Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

OSS và Hồ Chí Minh -

Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật

 

Tác giả :      Dixee R. Bartholomew - Feis

Dịch giả :      Lương Lê Giang

 

 

 

Lán Nà Lừa (Tân Trào) nơi Hồ Chí Minh sống trong năm 1945 (Ảnh tư liệu của Nguyễn Học)  

Khi cả nhóm đến Tân Trào, Hồ Chí Minh đưa cho Tan một "bản báo cáo cuộc hành quân được đánh máy với nhiều chi tiết về địa thế hiểm trở, những mối nguy hiểm khi hành quân ban đêm, hệ thống quân thám và phu khuân vác phức tạp dọc đường, những động vật hoang đă gặp phải…". David Marr viết rằng "rơ ràng Hồ Chí Minh muốn gây ấn tượng cho Tan về chuyến đi gian khổ từ biên giới, hy vọng những báo cáo điện đài Tan gửi về Côn Minh sẽ giành được thiện cảm và khiến Đồng Minh tăng viện trợ cho Việt Minh".

Báo cáo được cung cấp cho Tan chứa đựng những điều tương tự như nhật kư của trung uư Shaw; cả hai đều đặt Việt Minh vào giai đoạn trung tâm trong cuộc chiến đấu đang tiếp diễn chống lại cả Nhật và Pháp. Nhờ sự giúp đỡ của Hồ Chí Minh, công tác tổ chức một mạng lưới người đưa tin t́nh báo được tiến hành trong khi đó Mac Shin huấn luyện các học viên điều khiển điện đài, cả "truyền và nhận tin và làm thế nào để sử dụng ánh sáng làm dấu hiệu thu hút sự chú ư của máy bay", Tan đă truyền đạt rất nhiều chi tiết về căn cứ của Việt Minh và các chiến sĩ du kích cho Fenn:

Mọi người chào tôi và làm tất cả những ǵ có thể để giúp chúng tôi, và họ lo rằng chúng tôi không ăn được thức ăn nghèo dinh dưỡng của họ. Mac đang dạy họ kỹ thuật điện đài và nói họ đều yêu mến anh. Họ đều có ư thức quân sự và luyện quân hàng ngày. Việc chúng tôi mang tới đây một khối lượng lớn súng (được báo cáo là có 2 khẩu súng trường 3 khẩu cacbín, một khẩu Bren, vài khẩu súng lục) và đạn được thực sự có ích. Họ nói vũ khí của chúng tôi tốt hơn của Pháp và của Nhật nhiều. Ở đất nước này mỗi người đều có một loại súng nào đó. Tôi thấy một khẩu súng trường loại 1904 Remington ở đây, một khẩu súng kíp phải đánh lửa và một khẩu khác phải châm ng̣i để khởi động ng̣i nổ sau đó súng mới khai hoả. Một số lại giống như súng săn, nhưng phải nạp đạn từ phía trước - lắp đạn và nhồi thuốc súng vào. Sau đó đặt một đầu que diêm vào ng̣i nổ và bóp c̣: trông giống như súng mà những người hành hương sử dụng để bắn gà tây!

Những người đưa tin đầu tiên từ Pác Bó mang về rất nhiều thông tin từ bên trong Đông Dương, bao gồm "thư, bản đồ, tài liệu truyền đơn của Nhật và những tài liệu MO khác". Tan báo cáo rằng sau đảo chính người dân trở nên chống Nhật hơn là chống Pháp. Trong một lá thư cùng thời điểm, Hồ Chí Minh cảm ơn Fenn v́ đă cưu mang một nhóm Việt Minh mà ông đưa tới Côn Minh, v́ đă huấn luyện và dạy họ "những điều cần thiết khác trong cuộc đấu tranh chung chống Nhật của chúng ta". Ông kết thúc bức thư ngắn của ḿnh bằng cách một lần nữa gửi lời mời Fenn tới thăm căn cứ của Việt Minh và đề nghị Fenn gửi "lời thăm hỏi của ḿnh tới tướng Chennault". Một lần nữa ông chứng tỏ sự chân thành của ḿnh. Có thể nếu những lời thăm hỏi vô hại này đến tai vị tướng, cái tên Hồ Chí Minh sẽ sống măi trong trí nhớ của Chennault, hay ít nhất Chennault cũng gắn tên Hồ Chí Minh với một ư nghĩa tích cực mỗi khi nhớ đến trong những hoàn cảnh khác.

Sau khi Tan và Shin tới Tân Trào, số lượng và chất lượng của các báo cáo t́nh báo bắt đầu tăng. "Sau một thời gian", Nguyễn Kim Hùng nhớ lại, "trong số hàng thả dù tiếp tế có một vài máy điện đài kỹ thuật số. Với những thứ này, Hồ Chí Minh quyết định thiết lập ba trạm điện đài nữa. Một ở Hà Giang, do ông Quư phụ trách. Một ở Lạng Sơn, do ông Liễu Minh phụ trách. Trạm c̣n lại ở Cao Bằng do ông Bắc chịu trách nhiệm. Và tôi nhớ rằng nhiệm vụ được giao cho các trạm này là thu thập thông tin thời tiết hai lần một ngày cho lực lượng Đồng Minh, cung cấp thông tin t́nh báo và thông tin về vị trí đóng quân của Nhật để lực lượng Đồng Minh tấn công đồng thời t́m kiếm những địa điểm thích hợp để thả hàng tiếp tế và hạ cánh".

Việc Hồ Chí Minh có phải là người ra quyết định chính về địa điểm thiết lập các trạm điện đài do GBT/AGAS/OSS tài trợ hay không vẫn c̣n chưa được xác nhận. Tuy nhiên, mối quan hệ của ông với người Mỹ và nỗ lực chiến tranh của Đồng Minh dường như đă tiếp thêm sức mạnh cho những thành viên trẻ của Việt Minh và giúp củng cố khả năng kiểm soát của ông. Nhưng thậm chí trước khi thiết lập mạng lưới này tại Bắc Kỳ, điệp viên Lucius đă bắt đầu gửi báo cáo cho Fenn. Ngày 29 tháng 3, "Hoo" gửi đi một bản báo cáo gay gắt về t́nh h́nh tại Đông Dương thuộc Pháp. Trong đó, cũng như cuốn sách của Shaw, là tŕnh tự thời gian chính xác và lịch sử Việt Nam từ khi Pháp xâm lược. Như một phần nền tảng mô tả hoạt động chống Pháp của Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận xét: "Bên cạnh quyền tự do hút thuốc phiện, uống rượu và nộp thuế, người Đông Dương không có quyền tự do nào khác". Thêm vào đó, ông đă cung cấp vô số thông tin về việc sử dụng tuyên truyền của Nhật và về thái độ của Việt Nam đối với cả Nhật và Đồng Minh. Chú ư đặc biệt được dành cho những hoạt động của Việt Minh: sự ủng hộ mà giai cấp nông dân dành cho họ, những hoạt động chống Nhật của họ, và sự ngược đăi của Pháp đối với họ.

"Bên cạnh tuyên truyền và công tác tổ chức", Hồ Chí Minh nói, "Việt Minh rất chú ư đến vấn đề giáo dục. Dù c̣n vô vàn khó khăn nhưng họ vẫn tổ chức những lớp học bí mật buổi tối để dạy người nông dân, cả nam lẫn nữ, đọc và viết. Tại những nơi Việt Minh hoạt động mạnh, nạn mù chữ gần như được xoá sổ". Tuy nhiên, ông cũng thành thật chỉ ra rằng công tác của họ vượt quá khả năng tự lực. Ban đêm, thanh niên Việt Minh luyện tập chiến tranh du kích với vũ khí tự tạo - thường là súng gỗ và gậy tre. Một phần v́ thiếu vũ khí nên sự kháng Nhật hiếm khi mang tính bạo lực. Hầu hết các hoạt động kháng cự đều mang tính thụ động. Chẳng hạn, ông giải thích "đôi khi các cán bộ giấu thực phẩm của Nhật, chỉ để hứng lấy sự trả đũa của Pháp. Khi t́m thấy nơi cất giấu, người Pháp sẽ tịch thu hết gạo và trừng phạt cả làng cộng sản". Khi xây dựng h́nh ảnh Việt Minh trong con mắt những người cuối cùng sẽ đọc báo cáo của ḿnh, Hồ Chí Minh đồng thời cũng lên án Pháp:

Pháp bắn chết người của Việt Minh, sau đó cắt cổ họ và treo lên một cái sào tại ngă tư làng. Người của Việt Minh thường bị chúng đốt nhà, tịch thu tài sản, bắt bớ người thân và đầu họ được Pháp treo giá cao. Nơi nào bị nghi ngờ có Việt Minh hoạt động, nơi đó cả làng sẽ bị tàn phá c̣n người dân bị bắt giữ… Các gián điệp Nhật và Pháp, những kẻ phản bội người Đông Dương và người Hoa đă h́nh thành một mạng lưới chỉ điểm được tổ chức hoàn hảo. Liên lạc ngầm thường bị cắt đứt và người của Việt Minh thường phải mất tới vài tuần để di chuyển trong một quăng đường ngắn. Các cán bộ Việt Minh thường phải chịu đói, rét và bệnh tật. Dù c̣n có khó khăn này khác, nhưng người của Việt Minh vẫn tiếp tục hoạt động và lớn mạnh, bởi họ có lư tưởng yêu nước sâu sắc. Họ có ḷng dũng cảm, sự kiên nhẫn và tinh thần hy sinh quên ḿnh. Họ biết ḿnh đang đấu tranh v́ cái ǵ, chịu đựng cái ǵ và khi cần, hy sinh v́ cái ǵ.

Mọi dấu hiệu đều cho thấy Hồ Chí Minh vô cùng tin tưởng vào kết quả cuối cùng của cuộc chiến: thất bại của Nhật và chiến thắng của Mỹ. Khi Hồ Chí Minh nói về chiến thắng sắp tới ông cũng đặt một câu hỏi tu từ cho độc giả người Mỹ của ḿnh: "Liệu Đồng Minh có thực sự chiến đấu v́ tự do và dân chủ của thế giới như họ vẫn trịnh trọng phát biểu trong các tuyên bố chính thức của họ hay không? Hay họ chiến đấu đơn giản v́ cứu rỗi quyền lợi thực dân ích kỷ của Pháp?". Fenn rất xúc động trước lời văn của Hồ Chí Minh. Và, giống như Shaw, Tan cũng bị chinh phục khi tṛ chuyện tới khuya với con người có sức lôi cuốn quần chúng này qua rất nhiều đêm ở bên nhau trong những khu rừng đại ngàn Bắc Việt Nam.

Cả Frank Tan và Mac Shin đều ở Tân Trào gần 4 tháng. Dù mới đầu Hồ Chí Minh hoài nghi việc đưa Tan và Shin vào Việt Nam, nhưng trong một trong những lá thư đầu tiên gửi Fenn ông nhận xét rằng cả hai đều thích nghi khá tốt. Công việc của Tan tại Bắc Kỳ nhanh chóng trở nên cực kỳ quan trọng. Khi ở đó, Tan đă tham gia "thu thập tin t́nh báo về Nhật đồng thời (hợp tác với AGAS) mở rộng mạng lưới lẩn tránh và trốn thoát. Ông cũng t́m kiếm những người Mỹ nào đó đang lẩn trốn tại tam giác Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn - tất cả đều nằm trong trọng tâm hoạt động chống Nhật của Hồ Chí Minh".

Trong những tháng làm việc bên nhau, Hồ Chí Minh và Tan đă có một t́nh bạn đặc biệt thân thiết. Với học vấn uyên bác và cá tính Mỹ, Tan nh́n bề ngoài có vẻ rất khác so với người bạn chiến đấu Việt Nam nhiều tuổi hơn. Nhưng họ sớm nhận ra rằng họ có nhiều điểm chung. Cả hai đều đă trải qua sự phân biệt đối xử tại quê nhà - Hồ Chí Minh dưới ách thống trị của Pháp và Tan là người Hoa lớn lên trong khu vực toàn "người da trắng" tại Boston. Tan nhớ lại những ngày đầu tại Boston: "Tôi sớm cảm nhận được rằng luôn luôn có một rào cản, luôn luôn có cảm giác rằng chúng tôi bị phân biệt đối xử so với người da trắng". Và cả hai đều phải trải qua t́nh trạng thiếu thốn t́nh cảm. Không lâu trước khi rời Trung Quốc tới Việt Bắc, Tan đă bị cô thư kư trẻ đẹp của Gordon hắt hủi.

