổ chức. Thoạt đầu có vẻ như Fenn sẽ khó hội nhập. Các thành viên OSS rơ ràng là "tinh hoa, có chọn lọc, cánh hữu và tốt nghiệp đại học", ông nhớ lại, và rơ ràng "những chuyên gia như tôi có lẽ không có tất cả những thuộc tính đáng mơ ước này". Quả thực, Fenn dường như không có một thuộc tính nào trong số đó. Là một kẻ di cư xuất thân từ một gia đ́nh lao động Anh, ông không thể được xem là thành phần tinh hoa, và việc ông rời trường phổ thông trước khi tốt nghiệp khiến ông c̣n xa mới đạt tới tŕnh độ đại học. Có lẽ, khó hiểu nhất là, trong một tổ chức "cánh hữu" riêng ông lại thuộc về cánh tả. Rơ ràng những khác biệt cơ bản này phần nào là nguyên nhân làm Fenn khác với hầu hết thượng cấp của ông và gây chia rẽ liên tục giữa ông với OSS trong năm 1945.
Sau khi tham gia OSS vào năm 1943, Fenn, người vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ quân dịch, gia nhập Quân đoàn Thuỷ quân Lục chiến và, hẳn là để có điều kiện giấu ḿnh trong công tác của OSS, được bổ nhiệm trung uư. Sau khoá huấn luyện cơ bản, ông vào học trường huấn luyện của OSS.
Tại đây ông quen với năm chi nhánh của OSS (Công tác đặc biệt (SO), T́nh báo (SI), Nghiên cứu và Phân tích (R&A), Phản gián (CI), Công tác tinh thần (MO). Fenn nổi trội ở chi nhánh cuối cùng và được chỉ định vào MO khu vực Viễn Đông. Công việc của ông là "nghĩ ra mọi biện pháp có thể để đánh lừa kẻ dịch về ư đồ, khả năng hay thời điểm" và "chép các bản tin, truyền đơn, tạp chí, báo và ảnh thành các bản sao chính xác nhưng với những thay đổi tinh vi làm hại kẻ thù". Mặc dù về nguyên tắc được phân công về MO, nhưng công việc của Fenn chẳng mấy chốc cũng đưa ông đến với SO và SI. Nhiệm vụ đầu tiên của Fenn là cùng trung tá Herbert Little phát triển một kế hoạch của MO nhằm hậu thuẫn các kế hoạch quân sự giành lại Burma. Sau khi hoạt động tại Burma ba tháng, ông được điều về Trung Quốc với chỉ thị từ Hải quân Mỹ cho phép ông đi "bất cứ đâu" trên mặt trận Trung Quốc - Burma - Ấn Độ mà "nhiệm vụ yêu cầu". Những chỉ thị này tạo điều kiện cho Fenn tự do đi lại. Tự do đi lại cho phép ông thực thi công vụ trọn vẹn nhất. Nó cũng đem lại ông đầy đủ cơ hội chuốc lấy oán hận từ các sĩ quan cấp trên, những người phản đối những "cuộc rong chơi" không bị hạn chế mà ông thực hiện không cần có sự chấp thuận của họ.
Trong lần đến Côn Minh năm 1944, cấp trên trong OSS của Fenn, John Coughlin, chỉ thị cho ông bắt đầu hoạt động dưới vỏ bọc AGFRTS với sự phê chuẩn của tướng Chennault tư lệnh Không đoàn 14.
Cuộc gặp của Fenn với Chennault diễn ra vui vẻ và có kết quả. Ông biết vị tướng "quá rơ" từ những lần đưa tin về đơn vị này khi c̣n làm cho hăng AP và Chennault dễ dàng chấp thuận kế hoạch MO của Fenn, bao gồm sử dụng một số bạn hữu người Hoa của Fenn làm điệp viên. Chennault muốn các điệp viên MO giúp đỡ ông triển khai phương án tác chiến tâm lư cho các phi công của ḿnh. Ông tin những điệp viên này có thể huấn luyện phi công của ông chống lại "những tác động và phản ứng đối với các cuộc ném bom dân thường tại những vùng lănh thổ bị chiếm đóng". Chennault đặc biệt quan tâm đến những khu vực như Đông Dương thuộc Pháp, nơi ông biết là "có người định cư da trắng nhưng dưới quyền kiểm soát của Nhật". Dù Fenn đă được phép sử dụng các điệp viên người Hoa, nhưng c̣n ít thời gian để làm điều đó lúc khởi đầu. Với việc Nhật bắt đầu tấn công trên khắp miền Đông Nam Trung Quốc, từ Hán Khẩu đến Quảng Châu trong năm 1944, hoàn cảnh đă bắt Fenn phải hành động một ḿnh. Nhiệm vụ của ông là loan truyền tin đồn nhằm "chống lại những tin tức bịa đặt và có tính chất gây rối mà quân Nhật ở mặt trận Hành Dương, Quế Lâm và nhưng nơi khác đă reo rắc trước cuộc tấn công của chúng". Bởi đà tấn công nhanh chóng của Nhật nên ông "hoạt động đơn thương độc mă… loan truyền tin thất thiệt ít nhiều với tư cách cá nhân".
Fenn được khen ngợi v́ thành tích hoạt động nhanh chóng và dũng cảm nhưng được thuyết phục mở rộng mạng lưới của ḿnh ra ngoài giới hạn của MO và tham gia vào hoạt động của SI giúp Không quân. Không đoàn 14 cần thông tin về các mục tiêu, bố pḥng và chuyển quân của Nhật, và hơn hết là điều kiện thời tiết. V́ vậy, ngay từ đầu nhiệm kỳ công tác của ḿnh tại Trung Quốc ông đă biết rơ SI "quan trọng hơn hẳn" các hoạt động tinh thần. Mạng lưới phát triển rất nhanh và các điệp viên người Hoa của Fenn đă cung cấp những tin t́nh báo quư giá cho Chennault, OSS và GBT suốt chiến tranh.
Công tác của Fenn có bước ngoặt bất ngờ tại một nói bất ngờ vào mùa hè năm 1944. Trong lúc chờ chuyển bay đi Côn Minh tại Quế Lâm, Fenn vào pḥng ăn của OSS uống một tách cà phê. Tại đây ông ngẫu nhiên tṛ chuyện với hai người lạ đó là "một cặp chẳng giống ai", ông nhớ lại, "một người miền Tây cao lớn, và một người Hoa lùn đến khác thường, cả hai đều mặc đồ ka ki dân sự". Hai người đó là Laurie Gordon và Frankie Tan. Mặc dù cuộc nói chuyện đầu tiên diễn ra thận trọng v́ tính chất nghề nghiệp của họ, nhưng cuộc gặp gỡ bất ngờ thú vị này sau đó có ư nghĩa nhiều hơn mong đợi. Vào tháng Chín, một lần nữa Coughlin lại triệu tập Fenn đến văn pḥng của ông ta để thảo luận về GBT.
Khi Coughlin đề cập đến ư kiến làm việc cùng nhóm Gordon th́ phản ứng đầu tiên của Fenn là tích cực cho dù đă báo trước ông "chẳng biết mô tê ǵ về Đông Dương". V́ công tác của Fenn đến thời điểm đó, trước hết là ở MO, giới hạn ở Burma và Trung Quốc, nên ông có thể đă cảm thấy không đủ tư cách, tuy nhiên, căn cứ vào hiểu biết có phần hạn chế về Đông Dương trong toàn bộ OSS th́ Fenn là người cừ nhất mà người ta có và ông đă chứng tỏ là một lựa chọn tuyệt vời.
Coughlin c̣n giải thích thêm rằng OSS muốn "tiếp quản toàn bộ hoạt động của GBT, chấm hết", nhưng Gordon "không chấp nhận điều đó" và nhất mực cho rằng hoạt động của ông ta thành công "phụ thuộc vào việc ông ta được độc lập". Sau một hồi tranh luận Coughlin nói rơ, cả OSS và Gordon đă đi đến thoả hiệp: OSS sẽ cung cấp tài chính nhưng Gordon phái "nhận một sĩ quan OSS vào nhóm". Điều đó hoá ra vô cùng thuận lợi v́ Coughlin xem Fenn là "người duy nhất muốn được giao công việc này", bởi v́ Gordon cũng đưa ra một điều kiện:"Fenn là cái tên duy nhất ông ta đồng ư".
OSS ngạc nhiên với thành tích của GBT, nhưng sự kín đáo của Gordon đă khiến nhiều người trong tổ chức muốn tiếp cận mạng lưới của ông phải nản ḷng và bực tức. Vai tṛ của Fenn là hoạt động với GBT nhưng đồng thời phải phát hiện cho OSS "Gordon thực sự có quan hệ ra sao với các tổ chức khác mà ông ta đă kết nối" và liệu ông ta có phải là "điệp viên Anh" hay làm việc cho FMM, thậm chí là cho Tai Li" hay không. Được chỉ thị như thế, Fenn lên đường cùng Gordon đến tổng hành dinh của GBT tại Long Châu, một điểm quan trọng trong mạng lưới kinh doanh giữa Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam, khoảng 100 dặm về phía tây nam Nam kinh, gần biên giới Đông Dương. Fenn được báo trước rằng đến dinh thự của GBT sẽ hết một tuần đi bằng thuyền tam bản - kiếm được thông qua Fatty, một trong những doanh nghiệp Trung Quốc liên đới thời xưa của Gordon" - ngược ḍng một con sông chảy xiết. Có cu li chống sào và vợ chủ thuyền lo việc ăn uống, Gordon và Fenn có nhiều tiếng đồng hồ tṛ chuyện và t́m hiểu lẫn nhau. Gordon dành thời gian giải thích cặn kẽ về hoạt động của ông. Gordon khoe rằng đến lúc đó (mùa hè năm 1944) ông đă có "một chục người bạn (tất cả là người Pháp nhưng rất thân Đồng Minh) tại Đông Dương gửi báo cáo về: hai báo cáo được gửi bằng điện đài, số c̣n lại theo đường thư".
Dù Fenn và Gordon đă trở thành bạn bè thân thiết nhưng Fenn vẫn thường xuyên liên lạc với OSS thông qua đại tá Robert Hall, hai thiếu tá Glass và de Sibour. Khi ông và Gordon c̣n đang trên đường, Fenn ngay lập tức bắt đầu làm theo chỉ thị thăm ḍ nguồn gốc ḷng trung thành của Gordon.
Fenn thấy Gordon "nh́n chung thân Pháp", nhưng làm việc cho FMM không nhiều hơn cho người Anh, Mỹ hay Trung Quốc. Fenn mô tả Gordon là "hoà hợp với người Anh và Mỹ", nhưng ông mô tả điều đó bằng phát biểu rằng nếu Gordon "thân thiện hơn với người Anh th́ phần nhiều bởi họ thân thiện hơn đối với ông ấy".
Từ quan điểm của Gordon, trường hợp đó là tất nhiên. Người Anh, nhất là MI5, đă cung cấp tất cả những trợ giúp mà họ có thể chỉ với duy nhất một điều kiện kèm theo: GBT cung cấp cho họ tất cả những tin t́nh báo thích hợp. Người Mỹ yêu cầu nhiều hơn một chút. Rơ ràng Chennault và Lực lượng không quân giải cứu trên Bộ (AGAS) đánh giá cao mạng lưới của GBT và thường giúp đỡ những nỗ lực của họ.
Sau khi chứng kiến những cuộc trao đổi giữa Gordon và người của Chennault được cử đến để thảo luận về mục tiêu và những hoạt động khả thi tại Đông Dương", Fenn đă báo cáo về: "Không nghi ngờ ǵ nữa, Gordon có những mối quan hệ tuyệt hảo với những người này cũng như với Hsiu (Hsiu Kwang-yin), một trong số những tay chân của Tai Li phụ trách Nam Ninh. OSS ít hài ḷng làm bên nhận thông tin b́nh thường của GBT, và ngay từ đầu nó đă cố nuốt chửng nhóm này, một bước đi mà Gordon vừa chống lại và vừa phẫn nộ.
Về phần ḿnh, Gordon quá rơ căn nguyên của OSS và lư do Fenn được cử tới làm việc với GBT: "Với việc hạm đội Mỹ đang di chuyển tới Biển Đông, (sự dính líu của Mỹ vào Đông Dương) là không thể tránh khỏi. Khi các hàng không mẫu hạm tới gần bờ biển Đông Dương, người ta sẽ cần biết thời tiết các mục tiêu và bố pḥng của Nhật. Đó là lư do Coughlin được lệnh tham gia chiến dịch này và không được chậm trễ. Cách duy nhất hiệu quả mà ông ta có thể làm việc đó là thông qua cơ cấu của chúng tôi. Từ đây khát vọng của ông ta đưa chúng tôi lại với nhau".
Khi Gordon và Fenn tiếp tục ngược ḍng, họ đă đón Frankie Tan. Fenn và Tan cũng tâm đầu ư hợp và hành tŕnh đến Long Châu diễn ra vui vẻ. Đến tổng hành đinh GBT, "một ngôi nhà gạch đồ sộ có khoảng mười pḥng", Fenn gặp thành viên thứ ba của nhóm, Harry Bernard, cũng như nhân viên hành chính gần gũi của Gordon, bà Tong và hai con gái bà là Helen và Janet. Một lần nữa Fenn đánh giá cao tính cách và khả năng của Bernard và trở thành người bạn thân thiết của ông và thư kư của Gordon, Helen Tong.
Sau một thời gian ngắn, Long Châu đă chứng tỏ là môi trường làm việc lư tưởng đối với Fenn và GBT. V́ Mỹ và Anh đang hợp tác và giúp đỡ Trung Hoa Dân Quốc nên các thành viên GBT có thể hoạt động công khai mà không sợ bị trả thù.
Lúc này sự gần gũi của Long Châu với Đông Dương cho phép họ liên lạc với các điệp viên bên trong Việt Nam tương đối thường xuyên để lên kế hoạch và khởi xướng những hoạt động mới. Trong vài ngày Fenn thậm chí c̣n sử dụng những điệp viên người Hoa của chính ḿnh trong một phần hoạt động của GBT. Càng dính sâu vào GBT ông càng đánh giá cao những nỗ lực của họ v́ lợi ích của Đồng Minh. May thay những cảm giác đó là hai chiều và mối quan hệ của bộ ba với Fenn đă phát triển thành sự tin cậy lẫn nhau và t́nh bạn thân thiết. Chẳng hạn, Gordon đă cho phép Fenn đi cùng ông đến dự một cuộc họp ở vùng giáp ranh với André Lan, trưởng nhóm điệp viên của ông tại Việt Nam - một hành động tin tưởng đáng kể, nếu xét đến thái độ lưỡng lự để lộ những thành viên trong mạng lưới của ḿnh với người ngoài của Gordon.
Trong các cuộc gặp sau đó với Lan, một kẻ thực dân có những mối quan hệ địa phương vững chắc, Fenn biết được nhiều hơn t́nh h́nh Đông Dương. Dù là người Pháp nhưng ḷng trung thành của Lan đối với Đồng Minh và Gordon là không phải bàn căi, và thời gian sẽ chứng minh, khách quan mà nói, những cố gắng của Lan thường có trọng lượng hơn thành kiến của y. Trong những báo cáo cho Fenn, Lan xác nhận hầu hết những thông tin OSS đă biết thời gian đó, đặc biệt y thể hiện ḷng kính trọng đối với sự điều hành liên tục của người Pháp trong vùng, và y sơ ư biểu lộ đôi chút nguy hiểm rằng y đối đầu với chính ḿnh bởi dính líu vào GBT.
Tranh luận về quan hệ Pháp - Nhật, Lan xác nhận rằng Nhật không "xía vào giữa người bản xứ và người Pháp, ngoại trừ phóng thích các tù chính trị", bởi "họ cần không gian nhà tù cho cái mà họ cho là những tội quan trọng hơn như thái độ chống Nhật hay gây rối, không hợp tác và hoạt động gián điệp ; y bổ sung, "gián điệp cộm cán" bị tử h́nh ngay lập tức.
Căn cứ vào vị trí điệp viên quan trọng nhất của Gordon ở Đông Dương, nếu bị bắt, Lan sẽ bị Nhật hành quyết. Mặc dù là kẻ nguy hiểm hơn những thành viên khác trong nhóm, nhưng Lan hoạt động không mệt mỏi để cung cấp cho Gordon những thông tin từ Hà Nội, và vô số trường hợp y đă hộ tống người Pháp chạy trốn khỏi Đông Dương đến Trung Quốc an toàn.
Lan c̣n cung cấp cho GBT những báo cáo trực tiếp về tác động của Nhật lên kinh tế Đông Dương và cách người Việt Nam nh́n nhận thật - từ bối cảnh của ḿnh. Đối với nhận thức của người Việt Nam về Nhật Bản, Lan báo cáo rằng một thứ tuỳ theo lợi ích của Nhật là thái độ của họ. Y nói với Fenn, quân Nhật xử sự "tốt hơn lính Tây, cho dù đó là lính Pháp, lính Anh hay lính Mỹ", và bổ sung thêm, "các sĩ quan Nhật luôn nghiêm khắc bắt tuân thủ kỷ luật". Theo y, "người An Nam có thiện cảm với Nhật hơn chỉ v́ họ quá căm thù Pháp". Mặc dù t́nh h́nh có thể xảy ra theo cách đó đối với Lan, nhưng những người khác nh́n nhận thái độ của người Việt khác Lan. Một báo cáo đến từ Bộ Thông tin và Ban quản trị xung đột chính trị Anh Quốc trong khi thừa nhận Nhật "đă cư xử đúng mực đáng kể tại Đông Dương", đă đi đến kết luận trái ngược với Lan và c̣n lưu ư đến những t́nh cảm thân Đồng Minh trong nhân dân:
Trên thực tế kể cũng khá lạ, làm sao người bản xứ lại nhanh chóng phát hiện ra và hiểu sự pha trộn giữa tính ngạo mạn và "thân thiện " của người Nhật để ghê tởm chúng v́ điều đó đến thế. Điều này phần nào giải thích cho ḷng nhân hậu của những người bản xứ nghèo khổ dành cho các tù binh chiến tranh người Anh. Người An Nam và các cộng đồng dân tộc khác đă mạo hiểm chuyển tiền và lương thực v.v… cho các tù binh. Thái độ của người bản xứ đối với người Pháp có lẽ đă chuyển thành một dạng lănh đạm. Sự căm ghét trước đây của người bản xứ đối với người Pháp bây giờ tập trung vào người Nhật, và nhờ đó người Pháp có lẽ được an ủi. Nhưng chắc chắn lần đầu tiên người bản xứ biết người Anh và Mỹ những dân tộc mà họ khâm phục v́ đấu tranh chống Nhật.
Phần lớn các báo cáo của OSS trong năm 1944 về sự giúp đỡ Đồng Minh của nhân dân Đông Dương đều giống của Bộ Thông tin và Ban Quản trị Xung đột Chính trị Anh Quốc. Vào tháng 10, trong một chỉ thị hợp tác với FMM cho công tác tại Đông Dương, thiếu tá Harold Faxon của OSS đă lạc quan tuyên bố: "Trên thực tế toàn bộ người dân bản xứ đều chống Nhật và sẽ hân hoan đón nhận cơ hội tham gia khoá huấn luyện được (Đồng Minh) đề ra và các hoạt động tiếp theo".
Lúc này những khác biệt dễ nhận thấy trong ư kiến về "bản chất tâm lư" của người Việt Nam và về khả năng sử dụng họ như một phần của các chiến dịch bắt đầu xuất hiện trong các thành viên OSS. Những báo cáo sớm từ năm 1944 đă quên lợi dụng thông tin đó. Milton Miles và Robert Larson (người đă tuyên bố rằng người Việt Nam không phải và cũng không thể coi là dân tộc hạ đẳng) lượm lặt được và chủ yếu tập trung thảo luận những thuật ngữ có tính miệt thị. Một báo cáo hồi trung tuần tháng 5 về "những biện pháp dự định tuyên truyền vào Đông Dương" nói rơ rằng "khả năng tiếp nhận tuyên truyền của người Việt Nam" cần phải dựa trên hai yếu tố: thứ nhất, người An Nam cơ bản không thể hành động hướng tới những mục đích dài hạn và chỉ quan tâm tới những mối lợi trước mắt", và thứ hai, "người An Nam là một chủng tộc bị nô dịch nhiều năm và họ dễ dàng đáp lại lời khuyên và chỉ dẫn của người ngoại quốc hơn những điều tương tự được tin là xuất phát từ chính cộng đồng của họ". Một báo cáo tương tự cũng mô tả người Việt là "quen chịu phục tùng" và "không có khả năng tổ chức hay óc sáng kiến". Trong lúc cơ quan MO tiếp tục tác động tới kế hoạch dành cho Đông Dương thuộc Pháp th́ những b́nh luận về dân tộc này đạt tới độ "sâu sắc" hơn và trở nên xấc xược hơn.
Sĩ quan MO R.P. Leonard viết:
’Thái độ phục tùng của người bản xứ và khuynh hướng vụ lợi của họ, xét đến người Việt đặc biệt v́ họ trội hơn hẳn các sắc tộc Đông Dương, có một ư nghĩa quan trọng để đổi lấy các hoạt động của MO. Họ đúng là không có năng lực phát triển và tổ chức, dĩ nhiên là tổ chức bí mật. Nghi kỵ lẫn nhau và lừa đảo lẫn nhau, bất kỳ tổ chức nào mà họ dày công tạo lập cũng luôn bị sụp đổ v́ các thành viên của nó thiếu khả năng hoà hợp với nhau… (bởi họ) đă trở nên vụ lợi đến mức khác thường… họ sẽ làm bất cứ điều ǵ v́ tiền, nhưng không thể hy vọng họ mạo hiềm từ những động cơ lư tưởng.”
Mặc dù Leonard thừa nhận rằng có những ngoại lệ đối với "thực tế" này - vẫn có cá nhân "dũng cảm và lư tưởng" - ông ta kết luận rằng "một người An Nam như thế" không hữu dụng v́ sẽ không giành được ḷng tin của những người An Nam khác hưởng ứng lư tưởng". Theo quan điểm của Leonard, nỗ lực của OSS nên tập trung vào sử dụng những kiều dân Pháp bởi v́ họ "bị lâm nguy hơn người bản xứ ở Đông Dương" và "có cơ sở tâm lư tưởng tự chúng ta".
Dẫu rằng những b́nh luận về báo cáo của Leonard nh́n chung là tích cực và không mâu thuẫn với những quan điểm không tán thành người Việt Nam, nhưng những tuyên bố có giá trị ít nhất cũng thừa nhận nhiều hơn một loại "người An Nam". Trong nhận định của ḿnh, thiếu tá B.M. Turner đă mô tả sự đánh giá người Việt Nam như "phản ứng điển h́nh của kẻ mới đến" và chỉ ra rằng "Quốc dân Đảng và Cộng sản có những tổ chức mạnh tại Đông Dương"; ông đề nghị hành động thông qua họ sẽ là "cách làm hay để thu hút sự chú ư và niềm tin của những tầng lớp trí thức An Nam". Turner tán thành biện pháp kinh tế để giành được sự chú ư và ḷng trung thành của người dân. Chính sách tuyên truyền liên quan đến t́nh h́nh kinh tế tại Đông Dương thuộc Pháp hy vọng sẽ ngăn người Việt và các dân tộc khác làm việc "giúp" Nhật. Chẳng hạn, một chủ đề được MO đề xuất: "Những con tầu gỗ chúng ta đóng cho Nhật sẽ chuyên chở lương thực của chúng ta đến Nhật và các khu vực miền Nam khi mà chúng ta bị đói" - hy vọng "giúp làm suy yếu Đông Dương với chức năng là cơ sở quân sự và kinh tế cho Nhật" bằng cách thuyết phục người Việt Nam ngừng làm việc trên những con tầu gỗ chở hàng do Nhật sử dụng. Trong khi tuyên truyền trù tính khơi dậy những t́nh cảm chống Nhật bằng cách cho thấy Nhật Bản là "nguyên nhân của mọi thiếu thốn, vật giá leo thang và lạm phát" có nhiều khả năng thành công th́ những nỗ lực thức tỉnh nhân dân "không làm việc tại các nhà máy, hầm mỏ và các tuyến đường sắt… lại giẫm chân tại chỗ - cái giá phải trả cho hành động như vậy đơn giản là quá cao.
Để tăng cường các thông điệp của MO, Turner đề nghị làm "truyền đơn và sách bướm" để tuyên truyền trong nhân dân đồng thời lưu ư rằng OSS có "một cuốn sách bướm tuyệt vời do Hội người An Nam Độc lập ấn hành. Nó cho chúng ta một ví dụ gần như hoàn hảo để áp dụng trong việc tạo ra mọi loại truyền đơn và sách bướm, đồng thời đưa ra một nguyên tắc chung tuyệt hảo để làm theo trong viết sách bướm. Đặc vụ MO Turner không chỉ là người duy nhất thừa nhận sự tồn tại của các tổ chức hiệu quả của người Việt Nam. Các báo cáo được viết gần một năm trước đó cũng thể hiện nhiều ư kiến tương tự như của Leonard, nhưng lại cố thừa nhận sự tồn tại của nhiều hơn một "loại" người An Nam. Sau đó, trong chứng thực những chủ đề tin đồn, thiếu tá Herbert Little đă chọn cộng đồng Thiên Chúa giáo Việt Nam làm ưu tiên đặc biệt và lưu ư rằng họ có "một trong những tổ chức chính trị mạnh nhất nước". Một đề cương riêng biệt về các mục tiêu của MO được viết cuối năm 1943 không chỉ thừa nhận sự tồn tại của hai "nhóm ḱnh địch chống Nhật hoạt động tại Đông Dương" mà c̣n xem những tác nhân Việt Nam, so với cả tác nhân Pháp và Trung Quốc, "là những đầu mối liên lạc giá trị nhất" trong triển khai tuyên truyền thông một qua hệ thống liên lạc. Nói chung, tác giả của đề cương xem người Hoa là "những tác nhân đáng tin cậy và hữu dụng nhất", một phần bởi họ "ra vào Đông Dương không bị hạn chế", nhưng rất dè đặt sử dụng người Pháp bởi có sự ḱnh địch trong các phe nhóm chính trị người Pháp và bởi "những tuyên bố chống chủ nghĩa đế quốc của chúng ta". Cực kỳ đơn giản, "khát vọng giành lại toàn bộ Đông Dương sau chiến tranh của Pháp" được xem là "không tương hợp với chính sách của Mỹ". V́ vậy tác giả kết luận, cần phải có sự hợp tác và trao đổi thông tin tối thiểu (với các nhóm người Pháp ở Côn Minh), điều đó sẽ hoàn toàn ngăn ngừa xung đột và rối loạn… không làm tổn thương đến chính sách hậu chiến về Đông Dương của Mỹ".
Trong lúc các quan chức OSS thảo luận những vấn đề liệu và bằng cách nào có thể sử dụng các điệp viên Việt Nam và Pháp th́ Fenn tiếp tục làm việc với GBT. Mối quan hệ của ông với vô số người Pháp trong mạng lưới Gordon đă được thiết lập. Tuy nhiên sau đó Fenn tiếp tục nghi ngờ khả năng làm việc với người Việt. Chính Frank Tan là người t́nh cờ đưa vấn đề này ra ánh sáng. Giống như Gordon, Tan giới thiệu Fenn với người đăng cai những cuộc tiếp xúc của GBT và thậm chí cho phép ông tham dự một số cuộc họp với các quan chức Trung Quốc nhằm vạch ra kế hoạch cho mạng lưới điện đài dọc miền duyên hải nối Quảng Tây và Đông Dương thuộc Pháp. Các cuộc gặp với người Trung Quốc luôn luôn diễn ra trong không khí chân thành cho dù họ, giống như người Pháp, quan tâm đến hoạt động của GBT ở Đông Dương.
Thống chế Trương Phát Khuê của Vùng Chiến thuật 4 (bao gồm toàn bộ tỉnh Quảng Tây và phần phía tây của tỉnh Quảng Đông) đă cử một trong những tay chân thân tín nhất của ông ta, tướng Chen, đến hội kiến Gordon, Bernard, và Tan. Chính thức th́ Chen đến để đánh giá t́nh h́nh chính trị và quân sự trong và ngoài Long Châu. Tuy nhiên mối quan tâm đặc biệt của ông ta tập trung vào việc liệu GBT có sử dụng điệp viên Việt Nam hay không. Vào mùa thu năm 1944 GBT đă thẳng thắn trả lời rằng họ không hoạt động với người Đông Dương, nhưng Fenn, người luôn nghiên cứu sâu hơn và khám phá t́nh h́nh nhiều hơn, đă chất vấn Chen về lư do đằng sau phản đối sử dụng các điệp viên Việt Nam của phía Trung Quốc. Trả lời của Chen đă cung cấp nhiều thông tin hữu ích, làm sáng tỏ thêm quan điểm của Trung Quốc về các vấn đề quốc tế:
“Không thể kỳ vọng vào họ (người Việt Nam). Vấn đề là họ không thật quan tâm đến cuộc chíến chống Nhật Bản. Đúng và họ chống Nhật, nhưng cũng bằng chống Pháp. Ở mức độ thấp hơn họ chống cả Trung Quốc. V́ thế khó mà biến họ thành đồng minh trung thành. Tôi cho rằng các ngài đă phát hiện ra họ tự nhận là thân Mỹ. Có chuyện đó bởi họ hy vọng các ngài sẽ giúp họ giành độc lập khi chiến tranh kết thúc và chúng ta đuổi cổ được quân Nhật. Các ngài có thể được thăm ḍ bởi một nhóm có tên gọi Việt Minh, nhóm này gần như là cộng sản mặc dù nguỵ tạo là những người hoàn toàn theo chủ nghĩa dân tộc. Họ đă đề nghị giúp Tưởng thống chế Chang chống Nhật nếu Trung Quốc giúp họ giành độc lập sau chiến tranh. Trong trường hợp này ngài thống chế đă tham vấn tổng tư lệnh, nhưng đức ngài kiến quyết phản đối.
Mặc dù lúc này Pháp thất bại, nhưng có khả năng chuẩn bị quay trở lại. V́ thế không đáng Iàm mếch ḷng Pháp v́ giúp một nhóm tầm thường như Việt Minh - những kẻ chắc chắn sẽ chẳng có mảy may y nghĩa ǵ. Nhưng nếu họ tiếp xúc để đặt vấn đề với các ngài - họ quả quyết cực kỳ thân Mỹ - th́ đừng bị mắc lừa, tha lỗi cho tôi v́ đă nói như vậy. Họ buôn nước bọt hơi nhiều nhưng lại chẳng có ǵ nhiều để bán.”
Phản ứng của Gordon đối với cuộc đối thoại giữa Fenn và Chen báo hiệu phần lớn những ǵ phải xảy ra. Gordon quả quyết với Chen rằng GBT sẽ không cộng tác với bất kỳ người Việt Nam nào và không hề có ư định cộng tác với họ trong tương lai. Ông tuyên bố dứt khoát: "Tôi nhất trí với ngài tất cả họ đều chống Pháp và không đáng tin cậy". Trong vài tháng tiếp theo, v́ t́nh h́nh thay đổi, việc Gordon từ chối cộng tác với người Việt Nam sẽ gây ra một loạt rạn nứt giữa Gordon và Fenn và ngay trong chính GBT.
Tuy nhiên, trong những tháng cuối cùng của năm 1944 Fenn đă trở thành một thành viên tích cực trong mạng lưới của GBT. Thậm chí ông c̣n tham dự vào những kế hoạch tương lai cho nhóm, đóng góp ư kiến và tán thành trợ giúp tài chính cũng như hậu cần của OSS. Nhóm hy vọng lo liệu huấn luyện những hoạt động đặc biệt cho 1500 thường dân Pháp có liên hệ với GBT cũng như hướng dẫn "phổ biến chiến dịch MO". Căn cứ vào những hoạt động MO trước đó của Fenn lại mặt trận Trung Quốc - Burma - Ấn Độ, rơ ràng ông đă được chuẩn bị tốt cho công tác đào tạo điệp viên và sản xuất "truyền đơn đen" - những bản sao chép giả mạo ấn phẩm do Nhật sản xuất bề ngoài là thân Nhật nhưng trên thực tế lại chứa đựng tài liệu âm thầm chống Nhật tại Đông Dương. Những báo cáo cuối tháng của Fenn đă không ngần ngại ủng hộ GBT. Trong tháng Mười một Fenn đưa ra ư kiến về việc tăng cường toàn bộ những biện pháp pḥng ngừa an ninh của GBT bởi Nhật đă theo dơi những hoạt động công khai ủng hộ Đồng Minh càng lúc càng tăng của nhiều người Pháp ở Việt Nam. Fenn nhận xét, với ba trạm điện đài quan sát hiệu quả cao ở Bắc Kỳ, "khoảng 20 bức điện đang được xử lư hàng ngày chuyển tải những thông tin về mục tiêu, báo cáo thời tiết Bộ Tư lệnh Tối cao Nhật và những tin t́nh báo đặc biệt cho các tổ chức khác nhau như AGAS. Thêm vào đó ông kết luận rằng việc này "dọn đường cho các cuộc tập kích trả đũa", rằng Không đoàn 14 "hầu như dựa vào toàn bộ thông tin về mục tiêu của GBT". Fenn bổ sung thêm một trạm ở Hà Nội hai trạm mới ở Sài G̣n và Tourane (Đà bẵng) hoàn toàn có thể tăng công xuất của mạng lưới trong một thời gian ngắn.
Đúng với chuyên môn cơ bản của ḿnh, Fenn c̣n cung cấp một báo cáo t́nh báo về một Đông Dương "đặc biệt lôi cuốn đối với MO". Báo cáo của ông bao gồm những điều kiện sống và tinh thần của cả quân Nhật và Pháp cũng như khuynh hướng của người Việt Nam đối với Nhật và Đồng Minh. Fenn cũng cho biết rằng GBT sẽ đảm nhận tham gia nhiều hơn vào công tác cứu trợ và giải cứu. Đến cuối năm 1944, GBT đă có một hệ thống phát triển tốt tại chỗ nhằm giúp đỡ các phi công Đồng Minh bị bắn rơi trên toàn Đông Dương và, trong một số trường hợp, đă giành được sự biết ơn của cả AGAS và Không đoàn 14. AGAS đă trả cho "sự giúp đỡ nồng hậu của Gordon" chủ yếu là thiết bị điện đài để đền đáp các hoạt động như giải thoát các tù binh Đồng Minh ra khỏi các trại tù binh chiến tranh và các phi công Mỹ bị bắn rơi" tại Đông Dương thuộc Pháp.
Lan, điệp viên của Gordon ở Việt Nam, đă báo cáo về những cố gắng giúp đỡ tù binh chiến tranh (POW) tại Bắc Kỳ như sau:
Trong các trại giam khác nhau có vài ngàn tù binh chiến tranh Australía, Anh, Hà Lan và Mỹ - số tù binh Mỹ không nhiều. Tôi luôn chở trên xe một ít đồ hộp, gói hàng và quần áo cũ và bất kỳ khi nào đi ngang qua một xe chở đầy tù binh, tôi lại ném cho họ thứ ǵ đó. Bây giờ các tù binh đă nhận ra xe của tôi v́ thế họ huưch đám bảo vệ sang bên và thường chộp được và giấu đi những ǵ tôi ném cho họ. Bằng cách sử dụng một chiếc xe tải nhỏ chở gạo đến các trại giam, một trong những liên lạc của tôi đă đưa lén được cả một khẩu súng máy và đạn được vào một trại và họ đă giữ khẩu súng này cho một cuộc vượt ngục có tổ chức. Thêm rồi một hôm trong khi lục t́m thư từ được báo là đă đưa lén vào trại, đám gác ngục Nhật đă phát hiện ra một số viên đạn. Nhưng những cái đầu bă đậu c̣n đang mải tập trung t́m kiếm thư nên chúng chỉ mang số đạn này đi mà không cật vấn ǵ.
Dù câu chuyện của y hầu như đă phóng đại những sự kiện có thật, nhưng không nghi ngờ ǵ nữa Lan và các liên lạc của y đă mạo hiểm đáng kể mạng sống của họ để giúp tù binh.