 

 

Thất vọng và tổn thương, Tan giăi bày với Hồ Chí Minh, người về phần ḿnh đă kể cho Tan về nỗi luyến tiếc của chính ông v́ phải chia tay một thiếu nữ mà ông rất mến khi rời Việt Nam đi t́m đường cứu nước. "Trong suốt 4 tháng Mac Shin và tôi ở trong rừng rậm với ông Hồ, ông Giáp và đội quân của họ", Tan nhớ lại, "một t́nh bạn đă nảy nở giữa tất cả chúng tôi".

Tan cũng phản ánh t́nh cảm nảy sinh giữa Shin và Hồ Chí Minh. "Đối với một người trẻ và trông trẻ hơn như Mac, Hồ Chí Minh coi anh như con trai ḿnh. Ông nói rằng nếu Mac muốn quay trở lại Việt Nam sau chiến tranh th́ ông sẽ giúp anh định cư trên một mảnh đất đẹp, nhưng để Mac tự t́m cho ḿnh một cô vợ hiền". Cả Tan và Shin đều cảm nhận được thái độ dễ mến và ân cần - cái khiến ông được mọi người quư trọng suốt đời, như cái tên "Bác Hồ" hiền hậu và tốt bụng.

Tan hồi tưởng:

Khi quan hệ của tôi với Hồ Chí Minh trở nên thân mật hơn, tôi bắt đầu hiểu rơ con người ông - một người hiến dâng cả cuộc đời để giành lại tự do cho nhân dân ḿnh. Tôi có cảm giác ông là một người cô đơn, đă hy sinh và từ chối tất cả những tiện nghi và hạnh phúc thông thường của cuộc sống. Một sự hy sinh như thế khiến ông chẳng làm ǵ khác ngoài nghĩ và hành động cho một mục tiêu duy nhất. Do đó, chính tính không nhất quán này khiến cho một số người mô tả ông như một người cộng sản, hay ngược lại như một người yêu nước.

Trần Trọng Trung, một trong những học viên của Việt Minh học điều khiển điện đài tại Tân Trào, nhận xét về t́nh bạn đang lớn mạnh từ bối cảnh Việt Nam:

Tôi cũng nhận thấy rằng ông Mac Shin và ông Frank Tan rất quư Bác Hồ. Chính ông Mac Shin trong lúc lúc hướng dẫn, giảng bài về điện đài cũng nói. "Hồ Chí Minh của chúng ta là một người vĩ đại. Thật là một niềm vinh dự khi các anh được ở đây với ông, v́ vậy các anh phải cố gắng nắm bắt những công nghệ này sao cho có thể phụng sự ông tốt nhất".

Nh́n nhận lại, Trần Trọng Trung ví t́nh bạn bền vững giữa họ như một "mối t́nh đầu", anh kết luận, "tẩm ngẩm, tầm ngầm mà đấm chết voi".

Sự xuất hiện của Hồ Chí Minh và nhất là mối quan hệ rơ ràng của ông với Tan đă gây ra những khuấy động trong các đồng nghiệp của ông, vài người đă thậm chí tin vào những lời đồn đại rằng ông đă chết. Bất ngờ từ sự trở về của ông hoà lẫn với niềm cảm phục của họ trước những thiết bị mà Tan và Shin mang theo. Một trong những người đưa tin của Việt Minh được giao nhiệm vụ chuyển thư cho Fenn đă cung cấp nhiều chi tiết: "Họ mang theo mọi loại vũ khí, tốt hơn những thứ mà Pháp hay Nhật có". Những giải toả từ sự trở về của Hồ Chí Minh đă không được trọn vẹn bởi nỗi lo về t́nh trạng sức khoẻ đang suy yếu trầm trọng của ông. Chuyến đi gian khổ từng khiến một người trẻ tuổi như Tan muốn bỏ cuộc đă đẩy người đàn ông ngũ tuần tới giới hạn của sức chịu đựng. Khi bắt đầu hồi phục, ông thực hiện một bước củng cố niềm tin cho người của ḿnh bằng cách khôn khéo sử dụng những vật lưu niệm tưởng chừng như không quan trọng trong thời gian ông ở Côn Minh: tấm ảnh có bút tích của Chennault và các khẩu Colt 45 mới cứng của Mỹ. Fenn ghi lại câu chuyện của người đưa tin trong nhật kư của ḿnh:

Khi đă b́nh phục ông mời tất cả những nhà lănh đạo cao nhất đến dự một cuộc họp, không chỉ có riêng người của ông, mà cả đối thủ ở các nhóm khác những kẻ đă lợi dụng sự vắng mặt của ông để tự đề cao ḿnh. Ông nói với họ hiện ông đă đành được sự giúp đỡ của người Mỹ, trong đó có Chennault. Lúc đầu không ai thực sự tin ông. Rồi ông đưa ra bức ảnh của Chennault với ḍng chữ "Thân ái". Sau đó ông đem tới vài khẩu súng lục tự động và tặng cho mỗi thủ lĩnh một khẩu. Họ cho rằng đích thân Chennault tặng những món quà này. Sau cuộc họp, vấn đề ai là người lănh đạo tối cao không bao giờ c̣n được bàn căi.

Tan nói thêm, chuyến bay tới biên giới trên một chuyên cơ Mỹ, khả năng của Shin giúp Hồ Chí Minh giữ liên lạc với người Mỹ qua điện đài và sự trở về của chính ông mang theo "vũ khí hạng nặng Mỹ" dường như "chứng minh t́nh bằng hữu với người Mỹ" đối với nhiều người có mặt hôm đó. Ngay sau cuộc họp, Tan đánh điện về Côn Minh rằng "uy tín của Hồ Chí Minh đă tăng thêm 10 điểm nữa", khi GBT thả vào một loạt đồ tiếp tế - "máy điện đài, thuốc men, dụng cụ nhỏ, vũ khí".

Khỏi phải nói, người đưa tin đă đánh giá sức mạnh của Hồ Chí Minh rất cao cả trước mắt và lâu đài. Nhưng dù chân thành trong hầu hết những quan hệ trước đây của ḿnh với Mỹ khả năng tác động đến t́nh h́nh khó tin của Hồ Chí Minh và vai tṛ của Mỹ trong đó nên được đánh giá một cách khách quan. Nh́n lại những tháng trọng yếu sau cuộc đảo chính, Fenn kết luận rằng Hồ Chí Minh đă trở thành "nhà lănh đạo khỏi bàn căi của một đảng cách mạng có sức mạnh áp đảo". Vào thời điểm cuộc đảo chính xảy ra, Hồ Chí Minh "đă là lănh đạo của một trong số nhiều chính đảng", Fenn nói tiếp. Ông "không được Mỹ thừa nhận, bị Pháp chống đối, bị Trung Quốc lảng tránh; lại không có vũ khí và thiết bị. Vào lúc đó, ông cũng bị chia cắt khỏi nhóm của ḿnh tới 600 dặm cách trở và không có cơ hội đi bằng máy bay suốt quăng đường đó. Tất cả những điều này đă thay đổi, ông tin rằng, "phần lớn là nhờ vào GBT".

Đầu tháng năm, Tan đều đặn gửi tin t́nh báo từ căn cứ của Việt Minh, đặc biệt là những tài liệu MO như "báo, truyền đơn, sổ ghi chép của Nhật và vài viên thuốc của Nhật được phát cho người An Nam". Tại Côn Minh, các cán bộ Việt Minh được GBT huấn luyện để sau này thực hiện liên lạc điện đài tại Đông Dương. Và dù Fenn báo cáo rằng ông thường xuyên gửi thông tin MO mà ông nhận được tới tổng hành dinh của OSS, nhưng mọi dấu hiệu đều cho thấy ông muốn giữ điệp viên Lucius, và các cán bộ Việt Minh khác như Phạm Văn Đồng, cho GBT và AGAS hơn. Nghi ngờ ḷng trung thành với tổ chức của Fenn, các điệp viên của OSS tại Côn Minh, đặc biệt là Archimedes Patti, người rất nóng ḷng muốn tiếp kiến và dùng điệp viên Lucius cho chính họ, sẽ phải t́m cách khác để gặp được người làm chủ t́nh h́nh lúc này - Hồ Chí Minh.

 

Chú thích:

(1) Charles Pierre Baudelclire (1821 - 1867) là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất ở Pháp trong thế kỷ 19

7. Quan hệ sâu sắc hơn: Hồ Chí Minh và người Mỹ

 

Khi Frank Tan và Mac Shin thực hiện chuyến đi tới căn cứ Việt Minh, mạng lưới t́nh báo GBT lại một lần nữa lại h́nh thành. Charles Fenn và Harry Bernard nhận được những báo cáo tại Côn Minh và chuyển chúng qua Không đoàn Hổ bay đến AGAS. Fenn giữ liên lạc với OSS và cũng chuyển thông tin chi tiết cho MO. Nhưng mối quan hệ giữa OSS và GBT không hề cải thiện, và Fenn vẫn không cung cấp cho OSS những điều họ cần nhất: quyền sử dụng nhân viên GBT. Tuy nhiên, những con đường tiếp cận mới đang mở ra cho OSS.

Trong chuyến đi vài ngày đến Côn Minh vào ngày 13 tháng 4, câu hỏi của Archimedes Patti về những người Việt Nam lưu vong đă thu hút sự chú ư của Việt Minh.

Vương Minh Phương, một cán bộ Việt Minh đang sống tại Côn Minh, đă gọi điện cho Patti vào giữa tháng 4. Patti mô tả Vương Minh Phương là một thanh niên có giáo dục tốt ở độ tuổi ba mươi. Vương Minh Phương nói về mối quan hệ trước kia với Austin Glass và thông báo cho Patti những người anh biết tại Côn Minh, gồm các nhân viên tại OWI và một cố vấn người Mỹ. Hai người đă nói chuyện gần cả ngày, và Patti nhanh chóng đi đến kết luận Vương Minh Phương nắm rơ về OSS và AGAS hơn những ǵ Patti biết về Việt Minh. V́ thế, dù đă quen với cái tên Vương Minh Phương qua những báo cáo nhưng Patti cũng phải thừa nhận rằng Phương biết nhiều về ông hơn ông biết về Phương. Trong cái đang trở thành phong cách đặc thù của Việt Minh, Phương nói rơ sự thật về mối tương tác giữa Việt Minh với Chennault, AGAS, và OSS. Patti nhận xét: "Với một cảm giác tự hào, Vương Minh Phương đă kể lại chi tiết việc các đồng chí của anh ta tại Đông Dương và Trung Quốc đă làm việc gần gũi như thế nào với nhiều người Mỹ của OSS và tướng Chennault, cung cấp mệnh lệnh tác chiến của Nhật và các thông tin quan trọng khác. Phương nói bóng gió về các chiến dịch của OSS - AGAS trong đó Việt Minh góp phần giúp nhiều phi công Quân đội và Hải quân t́m nơi ẩn náu và chỉ dẫn họ đến nơi an toàn".

 

Rơ ràng, việc tô hồng sự thật đôi chút trở nên có ích thực sự đối với Việt Minh. Giống như Hồ Chí Minh đă nói về bản chất mối tương tác với Chennault nhằm củng cố quyền lực trước những đối thủ chọn lọc, lúc này Vương Minh Phương đề cao mối quan hệ giữa Việt Minh với cả OSS lẫn AGAS, hy vọng khuyến khích Patti cộng tác và có lẽ để đem lại cho họ những ǵ họ mong muốn: được nước Mỹ thừa nhận là một "tổ chức có quyền lực và hợp pháp duy nhất đại diện cho nhân dân Việt Nam" trong cuộc chiến chống Nhật. Mặc dù Vương Minh Phương và Hồ Chí Minh có cường điệu về thực chất mối quan hệ với người Mỹ, nhưng họ không hề nói dối về điều đó; những ǵ họ tuyên bố đều có thực. Cả hai biết rất rơ nếu bị phát hiện nói dối, họ và những bức thông điệp của họ sẽ bị gạt bỏ và họ sẽ có rất ít cơ hội để lấy lại ḷng tin. Mặc dù yêu cầu của Phương - được thừa nhận là "tổ chức có quyền lực và hợp pháp duy nhất" ở Việt Nam - biểu thị một mức độ hợp pháp mà OSS chưa sẵn sàng và cũng không thể đưa ra vào thời điểm đó, nhưng OSS đă biết nhiều về vấn đề này. Trong khoảng thời gian ngắn từ đầu tháng 4, OSS đă tuyên bố rằng "quân đội" Việt Minh là "cốt lơi của tất cả các lực lượng chống Nhật ở Đông Dương có các nhóm quân tại nhiều vùng: Bắc Cạn, Thái Nguyên và Cao Bằng". Mặc dù đánh giá này - giống như những tuyên bố của Việt Minh - rơ ràng đă được cường điệu, nhưng nó dường như trở thành một lời giới thiệu đúng đắn về những ǵ OSS tin tưởng.

Trong cuộc nói chuyện với Patti, Vương Minh Phương mô tả Việt Minh là một mặt trận chính trị và cũng là một "lực lượng vũ trang, được tổ chức thành các đơn vị du kích và tích cực hoạt động trong cuộc kháng chiến chống Nhật". Phương cam đoan với Patti rằng Việt Minh sẵn sàng chiến đấu sát cánh bên người Mỹ chống lại kẻ thù chung.

Trên thực tế, vào năm 1941, trong Kỳ họp mở rộng lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương, ICP đă tuyên bố "khẩu hiệu của Đảng trước tiên là giải phóng nhân dân Đông Dương thoát khói ách thống trị của Nhật và Pháp". Tuy nhiên, trong ba năm sau, hoạt động của Việt Minh giành được ít kết quả hơn so với mong đợi. Năm 1944 Việt Minh thành lập lực lượng Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân đầu tiên để bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang giành tự do cho Việt Nam. Những chỉ thị của Hồ Chí Minh cho Vơ Nguyên Giáp, trước kia là thầy giáo lịch sử và hiện là cán bộ cấp cao của Việt Minh, nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến tranh du kích trong cuộc chiến này. Hồ Chí Minh khuyên Vơ Nguyên Giáp cần phải "áp dụng chiến tranh du kích; giữ vững bí mật, khẩn trương hành động và giành thế chủ động (lúc ở đông lúc ở tây, đến không ai biết, đi không ai hay)". Tại lễ thành lập Việt Nam Tuyên truyền Giải Phóng Quân ngày 22 tháng 12, Vơ Nguyên Giáp đă kêu gọi mọi người cùng chung sức gánh vác nhiệm vụ khó khăn trong cuộc chiến chống hai kẻ thù mạnh hơn rất nhiều, Nhật và Pháp. Những câu nói rơ ràng đă thôi thúc rất nhiều thính giả:

Chúng ta nêu cao tinh thần dũng cảm và hy sinh, không bao giờ sợ hăi dù gặp khó khăn, không rời hàng ngũ dù phải chịu đau khổ. Đầu có thể rơi, máu có thể đổ, nhưng chúng ta sẽ vẫn không chịu lùi buộc. Ḷng hờn căm của dân tộc là quá lớn, nhiều hành động tàn bạo bí thảm chờ được thanh toán. Chúng ta sẽ nói rơ cho cả dân tộc rằng con đường sống chính là con thống nhất nhau để chuẩn bị nổi dậy vũ trang. quân Giải phóng sẽ chứng tỏ là lực lượng vũ trang của nhân dân, của đất nước, đi tiên phong trên con đường giải phóng dân tộc.

Vơ Nguyên Giáp liên kết cuộc chiến sắp xảy ra với lịch sử và truyền thống Việt Nam, kêu gọi những người lính Giải phóng thề danh dự dưới cờ với lời thề "hy sinh tất cả cho Đất mẹ Việt Nam, chiến đấu tới giọt máu cuối cùng để tiêu diệt phát xít Nhật, Pháp và bè lũ Việt gian, làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập, dân chủ sánh vai với các nước dân chủ khác trên thế giới". Trong hai tháng sau đó, "sử dụng một ít vũ khí có thể nhận được từ nhân dân hoặc từ những cuộc tấn công bất ngờ vào các đồn bốt Pháp, các đội tuyên truyền vũ trang bắt đầu liên tục tấn công nhật và Pháp tại các vùng núi thuộc miền Bắc Việt Nam". Tuy nhiên, những cuộc giao tranh chống Nhật của họ không nhiều. Khi Nhật đảo chính hất cẳng Pháp, Việt Minh trở nên tích cực hơn trong cuộc chiến đấu chống Nhật. "Lời hiệu triệu chiến đấu chống Nhật của Việt Minh" vào tháng 3 năm 1945 công khai nh́n nhận t́nh h́nh:

Máu chúng ta đă sôi

Bụng chúng ta trống rỗng

Tài sản của chúng ta bị cướp bóc

Gia đ́nh của chúng ta nát tan

Chính quân Nhật phảí chịu trách nhiệm cho tất cả những thảm hoạ này. Chỉ có một con đường duy nhất để chúng ta cứu lấy cuộc sống của ḿnh: toàn thể đồng bào ta phải chuẩn bị đánh đuổi loài chim săn mồi Nhật.

"Những lời hiệu triệu" kêu gọi nhân dân "không than van vô ích" và thôi thúc họ tự trang bị vũ khí với "gậy gộc, giáo mác, dao, đánh đuổi giặc Nhật và giành lại kho thóc và nhà cửa của các bạn". Năm 1946 Trường Chinh đă tuyên bố rằng sau đảo chính, quân du kích (Việt Minh) liên tục tấn công nhiều đồn bốt tại các vùng cao và trung du thuộc miền Bắc Việt Nam, tước vũ khí của nhiều lính Pháp và các đến vị Bảo an để ngăn chặn vũ khí của chúng rơi vào tay Nhật; tấn công quân đội Nhật đang di chuyển dọc theo các tuyến đường bộ thuộc Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn và Cao Bằng, quấy rối quân địch thậm chí ngay tại thủ phủ của tỉnh Bắc Cạn, và tấn công bất ngờ vào căn cứ của chúng tại Chợ Chu. Mặc dù mô tả của Trường Chinh có thể là cường điệu, nhưng Việt Minh liên tục quấy rối Nhật sau cuộc đảo chính tháng Ba. Nhiều năm sau, Trần Thị Minh Châu hồi tưởng về kết quả các cuộc tấn công trước đây:

Qua các cuộc tấn công, chúng tôi đă tiêu diệt được kẻ thù thu nhiều vũ khí và hàng tiếp tế. Đôi khi chúng tôi c̣n thu được đủ vũ khí để trang bị cho cả một trung đội. Tại Cao Bằng, Vơ Nguyên Giáp đă phát động tấn công vào các bốt gác của kẻ thù tại Nà Ngần và Phay Khắt. Ở đó, chúng tôi đă thu được toàn bộ vũ khí. Vào lúc đó, theo chính sách của Việt Minh, có thể tiến hành tấn công kẻ thù tại mỗi địa phương có điều kiện thuận lợi.

Ngoài ra, Frank Tan gửi điện về sở chỉ huy GBT tường thuật lại vài trận đánh thành công tương tự của Việt Minh như Trường Chinh đă đề cập đến, gồm cuộc tấn công tại Bắc Cạn và cuộc phục kích đoàn hộ tống Nhật gần Chợ Chu. Ít ra nguồn tin của Nhật cũng chứng minh hoạt động du kích của Việt Minh. Trong "Báo cáo về những biện pháp do Đạo quân Nhật thứ 8 tại FIC thực hiện suốt năm 1945" được viết sau khi Nhật đầu hàng, tác giả người Nhật xác nhận "các hoạt động của Đảng Việt Nam tại Bắc Đông Dương ngày càng trở nên mạnh mẽ, đặc biệt là quấy rối an ninh công cộng, nhằm đánh đuổi Nhật để thiết lập nền độc lập hoàn toàn cho nhân dân…", bản báo cáo tiếp tục, Nhật buộc phải tiếp tục sử dụng sức mạnh đáng kể trong việc đàn áp khá vất vả những người ủng hộ Việt Minh cho tới tận ngày đ́nh chiến 15 tháng 8". Mặc dù yếu hèn khi so sánh với các phong trào bí mật của châu Âu trong chiến tranh, nhưng Việt Minh đă được tổ chức và có một lịch sử vững chắc trong việc kêu gọi nhân dân đứng lên chống Nhật. Đến tháng 6, Nhật bắt đầu khó chịu với những cuộc quấy rối của Việt Minh nên đă ra lệnh cho Sư đoàn 21 (Nhật) đàn áp Việt Minh. Dựa trên các nguồn tin của Nhật và Việt Minh, nhà sử học Stein Tonnesson đă mô tả quyết định đó như sau:

Sau vụ một trung uư Nhật bị giết trong cuộc phục kích của Việt Minh, quân đội Nhật đă bắt bốn người có cảm t́nh với Việt Minh trong ngôi làng gần nhất và tra vấn họ. Sau đó họ được tha và mang về trao cho các chỉ huy của họ vài lá thư nội dung nói về thái độ đồng cảm nói chung đối với cuộc chiến giành độc lập của Việt Minh nhưng lại thuyết phục Việt Minh hợp tác với Nhật chống lại Anh và Mỹ. Nhật không có ư định chiếm đóng những khu vực Việt Minh đang hoạt động, nhưng nếu Việt Minh vẫn tiếp tục tấn công th́ Nhật sẽ đíều tới một đại đội để tiêu diệt bằng hết. Việt Minh đáp trả bằng việc cho xuất bản một bản tóm tắt nội dung những bức thư trên tờ báo bí mật. Chẳng bao lâu vấn đề Việt Minh được tŕnh lên cấp cao nhất tại Hà Nội…

Rơ ràng, sở chỉ huy của Nhật tại Hà Nội kết luận, ít nhất là trong lúc này không thể đạt một được thoả thuận sơ bộ với Việt Minh v́ vậy vào tháng 6 năm 1945 Sư đoàn 21 của Nhật đă được lệnh tiến đánh quân du kích.

Tuy nhiên, khi hành động này c̣n chưa xảy ra, Chi nhánh R&A của OSS đă thông báo cho Patti rằng nó có "những báo cáo về sự chống đối quân Nhật tích cực của Việt Minh tại khu vực Tuyên Quang - Thái Nguyên - Lạng Sơn - Bắc Cạn và các hoạt động của họ có vẻ là chiến thuật bán quân sự". Với thông tin này, sau khi đă nghe Vương Minh Phương kể nhiều về quá tŕnh lịch sử của Việt Minh và tin tưởng vào năng lực tiềm tàng của Việt Minh, Patti hứa sẽ bàn bạc về khả năng sử dụng Việt Minh với các đồng nghiệp. Nhưng Patti cũng có một yêu cầu: ông muốn gặp Hồ Chí Minh.

Khi Patti báo cáo với Helliwell, Heppner và thiếu tá Robert E. Wampler, chỉ huy chi nhánh SO của OSS tại Côn Minh về nội dung cuộc nói chuyện với Vương Minh Phương, tất cả đều bày tỏ sự lo lắng là bất cứ loại vũ khí nào được cung cấp cho Việt Minh đánh Nhật sẽ nhanh chóng trở thành công cụ chống lại Pháp. Tuy nhiên, bản chất tương đối bất hợp tác của người Pháp và người Hoa địa phương lại làm cho Việt Minh trở thành lựa chọn hàng đầu trong nhiều giải pháp tốt nhất của OSS nhằm kiếm được các đặc vụ cần thiết để thiết lập mạng lưới t́nh báo quân sự tại FIC đă được định h́nh trong Dự án QUALL. Hơn nữa, thông tin của Patti cho rằng cuộc gặp với Hồ Chí Minh là con đường tốt nhất nhằm kiếm được những đặc vụ mà ông cần. Khi Patti và Vương Minh Phương gặp nhau lần thứ hai, Phương nói với Patti anh đă gửi thông điệp tới Hồ Chí Minh và đă bố trí một cuộc gặp tại thị xă biên giới Tĩnh Tây.