Nếu quả thực các tù binh nhận ra được xe của Lan th́ lính gác cũng có thể làm điều đó. Có thể hiểu là việc Lan ném đồ ăn cho tù binh không làm cho lính gác quá bực ḿnh, nhưng nếu khẩu súng trên thùng xe chở gạo bị phát hiện th́ người vận chuyển sẽ bị hành quyết tại chỗ. Ngoài ra, như giải thích của câu chuyện, đến cuối năm 1944 mạng lưới của GBT đă phát triển rộng khắp và bất kỳ điệp viên nào bị bắt cũng có thể làm phương hại nghiêm trọng sự an toàn của hàng loạt bạn bè và đồng nghiệp của Gordon, Bernard và Tan. Tính chất bí mật của mạng lưới GBT và hoạt động thận trọng của nó đă đem lại cho họ mức bảo vệ cao, nhưng cũng có thể những cặp mắt soi mói của Nhật phần nào bị trệch hướng bởi hoạt động công khai ủng hộ Đồng Minh của Kháng chiến Pháp ngày một gia tăng tại Đông Dương. Như sẽ thấy, Nhật đang theo dơi chặt chẽ hoạt động công khai ủng hộ Đồng Minh trong cộng đồng người Pháp, điều đó dường như đă bảo vệ các điệp viên GBT không bị Nhật phát hiện.
Hệ thống của Gordon giúp giải thoát các phi công bị bắn rơi cũng cực kỳ phức tạp. Mạng lưới cung cấp cho các phi công một bản danh sách chỉ rơ "những khu vực an toàn" nơi các phi công có thể đáp xuống an toàn. Các phi công được chỉ dẫn rằng nếu buộc phải nhảy dù xuống một địa h́nh bất lợi th́ họ cần phải di chuyển trong đêm đến những khu vực an toàn. Ngay sau khi GBT được báo một phi công đă nhảy dù, các điệp viên người Pháp ở địa phương sẽ đốt lửa làm hiệu trên các sườn đồi giúp phi công t́m đường đến những vị trí được bảo vệ. Gordon kiên quyết không sử dụng người Việt v́ một phần hoạt động của GBT đă được giải thích trong cảnh báo của ông rằng các phi công nên "tránh dân bản xứ - những người đă được đề nghị trao thưởng cho việc giao nộp phi công dù c̣n sống hay đă chết". V́ đến lúc đó Đông Dương chưa phải là khu vực hoạt động chính nên có tương đối ít các phi vụ ném bom và chỉ có hai phi công bị bắn rơi được cứu thoát vào mùa hè năm 1944. Một trong số đó được GBT cứu, người kia được các điệp viên người Hoa của Fenn giải thoát.
Tuy nhiên, v́ chiến tranh vẫn tiếp diễn nên sẽ có nhiều phi công bị bắn rơi hơn, và bất kỳ khi nào có thể, các thành viên của mạng lưới GBT đều giúp t́m kiếm và giải cứu. Vào tháng 10, chỉ vài tuần trước khi Fenn đến tổng hành dinh của GBT, họ được thông báo rằng một phi công tên là Ray Marshall đă bị bắn rơi gần Hải Pḥng. Anh ta thoát chết, chỉ bị thương nhẹ và được một nông dân người Hoa cứu. Mất gần hai tuần và vài thảm hoạ suưt xảy ra, người nông dân (Marshall đặt tên là Pop) mới đưa được viên phi công từ Hải Pḥng vượt biên giới đến căn cứ của GBT ở Long Châu. Một trong những khó khăn mà hai người phải đối mặt là kiếm lương thực v́ cả Marshall và Pop đều có ít tiền mặt và những vật có giá trị; mặc dù đă bỏ chiếc đồng hồ để đổi lấy gạo nhưng Marshall vẫn giữ được khẩu súng ngắn. Trên đường đi, Pop đă dẫn viên phi công qua một số làng mạc ông có người quen và nơi khác ông phải thuyết phục những người nông dân giúp đỡ. Trong lời khai của ḿnh, Marshall dẫn giải: "Tôi không thể hiểu làm sao Pop lại có bạn ở khắp mọi nơi và v́ sao họ mạo hiểm cả cuộc sống của ḿnh để giúp chúng tôi". Cả Fenn và thư kư của Gordon, Hellen Tong, đă ghi lại câu chuyện của Marshall cũng như những tŕnh bày của Pop. Trong hồi kư của ḿnh, Fenn đưa ra ư kiến của riêng ông về lư do những người bạn của Pop đă giúp viên phi công Mỹ. Ông đi đến kết luận rằng "một vài người trong số họ, không nghi ngờ ǵ nữa, đă phát hiện ra Nhật là những chủ nhân tồi tệ hơn cả Pháp".
Không phải tất cả dân làng đều sẵn ḷng đón tiếp bộ đội này, nhất là khi Nhật đe doạ cả nông dân Việt Nam và người Pháp phải gánh những hậu quả tàn khốc nếu họ giúp phi công Đồng Minh. Hơn nữa, Pop báo cho Fenn và GBT rằng có trường hợp tại một làng, cách đón tiếp thù địch mà họ nhận được là do kinh nghiệm tiêu cực trước đó của dân làng với một phi công Mỹ hơn là do những đe doạ của Nhật. Khi đến gần biên giới Trung Quốc hơn, Pop và Marshall đi men theo một làng duy nhất thực sự thù địch mà họ gặp trong chuyến đi. Marshall kể lại chi tiết chuyện này cho Fenn và GBT:
Khi Pop đi ra t́m họ, hai thanh niên đă nhận ít tiền c̣n lại của Marshall, th́ tôi thiếp đi. Khi tôi thức dậy trời tối đen như mực. Bất ngờ tôi nhận ra rằng cả khu rừng xung quanh đang lung linh ánh đuốc của một đội t́m kiếm và họ đang chậm chạp đến gần tôi. Tôi nằm trong bụi cây với khẩu súng đă lên đạn và nghĩ thế là hết. Ánh lửa chụm lại rồi toả ra, một số chỉ cách tôi vài mét c̣n tôi th́ nín thở. Tôi đă ấn định với Pop rằng tín hiệu giữa chúng tôi sẽ là tiếng đằng hắng của ông ta theo sau ba tiếng vỗ tay, và tôi sẽ đáp lại bằng ba tiếng vỗ tay. V́ thế trong bóng tối sau khi nghe thấy một tiếng đằng hắng tôi chờ đợi tiếng vỗ tay, nhưng chỉ có một tiếng đằng hắng khác. Thực tế là Pop không dám vỗ tay bởi những người t́m kiêm ở quá gần. Dù sao th́ cái tiếp theo mà tôi nhận ra là Pop đang giật chân tôi và ra hiệu cho tôi tháo giày nêu không dân làng có thể truy t́m tôi bởi những vệt giày.
Sau đó chúng tôi trèo cao, cao măi lên núi cho đến khi có thể nh́n thấy toàn bộ thung lũng bị loang lổ bởi những ánh lửa đang chuyển động. Bằng cách chạy thật lực, chúng tôi có chút lợi thế, nhưng tôi bị đau không chỉ từ đôi bàn chân trần, quả là gay go và tệ hơn là từ việc bị va vào cây và một trong số đó đă móc vào mặt tôi làm nó tím bầm. Thay v́ làm ḿnh mệt lả, tôi cố nài châm đuốc v́ có cảm giác là thêm một ngọn đuốc trong số tất cả những bó đuốc đă được đốt chắc chắn mà không có vấn đề ǵ. Nhưng để giữ an toàn, tôi cho Pop đi trước vài bước để nếu chúng tôi có đụng phải ai đó th́ người chịu trận là Pop chứ không phải tôi.
Pop giải thích với Fenn và Helen rằng làng này đặc biệt thù địch bởi trước đây một phi công bị bắn rơi tên là Norton đă bắn một già làng. V́ vậy thái độ của dân làng đối với phi công Mỹ ít thiện chí hơn. Dù không thể kiểm tra câu chuyện của Pop, nhưng hiểu những nguy hiểm tiềm tàng trong việc giúp một phi công Mỹ đă xác nhận ḷng dũng cảm của ông trong quyết định dẫn Marshall đến nơi an toàn. Pop tiếp tục giải thích lư do khiến ông chấp nhận những rủi ro cá nhân lớn như thế để cứu Marshall: ngay sau khi máy bay rơi, tin đồn lan rất nhanh và Nhật treo thưởng một khoản tiền lớn để bắt viên phi công. V́ thế tất cả mọi người - Nhật, Pháp và An Nam - đều t́m kiêm như điên. Nhưng thực tế là, nhiều người An Nam ủng hộ Mỹ và hầu hết những người gốc Hoa như tôi đều biết Mỹ giúp Trung Quốc chống Nhật, v́ vậy tôi muốn giúp họ. À, khoảng một năm trước một số tờ truyền đơn viết bằng tiếng Trung được rải xuống nơi tôi sống, chúng nói rằng tất cả mọi người nên giúp phi công Mỹ nếu họ bị bắn rơi. Bởi thế tôi biết nghĩa vụ của tôi là làm điều đó dù chuyện ǵ xảy ra cũng mặc.
Gordon nhắc lại lời cảnh báo của ḿnh rằng các phi công nên tránh dân làng Việt Nam bởi họ đă "được Nhật đề nghị trọng thưởng cho việc giao nộp phi công dù c̣n sống hay đă chết". Pop, theo quan điểm của ông, là một ngoại lệ chứ không phải thông lệ. Tất nhiên Đồng Minh cũng treo thưởng như vậy, Gordon nói rơ, nhưng "phần thưởng của Nhật được trao tại chỗ trong khi giải thưởng của Đồng Minh lại tít mù xa tới 500 dặm!". V́ hành động dũng cảm của ḿnh, Pop đă được nhận phần thưởng cho dù thấp hơn nhiều so với giải thưởng Nhật đưa ra và thấp hơn đáng kể so với "giá trị" của Marshall. Nhật treo giải anh ta tới 100.000 đồng; trong tuyên truyền, Không đoàn 14 quảng cáo "giá" của một phi công là 50.000 đô la hay 1.250.000 đồng. Fenn báo cáo rằng Pop h́nh như vui vẻ nhận 5.000 đồng GBT chi trả: nhưng ông từ chối bức h́nh Fenn chụp ông với lư do nhận một tấm h́nh từ người Mỹ sẽ có thể lănh đạn của Nhật".
Sau khi Marshall an toàn trở về căn cứ của Không đoàn 14 tại Nam ninh, một trong những điệp viên của Gordon, Simon Yu, đă báo tin về hậu quả của hành động chính nghĩa của Pop. Yu là một nhân vật phức tạp hết sức phù hợp với tổ chức của Gordon. Chỉ riêng thành phần gia đ́nh cũng đă cho phép anh ta thích ứng với nhiều t́nh huống khác nhau: mẹ là người Bỉ, cha nửa là người Hoa, nửa là người Việt. Sống gần Hà Nội, anh ta lưu loát tiếng Pháp, Trung, Việt và Anh. Ưu thế rơ ràng này làm anh ta trở thành một điệp viên gần như hoàn hảo. Yu được mô tả là có trí thông minh và hiểu biết khác thường cũng như tính khí hơi thất thường và quá nhạy cảm.
Anh ta đặt nhiều hy vọng vào người khác như vào chính ḿnh và không chịu nổi những tṛ ngu xuẩn. Fenn nhớ cụm từ tiếng Anh nổi tiếng "người bong bóng" của Yu để chỉ "ai đó thốt ra những lời vô nghĩa".
Trong những thoả thuận tương lai của anh ta với OSS, Yu sẽ phát hiện ra nhiều người bong bóng trong hệ thống ở Côn Minh. Tuy nhiên, trong lần gặp gỡ đầu tiên với Fenn, Yu đă cư xử thật khéo khi đem đến những tin tức về trao đổi mậu dịch Nhật - Trung dọc theo biên giới cũng như những hậu quả đáng tiếc do phản ứng của Nhật về vụ đào thoát của Marshall gây ra. Mặc dù Fenn đă cố "xoá đi dấu vết của người Hoa đă giúp Marshall" bằng cách yêu cầu MO đăng tin "nội bộ" trên một tờ báo Côn Minh về vụ giải cứu đầy kịch tính Marshall được thực hiện bởi "những người An Nam nào đó đă tới Côn Minh và được trọng thưởng", nhưng công tác tuyên truyền không hoàn thành đúng lúc. Sau khi Marshall trốn thoát, quân Nhật đă kết tội tất cả người Hoa sống ở khu vực phía bắc Hải pḥng v́ giúp Đồng Minh. Yu và tướng George Wou của Vùng Chiến thuật 4 báo cáo rằng sự quấy rối thường xuyên đang "đẩy (người tị nạn) vào Trung Quốc", ở đó họ trông chờ cả lương thực và chỗ ở. Hai người nhấn mạnh đến sự cần thiết phải chấm dứt ḍng người tỵ nạn qua biên giới. Yu cho rằng phần lớn không phải là người tỵ nạn tuyệt vọng mà là "những điệp viên chính cống và đội quân thứ năm chuẩn bị cho sự xâm lăng của Nhật". Wou bổ sung, ngăn chặn ḍng người sẽ "rất nặng nề đối với họ (người tị nạn)", và câu này được dịch ra cho Fenn và Bernard thành "trong quá tŕnh ngăn chặn, chúng ta sẽ phải bắn họ". Bernard cắt ngang: Nếu một số người tỵ nạn bị bắn th́ sẽ ngăn cản cả tị nạn thật lẫn giả vượt biên. Và tôi hiểu các ngài thực ra cũng không muốn làm như vậy. Cả Yu và Wou đều đồng ư với kết luận của Bernard. Rơ ràng, thiếu sự đón tiếp nồng hậu của phía Trung Quốc, những nguy hiểm đến từ quân Nhật đang giận dữ và sự cám dỗ của số tiền thưởng trao ngay đă nêu bật phẩm chất hiếm có của những người như Pop, những người đă chọn con đường giúp Đồng Minh mà không đếm xỉa đến vô số hiểm nguy họ có thể đương đầu.
Thời gian sẽ trả lời, GBT cũng đánh giá thấp ḷng tự nguyện giúp quân nhân Mỹ trong cảnh hiểm nghèo của người Việt Nam. Cuối năm 1944 một nhóm địa phương ít tiếng tăm đă cứu thoát trung uư Rudolph Shaw khi máy bay của anh ta bị bắn rơi gần Cao Bằng. Nhà lănh đạo nhóm này, lịch sử lưu danh ông với cái tên Hồ Chí Minh, sau khi đưa Shaw đến căn cứ Mỹ ở Côn Minh đă từ chối đề nghị tặng thưởng và chỉ yêu cầu được gặp viên tướng lừng danh của Không đoàn Hổ Bay Claire Chennault. Yêu cầu của ông lúc đó đă bị từ chối, Shaw lên tầu hồi hương và sự kiện này dường như đă ch́m sâu vào lịch sử chiến tranh. Cuộc giải cứu dễ dàng bị gạt sang một bên vào cuối năm 1944 đă thu hút sự chú ư của Fenn đầu năm 1945. Trong thời gian đó Fenn mải mê hơn trong các hoạt động của GBT, trên thực tế là đảm đương vị trí thành viên thứ tư cho Gordon, Bernard và Tan.
Tất cả bốn thành viên trong nhóm được hưởng nơi trú ẩn an toàn tại tổng hành dinh ở Long Châu cho dù có những tác động từ vụ giải cứu Marshall. Các điệp viên Pháp tại Việt Nam báo cáo với Fenn rằng quân Nhật "giận dữ v́ máy bay đă đón Marshall tại Long Châu". Fenn cảnh báo thượng cấp của ông "nếu quân Nhật quá nóng máu, chúng có thể kéo đến trong ṿng có nửa ngày và quét sạch chúng tôi". May thay, Nhật không chọn giải pháp trả đũa trực tiếp. Đối với Fenn, Gordon, Bernard và Tan thời gian trôi qua rất nhanh. Công tác của họ đầy hứng khởi, nơi ăn ở của họ khá thoải mái và nhóm của họ thật thú vị. Tuy nhiên tất cả điều này kết thúc với những chiến dịch tháng 11 và 12 của Nhật. Nhật mở màn Chiến dịch LGHLGO trong tháng 4 trong nỗ lực đánh chiếm các căn cứ không quân của Không đoàn 14 ở miền Đông Nam Trung Quốc. Trong cuộc tấn công quyết liệt của Nhật ở phía bắc, từ biên giới Việt Nam đến căn cứ không quân của Mỹ ở Nam Ninh, Long Châu đă bị tàn phá.
GBT, giống như hầu hết lực lượng Đồng Minh trong khu vực, cho rằng quân Trung Quốc bảo vệ các căn cứ không quân cũng như quân Mỹ tại căn cứ, có đủ khả năng giữ vững vị trí của ḿnh. Thực tế lại không phải vậy. Quân Trung Quốc bại trận, cơ sở của GBT bị buộc phải đi dời, đầu tiên là khỏi tổng hành dinh b́nh dị của họ, sau đó là cơ sở tạm thời ở Tĩnh Tây.
Trong nỗ lực bám trụ gần Đông Dương, nhóm tiến về Quế Lâm, căn cứ chính của Không đoàn 14, nhưng Quế Lâm cũng bị đánh bại vào tháng Mười một. Nói chung, Chiến dịch IGHIGO đă chiếm được 6 căn cứ không quân Mỹ - Trung Quốc (Nam Ninh, Liễu Châu, Quế Lâm, Lingling, Hành Dương, Suichuan) và khiến cho các thành viên GBT khó khăn hơn nhiều trong việc thăm ḍ các điệp viên của ḿnh trên biên giới Đông Dương.
Bởi muốn ở gần Không đoàn 14 và AGAS nên GBT đă quyết định đặt tổng hành dinh mới tại thành phố ồn ào Côn Minh. Từng là một thành phố Trung Hoa tương đối yên tĩnh, đến năm 1944 Côn Minh trở thành trạm cuối chủ chốt cho nguồn tiếp tế tràn qua Himalaysia đến với Quốc Dân Đảng. Sau Chiến dịch IGHIGO, thành phố c̣n đón một số lượng lớn lính Mỹ, bao gồm các thành viên của Không đoàn 14, OSS, AGAS cũng như FMM và các tổ chức dân sự như Chữ Thập Đỏ. Giờ đây bị tước đi tổng hành dinh biệt lập và tự do mà t́nh trạng cách ly mang lại, Fenn và GBT thấy ḿnh đi ngược chiều một cơn giông tố khác và nhận biết áp lực đang gia tăng không ngừng để chính thức đặt tổ chức của họ dưới sự chỉ huy của OSS.
Tâm trạng thất vọng của Gordon với OSS đă bắt đầu dâng cao ngay từ trước khi nhóm chuyển đến Côn Minh. Ông và Fenn nhất trí rằng nhiều người trong OSS về cơ bản là "chống Pháp"; tuy nhiên, Fenn, lúc này vẫn là một sĩ quan OSS, đă kiểm duyệt những b́nh luận của chính ông về tổ chức.
Gordon cảm thấy không cần che giấu nỗi oán hận đang tăng lên của ông như vậy. Với nguồn tài chính có sẵn từ AGAS, Chennault và người Anh, ông thẳng thừng tuyên bố rằng mặc dù đánh giá cao nguồn giúp đỡ của OSS, nhưng ông không cần chúng lắm. Theo ư kiến Gordon, OSS "chống lại mọi thứ ngoại trừ thu vén cá nhân". Ông tiếp tục phàn nàn với Fenn rằng cho đến lúc này OSS đă "lấy đi mọi thứ và hầu như chẳng đem lại cái ǵ trừ nói xấu sau lưng, với những người (như thiếu tá Austin Glass) được cử xuống để hoàn thành hay thậm chí do thám chúng ta và làm biến chất các điệp viên của chúng ta". "Thành thực mà nói", ông tiếp tục, "tôi có đủ tṛ lá mặt lá trái như thế này rồi. Nếu OSS không hợp tác th́ tôi dự kiến quyết định chung số phận với AGAS - những người duy nhất quá nhiệt t́nh tuyển dụng chúng ta trong khi vẫn cho phép chúng ta hoàn toàn độc lập".
Phân tích t́nh h́nh của Gordon trên nhiều phương diện là cực kỳ chính xác. AGAS đă nhiều lần giải thích sự đánh giá cao của ḿnh đối với những nỗ lực giải cứu phi công và POW của mạng lưới GBT, và toàn thể thành viên của nhóm yêu thích mối quan hệ hữu hảo với các nhân viên AGAS. Trong khi đó OSS tiếp tục thể hiện nỗi thất vọng đối với thái độ miễn cưỡng của Gordon đưa nhóm của ông phục tùng sự chỉ huy của OSS hay tiết lộ danh tính các điệp viên của ông. Tuy nhiên, thay cho toàn bộ nỗi thất vọng của Gordon (và của Fenn cũng vậy) với Glass, các báo cáo của Glass cho cấp trên của ông ở OSS trước sau như một khen ngợi GBT. Dựa vào kinh nghiệm đáng kể của chính ḿnh ở Đông Dương, có thể Glass đă biết nhiều liên lạc người Pháp của Gordon ở khu vực Hà Nội - Hải Pḥng. Cũng hoàn toàn hợp lư nếu Glass cảm thấy thiên hướng ủng hộ Đồng Minh trong những bạn bè thân, sơ của đôi bên và cố tuyển những người này cho OSS mà không biết mối quan hệ của họ đối với GBT. Tuy nhiên, công tác điều tra GBT của Glass chỉ làm tăng sự khinh bỉ của Gordon đối với OSS, trong khi đó những báo cáo của ông cho OSS càng thôi thúc cơ quan này giành được quyền kiểm soát toàn bộ tổ chức GBT.
Trong nỗ lực duy tŕ độc lập cho mạng lưới của ḿnh mà vẫn tranh thủ được những nguồn tiếp tế và tiền bạc sẵn có của nhiều nhà tài trợ, Gordon đến Trùng Khánh hội kiến với các đại diện Mỹ, Pháp, Anh và Trung Quốc. Nhưng những cuộc gặp này đă thất bại. Ông báo về cho Fenn rằng "người Mỹ và Pháp ganh đua quyết liệt với nhau trong việc lừa dối tôi người ta báo với Wedemeyer tôi là điệp viên của Anh và với người Pháp tôi là điệp viên của Mỹ, c̣n với người Anh tôi là điệp viên Tầu. Chỉ có người Anh là không tin vào những điều nhảm nhí đó". Không nghi ngờ ǵ nữa, việc ông đă gặp quá nhiều đại biểu chỉ làm tăng quyết tâm của OSS đưa ông vào ṿng cai quản của nó. Gordon c̣n phàn nàn về t́nh h́nh Hăng Texaco House ở Trùng Khánh, đặc biệt là về viên đại tá "không thể chịu nổi" người Mỹ, kẻ ngày nào cũng tham dự vào những cuộc ẩu đả do say rượu. Phản ứng dữ dội của ông đối với t́nh h́nh đă thúc giục Fenn chất vấn Bernard về thái độ đối đầu với người Mỹ của Gordon. Bernard, người mà tất cả các báo cáo dầu cho là chắc chắn thân Mỹ, đă phản đối việc Fenn mô tả Gordon "chống Mỹ". Ông tuyên bố, Gordon không chống Mỹ khi đó là "người của AGAS hay Bộ ngoại giao như (John) Davies". Rơ ràng kết luận ở đây là Gordon hiển nhiên chống Mỹ trong trường hợp đấy là OSS. Tuyên bố này có lẽ c̣n phản ánh thái độ của Bernard v́ trong khi rơ ràng thân Mỹ, ông vẫn chống lại âm mưu lôi kéo GBT vào OSS
Đến cuối năm, Fenn báo cáo rằng ông đă hoàn thành trước thời hạn tất cả các mục tiêu như đă phác thảo cho đại tá Coughlin. Quan trọng hơn, ông khẳng định trong báo cáo của ḿnh rằng ông đă đưa "OSS đến gần hơn thế giới của nhóm GBT" và thuyết phục họ về khả năng OSS "xử lư các vấn đề của ḿnh". Ngược lại, ông cho biết đă "cung cấp toàn bộ các báo cáo về hoạt động và khả năng của nhóm GBT cho OSS, Fenn tuyên bố ông cũng đă "đưa được toàn bộ chương tŕnh MO trong Đông Dương thuộc Pháp vào hoạt động".
Báo cáo của Fenn rơ ràng là quá lạc quan trong nh́n nhận vấn đề. Fenn dễ dàng khẳng định rằng ông đă làm "OSS hiểu rơ hơn nhóm GBT" v́ ông là một sĩ quan OSS và tham gia nhóm với tư cách một thành viên chính thức như Gordon, Bernard và Tan. Tương tự, trong một số trường hợp như sau bản báo cáo sinh động của John Davies gửi Bộ ngoại giao, OSS đă sốt sắng với cả tiền bạc và hàng quân nhu. Tuy nhiên, các thành viên trong nhóm, bao gồm cả Fenn, đều hoàn toàn nhất trí không định đến những ǵ họ xem là những cặp mắt soi mói và ḱm kẹp của OSS, và trong bất kỳ trường hợp nào GBT cũng có phương tiện trợ giúp khác. Cả người Anh và AGAS đều sẵn sàng cung cấp tài chính trong khả năng của họ mà không hề có ư định kiểm soát nhóm này.
Thật vậy, khi năm hết tết đến, Willis Bird, phó giám đốc OSS, đă khuyên Fenn bí mật "chuyển cơ quan GBT sang AGAS, kể cả ngài". Trong khi Fenn và các nhà lănh đạo của GBT bằng ḷng làm điều đó th́ các thành viên khác của OSS lại không muốn thấy nhóm năng động này vuột khỏi ṿng kiểm soát của OSS.
Khi năm 1944 kết thúc, để Fenn và Bernard quản lư nhóm, Gordon lên đường đến Washington D.C để gặp gỡ và hội kiến các đại diện OSS. Trong khi Bernard điều hành cơ sở GBT ở Côn Minh th́ Fenn đón giao thừa tại Ấn Độ nhằm thắt chặt quan hệ của GBT với người Anh và quyên góp 3.000 đô la cho các chi phí hoạt động. Nhiệm vụ này đă đặt Fenn vào một vị trí tiềm ẩn hiểm nghèo. Dù là một sĩ quan Mỹ của OSS nhưng Fenn lại lên đường theo chỉ thị của Gordon và cố gắng - không có sự phê chuẩn chính thức của Mỹ - củng cố các mối quan hệ giữa Anh và GBT chữ không phải đưa GBT đến gần hơn với OSS. Tuy thế, Fenn không giữ bí mật sự hiện diện của ông tại Ấn Độ và gây ra những b́nh luận từ cả t́nh báo Anh lẫn OSS. MI5 tỏ ư lấy làm tiếc v́ không thể cung cấp tài chính nhiều hơn cho Gordon trong khi phàn nàn về những ǵ nó cho là OSS sắp tiếp quản mạng lưới và ca ngợi những lợi ích về sự độc lập của Gordon. Cùng lúc đó các đồng nghiệp OSS công kích Fenn bằng những câu hỏi liên quan đến mục đích chuyến đi và ḷng trung thành tổ chức của ông. Năm mới có thể mang đến nhiều thay đổi cho cả OSS và GBT.
Trong tháng Giêng, Tưởng Giới Thạch cho phép OSS thành lập mạng lưới riêng, thoát khỏi sự giám sát và kiểm soát của tướng Tai Li. Như vậy cơ hội của OSS đă tăng lên, khát vọng giành được mạng lưới GBT cũng tăng theo. Đầu tháng 2, thiếu tá Duncan Lee, phụ trách SI Ban Trung - Nhật Khu vực Viễn Đông của OSS, báo cáo rằng tư lệnh lực lượng Mỹ tại mặt trận Trung Quốc Albert Wedemeyer đă quyết định "chuyển đơn vị Gordon - Bernard sang OSS", và rằng, OSS "dường như sẽ chịu trách nhiệm về mặt nguyên tắc đối với các hoạt động của SI". Nhưng động thái này đă gặp phải những trở ngại nghiêm trọng. Loại trừ các điệp viên người Hoa của Fenn, mạng lưới GBT hầu như do riêng những người Pháp thân Đồng Minh thành lập. Và, như đă đề cập đến từ trước, chỉ trước đó vài tháng Roosevelt đă cấm giúp đỡ và cộng tác với người Pháp ở Đông Dương. Trong lúc Lee và đại tá Richard Heppner, người giám sát các hoạt động của OSS cho Wedemeyer, thăm ḍ khả năng sử dụng mạng lưới GBT th́ ở Côn Minh Donovan tán thành hợp tác chặt chẽ hơn giữa Pháp và OSS. V́ vậy, có vẻ như hai cơ hội thuận lợi nhất của OSS đối với thu thập tin t́nh báo ở Đông Dương liên quan đến cộng tác trực tiếp với người Pháp vi phạm các chỉ thị của Roosevelt. Nhà sử học Stein Tonnesson đă kết luận rằng "v́ Donovan chắc chắn đă được báo về lệnh cấm mà ông không thể xem thường một cách đơn giản, nên cách giải thích hợp lư duy nhất là ông được miễn chỉ thị của tổng thống thông qua thoả thuận đặc biệt nào đó với Roosevelt".
Giả dụ điều này là có thật th́ các mối quan hệ giữa Pháp và Mỹ ở Trung Quốc cũng vẫn căng thẳng. Pháp phản đối mọi ám chỉ rằng thuộc địa của họ cần phải được độc lập và vừa giận dữ vừa bối rối bởi t́nh trạng tŕ trệ của họ tại Trung Quốc, nhất là bởi họ không có được cả sự tôn trọng lẫn nguồn giúp đỡ. Có lẽ việc Pháp cộng tác với Gordon rồi cũng có ảnh hưởng tương tự là không thể tránh được. Trong tháng Giêng Bernard và Fenn nhận được một thông báo tuyệt vọng từ André Lan nói rằng y "đang bị chính quyền Pháp làm khó bởi bị bẩm báo làm việc cho người Mỹ!". Theo Lan, ngay cả những người Pháp Tự do cũng chống Mỹ v́ Roosevelt sẽ không công nhận quyền lợi của Pháp đối với Đông Dương và kết quả là các điệp viên GBT "thấy khó khăn trong việc thu thập tin tức và duy tŕ lịch liên lạc điện đài thậm chí c̣n khó khăn hơn nhiều".
Sau khi thảo luận t́nh h́nh, Bernard và Fenn quyết định rằng một trong hai ông cần phải đến biên giới gặp nhóm nhân viên Pháp bất măn của Lan để tháo gỡ vấn đề. Sau chuyến đi lạnh lẽo và khó khăn, Fenn đến biên giới Việt Nam cùng hàng tiếp tế trọng yếu cho các điệp viên Pháp, trong đó có điện đài xách tay. Mặc dù cả Fenn và Bernard đều không thể tin chắc rằng người Pháp đă được thuyết phục về sự ngay thật của GBT, nhưng những món quà, đặc biệt là điện đài, đă gây được ấn tượng tốt. Dẫu rằng đă yếu đi đôi chút bởi rạn nứt trong quan hệ với những người Pháp Tự do, nhưng mạng lưới GBT vẫn báo cáo về một vụ ném bom của Đồng Minh vào Sài G̣n và về 9 phi công bị bắn rơi. Đáng buồn thay, họ báo cáo, 3 trong số đó đă bị Nhật bắt, dù Lan và các liên lạc của y trong Kháng chiến Pháp đă giải cứu thành công những người kia.
Frank Tan, người đă gặp các điệp viên mặt trận, báo cáo về sự trở về Trung Quốc an toàn của 2 trong số các phi công. Một trong hai phi công đó tên là Knight tương đối lành lặn đă kể cho GBT câu chuyện của ḿnh. Knight khen ngợi cả Lan và ngươi bản xứ v́ đă giải thoát anh ta:
Vừa tỉnh lại tôi th́nh ĺnh nhận ra toàn bộ vấn đề - máy bay của chúng tôi đang cháy, những đám đông tụ tập xung quanh và một chiếc xe tải của quân Nhật đang lao về phía tôi. V́ vậy ngay lập tức tôi quay ra định chôn dù, nhưng trước sự kinh ngạc của tôi, một vài người bản xứ đang làm việc đó!
Thế rồi tôi nhớ ra tôi phải phi tang mọi thứ trong các túi của tôi và khi tôi bắt đầu lôi các thứ ra th́ một người bản xứ chộp lấy tấm bản đồ bằng lụa của tôi rồi vùi nó xuống dưới bùn nhăo chỉ bằng một động tác… Thế rồi những người khác đẩy vội tôi ra và giấu tôi vào một túp Iều gần đó. Khoảng 15 phút sau vài người Pháp xuất hiện cùng một nắm tiền biếu những người bản xứ nhưng họ không nhận và cuối cùng họ quay ra chào tôi. Đoạn anh chàng André ấy đứng ra kiểm soát t́nh h́nh và sau này tôi được biết anh ta chỉ đạo giải quyết toàn bộ vấn đề.
Như vậy, dù có được thừa nhận là "đặc t́nh" hay không, người Việt Nam vẫn tham gia giải cứu phi công Mỹ. Ví dụ này đă làm tăng sức nặng cho khẳng định trước đó là nhiều người Việt Nam chí ít cũng chống Nhật, và thậm chí c̣n có thể ủng hộ Đồng Minh nữa.
Vào tháng 1 năm 1945 Fenn hầu như không biết sau đó ông buộc phải xem xét lại toàn bộ những ǵ ông đă nghe được về người Việt Nam. Tạm thời ông c̣n tập trung cố làm dịu đi cuộc tranh căi mỗi ngày một thêm gay gắt giữa ông và OSS, giữa OSS và GBT. Từ viễn cảnh của OSS, quyền kiểm soát cơ bản GBT dường như đă nằm trong tầm tay. Một báo cáo của OSS viết vào tháng 2 đă tuyên bố một cách lạc quan rằng GBT đă được đặt dưới quyền OSS và Gordon, lúc đó đang ở Washington, sẽ hội kiến các đại diện của OSS để quyết định nhóm của ông sẽ được sử dụng ra sao. Với những khó khăn liên quan tới khát vọng độc lập của mạng lưới GBT dường như đă được giải quyết, báo cáo viết, vấn đề duy nhất là trách nhiệm của khu vực. Rơ ràng trong những nhận xét có tính kết luận của ḿnh, tác giả đă ám chỉ đến lệnh của Tổng thống Roosevelt cấm cộng tác với các nhóm thuộc Kháng chiến Pháp: "Toàn bộ vấn đề Đông Dương thuộc Pháp (đă) bị làm cho phức tạp bởi một số quyết định chính sách cấp cao", vấn đề này vẫn cần được chú tâm.
Tính quả quyết của bản báo cáo này không hề có căn cứ. Các mối quan hệ của cả Washington và Côn Minh, của OSS và GBT đă thực sự xuống dốc. Đối với Gordon, các biện pháp của OSS là "chuyên quyền". Ông khẳng định rằng, mức độ kiểm soát mà OSS yêu cầu có thể huỷ hoại sự độc lập - cái đă làm cho nhóm của ông rất thành công và v́ thế mà rất đáng ao ước. Ở Côn Minh, Bernard và Tan coi việc nhận đồ tiếp tế của OSS là một công việc triền miên buồn chán. Bộ phận ngân sách của OSS coi Tan và Bernard là kiêu ngạo và xem Fenn không đáng tin cậy. Chỉ có SI là giữ được mối quan hệ chân thành chủ yếu bởi GBT tiếp tục cung cấp cho SI những thông tin quan trọng từ các điệp viên của ḿnh ở miền Nam Trung Quốc và Đông Dương. Tuy nhiên, Wedemeyer nhất mực yêu cầu tất cả các nhóm t́nh báo trên mặt trận của ông phải được đặt dưới quyền chỉ huy của ông, nghĩa là GBT không thể tiếp tục hoạt động như một đơn vị độc lập. Vào tháng Hai, Wedemeyer và GBT đạt được một thoả hiệp. Những nỗ lực chung của Gordon ở Washington và Fenn ở Côn Minh đă dẫn đến việc chuyển GBT và Fenn sang AGAS, mặc dù đúng nghĩa về mặt pháp lư Fenn đă trở thành liên lạc của OSS tại AGAS.