Cuối tháng 4, Patti rời Côn Minh, kết hợp chuyến đi đến các đơn vị của OSS đóng quân dọc theo biên giới Trung Quốc với chuyến thăm Tĩnh Tây. Sau khi làm các thủ tục với một người trung gian là một đảng viên cộng sản Trung Quốc, Patti và Hồ Chí Minh cuối cùng đă gặp nhau tại một hiệu ăn Tầu nhỏ bên đường vào ngày 27 tháng 4 năm 1945. Ngay từ đầu hai người đă có thiện cảm với nhau. Mặc dù từ những nền tảng hoàn toàn khác nhau nhưng hai ông đều có chung nhiều đặc điểm: cả hai đều có, theo đánh giá của nhiều người, một trí tuệ sắc bén, và cả hai đều biết làm chủ t́nh thế. Patti vô t́nh nói ra những câu mà theo bản năng ông biết rơ sẽ thu hút sự chú ư của Hồ Chí Minh: "Tôi rất hài ḷng khi được gặp một người có nhiều bạn bè Mỹ tại Côn Minh". Hồ Chí Minh kể vắn tắt một danh sách dài những mối bất b́nh đối với chủ nghĩa thực dân Pháp và cho Patti xem một loạt ảnh các nạn nhân nạn đói năm 1945 vốn đă bị những hành động của cả Nhật và Pháp làm cho trầm trọng hơn. Tuy nhiên, bắt tay vào công việc, ông đề xuất những ǵ phía ông có thể thực hiện cho người Mỹ, nhưng bản thân ông không đề nghị ǵ trực tiếp v́ có lẽ ông biết những đ̣i hỏi không ngừng của cả Pháp và Trung Quốc đă khiến Mỹ khó chịu. Trong quá tŕnh mô tả tổ chức và công tác hiện nay của Việt Minh, ông kể cho Patti rằng AGAS và Việt Minh hiện đang cùng cộng tác để tổ chức hoạt động bí mật trong vùng nội địa nhằm giúp đỡ các phi công bị bắn rơi, nhưng ông coi đó là vấn đề khác.

Nhiệm vụ của AGAS mà ông ám chỉ rơ ràng là sứ mạng của GBT đă đưa Frank Tan và Mac Shin tới Việt Bắc. Tuy nhiên, theo như báo cáo của Patti, ông không đả động ǵ tới GBT, Tan hay mối quan hệ với GBT của ông và cả thông tín viên ở Côn Minh, Charles Fenn. Dường như đây có vẻ là sự bỏ xót có tính toán của ông. Mỗi nhân viên OSS, những người đă kể hoặc viết về những cuộc đấu trí giữa họ và Hồ Chí Minh, đều b́nh luận rằng ông biết về bản thân họ nói riêng và người Mỹ nói chung nhiều hơn những ǵ họ biết về ông hay Việt Minh. Nếu Hồ Chí Minh biết t́nh trạng đối đầu giữa OSS và GBT/ Fenn th́ rơ ràng tốt nhất là thay đổi lời khen đối với thông tin Tan gửi cho AGAS (xét cho cùng th́ cả Fenn và GBT đều làm việc với AGAS), bỏ qua mối quan hệ giữa ông với Fenn "gây rối", và lôi kéo tân đại diện của OSS vào những ǵ Việt Minh có thể làm cho ông ta.

Đối với Patti, khả năng sử dụng Việt Minh dường như đầy hứa hẹn. Ông kết luận, giống như Tan và Fenn trước đây, Hồ Chí Minh có thể tin cậy được. "Mặc dù tính khách quan cẩn trọng và nhận thức có mục đích của tôi không cho phép bản thân ḿnh dính vào các lĩnh vực chính trị thuộc vấn đề Đông Dương", Patti nhớ lại, "nhưng sự chân thành, hành động thực tế và tài hùng biện của Hồ Chí Minh đă gây cho tôi một ấn tượng sâu sắc". Tại cuộc gặp đó và cả những cuộc gặp sau này, Patti đi đến một kết luận khiến ông xử sự theo những cách nh́n lại có vẻ đáng ngờ vào cuối mùa hè năm 1945, nếu không phải rơ ràng là thời gian đó. "Tôi biết", Patti viết, "mục đích cuối cùng của ông (Hồ Chí Minh) là giành được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước Việt Nam tự do và tôi cảm thấy niềm khao khát đó không trái ngược với chính sách của Mỹ". Ngược ḍng thời gian, cuối tháng 4 năm 1945, Patti bị thúc giục phải thu thập được thông tin từ Đông Dương: G-2 (chi nhánh t́nh báo quân sự của quân đội Mỹ) muốn các hoạt động của OSS ở cả Hà Nội và Sài G̣n, tổng hành dinh mặt trận cần tin t́nh báo về t́nh h́nh chuyển quân của các đơn vị chiến đấu Nhật và việc xây dựng các căn cứ quân sự mới, c̣n cơ quan MO muốn có một chiến dịch tuyên truyền mới. "Họ muốn mọi thứ và muốn ngay lập tức", Patti viết. "Từ một quan điểm thực tế, Hồ Chí Minh và Việt Minh h́nh như là câu trả lời cho vấn đề trước mắt của tôi trong việc thiết lập các hoạt động tại Đông Dương". Nếu kế hoạch của Patti thành công, các nhân viên điện đài và các đặc vụ đă được huấn luyện của Việt Minh có thể bố trí cho Dự án QUALL. Tại đây, việc lên kế hoạch những yêu cầu đối với Chiến dịch CARBONADO khiến Patti quan tâm, nó đặt ra mức độ cao hơn về những tin t́nh báo chính xác lấy từ Việt Nam và do đó cả về mối quan hệ của ông với Việt Minh. CARBONADO là tên mật mă của một cuộc tấn công đă được lập kế hoạch của Đồng Minh tại miền Nam Trung Quốc bao gồm "tấn công trên bộ, dọc theo tuyến Quế Lâm - Liễu Châu - Nam Ninh để bảo vệ khu vực Quảng Châu - Hồng Công và thông ra các hải cảng chính tại miền Nam Trung Quốc để tiếp nhận quân từ châu Âu và Philippines". 

 

 

Trên thực tế, CARBONADO là một kế hoạch nghi binh nhằm kéo quân đội Nhật ra khỏi những mục tiêu tấn công thực sự của Mỹ. Tất nhiên bí mật này được giới hạn trong những chỉ huy cao cấp, và OSS được yêu cầu thu thập thông tin t́nh báo cho CARBONADO với sự gấp rút như đổi với một chiến dịch thật. Quả thực, Stein Tonnesson tin rằng QUALL "có thể đă đóng một vai tṛ quan trọng nếu như CARBONADO được thực hiện", và với tư cách là các đặc vụ, "du kích Việt Minh đă có thể đem lại sự giúp đỡ quư báu cho OSS bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch thâm nhập Bắc Kỳ của quân Trung Quốc theo chiến dịch CARBONADO.

Khó khăn trong tiếp tế cho quân đội suốt chiến dịch CARBONADO đ̣i hỏi trước tiên phải giành được một cảng nhỏ tại Fort Bayard. Cảng biển này đủ để đưa vào bờ "những đợt hàng tiếp tế O ạt - ít nhất một chuyến tàu Liberty mỗi ngày", nhưng một khi nằm sâu trong lănh thổ, những vấn đề tiếp tế mới sẽ có thể nảy sinh đo chất lượng kém của phần lớn các tuyến đường trong khu vực. OSS chịu trách nhiệm quấy nhiễu kẻ thù bằng cách thực hiện các hoạt động du kích, phá hoại và tuyên truyền. Các đặc vụ của QUAIL sẽ cung cấp thông tin t́nh báo quyết định về bố trí và di chuyển của quân đội Nhật ở Đông Dương để dễ dàng ngăn chặn chúng tăng viện cho các khu vực đang bị tấn công. Để chuẩn bị cho hoạt động này, OSS đă được chỉ thị sử dụng các đội du kích phá vỡ hành lang của Nhật giữa Hà Nội và Nam Ninh.

Với một chiến dịch quá lớn như CARBONADO, nhu cầu thông tin t́nh báo chính xác tại Đông Dương là yếu tố quyết định. Vào tháng 5, khi được nghe Heppker tóm tắt về chiến dịch CARBONADO, Patti không có nhiều lựa chọn t́m kiếm đặc vụ trong khu vực: Patti vừa quư trọng vừa tin tưởng Hồ Chí Minh và mối quan hệ của ông với người Pháp đang dần xấu đi. Đến cuối năm 1945, nhiều người Pháp và một số người Mỹ sẽ buộc tội Archimedes Patti chống Pháp. Nói chung, Patti bác bỏ lời buộc tội này và tuyên bố chắc chắn t́nh h́nh sẽ không như thế khi ông đến Côn Minh vào tháng Tư. Ngay từ đầu nhiệm kỳ tại Trung Quốc, Patti đă bị người Pháp đ̣i hỏi quá nhiều về tiếp tế và thông tin. Patti thừa nhận là các đặc vụ Pháp có thể liên quan tới công tác thu thập thông tin t́nh báo trong thuộc địa và ông có thể làm việc cùng họ. V́ tính cấp bách trong thu thập tin t́nh báo về quân Nhật tại Việt Nam càng ngày càng tăng nên vấn đề làm việc với Pháp được đặt lên hàng đầu. Patti đă tới gặp tướng Sabattier tại Swemao và tận mắt chứng kiến "cảnh tượng khốn khổ" của đội quân Pháp bại trận. Patti và các nhân viên nói được tiếng Pháp đi cùng đă dừng chân tại một thị trấn miền nam Trung Quốc trong mười ngày để phỏng vấn những người tị nạn Pháp - các sĩ quan, sĩ quan dự bị, các nhân viên cấp thấp, nhân viên dân sự và thương gia. Nh́n chung, Patti không hề có ấn tượng về khả năng của họ trong việc tiến hành thành công các chiến dịch cấp bách. Patti cảm thấy thương cho điều kiện thể chất của những con người ốm yếu nhưng toàn bộ ấn tượng của ông về những người Pháp bị trục xuất là ác cảm. Patti mô tả cuộc nói chuyện với những người Pháp đó là "một bức tranh không hấp dẫn về thái độ lănh đạm, đầy thù hận và quyền lợi ích kỷ". Qua nhiều cuộc tiếp xúc hơn nữa với các nhân vật khác, cách nh́n của Patti về người Pháp tại Trung Quốc thậm chí c̣n tệ hơn. Giống Milton Miles trước đây, các nỗ lực làm việc với quân đội và cá nhân Pháp chọn lọc của Patti liên tục gặp nhiều trở ngại bởi các cuộc tranh căi nội bộ giữa họ với nhau. Thậm chí ngay cả Sabattier và Alessandri, hai viên tướng Pháp đă từng kết hợp với nhau tại Điện Biên Phủ trong cuộc tháo chạy thành công thoát khỏi cuộc đảo chính của Nhật, cũng không thể vui vẻ với nhau. Alessandri không chấp thuận kế hoạch của Sabattier trong việc đặt một phần đội quân của ông ta dưới quyền chỉ huy của Wedemeyer, và ông ta tranh căi về vai tṛ giả của Sabattier trong hệ thống cấp bậc quân sự của Pháp tại Trung Quốc. Thêm vào đó, quan hệ của Patti và chỉ huy mới của vị t́nh báo Pháp tại Côn Minh (M.5), thiếu tá Jean Sainteny, nhanh chóng xấu đi.

Lúc này, một người tạo ra một viễn cảnh hoàn toàn khác về các sự kiện và các nhân vật đang được nói đến xuất hiện: sĩ quan của OSS, trung uư Ren Défourneaux, được chỉ định làm việc với người Pháp. Có lẽ do lai lịch mà Défourneaux ít bị người Pháp chỉ trích hơn; ngoài ra, thực chất công việc của Défourneaux không đặt anh vào vị trí đối phó với hệ thống cấp bậc của Pháp. Sinh ra và được nuôi dưỡng tại Pháp, Défourneaux di dân tới Mỹ vào năm 1939 khi mười tám tuổi. Tháng 12 năm 1942, Défourneaux t́nh nguyện nhập ngũ và khả năng nói tiếng Pháp của anh thu hút sự chú ư của OSS. Sau khi hoàn thành khoá huấn luyện, Défourneaux lên tàu tới châu Âu vào năm 1944. Ở đó Défourneaux đă được tặng thưởng ngôi sao Bạc v́ đă chiến đấu dũng cảm sau pḥng tuyến địch trên đất Pháp. Chẳng bao lâu sau chuyến trở về từ châu Âu, Défourneaux lại tiếp tục lên tàu, lần này là tới châu Á. Sau khoá huấn luyện thêm tại Ấn Độ, Défourneaux đến Côn Minh. Đến tháng năm, Défourneaux được giao giải quyết một loạt công việc thường ngày và rơ ràng nhàm chán. V́ thế, nhiệm vụ phỏng vấn lính Pháp trên biên giới Đông Dương đáng như là một sự thay đổi dễ chịu.

Défourneaux dễ dàng tiếp xúc với với những người trở về từ cơi chết như "một người bạn Pháp" và nhanh chóng được họ tin cậy. Défourneaux và cộng sự của ḿnh, Burley Fuselier, một chuyên gia t́nh báo thuộc Không đoàn 14, lăng xăng trong những người Pháp để nhận biết "thông tin tốt nhất". Sau đó họ hộ tống những người này tới tổng hành dinh của Chennault để thẩm vấn kỹ hơn. Công việc của Défourneaux tiếp tục trong vài tuần cho đến khi tin tức lan truyền. Défourneaux nhớ lại, "hai gă tọc mạch không c̣n được họ tin tưởng nữa và tất cả cũng nên rơ ràng".

Défourneaux nhấn mạnh đến hoàn cảnh khó khăn của người Pháp. Anh kết luận: "Thực chất vấn đề là những con người bất hạnh này đă phải đối phó với những điều tồi tệ do các sự kiện trong vài tháng qua gây ra và không có nhiều lựa chọn".

Cuối tháng 5, một trong những dự án chung đầu tiên giữa OSS và Pháp bắt đầu. Liên quan đến Dự án PAKHOI có trung uư Robert Ettinger (người đă gặp lực lượng của Sabattier hồi tháng 3), trung uư James Jordan và một số đặc vụ của M.5. Mục đích kế hoạch này là báo cáo về cách bố pḥng của quân đội Nhật và các hoạt động của hải quân giữa Fort Bayard và Hải Pḥng. Một thoả thuận bổ sung do Sabattier và Wedemeyer kư kết ngày 1 tháng 6 điều 100 lính Việt và 10 tới 12 sĩ quan người Âu về làm việc dưới quyền chỉ huy của OSS. Những người này được chia làm hai đội, Đội Nai và Đội Mèo, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của thiếu tá Allison Thomas và đại uư Mike Holland. Họ sẽ được huấn luyện tại Tĩnh Tây cho nhiệm vụ phá hoại tại Đông Dương.

Cả Alessandri và Sainteny đều không đồng t́nh với thoả thuận giữa Sabattier và Wedemeyer, họ phẫn nộ về việc thiếu sự chỉ huy và sáng suốt của Pháp trong các kế hoạch của Đồng Minh. Sabattier không có thái độ hoài nghi tương tự.

Stein Tonnesson kết luận rằng Sabattier "có thể đúng" khi giữ vững lập trường rằng tính nhỏ nhen thường được thể hiện bởi nhiều người trong ngành t́nh báo Pháp "đă góp phần đẩy OSS vào tay Việt Minh". "Theo quan điểm của Sabattier", Tonnesson viết, "không có ǵ nguy hiểm trong việc hợp nhất và làm cho các cơ quan t́nh báo Pháp phụ thuộc vào cơ cấu chỉ huy của OSS". Quả thực, Sabattier tin rằng "người Mỹ giống như trẻ con khi hoạt động t́nh báo, và sẽ rất dễ đoạt được ưu thế hoạt động thầm lặng của OSS từ bên trong".

Sabattier có thể đă đánh giá thấp khả năng duy tŕ quyền kiểm soát của OSS, nhưng giả thuyết của ông ta không bao giờ được kiểm tra. Mặc dù nhóm quân Pháp mà Sabattier cam kết đă đến mà không gặp rắc rối ǵ, nhưng vấn đề nhanh chóng nảy sinh khi viên sĩ quan cao cấp của họ yêu cầu OSS phải trả tiền và trang bị cho thuộc hạ. OSS không có dự định trao các nguồn viện trợ của Mỹ để chỉnh đốn lại lính Pháp. Trên thực tế, vào giữa tháng năm, trong khi trao đổi thư từ với Helliwell, đại tá John Whitaker, chỉ huy SI tại Trung Quốc, tuyên bố rằng ông ta và thiếu tá Quentin Roosevelt đă "làm sáng tỏ" với hai viên chỉ huy Pháp, những người đă báo cho sở chỉ huy của OSS tại Trùng Khánh rằng "OSS chỉ quan tâm tới thông tin t́nh báo tại FIC, và rằng không có viện trợ cho quân Pháp, ngoại trừ các loại vũ khí chúng ta cần để bảo vệ người Mỹ hay các sứ mạng t́nh báo hỗn hợp". Thấy rằng những đ̣i hỏi của Pháp rơ ràng vượt quá khả năng của ḿnh, OSS đă từ chối. Lính Pháp đáp trả bằng một "cuộc đ́nh công ngồi". Cùng lúc đó, Sainteny bắt đầu đề nghị được báo cáo toàn bộ những kế hoạch bí mật của Đồng Minh đối với khu vực và những mệnh lệnh được phổ biển cho các nhân viên Mỹ. Để làm phức tạp thêm vấn đề, Sainteny và người Pháp ở cả Tĩnh Tây và Côn Minh dường như nhận được mệnh lệnh từ các sở chỉ huy khác nhau. "Câu hỏi đối với chúng tôi là", Patti nhớ lại, "chúng tôi sẽ làm việc với ai trong số những người Pháp?". Patti mô tả tâm trạng người Mỹ là "cực kỳ điên tiết", nhưng thực tế th́ sự tức giận dường như c̣n cao hơn thế.

Thái độ ghê tởm mỗi lúc một tăng của Patti với người Pháp có thể là kết quả của sự mệt mỏi và nỗi thất vọng về những nỗ lực bất thành trong việc kết hợp thu thập tin t́nh báo. Có lẽ bài học lịch sử về vai tṛ của Pháp tại Đông Dương mà cả Vương Minh Phương và Hồ Chí Minh đă bổ túc cho ông đă có ảnh hưởng đến thái độ của ông. Chắc đó là kết quả của cả hai, v́ Patti rơ ràng đă tỉnh ngộ với người Pháp và mỗi lúc một trở nên thân thiết với ông (Hồ Chí Minh) bí ẩn. Trong những lời nhận xét gây ấn tượng mạnh nhất về người Pháp, Patti viết:

Chúng tôi, những người Mỹ ở Thái B́nh Dương và châu Á có một mục tiêu quan trọng - đánh bại quân Nhật - cho dù chúng tôi có phải làm việc đó một ḿnh đi chăng nữa bởi biết rằng trong các Đồng Minh của chúng ta, có những kẻ sẽ sẵn sàng để cho người khác chiến thắng c̣n họ chuẩn bị hưởng thành quả của chiến thắng… Đặc biệt là người Pháp, với niềm khát khao sớm chiếm lại thuộc địa trước kia, họ đă giấu những tin t́nh báo quân sự và chính tri quan trọng. Họ muốn chiếm đoạt cho ḿnh vũ khí và nguồn tiếp tế được dành cho các chiến dịch của Đồng Minh và bất cứ nơi đâu họ cũng có thể gây trở ngại cho những nỗ lực hoạt động của Mỹ ở Dông Dương. Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, và tiếp tục cho tới thời điểm hiện tại, một vài người Pháp liên quan sâu nhất vào việc ngăn cản nỗ lực chiến đấu chống Nhật đă lớn tiếng tuyên bố rằng bản thân họ bị ngưọc đăi bị lạm dụng, bị bỏ mặc và là nạn nhân của "âm mưu" - khá phù hợp với chính sách có chủ tâm về sự ngay thẳng đạo đức bị tổn thương của họ".

 

Sự đồng cảm của Patti đối với người Việt Nam và thái độ coi thường đối với người Pháp tăng lên. Ông không biết ḿnh đă phản ánh phần lớn t́nh cảm của hai người Mỹ đầu tiên đă từng có mối giao thiệp rộng răi với Hồ Chí Minh, Frank Tan và Charles Fenn. Chẳng bao lâu sau sẽ có nhiều người Mỹ khác gia nhập hàng ngũ những người khâm phục Hồ Chí Minh.

Cuối tháng năm, khi Patti nổi đoá với người Pháp, th́ những báo cáo t́nh báo đầu tiên của Hồ Chí Minh được gửi đến. Mặc dù như thông lệ kèm theo những tiểu luận chính trị của Việt Minh, nhưng báo cáo của ông cũng cung cấp "những thông tin hữu ích giúp xác định một số đơn vị của Sư đoàn 37 Nhật, địa điểm đóng quân của chúng vài ngày trước đó và tên của một số sĩ quan cao cấp". Vài ngày sau báo cáo thứ hai cung cấp "những thông tin chi tiết về việc Nhật xây dựng mới và nâng cấp những tuyến pḥng thủ do Pháp lập nên tại Cao Bằng và trên đường đi Hà Nội". Patti nhớ lại rằng "lần đầu xác định được các đơn vị của Đạo quân 38 và đặc biệt là những thành phần của Sư đoàn 22 của Nhật trên biên giới Cao Bằng đă làm tăng đáng kể sự quan tâm đến đơn vị trinh sát của chúng tôi trên cấp độ Mặt trận".

Khi khả năng của OSS, thông qua Việt Minh, thu thập thông tin chiến lược về quân Nhật tại Đông Dương tăng lên, th́ rắc rối đang âm ỷ trong GBT. Mặc dù cả Frank Tan lẫn Mac Shin cảm thấy ḿnh được chào đón tại Việt Bắc và vẫn tiếp tục đào tạo đặc vụ cũng như gửi báo cáo về, nhưng một loạt các sự kiện đă khiến Charles Fenn, lúc đó ở lại văn pḥng chính tại Côn Minh, mỗi lúc một thêm bối rối. Những sự kiện này chỉ liên quan một cách gián tiếp, tuy nhiên kết hợp lại với nhau cuối cùng chúng đă đẩy Fenn, người quan trọng nhất có liên hệ với Hồ Chí Minh và Việt Minh cho đến lúc này, ra ŕa. Những vấn đề của Fenn bắt đầu với AGAS. Các mối quan hệ của Fenn và GBT với AGAS luôn luôn tích cực GBT cung cấp thông tin giá trị cho cơ quan này, và AGAS cung cấp những hỗ trợ và tài chính có thể. Trên thực tế tháng 2 năm 1945, khi khó khăn nảy sinh giữa OSS và GBT th́ GBT chuyển các công tác của nó, bao gồm cả của Fenn, sang AGAS với sự chấp thuận đầy mâu thuẫn của OSS. Tuy vậy chức năng chính thức của Fenn vẫn là liên lạc của OSS cho AGAS và tất nhiên cả cho GBT.

Công việc thường ngày ở Côn Minh trở nên nhàm chán đối với một người mạnh mẽ như Fenn. Với một niềm khát khao cháy bỏng được thoát khỏi bàn giấy, Fenn dự định cùng Tan và Shin đến đại bản doanh của Việt Minh, như đă thoả thuận trước đó giữa ông với Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi Fenn đề xuất với cấp trên của AGAS, thiếu tá A.R.Wichtrich, là ḿnh sẽ nhảy dù "khẩn cấp" th́ đề nghị của ông bị từ chối. Theo lời Fenn, Wichtrich giải thích rằng Fenn "quá cần thiết" tại tổng hành dinh và "không cần cho một nhiệm vụ như vậy". Fenn cũng biết rằng một đặc vụ khác của AGAS, trung uư Dan Phelan, đă được chỉ định làm nhiệm vụ này. Phelan không chỉ là người đến Đông Dương, Wichtrich thông báo, mà anh ta sẽ "ở tại doanh trại của ngài (GBT) trong ṿng một tuần" để "nắm bắt tất cả thông tin t́nh báo chung về Đông Dương". Tuy nhiên, Wichtrich cam đoan với Fenn, Phelan "đă khá am tường v́ đă nghiên cứu t́nh h́nh khá kỹ".