Dẫu OSS không giành được độc quyền kiểm soát GBT như mong muốn nhưng nó đă bảo toàn được quyền sử dụng mạng lưới thông tin của GBT. Từ lâu vẫn hưởng lợi từ các nguồn tài liệu và thông tin của GBT, AGAS sướng rơn khi giành được Fenn và nhóm này. Fenn, Bernard và Tan ổn định vị trí công tác mới của ḿnh với AGAS trong khi Gordon vẫn ở lại Mỹ thêm một tháng nữa. Vài ngày đầu tháng 3 năm 1945 trôi qua không có ǵ hấp dẫn. Điện tín vẫn tiếp tục tới, Helen giải mă chúng, c̣n Fenn và Tan phân tích và phân tán chúng khi cần. Ngày 9 tháng 3, các đường dây im lặng lạ thường.
Bernard và Fenn bối rối trước việc không có tin tức nhưng vẫn tương đối b́nh thản. Ngày hôm sau, 10 tháng 3, một bức điện bí ẩn được một điệp viên GBT ở Mengkai (Móng Cái) gửi đến. Nội dung bức điện như sau: "Quân Nhật đă chiếm tất cả các vị trí trên toàn Đông Dương". Bernard và Fenn chờ đợi thêm nhưng chỉ nhận được sự im lặng từ các đường dây thường xuyên bận của họ. Không lâu sau đó họ phát hiện ra rằng mạng lưới mà họ đă phải dày công thiết lập và rất tự hào về nó gần như không c̣n tồn tại. Nhật đă mở màn Chiến dịch MEIGO (Chiến dịch Trăng sáng) và lúc này đă hoàn toàn kiểm soát Việt Nam. Mạng lưới GBT biến mất. Đông Dương thuộc Pháp không c̣n tồn tại.
5. Kết thúc với khởi đầu
Fenn và Bernard chờ đợi bên chiếc điện đài câm lặng, cả hai vẫn chưa nhận ra ảnh hưởng của bức điện họ đă nhận trước đó trong ngày. Bức điện bí ẩn ngày 10 tháng 3 chỉ thông báo một cách đơn giản: "Quân Nhật đă chiếm tất cả các vị trí trên toàn Đông Dương". Những con chữ báo hiệu điềm xấu nhưng không ai trong hai ông có thể hiểu được toàn bộ tác động của chúng - sự bất ngờ diệt vong của GBT với tư cách là một mạng lưới có tổ chức hay mạng lưới của tầng lớp thống trị người Pháp ở Việt Nam. Hai ông cùng nhiều người khác trên toàn thế giới ngay sau đó phát hiện ra rằng ngày 9 tháng 3 năm 1945, vào hồi 9 giờ tối giờ địa phương, Nhật đă mở màn cuộc đảo chính có mật danh Chiến dịch MEIGO.
Mặc dù Chiến dịch MEIGO làm cả hai người Mỹ ngạc nhiên, nhưng khả năng nổ ra một cuộc đảo chính đă tồn tại ngay từ khi Nhật bắt đầu chiếm đóng Việt Nam. Dựa vào công tŕnh nghiên cứu của ḿnh có tên “Lịch sử chính thức của Nhật Bản về Chiến tranh Thái B́nh Dương”, nhà sử học Louis Ai1en đă kết luận rằng Bộ Tổng Tham mưu của Đế quốc Nhật đă bắt đầu dự tính khả năng đảo chính sau khi Anh Mỹ đổ bộ vào Bắc Phi đầu tháng 11 năm 1942. Mặc dù rơ ràng Nhật muốn giữ nguyên hiện trạng tại Đông Dương để quân đội rảnh tay tập trung vào giao chiến ở những nơi khác, nhưng khả năng thực dân Pháp đứng về phe Đồng Minh vẫn c̣n hiện hữu. Nếu điều đó xảy ra, quân Nhật sẽ buộc phải "ngăn chặn những hành động thù địch trong nước (Đông Dương)".
Từ tháng 11 năm 1942 đến mùa hè năm 1943 có rất ít thời gian được sử dụng để lên kế hoạch cho khả năng hất cẳng Pháp. Tuy thế, cuối mùa hè năm 1943 các sĩ quan Nhật thuộc Đạo quân Phương nam (có căn cứ tại Singapore) đă thảo luận sự cần thiết phải nghiên cứu những phương án khác nhau có thể sử dụng nếu nhu cầu phải có hành động quân sự xuất hiện. Đến tháng 11 việc lập kế hoạch Chiến dịch MA (sau đó đổi thành MEIGO) đang tiến triển. Ban Kế hoạch Tác chiến của Tổng hành dinh lưu ư một số trở ngại tiềm tàng - một trong số đó là khó khăn trong việc thuyết phục người Việt Nam ủng hộ Nhật. Chiến dịch MA đ̣i hỏi phải mở rộng lực lượng quân sự tại Việt Nam, trong đó có tăng cường số kempeitaí (cảnh sát quân sự), triển khai một trung đoàn xe tăng, và điều động Lữ đoàn Hỗn hợp Độc lập 34 cùng Sư đoàn 53 đến Đông Dương. Với sự sụt giảm nhanh chóng cơ may của quân đội Nhật sau tháng 6 năm 1942 và khó khăn mỗi lúc một tăng trong năm 1943, không ai trong giới quân sự Nhật mong muốn làm đổi hướng nguồn cung cấp cần thiết nhất đến Việt Nam trừ khi t́nh h́nh xấu đi đột ngột. Trong hai năm 1942 - 1943 Nhật không mấy lo ngại về Đông Dương. Lực lượng Đồng Minh c̣n cách xa Việt Nam, và mặc dù không hẳn thân mật nhưng quan hệ giữa Nhật - Pháp nh́n chung là hữu hảo.
Tuy nhiên động lực của mối quan hệ Pháp - Nhật bắt đầu thay đổi khi chiến thắng của Đồng Minh tại châu Âu tăng lên. Những trận ném bom liên tục vào các thành phố của nước Đức diễn ra trong suốt mùa xuân năm 1944, Rome được giải phóng, cuộc đổ bộ ngày D trong tháng 6 và cuối cùng Paris được giải phóng trong tháng 8 đă làm thay đổi thái độ của cả Nhật và Pháp. Trong khi người Pháp công khai ăn mừng sự diệt vong của chính phủ bù nh́n cho chủ nghĩa Quốc xă và thủ đô của họ sạch bóng thù th́ người Nhật càng thêm cảnh giác với cách "niềm vui" này có thể hiện h́nh tại thuộc địa.
Theo hồi ức của một cựu cảnh sát th́ "một loạt sự cố đáng tiếc đă làm tăng nghi ngờ của Nhật như: thể hiện sự coi thường cờ Nhật tại Hà Nội, phá hoại có chủ ư xe quân sự Nhật, phân biệt đối xử với các công ty thương mại Nhật, áp bức và bắt bớ những người Việt Nam thân Nhật". Đến tháng 8 năm 1944 Bộ ngoại giao Nhật Bản, các quan chức quân đội đóng tại Đông Dương đă ủng hộ việc nắm quyền của giới quân sự. Để chuẩn bị cho sự kiện có thể xảy ra này, một thoả thuận giữa quân đội và hải quân đă có hiệu lực từ tháng Giêng. Điều đó nhấn mạnh rằng cần phải duy tŕ sự ổn định "cùng lúc đánh bại hoàn toàn lực lượng quân đội và cảnh sát Pháp, bắt chúng phải đầu hàng bằng hành động mau lẹ và cương quyết, qua đó đập tan bất kỳ thái độ hiếu chiến nào mà chúng có thể thể hiện. Các trung tâm thông tin liên lạc, sân bay, tầu thuyền, tất cả phải được đánh chiếm và cơ cấu chính quyền hiện hành phải được duy tŕ. Kế hoạch này phải được giữ bí mật, tăng cường hoạt động gián điệp, huấn luyện và bố trí lại lực lượng vũ trang".
Tuy thế, vẫn c̣n một trở ngại lớn đối với đảo chính. Các giới chức Tokyo vẫn chưa bị thuyết phục rằng sự nắm quyền của quân đội là cần thiết hay khôn ngoan. Từ viễn cảnh của Nhật Bản, Đông Dương, nhất là Việt Nam, (từ năm 1940) đă trở thành một căn cứ hậu cần và tiếp tế quan trọng. Khi quân Mỹ đă tiến đến gần hơn sau khi tràn vào miền Nam Philippines tháng 10 năm 1944, giải phóng Manila và trung phần Luzon đầu năm 1945, bộ tư lệnh Nhật càng lo ngại về khả năng Đồng Minh đổ bộ lên miền duyên hải Đông Dương, nhất là v́ quân Nhật tại đây "không cân xứng về số lượng".
Nhật không thể mạo hiểm có một kẻ thù ở sau lưng. Đề pḥng Pháp có hành động như vậy là không thể tránh được. Pháp có lư do thoả đáng để trông chờ một cuộc đổ bộ của Đồng Minh vào Việt Nam. Chiến dịch BETA do Wedemeyer, tư lệnh quân Mỹ tại mặt trận Trung Quốc, triển khai đă tạo thành một cuộc tấn công hai gọng ḱm với hướng chính nhằm vào Quảng Châu, Trung Quốc. Đồng Minh hy vọng mở được một cửa khẩu ở miền Nam Trung Quốc, từ đó thiết lập "tuyến tiếp tế ngắn và quy mô đến Trùng Khánh". Giai đoạn hai hay giai đoạn Đông Dương của Chiến dịch BETA đ̣i hỏi phải có một cuộc hành binh vu hồi vào Bắc Kỳ. Tháng 2 năm 1945
Wedemeyer tuyên bố rằng ông đă "triển khai kế hoạch tiến vào Đông Dương", kế hoạch này được giữ tuyệt mật và chỉ được thảo luận với một số ít người bên ngoài ban tham mưu của ông. Tuy nhiên, ông đă đề cập ư tưởng này với tuỳ viên quân sự Pháp, người đă "yêu cầu có càng nhiều lính Mỹ sát cánh với các đơn vị tiên phong Trung Quốc th́ càng tốt".
Cuộc tấn công đă không trở thành hiện thực v́ chiến lược của Đồng Minh "quyết định từ Philippines tiến thẳng đến Okinawa mà không đổ bộ lên lục địa châu Á", và một lần nữa Đông Dương lại chỉ có vị trí thứ yếu trong hoạch địch kế hoạch thời chiến. Dẫu vậy, nhà sử học Stein Tonnesson đă kết luận rằng cuộc đổ bộ đă được đề xuất có những kết quả dài hạn quan trọng: "bằng cách làm tăng hy vọng của Pháp và Nhật vào một cuộc tấn công của Mỹ, Roosevelt, Wedemeyer và OSS đă thúc đẩy một cuộc xung đột giữa Pháp và Nhật, qua đó mở đường cho cách mạng".
Tuy thế, khả năng nổ ra một cuộc cách mạng vẫn chưa xuất hiện trong đầu thực dân Pháp hồi đầu năm 1945. Được những thắng lợi của Đồng Minh cả ở châu Âu và khu vực Thái B́nh Dương khích lệ, người Pháp ở Đông Dương đă dự đoán phe Trục sẽ thất bại trong ṿng vài tháng nữa; và đến đầu năm 1945 Kháng chiến Pháp dần trở nên công khai hơn trong thái độ chống phe Trục. Nhà cầm quyền Nhật không mù về điều đó, và dù cho những hoạt động của Kháng chiến Pháp không gây ra đảo chính nhưng rơ ràng đă đổ thêm dầu vào lửa. Nhật đă thể hiện dứt khoát thái độ không hài ḷng với người Pháp, không khác với các thành viên trong mạng lưới của Lan và các điệp viên GBT - những người đă "che giấu phi công Mỹ bị bắn rơi tại Đông Dương và từ chối trao họ cho Nhật trừ phi được bảo đảm chính thức rằng những tù binh này sẽ được đối xử theo Công ước Geneva. Nhật không đưa ra bảo đảm và Pháp không giao nộp những người Mỹ". Sự bực tức của Nhật leo thang khi Pháp đổ lỗi cho Nhật gây ra "nhiều thương vong" cho người Pháp sau vụ 30 máy bay B29 của Mỹ ném bom Sài G̣n. Ngày 2 tháng 2 quyết định tiến hành đảo chính và những kế hoạch liên quan được chuyển lên Hoàng đế Hirohito, nhưng thời gian chính xác cho việc nắm quyền vẫn chưa được ấn định. "Quân đội Nhật theo thông lệ bắt đầu những hoạt động vào những ngày lịch sử nào đó", Louis Allen viết, "ngày 8 tháng 3 là Lễ công bố Huấn lệnh của Nhật Hoàng, 10 tháng 3 là ngày kỷ niệm các chiến sĩ trận vong. Mùng 9 tháng 3 tránh được cả hai ngày lễ đó".----
Ngày 9 tháng 3 Nhật bắt đầu Chiến dịch MEIGO v́ muốn giữ bí mật xung quanh việc lập kế hoạch và thực hiện chiến dịch này. Sáu giờ chiều, toàn quyền Jean Decoux và đại sứ Nhật Matsumoto Shunichi gặp nhau tại văn pḥng của Decoux ở Sài G̣n để chính thức kư thoả thuận cung cấp gạo thường niên. Cuộc gặp dường như diễn ra theo đúng thủ tục thông thường đối với Decoux mặc dù ông ta cảm thấy lo lắng trước phản ứng của Nhật về những hành động công khai diễn ra như cơm bữa của Kháng chiến Pháp. Vào tháng 2, khi rời Hà Nội để thực hiện chuyến công cán hàng năm đến Sài G̣n, Decoux không biết điều ǵ sẽ xảy ra trong ngày mùng 9. Với việc kết thúc Chiến tranh thế giới 2 đă ở trong tầm mắt, ông ta vẫn tự tin rằng t́nh trạng thuộc địa của Pháp ở Việt Nam sẽ không bị thách thức. Ông ta nhớ đă vui sướng ngắm nh́n quốc kỳ Pháp tung bay trong làn gió nhẹ ở Sài G̣n - một biểu tượng của niềm kiêu hănh và quyền lực của Pháp trong kỷ nguyên ô nhục ở châu Âu đối với Pháp. Khi chuẩn bị cho cái mà ông ta tin là một cuộc gặp như thông lệ với viên đại sứ, Decoux không hề cảm thấy những thay đổi quan trọng trong tâm trạng người Nhật ở Sài G̣n trong mấy ngày đầu tháng 3 ấy. Ông ta nhớ trong ngày 7 tháng 3 không có ǵ có vẻ bất b́nh thường ngay cả khi quân Nhật chuẩn bị thực hiện "những hành động ghê tởm chống lại Đông Dương" của chúng.
Tuy nhiên, Decoux không mong chờ cuộc hội kiến với Matsumoto. Ông ta không thích viên đại sứ và nhận thấy đó là một kẻ thô lỗ và thiếu sự tinh tế của người tiền nhiệm, ngài đại sứ Yoshizawa Kenkichi. Tại cuộc gặp diễn ra vào ngày mùng 9, Decoux nhận thấy viên đại sứ liên tục nh́n đồng hồ, có vẻ lo lắng và căng thẳng khi hai bên thảo luận về thoả thuận cung cấp gạo.
Cùng với kết luận của bản thoả thuận, Matsumoto bắt đầu thăm ḍ Decoux về ư định của chính phủ Pháp đối với de Gaulle, Đồng Minh và Nhật Bản. Decoux cố lảng tránh câu hỏi mà không gây thêm mối cừu hận với Nhật, ông ta quá hiểu bút sa là gà chết. Không có câu trả lời nào thoả măn câu hỏi của Nhật ở vấn đề này. Phía Nhật buộc tội chính quyền Decoux giúp quân Đồng Minh đổ bộ trên toàn Đông Dương, không công nhận chế độ bù nh́n do Nhật dựng lên ở Nam Kinh, không cung cấp đầy đủ lao động khổ sai và tài chính cho quân Nhật và khoan dung cho những phi vụ ném bom của Mỹ trên toàn Đông Dương thay v́ phải có "phản kháng nghiêm túc". Nhà sử học F.C. Jones tuyên bố rằng "tất cả những lời buộc tội đó đủ chính xác và trao đổi giữa hai bên cho thấy Nhật không bị mắc lừa về thái độ của Decoux đối với họ". Không có ǵ ngài toàn quyền nói ra vào thời điểm ấy có thể thay đổi t́nh h́nh: Tối hậu thư đă có trong tay và Matsumoto có thể đưa ra tuỳ thuộc vào trả lời của Decoux.
Đúng 7 giờ tối Matsumoto trao cho Decoux những yêu cầu mới nhất của chính phủ Nhật.
Văn kiện Matsumoto chuyển cho Decoux viết: Nhật không hài ḷng với "t́nh h́nh hiện tại", đặc biệt lưu ư đến "những cuộc tấn công liên tục của Mỹ chống Đông Dương và khả năng nổ ra một cuộc tấn công của kẻ thù của chính phủ Nhật Bản". Nó thúc giục Decoux phải chứng minh ư định tham gia pḥng thủ chung bảo vệ Đông Dương trong trường hợp Đồng Minh tấn công. Decoux có cả thảy 2 tiếng đồng hồ - đến 9 giờ tối - để đồng ư đặt toàn bộ lực lượng Pháp, đạn được, các tuyến đường sắt và những tài sản khác cần cho các chiến dịch quân sự dưới sự kiểm soát của Nhật. Văn kiện này c̣n nói rơ toàn bộ bộ máy hành chính của chính quyền Đông Dương được yêu cầu phải tuân thủ ngay lập tức những đ̣i hỏi của Nhật Bản. Ngài toàn quyền đă mất tinh thần trước cả nội dung của tối hậu thư và thời hạn hai giờ đồng hồ để ông ta phải đưa ra quyết định.
Sự nghiêm trọng của t́nh h́nh rơ ràng khiến tất cả lo lắng. Decoux không thể đồng ư với những yêu cầu của Nhật trừ phi mất sự tín nhiệm mà có lẽ ông ta có với chính phủ Pháp của de Gaulle. Nếu đầu hàng, ông ta dường như sẽ trở thành kẻ cộng tác và thậm chí có thể là phản bội trong mắt cả người Pháp ở thuộc địa và chính quốc. Nhưng nếu không đồng ư, ông ta sẽ để mất một mục tiêu từng mẫn cán theo đuổi kể từ khi thay Catroux năm 1940: duy tŕ Đông Dương thuộc Pháp. Decoux trả lời rằng ông ta cần phải bàn bạc với các chỉ huy quân đội Pháp trước khi đưa ra quyết định. Cả Decoux và Mitsumoto đều biết rằng ông ta đang cố kéo dài thời gian. Đến 8 giờ 15, Matsumoto, tương đối tự tin về cuộc đảo chính sắp xảy ra, cáo từ Decoux.
Ngày 9 tháng 3, khi mặt trời lặn, trong "sự im lặng chết người" theo sau sự ra đi của viên đại sứ, Jean Decoux quan sát nghi lễ hạ cờ Pháp hàng ngày và lo lắng không biết điều ǵ sẽ đến vào sáng hôm sau.
Căn cứ vào dự đoán của Decoux th́ ông ta chẳng thể làm được ǵ nhiều. Ông ta nhanh chóng triệu tập các thành viên cao cấp trong ban tham mưu của ḿnh, các quan chức dân sự và quân đội cấp cao có mặt tại Sài G̣n để phổ biến cho họ diễn biến của t́nh h́nh và tất cả đều cho rằng các yêu cầu của Nhật không thể chấp nhận được.
Tám giờ bốn nhăm, Decoux hoàn thành phúc đáp, theo đó không đồng ư cũng không phản đối bị vong lục của Nhật.
Decoux nhắc lại rằng ông ta không thể đồng ư với bị vong lục của Nhật nếu không tham khảo ư kiến các chỉ huy cấp cao quân đội Pháp tại Hà Nội, nhưng ông ta nói sẵn sàng đàm phán thêm với Nhật. Decoux đă kết luận rằng ông ta "sẽ không kư một thoả thuận đi ngược lại danh dự của cá nhân ông ta cũng như của quân đội Pháp". Tám giờ bốn nhăm, mặc dù thời hạn hai giờ đồng hồ vẫn chưa kết thúc, nhưng Decoux biết công dân Pháp đă "bị bắt và bị khiêu khích và quân Nhật đă cắt đứt những con đường giữa Sài G̣n và Chợ Lớn.
Đến 9 giờ, thông điệp của Pháp đang trên đường nhưng vẫn chưa đến tổng hành dinh quân đội Nhật, dù Nhật đă được thông báo về điều này. Trước đó, khi rời văn pḥng toàn quyền, đại sứ Matsumoto đă để lại một sĩ quan Nhật tại Dinh Toàn quyền để đóng vai hướng dẫn viên và "vệ sĩ" cho sĩ quan Pháp, đại uư Robin, người chịu trách nhiệm chuyển phúc đáp của Decoux. Tuy nhiên, khi Robin chuẩn bị đi, anh ta phát hiện ra tay vệ sĩ người Nhật đă biến mất. Dẫu vậy Robin vẫn lên đường cùng trung uư D'Aiguilhon. Vẻ ngoài không giống với nơi toạ lạc chính xác của tổng hành dinh Nhật - nơi hầu như không bao giờ trưng một bảng yết thị đối với thẩm quyền Pháp - Robin và người hộ tống của anh ta bị lạc và do đó đă làm chậm việc chuyển phúc đáp. Phía Nhật chờ thêm 15 phút. 8 giờ 18, tướng Tsuchihashi Yuisu chỉ huy Đạo quân Thiên Hoàng 38 ở Sài G̣n, đă ra lệnh miệng cho 67.000 binh sĩ tại Việt Nam bắt đầu tiến hành đảo chính. 9 giờ 21, mật mă "777" đă báo hiệu cho các sĩ quan Nhật trên toàn Đông Dương. Với những người nhận, tín hiệu này có nghĩa là ngài toàn quyền đă cự tuyệt yêu cầu của Nhật và tất cả các đơn vị phải bắt đầu động binh ngay lập tức.
Sau đó không lâu đại uư Robin bước vào tổng hành dinh quân đội Nhật. Chỉ sau đó Robin và D'Aiguilhon mới nhận ra một chiếc xe hơi để lộ một lá cờ Nhật ngoại cỡ mà người ta đưa đến. May cho Tsuchihashi, phúc đáp của phía Pháp có thể dễ dàng được hiểu như lời từ chối yêu cầu của Nhật. Nếu bởi một lư do vu vơ nào đó Decoux đồng ư với những yêu cầu mới của Nhật th́ Tsuchihashi đă phạm phải sai lầm v́ ra lệnh tấn công một đồng minh quư giá và sẵn sàng hợp tác ở Đông Dương.
Tuy nhiên, viên toàn quyền đă không chấp nhận những đ̣i hỏi của Nhật và thế là Dinh Toàn quyền đă bị quân Nhật chiếm mà không có đổ máu. Cũng vào khoảng thời gian đó quân Nhật chiếm được các cơ quan công quyền, các đài phát thanh, các trung tâm điện tín và điện thoại, ngân hàng và các xí nghiệp công nghiệp chính yếu. Chúng c̣n tấn công lực lượng cảnh sát, bắt giữ thường dân và quân nhân Pháp.
Sáng hôm sau, thiếu tướng Kawamura, tư lệnh ban tham mưu Đạo quân 38, đề nghị được trao đổi riêng với Decoux.
Kawamura lấy làm tiếc rằng sự thiếu hợp tác của Pháp đ̣i hỏi phải tiến hành đảo chính và cam đoan với Decoux về việc tiếp tục bảo vệ sinh mệnh và tài sản của người Pháp. Tuy nhiên sau đó chính bản thân toàn quyền Decoux đă trở thành tù binh của Nhật tại Lộc binh, cách Sài G̣n 80 dặm về phía bắc. Dù bị giam cầm nhưng Decoux và "các sĩ quan cao cấp Pháp" vẫn được, như phía Nhật bảo đảm, "tuỳ nghi" đối xử. Người Pháp không chấp nhận việc này. Ước tính có khoảng 500 thường dân Pháp "lúc đầu là bất kỳ ai bị nghi ngờ giúp Đồng Minh và sau đó là các quan chức Pḥng nh́ trước đó đă từng trấn áp những người bản xứ có cảm t́nh với Nhật" đă bị bắt giam, và hơn 200 người đă bị giết hoặc mất tích.
Để bào chữa cho cuộc đảo chính, Nhật đă thông báo cho công chúng qua sóng phát thanh đổ lỗi cho những hoạt động của Kháng chiến Pháp hợp tác với Đồng Minh và sự thiếu hợp tác của Pháp là nguyên nhân cần phải làm đảo chính. Tại Nhật Bản, trong diễn văn đọc trước nghị viện, thủ tướng Nhật - tướng Koiso Kuniaki, buộc tội chính quyền Pháp đă có "những hành động phản bội" đ̣i hỏi phải làm đảo chính. Bộ trưởng ngoại giao Shigemitsu Mamoru làm rơ thêm vấn đề từ bối cảnh của Nhật:
Khi quân Đức rút khói Pháp, tân Chính phủ của de Gaulle đă ban hành lại quyết định gốc chống Nhật. Decoux (đúng nguyên văn) sau đó đă tuyên bố ḷng trung thành và nói rơ rằng Đông Dương đang trong t́nh trạng chiến tranh với chúng ta. Đông Dương là căn cứ của lực lượng viễn chinh Nhật ở Malaysia, Burma, Java và Sumatra và phải được bảo đảm an ninh bằng mọi giá. Nhật không thể dễ dàng phục tùng một tuyên bố thù địch như vậy… Nhật không c̣n lựa chọn nào khác ngoài chấm dứt t́nh trạng này.
Mặc dù những dấu hiệu đầu tiên của đảo chính xuất hiện ở Sài G̣n, nhưng ngày 9 tháng 3 đă chứng kiến Pháp chuyển giao quyền lực trên toàn thuộc địa. Cuộc tấn công đầu tiên và cuộc kháng cự mạnh mẽ nhất xảy ra tại Bắc Kỳ, nơi 32.000 quân Pháp đă chống lại Nhật. Có nhiều trường hợp các sĩ quan Pháp và quan chức cấp cao đă được mời dự bữa tối với các đối tác Nhật. Nhiều người đă nhận lời mời chỉ để bị bắt vào thời gian đă định. Một số người Pháp đă mất mạng trong các cuộc bắt bớ. Tại Lạng Sơn, nơi đă xảy ra một cuộc giao tranh nhỏ giữa Pháp và Nhật năm 1940, tướng Emile Lemonnier và công sứ Pháp Camille Auphelle cùng ba sĩ quan tham mưu cao cấp đă bị chặt đầu sau khi từ chối kư biên bản đầu hàng. 100 lính lê dương tại đồn Brière de L'Isle (Lạng Sơn) đă chống lại quân Nhật trong 24 giờ đồng hồ trong một trận chiến thỉnh thoảng lại đánh giáp lá cà. Quân Nhật giết hầu hết lính đồn trú, nhiều người trong số họ theo tường tŕnh đă hát vang bài "Marseillaise" trước khi chết. Các đồn binh ở Hà Giang và Hà Nội cũng bị đánh chiếm và hàng ngàn người bị bắt làm tù binh. Vị trí cuối cùng của Pháp đầu hàng là Đồng Đăng, nơi binh lính thuộc địa và các sĩ quan Pháp (chỉ có một người sống sót) bị bao vây đến ngày 12 tháng 3.
Nhà sử học David Marr đi đến kết luận rằng: "2100 sĩ quan và quân nhân người Âu đă bị giết hoặc mất tích" trong cuộc đảo chính và rằng tổn thất của người Việt Nam thậm chí c̣n lớn hơn. Ông ước tính "khoảng 15.000 thành viên của lực lượng vũ trang Đông Dương bị Nhật giam giữ, trong đó có 12.000 người Âu".
Mặc dù hầu hết các đồn binh nhanh chóng đầu hàng, nhưng có hai viên chỉ huy là tướng Gabriel Sabattier và Marcel Alessandri đă chạy thoát khỏi Đông Dương cùng đám bộ hạ của ḿnh.
Nhà sử học Pháp André Gaudel viết rằng cuối tháng 2 tướng Sabattier, tư lệnh sư đoàn Bắc Kỳ và lănh đạo Kháng chiến miền Bắc đă chỉ thị rơ cho các lănh đạo tỉnh kiên quyết chống lại bất kỳ hành động gây hấn nào sắp sửa xảy ra của Nhật. Dựa vào thông tin của Pḥng nh́, Sabattier đă cảnh báo các đồn binh ở Bắc Kỳ và Bắc Lào về khả năng xảy ra đảo chính và đă bí mật rời Hà Nội ngày 8 tháng 3 để đến với lực lượng của ông ta đóng tại phía bắc thành phố. Lực lượng lớn nhất trong vùng đóng ngay tại phía bắc sông Hồng là Trung đoàn Lê dương số 5. Khoảng 2000 lính lê dương được đặt dưới sự chỉ huy của tướng Alessandri. C̣n giao chiến tại nơi khác nên quân Nhật không tấn công vào tối 9 tháng 3, điều đó cho phép Alessandri và lính của ông ta có thời gian rút chạy về phía bắc. Tuy nhiên sự tŕ hoăn này kéo dài không lâu quân Nhật đuổi theo đám tàn binh Pháp đang tháo chạy, cắt đứt đường đến hai cửa khẩu biên giới quan trọng nhất tại Lào Cai và Hà Giang.
Địa h́nh và hoàn cảnh đă thử thách cả Sabattier và Alessandri. Sabattier nhanh chóng mất liên lạc với hầu hết các đơn vị của ông ta và buộc phải đi bộ dọc theo sông Đà về Lai Châu cùng một nhóm nhỏ tàn quân c̣n sống sót: 3 sĩ quan, 1 phiên dịch, tài xế của ông ta và 2 lính dân tộc Thái.
Trong khi đó, Alessandri thận trọng cân nhắc khả năng đào thoát thành công vào lănh thổ Đồng Minh. Tuổi trung b́nh của binh lính dưới quyền ông ta là 40 và không quen với gian khổ về thể chất, nghĩa là nhiều người trong số họ sẽ bỏ mạng trong chuyến đi nguy hiểm vượt qua nhiều khu rừng rậm rạp và núi non hiểm trở để đến biên giới Trung Quốc.
Alessandri c̣n có một số bạn bè cùng cấp bậc với ông ta trong quân đội Đông Dương. Trong khi suy tính bước đi tiếp theo sau cuộc đảo chính, ông ta quyết định tách khỏi quân đội Đông Dương. Động thái này được hiểu theo nhiều cách.
Nhà sử học J. Lee Ready nói rơ, lính Đông Dương đă được lệnh "cùng người Âu bỏ lại trang bị và đồng phục và cố thoát khỏi nhà" với hy vọng họ có thể sống sót bằng cánh "băng rừng". Tương tự, Gaudel viết rằng Alessandri "đă cho họ tự do". Điệp viên Pháp và học giả tôn giáo châu Á Paul Mus nhớ lại, một số binh lính Việt đă khóc khi ra đi. Theo Mus, những người lính đó "trở về làng bản của họ vẫn trong bộ quân phục Pháp và vài người đă bị lính Nhật giết v́ không chịu chào".
Tuy vậy, David Marr chỉ rơ rằng những người này đă phải "tự xoay sở lấy… một ḿnh, không vũ khí, dễ bị tấn công". Ông nhận xét, bị cho giải ngũ có lẽ "làm một số người trong bọn họ dễ chịu, nhưng rơ ràng làm tổn thương sâu sắc những người khác, và điều đó sau này được những người Việt Nam theo phong trào đ̣i độc lập sử dụng để nêu bật bản chất xảo trá của chủ nghĩa thực dân Pháp".
Chúng ta có thể cho rằng cách đối xử "xảo trá" này đă có những tác động đáng kể trong một thời gian dài. Cùng năm đó khi người Mỹ đến Đông Dương, họ đă đối xử tốt và hoạt động sát cánh cùng Việt Minh. Một số người Việt đă đề cao thêm h́nh ảnh những người Mỹ và khơi sâu sự phẫn nộ của người Việt Nam đối với Alessandri và người Pháp. Hai t́nh tiết trên càng làm tăng thêm sự ghét bỏ người Pháp v́ thái độ của họ và làm nghi ngờ tuyên bố tiếp nhận quyền cai trị Việt Nam của họ. V́ mặc dù binh lính của Alessandri đă gặp vô vàn nguy hiểm trong suốt 3 tháng trời sau đó, th́ sau khi rũ bỏ quân phục và vũ khí, binh lính Đông Dương có quyền cảm thấy ḿnh bị làm nhục và bỏ rơi. Ngày 10 tháng 3, đội h́nh hàng dọc gồm người, ngựa và la của Alessandri vượt sông Đà và trên đường tháo chạy bị quân Nhật liên tục tấn công. 75 lính của đơn vị Lê dương số 3 bỏ mạng trong một trận đánh tuyệt vọng và tiếp tục phải chống lại nhiều cuộc tấn công của Nhật vài tuần sau đó.
Trong một số trường hợp, họ c̣n bị người Đông Dương tấn công. Một báo cáo Ultra(1) từ ngày 27 tháng 4 năm 1945 viết, "một đơn vị Pháp 56 người trong khi cố vào lănh thổ Trung Quốc" đă bị "quần chúng tấn công suốt dọc đường đi khiến 30 người thiệt mạng". Một biệt đội Pháp khác đă bị "người An Nam phản lại và buộc phải bỏ trang bị để chạy thoát quân Nhật". Kinh nghiệm của Mus, tuy thế, lại không chứng minh được điều này. Ông nhớ rằng "trước cuộc đảo chính người Pháp được trọng vọng như những ông chủ, sau đảo chính họ trở thành những vị khách không mời với những danh tiếng tồi tệ nhất". Nhưng trong chuyến bay rời Hà Nội tháng 3 năm 1945, ông "đă được chính người Việt Nam giúp đỡ bằng mọi khả năng có thể". Theo Mus, cuộc đảo chính đơn giản là "món ḿ ăn liền, khi mắt người ta đă mở và cảm giác phụ thuộc không c̣n nữa".
Đấy chính xác là sự mất kiểm soát mà Pháp vẫn cố sức ngăn cản. Ngày 28 tháng 3 tướng Alessandri thiết lập đại bản doanh của ông ta tại một thung lũng sau này sẽ trở thành nổi tiếng trong cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam: Điện Biên Phủ. Ngày 29 tháng 3 tướng Sabattier nhập với ông ta. Cùng ngày một máy bay Anh hạ cánh đưa François de Langlade, sứ giả của de Gaulle, và đại tá Dewavrin (được biết đến nhiều hơn với bí danh Passy), giám đốc cơ quan t́nh báo của de Gaulle (DGER). De Langlade mang đến hai thông báo cho Sabattier. Thông báo thứ nhất cho Sabattier biết rằng de Gaulle đă bổ nhiệm ông ta làm phái viên toàn quyền, chức vụ này đem lại cho ông ta cả quyền hành dân sự và quân sự. Với tư cách là tư lệnh toàn bộ lực lượng Pháp tại Đông Dương, Sabattier lập "thủ đô" tạm thời của ḿnh tại Điện Biên Phủ. Trong thông báo thứ hai, de Gaulle ra lệnh cho Sabattier duy tŕ vị trí của ḿnh tại Đông Dương như biểu tượng hiển nhiên của chủ quyền không bị cắt rời của Pháp trên toàn thuộc địa.