V́ vậy AGAS đă làm Fenn thất vọng và bực ḿnh đến ba lần về vụ này:

1. Fenn bị giam hăm vào công việc bàn giấy thay cho nhiệm vụ thú vị hơn nhiều là nhảy dù xuống làm việc cùng Hồ Chí Minh;

2. Fenn bị giao trách nhiệm với công việc mà ông ghét cay ghét đắng, những kẻ ngoài cuộc liên tục ŕnh ṃ quanh trụ sở và hoạt động của GBT; và

3. Fenn không thích Dan Phelan. Fenn đă phản ứng với "việc nghiên cứu khá kỹ lưỡng" của Phelan như sau:

Nghiên cứu là một chuyện, nhưng thái độ lại là chuyện khác. Phelan có quan điểm chính trị cực hữu đến mức anh ta thậm chí đă thú nhận là thích làm liên lạc cho Pháp c̣n hơn cho Việt Minh. Hồ Chí Minh sẽ nghĩ ǵ về việc có một vị sĩ quan phản động như vậy được áp đặt cho ḿnh. Một hạn chế khác trong tính cách của Phelan là căn bệnh trưởng giả học làm sang vốn có trong nhiều nhân viên của cả OSS lẫn AGAS - những người thường được tuyển chọn dựa vào nền tảng gia đ́nh, tài sản, sự giáo dục hay vị trí xă hội.

Fenn vừa đúng vừa sai trong phân tích trường hợp của Phelan. Phelan xuất thân từ tầng lớp xă hội thượng lưu; trước Chiến tranh thế giới lần thứ II, anh ta là một nhân viên Ngân hàng Chase Manhattan, sống và làm việc trong giàu sang tại New York. Tuy nhiên, không có bằng chứng cho thấy Phelan được lựa chọn đưa vào mối quan hệ riêng. Phelan "đă có mặt hầu như ở mọi nơi trên thế giới khi chiến tranh nổ ra. Anh ta đă chứng kiến những chiến sĩ du kích Italia bị Mussolini treo cổ, đă đổ bộ lên miền Bắc nước Pháp, và cũng tham gia vào cuộc chiến lớn hơn ở Philippines", Tan nhớ lại. Thậm chí Fenn c̣n mô tả thêm tính cách của Phelan là "nhanh nhẹn, thông minh, hăm hở, khá hài hước và sẵn sàng học hỏi".

Fenn cho rằng những tính cách đó tạo cho Phelan "điểm trên trung b́nh" toàn diện. Mặc dù Phelan miễn cưỡng đảm nhận nhiệm vụ đến Bắc Kỳ và bắt đầu phần việc của ḿnh tại doanh trại GBT bằng "càu nhàu với chúng tôi (Fenn và Bernard) rằng Hồ Chí Minh là cộng sản" nhưng anh ta đă chuẩn bị cho nhiệm vụ này như đă được phân công.

Ḷng trung thành của Fenn lại lần nữa được đem ra thử thách khi Phạm Văn Đồng đến gặp ông tại Côn Minh để hỏi về chính sách của OSS. Ông phàn nàn với Fenn rằng nghe tin OSS đang gửi tới Đông Dương những nhân viên cộng tác chặt chẽ với Pháp và "chống người An Nam hơn là chống Nhật". Mặc dù điều này là chắc chắn, ít nhất là với trung uư Ettinger, nhưng Fenn không tiếp cận được thông tin này. Tuy nhiên, khi Phạm Văn Đồng hỏi về "chính sách thực sự" của OSS, Fenn đă trả lời rằng "nếu các hoạt động do Tan, Bernard hoặc chính tôi sắp xếp, Hồ Chí Minh có thể tin cậy vào ḷng trung thành của họ đối với ông. Nhưng chúng tôi không thể chịu trách nhiệm đối với những ǵ OSS có thể làm. AGAS đáng tin cậy hơn; nhưng về cơ bản họ thậm chí là những kẻ chống Cộng". Fenn cũng thông báo cho Phạm Văn Đồng là trung uư Phelan, chứ không phải ông, sẽ là người Mỹ đến đại bản doanh của Hồ Chí Minh. Phelan "không phải là sự lựa chọn của tôi", Fenn nói rơ, "và tôi muốn cảnh báo Hồ Chí Minh là anh ta có thiện cảm với người Pháp. Mặt khác, anh ta về cơ bản là kẻ thực dụng và tôi cảm thấy anh ta có thể thích nghi khi đă học được hoàn cảnh thực tế". Phạm Văn Đồng đảm bảo với Fenn Việt Minh sẽ hoan nghênh Phelan và tỏ ư tiếc rằng Fenn không được cùng Tan đến Bắc Kỳ. Rơ ràng sự thất vọng của ông là chân thực.

Việt Minh chắc chắn muốn có một người Mỹ ủng hộ Hồ Chí Minh hơn là một người vừa tự xưng là chống cộng vừa miễn cưỡng đến với họ.

Giữa tháng 6, Phelan nhảy dù xuống khu căn cứ của Việt Minh nơi anh ta sẽ ở lại trong vài tháng. Sau khi hạ cánh Phelan được Tan đón rồi đưa tới Tân Trào giới thiệu với Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp và các chiến sĩ Việt Minh quanh căn cứ. Phelan khá ăn ư với Tan và những người khác.

Không lâu sau khi Phelan đến, Tan đánh điện về sở chỉ huy:

"Phelan có vẻ là một anh chàng khá". Trong suốt thời gian ở cùng Việt Minh, Phelan say mê những cuộc nói chuyện dài với Hồ Chí Minh. Theo những tài liệu được dịch và trao cho Tan, Hồ Chí Minh và Việt Minh rất quan tâm tới Phelan, mô tả anh ta "lanh lợi như quỷ, nhưng lại tốt như Đức Phật". một thời gian sau, Phelan, cũng như Fenn, Tan và Patti bắt đầu nh́n Việt Minh bằng ánh mắt mới. Một tuần sau khi đến căn cứ của Việt Minh, Phelan gửi một bức điện với giọng điệu rơ ràng đă khác về đại bản doanh GBT: "Các ngài đang hiểu lầm quan điểm của Việt Minh. Họ không chống Pháp mà chỉ là những người yêu nước, những người xứng đáng được tin tưởng và ủng hộ hoàn toàn". Mặc dù Fenn thấy vui là sự hoà hợp chiếm ưu thế đối với những người Mỹ làm việc trực tiếp cùng Hồ Chí Minh tại Việt Nam và hài ḷng với sự thay đổi t́nh cảm của Phelan, nhưng ông vẫn thất vọng là ḿnh bị bỏ lại đằng sau ở Côn Minh, nơi công việc bàn giấy ngày càng trở nên khó chịu. Hai nhân tố góp vào những khó khăn của Fenn và cuộc sống đầy ải bên lề là những rắc rối liên tục giữa ông với OSS và sự trở lại của Laurie Gordon.. Mặc dù nhiệm vụ làm việc với GBT của Fenn nhằm mục đích cải thiện mối quan hệ căng thẳng giữa OSS và GBT và đưa nhóm này về dưới quyền kiểm soát của OSS, nhưng mối quan hệ giữa hai nhóm này không hề được cải thiện. Quả thực, OSS đă phải phái các sĩ quan tới tổng hành dinh GBT để "thẩm tra toàn diện" bằng việc xem xét những hồ sơ của GBT. Một trong số những sĩ quan như thế là người được chỉ định chỉ huy Đội Nai, thiếu tá Allison Thomas. Căn cứ vào những thừa nhận của chính Fenn sau chiến tranh th́ có vẻ như OSS có lư do chính đáng để nghi ngờ cả Fenn lẫn GBT.

Fenn thú nhận là trong khi ông và Thomas "đang uống một tách cà phê khai vị" th́ thư kư của Gordon (và là thư kư của Fenn trong thời gian Gordon vắng mặt), Helen Tong, "nhanh chóng loại bỏ mọi thứ trong hồ sơ mà họ không muốn Thomas thấy". Như mọi khi, Fenn và GBT kiên quyết giữ những vật có giá trị nhất, ví dụ như danh sách điệp viên, cho chính họ. Vài ngày sau chuyến thăm vào cuối tháng năm của Thomas, một người đưa thư mang đến bức thư của Helliwell trong đó viết rằng OSS sẽ cắt đứt với chúng ta (GBT) trừ phi chúng ta đáp ứng yêu cầu của họ: GBT có ba ngày để suy nghĩ". Nếu chúng tôi để lại mọi thứ trong các hồ sơ", Fenn nói thêm, "chúng tôi có thể đă không có thời gian dù chỉ để nghe xưng tội!".

OSS đă mất hết kiên nhẫn với GBT. Ngày 22 tháng 5, Helliwell tŕnh lên Heppner bản phân tích của ḿnh về GBT. Ông thấy thất vọng về GBT và rơ ràng nghi ngờ Fenn:

Tôi tin là vấn đề về số phận cuối cùng của GBT đă tới lúc cần phái có một hành động dứt khoát. Tôi đă cố gắng trong nhiều cuộc đối thoại với cả Fenn và Bernard nhằm buộc họ phải có cam kết dứt khoát liệu họ có sẵn sàng chịu sự chỉ huy của OSS hay không cũng như khi nào họ quyết định dứt khoát sẽ theo cách này hay cách khác… Theo thú nhận của Fenn, họ vẫn đang cung cấp thông tin cho người Trung Quốc. Fenn tuyên bố rằng hiện giờ họ không cung cấp thông tin cho người Pháp và người Anh như đă làm trong quá khứ, mặc dù theo ư kiến tôi, lời tuyên bố này có thể công khai chất vấn. Theo quan điểm của chi nhánh này th́ t́nh h́nh liên quan tới các hoạt động t́nh báo tại Đông Dương hiện đă phát triển tới mức chúng ta có thể nắm được lợi thế chắc chắn hơn so với GBT.

 

Helliwell chủ yếu bị thúc đẩy bởi sự t́m kiếm tin tức t́nh báo tốt hơn hay bởi mong muốn loại bỏ một tổ chức cạnh tranh, câu hỏi đó c̣n để ngỏ. Bất luận thế nào, khoảng cuối cuối tháng Năm, vị thế của OSS liên quan tới Đông Dương cũng đă có nền tảng vững chắc: Patti đă có một cuộc tiếp xúc đáng tin cậy và thuận lợi với Hồ Chí Minh, cả Đội Nai và Đội Mèo cũng đang chuẩn bị cho sứ mạng của họ. V́ thế những đề xuất của Helliwell liên quan đến GBT thích hợp hơn so với một tháng trước đó. Ông đề nghị cho GBT thời hạn cuối cùng vào ngày 1 tháng 6 để quyết định xem ḷng trung thành của họ sẽ đặt vào đâu. Nếu đồng ư đặt "riêng" ḿnh dưới sự chỉ huy của OSS, họ sẽ được yêu cầu chỉ sử dụng mật mă và các phương tiện thông tin liên lạc của OSS, phát tin t́nh báo và thông tin tác chiến "cho OSS và chỉ ḿnh OSS để được phân phối khi OSS thấy thích hợp, và OSS sẽ đảm đương toàn bộ "quyền điều khiển, giám sát và phê chuẩn tất cả các hoạt động của GBT". Nếu GBT từ chối, theo ư kiến của Helliwell, "tất cả các trang thiết bị và nhân viên của OSS sẽ ngay lập tức được rút khỏi GBT và hướng sang các kênh thông tin thuận lợi hơn, và… tiếp tế và ủng hộ cho GBT dưới bất kỳ h́nh thức nào cũng sẽ bị huỷ bỏ".

Ngày 28 tháng 5, Helliwell lại một lần nữa cảnh báo GBT:

"Cơ quan này đă nhận được chỉ thị từ cấp thẩm quyền cao hơn rằng lệnh trưng dụng về quân nhu và đảm bảo tài chính cho GBT có thể được phê chuẩn… Rất tiếc là bước đi này hiện đă trở thành cần thiết, nhưng có cảm giác là thời gian cần thiết để các ngài đi đến quyết định liệu có thể chấp nhận từ bỏ vị thế (thu hút OSS) của ḿnh hay không đă trôi qua".

Căn cứ vào sự coi trọng khả năng hoạt động độc lập của tất cả các thành viên GBT th́ việc họ từ chối trao quyền kiểm soát mạng lưới của ḿnh cho OSS không có ǵ đáng ngạc nhiên đối với Helliwell cũng như bất kỳ ai ở tổng hành dinh OSS.

Phản ứng của OSS trước lời từ chối chắc chắn cũng không làm cho Fenn ngạc nhiên, mặc dù điều đó hẳn khiến ông phát cáu. Fenn viết: "Sau tối hậu thư của Helliwell, chúng tôi không nhận được thêm tài chính hoặc bất kỳ trợ cấp nào nữa từ OSS. Tiền bạc chúng tôi có chỉ đủ cho chúng tôi trong hơn hai tuần nữa; và chúng tôi có tới bảy nhóm đang hoạt động ngoài chiến trường và trung b́nh mỗi tuần vẫn gửi cho OSS chín trang tin t́nh báo - có lẽ nhiều bằng thu thập từ tất cả những nguồn tin khác". Tóm lại, theo đánh giá của Fenn, Helliwell và OSS quan tâm tới việc bảo đảm mảnh đất quan liêu của họ hơn là xử lư thông tin t́nh báo.

Tuy nhiên, việc mất đi sự ủng hộ của OSS chỉ là một phần trong những rắc rối của Fenn. Cuối cùng vào giữa tháng 5, Gordon từ Washington đă trở về. Trước tiên ông tới Trùng Khánh, ở đó đối mặt với tối hậu thư của OSS, ông đă quyết định từ chối lời đề nghị v́ biết rằng ông vẫn có thể làm việc với AGAS và Không đoàn 14. Sau đó Gordon quay trở về tổng hành dinh của GBT tại Côn Minh. Ông không hài ḷng với những ǵ đă thấy. Fenn viết về cuộc gặp gỡ như sau:

Hiện tôi đang chủ yếu điều hành căn cứ. Hoạt động của Hồ Chí Minh và bảy nhóm của chúng tôi tại miền Nam Trung Quốc đều do tôi tổ chức. V́ vậy, sau khi Gordon nắm bắt được tất cả những việc chúng tôi đă làm mà đa phần ông phản đối, ông nhận thấy ḿnh không có ǵ để làm nữa; và ông không thể chịu được cảnh ăn không ngồi rồi. V́ thế tâm trạng thất vọng chắc chắn sẽ gây ra sự bùng nổ. "Charles, hăy nh́n vấn đề theo cách này! Tôi đă đưa anh vào nhóm và làm cho anh ít hay nhiều trở thành một cộng sự. Sau đó tôi đi để bàn thẳng mọi chuyện với OSS và khi quay trở lại tôi nhận thấy mọi thứ rối tung! Anh đă liên kết chúng ta với một nhóm người An Nam mà mối quan tâm thực sự của họ là hất cẳng Pháp, những người bạn của tôi đến ngày nào đó họ sẽ giết vài người bạn ấy và anh chính là người tôi sẽ phải cảm ơn v́ chuyện đó".

Căn cứ vào hoàn cảnh, Fenn đă bảo vệ hành động của ḿnh. Ông đáp lại rằng sau cuộc đảo chính hồi tháng 3 của Nhật, ông có quá ít lựa chọn đối với Việt Nam. Tiện thể ông trút một ít trách nhiệm lên OSS. Fenn nói với Gordon: "Ngài là một đặc vụ tự do, v́ vậy ngài có thể nghĩ đến Đông Dương sau chiến tranh để có hành động phù hợp. Dù nhiều hay ít, tôi cần phải làm những ǵ được mách bảo. V́ đó chính là con đường tôi buộc phải theo". Mặc dù các ư kiến của Fenn quả thực bị hạn chế sau Chiến dịch MEIGO và mặc dù ông có thể hợp lư hoá việc tiếp cận Hồ Chí Minh nhưng những lời phàn nàn của Gordon về hành động của Fenn là hợp lư. Gordon là người thành lập và chỉ huy được thừa nhận của GBT. Ngay cả Bernard, Tan, đội ngũ nhân viên đại bản doanh, và các quan chức đối ngoại đều coi ông như vậy. Ông đă tiếp nhận Fenn vào nhóm và cho Fenn phạm vi quyền lực đáng kể, nhưng ông cũng phản đối thẳng thừng việc Fenn sử dụng các đặc vụ Việt Nam. Mặc dù Bernard về mặt pháp lư là nhân vật số hai của nhóm, nhưng quá tŕnh đào tạo và nhân cách vượt trội của Fenn dẫn đến kết quả là ông nắm quyền chỉ huy GBT trong suốt thời gian Gordon vắng mặt. Bây giờ hai người đối mặt với nhau, hai tính cách mạnh mẽ chống lại nhau v́ ḷng trung thành và quyền kiểm soát. Dựa vào bản chất t́nh thế, Gordon có vẻ chiếm ưu thế. Gordon ngay lập tức điện cho Tan yêu cầu ông trở về Côn Minh. Mặc dù Fenn kháng nghị nhưng Gordon thẳng thừng tuyên bố: "Tôi cảm thấy có trách nhiệm quan tâm tới anh ta. Tan sẽ bị bắn nếu anh ta ở nơi nguy hiểm đó. Ngoài ra, khi làm việc với những người An Nam chống Pháp, anh ta sẽ làm hỏng tiền đồ của ḿnh trong Hăng Texaco".

Vin vào lư do ở quá xa, Tan có thể cưỡng lại lệnh triệu tập của Gordon. Tuy nhiên, Fenn gặp bất lợi v́ ở gần, và những cuộc tranh căi giữa hai người lại tiếp tục với Bernard và đội ngũ nhân viên đứng giữa. Gordon kiên quyết cho rằng làm việc với Việt Minh là một sai lầm nghiêm trọng và phẫn nộ trước một thực tế nhăn tiền mất quyền kiểm soát. T́nh h́nh không được cải thiện, và chẳng mấy chốc Gordon lại cũng va chạm với Wichtrich về quyền chỉ huy AGAS. Có lẽ Wichtrich đă t́m ra giải pháp duy nhất đối với t́nh h́nh này.

Theo hồi ức của Fenn về bữa tối với cả Gordon và Wichtrich, Wichtrich đă khuyên Gordon:

Wedemeyer khăng khăng rằng tất cả các hoạt động diễn ra tại mặt trận của ông ta đều nằm dưới quyền chỉ huy của ông ta, tức là quyền chỉ huy quân sự đối với tất cả các đơn vị. Ngài được đề nghị thăng cấp nhưng lại từ chối v́ lư do không muốn tổ chức của ngài bị can thiệp từ bên ngoài. Ngài cũng từ chối sử dụng những người của chúng tôi như Hồ Chí Minh v́ ngài nghĩ rằng ông ấy chống Pháp - cũng có thể ông ấy là người như vậy. Nhưng Wedemeyer lại tán thành việc ngài sử dụng Hồ Chí Minh. Và tôi cũng vậy… Nếu ngài không điều hành công việc dưới sự kiểm soát toàn diện của chúng ta th́ c̣n nói ǵ đến cương vị cố vấn dân sự và điều hành các hoạt động không liên quan tới người Việt?

Giải pháp này phù hợp với tất cả các bên. AGAS đặt GBT dưới quyền chỉ huy của nó, Fenn vẫn là liên lạc của OSS cho AGAS và làm việc với GBT, và Gordon vẫn giữ được tiếng nói mạnh mẽ trong các lĩnh vực của GBT - những lĩnh vực ông không cần chấp thuận hoạt động với người Việt Nam hay gánh lấy gánh nặng tài chính khi không được OSS tài trợ.

Với thoả thuận mới này, Gordon và Fenn sớm giải quyết những bất đồng của họ. Gordon bắt đầu ngập đầu vào những kể hoạch gài đặc vụ Pháp dọc theo miền duyên hải Đông Dương bằng tầu ngầm và kết thúc bằng những công việc hàng ngày của mạng lưới. Ngay sau khi Gordon thay đổi vị thế thành cố vấn dân sự, Bernard đă từ chức. Mặc dù ông thích và đă làm việc ăn ư cùng Fenn và AGAS nhưng ḷng trung thành của ông đă dành cho GBT. Gordon, ít hay nhiều, đă thoát khỏi cảnh ngộ và Tan vẫn làm việc tại Việt Nam, chỉ c̣n lại một ḿnh Bernard mệt mỏi ră rời. Hơn 3 năm không về thăm gia đ́nh và phải đóng vai trung gian trong những cuộc tranh căi giữa Fenn và Gordon đă khiến Bernard suy sụp. Sự ra đi của Bernard và những thay đổi do Gordon gây ra về căn bản cũng làm thay đổi vai tṛ của Fenn. Với sự ra đi của Bernard, Fenn c̣n lại quá ít người có cùng chí hướng để cùng chung lưng đấu cật. Thành công của Fenn cho đến thời điểm này phần lớn là nhờ những người có khả năng cùng làm việc với ông, đặc biệt là Bernard. Bây giờ Fenn không c̣n là người chủ thực sự trong lănh địa GBT nữa. Không c̣n vị trí này và việc Phelan chiếm chỗ tại căn cứ Việt Minh, Fenn trở thành chỉ một trong số vô vàn điệp viên của OSS.

Lúc nào cũng là người thực tế, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục viết thư cho Fenn. Tuy nhiên, ông chủ yếu tập trung vào những người ông đă tiếp xúc trực tiếp tại Đông Dương. Những người lính trên chiến trường. Mặc dù ban đầu Tan và Phelan là những người Mỹ duy nhất sát cánh cùng Việt Minh, nhưng sẽ có thay đổi đáng kể vào mùa hè năm 1945 bởi sự có mặt của Đội Nai. Ngày 16 tháng 5, Allison Thomas nhận được "Chỉ thị" bắt đầu hoạt động với tư cách là Đội SO số 13, mật danh là "Nai". Nhiệm vụ hàng đầu của Thomas là ngăn chặn các tuyến liên lạc của Nhật, đặc biệt là đường sắt và hệ thống đường bộ của thực dân Pháp trong khu vực Hà Nội - Nam Ninh. Nhiệm vụ thứ yếu là "hoạt động với du kích quân" và "báo hiệu mục tiêu cho lực lượng không quân". Ngoài ra, Thomas c̣n phải cung cấp những báo cáo cơ bản về thời tiết cho những đợt thả dù và hoạt động của không quân. Thiếu tá Geral W. Davis đóng tại Bách Sắc (một thành phố của Quảng Tây, Trung Quốc) được chỉ định là người liên lạc đầu tiên cho Đội Nai. Ban đầu cả hai Đội Nai và Mèo dự định huấn luyện binh sĩ người Việt và các sĩ quan châu Âu theo thoả thuận giữa Sabattier và Wedemeyer, mặc dù Patti cũng đang cân nhắc gửi một biệt đội OSS tới khu vực Việt Minh kiểm soát để huấn luyện cho các cán bộ của Hồ Chí Minh. Ngày 27 tháng 5, thiếu tá Wampler gửi điện cho Davis tŕnh bày rơ hơn về công tác của Thomas. Wampler quyết định không điều Thomas hay Holland (chỉ huy Đội Mèo) vào Đông Dương thuộc Pháp nữa mà giữ họ làm việc riêng với các binh sĩ người Việt của Sabattier. Vẫn hy vọng về khả năng hợp tác với Pháp, tổng hành dinh mặt trận đă chấp thuận sử dụng một trăm binh sĩ "An Nam" và mười sĩ quan Pháp cho công tác SO tại Đông Dương. Thomas và Holland mỗi người có trách nhiệm huấn luyện năm mươi binh sĩ.