Tuy nhiên, sau chưa đầy một tuần ở Điện Biên Phủ, Nhật đă buộc Pháp phải tháo chạy. Sabattier và Alessandri đă sớm tự trấn an với niềm tin rằng Nhật sẽ bằng ḷng chiếm giữ vùng đồng bằng màu mỡ và những binh sĩ Pháp đă trốn thoát sẽ được an toàn trên vùng cao. Nhưng sự dừng chân chóng vánh của họ tại Điện Biên Phủ đă bị đánh dấu bằng những cuộc tấn công hàng ngày của quân Nhật mạnh hơn. Không c̣n thời gian tŕ hoăn, Pháp mở đường máu rút khỏi Điện Biên phủ về hướng Lai Châu. Đến ngày cuối cùng của tháng, Nhật đă đánh bật Pháp ra khỏi Tuần Giáo. Quân đội Thiên Hoàng tiếp tục truy kích Pháp qua Luang Prabang đến Phong Saly và tiếp đó là Lai Châu - nơi quân Pháp kháng cự đến ngày 9 tháng 4. Đến cuối tháng 5 Nhật đă hoàn toàn đánh bật Pháp ra khỏi Đông Dương. Ngày 20 tháng 5 người Pháp vượt biên giới vào Trung Quốc. Trong 72 ngày họ đă phải tháo chạy qua những địa h́nh hiểm trở, trong điều kiện thời tiết bất thường và không có đủ đồ tiếp tế. Đến tháng 6, gần 5.700 người tụt hậu, trong đó có 2.469 người Âu, qua được biên giới Trung Quốc tại nhiều điểm khác nhau chỉ để bị tước vũ khí và đối xử với sự khinh miệt ra mặt của chủ nhà.
Sabattier đă thất bại trong việc duy tŕ vị trí chiến đấu của Pháp tại thuộc địa. Mặc dù ông ta - và nhiều người khác nữa - đă đổ lỗi cho sự "phản bội" của Nhật, họ cũng đổ lỗi cho cả người Mỹ v́ đă từ chối họ những hỗ trợ cần thiết để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Nhật. David Marr cũng như nhiều nhà sử học khác cho rằng "sự giúp đỡ thực chất của Mỹ và Trung Quốc có thể cho phép Sabattier bảo vệ một vài đồn lẻ ở miền núi". Người Pháp đă đặc biệt hy vọng vào tiếp tế đường không của Không đoàn 14 xuất phát từ những căn cứ tại Trung Quốc.
Liên quan đến cuộc đảo chính của Nhật, tư lệnh Không đoàn 14, tướng Claire Chennault, thấy ḿnh rơi vào một t́nh thế khó khăn. Sau đảo chính, báo cáo về cuộc vây hăm Lạng Sơn tới tấp được đặt lên bàn làm việc của Chennault. Người Pháp báo đă chịu những tổn thất nặng nề và yêu cầu không quân Đồng Minh tấn công chống kẻ thù. Khi Chennault yêu cầu giấy phép của tổng hành dinh mặt trận Trung Quốc để tiến hành ném bom ngay lập tức nhằm giải nguy cho các đồn binh, câu trả lời khẳng định ngắn gọn và rơ ràng "Mặc quỷ tha ma bắt chúng!". Dù đă quá muộn để bảo vệ đồn Lạng Sơn, ư muốn giúp Pháp của Chennault là rơ ràng. Ngày 10 tháng 3, ông gặp Tưởng Giới Thạch để thảo luận về chính sách của Trung Quốc đối với những người Pháp chạy trốn.
Trí thức Trung Quốc khinh bỉ người Pháp, Chennault xoay câu hỏi của ḿnh quanh khả năng liệu Pháp có kháng cự được những đợt tấn công của kẻ thù chung của họ hay không. Ông hỏi: Liệu người Pháp kháng cự ngoan cường chống Nhật th́ cứ mặc họ cho số phận định đoạt hay lực lượng Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc, sẽ gửi quân đến giúp? Nếu kháng cự không mấy ngoan cường, họ có bị tước vũ khí khi vào Trung Quốc hay không? Trả lời của Tưởng cho câu hỏi sau là không rơ ràng; ông ta cho rằng người Pháp có thể "được phép ở lại Trung Quốc trong những khu vực quy định". Trả lời của ông ta về việc giúp Pháp có vẻ rơ ràng hơn đôi chút. "Nếu kháng cự ngoan cường", Tưởng tuyên bố, "th́ có thể được giúp đỡ". Căn cứ vào sự "cho phép" này, từ ngày 12 đến 28 tháng 3 Không đoàn 14 đă thực hiện 98 lần xuất kích trên bầu trời Dông Dương, trong đó có cả các phi vụ ném bom và trinh sát. 28 lần trong số đó là "trực tiếp đáp lại yêu cầu của Pháp". Chennault khẳng định, số lượng các lần xuất kích đă có thể nhiều hơn nếu không v́ thời tiết xấu, không có sẵn đồ tiếp tế (và) trang bị thừa, và sự thay đổi bất thường của t́nh h́nh".
Trong hồi kư của ḿnh, Chennault nhớ lại:
Ngay sau khi Nhật tấn công tôi đă cử các nhân viên t́nh báo của Không đoàn 14 tói Đông Dương để bắt liên lạc với quân Pháp. Bay trên những chiếc máy bay hạng nhẹ, họ đáp xuống một dải đất rừng đă được phát quang rồi khi chuẩn bị thả dù đạn được thuốc men và 1ương thực cho lính Pháp đang rút lui th́ nhận được chỉ thị từ Tổng hành dinh mặt trận: không cung cấp vũ khí và đạn được cho quân Pháp trong bất cứ hoàn cảnh nào. Không đoàn đă làm hết khả năng của ḿnh để giảm nhẹ t́nh cảnh quẫn bách của người Pháp đang tháo chạy bằng cách oanh tạc và ném bom vào độih́nh.quân Nhật Cuối cùng chúng tôi cũng được phép đi tản phụ nữ và trẻ em Pháp bằng đường hàng không.
Như đă thảo luận trước, cho đến đầu năm 1945 sự mơ hồ trong chính sách của Mỹ về việc tiếp tục duy tŕ thuộc địa Đông Dương của Pháp vẫn chưa được giải quyết. Tuy nhiên, sự miễn cưỡng giúp người Pháp giữ Đông Dương dường như đă được thoả thuận từ trên xuống dưới thông qua một loạt mệnh lệnh. Tất nhiên đến cuối tháng 4 việc này đă trở nên rơ ràng v́ mặc dù Roosevelt từ trần ngày 12, nhưng tư lệnh mặt trận Trung Quốc tiếp tục tuân thủ những chỉ thị của ông liên quan đến Đông Dương thuộc Pháp. Tướng Wedemeyer triệu tập một cuộc họp của ban tham mưu sáng ngày 25 tháng 4 năm 1945. Tới dự có đại tá Willis Bird, phó chỉ huy OSS tại mặt trận Trung Quốc. Trong báo cáo với thượng cấp của ḿnh Bird lưu ư những chỉ thị rơ ràng từ Wedemeyer liên quan đến Đông Dương thuộc Pháp: "Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không trao trang thiết bị hay vũ khí cho FIC (Đông Dương thuộc Pháp). Lương thực và thuốc men có thể được cung cấp trên cơ sở nhân đạo nhưng điều đó không thể hiện rằng chúng ta nên tiếp tế cho họ. OSS có thể làm hết khả năng của ḿnh tại FLC chỉ v́ những mục đích t́nh báo và có thể chỉ đưa đến đó những trang thiết bị và vũ khí cần thiết để bảo vệ các đơn vị của nó, không tiến hành hoạt động phá hoại".
Ngày 7 tháng 3 năm 1945, tướng Wedemeyer nhận thông tin bổ sung về chính sách liên quan đến thuộc địa Pháp khi ông và Patrick Hurley, đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, tiếp kiến Roosevelt. Cả hai ông ra về với "những chỉ thị rơ ràng về những ǵ họ không thể làm tại Đông Dương". Tuy nhiên những ǵ họ có thể làm lại vẫn mơ hồ. Nhà sử học Stein Tonnesson đă đặt ra một câu hỏi khó: "Có nên đổ chuyện này chỉ cho điều kiện sức khoẻ yếu của Roosevelt không, hay Tổng thống đă cố ư giành thế chủ động ở Đông Dương cho Nhật? V́ mục đích của Roosevelt là đặt Đông Dương dưới sự uỷ trị quốc tế nên phải cám dỗ để Nhật làm cái việc thủ tiêu chế độ thuộc địa".
Câu hỏi liệu Roosevelt có cố ư giành "thế chủ động" cho Nhật hay không sẽ vẫn c̣n để ngỏ cho các phỏng đoán. Nhưng bất chấp ư định của Roosevelt, trên thực tế, những hành động của ông đă bật đèn xanh cho Nhật loại bỏ quyền lực của Pháp. Dĩ nhiên việc Chennault hiểu chính sách về Đông Dương của tổng thống như đă chỉ thị cho ông qua các mệnh lệnh đến từ Wedemeyer đă đem đến cho ông một vài lựa chọn đối với người Pháp, cốt lơi là cứ để họ cuốn theo chiều gió. "Tôi đă thi hành triệt để các mệnh lệnh", Chennault nhớ lại, "nhưng tôi không thích ư tưởng để mặc người Pháp bị tàn sát trong rừng khi tôi chính thức bị buộc phải làm ngơ trước hoàn cảnh khó khăn của họ". Ông kết luận, "Chính phủ Mỹ muốn thấy người Pháp bị tống cổ khỏi Đông Dương bằng vũ lực có thế vấn đề tách họ khỏi thuộc địa sau chiến tranh mới dễ dàng hơn". Tuy nhiên, cho dù người Pháp không nhận được viện trợ của Mỹ như hy vọng, nhưng không phải là họ không có lựa chọn. Tầu thuỷ và máy bay vận tải Mỹ tránh người Pháp, nhưng hàng viện trợ của Anh từ Calcutta đă đến tay một số lính Pháp chạy nạn. Các chuyến tiếp tế đường không đă thả xuống nào súng, nào lựu đạn và súng cối. Cho dù rơ ràng dây là hàng tâm lư, nhưng những chuyến thả dù hoá ra lại có rất ít giá trị đối với vài người sống sót, bởi sức lực đă giảm sút nên họ buộc phải bỏ bớt gánh nặng đang cơng trên lưng ḿnh. Những người khác có thể trong điều kiện chiến đấu tốt hơn lại phải từ bỏ lối đánh du kích v́ thiếu trang bị.
Lúc đầu OSS đă lên kế hoạch viện trợ cho tàn quân Kháng chiến Pháp. Ngày 12 tháng 3 năm 1945, "Đội du kích" do thiếu tá John W. Summers đứng đầu đă được cảnh báo về nhiệm vụ gần Móng Cái, trên bờ biển phía bắc Việt Nam.
Trung uư Robert Ettinger của OSS được điều đến đội này để thực thi công tác đặc biệt của SI. Năm người (không bao gồm Ettinger) phải tổ chức và trang bị cho "bất kỳ lực lượng nào của Kháng chiến Pháp trong vùng" và thực hiện "hoạt động SO thông thường và công tác phá hoại". Mặc dù việc này bề ngoài có vẻ vi phạm chỉ thị trước đó của Wedemeyer, nhưng có thể giải thích nhiệm vụ của Summers là tuần tra theo chỉ thị ngày 20 tháng 3: cho phép OSS cung cấp viện trợ quân sự "dưới dạng hàng quân nhu và / hay các quân nhân do Mỹ kiểm soát cho bất kỳ hay tất cả các nhóm chống Nhật".
Sứ mạng đầu tiên đó của Summers kết thúc như một số sứ mạng "mới" được Đội du kích thực hiện tại Việt Nam từ 12 tháng 3 đến 23 tháng 4. Cuối cùng, ngày 24 tháng 4, những thành viên trong nhóm Summers đă lọt vào Đông Dương thuộc Pháp. Summers ghi lại một số quan ngại về những ǵ họ có thể phát hiện ra trên mặt đất: "Toàn bộ thời gian từ 12 tháng 3 quân Nhật đă và đang tiến vững chắc về phía Bắc và Tây Bắc và chúng tôi càng lúc càng thiếu tự tin về chính thực trạng t́nh h́nh lúc đó". Trong lúc đổ bộ và định vị đám tàn quân đang rút chạy, Đội du kích đă báo cáo về t́nh h́nh của người Pháp như sau:
Lực lượng Pháp mà chúng tôi thấy không muốn chiến đâu thêm và chúng tôi chỉ đang cố tiến về phía Trung Quốc bằng hết khả năng của ḿnh. Họ chỉ mang theo những trang bị thiết yếu. Một số súng cacbin Mỹ mà họ nói được người Anh thả dù xuồng. Họ cho biết đă nhận được khá nhiều vũ khí hạng nhẹ và đạn được từ người Anh nhưng đă phá huỷ chúng. Không ai trong chúng tôi nhớ đă thấy một người Pháp bị thương. Không một người Pháp nào chúng tôi gặp hay nói chuyện cùng có huy hiệu Nhật, trang bị hay quà lưu niệm… Ấn tượng của chúng tôi là trên thực tế người Pháp đă chiến đấu rất ít. Không người Pháp nào có thể nói cho chúng tôi vê địa điểm họ đă quyết chiến. Chúng tôi cho rằng chiến đấu ở đây chủ yếu chỉ là giao tranh của quân cản hậu khi những đội tuần tra dẫn đầu của Nhật đuổi kịp những người Pháp đang chạy trốn… ư kiến của chúng tôi, đó chỉ là cảm giác chúng tôi nhận được khi nói chuyện với các sĩ quan Pháp, là họ chỉ muốn thoát khỏi FIC để đến Trung Quốc và cố lấy ḷng chính phủ Pháp hiện hành… Từ những ǵ chúng tôi chứng kiến, các quan chức Mỹ đă đúng khi không gửi viện trợ cho Pháp v́ hầu như họ sẽ chỉ phá huỷ chúng như đă làm với hầu hết những trang bị mà người Anh gửi đến.
Người Pháp tiếp tục kéo về biên giới Trung Quốc và để 5 người của nhóm Summers cản hậu cho họ. Sáng ngày 28 tháng 4, một nhóm lính Nhật ước chừng 65 người, đă tấn công. May thay, toàn bộ thành viên của Đội đu kích đă thoát khỏi ṿng vây, nhưng nhiệm vụ thu thập tin tức t́nh báo của họ tại Đông Dương đă bất ngờ kết thúc.
Kinh nghiệm của trung uư Ettinger rất khác với kinh nghiệm của Đội du kích. Mặc dù OSS lúc đầu đă phái Ettinger đến với nhóm của Summers, nhưng anh ta đă đi riêng đến Đông Dương thuộc Pháp, nhập vào lực lượng của Sabattier tại Điện Biên Phủ ngày 28 tháng 3. Ettinger, một người Mỹ gốc Pháp, tham gia đội quân của Sabattier khi họ bắt đầu chuyến đi gian khổ qua Bắc Kỳ để đến Trung Quốc. Ngày 29 tháng 3, tổng hành dinh OSS tại Côn Minh nhận được những bức điện đầu tiên của Ettinger với nội dung người Pháp "vô cùng nguy khốn" và anh ta đă phải "đổi chỗ ba lần trong ṿng 24 giờ để tránh bị bắt". Từ 29 tháng 3 đến 4 tháng 4 Ettinger đă gửi tin t́nh báo về sở chỉ huy mặt trận và Không đoàn 14 yêu cầu "thực hiện các phi vụ ném bom". Đáp lại yêu cầu của Ettinger, câu trả lời là tướng Chennault đă "được phép oanh tạc đội h́nh kẻ thù Nhật Bản dọc theo pḥng tuyến Pháp".
Đúng như sẽ thấy, kinh nghiệm với đội quân của Sabattier là quan trọng nhất trong phương châm phối hợp thường gây tranh căi giữa trung uư Ettinger và người Pháp đối với Đông Dương.
Tuy nhiên, cả công tác của Ettinger với Sabattier và sự lưu lại ngắn ngủi ở miền Bắc Việt Nam của Đội du kích đều không thoả măn được nhu cầu tin t́nh báo của Mỹ về quân Nhật ở Đông Dương. Với tư cách là cơ quan thu thập tin tức chủ yếu trong khu vực cho Mỹ, bây giờ hơn lúc nào hết OSS cần những nguồn tin đáng tin cậy. Trước khi xảy ra đảo chính, OSS đă cố gắng giành được một vị trí trong mạng lưới thu thập tin t́nh báo trong vùng hay thậm chí c̣n tốt hơn, thiết lập mạng lưới của riêng ḿnh. Nhưng OSS đă thất bại trong nỗ lực đưa GBT vào ṿng kiểm soát của nó và không thành công trong tạo lập được mối quan hệ công tác vững bền với người Pháp tại khu vực này.
Trong khi OSS cố mở rộng những khả năng lựa chọn của nó th́ giác thư ngày 1 tháng 3 của trung tá Paul Helliwell, người đứng đầu SI của OSS tại mặt trận Trung Quốc, gửi Wedemeyer đă mở ra một khả năng khác. Helliwell viết:
Như ngài biết, bên cạnh người Pháp, nhưng người hợp tác trong chừng mực nhiều hay ít khi t́nh h́nh đang tiên triển, c̣n có một số nhóm cách mạng bản xứ có nhưng mối liên hệ và điểm mạnh khác nhau ở khắp nơi. Thực ra tất cả đều chống Pháp cũng như chống Nhật. Nhiều nhóm trong số đó đă cố liên lạc với tổ chức này để bán thông tin hay làm công tác MO để đền đáp lại số tiền ứng trước hay, trong một số trường hợp, vũ khí và đạn được.
Helliwell tin rằng tính thời điểm cho các hoạt động của OSS có ư nghĩa vô cùng quan trọng. Ông phát biểu: "Tôi có lư do để tin rằng Phái bộ Quân sự Pháp có phần bi quan về những hoạt động của GBT, và nếu họ bất ngờ kiểm soát chặt chẽ chúng th́ chúng ta có thể thấy việc đưa tin c̣n hạn chế của chúng ta lúc này về FIC sẽ bị xoá sổ. Bởi vậy tôi cảm thấy việc chúng ta phải tác động trực tiếp đến những hoạt động của OSS tại nước này là rất quan trọng". Helliwell tin tưởng rơ ràng rằng OSS cần một mạng lưới do Mỹ chỉ đạo thay v́ phải dựa vào những mạng lưới khác để chia sẻ thông tin. Để thực hiện điều đó, ông yêu cầu những chỉ thị đặc biệt từ Tổng hành dinh mặt trận về việc sử dụng các điệp viên bản xứ. Đặc biệt ông muốn biết: "Chúng tôi có thể quan hệ với người bản xứ hay các nhóm cách mạng đến mức nào để có được thông tin và nơi ẩn nấp cho các điệp viên của chúng ta?" Và ngoài ra, "Trong trường hợp chúng tôi có quan hệ với những nhóm bản xứ này th́ chúng tôi có được phép cung cấp cho họ vũ khí và các đồ quân nhu khác hay không, hay chỉ giới hạn trong việc trả tiền cho họ?". Ông nhấn mạnh rằng OSS đang "lưỡng lự" với "các nhóm bản xứ" và không thể tiến lên nếu thiếu chỉ thị từ tổng hành dinh mặt trận.
Sự cấp bách mà Helliwell ám chỉ trong thư báo cáo của ḿnh đă bị làm cho trầm trọng hơn 8 ngày sau đó bởi cuộc đảo chính của Nhật. Những sự kiện ngày 9 tháng 3 đă làm thay đổi t́nh h́nh đối với tất cả những người liên quan, tất nhiên cả với những cường quốc liên quan đến chiến tranh thế giới: Mỹ, Pháp và Nhật. Người Mỹ, chí ít là tạm thời, đă nếm mùi thiếu thông tin về những vấn đề như thời tiết, quân Nhật và sự di chuyển của tầu bè. Pháp mất không chỉ thuộc địa mà c̣n cả vị thế trong mắt những thần dân thuộc địa của ḿnh. Sau ngày 9 tháng 3 Nhật tăng thêm trách nhiệm trong quản lư - hay ít ra là trong giám sát chính quyền Đông Dương. Tuy nhiên, thay đổi quan trọng nhất đến sau Chiến dịch MEIGO không làm liên luỵ đến mối quan hệ Pháp - Nhật hay ảnh hưởng nghiêm trọng đến nỗ lực chiến tranh. Với đảo chính, Việt Nam và Nhật bước vào một giai đoạn mới trong quan hệ của họ, một giai đoạn sẽ hoàn toàn thay đổi động lực của t́nh h́nh.
Trong lúc lên kế hoạch đảo chính, giới quân sự Nhật và chính quyền dân sự thường xuyên bất đồng - về thời gian, về quan hệ của họ với Pháp, và quan trọng hơn cả là về chính sách phải được theo đuổi liên quan đến "vương quốc" Đông Dương. Các thành viên Bộ ngoại giao Nhật, đặc biệt là Bộ trưởng Bộ ngoại giao Shigemitsu, muốn tuyên bố vương quốc độc lập trước bất kỳ hành động quân sự nào chống lại Pháp. Những bức điện được Ultra giải mă trong tháng 2 năm 1945 cho thấy rằng Shigemitsu đă "bảo vệ" vấn đề chủ quyền đối với Đông Dương và rằng "ư kiến của Bộ Ngoại giao về vấn đề độc lập ít ra một phần cũng được quy cho nỗi lo sợ chọc giận nước Nga Xô Viết". Một bức điện khác được Ultra giải mă đă cho thấy chính xác hơn thực chất những quan tâm của Nhật. Trong 4 điểm của nó, bức điện đă tŕnh bày một lư lẽ có cơ sở cho phép Đông Dương độc lập càng sớm càng tốt:
Nước Nga đă gọi Nhật là kẻ xâm lược;
Thời gian khai mạc Hội nghị San Francisco là 25 tháng 4 tại đây các nước Đồng Minh được cho là tiếp tục tác động tới một đặc trưng dành cho Liên Hợp Quốc và tŕnh bày chính sách về Đông Dương.
De Gaulle đă chuẩn bị công nhận chính phủ tự trị Đông Dương.
Đảng Cộng sản địa phương đang gia tăng thanh thế tại Đông Dương phản đối Nhật hất cẳng Pháp và chủ trương độc lập dân tộc thực sự.
Tuy nhiên, quân đội Nhật không đồng ư với đánh giá của Bộ Ngoại giao và cho là "hoàn toàn cần thiết phải xử lư lực lượng Đông Dương thuộc Pháp trước khi tiến hành thêm bất kỳ hành động nào". Ngoài ra, đ̣i hỏi của Shigemitsu rằng một trong những mục tiêu của đảo chính cần phải là minzoku kaihoo (giải phóng con người) cũng gặp phải phản đối dữ dội trong các giới chức cao cấp của quân đội và chính phủ. Tại Hội nghị Ban chỉ huy Chiến tranh Tối cao, Shigemitsu nhấn mạnh rằng minzoku kaihoo có vẻ hợp với người Liên Xô hơn là "lư do tự vệ của Nhật" để lấy cớ tiến hành Chiến dịch MEIGO và chắc chắn sẽ làm "hài ḷng" Liên Xô. Các thành viên khác của hội nghị đă bày tỏ sự dè đặt nghiêm trọng v́ lo ngại rằng tư tưởng minzoku kaihoo sẽ có nguy cơ chuyển cuộc đảo chính sang "chiến tranh sắc tộc". Mỉa mai thay, theo Stein Tonnesson, ở đây có "sự tương đồng rơ rệt" giữa thái độ của Bộ trưởng ngoại giao Shigemitsu và Roosevelt. Cả hai ông đều cực lực chỉ trích chế độ thực dân Pháp và lời Roosevelt kết án sự thống trị của Pháp nghe rất giống với của Shigemitsu - mặc dù không ai trong hai ông đánh giá cao việc so sánh. Roosevelt mô tả ách thống trị của Pháp là "ḅn rút" người dân Đông Dương, và ông tuyên bố nhân dân Đông Dương "có quyền được hưởng những ǵ tốt đẹp hơn thế", trong khi đó Shigemitsu gọi chính sách của thực dân Pháp là "cực kỳ phản động". Cả Roosevelt và Shigemitsu đều "cảm thấy rằng thời của chủ nghĩa thực dân châu Âu đă hết và muốn giành được sự mến mộ trong các dân tộc châu Á bằng cách góp phần vào công cuộc giải phóng họ. Cả hai đều đă hết sức nỗ lực thuyết phục các chỉ huy quân đội của đất nước ḿnh rằng nên làm ǵ đó nhằm chấm dứt ách thống trị phản động của Pháp". Roosevelt qua đời trước khi chiến tranh kết thúc và không có ǵ từ kế hoạch uỷ trị của ông đến được với Đông Dương thuộc Pháp. Có lẽ Shigemitsu là người may mắn hơn. Mặc dù ngài Bộ trưởng ngoại giao thua trong cuộc tranh luận và độc lập không đến trước Chiến dịch MEIGO, nhưng Nhật Bản có thể ban cho Đông Dương "độc lập" trước khi kết thúc chiến tranh Thái B́nh Dương. Shigemitsu nhớ rằng "đó là phần cơ bản trong chính sách G.E.A mới (Đại Đông Á) của Nhật", rằng nếu quân đội Nhật, v́ an ninh của chính ḿnh, lật đổ được chính quyền Pháp th́ khát vọng chủng tộc phải được công nhận và một chính phủ độc lập phải được thành lập". Thật vậy, nhà sử học Kiyoko Kurusu Nitz đă thấy rằng "những sĩ quan và chỉ huy cao cấp ở Đông Dương dường như đă thuyết phục chính ḿnh rằng họ đang hành động v́ lợi ích của nhân dân Đông Dương cũng như Nhật Bản. Họ nóng ḷng chờ đợi ngày có thể hoàn toàn hiến thân ḿnh cho đại nghĩa và giúp đỡ người dân Đông Dương". Thật ra, trong tuần cuối cùng trước đảo chính Nhật tiếp tục xác nhận mối quan tâm của họ về hạnh phúc của nhân dân Đông Dương. Ngài Bộ trưởng ngoại giao đă phát hành tuyên cáo của ḿnh cho đại sứ Nhật tại Sài G̣n, nêu rơ:
Hiển nhiên là đế quốc của chúng ta không có mưu đồ lănh thổ hay bất cứ thứ ǵ về Đông Dương, và do đó có thể tuyên bố rằng nó sẽ không khước từ bất kỳ khoản trợ giúp nào cho nhân dân Đông Dương, những người đang cố bảo vệ giang sơn của ḿnh trước những thế lực hung bạo ở Đông Á và rằng nó mong muốn người dân Đông Dương, những người từ bao đời nay bị áp bức biến ước mơ độc lập thành hiện thực và để đạt được mục đích đó nó sẽ báo đáp mọi sự giúp đỡ có thể trên cơ sở Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á.
http://archive.org/stream/causesoriginsles00unit#page/280/mode/2up
http://openlibrary.org/books/OL23285197M/Causes_origins_and_lessons_of_the_Vietnam_War.
OSS và Hồ Chí Minh -
Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật
Tác giả : Dixee R. Bartholomew - Feis
Dịch giả : Lương Lê Giang
Thomas Allison và Đàm Quang Trung
Trong khi tán thành đề nghị giúp đỡ nhân dân Đông Dương, Nhật vẫn duy tŕ quan điểm thực tế - độc lập cho từng khu vực của Đông Dương sẽ được quyết định trên cơ sở "riêng rẽ" và chỉ "tới mức chúng không cản trở các chiến dịch quân sự".
Tại Huế, Yasutai, một cơ quan bí mật nhỏ kiểm soát công tác t́nh báo cho Nhật, chịu trách nhiệm về Chiến dịch MEIGO và "giải cứu" Hoàng đế Bảo Đại cùng vợ ông ta khỏi tay chính quyền Pháp. Vợ chồng ông hoàng bị nhận diện và cầm giữ trên đường về nhà từ một chuyến đi săn và được đưa "trở lại hoàng cung an toàn". Người Nhật "dường như lo ngại rằng Bảo Đại có thể bị đưa đi bởi các nhóm khác và sau đó sẽ lập ra một tổ chức hùng mạnh chống Nhật với ông ta là nhà lănh đạo tượng trưng của quốc gia". Tất nhiên Nhật không hề muốn điều đó xảy ra. Với việc hoàng đế "an toàn" ngoài tầm tay người Pháp, họ cổ vũ ông ta tuyên bố "độc lập cho An Nam", bao gồm cả Bắc và Trung Kỳ, nhưng không có thuộc địa sinh lợi cao ở miền Nam, Nam Kỳ. Việc này làm ngạc nhiên nhiều người Việt chống Nhật. Họ hy vọng chú của Bảo Đại hoàng thân Cường Để, sẽ được mời lên ngai vàng. Những người Việt Nam theo phong trào đ̣i độc lập liên minh với Nhật phản đối việc chọn Bảo Đại và buộc tội ông ta phục vụ cho Pháp. Tuy đ̣i hỏi này có thể đúng, nhưng những người ủng hộ Bảo Đại cũng có thể chống lại bằng cách kết tội Cường Để phục vụ cho những ông chủ Nhật của ḿnh.
Ông hoàng Cường Để, "người dẫn đầu cuộc đua không chính đáng giành ngôi báu", đă di cư sang Nhật từ đầu những năm 1900. Quan hệ của ông ta với Nhật trên thực tế là độc nhất vô nhị. Khi ở Tokyo, ông ta được cho là đă nhận một cậu bé Việt Nam sinh tại Nhật làm con nuôi. Gă con nuôi này sau đó đă "trở thành đại tá Sibata trong quân đội Nhật" và là một trong số những nhà lănh đạo cuộc xâm lược Đông Dương của Nhật. Tại xứ Mặt trời mọc, Cường Để đảm dương cương vị lănh đạo Việt Nam Quang Phục Hội theo lời mời của nhà ái quốc Việt Nam Phan Bội Châu. Quang phục Hội do Phan Bội Châu thành lập năm 1912 với tư cách là một "phong trào dân tộc ủng hộ chế độ quân chủ" và trở thành "tổ chức cơ bản thân Nhật của người Việt Nam" trong Chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1943 kempeitai sử dụng Quang phục Hội để mộ lính cho lực lượng quân đội bù nh́n của họ. Nếu thực sự con nuôi của Cường Để là đại tá trong quân đội Nhật, th́ nhiệm vụ này có thể rất dễ dàng. Vào giữa năm 1944 t́nh báo OSS báo cáo rằng Cường Để có 7 thuộc hạ cùng ông ta ở Nhật và hơn 50 thuộc hạ khác ở Đài Loan.
Bên cạnh tiềm lực, Cường Để cũng có những bất lợi dễ nhận thấy: ông ta đă già và sống xa tổ quốc hầu hết thời trai trẻ. Hy vọng giành được sự ủng hộ của nhân dân và sự ổn định cho tân chính quyền "độc lập" của Bảo Đại, Nhật quyết định không đưa Cường Để từ Tokyo về An Nam trong tháng 3 năm 1945 v́ cảm thấy "nguy cơ bùng nổ t́nh trạng bất ổn ở địa phương".
Trong khi đó tại Việt Nam, những nhân vật cầm quyền khác cũng được "khích lệ" tuyên bố "độc lập" cho vương quốc của họ. Những kẻ được gọi là cố vấn Nhật đă đề nghị "hướng dẫn bí mật" cho quốc vương Lào và Campuchia như họ đă làm với Hoàng đế Bảo Đại. Trong mỗi trường hợp, cố vấn Nhật đến thăm nhà lănh đạo và tặng ông ta "bản tuyên ngôn độc lập" kèm theo tuyên bố sau: "Chúng tôi không hề ép buộc trong vấn đề này (tuyên bố độc lập) nhưng chấp thuận sẽ giảm tối đa đầu rơi máu chảy". Chẳng có ǵ ngạc nhiên, không lâu sau những chuyến viếng thăm của các "cố vấn", tất cả các vùng lănh thổ đều ra tuyên bố. Ngày 13 tháng 3 năm 1945, Quốc vương Norodom Sihanouk tuyên bố Campuchia độc lập. Ba tuần sau, Vua Sisavang Vong tuyên bố Lào thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Sau hai tuyên bố này, ngày 11 tháng 3 đến lượt tuyên bố của Bảo Đại, chấm dứt hơn 70 năm thống trị của thực dân Pháp.
Tại Việt Nam, mặc dù chính quyền Bảo Đại bị phỉ nhổ ở khắp nơi không hơn ǵ một chế độ bù nh́n, nhưng vài tháng tồn tại của nó dưới cái ô của Nhật lại khá quan trọng. Với việc thành lập chính quyền địa phương, cái tên "Việt Nam" đă quay trở lại. Trong tuyên bố độc lập, Bảo Đại đă băi bỏ hiệp ước bảo hộ Pháp - An Nam và tuyên bố rằng Chính phủ Việt Nam "giành lại quyền độc lập của ḿnh". Từ nay về sau, những thuật ngữ của người Pháp như "An Nam" sẽ được thay bằng "Việt Nam" và "người Việt Nam" sẽ thay cho người An Nam", cái tên trong một thời gian dài được xem như một điều xúc phạm. Hành động đơn giản này, một trong số rất ít thành tích của Bảo Đại, báo hiệu cảm giác đă được thức tỉnh của ông ta về tư thế của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, phải thừa nhận là mặc dù Bảo Đại từ chối phụ thuộc vào Pháp, nhưng ông ta lại chấp nhận phụ thuộc vào Nhật. Cách nhận thức này đă làm suy yếu nghiêm trọng uy tín của triều đ́nh. Thông điệp độc lập của Bảo Đại không cái thiện được t́nh h́nh. Ông ta tuyên bố:
Đông Dương sẽ cố phát triển ḿnh để xứng đáng với vị thế là một quốc gia độc Lập. Theo tuyên bố của Khối Đại Đông Á, Đông Dương là một bộ phận của khối này, bởi vậy nó phái tập hợp sức mạnh của ḿnh để giúp cho sự thịnh vượng chung. Hoàn toàn tin tưởng vào sự chân thành của đế quốc Nhật Bản, Chính phủ Đỏng Dương đă quyết định hợp tác với Nhật và nguyện hiên dâng tất cả của cải của quốc gia để phân đấu cho mục đích chung.
Trong nghiên cứu chính quyền Bảo Đại, học giả Bùi Minh Dung đă đi đến kết luận rằng đối với Bảo Đại, "ngay cả một nền độc lập trên danh nghĩa cũng có thể tận dụng được nhiều hơn là không có độc lập". Trong cuốn hồi kư xuất bản năm 1980, Bảo Đại quả quyết rằng ông ta "chấp nhận độc lập" mà không hề tin tưởng vào mỹ từ của GEACPS.
Có lẽ không ai nhận ra thực tế của t́nh h́nh hơn chính người Nhật. Mặc dù họ dự định sử dụng tân chính phủ cho t́nh trạng tài chính của Đế quốc Mặt trời mọc, nhưng cố vấn cấp cao Yokoyama Masayuki và những người khác đă kết luận rằng họ phải phục hồi h́nh ảnh của Bảo Đại để làm cho ông ta có vẻ là một nhà lănh đạo Việt Nam hơn là một con rối của Nhật Bản.
Người Nhật, ở một giới hạn nào đó, đang chuẩn bị cho khả năng xâm lược của Đồng Minh. Ngày 12 tháng 3, các nhà ngoại giao và quan chức quân sự Nhật nhóm họp tại Băng Cốc đă thông báo "Chính sách khẩn cấp cho Burma, Thái Lan và Đông Dương" cho Tokyo bằng điện tín. "Để đối phó với những t́nh huống xấu nhất", bức điện viết, "chúng tôi lên kế hoạch cổ vũ càng nhiều càng tốt những cuộc nổi dậy của các sắc tộc địa phương khác nhau và biến khu vực này thành cơ sở chiến đấu ṿng ngoài ở mức độ tối đa, qua đó làm giảm đi gánh nặng pḥng thủ của chính chúng ta. Đến lúc đó, chúng ta phải tăng cường nỗ lực để kiểm soát thái độ tinh thần của các sắc dân địa phương và khơi dậy t́nh cảm thân Nhật". Mặc dù Bảo Đại bấy giờ là người đứng đầu không bị tranh chấp của triều đ́nh trong một "quốc gia" mới, nhưng Nhật đă khuyến khích ông ta lập ra một tân nội các với Trần Trọng Kim được họ chọn cho vị trí thủ tướng. Dù Trần Trọng Kim được "khắp nơi tôn trọng v́ sự uyên bác của ông ta và cách thức mà ông ta quản lư các trường công ở Hà Nội", nhưng Kim vẫn c̣n quá ít kinh nghiệm chính trường. Nổi tiếng v́ ư thức dân tộc, nếu ở vào thời kỳ khác và một nơi khác có lẽ ông ta trưởng thành được trong vị trí của ḿnh, tuy nhiên, tháng 3 năm 1945 Trần Trọng Kim đă phải đối mặt với t́nh thế cực kỳ khó khăn. Người ta nói, Hoàng đế Bảo Đại đă bảo Kim, "trước đây chúng ta bị phụ thuộc. Bây giờ chúng ta đang có cơ hội, dẫu rằng chưa được độc lập hoàn toàn. Nhưng chúng ta cần chứng tỏ ḿnh có đủ tư cách được hưởng độc lập. Nếu chúng ta thất bại trong việc thành lập nội các th́ người Nhật sẽ nói rằng chúng ta không có năng lực và chắc chắn họ sẽ thiết lập sự cai trị bằng quân sự, điều đó sẽ rất bất lợi cho đất nước chúng ta".
Dù chỉ duy tŕ độc lập trên danh nghĩa nhưng chính phủ của Trần Trọng Kim đă có bước đi quan trọng đầu tiên hướng về một nước Việt Nam độc lập, trong đó có Việt Nam hoá một phần chính quyền thuộc địa Pháp, đàm phán chính thức hợp nhất lănh thổ đất nước bao gồm Nam Kỳ là một bộ phận của Việt Nam, khuyến khích sự tham gia của các đảng phái chính trị, tiến hành cải cách giáo dục và nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ chính thức được sử dụng trong nhà trường và công sở. Trong thời gian tồn tại của chính phủ Trần Trọng Kim, sự tham gia của quần chúng vào tất cả các loại h́nh hội họp, dù là chính trị, văn hoá hay tôn giáo, đều được khuyến khích - đây là một thay đổi lớn lao xét về việc hạn chế hà khắc những cuộc tụ họp dưới thời Pháp thuộc. Mặc dù Nhật đă cho phép những cải cách tương đối có mức độ nhưng dĩ nhiên Trần Trọng Kim hiểu rơ hàm ư trong sự giúp đỡ của Nhật đối với chế độ của ông ta và chấp nhận rằng chính phủ của ông ta sẽ sụp đổ bởi chiến thắng của Đồng Minh. Năm 1949, nh́n lại nhiệm kỳ ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn 5 tháng của Kim, đánh giá của ông ta về Nhật trong Chiến tranh thế giới 2 đă không c̣n tích cực như trước:
Từng là một nước có cùng văn hoá Đông Á nhưng sau đó đă cho phép Âu hoá, Nhật Bản sử dụng những biện pháp hiểm độc để mở rộng sự thống trị của Thiên Hoàng. Trước đó Nhật đă thôn tính lănh thổ Triều Tiên và Măn Châu, và sau này lại muốn xâm lược Trung Quốc và các nước châu Á khác bị người châu Âu chiếm đóng. Mặc dù sử dụng các khẩu hiệu như "liên minh và cùng chủng tộc" và nhân danh "giải phóng các dân tộc bị áp bức", mưu đồ đen tối của Nhật và kéo tất cả lợi ích về cho ḿnh. V́ vậy quan điểm chính trị của họ đầy mâu thuẫn. Lời nói của họ không đi đôi với việc làm. Họ sử dụng những mỹ từ nhân đạo để nhử mọi người vào bẫy làm cho họ dễ bề cai trị hơn. Những ǵ họ làm, trên thực tế chỉ phục vụ lợi ích của chính họ chứ không mảy may v́ công lư.
2. T́nh h́nh nước Mỹ
Như hầu hết người Mỹ, Franklin D. Roosevelt ít quan tâm hoặc biết đến Đông Dương thuộc Pháp trước khi Chiến tranh thế giới 2 bùng nổ. Đầu thế kỷ mới, ngay cả những người Mỹ có học vấn cao, dạn dày kinh nghiệm quốc tế như Roosevelt vẫn dành mối quan tâm hàng đầu cho châu Âu - nơi vẫn được nhiều người xem như trung tâm đích thực của tầng lớp quyền quư - hay khu vực Mỹ Latin kế bên. Mối quan tâm đến những vấn đề quốc tế của Roosevelt sớm được thấm nhuần nhờ cha mẹ ông, "những nhà quư tộc của thung lũng sông Hudsson". Và trong thời gian theo học ở Groton, nơi thầy hiệu trưởng dạy các tṛ rằng người Mỹ có đặc quyền cần phải tham gia làm giảm những tai ương của quốc gia và quốc tế những bài học của thầy hiệu trưởng đă ăn sâu vào thế giới quan của chàng trai Franklin, người được nuôi dưỡng trong một gia đ́nh nổi tiếng v́ ư thức bẩm sinh giữ trọng trách càng cao trách nhiệm càng nặng nề; đặc biệt là người anh họ Theodore Roosevelt của Franklin luôn bảo vệ chính nghĩa trong suốt sự nghiệp của ḿnh.
Cho dù kinh nghiệm của Franklin Roosevelt ở nước ngoài chủ yếu chỉ giới hạn trong tầng lớp tinh hoa Tây Âu, nhưng ông đă tham gia tranh luận tại Groton tập trung vào vấn đề "thôn tính Hawaii, trách nhiệm của Anh và Mỹ về sự toàn vẹn lănh thổ của Trung Quốc, độc lập của Philippines và chiến tranh của người Boer". Roosevelt và những người cùng thời với ông dĩ nhiên hiểu được những tranh căi về chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc phụ thuộc từng lan rộng trong thời thanh niên của ḿnh. Các ư kiến thay đổi từ quan điểm của Mark Twain rằng chủ nghĩa đế quốc sẽ để lại nước Mỹ "tâm hồn tràn đầy sự hèn kém, túi căng phồng những đồng tiền bẩn thỉu và cái miệng đầy đạo đức giả", đến tuyên bố của Thượng nghị sĩ tiểu bang Indiana Albert Beveridge rằng người Mỹ là "dân tộc được lựa chọn" từ trước bởi thượng đế "để lănh đạo trong cuộc hồi sinh thế giới"; và những tranh căi xuyên qua xă hội Mỹ lúc chuyển giao thế kỷ đă đưa Roosevelt đến hai khía cạnh của một vấn đề mà ông sẽ phải giải quyết trong nhiệm kỳ tổng thống của ḿnh.
Sau khi tốt nghiệp trường Groton, Franklin đến Harvard và trường Luật Columbia. Năm 1907, ông thực hành nghề luật tại phố Wall và mơ ước được làm chính trị theo gương người anh họ Theodore. Khát vọng của ông nhanh chóng trở thành hiện thực: ông được bầu vào Thượng viện tiểu bang New York năm 1910, và sau đó được bổ nhiệm làm trợ lư hải quân trong chính quyền của Woodrow Wilson. Là một người khát khao hải quân, Roosevelt ủng hộ chi tiêu nhiều cho hạm đội và thúc giục tân tổng thống khẳng định sức mạnh Mỹ với cả Nhật Bản và Mexico. Sử gia của tổng thống, Robert Dallek viết:
"Tính chiến đấu của Roosevelt là sản phẩm không chỉ của khát vọng giành được danh tiêng và thần tiên trong sự nghiệp chính trí của ông, mà c̣n là cam kết ngay thẳng của ông đối với những ư tưởng mà ông đă học được trong những năm trước đó, và bây giờ chia sẻ với giới ngoại giao, (quân sự và chính trị mà ông cùng cộng tác ở Washington. Giống như họ, ông tin rằng vai tṛ to lớn của nước Mỹ trong các vấn đề quốc tế sẽ phục vụ cả hạnh phúc dân tộc lẫn nhu cầu của những dân tộc chậm tiến trên toàn thế giới".
Đối với hầu hết người dân Việt Nam, cuộc sống dưới triều đại mới Bảo Đại - Trần Trọng Kim chẳng khá lên được bao nhiêu. Đại bộ phận viên chức cấp thấp người Pháp và người Việt đă quay lại làm việc sau Chiến dịch MEIGO. Các cơ sở kinh doanh và công sở nơi thành thị mở cửa trở lại và cuộc sống ở cả thành thị lẫn nông thôn tiếp tục trôi đi. Mặc dù đă được "giải phóng", nhưng nhiều người Việt Nam vẫn không có thiện cảm và e ngại Nhật, những kẻ rốt cuộc lại là thế lực áp bức khác. Trên thực tế, Hoàng Xuân Hăn, Bộ trưởng Giáo dục Quốc dân trong chính phủ Trần Trọng Kim, nhớ đă nói với tướng Mordant vào giữa năm 1944 rằng "nhân dân Việt Nam thà được Pháp ban cho độc lập c̣n hơn là để Nhật làm việc đó".
Tuy nhiên, khi t́nh h́nh xảy ra, Nhật đă cơ bản thay đổi thái độ và nhiều người Việt Nam đă nh́n nhận Pháp trên những phương diện mới. Trong tác phẩm viết về gia đ́nh ḿnh có tựa đề Cây liễu linh thiêng: Bốn thế hệ trong đời một gia đ́nh Việt Nam, Dương Văn Mai Elliott đă gọi lại những trải nghiệm của cha bà vào ngày sau đảo chính. Cha của Elliott, Dương Thiệu Chi, là một viên quan thành đạt làm việc cho chính quyền thực dân Pháp, "chưa bao giờ nghĩ sẽ có lúc một dân tộc châu Á lại có thể đánh đổ người Pháp và thoát khỏi ách thống trị của họ". Dương Thiệu Chi đang dự họp cùng ngài thủ hiến th́ công sứ Pháp "ào vào pḥng" cho biết quân Nhật đang đuổi theo ông ta và cầu xin được giúp đỡ. Elliott viết rằng trước khi cha bà "có thể b́nh tĩnh lại do bị sốc khi phải chứng kiến một người Pháp quá khiếp đảm cầu xin cứu giúp", th́ một viên đại uư Nhật xuất hiện. Người Nhật cúi chào họ rất lịch sự đoạn tiến thẳng về phía người Pháp". Hai quan chức người Việt "không dám can thiệp" khi viên đại uư "dùng đốc kiếm của y đánh tới tấp vào đầu ngài công sứ pháp".
Cho dù nhiều người rơ ràng đă vui mừng trước cảnh người Pháp bị Nhật làm nhục, nhưng một số như Dương Thiệu Chi cảm thấy rằng vị thế của họ trở nên khó khăn hơn. "Với việc không c̣n Pháp làm tấm b́nh phong nữa", Elliott diễn tả, "cha tôi bị đẩy ra mặt đối mặt với họ (người Nhật) ông nhận thấy các viên chức mà ông tiếp xúc đều có giáo dục và nhă nhặn, nhưng cũng rất tàn nhẫn khi cưỡng bức thi hành những yêu sách của họ về lương thực và lao động, đồng thời cũng nhẫn tâm trước những tác động mà những yêu sách đó gây ra cho người Việt Nam".
Lệnh trưng thu liên tục thóc gạo của Nhật tại Việt Nam, kết hợp với những yếu tố khác, đă gây ra nạn đói tồi tệ nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Những đ̣i hỏi quá lớn về gạo của Nhật, sự phá huỷ các tuyến đường sắt và vận tải ven biến do những đợt ném bom của Đồng Minh gây ra, thêm vào đó là nạn lụt dữ dội và những cơn băo có sức tàn phá mạnh đă đẩy nông dân vào cảnh khốn cùng. Bắt đầu từ năm 1941, nạn đói tiếp tục trở nên tồi tệ hơn sau đảo chính. Mặc dù các quan chức Nhật tại Việt Nam đă báo cho Tokyo rằng "tựu chung giá cả không tăng đáng kể và đời sống kinh tế của người dân hầu như không thay đổi", nhưng họ đă không đả động ǵ đến thực tế đáng sợ của t́nh h́nh. Với sự thiếu gạo nghiêm trọng, giá cả đă tăng chóng mặt. Vào thời gian xảy ra đảo chính, giá cả ở Hà Nội đă tăng gấp 5 lần so với 5 năm trước khi Nhật đến Việt Nam. V́ vậy nói rằng "đời sống kinh tế của người dân hầu như không thay đổi" chính xác một cách đau ḷng: người Việt vẫn chết hàng ngày v́ đói và thiếu đinh dưỡng. Vậy mà, như Elliott mô tả, "hàng ngày các quan chức Nhật vẫn đến để đốc thúc các yêu cầu của họ. Chúng muốn nhiều gạo hơn ngay khi người dân đang chết đói".
Khi người Việt khảo sát cuộc sống của họ đầu mùa xuân năm 1945, cuộc sống dường như không tốt hơn dưới thời Pháp thuộc. Người nghèo vẫn hoàn nghèo, nhiều người đă trở nên cơ cực bởi ảnh hưởng của nạn đói vẫn tiếp tục cướp đi mạng sống của những thành viên yếu nhất trong xă hội. ḷng dân vẫn tiếp tục phải è cổ nộp thuế thóc gạo - cái giờ đây đă trở nên quư hơn vàng. Họ tiếp tục phải tuân lệnh một tên chủ ngạo mạn và thường tàn bạo. Chỉ có khuôn mặt chủ nhân là thay đổi. Rất ít người trong giai cấp trung lưu hoặc tinh hoa thấy số phận của ḿnh được cải thiện sau đảo chính. Giống như Dương Thiệu Chi, phần lớn quan lại thi hành những chức năng như dưới thời Pháp thuộc. Có rất ít người Việt Nam thân Nhật như vài thành viên của Quang phục Hội - những kẻ kiếm chác được. Thậm chí c̣n có thể biện luận rằng chính quyền Bảo Đại - Trần Trọng Kim cũng chẳng được lợi lộc ǵ. Cùng với thất bại của Nhật, những người này được gọi là những kẻ cộng tác và ít người có được một sự nghiệp tiếng tăm tại Việt Nam.
Tất nhiên có những quan điểm khác nhau về đóng góp của chính phủ Trần Trọng Kim và tầm quan trọng của "nền độc lập dưới ách cai trị của Nhật. Vũ Ngự Chiêu kết luận rằng sau đảo chính đă "bùng phát cơn sốt độc lập", khi hai tiếng "độc lập" có một hiệu quả nhiệm mầu làm thay đổi thái độ của tất cả mọi người. Với tư cách là một nhân chứng, ông viện dẫn một tờ báo xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội, chủ bút báo này viết: "Chúng ta đang bước vào một giai đoạn lịch sử mới. Việc quân Nhật nổ súng tại đây đêm 9 tháng 3 năm 1945 đă cáo chung cuộc sống nô dịch hoá kéo dài gần một thế kỷ dưới ách thống trị bạo ngược của Pháp. Từ nay trở đi, chúng ta được phép định đoạt cuộc sống đích thực của chính ḿnh".
Nhà sử học David Marr kết luận rằng từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1945 "nhiệt huyết ái quốc và ḷng tận tuỵ tăng cao chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam như thể từng cá nhân và cả dân tộc đă tái sinh". Các báo cáo t́nh báo năm 1945 xác nhận một quan điểm bi quan hơn: "Hầu hết mọi người", một báo cáo viết, vẫn "hoàn toàn thờ ơ với sự giải phóng mới mẻ của họ, (và) đeo đuổi cùng một loại cuộc sống đă từng được ban cho họ dưới ách thống trị của Pháp. Nhưng những người khác (phần lớn là người An Nam) đă vỡ mộng về mức độ độc lập mà Nhật đưa ra". Có lẽ nhà sử học Bùi Minh Dung đă tổng kết t́nh h́nh tốt nhất. "Tại Việt Nam", ông viết, "một chế độ chấp nhận, nhượng bộ hay có được sự tồn tại của nó nhờ sự hiện diện trong nước của quân đội nước ngoài gần như không được đa số người dân xem là độc lập thực sự".
Trong những ngày sau đảo chính, Nhật dàn xếp một cấp độ kiểm soát mới. Người Pháp ở Đông Dương phẫn uất v́ sự đối xử của Nhật và thái độ của người Việt mà lâu nay họ vẫn coi không hơn ǵ đầy tớ. Kháng chiến Pháp, đặc biệt là những kẻ đă tái tập hợp tại Trung Quốc, t́m cách trở lại Việt Nam dưới cờ Đồng Minh và sức mạnh của vũ khí. Người Việt Nam t́m cách thoát khỏi t́nh trạng cùng khổ, và ở miền Bắc, một vị cứu tinh hợp lư, Việt Minh, dường như đang giành được động lực thúc đẩy tiến tŕnh phát triển. Cuối cùng, người Mỹ tiếp tục tiến hành chiến tranh trên Thái B́nh Dương. Nhằm mục đích đó, OSS tại mặt trận Trung Quốc đă t́m một biện pháp mới, hiệu quả để thu thập tin t́nh báo và hỗ trợ nỗ lực chiến tranh. Harry Bernard và điệp viên OSS Charles Fenn cố t́m những ǵ c̣n tồn tại của mạng lưới t́nh báo GBT và sử dụng mọi biện pháp cần thiết để xây dựng lại mạng lưới này.
Kết quả của cuộc đảo chính do Nhật tiến hành đă buộc cả ba lực lượng cuối cùng - Việt Minh, OSS và GBT sát cánh bên nhau để đánh bại kẻ thù chung và tống cổ chúng ra khỏi Đông Dương. Tuy nhiên, câu hỏi liệu họ có được phép làm thế hay không vẫn c̣n để ngỏ.
Chú thích:
(1) Đôi khi viết là ULTRA: Tin tức t́nh báo cấp độ cao từ các nguồn được giải mă.
6. Sau đảo chính: Tháng 3 và 4 năm 1945
Sau cuộc đảo chính của Nhật, OSS và GBT phải vật lộn t́m kiếm những cách thức mới để thu thập tin tức t́nh báo tại Đông Dương. Dù OSS và GBT có mối quan hệ căng thẳng ngay từ thời điểm biết nhau nhưng sự tham gia của Charles Fenn vào GBT đă tạo ra một kết nối quan trọng giữa hai tổ chức này, nếu không phải là những kết quả mà một trong hai bên lường trước được.
OSS vẫn nản ḷng v́ khó tiếp cận được với người của GBT và việc nó không thể kiểm soát được nhóm này. Đặc biệt, Lawrence Gordon và Harry Bernard tiếp tục bị chọc tức bởi những nỗ lực không ngừng của OSS nhằm kiểm soát họ và bằng những khoản trợ cấp ít ỏi mà tổ chức của Bill Donovan "phân phối". Dù OSS và GBT đều khó chịu nhưng cả hai bên cảm thấy sự cấp bách rơ rệt của công tác t́m kiếm những nguồn thông tin mới khi mà tác động của Chiến dịch MEIGO trở nên rơ ràng hơn. Trong những ngày sau đảo chính, cả hai tổ chức này nhanh chóng rà soát lại những lựa chọn của họ. Trái ngược với vẻ bề ngoài, mạng lưới của GBT không hoàn toàn sụp đổ, mặc dù Bernard và Fenn phải bắt đầu thiết lập lại nó với rất ít thông tin về t́nh h́nh của các điệp viên của họ tại Việt Nam. C̣n với OSS, các điệp viên người Pháp dường như vân là lựa chọn khả thi. Đội Gorrilla đă nhảy dù vào vị trí quân Pháp rút lui, và Trung uư Ettinger đă có quan hệ với lực lượng của Sabattier. Nhưng với thực tế người Pháp rơ ràng đă bị đẩy xa hơn khỏi cuộc chơi, OSS buộc phải t́m những nguồn thông tin khác từ bên trong Việt Nam.
Trong tiểu sử Hồ Chí Minh và trong chính hồi kư của ḿnh, Charles Fenn đă nhớ lại "những lời yêu cầu" khẩn thiết của cả Wedemeyer và Hải quân Mỹ vào ngày sau đảo chính.
Cả Wedemeyer lẫn Hải quân Mỹ đều lặp lại rằng họ cần các báo cáo thời tiết và thông tin về các mục tiêu, lực lượng pḥng không và hoạt động chuyển quân của Nhật. Fenn sau đó được chỉ thị phải khởi động mạng lưới t́nh báo mới, sử dụng "người bản xứ nếu cần thiết!". Fenn đă suy tính về lựa chọn này, nhưng với ông điều khó xử không phải là liệu có nên sử dụng "những người bản xứ" hay không, mà là sử dụng những người bản xứ nào: "Trời mới biết có thể tin ai đó", ông tuyên bố.
Chắc chắn GBT không phải nhóm đầu tiên và cũng không phải nhóm cuối cùng quả quyết rằng không thể tin được người Đông Dương. Nhưng Fenn đă đi tới kết luận này dựa trên kinh nghiệm tập hợp thông tin t́nh báo trước đó của ḿnh. Tháng 11 năm 1944, Fenn công bổ một tài liệu cho OSS có tên "Đông Dương thuộc Pháp - Tin tức t́nh báo về quyền lợi đặc biệt đối với MO". Trong báo cáo này Fenn tập trung chủ yếu vào người Nhật, người Pháp và t́nh h́nh tổng thể tại khu vực, nhưng ông cũng b́nh luận về người Việt Nam nữa. Theo ông, vào thời điểm đó, "người bản xứ" không "đặc biệt chống Nhật". Nhưng họ cũng nhận ra rằng người Nhật phải "chịu trách nhiệm về nạn khan hiếm hàng hoá, thuế má cao và các cuộc tấn công của quân Đồng Minh, bất chấp những luận điệu khôn ngoan của Nhật nhằm gắp lửa vào tay Pháp". Hơn nữa, Fenn báo cáo rằng "không thể bỏ qua nhận xét của người Pháp và người An Nam rằng về mọi mặt Nhật Bản đều thua kém Mỹ, cả về nguyên liệu và sản xuất thành phẩm. Điều này làm dấy lên thái độ "Làm sao người Nhật có thể chiến thắng với năng lực kém hơn như vậy?" Mặc dù điều này có thể lư giải cho tỷ lệ thành công thấp của người Nhật trong nỗ lực lôi kéo người Đông Dương vào sự nghiệp của họ nhưng Fenn đă đi đến một kết luận khác. Ông phát biểu một cách đơn giản rằng người Nhật thất bại v́ "Người An Nam không muốn làm ǵ liên quan đến chiến tranh". Dựa trên giả định này, không khó để hiểu được sự dè đặt của Fenn trong sử dụng các điệp viên người Đông Dương.
Không có dấu hiệu nào cho thấy quan điểm của Fenn thay đổi trong hai tháng tiếp đó. Tuy nhiên, theo đề xướng của OSS tại Côn Minh, Fenn đă chất vấn "Jo-Jo", một điệp viên người Hoa của GBT, về khả năng sử dụng người Việt Nam "thâm nhập vào Đông Dương cùng điện đài". Không hề ngạc nhiên, Jo-Jo đáp rằng có lẽ họ nên t́m một số người Hoa làm việc này. "Thậm chí nếu có người An Nam sử dụng được điện đài th́ chúng ta cũng không nên dùng họ", Jo-Jo nói. "Trước đây chúng ta đă thử làm việc này v́ lợi ích của chính ḿnh, thậm chí c̣n trang bị vũ khí cho họ. Nhưng khi chúng ta một lần nữa đồng ư công nhận Pháp là một cường quốc với nhà lănh đạo là de Gaulle, th́ chúng ta cũng phải chấp nhận không trợ giúp người An Nam".
Khi Fenn cân nhắc vấn đề t́m kiếm những điệp viên thích hợp trong những ngày sau cuộc đảo chính của Nhật, trong óc ông chợt loé lên câu chuyện mà Frank Tan đă kể cho ông vài tháng trước đó. Theo lời Tan, một phi công Mỹ - trung uư Rudolph Shaw, đă được "một số người An Nam" giải cứu khi máy bay của anh này rơi xuống Bắc Kỳ. Rơ ràng, Shaw đă được một người tên Hồ và cộng sự trẻ hơn của ông hộ tống tới Côn Minh. Fenn đă đặc biệt ấn tượng khi được kể lại rằng ông Hồ từ chối tiền thưởng và mong muốn của ông được gặp Chennault "chỉ v́ ḷng tôn kính". Nhưng Fenn không có may mắn nghe tiếp câu chuyện về ông Hồ bí ẩn đó. Rồi ông được biết Shaw sau đó đă hồi hương trong khi ông Hồ và cộng sự cũng ra đi. Dù hơi thất vọng, nhưng khi nghe câu chuyện này vào tháng Giêng năm 1945, Fenn cũng không cần quá bận tâm tới việc tiếp cận người Việt Nam: Vào tháng Giêng cuộc đảo chính của Nhật chưa xảy ra và mạng lưới của GBT vẫn c̣n mạnh. Tuy nhiên, sau đảo chính, câu chuyện về người đàn ông tên Hồ luôn ám ảnh tâm trí Fenn.
Trong khi đó, v́ mất liên lạc với người Pháp ở Đông Dương, OSS tại Côn Minh cũng bắt đầu t́m kiếm những con đường mới để tiếp cận thông tin trong khu vực này. Dù bị hạn chế hơn GBT bởi các quy định quan liêu cấm không cho dính líu tới Đông Dương, nhưng OSS đă từng làm việc với các điệp viên Việt Nam một cách hạn chế sáu tháng trước cuộc đảo chính. Chịu trách nhiệm trước tiên về những mối liên hệ này là thiếu tá Austin Glass. Như sẽ được nhắc lại, mối quan hệ của Glass với Fenn và GBT có phần căng thẳng, v́ cho dù Glass không ngớt lời ca ngợi GBT, nhưng Fenn và Gordon vẫn tin rằng ông đang ngầm phá hoại mạng lưới của họ. Mỉa mai thay, mặc dù Glass không có vẻ như đang cố gắng làm điều đó nhưng chính sự cộng tác của ông với các điệp viên người Việt hơn là bất cứ nỗ lực nào nhằm phá các điệp viên người Pháp của GBT, đă mang lại cho OSS một lợi thế t́nh báo hơn hẳn GBT. Ba mươi năm lăn lộn tại Đông Dương và thông thạo cả tiếng Pháp và Việt của Glass đă khiến ông trở thành đại diện lư tưởng để t́m kiểm các điệp viên người Việt. Trên thực tế trong nhật kư công tác tại OSS của ông đề ngày mùng 2 tháng 9 năm 1943, Glass được giao nhiệm vụ "t́m kiếm các điệp viên chiến trường để tung vào Đông Dương và duy tŕ mối quan hệ mật thiết với các tổ chức ngầm của Pháp và của người bản xứ".
Hè - thu năm 1944, Glass đă t́m được 35 điệp viên người Việt. Một điệp viên có tên là "George", một thành viên xuất chúng của cộng đồng người Việt tại Côn Minh, cùng hai người khác được đưa tới Tsingtsi, cách Cao Bằng không xa. George được coi là có giá trị đặc biệt bởi mạng lưới bạn hữu rộng khắp của anh tại Bắc Kỳ. Glass quả quyết rằng George đă tổ chức một cuộc họp tại Đông Dương với một số "người bạn" và hướng dẫn họ nhiệm vụ và loại thông tin phải thu thập.
Glass cũng lưu ư những khó khăn mà các điệp viên tham gia vào mạng lưới này, như George, có thể gặp phải. Chẳng hạn, các điệp viên "buộc phải di chuyển bằng đường bộ, từ cơ sở bí mật này tới cơ sở bí mật khác".
Glass thậm chí c̣n ấn tượng hơn với "Jimmy", được mô tả như một người Bắc Kỳ "không biết sợ" xuất thân từ một gia đ́nh giàu có. Được đào tạo tại Pháp, Jimmy đă đi khắp châu Á và, theo lời Glass, là "một người kháng Nhật kịch liệt và theo chủ nghĩa dân tộc An Nam mạnh mẽ". Hiển nhiên Jimmy khá nổi tiếng ở Bắc Kỳ và có thể liều lĩnh đi lại trong vùng. Glass công nhận rằng Jimmy đă "hoàn thành một số nhiệm vụ nguy hiểm", trong đó có việc anh đưa hai nữ nhân viên điện đài từ Nam Ninh tới Long Châu và qua biên giới vào Bắc Kỳ để vận hành "trạm điện đài" TR - I của chúng ta (OSS) tại vùng ven Hà Nội". Hai phụ nữ này được sĩ quan huấn luyện OSS mô tả là "cực kỳ thành thạo - nhanh nhẹn và chính xác". Khi ở Hà Nội, Jimmy có thể "thu thập các mẫu giấy tờ cá nhân, sách báo tiếng Pháp và tiếng Việt". Với sự giúp đỡ của Jimmy, 12 điệp viên mới người Việt đă được đưa tới Đông Dương trong tháng 7 năm 1944. Một nhóm 12 điệp viên nữa được đưa vào Bắc Việt Nam trong tháng 10. Cũng qua Jimmy, liên lạc với một điệp viên mới có mật danh là "Jean" được thiết lập. Người này theo Glass mô tả, có "mối quan hệ mật thiết với các du kích bản xứ tại hai tỉnh miền núi phía bắc Bắc Kỳ là Hà Giang và Yên Bái".
Tháng 10 năm 1944 Glass viết cho cấp trên của ḿnh, đại tá Hall, để hỏi thêm thông tin về việc huấn luyện thêm hai nhân viên điện đài người Việt, và lưu ư đại tá rằng hai người này đă chờ đợi từ tháng 8 để bắt tay vào "sự nghiệp của chúng ta". Ông báo cáo, các điệp viên đang làm việc cho ông ở ngoại ô Kweihsien phía Nam Trung Quốc đă bắt đầu gửi tin về từ ngày 13 tháng 10, và bổ sung, "những kết quả ban đầu có vẻ rất thú vị". Từ lá thư ngắn gọn của Glass, không thể biết rơ ông đă biết chính xác những ǵ về định hướng chính trị của các điệp viên của ḿnh. Trong thư gửi Hall, Glass chỉ viết rằng dù ông không biết tên hai người đang chờ huấn luyện nhưng có thể liên lạc với họ thông qua "Ông Phạm Việt Tú hay Phạm Minh Sinh". Mặc dù Glass hầu như không hoàn toàn coi trọng mối quan hệ với Phạm Việt Tú (bí danh Phạm Tuân) vào thời điểm đó, nhưng Tú không phải là một điệp viên b́nh thường. Ông là phái viên của Việt Minh cử tới phái đoàn Mỹ và Pháp tại Côn Minh.
Cho dù những mối liên hệ đầu tiên giữa Việt Minh và người Mỹ chỉ bắt đầu từ đầu tháng 12 năm 1942, khi Việt Minh tới Đại sứ quán Mỹ nhờ giúp giải thoát Hồ Chí Minh ra khỏi nhà tù Trung Quốc, nhưng kết quả chẳng đáng là bao.
Tuy nhiên, điều này không làm tiêu tan những hy vọng của Việt Minh. Với niềm hy vọng t́m được một luật sư đồng cảm tại Mỹ, Phạm Việt Tú rơ ràng đă theo dơi sát sao các phương tiện truyền thông và tiến tŕnh chính trị của Mỹ. Ngày 29 tháng 8 năm 1944, ông viết thư cho Thương nghị sĩ bang Kansas Arthur Capper cảm ơn ông ta v́ "đă quan tâm" tới Đông Dương. Trong thư Phạm Việt Tú nhắc đến một "thông điệp truyền cảm" của Capper mới được xuất bản, "kêu gọi thế giới chú ư tới cuộc kháng chiến dũng cảm của nhân dân Đông Dương chống lại quân xâm lược Nhật". Dù chỉ là một nhóm ít tiếng tăm trong chiến tranh, nhưng Việt Minh quan tâm đặc biệt đến các sự kiện thế giới bởi chúng có thể liên quan tới Đông Dương ở điểm nào đó trong tương lai gần.
Phạm Việt Tú đă thể hiện hiểu biết của ḿnh đối với các sự kiện thế giới khi viết cho Thượng nghị sĩ: "V́ ngài đă quan tâm đến đất nước chúng tôi, nên chúng tôi cảm thấy rằng ngài muốn biết thông tin về các sự kiện ở Đông Dương và đặc biệt là những phong trào trong một đất nước đang đấu tranh v́ các nguyên tắc tự do mà Liên Hiệp Quốc đă theo đuổi trong cuộc chiến chống lại chính thể bạo ngược". Dù Tú đă hứa rằng Việt Minh sẽ "tăng gấp đôi những nỗ lực (của họ)" chống lại quân Nhật bởi v́ họ "được khích lệ mạnh mẽ bởi ư nghĩ rằng những nỗ lực mà trong đó tổ chức (của họ) tham gia đă được ghi nhận trong ấn phẩm của Capperl", nhưng Việt Minh không thấy kết quả xác thực từ trao đổi thư từ của ông.
Sự kiện tháng 10 năm 1944 không khác những ǵ đă xảy ra năm 1942: Phạm Việt Tú có rất ít cơ may giao thiệp với cả người Mỹ và người Pháp Tự do tại Côn Minh - những kẻ thấy ông và tổ chức của ông khá tầm thường. Tuy vậy, ông đă giới thiệu cho Glass những điệp viên có thể cho rằng cũng là người của Việt Minh. Glass đă đích thân gặp một vài người trong số điệp viên này, cuộc gặp đă dẫn tới một trong những tuyên bố đáng quan tâm nhất của ông: "Đêm nay (14-10-1944)", ông viết, "tôi đang gặp thành viên nổi tiếng nhất của dân tộc này tại Trung Quốc". Các nhà sử học hiện đại có thể nghĩ ngay rằng đó là Hồ Chí Minh. Tuy nhiên cuối tháng 9 năm 1944 Hồ Chí Minh đă quay trở lại Việt Bắc, khu giải phóng của Việt Minh ở phía bắc Bắc kỳ. Dù Glass có vẻ như đă gặp người mà ông gọi là "người An Nam thân thiện" th́ người ta vẫn chưa rơ cuộc gặp đó diễn ra ở đâu, khi nào và chính xác ai là người mà Glass đă gặp vào đêm 14-10-1944 đó.
Việc lập kế hoạch và công tác của Glass với người Việt Nam hầu như thuận lợi hơn bởi một giác thư của OSS viết vào tháng 10 năm 1943, chỉ một tháng sau bản nhật kư công tác của chính ông, chỉ thị cho ông "t́m kiếm" các điệp viên người Đông Dương cũng như người Pháp. Chủ đề đầu tiên của "Đề cương một kế hoạch cho Đông Dương" là tận dụng triệt để người Việt. Mục II của tài liệu này có tiêu đề "Chúng ta phải hoạt động bằng ǵ tại Đông Dương", nêu rơ:
May mắn thay, ở đó tồn tại một thứ vũ khí sẵn có dưới dạng Phong trào đ̣i độc lập của người An Nam, một trong những tổ chức mạnh mẽ và dữ dội nhất trên khắp châu Á. Phong trào này được biết đến trong quá khứ với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa đẫm máu, sử dụng khủng bố như một vũ khí chính trị và một chương tŕnh phá hoại và kháng cự thụ động được thực thi một cách chu đáo và được tổ chức tốt… Người An Nam là những chiến binh dũng cảm, và năm 1918 hơn 50.000 lính An Nam ở mặt trận Tây Âu đă chứng tỏ những phẩm chất của ḿnh như mô tả của một nhà quan sát là "dũng cảm, thông minh, bền bỉ, kỷ luật, nhẫn nại, tham vọng và một quyết tâm giành chiến thắng".
Với những đặc trưng này, mục III của giác thư có tên "Người An Nam có thể làm ǵ cho chúng ta" bàn về giá trị riêng biệt của người Đông Dương đối với sự nghiệp của Đồng Minh. Dù tác giả OSS của giác thư đă thêm thắt một số khía cạnh nhất định vào tài liệu này, nhưng cũng dễ hiểu tại sao Glass, và sau đó là những người khác, cảm thấy sử dụng người Việt Nam hiển nhiên là một lợi thế so với người Mỹ. Mục III biện luận:
Họ có thể làm tê liệt hàng loạt đội quân Nhật bằng cách tiến hành chiến tranh du kích có hệ thống trong vùng rừng rậm hiểm trở tại Nam Kỳ và vô số đồn điền cao su trên khắp Đông Dương. Mảnh đất màu mỡ nhất để tuyển mộ du kích là đồng bằng châu thổ sông Hồng, nơi mà thiên tai cùng với nạn nhân măn đă khiến người dân trở nên cay đắng và bất an… Cuộc khởi nghĩa (Yên Bái) năm 1930, cũng như các cuộc khởi nghĩa khác, có đặc điểm là đánh bom và chiến tranh du kích. Những người yêu nước An Nam không lạ ǵ các chiến thuật phá vỡ đường dây liên lạc, phục kích các biệt đội nhỏ và mưu sát những lănh đạo quan trọng.
Những mục c̣n lại của tài liệu đều mang tính chất cung cấp thông tin tương tự nhau; chúng bàn luận nhiều biện pháp khiến người Việt Nam quay lại chống Nhật và các loại tuyên truyền cả công khai lẫn phá hoại có thể sử dụng tại Đông Dương. Trong số những quan tâm đặc biệt là tuyên bố "Cách thức tuyên truyền hiệu quả nhất mà chúng ta có thể sử dụng là thuyết phục người An Nam rằng cuộc chiến tranh này, nếu Đồng Minh thắng, sẽ là phương tiện mà qua đó họ có thể giành được độc lập". Nhưng tác giả đă che giấu quan điểm chính trị và ngoại giao của ḿnh với lời cảnh báo: "Bất chấp quan điểm của chúng ta về vấn đề liệu có nên tồn tại một nước An Nam độc lập và tự do hay không, th́ đây vẫn là phương pháp nhanh nhất để khiến sức mạnh của Phong trào giành độc lập của người An Nam hướng tới mục đích của chúng ta". Kế hoạch này khuyến khích người Việt Nam giết càng nhiều lính Nhật càng tốt sao cho "không phải giết chúng ở nơi khác", nhằm đẩy nhanh chiến thắng của Đồng Minh và "tự do của người An Nam", mà điều này được lần lượt thực hiện dựa trên "số lượng quân Nhật họ có thể ám sát". Dù đă nêu rơ những lợi ích tiềm tàng của việc tận dụng người Đông Dương trong nỗ lực chiến tranh, nhưng tác giả cũng lưu ư rằng họ cần phải được huấn luyện "về nghệ thuật phá hoại".
Thêm nữa, "Kế hoạch cho Đông Dương" đưa ra ba gợi ư về việc làm thế nào có thể liên lạc với người Việt để bắt đầu trọng trách nhân danh Đồng Minh này. OSS có thể gửi thông tin tuyên truyền qua các đài phát thanh, sử dụng dịch vụ t́nh báo đối ngoại của Quốc Dân Đảng hay thuê những người cộng sản Trung Quốc. OSS đă tạo nhiều mối quan hệ, thường là gây tranh căi, với những người cộng sản Trung Quốc trong cuộc chiến chung chống Nhật. Sẽ không khó khăn cho họ để một lần nữa tiếp cận Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) như một trung gian nhằm hướng tới những người cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên, trong số những quan tâm đặc biệt lâu dài lại là những thông tin được cung cấp cho OSS về những người cộng sản "An Nam". Những người cộng sản Trung Quốc có nhiều mối quan hệ hữu hảo với người An Nam. Năm 1931, khi giai đoạn cao trào, Đảng cộng sản (Việt Nam) có 1500 đảng viên trên 100.000 nông dân dù các con số không chính thức hiện nay có thể gấp năm lần như thế. Lănh đạo của phong trào cộng sản An Nam này được huấn luyện tại Quảng Châu dưóỉ quyền điệp viên của Quốc tế Cộng sản Mikhail Borodin, ngoài ra ông c̣n được học hành đến nơi đến chốn tại Moskva và nhiều nước châu Âu. Ông được tất cả người dân An Nam biết tới với cái tên Nguyễn Ái Quốc. Chu Ân Lai, "đại sứ" đảng cộng sản tại Trùng Khánh chính là đầu mối liên lạc tốt nhất trong mối quan hệ đó.
Mặc dù OSS không biết ǵ trong một thời gian khá dài nhưng Nguyễn Ái Quốc, người mà họ cho rằng đang theo đuổi sự nghiệp chống Nhật năm 1943, lại chính là người có một bí danh mới mà Fenn bắt đầu xem xét liên hệ một cách nghiêm túc cả trên cương vị điệp viên vào tháng 3 năm 1945. Nếu Fenn nhận ra điều này vào thời điểm đó th́ mối quan hệ của ông với Hồ Chí Minh có thể đă khác.
Lần đầu tiên Fenn đề cập tới Hồ Chí Minh là tại một trong các báo cáo của ông vào tháng 10 năm 1944. Cùng những thứ khác, Fenn đă cung cấp hồ sơ cuộc đối thoại với tướng Chen, cố vấn quân sự cho George Wou tại Vùng Chiến thuật 4 Trung Quốc, trong đó ông đă khám phá ra ư tưởng làm việc với "những người An Nam". Chen đă từng bác bỏ ư kiến sử dụng người Việt bởi v́, "không một người An Nam nào giúp chúng ta chống Nhật mà không hy vọng chúng ta sẽ giúp họ chống lại Pháp, kể cả bây giờ hoặc sau này". Dù có vẻ kiên quyết phản đối, nhưng Chen cũng nói rơ tuyên bố trước đây của ḿnh: "Một số người cộng sản trẻ tuổi có thể giúp chúng ta việc này. Hành động của họ trong FIC, như các điệp viên người Hoa đă báo cáo, cho thấy một hiệu quả nhất định và chủ yếu chống lại Nhật hơn là chống Pháp". Nhưng Chen lại một lần nữa nhấn mạnh ư kiến của ông ta: "Những người cộng sản này có thể có liên hệ với Diên An (căn cứ của những người cộng sản Trung Quốc) và do đó một vấn đề chính trị sẽ nảy sinh giữa Mỹ và Trung Quốc nếu chúng ta giúp họ".
"Có một", Fenn nói thêm trong báo cáo của ông về cuộc đối thoại đó, "người An Nam tên là Hu Tze-ming (nguyên văn) đứng đầu nhóm Chống xâm lược Quốc tế (Chống phát xít là người mà chúng ta có thể sử dụng được". Không rơ rằng liệu tướng Chen hoặc Charles Fenn có liên tưởng rơ ràng nhóm "những người cộng sản trẻ tuổi" với nhóm Chống xâm lược Quốc tế và Hồ Chí Minh hay không. Trước tháng 11 năm 1944, Fenn đă h́nh thành quan điểm thăm ḍ của ḿnh về những người cộng sản Việt Nam. Ông báo cho OSS rằng dù "Nhóm cộng sản dường như là xương sống của Đảng Cách mạng nhưng họ thiếu những vị lănh đạo giỏi và không có đường lối về vai tṛ mà họ nắm giữ. H́nh như họ nghĩ họ nên để người Nga dẫn dắt và rằng người Nga không muốn họ chống Nhật. Họ có liên lạc nhưng không quá phụ thuộc vào tham vấn của những người cộng sản Trung Quốc". Việc Fenn đánh giá tương đối thấp những người cộng sản và khả năng chống Nhật của họ có thể đă ngăn cản ông t́m kiếm người đă hộ tống viên phi công Mỹ về lănh thổ của Đồng Minh. Quả thực, chính sự trở về an toàn của trung uư Shaw dường như là cầu nối cho cuộc gặp gỡ sau này của Hồ Chí Minh với những thành viên chủ chốt của cộng đồng Mỹ tại Côn Minh. Fenn sau đó đă gọi cuộc giải cứu Shaw là "chiếc ch́a khoá thần kỳ mở toang những cánh cửa kiên cố".
Cuộc giải cứu cực kỳ quan trọng đó đă có kết quả khi, trong một chuyến trinh sát, Shaw - một phi công Mỹ thuộc phi đội 51 - buộc phải đáp xuống vùng ven Cao Bằng vào ngày 2 tháng 11 năm 1944. Trong "Từ Côn Minh về Pác Bó", Vũ Anh (bí danh Trịnh Đông Hải), một nhà tổ chức của ICP tại Côn Minh và Việt Bắc, đă nhớ lại:
Một hôm, tại Cao Bằng, một tổ chức cứu quốc (đơn vị) đă cứu sống một viên phi công Mỹ đáp xuống lănh thổ của chúng ta do trục trặc động cơ. Anh là trung uư Shaw. Pháp và Nhật đang truy t́m anh, nhưng các nhà cách mạng đă bảo vệ anh, đưa anh tới pḥng làm việc của ông Phạm Văn Đồng tại vùng Nước Hai. Phạm Văn Đồng đưa anh tới gặp Bác. Shaw được đón tiếp chu đáo và rất vui khi gặp Bác. Anh nói rằng anh đă nghe những lời tuyên truyền bị bóp méo liên quan đến Việt Minh, và chỉ đến lúc đó anh mới nhận ra sự thật.
Ghi chép của Vũ Anh được viết năm 1962 có thể đă hơi cường điệu. Dù Shaw có thể rất vui khi được gặp Hồ Chí Minh nhưng v́ người Việt nói tiếng Anh ở vùng rừng núi Bắc Việt Nam rất hiếm nên lúc đó anh không thấy có ǵ đặc biệt quan trọng trong cái tên hay người đàn ông đó. Shaw lại càng không thể biết được bất cứ điều ǵ về tổ chức Việt Minh. Có lẽ anh đă được dặn ḍ, như hầu hết các phi công, là nên đề pḥng những người Việt Nam v́ họ có thể mang anh đến nộp cho chính quyền Pháp hoặc Nhật để lấy tiền thưởng mà Nhật rêu rao. V́ vậy, người ta có thể nói rằng việc được các cán bộ Việt Minh đối xử tử tế đă khiến Shaw "nhận ra sự thật" về Việt Nam nói chung. Sau này anh mới khám phá ra nhiều điều khác về Việt Minh.
Khi c̣n ở Côn Minh Shaw đă công bố một số thông tin, trong đó có một quyển sách nhỏ dạng nhật kư có tựa đề "Một Đông Dương thực sự dưới con mắt trung uư Shaw" và một lá thư không đề ngày gửi một đại tá vô danh. Dù người ta cho rằng quyển sách đó là do Shaw viết nhưng cấp trên của anh lập tức đặt dấu hỏi về tác giả thực sự của nó. Lời chú thích kèm theo từ cơ quan của Chennault cho biết thêm rằng Shaw không thể nào viết quyển sách đó và thậm chí "những suy nghĩ, ư tưởng và sự cải biên cũng không phải của anh ta".
"Trên thực tế", lời chú thích tiếp tục, "khó mà tin được chúng là của anh ta. Nhưng dù ǵ họ cũng làm được việc, và điều mà cuốn sách muốn bộc lộ nhất là… chúng ta (nên) liên lạc với những người này và làm những ǵ có thể". Các sĩ quan của Không đoàn 14 kết luận rằng người của Việt Minh đă viết hộ và để Shaw đứng tên quyển sách này - mà có lẽ tác giả chính là Hồ Chí Minh - nhưng bất luận tác giả là ai th́ nhật kư của Shaw đă đem lại nhiều thông tin bổ ích. Nó cung cấp những chi tiết gây ấn tượng mạnh về việc Shaw hạ cánh và lưu lại với Việt Minh và về sự kiểm soát t́nh h́nh khôn khéo của họ, đồng thời cũng nêu rơ lịch sử cơ bản chính xác về Đông Dương thuộc Pháp.
Với thể văn xuôi rơ ràng và bản viết tay không một tỳ vết, cuốn nhật kư đă đan quyện những suy ngẫm với thực tế, mà một vài trong số đó có thể đúng là của Shaw, với những thông tin chắc chắn không phải của anh. Chẳng hạn, những đoạn đầu tiên trong nhật kư của Shaw giải thích việc hạ cánh của anh nhưng cũng thêm vào những thông tin quan trọng:
Ngay từ đầu cuộc chiến chống phát xít Nhật, tôi có lẽ là phi công đầu tiên của Đồng Minh tới Đông Dương để sống ở đó cả một tháng trời, để biết đôi chút về dân nước này và sau đó trở về căn cứ an toàn và lành lặn… Trước khi nhảy dù, tôi đă chỉnh máy bay của tôi sao cho nó sẽ hoàn toàn vô dụng nếu rơi vào tay kẻ thù. Ngay khi tôi chạm đất, một người Đông Dương trẻ tuổi bước tới mỉm cười, thân mật bắt cả hai tay tôi và ra hiệu tôi đi theo anh ta. Tôi đưa cho anh ta 600 đô la Đông Dương. Anh ta nhất quyết không nhận tiền và trông có vẻ bị xúc phạm. Tôi rất ngac nhiên với thái độ của anh ta và nghĩ có lẽ anh ta cho rằng ngần ấy tiền chưa đủ. Đó là một sai lầm lớn của tôi. Lúc đầu tôi nghĩ họ là những kẻ tham lam, nhưng trên thực tế hầu hết những người yêu nước Đông Dương lại rất đức độ. Họ giúp chúng tôi không phải v́ tiền của chúng tôi, mà v́ t́nh yêu thương và t́nh bằng hữu. Họ biết rằng chúng tôi đang chiến đấu không chỉ v́ nước Mỹ mà c̣n v́ tự do và dân chủ của thế giới, và cũng v́ đất nước của họ nữa. V́ lư do đó mà họ coi bổn phận yêu nước của ḿnh là giúp đỡ chúng tôi - những đồng minh của họ.
Cán bộ Việt Minh đầu tiên mà Shaw gặp không biết tiếng Anh, tuy nhiên bằng cử chỉ người ấy đă dẫn Shaw đến nơi ẩn nấp gần đấy. Tại đó Shaw gặp một nhóm thanh niên, và một cung cách đối xử với người Mỹ chân thành nhưng có khuynh hướng chính trị xuất hiện. Dù cả Shaw lẫn những thanh niên này đều không dùng ngôn ngữ của nhau nhưng họ bắt đầu giao tiếp. Shaw mô tả quang cảnh: Các cán bộ nói với anh, "Việt Minh, Hoa Kỳ! Việt Minh, Hoa Kỳ!". Và Shaw, làm theo họ, đáp lại "Việt Minh! Việt Minh?". Nhật kư của anh ghi lại rằng Việt Minh "rất hài ḷng" với phản ứng của anh. Shaw dần học được cách lặp lại khẩu hiệu này trước mỗi lần được giới thiệu, và mỗi lần như thế, Việt Minh đều "rất hài ḷng".
Trong khi ẩn náu cùng các chiến sĩ du kích Việt Minh, Shaw chờ đợi đầu tiên là lính Pháp sau đó là lính Nhật tới lấy đi máy bay của anh và lùng sục dấu vết của anh trong khu rừng và những ngôi làng gần đó. Shaw thuật lại những ǵ anh đă trải qua:
Trong 30 ngày chơi tṛ trốn t́m với quân Pháp và Nhật, những người yêu nước đă đưa tôi từ nơi ẩn náu này đến nơi ẩn náu khác. Họ cố gắng hết sức để tôi cảm thấy thoải mái. Bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu nếu có thể, dân làng, cả nam, phụ, lăo, ấu đều tổ chức những buổi gặp mặt bí mật để chào đón tôi. Khi người chủ toạ dứt lời, tôi luôn luôn đáp lại với một câu ngắn gọn và đon giản: " Việt Minh! Việt Minh!". Sau đó họ đứng dậy và đồng thanh nói. "Hoa Kỳ! Roosevelt! Hoa Kỳ!Roosevelt!". Các buổi gặp mặt kết thúc vớí những cái bắt tay thân thiện.
Mười ngày sau, Shaw nhận được lá thư từ Uỷ ban Trung ương Việt Minh chào mừng anh và thông báo "chúng tôi đă ra lệnh cho Căn cứ địa của chúng tôi tại Cao Bằng tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng ngài và hộ tống ngài ra biên giới Bắc Kỳ - Trung Quốc". Uỷ ban Trung ương đề nghị Shaw giúp xây dựng t́nh hữu nghị vững mạnh giữa Mỹ và Việt Nam. Nhiệm vụ này sẽ sớm được thực hiện dễ dàng hơn. Trong ṿng vài ngày Shaw báo cáo, anh gặp một "nhà ái quốc" nói tiếng Anh. Ông đă mô tả tổ chức của ḿnh và giải thích rằng con đường an toàn nhất tới lănh thổ Đồng Minh thật không may lại là dài nhất. V́ rất ít người Việt Nam biết tiếng Anh vào thời điểm đó và căn cứ vào lời xác nhận của Vũ Anh rằng Shaw đă được đưa đến gặp Hồ Chí Minh ngay sau khi anh tới, có thể cho rằng người Việt Nam yêu nước mà Shaw đă gặp chính là Hồ Chí Minh. Ông cố gắng làm vơi đi nỗi sợ hăi của Shaw, đảm bảo rằng anh "tuyệt đối an toàn khi ở với chúng tôi (Việt Minh)". Có thể tưởng tượng được Shaw hẳn là đă cảm thấy bớt căng thẳng phần nào khi được nghe những lời dễ chịu này bằng chính ngôn ngữ của anh, nhất là sau chuyến hạ cánh khẩn cấp vào khu vực kẻ thù kiểm soát và sau những ngày chỉ biết giao tiếp bằng cử chỉ và khẩu hiệu. Trong nhật kư, Shaw đă thể hiện sự nhẹ nhơm của ḿnh và sau đó chuyển sang những trải nghiệm hàng ngày. "Từ người bạn ấy", anh viết, "tôi bắt đầu biết được đôi điều về Đông Dương". Mười sáu trang tiếp theo trong cuốn "Đông Dương đích thực" thuật lại chi tiết lịch sử cai trị xấu xa của Pháp với một tŕnh tự chính xác cuộc đấu tranh của người Việt Nam chống Pháp. Nó cũng thuật lại sự sụp đổ của Pháp năm 1940 và cuộc sống dưới thời Nhật, bao gồm cả việc chúng sử dụng đảng thân Nhật của Hoàng thân Cường Để. Cuốn sách kết luận:
Tóm lại, Đỏng Dương là một mảnh đất kinh hoàng. Nơí này không được hưởng tự do, hạnh phúc và các quyền lợi khác. Người dân bị vắt kiệt bới sự áp bức bóc lột đă man và phi nhân tính. Họ sống trong khổ cực và ngu dốt… Bị đè nén dưới hai gọng ḱm phát xít, người Đông Dương biết rằng họ hoặc phải đấu tranh cho cuộc sống và tự do của ḿnh hoặc sẽ chết ṃn trong kiếp nô lệ. Và họ chọn cách thứ nhất.
Ngoài ra, cuốn sách cũng tiết lộ nguồn gốc và mục đích của Việt Minh cũng như vị trí của họ trong mối quan hệ với Đồng Minh:
Việt Minh hùng mạnh thế nào, tôi không biết. Nhưng như những ǵ tôi đă chứng kiến th́ tổ chức này rất được nhân dân ủng hộ. Đi đến đâu tôi cũng được dân lành chào với hai tiếng "Việt Minh! Việt Minh!" và họ làm tất cả để giúp những người yêu nước, cho dù có bị ngăn cấm và đàn áp.
Tháng 12, những người bạn Đông Dương đưa tôi trở về Trung Quốc. Trước khi chia tay, họ dặn đi dặn lại tôi phảí gửi Iời chào tốt đẹp nhất của họ tới quân đội và nhân dân Mỹ. Lần bắt tay cuối cùng họ hô to. "Hoa Kỳ muôn năm! Roosevelt muôn năm! Tướng Chennault muôn năm!", và tôi hô to đáp lại. "Đông Dương muôn năm! Việt Minh muôn năm!". Tôi rất vui khi được quay trỏ lại và kể với đất nước tôi và những đồng minh của nó về t́nh h́nh thức tế tại Đông Dương…
Tôi khiêm nhường nghĩ rằng, v́ nhiệm vụ dân chủ cũng như v́ lợi ích chiến lược, chúng ta phải giúp đỡ phong trào chống Nhật, chống phát xít của Đông Dương một cách có hiệu quả.
(Đă kư) J. R. Shaw
Ngay sau khi quay lại Trung Quốc, Shaw bay thẳng về Mỹ.
Không nghi ngờ ǵ nữa, câu chuyện của anh dường như không thể tin nổi với rất nhiều người tại tổng hành dinh, nhưng sự thật về chuyến hạ cánh miễn cưỡng của Shaw và việc anh trở về an toàn đă minh chứng cho tất cả. Khi được hỏi ai đă cưu mang anh trong một tháng trên lănh thổ bị Nhật chiếm đóng, lời đầu tiên thốt ra trên môi anh chắc chắn là "Việt Minh! Việt Minh!". Vị tướng chỉ huy của anh, Claire Chennault, viết trong báo cáo gửi Wedemeyer rằng "sự an toàn tức khắc và vụ tầu thoát sau cùng" của Shaw là nhờ "một tổ chức bản xứ tên là Đông Dương độc lập Hội". Chennault viết tiếp: "Tôi nhiệt liệt ủng hộ việc duy tŕ mối quan hệ tốt đẹp với bất kỳ tổ chức nào tại Đông Dương thuộc Pháp giúp đỡ một cách hiệu quả việc giải thoát lính Mỹ, có thể yêu cầu sự trợ giúp tại nước đó bất chấp thái độ chính trị của họ". Kết luận của ông trong tuyên bố cuối cùng khá rơ ràng: "Điều đáng chú ư là", ông viết "trong số ba vụ giải cứu tại Đông Dương thuộc Pháp th́ người Pháp chỉ liên quan trực tiếp đến một vụ, mà trong đó người Trung Quốc cũng tự nhận là có công lớn". Vụ giải cứu Shaw chẳng liên quan đến người Pháp cũng như người Trung Quốc - mà chỉ là một nhóm Đông Dương có vẻ như cực kỳ thân Mỹ. Đối với Việt Minh, cuộc giải cứu Shaw thực sự là chiếc "ch́a khoá thần kỳ".
Với nhiệm vụ t́m kiếm những điệp viên người Việt để cộng tác, Việt Minh dường như là một con đường đúng đắn để Fenn theo đuổi. Fenn hỏi "Ravenholt", một phóng viên chiến tranh đă ghi lại rơ ràng câu chuyện cuộc giải cứu Shaw, về nơi ở của Hồ Chi Minh. Ravenholt cho biết ông Hồ "vẫn ở đâu đó" và thường tới Pḥng Thông tin Chiến tranh (OWI) tại Côn Minh để "đọc tạp chí Time và bất cứ tài liệu nào mới khác mà họ có". Ông bắt đầu hay lui tới OWI từ mùa hè năm 1944, đọc các tin chiến sự và "đàm đạo với những người Mỹ ở đó".
OWI rất ấn tượng bởi vốn tiếng Anh, sự thông tuệ và mối quan tâm rơ ràng của ông đối với nỗ lực chiến tranh của Đồng Minh và cố gắng kiếm cho ông một tấm visa để tới San Francisco. Từ đó, ông sẽ truyền tin bằng tiếng Việt. Những bản báo cáo đầu tiên của OSS cho biết kế hoạch của OWI đă bị bỏ xó bởi phản đối từ phía lănh sự quán Pháp. David Marr kết luận rằng, nhiều vấn đề liên quan đến Đông Dương có sự phân cực trong nội bộ Bộ ngoại giao Mỹ - bộ phận châu Âu phản đối cấp visa c̣n bộ phận Viễn Đông th́ ủng hộ. Khỏi cần phải nói, một lần nữa, như với hầu hết các vấn đề liên quan đến Việt Nam, phe châu Âu lại thắng thế; Hồ Chí Minh không nhận được visa.
Tuy nhiên, quan hệ của Hồ Chí Minh và OWI đă gây ấn tượng với Fenn. Fenn nhớ ḿnh đă từng nghĩ rằng sự quan tâm của Hồ Chí Minh tới các tin tức của Mỹ và việc ông đă cứu sống Shaw "dường như cho thấy ông có khuynh hướng thiên về chúng ta". V́ vậy, một cuộc gặp gỡ đă được "thu xếp" vào lúc 11 giờ sáng ngày 17 tháng 3 năm 1945. Hồ Chí Minh tới dự cùng một người trẻ hơn, Phạm Văn Đồng. V́ ông Đồng không biết tiếng Anh nên ba người nói chuyện bằng tiếng Pháp. Trong nhật kư của ḿnh Fenn cho biết Hồ Chí Minh "đă từng hội kiến Hall, Glass và de Sibour, nhưng cuối cùng chẳng đi đến đâu với họ". Fenn hỏi ông hy vọng đạt được những ǵ từ ba quan chức OSS. "Chỉ là sự công nhận từ nhóm của họ", Hồ Chí Minh đáp. Fenn viết là đă "ngờ ngợ" rằng Việt Minh là một nhóm cộng sản và đề nghị Hồ Chí Minh bàn về vấn đề đó, đến đây ông Hồ đáp rằng người Pháp gán cho tất cả người Việt Nam muốn độc lập là cộng sản. Dường như đă hài ḷng, tiếp đó Fenn giải thích cần có những nhân viên điện đài tại Đông Dương. Khi được hỏi đổi lại ông muốn những ǵ, Hồ Chí Minh nói "vũ khí và thuốc men". Dù hôm đó cả hai chưa đạt được một thoả thuận toàn diện, nhưng Fenn ghi trong nhật kư là rất "ấn tượng bởi cách nói chuyện khúc chiết và sự điềm tĩnh như Đức Phật của ông (Hồ Chí Minh)".
Trước cuộc gặp gỡ tiếp theo, được ấn định sau đó 2 ngày, Fenn phải xin phép sử dụng Hồ Chí Minh và người của ông. Nhưng, Fenn nhớ lại: "Tôi chắc rằng ông (Hồ Chí Minh) là người của chúng tôi. Baudelaire(1) cảm thấy đôi cánh của sự điên rồ chạm vào tâm trí ông ta, nhưng sáng hôm đó tôi cảm thấy đôi cánh của bậc thiên tài đă chạm vào ḿnh". Rơ ràng, Hồ Chí Minh đang trở thành bậc thầy trong giao thiệp với người Mỹ, thậm chí cả những người Mỹ gốc Anh.
Vài ngày sau, những nghi ngờ của Fenn về thái độ chính trị của Hồ Chí Minh đă được người Pháp và người Trung Quốc xác nhận, cả hai đều quy kết ông là "chống Pháp, tất nhiên, và một người cộng sản cực đoan". Dù sự đánh giá đó có phần chính xác nhưng c̣n nhiều điều đáng nói về ông hơn là những ǵ lời phán xét khắt khe. Hồ Chí Minh chắc chắn được coi là chống Pháp: Trước khi gặp Fenn năm 1945, ông đă chủ trương độc lập trong hơn một phần tư thế kỷ. Nhưng dù muốn Việt Nam thoát khỏi ách thống trị của Pháp, ông cũng không phải là một người chống Pháp cực đoan. Ông ngưỡng mộ nhiều giá trị nổi bật của văn hoá Pháp và vẫn tin rằng Pháp có thể đóng một vai tṛ trong việc giúp Việt Nam phát triển thành một quốc gia hiện đại. Rốt cuộc, nếu nói ông là "cộng sản cực đoan" th́ đă hạ thấp quá mức Hồ Chí Minh và hệ tư tưởng của ông. Dù ông và nhiều người trong các cấp bậc cao hơn của Việt Minh đều mang tư tưởng cộng sản nhưng họ đă kết hợp học thuyết Mác với lư tưởng yêu nước mănh liệt của chính ḿnh và chắc chắn không thể xem là bù nh́n của cả Liên Xô hay những người cộng sản Trung Quốc c̣n đang tranh đấu. Phải rất lâu sau Fenn mới hiểu hết sự phức tạp của vấn đề, tuy nhiên v́ tương lai trước mắt, Hồ Chí Minh dường như là một ứng viên sáng giá để theo đuổi công tác t́nh báo bên cạnh người Mỹ.
Khi Fenn tŕnh bày sự việc cho Bernard, Tan và đại tá Richard Heppner, chỉ huy OSS của ḿnh tại Côn Minh, cả ba đều đồng ư sẽ cộng tác với Hồ Chí Minh và nhóm của ông.
Vấn đề này được quyết định, Fenn, Bernard và Tan ngồi bàn bạc xem làm thế nào để cộng tác một cách tốt nhất với Hồ Chí Minh nhằm hoàn thành mục tiêu t́nh báo của họ. Họ quyết định đưa ông trở lại Việt Nam với một trong số nhân viên điện đài người Hoa của GBT. Họ cũng kết luận rằng sẽ đạt được nhiều thành công hơn nếu đưa Tan đi cùng để tiến hành huấn luyện và thu thập tin tức. Người Mỹ đă sai lầm khi cho rằng v́ Tan là người gốc Hoa nên ông có thể dễ dàng trà trộn vào cộng đồng người Hoa sống tại Bắc Kỳ. Tại cuộc gặp gỡ tiếp theo với Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 3, nhận thức sai lầm này nhanh chóng được hiệu chỉnh. Hồ Chí Minh giải thích rằng v́ là người Mỹ gốc Hoa nên Tan mới càng dễ bị nhận diện. Ông cũng bày tỏ sự dè dặt trong việc tiếp nhận những nhân viên điện đài người Hoa của GBT. Về điểm này Fenn không nhất trí bởi không có "nhân viên điện đài nào người An Nam".
Hồ Chí Minh chấp nhận phải có nhân viên người Hoa nhưng vẫn đề xuất một phương án dự pḥng. Thay v́ đi với Tan, ông tự hỏi liệu có thể đem theo không phải điệp viên người Hoa mà là một sĩ quan Mỹ như Fenn hay không? Khi ông hỏi liệu Fenn có sẵn sàng làm người Mỹ đó, Fenn trả lời sẵn sàng. "Nếu phía ngài cho máy bay chở chúng ta tới biên giới, th́ chúng ta sẽ đi bộ vào", Hồ Chí Minh đề nghị. "Muốn tránh quân Nhật th́ phải đi bộ vào ban đêm, nghĩa là mọi thứ sẽ chậm lại, v́ vậy phải mất 2 tuần ta mới tới được căn cứ".
Dù đă nói rơ đây là "ư kiến cá nhân" của ḿnh và rằng "một người Mỹ không phải gốc Hoa sẽ được Việt Minh chào đón hơn", nhưng cuối cùng ông cũng đồng ư hộ tống cả nhân viên điện đài người Hoa và Tan vào Việt Nam.
Cũng trong cuộc gặp gỡ này, Phạm Văn Đồng, người sẽ ở lại Côn Minh để liên lạc với GBT, đă đặt câu hỏi về tiếp tế, đặc biệt là "chất nổ có sức công phá mạnh". Dựa vào mối quan hệ liên tục của GBT và OSS với người Pháp, Fenn nhận thức được thảm hoạ ngoại giao tiềm tàng mà việc cung cấp chất nổ cho người Việt có thể gây ra. V́ vậy, ông cố gắng xoa dịu t́nh h́nh, nhưng cũng đồng ư sau này họ có thể đưa vào vũ khí hạng nhẹ, camera, thuốc men, thiết bị dự báo thời tiết và một số điện đài nữa.
Trước khi cuộc gặp gỡ của họ bị hoăn lại, Hồ Chí Minh đă đề nghị Fenn: ông muốn gặp Chennault. Biết rằng ông đă cố gắng gặp Chennault một lần trước đây và đă bị "lịch sự từ chối", Fenn hỏi về quyết tâm rơ ràng muốn gặp chỉ huy Không đoàn "Hổ bay" của Hồ Chí Minh. Theo báo cáo, Hồ Chí Minh đă trả lời: "Ông ấy là người phương Tây mà chúng tôi ngưỡng mộ nhất. V́ vậy tôi muốn tự ḿnh nói với ông ấy điều đó". Fenn đồng ư cố gắng và sắp xếp một cuộc hẹn với viên tướng nhưng đề nghị ông không yêu cầu Chennault bất cứ điều ǵ, kể cả công nhận Việt Minh. Cuộc gặp gỡ được thu xếp một cách khá dễ dàng. "Thật may mắn tôi đă biết rơ Chennault từ lúc khai thác thông tin về những chiến tích của Không đoàn Hổ bay khi c̣n là một phóng viên chiến trường", Fenn nhớ lại, "v́ thế, không can dự đến các kênh truyền thông, tôi đến gặp riêng ông ấy (một sự vượt quá giới hạn khác mà chó nghiệp vụ của OSS đánh hơi được) và giải thích tầm quan trọng của việc giả bộ hợp tác với Hồ Chí Minh - người đă không chỉ cứu sống một trong những phi công của tướng quân mà c̣n có thể cứu được nhiều hơn nữa nếu chúng ta giành được sự hợp tác của ông trong tương lai". Dựa trên tuyên bố trước đó của Chennault rằng ông "nhiệt liệt ủng hộ duy tŕ mối quan hệ tốt" với những người sẵn sàng, sẵn ḷng và có thể giúp phi công Mỹ trốn thoát khỏi Đông Dương và nhờ có cách tiếp cận cá nhân của Fenn, ngày giờ cuộc gặp gỡ đă sớm được ấn định.
Ngày 29 tháng 3, Fenn, Bernard và Hồ Chí Minh tới văn pḥng của Chennault. Sau khi chờ một lát, ba người được dẫn vào. Fenn ghi lại buổi gặp gỡ này trong nhật kư của ḿnh:
Chennault nói với Hồ Chí Minh rằng ông ta rất cảm kích trước việc viện phi công được cứu thoát. Hồ Chí Minh đáp ông luôn vui ḷng giúp người Mỹ và đặc biệt là giúp tướng Chennault - người mà ông ngưỡng mộ. Họ trao đổi về Không đoàn Hổ bay. Chennault rất hài ḷng v́ Hồ Chí Minh biết đến nó. Chúng tôi nói đến chuyện cứu sống thêm nhiều phí công nữa nhưng không nói ǵ đến Pháp hay đến chính trị. Tôi thở phào nhẹ nhơm khi chúng tôi chuẩn bị về. Sau đó, Hồ Chí Minh nói ông muốn yêu cầu Chennault một ân huệ. "Chúng ta đi thôi, cầm lấy mũ của ông đi", là câu nói hiện lên trên khuôn mặt Bernard. Nhưng tất cả những ǵ ông Hồ muốn là tấm ảnh của tướng Chennault. Chẳng có điều ǵ Chennault thích hơn là tặng ảnh của ḿnh. V́ vậy ông ta nhân chuông và Doreen (thư kư của Chennault) lại bước vào. Đúng lúc đó một cô gái khác đưa tới một tập ảnh bóng loáng cỡ 8 x 10. "Ngài chọn đi", Chennault nói. Ông Hô lấy một cái và hỏi liệu Chennault có thể vui ḷng kư vào bức h́nh không? Doreen đưa ra một chiếc bút Parker 51 và Chennault viết vào mặt sau: "Thân ái, Claire L. Chennault". Ra khỏi văn pḥng của Chennault, chúng tôi kéo nhau đi trong bầu không khí sống động của Côn Minh.
Fenn mô tả Chennault là một "quư ông phương Nam điển h́nh luôn tiếp đăi người châu Á một cách nhă nhặn", không giống như nhiều quan chức Đồng Minh tại châu Á. Trong sự nghiệp quân ngũ của ḿnh, Chennault hiển nhiên rất coi trọng cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này với Hồ Chí Minh. Nhưng đối với Hô Chí Minh và Việt Minh, việc làm tưởng như b́nh thường này sẽ có tác dụng quan trọng sau này khi trở thành ấn tượng về mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Minh và Mỹ. Tuy nhiên, đó là chuyện trong tương lai. C̣n hiện tại, Fenn đặt cho Hồ Chí Minh mật danh là "Lucius", mà ông tướng viết tắt là "Lục", và công tác của Hồ Chí Minh với người Mỹ chính thức bắt đầu.
Bernard thu xếp với Không đoàn 14 bố trí 2 chiếc L-5, máy bay taxi hạng nhỏ hay được sử dụng lúc đó, để chở Hồ Chí Minh, Tan, nhân viên điện đài người Hoa Mac Shin và thiết bị của họ tới Tĩnh Tây tại biên giới Việt Nam. Lúc đó Mac Shin là một nhân viên điện đài lăo luyện và một thành viên quan trọng của GBT. Anh giao tiếp bằng tiếng Anh tương đối dễ dàng và có một tính cách rất lôi cuốn, được Fenn mô tả là "một người lớn khôn ngoan mà không biết v́ sao vẫn giữ được nét vui vẻ hiền lành cởi mở của trẻ nít". Shin đă từng được huấn luyện sử dụng "mọi loại vũ khí, kể cả tiểu liên", và là "một tay súng thiện xạ với khẩu Colt 45". Anh thậm chí c̣n theo học trường nhảy dù của OSS - do đó anh trở thành một điệp viên cực kỳ tháo vát và đa năng.
Khi hai máy bay L-5 đă được bố trí, Fenn tới gặp Hồ Chí Minh một lần nữa để thông báo về việc này và hướng dẫn cho ông những khái niệm cơ bản "về SI, SO, MO và X2, đặc biệt là các báo cáo thời tiết - cái gần như quan trọng nhất, bởi thiếu chúng, máy bay của chúng ta sẽ không thể cất cánh".
Bernard đă thu xếp sẵn để Hồ Chí Minh và Shin bay tới Tĩnh Tây trước. Tan sẽ đi sau cùng với thiết bị, gồm có máy phát điện, máy phát tín hiệu truyền thông và rất nhiều vũ khí hạng nhẹ bởi Tan lư sự rằng "quân nhu sẽ thể hiện bộ mặt của bạn", và đ̣i mang theo "một đống đồ". Tại cuộc họp cuối cùng trước khi khởi hành, Hồ Chí Minh đưa ra một yêu cầu nữa với Fenn: ông muốn có sáu khẩu súng lục tự động Colt 45 loại mới tinh. Số lượng có vẻ tầm thường này cho phép Fenn cấp súng mà không gặp khó khăn ǵ đáng kể nhưng chúng, cũng như tấm ảnh có bút tích của Chennault, sau này sẽ mang lại những kết quả cực kỳ quan trọng cho Hồ Chí Minh.
Trong những ngày chuẩn bị cho cuộc khởi hành của Tan, Shin và Hồ Chí Minh tới Đông Dương, OSS đă theo dơi sát sao Fenn và GBT. Dù Fenn đă làm sáng tỏ với Heppner việc sử dụng điệp viên Lucius nhưng OSS vẫn không mấy hài ḷng với mức độ kiểm soát Fenn hay GBT của nó. Trên thực tế, một giác thư của OSS ngày 31 tháng 3, chỉ 2 ngày sau cuộc gặp gỡ mà Fenn bố trí riêng cho Hồ Chí Minh và Chennault, đă cho thấy rơ sự bất măn nghiêm trọng với GBT. Người phụ trách SI, Paul Helliwell, viết: "Hiện nay đại tá Heppner cảm thấy rằng những hỗ trợ cho nhóm GBT cần được đặc biệt hạn chế, nếu không nói cần bị cắt bỏ hoàn toàn và rằng chúng ta nên đi trước một bước với một tổ chức thuần OSS để thâm nhập vào FIC".
GBT từ lâu đă là nỗi thất vọng đối với OSS. Khi mọi cố gắng của OSS nhằm kiểm soát hoàn toàn GBT đứt gánh giữa đường th́ OSS ngày càng ít muốn làm việc với họ. Tuy nhiên, thành công rơ ràng của mạng lưới GBT và việc OSS thiếu một hệ thống tốt hơn đă ngăn cản họ cắt đứt quan hệ thực sự với tổ chức này, dù rất nhiều lần từng đe doạ dứt khoát làm như vậy nhưng cuối tháng 3 năm 1945, Helliwell và OSS kết luận rằng kiểm soát GBT có thể sớm thực hiện được. Có vẻ cuộc đảo chính của Nhật đă phá huỷ mạng lưới của GBT, và Helliwell tin rằng "đổ vỡ sau cuộc đảo chính đă khiến nhóm này dễ sai khiến hơn nhiều, và có thể tiến hành một số kế hoạch nhờ đó có thể tận dụng GBT để thâm nhập những vùng FIC nhất định". Nếu không v́ hiệu quả hoạt động cao trước đây của họ, GBT có thể mất đi một vài, nếu không phải là tất cả, các nhà bảo trợ khác, điều đó buộc họ phải khuất phục ư muốn của gă nhà giàu. Tuy nhiên, nếu mạng lưới GBT có thể được tái thiết để chiều ḷng OSS th́ Helliwell vẫn tán thành "một sự kiểm soát chung không ít th́ nhiều". Ông kết luận, "Trong khi tôi không đánh giá cao cả nhóm nói chung, tôi vẫn cảm thấy họ có những lợi thế và quan hệ nào đó mà tôi muốn lợi dụng".
Helliwell có vẻ không hiểu thấu bản chất của GBT hay quyết tâm của họ nhằm tránh bất kỳ một dạng kiểm soát hoàn toàn nào mặc dù điều đó có thể dẫn đến mất nguồn trợ cấp từ OSS không với tư cách là giám đốc SI, cuối tháng 3 năm 1945 Helliwell lâm vào một vị thế khó khăn. Chiến dịch MEIGO đă đảo ngược t́nh thế tại Việt Nam. Quân Đồng Minh vẫn cần thông tin. Helliwell tin rằng người Pháp ở đây "hoàn toàn không đáng tin cậy", và có vẻ như nhóm GBT chán ngắt có thể tồn tại lâu hơn sự hữu ích của nó. Với tất cả những điều này, ông vẫn hoàn toàn nhận thức được rằng tổng hành dinh mặt trận "cực kỳ nóng ḷng" muốn ông "thiết lập một mạng lưới t́nh báo trong FIC vào một thời điểm sớm nhất có thể". Người để làm phức tạp vấn đề hơn nữa, ông vẫn thiếu những mệnh lệnh kiên quyết từ cấp trên. "Thành thật mà nói, t́nh h́nh của toàn FIC cực kỳ hỗn loạn", ông giải thích.
"Chúng tôi có vô số các chỉ thị mâu thuẫn nhau từ nhiều phía trong suốt hai tuần qua. Chúng tôi đang tiến lên càng nhanh càng tốt trong những hoàn cảnh như thế". Dù OSS đă được khuyến cáo "không thể giao thiệp với những người bản xứ hay các nhóm cách mạng", nhưng dựa vào nhu cầu thông tin t́nh báo khẩn cấp, tính phức tạp của t́nh h́nh và việc OSS không tin tưởng người Pháp tại Trung Quốc, không có ǵ lạ khi OSS tán thành lựa chọn tốt nhất của Fenn để mạng lưới FIC của ông sẵn sàng hoạt động trở lại với sự giúp đỡ của một người Việt Nam: Hồ Chí Minh.
Trong khi Fenn tiếp tục chuẩn bị cho GBT/AGAS để cộng tác với Hồ Chí Minh, t́nh h́nh tại Côn Minh cũng đang thay đổi. Ba tuần trước đó, ngày 20 tháng 3, Wedemeyer đă phê chuẩn QUALL, một chiến dịch lớn của SI chính tại Đông Dương, để "thiết lập những mạng lưới t́nh báo quân sự trong FIC và cho phép chúng ta cấp vũ khí và đạn được cho những ai kháng Nhật". Dù những chỉ thị từ tổng hành dinh mặt trận dường như đă đủ rơ ràng, nhưng không một hành động tức th́ nào xảy ra bởi cũng trong hôm đó "một thông điệp nhận được từ Washington nói rằng chúng ta không nên làm ǵ về FIC". Cùng lúc đó Chennault nhận được những loại thông điệp hỗn tạp như thế liên quan đến việc trợ giúp người Pháp khi đó đang chạy trốn khỏi sự truy đuổi của Nhật ngay sau Chiến dịch MEIGO. Hai thông điệp đối lập nhau "đă gây nên t́nh trạng rối ren", Helliwell giải thích, "cản trở việc tiến hành bất cứ một hoạt động nào". Heppner cũng bày tỏ sự thất vọng của ḿnh khi bổ sung: "Dự án QUALL nằm ở tổng hành dinh mặt trận ba tuần mà không động tĩnh ǵ. Mặt trận không ra quyết định về GBT đồng thời cấm tiếp xúc với bất kỳ nhóm bản xứ nào". Ngày 23 tháng 3 chiến dịch QUALL lại được "bật đèn xanh" khi tướng Marvin E. Gross, quyền tham mưu trưởng của Chennault, "giữ quan điểm Washington không có quyền thay đổi chỉ thị của tổng hành dinh mặt trận… và quyết định rằng chúng ta có thể tiến lên". Về phương điện kỹ thuật, OSS có thể tiến hành ngay chiến dịch QUALL, nhưng theo Hellliwell, "bất cứ điệp viên nào hy sinh đều không hay… và xác suất sống sót của các điệp viên, những người chỉ đơn giản thâm nhập vào FIC tại thời điểm này, gần như bằng 0". V́ thế, OSS tại Côn Minh đă gửi một bức điện khẩn tới Washington yêu cầu: "Nhân viên nói tiếng Pháp phải được không quân ưu tiên cao nhất đưa tới mặt trận này" và thế là đại uư Archimedes Patti đă lập tức lên đường. Ngày 13 tháng 4, Patti, một cựu chiến binh của OSS trong các chiến dịch Italia, từ Washington tới đảm nhận chức vụ phụ trách SI của Tổ đặc trách Đông Dương và cuối cùng để "lănh đạo một phái đoàn OSS tại Đông Dương". Trước khi đến Trung Quốc, Patti đă nghiên cứu kỹ lưỡng t́nh h́nh Đông Dương. Trong suốt sáu tháng đứng đầu Tổ đặc trách Đông Dương tại trụ sở của OSS ở Washington, Patti đă triển khai các kế hoạch, giám sát thư tín, sàng lọc ứng viên cho nhóm dă chiến dự kiến, và đọc các báo cáo có sẵn về t́nh h́nh Đông Dương, bao gồm cả lá thư tháng 8 năm 1944 của Đông Dương Độc lập Hội gửi cho Đại sứ quán Mỹ. Ông cũng hỏi thăm những người bạn như Austin Glass về Việt Nam. Cuối năm 1944 Patti đă kết luận rằng Hội này có thể chính là một tài sản quư cho phái đoàn OSS tại Đông Dương. Ông nhớ đă từng nêu ra ư tưởng với giám đốc OSS Bill Donovan: "Khi tôi nhấn mạnh quan điểm sử dụng các điệp viên Đông Dương, câu trả lời của Donovan là, "Sử dụng bất kỳ ai sẽ làm việc cho chúng ta chống lại Nhật, nhưng đừng dính líu tới quan hệ chính trị giữa Pháp và Đông Dương". Dù không được quá chú trọng vào cuối năm 1944, nhưng vấn đề này gần như lại nảy sinh ngay khi máy bay của Patti hạ cánh xuống Côn Minh.
Helliwell chắc chắn hy vọng rằng sau khi Patti đảm đương nhiệm vụ của ḿnh tại Côn Minh th́ việc thu thập thông tin sẽ được cải thiện. Vài ngày ngay trước khi Patti đến, Helliwell mỗi lúc một trở nên thất vọng với t́nh h́nh của toàn FIC. Ông bày tỏ nỗi thất vọng của ḿnh trong báo cáo ngày 10 tháng 4:
Kể từ khi nhận được chỉ thị của mặt trận và sự giải thích rơ ràng - cái trở nên vô cùng cần thiết, tổng hành dinh có khoảng hai tuần để thiết lập mạng lưới FIC. Thật khó để có thế hiểu làm sao người ta lại hy vọng trong một khoảng thời gian hai tháng, thậm chí chưa đầy hai tuần, thu thập được một lượng lớn thông tin t́nh báo từ một khu vực, nơi tất cả mọi liên lạc đều đă bị cắt đứt, nơi đầy rẫy quân Nhật và thiếu sự hiểu biết chính xác của chúng ta về vị trí của chúng, nơi mà sự di chuyển là cực kỳ khó khăn ngay cả trong những điều kiện tốt nhất và nơi một người da trắng rất dễ bị nhận diện… Quả nhiên hoạt động chiến đấu đang được tiến hành với tốc độ nhanh nhất giống như lập kế hoạch t́nh báo và quan tâm tới an toàn của nhân viên. Hoạt động tiếp theo duy nhất có thể tiến hành là đưa ṃ nhân viên vào FIC, và theo ư kiến của cơ quan này th́ một hành động như vậy chẳng khác ǵ kư án tử h́nh cho toàn bộ nhân sự liên quan.
Nỗi thất vọng của Helliwell được cấp trên của ông dội lại. Heppner chỉ ra rằng dù OSS đă đưa "hai quan chức và năm điệp viên bản xứ vào FIC" và rằng "sáu nhân viên GBT với điện đài" lúc đó đă có mặt tại biên giới phía đông chuẩn bị thâm nhập", thêm vào đó là lần nhảy dù thứ hai được dự kiến tại Pleiku, nhưng an ninh trong khu vực rơ ràng kém hiệu quả.
Bức điện của ông gửi tới Trùng Khánh có nội dung như sau:
Tôi không rơ làm sao Mặt trận có thể hy vọng chúng tôi hay bất cứ tổ chức nào khác thâm nhập một nước, nơi t́nh h́nh tổng thể vô cùng hỗn loạn, nơi phải đề pḥng ở mức cao nhất để ngăn ngừa việc điệp viên bị bắt và nơi mà đi lại là một trong những vấn đề khó khăn nhất, đồng thời phải hoàn tất một mạng lưóí t́nh báo và đưa vào hoạt động trong 2 tuần. Tôi không thấy có ǵ đảm bảo khi phái nhân viên Mỹ tới khu vực này trừ phi được chỉ thị ngược lại bởi cấp có thẩm quyền cao hơn, bằng không chúng tôi sẽ hoạt động trên cơ sở hiện thời, cụ thể là mạng lưới ở FIC sẽ lớn mạnh nhanh chóng phù hợp với hoạt động cẩn thận, chính xác và đảm bảo an toàn cho nhân viên.
Cảm thấy bị thúc ép để nhanh chóng lấy được thông tin về các hoạt động của Nhật tại Đông Dương, cả Heppner và Helliwell đều rất mừng khi gặp Patti và bàn giao Dự án QUALL cho ông. QUALL mường tượng ra một mạng lưới t́nh báo bên trong Đông Dương thuộc Pháp với căn cứ chính nằm trong lănh thổ Trung Quốc tại Szemao và một căn cứ phụ tại Malipo. V́ tổng hành dinh mặt trận "tiếp tục gào thét" đ̣i thông tin t́nh báo, nên OSS được phép bắt đầu "quấy nhiễu Nhật dọc hành lang Hà Nội - Nam Ninh - Quảng Châu", khu vực Bắc Việt Nam, bao gồm Hà Nội và Hải Pḥng, được nhắm cho hoạt động đặc biệt. QUALL là một kế hoạch đầy tham vọng mà mục đích cuối cùng là tạo ra "các trạm chỉ huy tác chiến trên khắp Bắc Kỳ, An Nam, Nam Kỳ và Campuchia, được điều hành bởi 12 nhóm bản xứ. Ngay sau khi được đánh giá là an toàn, các nhóm bản xứ sẽ bị giám sát bởi các nhân viên Mỹ nói tiếng Pháp, những người đến Đông Dương v́ mục đích đó".
Dự án QUALL sẽ cho phép OSS kiểm soát trực tiếp hơn nữa các hoạt động tại Đông Dương. Tuy nhiên, với việc nhấn mạnh sử dụng điệp viên Đông Dương của QUALL, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Patti là t́m người Việt để hợp tác.
Trong cuộc gặp gỡ ngày 14 tháng 4 với Helliwell, Patti đă được đại diện AGAS, thiếu tá A. R. Wichtrich, mách nước cho một điệp viên khả thi. "Wichtrich thừa nhận rằng", Patti nhớ lại "AGAS đă đạt được một thoả thuận với Hồ Chí Minh để thiết lập hoạt động giải cứu phi công tại Đông Dương". Wichtrich cũng nói với Helliwell rằng "người của ngài, Fenn, đă đi cùng ông ấy vài tuần nay". Helliwell thừa nhận có biết về công việc của Fenn với Hồ Chí Minh. Thực tế là, ngay cả Patti dù mới đến Côn Minh cũng biết về Fenn và Hồ Chí Minh, cũng như về GBT. Patti khá ấn tượng với công tác của GBT kể từ khi chiến tranh nổ ra và với sự hồi sinh hạn chế của mạng lưới này sau cuộc đảo chính của Nhật. Một biến cố đă đặc biệt thu hút sự chú ư của ông. Ngày 20 tháng 3, việc Anh thả hàng tiếp tế cho lực lượng Pháp rút lui gần như đă gây ra một sự kiện quốc tế trong các nước Đồng Minh. Theo GBT, quân đội Tưởng Giới Thạch đă quan sát một đợt Anh thả hàng cho Pháp tại khu vực Móng Cái. V́ quân Pháp đă rút khỏi Móng Cái nên lính Tưởng đă thu gom đồ tiếp tế. "Trong ṿng vài phút GBT đă nhận được một bức điện từ phía Pháp rằng họ đă rút về Trung Quốc và rằng quân Nhật đă chiếm Tung Hing, Móng Cái và Tiên Yên. Pháp yêu cầu ném bom vào cả ba địa điểm trên". Archimedes Patti kết luận rằng vai tṛ của GBT cực kỳ trọng yếu vào thời điểm đó. Họ nhận ra Pháp "không dám mạo hiểm phơi ḿnh cho Nhật bằng cách rút về Móng Cái và không muốn "người Trung Quốc thu lượm những đồ tiếp tế quư giá"; v́ vậy họ đă "yêu cầu ném bom vào người Trung Quốc". "Tất cả đều rơ như ban ngày rằng", Patti cho biết, "Pháp đang cố gắng lừa người Mỹ ném bom vào những vùng mà quân Tưởng đang có mặt, và may thay, GBT đă kịp liên lạc bằng điện đài với những nạn nhân dự kiến này". Patti cũng biết về vai tṛ của Fenn trong GBT và đă đọc báo cáo của Fenn về việc Hồ Chí Minh đồng ư giúp OSS và AGAS tổ chức một mạng lưới t́nh báo tại Đông Dương. Khi c̣n làm việc tại Washington, Patti đă t́nh cờ biết đến tên Hồ Chí Minh và về cơ bản đă quyết định sẽ "nghiên cứu tổ chức Việt Nam này khi xem xét Dự án QUALL". Patti nhớ rằng điệp viên của AGAS Wichtrich đă "hết sức buồn" với quyết định của ông, và cả ông lẫn Helliwell đều dồn hết tâm trí đảm bảo với Wichtrich rằng OSS sẽ không can thiệp vào hoạt động của AGAS và rằng "Ông Hồ làm việc cho AGAS sẽ được lợi từ những hỗ trợ SI của chúng tôi (OSS), cả về tài chính và phương tiện liên lạc". Dù Patti lo ngại phản ứng của Pháp về việc OSS sử dụng đặc t́nh người Việt, nhưng Helliwell tin họ không tiết lộ QUALL với các nhân viên đại sứ quán Pháp hay Mỹ. Khi cuộc họp kết thúc, Patti bắt tay vào chuẩn bị triển khai QUALL: khảo sát thực địa tại Szemao và thu xếp một cuộc gặp gỡ với các nhà lănh đạo Việt Minh, đặc biệt là Hồ Chí Minh.
Khi Patti bắt đầu t́m hiểu nơi ở của Hồ Chí Minh th́ Frank Tan và Mac Shin đang ở Tĩnh Tây, chuẩn bị cho chuyến đi hai tuần qua biên giới xuống phía nam Đông Dương. Hồ Chí Minh đă đi trước hai người này và ra lệnh cho 20 người của ḿnh quay lại hộ tống và bảo vệ họ trước quân Nhật mà họ có thể chạm trán và trước mối nguy hiểm thường gặp hơn: cướp giật.
Tan, Shin và những người hộ tống họ lên đường vào sáng sớm ngày 15 tháng 4. Tan mô tả hành tŕnh của ḿnh trong bức điện đầu tiên gửi về tổng hành dinh GBT: "Chúng tôi khởi hành cải trang thành những kẻ buôn lậu qua biên giới với tất cả thiết bị đựng trong những chiếc giỏ tre cốt để gợi lên sự nghi ngờ thông thường rằng chúng tôi là dân buôn lậu qua biên giới. Chúng tôi đi dọc theo biên giới đến 15 tiếng đồng hồ, ăn lót dạ rồi đợi đến khi trời tối mới đi về phía biên giới. Quăng đường này khét tiếng là hay bị cướp giật nên chúng tôi mở hành lư cầm theo vũ khí khi vượt đường biên".
Hồ Chí Minh đă cùng đi với họ trong chặng cuối của cuộc hành tŕnh tới Việt Bắc. Đó là một chuyến đi đặc biệt khó khăn và nguy hiểm đối với Tan. Dù đă tới Đông Dương nhiều lần nhưng ông không quen đi bộ đường dài liên tục trên địa h́nh gập ghềnh như thế. Ông nhớ đă có lúc định bỏ cuộc khi hai chân ră rời v́ phải cố gắng quá sức, nhưng Hồ Chí Minh bảo Tan phải đi tiếp v́ ở lại đó quá nguy hiểm, và không có con đường nào khác để tới căn cứ địa của Việt Minh. Mac Shin cũng thuật lại rất nhiều khó khăn của chuyến đi dài, đặc biệt là thiếu lương thực và nước uống. Hồ Chí Minh dạy họ rất nhiều ứng dụng của tre - để lấy nước và để ăn - và tác dụng bổ sung muối cho cơ thể khi họ phải gắng sức quá mức. "Mac, hăy nhớ rằng, muối c̣n quư hơn vàng", ông nhắc Shin. Cả nhóm cảm thấy an tâm khi Shin liên lạc được với Fenn bằng điện đài và chuyến thả lương thực tiếp tế đầu tiên đă diễn ra. Trong hồi tưởng của Shin sau chiến tranh, Shin tin rằng Fenn đă cứu mạng họ - đặc biệt là từ khi họ buộc phải ăn những con ngựa đă thồ Tan và Shin một phần chặng đường.
"Căn cứ" không mấy ấn tượng - chỉ là một "căn nhà tạm bợ trên lối vào (hang Pác Bó) cạnh một con suối" - Tan viết:
Tôi không biết đánh giá Việt Minh thế nào. Tôi đoán họ là những con người được tôi luyện bởi hoàn cảnh đất nước nơi tôi đến rất nghèo. Họ không có tiền nộp thuế nhưng vẫn tồn tại. Theo phán đoán của tôi, tổ chức này khá hùng mạnh và có vài trăm thành viên. Trước khi rời Tĩnh Tây tôi được chính quyền Trung Quốc cảnh báo rằng hầu hết bọn họ là cộng sản, và chúng tôi nên biết ḿnh đang nhúng tay vào cái ǵ. Ông thêm vào nhận xét của ḿnh: "Nhưng tất nhiên họ phải nh́n nhận mọi thứ từ quan điểm của Quốc Đân đảng".
Khi mọi người đă qua biên giới an toàn, cả nhóm tiếp tục đi tới căn cứ của Việt Minh tại Tân Trào (tên mới Việt Minh đặt cho Kim Long). Chặng này nhóm có đông người hơn. Hồ Chí Minh, Tan (người mà Việt Minh gọi là Tam Xinh Khan để che giấu danh tính của ông) và Shin (bí danh là Nguyễn Tư Tác) nhập cùng những thành viên khác của Việt Minh, gồm "năm nhân viên điện đài vừa hoàn thành khoá học tại Trung Quốc, mười học viên điện đài cho công tác t́nh báo, sáu người mang máy phát tín hiệu truyền thông, mười vệ sĩ - phần lớn trong số họ "đă được huấn luyện kỹ tại Gio Jio, Trung Quốc, và đang ở cấp bậc trung uư, được trang bị tiểu liên và súng cacbin" - và một nhóm thanh niên được tuyển chọn riêng để học điều khiển điện đài tại Tân Trào. Nhóm cuối cùng gồm có Nguyễn Kim Hùng và Triệu Đức Quang. Nguyễn Kim Hùng là một học viên trẻ - người rất ấn tượng với lời nói và việc làm của Hồ Chí Minh và rất háo hức chờ được tham gia nhiều hơn trong cuộc cách mạng sắp tới. Anh đặc biệt xúc động bởi tính tổ chức của cuộc hành quân - trong đó có liên lạc bằng điện đài vào cả trưa và tối - và bởi sự đón tiếp nồng nhiệt mà cả nhóm nhận được tại những nơi họp chợ trên đường đi. Người dân, anh nhớ lại, "đă dành cho chúng tôi sự tiếp đón nồng nhiệt và đem cho chúng tôi, mời chúng tôi rất nhiều lương thực. Buổi chiều Bác Hồ cho gọi Đặng Tuân, sĩ quan hậu cần, và bảo anh này trả tiền cho những thứ đă nhận của dân. Và nhân dân đáp: "Đây là quà chúng tôi biếu Việt Minh, và sự đóng góp của chúng tôi, hoàn toàn miễn phí, chúng tôi không nhận tiền". Bác vẫn nói rằng chúng tôi có ít tiền và chúng tôi có thế trả, c̣n chúng tôi hiểu rằng Bác rất lo ngại nghi ngờ giải phóng quân chỉ lấy đồ của dân có thể nảy sính".
Triệu Đức Quang, một học viên 17 tuổi, cũng được phân công học điện đài với Mac Shin. Quang, người đă từng nhét truyền đơn vào ngăn kéo bàn học của các bạn cùng lớp như một trong những hành động đầu tiên ủng hộ Việt Minh, đă bỏ học sau cuộc đảo chính tháng 3 và tham gia hoạt động cách mạng với cha ḿnh. Cũng như Nguyễn Kim Hùng, Triệu Đức Quang rất ngưỡng mộ cả Tan và Shin và vô cùng kính trọng Hồ Chí Minh.
OSS và Hồ Chí Minh -
Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật
Tác giả : Dixee R. Bartholomew - Feis
Dịch giả : Lương Lê Giang
Lán Nà Lừa (Tân Trào) nơi Hồ Chí Minh sống trong năm 1945 (Ảnh tư liệu của Nguyễn Học)
Khi cả nhóm đến Tân Trào, Hồ Chí Minh đưa cho Tan một "bản báo cáo cuộc hành quân được đánh máy với nhiều chi tiết về địa thế hiểm trở, những mối nguy hiểm khi hành quân ban đêm, hệ thống quân thám và phu khuân vác phức tạp dọc đường, những động vật hoang đă gặp phải…". David Marr viết rằng "rơ ràng Hồ Chí Minh muốn gây ấn tượng cho Tan về chuyến đi gian khổ từ biên giới, hy vọng những báo cáo điện đài Tan gửi về Côn Minh sẽ giành được thiện cảm và khiến Đồng Minh tăng viện trợ cho Việt Minh".
Báo cáo được cung cấp cho Tan chứa đựng những điều tương tự như nhật kư của trung uư Shaw; cả hai đều đặt Việt Minh vào giai đoạn trung tâm trong cuộc chiến đấu đang tiếp diễn chống lại cả Nhật và Pháp. Nhờ sự giúp đỡ của Hồ Chí Minh, công tác tổ chức một mạng lưới người đưa tin t́nh báo được tiến hành trong khi đó Mac Shin huấn luyện các học viên điều khiển điện đài, cả "truyền và nhận tin và làm thế nào để sử dụng ánh sáng làm dấu hiệu thu hút sự chú ư của máy bay", Tan đă truyền đạt rất nhiều chi tiết về căn cứ của Việt Minh và các chiến sĩ du kích cho Fenn:
Mọi người chào tôi và làm tất cả những ǵ có thể để giúp chúng tôi, và họ lo rằng chúng tôi không ăn được thức ăn nghèo dinh dưỡng của họ. Mac đang dạy họ kỹ thuật điện đài và nói họ đều yêu mến anh. Họ đều có ư thức quân sự và luyện quân hàng ngày. Việc chúng tôi mang tới đây một khối lượng lớn súng (được báo cáo là có 2 khẩu súng trường 3 khẩu cacbín, một khẩu Bren, vài khẩu súng lục) và đạn được thực sự có ích. Họ nói vũ khí của chúng tôi tốt hơn của Pháp và của Nhật nhiều. Ở đất nước này mỗi người đều có một loại súng nào đó. Tôi thấy một khẩu súng trường loại 1904 Remington ở đây, một khẩu súng kíp phải đánh lửa và một khẩu khác phải châm ng̣i để khởi động ng̣i nổ sau đó súng mới khai hoả. Một số lại giống như súng săn, nhưng phải nạp đạn từ phía trước - lắp đạn và nhồi thuốc súng vào. Sau đó đặt một đầu que diêm vào ng̣i nổ và bóp c̣: trông giống như súng mà những người hành hương sử dụng để bắn gà tây!
Những người đưa tin đầu tiên từ Pác Bó mang về rất nhiều thông tin từ bên trong Đông Dương, bao gồm "thư, bản đồ, tài liệu truyền đơn của Nhật và những tài liệu MO khác". Tan báo cáo rằng sau đảo chính người dân trở nên chống Nhật hơn là chống Pháp. Trong một lá thư cùng thời điểm, Hồ Chí Minh cảm ơn Fenn v́ đă cưu mang một nhóm Việt Minh mà ông đưa tới Côn Minh, v́ đă huấn luyện và dạy họ "những điều cần thiết khác trong cuộc đấu tranh chung chống Nhật của chúng ta". Ông kết thúc bức thư ngắn của ḿnh bằng cách một lần nữa gửi lời mời Fenn tới thăm căn cứ của Việt Minh và đề nghị Fenn gửi "lời thăm hỏi của ḿnh tới tướng Chennault". Một lần nữa ông chứng tỏ sự chân thành của ḿnh. Có thể nếu những lời thăm hỏi vô hại này đến tai vị tướng, cái tên Hồ Chí Minh sẽ sống măi trong trí nhớ của Chennault, hay ít nhất Chennault cũng gắn tên Hồ Chí Minh với một ư nghĩa tích cực mỗi khi nhớ đến trong những hoàn cảnh khác.
Sau khi Tan và Shin tới Tân Trào, số lượng và chất lượng của các báo cáo t́nh báo bắt đầu tăng. "Sau một thời gian", Nguyễn Kim Hùng nhớ lại, "trong số hàng thả dù tiếp tế có một vài máy điện đài kỹ thuật số. Với những thứ này, Hồ Chí Minh quyết định thiết lập ba trạm điện đài nữa. Một ở Hà Giang, do ông Quư phụ trách. Một ở Lạng Sơn, do ông Liễu Minh phụ trách. Trạm c̣n lại ở Cao Bằng do ông Bắc chịu trách nhiệm. Và tôi nhớ rằng nhiệm vụ được giao cho các trạm này là thu thập thông tin thời tiết hai lần một ngày cho lực lượng Đồng Minh, cung cấp thông tin t́nh báo và thông tin về vị trí đóng quân của Nhật để lực lượng Đồng Minh tấn công đồng thời t́m kiếm những địa điểm thích hợp để thả hàng tiếp tế và hạ cánh".
Việc Hồ Chí Minh có phải là người ra quyết định chính về địa điểm thiết lập các trạm điện đài do GBT/AGAS/OSS tài trợ hay không vẫn c̣n chưa được xác nhận. Tuy nhiên, mối quan hệ của ông với người Mỹ và nỗ lực chiến tranh của Đồng Minh dường như đă tiếp thêm sức mạnh cho những thành viên trẻ của Việt Minh và giúp củng cố khả năng kiểm soát của ông. Nhưng thậm chí trước khi thiết lập mạng lưới này tại Bắc Kỳ, điệp viên Lucius đă bắt đầu gửi báo cáo cho Fenn. Ngày 29 tháng 3, "Hoo" gửi đi một bản báo cáo gay gắt về t́nh h́nh tại Đông Dương thuộc Pháp. Trong đó, cũng như cuốn sách của Shaw, là tŕnh tự thời gian chính xác và lịch sử Việt Nam từ khi Pháp xâm lược. Như một phần nền tảng mô tả hoạt động chống Pháp của Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận xét: "Bên cạnh quyền tự do hút thuốc phiện, uống rượu và nộp thuế, người Đông Dương không có quyền tự do nào khác". Thêm vào đó, ông đă cung cấp vô số thông tin về việc sử dụng tuyên truyền của Nhật và về thái độ của Việt Nam đối với cả Nhật và Đồng Minh. Chú ư đặc biệt được dành cho những hoạt động của Việt Minh: sự ủng hộ mà giai cấp nông dân dành cho họ, những hoạt động chống Nhật của họ, và sự ngược đăi của Pháp đối với họ.
"Bên cạnh tuyên truyền và công tác tổ chức", Hồ Chí Minh nói, "Việt Minh rất chú ư đến vấn đề giáo dục. Dù c̣n vô vàn khó khăn nhưng họ vẫn tổ chức những lớp học bí mật buổi tối để dạy người nông dân, cả nam lẫn nữ, đọc và viết. Tại những nơi Việt Minh hoạt động mạnh, nạn mù chữ gần như được xoá sổ". Tuy nhiên, ông cũng thành thật chỉ ra rằng công tác của họ vượt quá khả năng tự lực. Ban đêm, thanh niên Việt Minh luyện tập chiến tranh du kích với vũ khí tự tạo - thường là súng gỗ và gậy tre. Một phần v́ thiếu vũ khí nên sự kháng Nhật hiếm khi mang tính bạo lực. Hầu hết các hoạt động kháng cự đều mang tính thụ động. Chẳng hạn, ông giải thích "đôi khi các cán bộ giấu thực phẩm của Nhật, chỉ để hứng lấy sự trả đũa của Pháp. Khi t́m thấy nơi cất giấu, người Pháp sẽ tịch thu hết gạo và trừng phạt cả làng cộng sản". Khi xây dựng h́nh ảnh Việt Minh trong con mắt những người cuối cùng sẽ đọc báo cáo của ḿnh, Hồ Chí Minh đồng thời cũng lên án Pháp:
Pháp bắn chết người của Việt Minh, sau đó cắt cổ họ và treo lên một cái sào tại ngă tư làng. Người của Việt Minh thường bị chúng đốt nhà, tịch thu tài sản, bắt bớ người thân và đầu họ được Pháp treo giá cao. Nơi nào bị nghi ngờ có Việt Minh hoạt động, nơi đó cả làng sẽ bị tàn phá c̣n người dân bị bắt giữ… Các gián điệp Nhật và Pháp, những kẻ phản bội người Đông Dương và người Hoa đă h́nh thành một mạng lưới chỉ điểm được tổ chức hoàn hảo. Liên lạc ngầm thường bị cắt đứt và người của Việt Minh thường phải mất tới vài tuần để di chuyển trong một quăng đường ngắn. Các cán bộ Việt Minh thường phải chịu đói, rét và bệnh tật. Dù c̣n có khó khăn này khác, nhưng người của Việt Minh vẫn tiếp tục hoạt động và lớn mạnh, bởi họ có lư tưởng yêu nước sâu sắc. Họ có ḷng dũng cảm, sự kiên nhẫn và tinh thần hy sinh quên ḿnh. Họ biết ḿnh đang đấu tranh v́ cái ǵ, chịu đựng cái ǵ và khi cần, hy sinh v́ cái ǵ.
Mọi dấu hiệu đều cho thấy Hồ Chí Minh vô cùng tin tưởng vào kết quả cuối cùng của cuộc chiến: thất bại của Nhật và chiến thắng của Mỹ. Khi Hồ Chí Minh nói về chiến thắng sắp tới ông cũng đặt một câu hỏi tu từ cho độc giả người Mỹ của ḿnh: "Liệu Đồng Minh có thực sự chiến đấu v́ tự do và dân chủ của thế giới như họ vẫn trịnh trọng phát biểu trong các tuyên bố chính thức của họ hay không? Hay họ chiến đấu đơn giản v́ cứu rỗi quyền lợi thực dân ích kỷ của Pháp?". Fenn rất xúc động trước lời văn của Hồ Chí Minh. Và, giống như Shaw, Tan cũng bị chinh phục khi tṛ chuyện tới khuya với con người có sức lôi cuốn quần chúng này qua rất nhiều đêm ở bên nhau trong những khu rừng đại ngàn Bắc Việt Nam.
Cả Frank Tan và Mac Shin đều ở Tân Trào gần 4 tháng. Dù mới đầu Hồ Chí Minh hoài nghi việc đưa Tan và Shin vào Việt Nam, nhưng trong một trong những lá thư đầu tiên gửi Fenn ông nhận xét rằng cả hai đều thích nghi khá tốt. Công việc của Tan tại Bắc Kỳ nhanh chóng trở nên cực kỳ quan trọng. Khi ở đó, Tan đă tham gia "thu thập tin t́nh báo về Nhật đồng thời (hợp tác với AGAS) mở rộng mạng lưới lẩn tránh và trốn thoát. Ông cũng t́m kiếm những người Mỹ nào đó đang lẩn trốn tại tam giác Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn - tất cả đều nằm trong trọng tâm hoạt động chống Nhật của Hồ Chí Minh".
Trong những tháng làm việc bên nhau, Hồ Chí Minh và Tan đă có một t́nh bạn đặc biệt thân thiết. Với học vấn uyên bác và cá tính Mỹ, Tan nh́n bề ngoài có vẻ rất khác so với người bạn chiến đấu Việt Nam nhiều tuổi hơn. Nhưng họ sớm nhận ra rằng họ có nhiều điểm chung. Cả hai đều đă trải qua sự phân biệt đối xử tại quê nhà - Hồ Chí Minh dưới ách thống trị của Pháp và Tan là người Hoa lớn lên trong khu vực toàn "người da trắng" tại Boston. Tan nhớ lại những ngày đầu tại Boston: "Tôi sớm cảm nhận được rằng luôn luôn có một rào cản, luôn luôn có cảm giác rằng chúng tôi bị phân biệt đối xử so với người da trắng". Và cả hai đều phải trải qua t́nh trạng thiếu thốn t́nh cảm. Không lâu trước khi rời Trung Quốc tới Việt Bắc, Tan đă bị cô thư kư trẻ đẹp của Gordon hắt hủi.
Thất vọng và tổn thương, Tan giăi bày với Hồ Chí Minh, người về phần ḿnh đă kể cho Tan về nỗi luyến tiếc của chính ông v́ phải chia tay một thiếu nữ mà ông rất mến khi rời Việt Nam đi t́m đường cứu nước. "Trong suốt 4 tháng Mac Shin và tôi ở trong rừng rậm với ông Hồ, ông Giáp và đội quân của họ", Tan nhớ lại, "một t́nh bạn đă nảy nở giữa tất cả chúng tôi".
Tan cũng phản ánh t́nh cảm nảy sinh giữa Shin và Hồ Chí Minh. "Đối với một người trẻ và trông trẻ hơn như Mac, Hồ Chí Minh coi anh như con trai ḿnh. Ông nói rằng nếu Mac muốn quay trở lại Việt Nam sau chiến tranh th́ ông sẽ giúp anh định cư trên một mảnh đất đẹp, nhưng để Mac tự t́m cho ḿnh một cô vợ hiền". Cả Tan và Shin đều cảm nhận được thái độ dễ mến và ân cần - cái khiến ông được mọi người quư trọng suốt đời, như cái tên "Bác Hồ" hiền hậu và tốt bụng.
Tan hồi tưởng:
Khi quan hệ của tôi với Hồ Chí Minh trở nên thân mật hơn, tôi bắt đầu hiểu rơ con người ông - một người hiến dâng cả cuộc đời để giành lại tự do cho nhân dân ḿnh. Tôi có cảm giác ông là một người cô đơn, đă hy sinh và từ chối tất cả những tiện nghi và hạnh phúc thông thường của cuộc sống. Một sự hy sinh như thế khiến ông chẳng làm ǵ khác ngoài nghĩ và hành động cho một mục tiêu duy nhất. Do đó, chính tính không nhất quán này khiến cho một số người mô tả ông như một người cộng sản, hay ngược lại như một người yêu nước.
Trần Trọng Trung, một trong những học viên của Việt Minh học điều khiển điện đài tại Tân Trào, nhận xét về t́nh bạn đang lớn mạnh từ bối cảnh Việt Nam:
Tôi cũng nhận thấy rằng ông Mac Shin và ông Frank Tan rất quư Bác Hồ. Chính ông Mac Shin trong lúc lúc hướng dẫn, giảng bài về điện đài cũng nói. "Hồ Chí Minh của chúng ta là một người vĩ đại. Thật là một niềm vinh dự khi các anh được ở đây với ông, v́ vậy các anh phải cố gắng nắm bắt những công nghệ này sao cho có thể phụng sự ông tốt nhất".
Nh́n nhận lại, Trần Trọng Trung ví t́nh bạn bền vững giữa họ như một "mối t́nh đầu", anh kết luận, "tẩm ngẩm, tầm ngầm mà đấm chết voi".
Sự xuất hiện của Hồ Chí Minh và nhất là mối quan hệ rơ ràng của ông với Tan đă gây ra những khuấy động trong các đồng nghiệp của ông, vài người đă thậm chí tin vào những lời đồn đại rằng ông đă chết. Bất ngờ từ sự trở về của ông hoà lẫn với niềm cảm phục của họ trước những thiết bị mà Tan và Shin mang theo. Một trong những người đưa tin của Việt Minh được giao nhiệm vụ chuyển thư cho Fenn đă cung cấp nhiều chi tiết: "Họ mang theo mọi loại vũ khí, tốt hơn những thứ mà Pháp hay Nhật có". Những giải toả từ sự trở về của Hồ Chí Minh đă không được trọn vẹn bởi nỗi lo về t́nh trạng sức khoẻ đang suy yếu trầm trọng của ông. Chuyến đi gian khổ từng khiến một người trẻ tuổi như Tan muốn bỏ cuộc đă đẩy người đàn ông ngũ tuần tới giới hạn của sức chịu đựng.
Khi bắt đầu hồi phục, ông thực hiện một bước củng cố niềm tin cho người của ḿnh bằng cách khôn khéo sử dụng những vật lưu niệm tưởng chừng như không quan trọng trong thời gian ông ở Côn Minh: tấm ảnh có bút tích của Chennault và các khẩu Colt 45 mới cứng của Mỹ. Fenn ghi lại câu chuyện của người đưa tin trong nhật kư của ḿnh:
Khi đă b́nh phục ông mời tất cả những nhà lănh đạo cao nhất đến dự một cuộc họp, không chỉ có riêng người của ông, mà cả đối thủ ở các nhóm khác những kẻ đă lợi dụng sự vắng mặt của ông để tự đề cao ḿnh. Ông nói với họ hiện ông đă đành được sự giúp đỡ của người Mỹ, trong đó có Chennault. Lúc đầu không ai thực sự tin ông. Rồi ông đưa ra bức ảnh của Chennault với ḍng chữ "Thân ái". Sau đó ông đem tới vài khẩu súng lục tự động và tặng cho mỗi thủ lĩnh một khẩu. Họ cho rằng đích thân Chennault tặng những món quà này. Sau cuộc họp, vấn đề ai là người lănh đạo tối cao không bao giờ c̣n được bàn căi.
Tan nói thêm, chuyến bay tới biên giới trên một chuyên cơ Mỹ, khả năng của Shin giúp Hồ Chí Minh giữ liên lạc với người Mỹ qua điện đài và sự trở về của chính ông mang theo "vũ khí hạng nặng Mỹ" dường như "chứng minh t́nh bằng hữu với người Mỹ" đối với nhiều người có mặt hôm đó. Ngay sau cuộc họp, Tan đánh điện về Côn Minh rằng "uy tín của Hồ Chí Minh đă tăng thêm 10 điểm nữa", khi GBT thả vào một loạt đồ tiếp tế - "máy điện đài, thuốc men, dụng cụ nhỏ, vũ khí".
Khỏi phải nói, người đưa tin đă đánh giá sức mạnh của Hồ Chí Minh rất cao cả trước mắt và lâu đài. Nhưng dù chân thành trong hầu hết những quan hệ trước đây của ḿnh với Mỹ khả năng tác động đến t́nh h́nh khó tin của Hồ Chí Minh và vai tṛ của Mỹ trong đó nên được đánh giá một cách khách quan. Nh́n lại những tháng trọng yếu sau cuộc đảo chính, Fenn kết luận rằng Hồ Chí Minh đă trở thành "nhà lănh đạo khỏi bàn căi của một đảng cách mạng có sức mạnh áp đảo". Vào thời điểm cuộc đảo chính xảy ra, Hồ Chí Minh "đă là lănh đạo của một trong số nhiều chính đảng", Fenn nói tiếp. Ông "không được Mỹ thừa nhận, bị Pháp chống đối, bị Trung Quốc lảng tránh; lại không có vũ khí và thiết bị. Vào lúc đó, ông cũng bị chia cắt khỏi nhóm của ḿnh tới 600 dặm cách trở và không có cơ hội đi bằng máy bay suốt quăng đường đó. Tất cả những điều này đă thay đổi, ông tin rằng, "phần lớn là nhờ vào GBT".
Đầu tháng năm, Tan đều đặn gửi tin t́nh báo từ căn cứ của Việt Minh, đặc biệt là những tài liệu MO như "báo, truyền đơn, sổ ghi chép của Nhật và vài viên thuốc của Nhật được phát cho người An Nam". Tại Côn Minh, các cán bộ Việt Minh được GBT huấn luyện để sau này thực hiện liên lạc điện đài tại Đông Dương. Và dù Fenn báo cáo rằng ông thường xuyên gửi thông tin MO mà ông nhận được tới tổng hành dinh của OSS, nhưng mọi dấu hiệu đều cho thấy ông muốn giữ điệp viên Lucius, và các cán bộ Việt Minh khác như Phạm Văn Đồng, cho GBT và AGAS hơn. Nghi ngờ ḷng trung thành với tổ chức của Fenn, các điệp viên của OSS tại Côn Minh, đặc biệt là Archimedes Patti, người rất nóng ḷng muốn tiếp kiến và dùng điệp viên Lucius cho chính họ, sẽ phải t́m cách khác để gặp được người làm chủ t́nh h́nh lúc này - Hồ Chí Minh.
Chú thích:
(1) Charles Pierre Baudelclire (1821 - 1867) là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất ở Pháp trong thế kỷ 19
7. Quan hệ sâu sắc hơn: Hồ Chí Minh và người Mỹ
Khi Frank Tan và Mac Shin thực hiện chuyến đi tới căn cứ Việt Minh, mạng lưới t́nh báo GBT lại một lần nữa lại h́nh thành. Charles Fenn và Harry Bernard nhận được những báo cáo tại Côn Minh và chuyển chúng qua Không đoàn Hổ bay đến AGAS. Fenn giữ liên lạc với OSS và cũng chuyển thông tin chi tiết cho MO. Nhưng mối quan hệ giữa OSS và GBT không hề cải thiện, và Fenn vẫn không cung cấp cho OSS những điều họ cần nhất: quyền sử dụng nhân viên GBT. Tuy nhiên, những con đường tiếp cận mới đang mở ra cho OSS.
Trong chuyến đi vài ngày đến Côn Minh vào ngày 13 tháng 4, câu hỏi của Archimedes Patti về những người Việt Nam lưu vong đă thu hút sự chú ư của Việt Minh.
Vương Minh Phương, một cán bộ Việt Minh đang sống tại Côn Minh, đă gọi điện cho Patti vào giữa tháng 4. Patti mô tả Vương Minh Phương là một thanh niên có giáo dục tốt ở độ tuổi ba mươi. Vương Minh Phương nói về mối quan hệ trước kia với Austin Glass và thông báo cho Patti những người anh biết tại Côn Minh, gồm các nhân viên tại OWI và một cố vấn người Mỹ. Hai người đă nói chuyện gần cả ngày, và Patti nhanh chóng đi đến kết luận Vương Minh Phương nắm rơ về OSS và AGAS hơn những ǵ Patti biết về Việt Minh. V́ thế, dù đă quen với cái tên Vương Minh Phương qua những báo cáo nhưng Patti cũng phải thừa nhận rằng Phương biết nhiều về ông hơn ông biết về Phương. Trong cái đang trở thành phong cách đặc thù của Việt Minh, Phương nói rơ sự thật về mối tương tác giữa Việt Minh với Chennault, AGAS, và OSS. Patti nhận xét: "Với một cảm giác tự hào, Vương Minh Phương đă kể lại chi tiết việc các đồng chí của anh ta tại Đông Dương và Trung Quốc đă làm việc gần gũi như thế nào với nhiều người Mỹ của OSS và tướng Chennault, cung cấp mệnh lệnh tác chiến của Nhật và các thông tin quan trọng khác. Phương nói bóng gió về các chiến dịch của OSS - AGAS trong đó Việt Minh góp phần giúp nhiều phi công Quân đội và Hải quân t́m nơi ẩn náu và chỉ dẫn họ đến nơi an toàn".
Rơ ràng, việc tô hồng sự thật đôi chút trở nên có ích thực sự đối với Việt Minh. Giống như Hồ Chí Minh đă nói về bản chất mối tương tác với Chennault nhằm củng cố quyền lực trước những đối thủ chọn lọc, lúc này Vương Minh Phương đề cao mối quan hệ giữa Việt Minh với cả OSS lẫn AGAS, hy vọng khuyến khích Patti cộng tác và có lẽ để đem lại cho họ những ǵ họ mong muốn: được nước Mỹ thừa nhận là một "tổ chức có quyền lực và hợp pháp duy nhất đại diện cho nhân dân Việt Nam" trong cuộc chiến chống Nhật. Mặc dù Vương Minh Phương và Hồ Chí Minh có cường điệu về thực chất mối quan hệ với người Mỹ, nhưng họ không hề nói dối về điều đó; những ǵ họ tuyên bố đều có thực. Cả hai biết rất rơ nếu bị phát hiện nói dối, họ và những bức thông điệp của họ sẽ bị gạt bỏ và họ sẽ có rất ít cơ hội để lấy lại ḷng tin. Mặc dù yêu cầu của Phương - được thừa nhận là "tổ chức có quyền lực và hợp pháp duy nhất" ở Việt Nam - biểu thị một mức độ hợp pháp mà OSS chưa sẵn sàng và cũng không thể đưa ra vào thời điểm đó, nhưng OSS đă biết nhiều về vấn đề này. Trong khoảng thời gian ngắn từ đầu tháng 4, OSS đă tuyên bố rằng "quân đội" Việt Minh là "cốt lơi của tất cả các lực lượng chống Nhật ở Đông Dương có các nhóm quân tại nhiều vùng: Bắc Cạn, Thái Nguyên và Cao Bằng". Mặc dù đánh giá này - giống như những tuyên bố của Việt Minh - rơ ràng đă được cường điệu, nhưng nó dường như trở thành một lời giới thiệu đúng đắn về những ǵ OSS tin tưởng.
Trong cuộc nói chuyện với Patti, Vương Minh Phương mô tả Việt Minh là một mặt trận chính trị và cũng là một "lực lượng vũ trang, được tổ chức thành các đơn vị du kích và tích cực hoạt động trong cuộc kháng chiến chống Nhật". Phương cam đoan với Patti rằng Việt Minh sẵn sàng chiến đấu sát cánh bên người Mỹ chống lại kẻ thù chung.
Trên thực tế, vào năm 1941, trong Kỳ họp mở rộng lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương, ICP đă tuyên bố "khẩu hiệu của Đảng trước tiên là giải phóng nhân dân Đông Dương thoát khói ách thống trị của Nhật và Pháp". Tuy nhiên, trong ba năm sau, hoạt động của Việt Minh giành được ít kết quả hơn so với mong đợi. Năm 1944 Việt Minh thành lập lực lượng Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân đầu tiên để bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang giành tự do cho Việt Nam. Những chỉ thị của Hồ Chí Minh cho Vơ Nguyên Giáp, trước kia là thầy giáo lịch sử và hiện là cán bộ cấp cao của Việt Minh, nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến tranh du kích trong cuộc chiến này. Hồ Chí Minh khuyên Vơ Nguyên Giáp cần phải "áp dụng chiến tranh du kích; giữ vững bí mật, khẩn trương hành động và giành thế chủ động (lúc ở đông lúc ở tây, đến không ai biết, đi không ai hay)". Tại lễ thành lập Việt Nam Tuyên truyền Giải Phóng Quân ngày 22 tháng 12, Vơ Nguyên Giáp đă kêu gọi mọi người cùng chung sức gánh vác nhiệm vụ khó khăn trong cuộc chiến chống hai kẻ thù mạnh hơn rất nhiều, Nhật và Pháp. Những câu nói rơ ràng đă thôi thúc rất nhiều thính giả:
Chúng ta nêu cao tinh thần dũng cảm và hy sinh, không bao giờ sợ hăi dù gặp khó khăn, không rời hàng ngũ dù phải chịu đau khổ. Đầu có thể rơi, máu có thể đổ, nhưng chúng ta sẽ vẫn không chịu lùi buộc. Ḷng hờn căm của dân tộc là quá lớn, nhiều hành động tàn bạo bí thảm chờ được thanh toán. Chúng ta sẽ nói rơ cho cả dân tộc rằng con đường sống chính là con thống nhất nhau để chuẩn bị nổi dậy vũ trang. quân Giải phóng sẽ chứng tỏ là lực lượng vũ trang của nhân dân, của đất nước, đi tiên phong trên con đường giải phóng dân tộc.
Vơ Nguyên Giáp liên kết cuộc chiến sắp xảy ra với lịch sử và truyền thống Việt Nam, kêu gọi những người lính Giải phóng thề danh dự dưới cờ với lời thề "hy sinh tất cả cho Đất mẹ Việt Nam, chiến đấu tới giọt máu cuối cùng để tiêu diệt phát xít Nhật, Pháp và bè lũ Việt gian, làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập, dân chủ sánh vai với các nước dân chủ khác trên thế giới". Trong hai tháng sau đó, "sử dụng một ít vũ khí có thể nhận được từ nhân dân hoặc từ những cuộc tấn công bất ngờ vào các đồn bốt Pháp, các đội tuyên truyền vũ trang bắt đầu liên tục tấn công nhật và Pháp tại các vùng núi thuộc miền Bắc Việt Nam". Tuy nhiên, những cuộc giao tranh chống Nhật của họ không nhiều. Khi Nhật đảo chính hất cẳng Pháp, Việt Minh trở nên tích cực hơn trong cuộc chiến đấu chống Nhật. "Lời hiệu triệu chiến đấu chống Nhật của Việt Minh" vào tháng 3 năm 1945 công khai nh́n nhận t́nh h́nh:
Máu chúng ta đă sôi
Bụng chúng ta trống rỗng
Tài sản của chúng ta bị cướp bóc
Gia đ́nh của chúng ta nát tan
Chính quân Nhật phảí chịu trách nhiệm cho tất cả những thảm hoạ này. Chỉ có một con đường duy nhất để chúng ta cứu lấy cuộc sống của ḿnh: toàn thể đồng bào ta phải chuẩn bị đánh đuổi loài chim săn mồi Nhật.
"Những lời hiệu triệu" kêu gọi nhân dân "không than van vô ích" và thôi thúc họ tự trang bị vũ khí với "gậy gộc, giáo mác, dao, đánh đuổi giặc Nhật và giành lại kho thóc và nhà cửa của các bạn". Năm 1946 Trường Chinh đă tuyên bố rằng sau đảo chính, quân du kích (Việt Minh) liên tục tấn công nhiều đồn bốt tại các vùng cao và trung du thuộc miền Bắc Việt Nam, tước vũ khí của nhiều lính Pháp và các đến vị Bảo an để ngăn chặn vũ khí của chúng rơi vào tay Nhật; tấn công quân đội Nhật đang di chuyển dọc theo các tuyến đường bộ thuộc Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn và Cao Bằng, quấy rối quân địch thậm chí ngay tại thủ phủ của tỉnh Bắc Cạn, và tấn công bất ngờ vào căn cứ của chúng tại Chợ Chu. Mặc dù mô tả của Trường Chinh có thể là cường điệu, nhưng Việt Minh liên tục quấy rối Nhật sau cuộc đảo chính tháng Ba. Nhiều năm sau, Trần Thị Minh Châu hồi tưởng về kết quả các cuộc tấn công trước đây:
Qua các cuộc tấn công, chúng tôi đă tiêu diệt được kẻ thù thu nhiều vũ khí và hàng tiếp tế. Đôi khi chúng tôi c̣n thu được đủ vũ khí để trang bị cho cả một trung đội. Tại Cao Bằng, Vơ Nguyên Giáp đă phát động tấn công vào các bốt gác của kẻ thù tại Nà Ngần và Phay Khắt. Ở đó, chúng tôi đă thu được toàn bộ vũ khí. Vào lúc đó, theo chính sách của Việt Minh, có thể tiến hành tấn công kẻ thù tại mỗi địa phương có điều kiện thuận lợi.
Ngoài ra, Frank Tan gửi điện về sở chỉ huy GBT tường thuật lại vài trận đánh thành công tương tự của Việt Minh như Trường Chinh đă đề cập đến, gồm cuộc tấn công tại Bắc Cạn và cuộc phục kích đoàn hộ tống Nhật gần Chợ Chu. Ít ra nguồn tin của Nhật cũng chứng minh hoạt động du kích của Việt Minh. Trong "Báo cáo về những biện pháp do Đạo quân Nhật thứ 8 tại FIC thực hiện suốt năm 1945" được viết sau khi Nhật đầu hàng, tác giả người Nhật xác nhận "các hoạt động của Đảng Việt Nam tại Bắc Đông Dương ngày càng trở nên mạnh mẽ, đặc biệt là quấy rối an ninh công cộng, nhằm đánh đuổi Nhật để thiết lập nền độc lập hoàn toàn cho nhân dân…", bản báo cáo tiếp tục, Nhật buộc phải tiếp tục sử dụng sức mạnh đáng kể trong việc đàn áp khá vất vả những người ủng hộ Việt Minh cho tới tận ngày đ́nh chiến 15 tháng 8". Mặc dù yếu hèn khi so sánh với các phong trào bí mật của châu Âu trong chiến tranh, nhưng Việt Minh đă được tổ chức và có một lịch sử vững chắc trong việc kêu gọi nhân dân đứng lên chống Nhật. Đến tháng 6, Nhật bắt đầu khó chịu với những cuộc quấy rối của Việt Minh nên đă ra lệnh cho Sư đoàn 21 (Nhật) đàn áp Việt Minh. Dựa trên các nguồn tin của Nhật và Việt Minh, nhà sử học Stein Tonnesson đă mô tả quyết định đó như sau:
Sau vụ một trung uư Nhật bị giết trong cuộc phục kích của Việt Minh, quân đội Nhật đă bắt bốn người có cảm t́nh với Việt Minh trong ngôi làng gần nhất và tra vấn họ. Sau đó họ được tha và mang về trao cho các chỉ huy của họ vài lá thư nội dung nói về thái độ đồng cảm nói chung đối với cuộc chiến giành độc lập của Việt Minh nhưng lại thuyết phục Việt Minh hợp tác với Nhật chống lại Anh và Mỹ. Nhật không có ư định chiếm đóng những khu vực Việt Minh đang hoạt động, nhưng nếu Việt Minh vẫn tiếp tục tấn công th́ Nhật sẽ đíều tới một đại đội để tiêu diệt bằng hết. Việt Minh đáp trả bằng việc cho xuất bản một bản tóm tắt nội dung những bức thư trên tờ báo bí mật. Chẳng bao lâu vấn đề Việt Minh được tŕnh lên cấp cao nhất tại Hà Nội…
Rơ ràng, sở chỉ huy của Nhật tại Hà Nội kết luận, ít nhất là trong lúc này không thể đạt một được thoả thuận sơ bộ với Việt Minh v́ vậy vào tháng 6 năm 1945 Sư đoàn 21 của Nhật đă được lệnh tiến đánh quân du kích.
Tuy nhiên, khi hành động này c̣n chưa xảy ra, Chi nhánh R&A của OSS đă thông báo cho Patti rằng nó có "những báo cáo về sự chống đối quân Nhật tích cực của Việt Minh tại khu vực Tuyên Quang - Thái Nguyên - Lạng Sơn - Bắc Cạn và các hoạt động của họ có vẻ là chiến thuật bán quân sự". Với thông tin này, sau khi đă nghe Vương Minh Phương kể nhiều về quá tŕnh lịch sử của Việt Minh và tin tưởng vào năng lực tiềm tàng của Việt Minh, Patti hứa sẽ bàn bạc về khả năng sử dụng Việt Minh với các đồng nghiệp. Nhưng Patti cũng có một yêu cầu: ông muốn gặp Hồ Chí Minh.
Khi Patti báo cáo với Helliwell, Heppner và thiếu tá Robert E. Wampler, chỉ huy chi nhánh SO của OSS tại Côn Minh về nội dung cuộc nói chuyện với Vương Minh Phương, tất cả đều bày tỏ sự lo lắng là bất cứ loại vũ khí nào được cung cấp cho Việt Minh đánh Nhật sẽ nhanh chóng trở thành công cụ chống lại Pháp. Tuy nhiên, bản chất tương đối bất hợp tác của người Pháp và người Hoa địa phương lại làm cho Việt Minh trở thành lựa chọn hàng đầu trong nhiều giải pháp tốt nhất của OSS nhằm kiếm được các đặc vụ cần thiết để thiết lập mạng lưới t́nh báo quân sự tại FIC đă được định h́nh trong Dự án QUALL. Hơn nữa, thông tin của Patti cho rằng cuộc gặp với Hồ Chí Minh là con đường tốt nhất nhằm kiếm được những đặc vụ mà ông cần. Khi Patti và Vương Minh Phương gặp nhau lần thứ hai, Phương nói với Patti anh đă gửi thông điệp tới Hồ Chí Minh và đă bố trí một cuộc gặp tại thị xă biên giới Tĩnh Tây.
Cuối tháng 4, Patti rời Côn Minh, kết hợp chuyến đi đến các đơn vị của OSS đóng quân dọc theo biên giới Trung Quốc với chuyến thăm Tĩnh Tây. Sau khi làm các thủ tục với một người trung gian là một đảng viên cộng sản Trung Quốc, Patti và Hồ Chí Minh cuối cùng đă gặp nhau tại một hiệu ăn Tầu nhỏ bên đường vào ngày 27 tháng 4 năm 1945. Ngay từ đầu hai người đă có thiện cảm với nhau. Mặc dù từ những nền tảng hoàn toàn khác nhau nhưng hai ông đều có chung nhiều đặc điểm: cả hai đều có, theo đánh giá của nhiều người, một trí tuệ sắc bén, và cả hai đều biết làm chủ t́nh thế. Patti vô t́nh nói ra những câu mà theo bản năng ông biết rơ sẽ thu hút sự chú ư của Hồ Chí Minh: "Tôi rất hài ḷng khi được gặp một người có nhiều bạn bè Mỹ tại Côn Minh". Hồ Chí Minh kể vắn tắt một danh sách dài những mối bất b́nh đối với chủ nghĩa thực dân Pháp và cho Patti xem một loạt ảnh các nạn nhân nạn đói năm 1945 vốn đă bị những hành động của cả Nhật và Pháp làm cho trầm trọng hơn. Tuy nhiên, bắt tay vào công việc, ông đề xuất những ǵ phía ông có thể thực hiện cho người Mỹ, nhưng bản thân ông không đề nghị ǵ trực tiếp v́ có lẽ ông biết những đ̣i hỏi không ngừng của cả Pháp và Trung Quốc đă khiến Mỹ khó chịu. Trong quá tŕnh mô tả tổ chức và công tác hiện nay của Việt Minh, ông kể cho Patti rằng AGAS và Việt Minh hiện đang cùng cộng tác để tổ chức hoạt động bí mật trong vùng nội địa nhằm giúp đỡ các phi công bị bắn rơi, nhưng ông coi đó là vấn đề khác.
Nhiệm vụ của AGAS mà ông ám chỉ rơ ràng là sứ mạng của GBT đă đưa Frank Tan và Mac Shin tới Việt Bắc. Tuy nhiên, theo như báo cáo của Patti, ông không đả động ǵ tới GBT, Tan hay mối quan hệ với GBT của ông và cả thông tín viên ở Côn Minh, Charles Fenn. Dường như đây có vẻ là sự bỏ xót có tính toán của ông. Mỗi nhân viên OSS, những người đă kể hoặc viết về những cuộc đấu trí giữa họ và Hồ Chí Minh, đều b́nh luận rằng ông biết về bản thân họ nói riêng và người Mỹ nói chung nhiều hơn những ǵ họ biết về ông hay Việt Minh. Nếu Hồ Chí Minh biết t́nh trạng đối đầu giữa OSS và GBT/ Fenn th́ rơ ràng tốt nhất là thay đổi lời khen đối với thông tin Tan gửi cho AGAS (xét cho cùng th́ cả Fenn và GBT đều làm việc với AGAS), bỏ qua mối quan hệ giữa ông với Fenn "gây rối", và lôi kéo tân đại diện của OSS vào những ǵ Việt Minh có thể làm cho ông ta.
Đối với Patti, khả năng sử dụng Việt Minh dường như đầy hứa hẹn. Ông kết luận, giống như Tan và Fenn trước đây, Hồ Chí Minh có thể tin cậy được. "Mặc dù tính khách quan cẩn trọng và nhận thức có mục đích của tôi không cho phép bản thân ḿnh dính vào các lĩnh vực chính trị thuộc vấn đề Đông Dương", Patti nhớ lại, "nhưng sự chân thành, hành động thực tế và tài hùng biện của Hồ Chí Minh đă gây cho tôi một ấn tượng sâu sắc". Tại cuộc gặp đó và cả những cuộc gặp sau này, Patti đi đến một kết luận khiến ông xử sự theo những cách nh́n lại có vẻ đáng ngờ vào cuối mùa hè năm 1945, nếu không phải rơ ràng là thời gian đó. "Tôi biết", Patti viết, "mục đích cuối cùng của ông (Hồ Chí Minh) là giành được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước Việt Nam tự do và tôi cảm thấy niềm khao khát đó không trái ngược với chính sách của Mỹ". Ngược ḍng thời gian, cuối tháng 4 năm 1945, Patti bị thúc giục phải thu thập được thông tin từ Đông Dương: G-2 (chi nhánh t́nh báo quân sự của quân đội Mỹ) muốn các hoạt động của OSS ở cả Hà Nội và Sài G̣n, tổng hành dinh mặt trận cần tin t́nh báo về t́nh h́nh chuyển quân của các đơn vị chiến đấu Nhật và việc xây dựng các căn cứ quân sự mới, c̣n cơ quan MO muốn có một chiến dịch tuyên truyền mới. "Họ muốn mọi thứ và muốn ngay lập tức", Patti viết. "Từ một quan điểm thực tế, Hồ Chí Minh và Việt Minh h́nh như là câu trả lời cho vấn đề trước mắt của tôi trong việc thiết lập các hoạt động tại Đông Dương". Nếu kế hoạch của Patti thành công, các nhân viên điện đài và các đặc vụ đă được huấn luyện của Việt Minh có thể bố trí cho Dự án QUALL. Tại đây, việc lên kế hoạch những yêu cầu đối với Chiến dịch CARBONADO khiến Patti quan tâm, nó đặt ra mức độ cao hơn về những tin t́nh báo chính xác lấy từ Việt Nam và do đó cả về mối quan hệ của ông với Việt Minh. CARBONADO là tên mật mă của một cuộc tấn công đă được lập kế hoạch của Đồng Minh tại miền Nam Trung Quốc bao gồm "tấn công trên bộ, dọc theo tuyến Quế Lâm - Liễu Châu - Nam Ninh để bảo vệ khu vực Quảng Châu - Hồng Công và thông ra các hải cảng chính tại miền Nam Trung Quốc để tiếp nhận quân từ châu Âu và Philippines".
Trên thực tế, CARBONADO là một kế hoạch nghi binh nhằm kéo quân đội Nhật ra khỏi những mục tiêu tấn công thực sự của Mỹ. Tất nhiên bí mật này được giới hạn trong những chỉ huy cao cấp, và OSS được yêu cầu thu thập thông tin t́nh báo cho CARBONADO với sự gấp rút như đổi với một chiến dịch thật. Quả thực, Stein Tonnesson tin rằng QUALL "có thể đă đóng một vai tṛ quan trọng nếu như CARBONADO được thực hiện", và với tư cách là các đặc vụ, "du kích Việt Minh đă có thể đem lại sự giúp đỡ quư báu cho OSS bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch thâm nhập Bắc Kỳ của quân Trung Quốc theo chiến dịch CARBONADO.
Khó khăn trong tiếp tế cho quân đội suốt chiến dịch CARBONADO đ̣i hỏi trước tiên phải giành được một cảng nhỏ tại Fort Bayard. Cảng biển này đủ để đưa vào bờ "những đợt hàng tiếp tế O ạt - ít nhất một chuyến tàu Liberty mỗi ngày", nhưng một khi nằm sâu trong lănh thổ, những vấn đề tiếp tế mới sẽ có thể nảy sinh đo chất lượng kém của phần lớn các tuyến đường trong khu vực. OSS chịu trách nhiệm quấy nhiễu kẻ thù bằng cách thực hiện các hoạt động du kích, phá hoại và tuyên truyền. Các đặc vụ của QUAIL sẽ cung cấp thông tin t́nh báo quyết định về bố trí và di chuyển của quân đội Nhật ở Đông Dương để dễ dàng ngăn chặn chúng tăng viện cho các khu vực đang bị tấn công. Để chuẩn bị cho hoạt động này, OSS đă được chỉ thị sử dụng các đội du kích phá vỡ hành lang của Nhật giữa Hà Nội và Nam Ninh.
Với một chiến dịch quá lớn như CARBONADO, nhu cầu thông tin t́nh báo chính xác tại Đông Dương là yếu tố quyết định. Vào tháng 5, khi được nghe Heppker tóm tắt về chiến dịch CARBONADO, Patti không có nhiều lựa chọn t́m kiếm đặc vụ trong khu vực: Patti vừa quư trọng vừa tin tưởng Hồ Chí Minh và mối quan hệ của ông với người Pháp đang dần xấu đi. Đến cuối năm 1945, nhiều người Pháp và một số người Mỹ sẽ buộc tội Archimedes Patti chống Pháp. Nói chung, Patti bác bỏ lời buộc tội này và tuyên bố chắc chắn t́nh h́nh sẽ không như thế khi ông đến Côn Minh vào tháng Tư. Ngay từ đầu nhiệm kỳ tại Trung Quốc, Patti đă bị người Pháp đ̣i hỏi quá nhiều về tiếp tế và thông tin. Patti thừa nhận là các đặc vụ Pháp có thể liên quan tới công tác thu thập thông tin t́nh báo trong thuộc địa và ông có thể làm việc cùng họ. V́ tính cấp bách trong thu thập tin t́nh báo về quân Nhật tại Việt Nam càng ngày càng tăng nên vấn đề làm việc với Pháp được đặt lên hàng đầu. Patti đă tới gặp tướng Sabattier tại Swemao và tận mắt chứng kiến "cảnh tượng khốn khổ" của đội quân Pháp bại trận. Patti và các nhân viên nói được tiếng Pháp đi cùng đă dừng chân tại một thị trấn miền nam Trung Quốc trong mười ngày để phỏng vấn những người tị nạn Pháp - các sĩ quan, sĩ quan dự bị, các nhân viên cấp thấp, nhân viên dân sự và thương gia. Nh́n chung, Patti không hề có ấn tượng về khả năng của họ trong việc tiến hành thành công các chiến dịch cấp bách. Patti cảm thấy thương cho điều kiện thể chất của những con người ốm yếu nhưng toàn bộ ấn tượng của ông về những người Pháp bị trục xuất là ác cảm. Patti mô tả cuộc nói chuyện với những người Pháp đó là "một bức tranh không hấp dẫn về thái độ lănh đạm, đầy thù hận và quyền lợi ích kỷ". Qua nhiều cuộc tiếp xúc hơn nữa với các nhân vật khác, cách nh́n của Patti về người Pháp tại Trung Quốc thậm chí c̣n tệ hơn. Giống Milton Miles trước đây, các nỗ lực làm việc với quân đội và cá nh