 

Wampler và Davis hoàn toàn tin tưởng vào khả năng làm việc với người Pháp của Thomas. Là một thanh niên gốc Michigan ngoài hai mươi tuổi, Thomas đăng lính năm 1941. Sau khi được huấn luyện tại căn cứ quân sự Fort Benning, tiểu bang Georgia, anh được tuyển vào OSS. Thomas đă được vinh dự phục vụ tại mặt trận châu Âu, và năm 1944 tướng Dwight D. Eisenhower đă tặng anh bằng khen v́ thành tích trong công tác phản gián tại nước Pháp bị chiếm đóng. Nội dung tuyên dương công trạng của Thomas như sau:

Là một sĩ quan phản gián thuộc Lực lượng Đặc biệt, bộ phận G-3, quân đoàn 3 Mỹ, từ ngày 1 tháng 8 năm 1944 đến ngày 1 tháng 10 năm 1944, Thiếu tá Thomas, nhờ nỗ lực và kiến thức điêu luyện đă phát hiện ra ra những điệp viên ch́m và các nhóm kháng chiến bí mật, xác định rơ liệu các nhân viên mật vụ đă bị kẻ địch phát hiện hay chưa. Thành tích của những nỗ lực của anh đă mở ra khả năng sử dụng lực lượng Pháp hỗ trợ trực tiếp các chiến dịch của quân đoàn 3 Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ.

Mùa xuân năm 1945, OSS điều Thomas tới Trung Quốc. Ở đó anh nhận thấy rằng thành công với kháng chiến Pháp tại chính quốc không nhất thiết dẫn đến thành công tương tự của người Pháp tại Đông Dương. Các kênh liên lạc khác nhau trong mớ ḅng bong những cơ quan và sở chỉ huy của người Pháp tại Trung Quốc cùng với t́nh trạng lúng túng do không phải một mà là hai thất bại thảm hại trước Nhật Bản (cuộc xâm lược đầu tiên năm 1940 và Chiến dịch MEIGO năm 1945) đă tạo ra một nhóm binh lính dễ bị kích động và dễ bị tổn thương quyết tâm quay trở lại thuộc địa cùng với sự phô trương lực lượng. Tuy nhiên, tháng Năm Thomas đă tới Bách Sắc để gặp các thành viên Mỹ trong đội của ḿnh và bắt đầu huấn luyện cho các nhân viên Pháp, về mặt lư thuyết, sẽ tham gia vào công tác SO của Đội Nai.

Cấp phó của Thomas là trung uư Ren Défourneaux. Défourneaux tiếp cận với nhiệm vụ sắp diễn ra của Đội Nai với một tâm trạng vừa phấn khích vừa sợ hăi. Défourneaux sốt sắng đoán trước những ǵ được mô tả với anh như là một "nhiệm vụ rất quan trọng" nhưng anh cảm thấy đôi chút lo lắng khi làm việc cùng chỉ huy của đội. Những chuyện ngồi lê đôi mách tại đây đă vẽ nên một bức tranh có phần tâng bốc về Thomas và Défourneaux thấy ḿnh đang tự hỏi sẽ tham gia vào "đội nào". Trong lúc Thomas đi trước từ Côn Minh th́ Défourneaux và chỉ huy Đội Mèo, đại uư Holland, bắt đầu xuất phát bằng đường bộ cùng các trang thiết bị. Trên đường hành quân, những thành viên khác của Đội Nai nhập cùng với họ. Ngoài Thomas và Défourneaux, Đội Nai gồm có binh nhất Henry Prunier, thông dịch viên thông thạo tiếng Pháp và chút ít tiếng Việt; trung sĩ Lan Squires, nhiếp ảnh gia của đội; binh nhất Paul Hoagland, lính cứu thương; trung sĩ William Zielski, nhân viên điện đài; và trung sĩ Lawrence Vogt, chuyên viên vũ khí. Đội Mèo c̣n ít hơn, chỉ có Holland, trung sĩ John Stoyka và John Burrowes.

Trong khi Đội Nai chậm chạp cuốc bộ về phía biên giới Đông Dương th́ những cuộc đàm phán với tàn quân Pháp tại Côn Minh vẫn diễn ra ́ ạch và cuộc đ́nh công ngồi vẫn chưa chấm dứt. Patti ngày càng nản với cảnh ăn không ngồi rồi. ông đề nghị Davis, chỉ huy chung của Đội Nai và Mèo, khuyên Thomas và Holland cân nhắc kế hoạch sử dụng quân Pháp cho những sứ mạng của họ và nghĩ tới những chọn lựa khác. Mặc dù vẫn tham gia đàm phán với tàn quân Pháp nhưng Patti không dành năng lực làm việc của ḿnh chỉ cho những yêu cầu của họ. Kể từ cuộc gặp Hồ Chí Minh hồi cuối tháng Tư, Patti vẫn giữ liên lạc với các đặc vụ của Việt Minh tại Côn Minh, Bách Sắc và Tĩnh Tây. Qua những người này ông biết được rất nhiều về "những thành tích chói lọi của Việt Minh" và "sự uyên bác" của Hồ Chí Minh. "Khoảng giữa tháng Sáu", Patti nhớ lại, "Tôi đă mở rộng phần nào mối quan hệ với các thành viên chọn lọc trong cộng đồng người Việt tại Côn Minh". Patti báo cáo với cấp trên của ông trong OSS, tổng hành dinh mặt trận và sứ quán Mỹ về tổ chức của Việt Minh và những nỗ lực chống Nhật của họ. Mặc dù cả tổng hành dinh mặt trận và đại sứ quán đều không hài ḷng về việc Patti cộng tác với các đặc vụ Đông Dương, điều khiến người Pháp hết sức tức giận, nhưng OSS cũng không thể phớt lờ t́nh h́nh thực tế. Nhận ra khuynh hướng về bằng chứng xác thực của người Mỹ, Patti đă tŕnh lên Heppner một bộ hồ sơ về những thành tích của Việt Minh kể từ cuộc đảo chính của Nhật. Patti cảm thấy tự tin trong việc đưa ra các chứng cứ của ḿnh - cái mà ông mô tả là một "bàn thắng đáng kể":

"Việt Minh đă đặt sáu tỉnh ở phía bắc Bắc Kỳ dưới sự quản lư quân sự và hành chính của ḿnh, đă thành lập Giải phóng quân cùng các đơn vị du kích và tự vệ, một tổ chức tuyên truyền hiệu quả với hạn chế về báo chí và truyền thanh, một chương tŕnh chính trị xă hội và quân sự, và đấy là thành phần quan trọng nhất, được ủng hộ rộng răi nhất từ nhân dân Việt Nam".

Heppner quyết định chuyển các tài liệu của Patti trực tiếp cho tướng Wedemeyer và Gross, hoàn toàn bỏ qua sứ quán Mỹ. Từ Trùng Khánh, thông tin được chuyển thẳng cho Donovan ở Washington. "Sau đó", Patti bốc đồng nói, "các hoạt động và quan hệ của tôi với người Việt Nam không c̣n bị nghi ngờ trong thời gian tôi phục vụ tại Mặt trận Trung Quốc.

Thượng tuần tháng 6, Hồ Chí Minh thông báo cho Patti rằng hiện ông có khoảng 1000 chiến sĩ du kích "được huấn luyện tốt" sẵn sàng để Patti sử dụng cho "bất cứ kế hoạch nào" để chống Nhật. Patti không chấp nhận ngay đề nghị đó v́ trong hai tuần đầu tháng 6, Đội Nai dường như đang đạt được tiến bộ với người Pháp. Như một phần của nhiệm vụ, 25 lính Pháp chuẩn bị lên đường cùng Thomas với tư cách là nhóm tiên phong. Mới thoát khỏi sự truy đuổi của Nhật, những người lính này ăn mặc rách rưới và trang bị nghèo nàn. Thomas quyết định cấp cho họ thêm quân phục, giầy, và trang thiết bị mà anh có thể t́m được. Ngoài ra, anh yêu cầu họ cạo những bộ râu đă mọc rậm ŕ trong cuộc đào thoát khỏi Đông Dương để họ có thể "được chấp nhận như những người Mỹ giúp đỡ nhân dân địa phương". Défourneaux nhớ là anh đă đổi trang bị của binh lính Pháp cho FMM ở TĩnhTây trong bóng tối bao phủ v́ "không muốn người Trung Quốc biết rằng chúng tôi trang bị cho lính Pháp". Trong lúc đó, Thomas đề nghị Trung Quốc cho phép họ thành lập một khu vực huấn luyện. Cuộc t́m kiếm nơi tập trung binh lính và quân trang gần biên giới đă làm nản ḷng Défourneaux và những người Mỹ khác. Họ cuốc bộ từ.nơi này đến nơi khác, thường là trong mưa, dường như không có kế hoạch và thường không có mặt thiếu tá Thomas.

Khoảng giữa tháng t́nh h́nh thậm chí c̣n ít ư nghĩa hơn đối với binh lính. Ngày 17 tháng 6 Défourneaux nhận được một bức điện vô tuyến, anh giao cho tuỳ phái viên chuyển tiếp cho Thomas. Bức điện yêu cầu họ ngừng phát tài liệu cho người Pháp. Không biết ǵ về những cuộc tranh căi dữ dội tại Côn Minh, các sĩ quan tiếp tục huấn luyện cho binh lính Pháp trong khi vẫn mù mờ về nhiệm vụ của họ. Cuối cùng, vào thượng tuần tháng 7, những mệnh lệnh mới được gửi đến, nhưng chỉ sau một loạt các bức điện đầy mâu thuẫn yêu cầu toàn đội hành quân tới Bách Sắc trước và sau đó tới Tĩnh Tây. Défourneaux, trung uư Langlois (một sĩ quan Pháp), và 24 "cá nhân" được biết đến với tên gọi chung là nhóm Tersac, phải đi bằng đường bộ tới Đông Dương. Nhưng quân nhân Mỹ và Pháp c̣n lại phải đến Bách Sắc để huấn luyện nhảy dù đổ bộ xuống sau pḥng tuyến của Nhật tại Đông Dương. Sau đó Thomas ra đi, để sĩ quan cấp phó của ḿnh lo liệu vấn đề hậu cần của cuộc hành quân. Ngày 8 tháng 7, Défourneaux hội kiến sĩ quan Pháp cao cấp nhất tại Tĩnh Tây, thiếu tá Revole. Được mô tả là một "sĩ quan thực dân lăo làng", Revole gây ấn tượng cho cả Thomas lẫn Défourneaux bằng hiểu biết sâu rộng. Revole bóng gió với Défourneaux rằng t́nh h́nh Việt Nam có thể phức tạp hơn những ǵ người Mỹ biết. Ông ta b́nh luận: "Vấn đề Việt Minh là một nhân tố phải được xem xét kỹ lưỡng".

Revole khuyên Thomas "chờ đợi chút ít" trước khi đến Bắc Kỳ và nói thêm rằng một phái đoàn hỗn hợp Mỹ - Pháp "không việc ǵ phải quay lại đó trừ phi chúng ta biết Việt Minh sắp sửa hợp tác với chúng ta". Thomas ngạc nhiên v́ những lời b́nh luận của Revole. Vào thời điểm đó, anh khá mù mờ về Đông Dương thuộc Pháp. "Tất cả những ǵ tôi biết", Thomas viết, "là nó được gọi là Đông Dương thuộc Pháp. Tôi ngờ ngợ rằng đó là một thuộc địa của Pháp và những nhà truyền giáo đă đến đó trước tiên, theo chân họ là lính Pháp. Tôi biết người Pháp có các đồn điền cao su và họ chuyển lợi nhuận về cho nước Pháp. Đó là tất cả". Thomas nhớ là trong cuộc trao đổi với Revole lần đầu tiên anh nghe thấy từ "Việt Minh". Khi Thomas hỏi Revole Việt Minh là ai, ông ta trả lời: "Đó là một lực lượng du kích được tổ chức tại Bắc Kỳ trong ṿng vài tháng gần đây". Thông tin này khiến Thomas ngạc nhiên. Hai tháng đầu trong nhiệm kỳ của ḿnh tại Trung Quốc, Thomas cho rằng ḿnh sẽ làm việc với người Pháp, hoặc người Việt do Pháp chỉ huy. "Không ai nghĩ đến việc bắt đầu tiếp xúc với du kích Việt Nam". Thomas thú thực, "Chúng tôi không hề biết là họ ở đó".

 

 


 


 

 

 

 

 

http://www.youtube.com/user/khieuvusaigon#g/u

http://www.youtube.com/user/vgdoanchinhthuan?feature=watch

 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: