Ngô Đ́nh Nhu 

 

 

CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM

 

  (Tùng Phong dịch)

 

7

Phần IV

 

MỘT LẬP TRƯỜNG THÍCH HỢP

VỚI CÁC NHẬN XÉT TRÊN

 

Trong một phần trên chúng ta đă phân tích các sự kiện lịch sử để t́m hiểu vấn đề mà dân tộc chúng ta cần giải quyết trong giai đoạn này. Trong một phần khác, chúng ta đă kiểm điểm những cái vốn mà chúng ta có thể sử dụng được cũng như những món nợ mà chúng ta phải mang khi chúng ta nỗ lực giải quyết vấn đề đă nh́n thấy.

 

Trong phần dưới đây, chúng ta sẽ làm một công việc hoàn toàn khác. Trong hai phần trên đây, chúng ta đă dựa trên những sự kiện lịch sử không ai phủ nhận được để phân tích các biến cố phức tạp hiện nay, mong soi thấu các đường canh và các sợi chỉ chính yếu đă dệt ra t́nh trạng hiện tại của dân tộc. Trong phần dưới đây, chúng ta lại điều hợp những tính chất mà chúng ta đă rút ra được từ trong khối sự kiện đă được phân tích, đối với mỗi lĩnh vực của dĩ văng dân tộc, để t́m xây dựng một đường lối hành động và một phương pháp giải quyết vấn đề mà chúng ta đă nh́n thấy.

 

Nhiều khía cạnh của đường lối hành động và nhiều yếu tố của phương pháp giải quyết đă được đề cập đến rải rác trong nhiều đoạn suy luận trên. Dưới đây chúng ta cũng sẽ nhắc trở lại trong một cái nh́n tổng hợp để làm thành một toàn bộ chủ trương trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia.

 

Chúng ta đang ở trong trường hợp của một người vừa xem xong một cuốn phim tả một phần dĩ văng của dân tộc trong đó những sự kiện bên ngoài và bên trong đều được phân tích với ít nhiều chi tiết. V́ thế cho nên khi phim ngừng lại ở h́nh chót, nghĩa là ở t́nh trạng hiện tại của quốc gia, chúng ta đă nhận thức được tất cả các nguyên nhân đă cấu tạo vấn đề hiện tại của dân tộc.

 

Chúng ta có thể nghĩ rằng, t́m được nguyên nhân cố nhiên là giải quyết được vấn đề, cũng như nhà Y học t́m được căn bệnh, là chữa được bệnh.

 

Nhưng bản chất của đời sống là phức tạp. Đời sống của quốc gia lại c̣n phức tạp hơn nữa, bởi v́ quốc gia hay bất cứ một tập thể nào, là trường hoạt động không phải của một người, hay của một nhóm người, mà là của toàn dân, là của tất cả các phần tử của tập thể. Do đó phản ứng của tập thể khó mà đoán được. V́ vậy mà nhiều nhà lănh đạo đă bị những biện pháp độc tài cám dỗ. Chúng ta không lựa con đường dễ đó bởi v́ chúng ta tin tưởng ở hai điều mà không ai có thể phủ nhận được:

 

Sự hiểu biết của chúng ta về vấn đề dân tộc đă được đặt trên căn bản vững chắc của sự kiện lịch sử.

 

Đời sống của một tập thể do định luật thăng bằng động tiến của vũ trụ chi phối. Thăng bằng động tiến giữa những yếu tố đối chọi nhau ngay trong nội bộ, thăng bằng động tiến giữa những quyền lợi của tập thể và quyền lợi của cá nhân, thăng bằng động tiến giữa những điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài.

 

Trên căn bản khách quan đó, chúng ta sẽ t́m minh định một thái độ mà chúng ta tin rằng thích nghi nhất với vấn đề hiện tại cần phải được giải quyết của dân tộc. Một thái độ đối với vấn đề của một dân tộc, đương nhiên bao gồm đủ các lĩnh vực. Chúng ta lần lượt xem qua các lĩnh vực lănh đạo, quần chúng, kinh tế và quyền sở hữu, và văn hoá.

 

Vấn đề lănh đạo

 

Bộ máy lănh đạo của một quốc gia được ấn định bởi chính thể lựa chọn. Sự lựa chọn chính thể lại tuỳ thuộc ở quan niệm về vấn đề lănh đạo. Khối Cộng Sản và khối Tự Do, ngày nay khác nhau, trên phương diện h́nh thức, ở chỗ một bên chủ trương chính thể Độc tài Đảng trị, một bên chính thể dân chủ Pháp trị. Nhưng, trong căn bản, sự khác nhau không phải về h́nh thức bên ngoài đó. Bởi v́ h́nh thức đó chỉ là biểu lộ bên ngoài của một sự khác nhau về quan niệm lănh đạo. Khối Tự Do quan niệm một sự lănh đạo căn cứ trên sự thuyết phục để hướng dẫn quần chúng. Khối Cộng Sản quan niệm một sự lănh đạo căn cứ trên sự cưỡng bách để hướng dẫn quần chúng. Khối thứ nhất chú trọng đến với trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi ngắn hạn của cá nhân trong tập thể và quyền lợi dài hạn của tập thể, bởi v́ lư do của đời sống là một sự việc của cá nhân mà điều kiện của đời sống là một điều kiện tập thể. Khối thứ nh́ chỉ chú trọng đến quyền lợi dài hạn của tập thể bởi v́, trong một giai đoạn lịch sử, các nhà lănh đạo tin rằng sự sống c̣n của tập thể bị đe doạ và đ̣i hỏi sự hoàn toàn hy sinh các quyền lợi cá nhân cho tập thể. Một điều mà chúng ta nên ghi nhớ là sự lựa chọn quan niệm lănh đạo này hay quan niệm lănh đạo kia đều do những sự kiện lịch sử thực tế quyết định chớ không phải do những quan điểm triết lư trừu tượng.

 

Trong một giai đoạn nào đó của lịch sử một dân tộc, sự thăng bằng động tiến giữa những quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể bị phá vỡ, bởi những yếu tố kích thích hoặc nội bộ hoặc bên ngoài đưa đến. Thăng bằng bị phá vỡ, đời sống của tập thể tiếp tục trên những căn bản giả tạo cho đến khi nào thăng bằng động tiến được tái lập.

 

Quan niệm lănh đạo

 

Chúng ta đă biết là ngay trong những thời kỳ b́nh thường của cộng đồng, duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi ngắn hạn cá nhân của các phần tử của cộng đồng và quyền lợi dài hạn của cộng đồng đă là một công việc rất khó khăn, đ̣i hỏi một sự lănh đạo nhiều sáng suốt, nhiều khéo léo và thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Sự phát triển của cộng đồng sẽ được bảo đảm nếu những nỗ lực duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến thành công.

 

Trong những thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng, trạng thái thăng bằng động tiến chẳng những ở vào một trạng thái bấp bênh gia tăng mà lại c̣n bị đe doạ phá vỡ bởi những yếu tố khuynh đảo do hoàn cảnh lịch sử tạo nên. Sự tiến hoá của cộng đồng bị ngưng trệ. Nếu chúng ta lại lấy h́nh ảnh của hệ thống người cỡi xe đạp và xe đạp trên kia, th́ những thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng tương đương với những lúc mà tốc độ của hệ thống giảm đi v́ những lư do nội bộ của hệ thống: xe đạp bỗng ngừng hoặc người cỡi đă mệt mỏi, hay v́ những lư do bên ngoài: t́nh trạng của con đường hoặc sự lưu thông trở nên khó khăn. Dầu sao, v́ những lư do ngoài ư muốn của hệ thống, thăng bằng của hệ thống bị đe doạ và hệ thống sắp ngă.

 

Các yếu tố khuynh đảo trạng thái thăng bằng động tiến có thể phát sinh từ trong nội bộ, ví dụ những cuộc xáo trộn mà Tây phương phải đương đầu, khi chính ḿnh vừa phát minh những kỹ thuật sản xuất kỹ nghệ. Các yếu tố khuynh đảo có thể từ bên ngoài đưa đến, ví dụ những cuộc ngoại xâm mà nước Tàu đă dành cho chúng ta trong tám thế kỷ liên tiếp. Nghĩa là từ ngày lập quốc, trạng thái thăng bằng động tiến của xă hội chúng ta lúc nào cũng bị sự đe doạ phá vỡ bởi một cuộc xâm lăng của nước Tàu. Do đó, sự tiến hoá trong lịch sử đă qua, của dân tộc chúng ta không hùng mạnh và chưa được vượt lên đến tŕnh độ sáng tạo, góp phần vào văn minh nhân loại. Và t́nh trạng nặng nề ấy sẽ măi măi đè nặng và ḱm hăm sự phát triển của dân tộc cho tới ngày nào mà chúng ta, như Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đă nuôi ư chí, tiêu diệt được sự đe doạ xâm lăng của Trung Hoa.

 

Các yếu tố khuynh đảo có thể đồng thời vừa từ bên ngoài đưa đến, vừa phát sinh từ trong nội bộ, ví dụ như cuộc tấn công của Tây phương vào các quốc gia của xă hội Đông Á bắt buộc các quốc gia này phải vừa đương đầu với Tây phương, vừa Tây phương hoá các cơ cấu xă hội của ḿnh. Đương nhiên là trường hợp thứ ba này là tŕnh độ trầm trọng nhất mà các cuộc khủng hoảng của một cộng đồng có thể đạt tới. Trong hoàn cảnh đó, sự duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến, hoặc sự tái lập một trạng thái thăng bằng động tiến đă bị phá vỡ, đ̣i hỏi một sự lănh đạo phi thường. Nếu một sự lănh đạo tương tự không có, cộng đồng bất hạnh, sẽ bị ngưng trệ trong sự tiến hoá, hoặc miễn cưỡng tiếp tục một sự tiến hoá phiến diện, chỉ chú trọng đến một vài khía cạnh của toàn bộ vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng nhưng đ̣i hỏi một sự tiêu hao vô bờ bến đối với sinh lực của cộng đồng, và lưu lại những hậu quả tai hại nặng nề cho nhiều thế hệ trong tương lai. Tất cả các cuộc cách mạng đẫm máu, kể cả cuộc cách mạng của Pháp năm 1789 và của Nga năm 1917, đều thuộc vào trạng thái thăng bằng động tiến được tái lập. Sau cách mạng 1789, măi cho đến sau chiến tranh Pháp-Đức năm 1870, nước Pháp mới tái lập được trạng thái thăng bằng động tiến đă mất. Sau cách mạng 1917, măi đến ngày nay, nước Nga vẫn chưa tái lập lại được trạng thái thăng bằng động tiến đă mất.

 

Trong h́nh ảnh hệ thống người cỡi và xe đạp, sự trạng thái thăng bằng động tiến bị phá vỡ tương đương với sự mất thăng băng của người cỡi. Cộng đồng tiếp tục một sự tiến hoá miễn cưỡng trên những căn bản giả tạo, phí phạm nhiều sinh lực để thâu thập những thành quả phiến diện, cũng tương đương với người cỡi xe đạp gắng sức đẩy chiếc xe đạp không c̣n dùng được, để đưa toàn bộ hệ thống người và xe vượt một đoạn đường. Kết quả thâu thập được không tương đương với sự phí sức rất nhiều, bởi v́ một trạng thái thăng bằng sống đă được thay thế bằng một trạng thái thăng bằng chết.

 

Nước Anh và nước Mỹ là những cộng đồng quốc gia điển h́nh, nhờ một sự lănh đạo sáng suốt, đă chiến thắng được những yếu tố khuynh đảo phát sinh từ nội bộ cũng như bên ngoài đưa vào, nhưng trong những thời kỳ khác nhau, và duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến cho xă hội trong nhiều thế kỷ. Nguồn gốc chính yếu của sức mạnh hiện tại của hai cường quốc trên là sự kiện đó.

 

Nước Pháp và nước Đức là hai quốc gia khác, trong xă hội Tây phương, cũng đă phải đương đầu với những cuộc khủng hoảng đồng loại với những cuộc khủng hoảng của hai quốc gia Anh và Mỹ. Cả hai nước Pháp và Đức đều thắng được các yếu tố nội bộ mà không thắng được các yếu tố ngoại lai. Trạng thái thăng bằng động tiến bị phá vỡ trong một thời gian ngắn nhưng đă được tái lập. Tuy nhiên sự lănh đạo quốc gia vẫn c̣n chịu ảnh hưởng của một sự gián đoạn trầm trọng.

 

Nước Nhật là một quốc gia điển h́nh, nhờ một sự lănh đạo phi thường, đă thắng được những yếu tố khuynh đảo vừa nội bộ vừa bên ngoài, cùng lúc tác động đồng thời, và duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến mặc dầu xă hội phải thay thế nhiều giá trị tiêu chuẩn.

 

Nước Nga là một quốc gia ngoài xă hội Tây phương, đă phải ứng phó với một cuộc khủng hoảng đồng loại với cuộc khủng hoảng của Nhật. Nhưng các nhà lănh đạo Nga đă thắng được các yếu tố bên ngoài mà không thắng được các yếu tố nội bộ. V́ những biện pháp áp dụng để đương đầu với cuộc khủng hoảng đă phá vỡ trạng thái thăng bằng động tiến của xă hội, và đặt ra những căn bản giả tạo cho một sự tiến hoá phiến diện. Và ngày nay, sau gần nửa thế kỷ chính quyền độc tài đảng trị khủng khiếp của Cộng Sản, trạng thái thăng bằng động tiến của xă hội Nga vẫn chưa tái lập. Chúng ta đă thấy trong các giai đoạn trên, hai sự kiện chứng minh cho điều này. Trước hết là các nhà lănh đạo Nga Xô đang lần lần và một cách dè dặt thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược giai đoạn, và đương nhiên giả tạo bằng những giá trị chiến lược khác thích nghi với di sản tinh thần của văn minh nhân loại, mục đích để tái lập trạng thái thăng bằng động tiến của xă hội, đă bị cách mạng phá vỡ. Sự kiện thứ hai là bộ máy lănh đạo của Nga Xô, căn cứ trên những tiêu chuẩn giả tạo của chế độ độc tài đảng trị, đương nhiên bất lực trong sự chuyển quyền điều hoà mỗi khi cần phải thay đổi người lănh đạo.

 

Như các đoạn trên đă tŕnh bày, cộng đồng quốc gia Việt Nam đang ở trong một thời kỳ khủng hoảng đồng loại với những khủng hoảng trước đây của Nhật và của Nga. Cuộc khủng hoảng của Việt Nam lại c̣n trầm trọng hơn v́ những yếu tố khuynh đảo nội bộ phát sinh từ thời gian gần một thế kỷ thuộc Pháp và những yếu tố khuynh đảo bên ngoài do cuộc tranh chấp giữa Tây phương và Cộng Sản đưa đến. V́ vậy cho nên, quan niệm lănh đạo dẫn dắt đến h́nh thức chính thể, rất quan trọng cho sự bảo vệ trạng thái thăng bằng động tiến cho cộng đồng trong những thời kỳ b́nh thường, càng trở nên vô cùng thiết yếu trong một thời kỳ khủng hoảng như của chúng ta hiện nay.

 

Trong trường hợp Việt Nam, không thể đặt vấn đề quan niệm lănh đạo và chính thể mà không đề cập đến vấn đề Cộng Sản được, v́ chính là nhân danh quan niệm lănh đạo Cộng Sản mà cuộc tương tàn đă diễn ra trên mảnh đất này từ hai mươi năm nay.

 

V́ những lư do nào mà có một số người lănh đạo chủ trương rằng quan niệm lănh đạo Cộng Sản thích nghi cho hoàn cảnh khủng hoảng của cộng đồng dân tộc Việt Nam hiện nay?

 

Trước hết chúng ta sẽ nhắc lại, trong một cái nh́n bao quát, những điều đă được rải rác tŕnh bày trong các phần trên, liên quan đến sự phát sinh của thuyết Cộng Sản ở Âu châu, đến các điều kiện đă biến một lư thuyết, do Tây phương tạo ra, thành một lợi khí của Nga Xô để chống lại Tây phương và đến hoàn cảnh lịch sử nhờ đó thuyết Cộng Sản được nhập cảng vào Á châu và vào Việt Nam. Sau đó, chúng ta sẽ nhắc lại những kết quả phân tích sự kiện lịch sử, cũng rải rác trong các phần trên, khả dĩ giúp cho chúng ta vượt trên các yếu tố phức tạp đă dệt thành hoàn cảnh hiện tại của Cộng đồng dân tộc, suy luận để nh́n thấy và t́m xem những lư do, đă khiến cho quan niệm lănh đạo Cộng Sản xâm nhập chính trường Việt Nam, có một giá trị như thế nào, đối với quyền lợi của dân tộc, trong một giai đoạn quyết định như giai đoạn này.

 

Thuyết Cộng Sản phát sinh

 

Sau khi khoa học Tây phương đă phát minh những kỹ thuật sản xuất kỹ nghệ, th́ những lực lượng mới này đă làm cho hệ thống phân phối tài sản quốc gia của xă hội Tây phương đương thời, tổ chức trên căn bản thủ công nghệ và nông nghiệp, không c̣n hiệu lực nữa. V́ vậy cho nên những cuộc xáo trộn chấn động liên tiếp đă làm lung lay đến tận nền tảng các cơ cấu xă hội Tây phương. Các yếu tố khuynh đảo nội bộ phá hoại cơ thể và gây cho xă hội Tây phương một cơn bệnh trầm trọng.

 

Nhiều giải pháp được đề nghị, trong đó giải pháp xây dựng trên một công tŕnh nghiên cứu thực tế lịch sử chính xác và phong phú, và được quần chúng hưởng ứng v́ đă phát sinh từ những căn bản quan sát thiết thực đối với t́nh trạng xă hội đương thời. Giải pháp này chủ trương thay đổi, bằng một cuộc cách mạng bạo động kiểu 1789 của Pháp, hoàn toàn các cơ cấu của xă hội cũ, tiếp nhận những giá trị tiêu chuẩn mới, để xây dựng một xă hội mới thích nghi với các lực lượng sản xuất kỹ nghệ, trong đó sự phân phối tài sản của cộng đồng sẽ được thực hiện một cách hợp lư. Những mục tiêu đề ra, đương nhiên có một mănh lực hấp dẫn cao độ đối với quần chúng, v́ hứa hẹn nhiều sự bảo đảm cho quyền lợi ngắn hạn của cá nhân.

 

Tuy nhiên, các nhà lănh đạo Tây phương đă đủ sáng suốt để nh́n thấy rằng giải pháp Cộng Sản chỉ chú trọng đến các khuyết điểm cần chỉnh đốn của xă hội Tây phương lúc bấy giờ, và do đó đă phủ nhận các giá trị tiêu chuẩn đă trở thành di sản của văn minh nhân loại, và thay thế bằng những giá trị tiêu chuẩn giả tạo, kết quả của một công tŕnh suy luận lư thuyết, tuy có phong phú nhưng vẫn là của con người trong một thế hệ. V́ nhược điểm đó cho nên phương thuốc đề nghị để chữa bệnh cho xă hội Tây phương, thay v́ có hiệu lực của một linh dược, sẽ trở thành một độc dược chẳng những phá hoại nền tảng của xă hội c̣n hơn cả chứng bệnh lúc bấy giờ, mà lại c̣n có thể tiêu diệt tất cả di sản của văn minh nhân loại trong mấy ngh́n năm.

 

V́ quyền lợi dài hạn của cộng đồng, các nhà lănh đạo Tây phương đă từ chối một phương thuốc độc hại, và vừa nỗ lực t́m những phương thuốc khác cho xă hội Tây phương, vừa chiến đấu ác liệt để loại trừ một độc dược đă lợi dụng một thời kỳ khủng hoảng của cộng đồng, xâm nhập vào cơ thể xă hội. Và ngày nay, trong công cuộc này, sự thành công của Tây phương đă rơ rệt. Tây phương đă t́m được những phương pháp khả dĩ giúp cho xă hội thâu nhận được những lực lượng sản xuất mới mà vẫn duy tŕ được trạng thái thăng bằng động tiến. Và đương nhiên, khi xă hội đă lành mạnh, quần chúng Tây phương cũng không c̣n hưởng ứng thuyết Cộng Sản nữa, v́ nhu cầu không c̣n nữa đối với một phương thuốc đă được đề nghị như là một linh dược để trị một chứng bệnh đă lành. Sự phát triển hùng mạnh của xă hội Tây phương ngày nay là một bằng cớ hiển nhiên và hùng biện.

 

Thuyết Cộng Sản biến thành lợi khí của nước Nga

 

Chúng ta c̣n nhớ rằng giữa Nga và Tây phương có một cuộc chiến đấu trường kỳ đă kéo dài từ nhiều thế kỷ. Và từ khi công cuộc Tây phương hoá nước Nga thành công, dưới thời Đại Đế Pierre cho đến phân nửa đầu của thế kỷ 19, thắng thế đă ngả về Nga. Và quân lực và ngoại giao của Nga đă nhiều lần đóng một vai tṛ quyết định trên chính trường Âu Châu. Nhưng cuộc cách mạng kỹ nghệ của Tây phương vào thời kỳ phân nửa sau của thế kỷ XIX, đă đưa kỹ thuật của Tây phương vượt hẳn kỹ thuật của Nga và làm nghiêng cán cân lực lượng về Tây phương một lần nữa. Sự thua kém Tây phương về kỹ thuật càng rơ rệt, sau khi quân lực của Nga, năm 1905 bị thảm bại trước quân lực của Nhật, một quốc gia ngoài xă hội Tây phương vừa thực hiện xong giai đoạn đầu của công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá.

 

Như thế, vào thời kỳ vài chục năm đầu của thế kỷ 20, vấn đề đặt ra cho các nhà lănh đạo Nga rất minh bạch. Những sự kiện lịch sử nghiêm khắc đặt các nhà lănh đạo này vào một t́nh thế bắt buộc họ phải tái bản công tŕnh Tây phương hoá nước Nga của Đại Đế Pierre để bảo đảm tương lai của dân tộc. Tuy nhiên, những kinh nghiệm đă qua trong cuộc chiến đấu trường kỳ với Tây phương, cũng như tŕnh độ phát triển đại quy mô của kỹ thuật Tây phương lúc bấy giờ, tất cả các yếu tố đó, đều đ̣i hỏi cho công cuộc Tây phương hoá kỳ này, ở các nhà lănh đạo, một kế hoạch toàn diện, đại quy mô, tương xứng với hoàn cảnh lịch sử và vị trí quốc tế của nước Nga, cũng như những phương tiện vĩ đại, để huy động toàn lực của dân tộc. Như thế, vấn đề đă rơ rệt, cuộc cách mạng năm 1917 của Nga biểu lộ ư chí của các nhà lănh đạo Nga, đạt một mục đích dân tộc: phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá.

 

Sở dĩ mục đích thật sự và dân tộc của cuộc Cách mạng Nga năm 1917 bị hoàn toàn che lấp dưới cái áo quốc tế của cuộc cách mạng xă hội thế giới, mà các nhà lănh đạo Nga Xô tuyên bố chủ trương để đánh đổ Tư Bản Chủ Nghĩa, là v́, trong lần Tây phương hoá này, ngoài những kỹ thuật vật chất của Tây phương, nước Nga, với một thâm ư chiến lược vô cùng sắc bén, đă thâu nhận làm lợi khí tranh đấu một lư thuyết, sản phẩm tinh thần của Tây phương mà Tây phương đă từ bỏ: thuyết Cộng Sản. Ngày nay chúng ta cũng đang mục kích, Trung Cộng tái diễn tấn tuồng phất cờ cách mạng xă hội thế giới chống đế quốc để tạo hoàn cảnh thuận lợi phục vụ công cuộc phát triển dân tộc riêng của nước Tàu.

 

Chúng ta đă nhận định, trong một đoạn trên, những sự kiện nào đă dẫn dắt các nhà lănh đạo Nga Xô đến chỗ thâu nhận một chủ nghĩa, ngoại lai, như Chủ Nghĩa Cộng Sản, hoàn toàn chống lại truyền thống văn minh của dân tộc Nga.

 

Trước hết, các nhà lănh đạo Nga Xô, ư thức hoàn cảnh nghiêm khắc của công cuộc phát triển của Nga. Công cuộc phát triển này, cũng như công cuộc phát triển của Trung Cộng ngày nay, đương nhiên sẽ gây ra nhiều phản ứng thù nghịch. V́ vậy cho nên sử dụng được những biện pháp huy động quần chúng đến mức tối đa, đối với họ là một nhu cầu thiết yếu. Quan niệm lănh đạo Độc tài đảng trị của thuyết Cộng Sản đáp ứng vào nhu cầu nói trên.

 

Các cuộc xáo trộn xă hội, vào thời kỳ đó ở Tây phương, là những sự kiện tự nó hùng biện, chứng minh rằng xă hội Tây phương lúc bấy giờ, không thích nghi với các lực lượng sản xuất mới. Xă hội Nga, vào cùng một thời kỳ, lại c̣n lạc hậu hơn xă hội Tây phương, th́ đương nhiên sẽ không thích nghi với các lực lượng sản xuất mới mà công cuộc phát triển dân tộc bắt buộc sẽ thâu nhận. Như thế th́, tổ chức xă hội Nga theo kiểu mẫu xă hội mà thuyết Cộng Sản đề nghị chẳng những là có tác dụng thích nghi hoá xă hội này với các lực lượng sản xuất mới, mà lại c̣n là, trong con mắt các nhà lănh đạo Nga Xô, đi trước Tây phương một đoạn đường, nghĩa là đă thắng Tây phương trên phương diện tổ chức xă hội.

 

Điều bất ngờ cho các nhà lănh đạo Cộng Sản ngày nay là, Tây phương lấy đức tính chính xác của kỹ thuật khoa học, thám cứu các biểu lộ, thực tế của đời sống, đă t́m được và thực hiện được một h́nh thức xă hội thích nghi với các lực lượng sản xuất mới. Trong khi đó, xă hội Nga Xô tổ chức theo kiểu mẫu của xă hội Cộng Sản, chỉ căn cứ trên kết quả suy luận lư thuyết của những bộ óc, tuy là khác thường, nhưng vẫn là của con người c̣n đang ṃ mẫm t́m trạng thái thăng bằng cần thiết cho cộng đồng. Sự kiện Nga Xô đang lần lần thay đổi các giá trị tiêu chuẩn càng xác nhận căn bản lư thuyết và giả tạo của kiểu mẫu xă hội Cộng Sản.

 

Các cuộc xáo trộn xă hội ở Tây phương lúc bấy giờ c̣n bộc lộ ma lực hấp dẫn của thuyết Cộng Sản đối với quần chúng Tây phương. Các nhà lănh đạo cuộc cách mạng Nga Xô năm 1917 đương nhiên nh́n thấy thực trạng chính trị đó. Và trong khuôn khổ cuộc chiến đấu ác liệt giữa Nga và Tây phương, sự Nga thâu nhận lư thuyết Cộng Sản làm lư thuyết tranh đấu, đương nhiên sẽ biến quần chúng Tây phương thành những đồng minh cho Nga, nội tuyến ngay trong ḷng địch. Trong thực tể, các đảng Cộng Sản địa phương trong các quốc gia Tây phương, đều đă đóng, ít hay nhiều, vai tṛ đồng minh nội tuyến cho Nga Xô.

 

Chúng ta vừa nhận xét các sự kiện phát sinh từ t́nh trạng nội bộ của Tây phương và của Nga, đă biến lư thuyết Cộng Sản của Tây phương, thành trong tay Nga Xô một thứ khí giới tinh thần sắc bén, hơn cả bất cứ thứ khí giới kỹ thuật tối tân nào của Tây phương đă phát minh, khả dĩ giúp cho Nga Xô tấn công hiệu quả Tây phương, vừa từ bên ngoài vào, vừa trong nội bộ phát ra.

 

Thuyết Cộng Sản nhập cảng vào Á Châu và Việt Nam

 

Tuy nhiên, đối với nhà lănh đạo Nga Xô, thuyết Cộng Sản c̣n là một lợi khí tranh đấu, có một tác dụng không kém hiệu lực trong một phạm vi khác của cuộc tranh đấu vĩ đại giữa Nga Xô và Tây phương.

 

Như chúng ta đă thấy trong một đoạn trên, khi giai đoạn hiện tại của cuộc tranh đấu giữa Nga Xô và Tây phương mở màn, vị trí của Tây phương rất là hùng mạnh. Tây phương đă chinh phục gần hết thế giới, thuộc địa của Tây phương nằm khắp các lục địa và các đại dương. Quân lực của Tây phương trấn cứ các yếu điểm chiến lược trên địa cầu, kỹ thuật của Tây phương đă vượt đến một cao độ đáng sợ và khắc phục được một cái đà phát triển vừa vững chắc vừa nhiều sinh lực. Trước một địch thủ, mà khả năng và uy thế đă bao trùm thế giới, vượt xa khỏi địch thủ thời Đại Đế Pierre, đương nhiên các nhà lănh đạo Nga không thể mong chiến thắng bằng một chiến lược cổ truyền giới hạn trong phạm vi quốc gia. Nhu cầu chiến lược bắt buộc các nhà lănh đạo Nga Xô đưa khuôn khổ của cuộc chiến đấu lên đến ranh giới hoàn cầu, nếu họ muốn tránh cho Nga một cuộc bao vây ác nghiệt và một thảm bại ngay lúc chưa ra quân.

 

V́ vậy cho nên, Nga Xô đă sử dụng lư thuyết Cộng Sản làm một tín hiệu tập hợp, khả dĩ quy tụ trong một mặt trận quốc tế, dưới sự lănh đạo của Nga Xô, tất cả các kẻ thù của Tây phương lúc bấy giờ trên thế giới, để làm hậu thuẫn cho Nga Xô. Trong cuộc chiến đấu vĩ đại chống Tây phương, mà mục đích vẫn là công cuộc phát triển cho dân tộc Nga. Chúng ta có thể so sánh những nỗ lực lúc bấy giờ của Nga Xô với những nỗ lực hiện tại của Trung Cộng, để thành lập một mặt trận quốc tế quy tụ các quốc gia chưa mở mang để hậu thuẫn cho công cuộc phát triển cho dân tộc Tàu.

 

Tuy nhiên, mưu toan của Nga Xô để quy tụ các kẻ thù lúc bấy giờ của Tây phương là một việc. Nhưng sự hưởng ứng của các quốc gia đă bị Tây phương tấn công và biến làm thuộc địa hay bán thuộc địa là một việc khác. Vậy, v́ những lư do nào mà các nước này hưởng ứng lời kêu gọi và quy tụ dưới sự lănh đạo của Nga Xô?

 

Lúc bấy giờ, đă từ hơn bốn trăm năm Tây phương đă tấn công hầu hết các quốc gia ngoài xă hội Tây phương và đă từ gần một trăm năm đă chinh phục hầu hết thế giới. Các quốc gia bị tấn công, sau khi đă hết sức ḿnh kháng chiến trong nhiều thế hệ, lần lần đă đi đến chỗ phải nh́n nhận tính cách vô hiệu quả của cuộc chiến đấu giữa những lực lượng vô cùng chênh lệch. Vận dụng toàn diện khả năng nghênh chiến của một quốc gia để chống lại một ké thù đă bao vây thế giới là một chiến cuộc không có hy vọng thành công. V́ thế cho nên, đối với các nhà lănh đạo của quốc gia đă bị chinh phục, lời kêu gọi đồng minh của Nga Xô có hiệu lực mở một lối đi cho một t́nh thế đă bế tắc. Đồng minh với Nga Xô là đưa cuộc chiến đấu giải thoát quốc gia lên cương vị một cuộc chiến đấu quốc tế có nhiều khả năng bảo đảm cho sự thành công.

 

Tác dụng của lư thuyết Cộng Sản

 

Như thế th́, chính là điều kiện gian lao của một cuộc chiến đấu giành độc lập đă đưa một số các nhà lănh đạo các quốc gia Á châu bị Tây phương chinh phục, đến chỗ đồng minh với Cộng Sản. Và nhà lănh đạo Cộng Sản của Việt Nam cũng ở vào trường hợp đó.

 

Tuy nhiên, có nhiều nhà lănh đạo Á châu mà quốc gia cũng đă bị Tây phương chinh phục, đă sáng suốt nh́n thấy, vừa thâm ư chiến lược của Nga Xô, vận dụng một mặt trận quốc tế để hậu thuẫn cho công cuộc phát triển của dân tộc Nga, vừa những căn bản giả tạo của thuyết Cộng Sản, đă từ chối một sự đồng minh với Nga Xô trên nguyên tắc quy phục lư thuyết Cộng Sản. Cân nhắc lợi hại, các nhà lănh đạo này, đă quyết định chọn một con đường khác hơn con đường Cộng Sản, trong công cuộc tranh giành độc lập và sau đó trong công cuộc phát triển dân tộc. Các biến cố lịch sử sau Đại Thế Chiến thứ hai, mà chúng ta đă có nhắc đến, xác nhận quan điểm sáng suốt của những nhà lănh đạo như Gandhi và Nehru của Ấn Độ.

 

Ấn Độ và nhiều quốc gia khác ở Á châu, và ngoài Á châu đă khai thác mâu thuẫn giữa Nga Xô và Tây phương để thâu hồi độc lập hoàn toàn, một cách không tiêu hao cho sinh lực dân tộc. Và chúng ta đă thấy một đoạn trên, rằng chính là sự đồng minh với Cộng Sản của một số nhà lănh đạo của chúng ta, đă làm cho công cuộc tranh giành độc lập của chúng ta trở thành vô cùng tiêu hao cho sinh lực của dân tộc. Những sự hy sinh cao cả của các phần tử của cộng đồng không bao giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được tính kiêu hùng của dân tộc trong các cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù. Tuy nhiên, các nhà lănh đạo lúc nào cũng phải tự đặt cho ḿnh nghiêm luật không bao giờ có quyền phí phạm sinh lực của cộng đồng, mỗi khi quyền lợi của cộng đồng bắt buộc phải sử dụng đến.

 

Vả lại, độc lập vẫn chưa phải là mục đích. Và sinh lực của dân tộc c̣n cần thiết hơn bội phần cho công cuộc phát triển đang chờ đợi chúng ta. Và lư do thứ nh́ để cho các nhà lănh đạo các quốc gia Á châu thâu nhận thuyết Cộng Sản do Nga Xô chủ trương lại chính là công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá sau khi độc lập đă được thâu hồi.

 

Thuyết Cộng Sản quả quyết rằng chỉ có phương pháp độc tài đảng trị mới có đủ khả năng huy động quần chúng để cung cấp những nỗ lực cần thiết cho một công cuộc phát triển cộng đồng. Và thuyết Cộng Sản cũng quả quyết rằng chỉ có xă hội tổ chức theo kiểu của thuyết Cộng Sản đề nghị mới thích nghi với các lực lượng sản xuất của kỹ nghệ. Vậy th́ mọi công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá phải áp dụng phương pháp độc tài Đảng trị và phải xây dựng xă hội theo kiểu mẫu Cộng Sản.

 

Chúng ta đă phân tích, với chi tiết, tác dụng của thuyết Cộng Sản, trong giai đoạn chiến đấu giành độc lập đă qua, của chúng ta, đối với sự thống trị của đế quốc. Đối với sự chi phối và thống trị của nước Tàu, đă đè nặng lên đời sống của dân tộc trong hơn tám trăm năm, gián đoạn trong một trăm năm, ngày nay lại tái hiện và đe doạ hơn bao giờ, chúng ta cũng đă vạch rơ những hậu quả tai hại, mà sự quy phục thuyết Cộng Sản, của các nhà lănh đạo Bắc Việt, sẽ lưu lại cho thế hệ tương lai. Một điều mà chúng ta phải ghi nhớ, trong khuôn khổ của vấn đề quan trọng này, liên quan mật thiết đến vận mạng của dân tộc, là thâm ư chiến lược của Nga Xô trước đây và thâm ư chiến lược đồng loại của Trung Cộng ngày nay. Đối với hai quốc gia này, thuyết Cộng Sản và các mặt trận quốc tế phục vụ cho thuyết Cộng Sản, đều là những lợi khí sắc bén để phục vụ, trước hết và trên hết, mục đích phát triển dân tộc của hai nước.

 

Trong phạm vi phát triển dân tộc, chúng ta đă thấy rằng nếu hoàn cảnh phát triển vô cùng nghiêm khắc của những quốc gia to lớn, như Nga và Tàu, thuyết minh cho một sự đổi những kết quả, mà phương pháp độc tài Đảng trị có thể mang đến trong hiện tại, với những hậu quả tai hại, chưa ai biết đến mức độ nào, mà chính phương pháp đó sẽ lưu lại cho nhiều thế hệ trong tương lai, th́ trái lại, một nước nhỏ như Việt Nam, có thể thực hiện được công cuộc phát triển của ḿnh bằng những phương pháp không tiêu hao sinh lực của dân tộc. Đă như thế th́, các nhà lănh đạo tranh đấu cho dân tộc, đương nhiên phải chọn đường lối dẫn đến mục đích mà không phí phạm sinh lực của cộng đồng.

 

Sau hết, câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: xă hội tổ chức theo kiểu mẫu Cộng Sản có phải là xă hội thích nghi nhất với các lực lượng sản xuất mới do kỹ thuật khoa học phát minh không? Tôn trọng một thái độ mà chúng ta đă chấp nhận từ đầu, chúng ta sẽ tự ư không đi vào một cuộc tranh luận lư thuyết về tính cách thích nghi hay không thích nghi của xă hội Cộng Sản đối với các lực lượng sản xuất mới. Vả lại, thời gian hăy c̣n quá sớm để cho chúng ta có thể, căn cứ trên những sự kiện thực tế, phán đoán về tính cách thích nghi nói trên. Trong thế giới hiện nay, chưa có một xă hội nào, đă kỹ nghệ hoá được tổ chức theo kiểu mẫu Cộng Sản, để chúng ta có thể lấy đó làm tiêu chuẩn so sánh. Và kiểu mẫu này vẫn là một kết quả suy luận lư thuyết. Tuy nhiên, những nhận xét dưới đây, đối với các sự kiện thực tế mà chúng ta đang mục kích, có thể làm sáng tỏ vấn đề.

 

Trong thế giới hiện tại, h́nh thức tổ chức xă hội gần nhất với kiểu mẫu của thuyết Cộng Sản, đương nhiên là h́nh thức tổ chức xă hội của Nga Xô. Chúng ta đă thấy trong nhiều đoạn trên, rằng bộ máy lănh đạo của Nga Xô vẫn bất lực trong việc chuyển quyền ôn hoà mỗi khi cần phải thay đổi người lănh đạo. Sau gần nửa thế kỷ, những biện pháp độc tài vẫn c̣n cần thiết để duy tŕ trật tự chứng tỏ rằng trạng thái thăng bằng nội bộ vẫn chưa tái lập. Về phương diện xă hội, sự Nga Xô đang thay thế nhiều tiêu chuẩn giá trị bằng những tiêu chuẩn giá trị mà thuyết Cộng Sản đă loại bỏ, lại chứng tỏ rằng Nga Xô c̣n đang nỗ lực tái lập trạng thái thăng bằng nội bộ cần thiết cho sự phát triển của cộng đồng. Một mặt khác, sự thay thế các giá trị tiêu chuẩn Cộng Sản, bằng những giá trị tiêu chuẩn được phục hồi, lại chứng tỏ tính cách lư thuyết của các căn bản của thuyết Cộng Sản. Tất cả các sự kiện trên lại chứng tỏ rằng xă hội Nga Xô hiện nay vẫn tiếp tục một t́nh trạng thăng bằng giả tạo.

 

Trong khi đó, xă hội Tây phương, v́ bất lực trong công việc thâu nhận các lực lượng sản xuất mới, hồi thế kỷ XIX, nên đă được đề nghị thay thế bằng xă hội Cộng Sản, chẳng những đă t́m được những phương pháp khả dĩ cho phép sự thâu nhận được lực lượng sản xuất mới, mà lại c̣n duy tŕ trạng thái thăng bằng động tiến cho cộng đồng. Và nhờ đó mà sự phát triển hùng mạnh vẫn được bảo đảm. H́nh thức xă hội Cộng Sản là một kết quả suy luận lư thuyết, khi được mang đưa áp dụng ở Nga Xô, đă chứng tỏ không thích nghi với thực tế, nên đă đặt các nhà lănh đạo Nga Xô ngày nay vào những lối bế tắc, lúng túng mà chúng ta đă biết. H́nh thức hiện nay của xă hội Tây phương là kết quả của một cuộc thám cứu, bằng lư trí chính xác của kỹ thuật khoa học Tây phương, những biểu lộ thực tế của đời sống. V́ thế cho nên h́nh thức xă hội này thích nghi với thực tế.

 

Nhưng ngoài Tây phương, cũng có nhiều h́nh thức xă hội khác, không tổ chức theo kiểu mẫu Cộng Sản, vẫn thích nghi với những lực lượng sản xuất mới đă thâu nhận sau một công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá. Sinh lực dồi dào của xă hội Nhật ngày nay là một bằng chứng hùng biện.

 

Các sự kiện thực tế trên đây, tuy không trực tiếp liên quan đến tính cách thích nghi hay không của xă hội Cộng Sản đối với các lực lượng sản xuất mới, nhưng v́ những thực trạng mà nó phản ảnh, đă làm cho câu hỏi nêu lên trên đối với xă hội Cộng Sản trở thành vô ích.

 

Phản tác dụng

 

Như thế th́, vấn đề đă rơ, trong trường hợp của cộng đồng quốc gia Việt Nam, những tác dụng mong mỏi ở thuyết Cộng Sản, khả dĩ thuyết minh cho sự quy phục của các nhà lănh đạo Bắc Việt, đối với lư thuyết này, trở thành vô hiệu lực. Ngược lại, như chúng ta đă thấy ở nhiều đoạn trên, một sự quy phục thuyết Cộng Sản sẽ mang đến nhiều phản tác dụng tai hại cho dân tộc.

 

Tất cả các sự kiện mà chúng ta đă phân tích trong các trang của tập sách này, đều chứng minh rằng mục đích cuối cùng của mọi cuộc tranh đấu, là quyền lợi của dân tộc. Nga Xô cũng như Trung Cộng khi nỗ lực, lập những mặt trận quốc tế phục vụ cách mạng xă hội thế giới, đều có chủ định phục vụ trước hết và trên hết dân tộc Nga và dân tộc Tàu.

 

Sự quy phục thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên, biến sự đe doạ, thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam, thành thực tế. Chúng ta đă biết chính sách xâm lăng của Trung Hoa đối với Việt Nam là một chính sách liên tục và bất biến của tất cả các chế độ của Trung Hoa v́ nó phát sinh từ một nhu cầu đất đai cần thiết cho sự phát triển của Trung Hoa. Mang phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng Sản, cũng như phương pháp độc tài nào khác để lănh đạo quần chúng, th́ theo một cơ thức mà chúng ta đă biết, quần chúng sẽ phản ứng bằng cách hướng về bất cứ cá nhân hay tập thể nào phất cờ giải phóng để che đậy thâm ư xâm lăng của ḿnh. Trong điều kiện đó, các nhà lănh đạo Cộng Sản áp dụng phương pháp độc tài đảng trị ở Việt Nam, sẽ đương nhiên tạo hoàn cảnh thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam lúc thời cơ đưa đến. Nói một cách khác, phương pháp lănh đạo độc tài Đảng trị sẽ suy nhược hoá sức đề kháng của dân tộc đối với kẻ xâm lăng. Hùng mạnh như nước Nga, mà trong trận chiến chống quân Đức, cũng đă suưt phải thảm bại, bởi v́ quần chúng phẫn uất với chế độ độc tài Đảng trị của Staline, đă nổi lên đồng minh với Đức. Chỉ có sự vụng về và chính sách kỳ thị chủng tộc của Đức quốc xă mới không khai thác được cơ hội trên, và cứu Nga Xô khỏi hoạ xâm lăng.

 

Trong t́nh thế chính trị chúng ta đang mục kích, sự quy phục thuyết Cộng Sản của các nhà lănh đạo Bắc Việt, tự nó là một sự thần phục Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung Hoa. Và sự thống trị bằng lư thuyết của Trung Cộng đối với Bắc Việt ngày nay, nếu không có các trở lực quốc tế, sẽ bội phần ác nghiệt hơn các sự thống trị mà nước Tàu đă dành cho chúng ta từ gần một ngàn năm.

 

Sự quy phục thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên gắn liền vận mạng công cuộc phát triển dân tộc của chúng ta vào vận mạng công cuộc phát triển dân tộc của Trung Hoa. Chúng ta đă phân tích hoàn cảnh phát triển thuận lợi của Việt Nam. Vậy gắn liền công cuộc phát triển của Việt Nam vào công cuộc phát triển của Trung Cộng là bỏ một hoàn cảnh thuận lợi để đi rước một hoàn cảnh vô cùng khó khăn.

 

Mặc dầu các nỗ lực vĩ đại, cuộc phát triển của Trung Cộng khó mà thành công. Như vậy, gắn liền công cuộc phát triển của Việt Nam vào công cuộc phát triển của Trung Cộng có nghĩa là chúng ta tự ư bỏ công cuộc phát triển của chúng ta. Trong công cuộc phát triển bằng cách Tây phương hoá hiện nay mà các dân tộc đều nỗ lực thực hiện, chúng ta có những điều kiện vật chất lẫn tinh thần, để thành công hơn Trung Cộng, như chúng ta đă chứng minh trong một đoạn trên. Nếu chúng ta lại bỏ cơ hội này để thần phục Trung Cộng th́, một là chúng ta sẽ không phát triển được bởi v́ Trung Cộng không phát triển được, hai là Trung Cộng phát triển được, th́ chúng ta sẽ phát triển được đến mức hạng ba hay hạng nh́, v́ chúng ta học lại kỹ thuật của một người đi học kỹ thuật của Tây phương.

 

Sau hết, trong hơn một ngàn năm từ ngày lập quốc, sự chi phối của Trung Hoa đối với Việt Nam nặng nề cho đến đỗi tâm lư thuộc quốc bao trùm mọi lĩnh vực đời sống của dân tộc. Tâm lư đó bắt nguồn từ hai sự kiện: tự ti mặc cảm đối với Trung Hoa vĩ đại, và sự lệ thuộc của chúng ta đối với văn hoá Tàu. T́nh thế ngày nay là một cơ hội duy nhất để cho chúng ta thực hiện ư chí, của Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, cởi cái ách tâm lư thuộc quốc cho dân tộc. Nếu chúng ta lỡ cơ hội, sự lệ thuộc của dân tộc đối với Trung Hoa sẽ kéo dài nhiều ngàn năm nữa và cái khối Trung Hoa vĩ đại, của các lănh tụ Cộng Sản, sẽ mang đến cho dân tộc cái hoạ diệt vong. Và sự quy phục thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên dọn đường cho dân tộc Việt Nam lệ thuộc văn hoá mới của Trung Cộng. Những lời ca tụng Trung Hoa vĩ đại của miền Bắc, những điệu nhạc âm thanh Trung Cộng của đài phát thanh Hà Nội, những điệu vũ hoà b́nh, và những y phục theo Tàu, tất cả các sự kiện đó, đều là những biểu lộ thiết thực của một sự lệ thuộc văn hoá càng ngày càng sâu đậm của miền Bắc đối với Trung Cộng, bởi v́ các nhà lănh đạo Cộng Sản Bắc Việt đă chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng.

 

Chỉ nghĩ đến cái viễn ảnh ngàn năm lệ thuộc Trung Cộng mà các nhà lănh đạo Cộng Sản miền Bắc đang sửa soạn cho dân tộc, chúng ta cũng phải khiếp đảm, thoáng nh́n vận mạng cực kỳ đen tối cho các thế hệ tương lai.

 

Trong vấn đề quan niệm lănh đạo, chúng ta không thể dành cho quan niệm lănh đạo Cộng Sản, ít chỗ hơn như chúng ta vừa làm xong. Bởi v́, như chúng ta đều biết, hiện nay chủ nghĩa này đang hoành hành ở Á châu, để phục vụ sự phát triển của dân tộc Tàu, với một cường độ độc hại không kém ǵ cường độ độc hại của nó ở Âu châu, hồi cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, để phục vụ cho sự phát triển của dân tộc Nga, và chính ở Việt Nam, v́ chủ nghĩa Cộng Sản hoạt động mà cuộc chiến đấu giành độc lập của chúng ta đă vô cùng tiêu hao sinh lực dân tộc, mà xảy ra t́nh trạng chia đôi đất nước, mà chiến tranh tàn phá cái vốn nhân lực và tài nguyên của chúng ta từ hai mươi năm nay.

 

Và khi nào như hiện nay, chúng ta đă nh́n thấy nguồn gốc của chủ nghĩa Cộng Sản, nh́n thấy những nguyên nhân sâu xa của sức mạnh của nó, nh́n thấy những điểm tựa trên đó nó đang lấy sinh lực ở Á châu, nh́n thấy lư do v́ sao nó đă bắt đầu suy nhược ở Tây phương và nh́n thấy những hậu quả tai hại nó sẽ mang đến cho dân tộc Việt Nam, th́ chúng ta mới nh́n thấy, một cách minh bạch, trách nhiệm của thế hệ chúng ta là phải vận dụng tất cả nỗ lực, mà chúng có thể cung cấp, để loại trừ độc dược đó ra ngoài cơ thể của cộng đồng dân tộc.

 

Tư tưởng, phương pháp và h́nh thức

 

Loại trừ chủ nghĩa Cộng Sản ra khỏi cơ thể của cộng đồng quốc gia có nghĩa là loại trừ tư tưởng Cộng Sản, phương pháp Cộng Sản, và h́nh thức Cộng Sản ra ngoài mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống quốc gia..Đối với tư tưởng Cộng Sản, sự ngộ nhận khó có dịp xảy ra, bởi v́, chẳng những tư tưởng đó có đặc tính rất riêng biệt, mà lại ngôn ngữ dùng để diễn tả các tư tưởng cũng rất đặc biệt, cũng như lối biện luận rất đặc biệt của biện chứng pháp duy vật. Nhưng sự ngộ nhận thường xảy ra đối với các phương pháp Cộng Sản và h́nh thức Cộng Sản, v́ những nguyên nhân sau đây.

 

Lư do sâu xa đă làm cho nước Nga thâu nhận thuyết Cộng Sản làm lợi khí tranh đấu như chúng ta đă biết, là ư chí thực hiện công cuộc phát triển dân tộc Nga bằng cách Tây phương hoá. V́ vậy cho nên tất cả kỹ thuật của Tây phương đều được Nga thâu nhận làm của ḿnh. Khoa học của Tây phương là khoa học của Nga, phương pháp khoa học của Tây phương, trong mọi lĩnh vực là phương pháp khoa học của Nga, trong mọi lĩnh vực. Nhiều lần, v́ tự ti mặc cảm đối với sự lệ thuộc kỹ thuật đó, Nga Xô, muốn biểu lộ sự độc lập của duy vật biện chứng pháp đối với lối suy luận “tư bản” của Tây phương, đă đưa ra những thuyết khoa học ly kỳ như thuyết Lisenko [1] trong ngành sinh học. Mặc dù đă cẩn thận, thay v́ một ngành như toán học trong đó sự sưu tầm đă bao quát, lựa chọn một ngành như sinh học trong đó sự khảo cứu c̣n thiếu sót, sự không thành thật của Lisenko lâu ngày cũng bộc lộ. Và sau khi mục đích phát triển kỹ thuật đă đạt, sau khi Nga Xô đă chứng minh khả năng thật sự của ḿnh về khoa học, tự ti mặc cảm không c̣n nữa, th́ chính các nhà bác học Nga Xô đă bác bỏ thuyết Lisenko. Khi c̣n ở trong một giai đoạn ấu trĩ của công cuộc Tây phương hoá, người Nhật cũng lầm những lỗi tương tự như Nga. Các sự kiện trên lại chứng minh tính cách quốc tế và nhân loại của khoa học.

 

Nhưng cũng v́ các sự kiện đó mà có sự lầm lẫn giữa phương pháp Cộng Sản và phương pháp Tây phương, h́nh thức tổ chức Cộng Sản và h́nh thức tổ chức Tây phương. Ở Việt Nam, sự lầm lẫn c̣n trầm trọng hơn nữa, v́ một lư do lịch sử.

 

Sau tám mươi năm bị loại ra khỏi các trách nhiệm lănh đạo quốc gia, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhiều người Việt Nam đă làm quen trở lại với các vấn đề lănh đạo, nhưng dưới sự chi phối của Đảng Cộng Sản. V́ vậy cho nên, tất cả các kỹ thuật trong mọi lĩnh vực, mà Cộng Sản học được của Tây phương và mang ra thực hành ở Việt Nam, đều bị ngộ nhận là sáng kiến độc quyền của Cộng Sản. Ví dụ, ngày nay, nhiều người vẫn xem lối làm việc tập thể hay công cuộc tổ chức quần chúng là những sáng kiến của Cộng Sản, và không biết rằng, thật ra, chính lối làm việc tập thể và sự tổ chức tinh vi trong mọi lĩnh vực của đời sống là nguồn gốc sinh lực của Tây phương.

 

Bộ máy lănh đạo

 

Bộ máy lănh đạo của Cộng Sản tổ chức theo lối độc tài Đảng trị cũng là một bộ máy lănh đạo do Tây phương tạo ra đồng thời với thuyết Cộng Sản. Chỉ có khác ở chỗ Tây phương đă loại bỏ thuyết Cộng Sản đồng thời với phương pháp lănh đạo Cộng Sản.

 

Đối với các quốc gia Cộng Sản, thâu nhận phương pháp lănh đạo Cộng Sản, là thực hiện một bộ phận, bộ phận của lĩnh vực lănh đạo trong công cuộc Tây phương hoá toàn diện, theo đường lối Cộng Sản.

 

Nếu chúng ta loại trừ lư thuyết Cộng Sản ra ngoài mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống quốc gia, đương nhiên chúng ta cũng loại trừ phương pháp lănh đạo Cộng Sản. Nhưng công cuộc Tây phương hoá bộ máy lănh đạo của chúng ta vẫn là một phần thiết yếu trong công cuộc Tây phương hoá toàn diện mà chúng ta chủ trương.

 

Như thế, bộ máy lănh đạo của quốc gia sẽ được chúng ta quan niệm như thế nào? Có phải chúng ta chỉ cần thâu nhận bộ máy lănh đạo của một quốc gia Tây phương là đủ không? Và, trong trường hợp đó, v́ lâu nay chúng ta rất quen thuộc với các kỹ thuật của người Pháp, th́ sự tiện lợi cho chúng ta trong lĩnh vực lănh đạo không phải là thâu nhận bộ máy lănh đạo của người Pháp sao? Nếu, v́ một lư do nào, chúng ta không thể tổ chức bộ máy lănh đạo của chúng ta theo kiểu bộ máy lănh đạo của người Pháp, th́ chúng ta có thể tổ chức bộ máy lănh đạo của chúng ta theo kiểu quân chủ lập hiến của người Anh hoặc theo kiểu Tổng thống chế của người Mỹ không?

 

Thật ra vấn đề đặt ra cho chúng ta trong lĩnh vực lănh đạo không phải như vậy, và trong thực tế rất phức tạp hơn nhiều.

 

Chúng ta c̣n nhớ, công cuộc Tây phương hoá, không đường hướng và không mục đích, dưới thời Pháp thuộc đă lưu lại cho dân tộc nhiều hậu quả tai hại. Trong công cuộc Tây phương hoá đó, không toàn diện và không đến mức độ đủ cao, chỉ có h́nh thức bề ngoài được chú trọng và các tinh tuư đựng trong h́nh thức hoàn toàn không được biết đến. Trái lại, trong công cuộc Tây phương hoá có đường hướng, có mục đích mà chúng ta chủ trương, tuy tính cách đáng chú ư của h́nh thức không bị phủ nhận, nhưng chỉ có cái tinh tuư đựng bên trong h́nh thức mới là quan trọng.

 

Trong phạm vi của sự Tây phương hoá bộ máy lănh đạo của quốc gia, chúng ta sẽ t́m nhận thức các nguyên tắc ngự trị quan niệm lănh đạo của Tây phương. Sau đó chúng ta sẽ cụ thể hoá những nguyên tắc bằng một h́nh thức của bộ máy lănh đạo. Nhưng h́nh thức này, chẳng những phải thoả măn các nguyên tắc căn bản nói trên, mà c̣n phải được kiến trúc bằng vật liệu địa phương và phải được thích nghi với hoàn cảnh địa phương.

 

Dưới đây, chúng ta sẽ không đi sâu vào chi tiết của một bản hiến pháp, thẩm quyền của các nhà soạn thảo hiến pháp. Tuy nhiên chúng ta sẽ nhận thức các nguyên tắc mà một bộ máy lănh đạo, vừa được Tây phương hoá, vừa được thích nghi hoá với hoàn cảnh địa phương của chúng ta, cần phải tôn trọng.

 

Trong nhiều đoạn, ở rải rác trong các trang trên, mặc dầu không liên quan trực tiếp đến vấn đề bộ máy lănh đạo, nhưng v́ sự sáng tỏ của vấn đề tŕnh bày, chúng ta cũng đă đề cập đến những nguyên tắc mà một bộ máy lănh đạo, theo quan niệm của Tây phương, cần phải tôn trọng. Thừa hưởng văn minh cổ Hy Lạp và La Mă, sau hơn một ngàn năm kinh nghiệm với các vấn đề lănh đạo, đức tính chính xác về lư trí và minh bạch và ngăn nắp trong tổ chức của Tây phương, đă góp vào di sản văn minh nhân loại một h́nh thức của bộ máy lănh đạo, h́nh thức dân chủ Pháp trị, có nhiều khả năng duy tŕ và phát triển trạng thái thăng bằng động tiến của cộng đồng.

 

H́nh thức của bộ máy lănh đạo hiện nay của Tây phương phải thoả măn những điều kiện nhắc lại dưới đây:

 

1. H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự liên tục lănh đạo quốc gia.

2. H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự chuyển quyền một cách hoà b́nh từ lớp người lănh đạo trước cho lớp người lănh đạo sau.

3. H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự thay đổi người lănh đạo.

4. H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự áp dụng nguyên tắc thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể.

 

Ngoài bốn điều kiện trên, bảo đảm tinh thần trường cửu của bộ máy lănh đạo, ba điều kiện dưới đây bảo đảm sự điều hành thiết thực và ngắn hạn của bộ máy lănh đạo.

 

5. H́nh thức bộ máy lănh đạo phải bảo đảm một sự lănh đạo quốc gia mở rộng, mục đích đào tạo nhiều người lănh đạo.

6. H́nh thức bộ máy lănh đạo phải bảo đảm sự kiểm soát người cầm quyền.

7. H́nh thức bộ máy lănh đạo phải bảo đảm sự hữu hiệu của chính quyền.

 

Áp dụng vào Việt Nam

 

Chúng ta đă biết rằng nguồn gốc chính của sức mạnh của các cường quốc, như Anh hay Mỹ, là sự thành công của họ trong việc thực hiện sự liên tục lănh đạo quốc gia trong nhiều thế kỷ. Tất cả các kinh nghiệm lănh đạo, trong nhiều thế hệ, c̣n giữ nguyên vẹn, kỹ thuật lănh đạo nhờ đó mà càng ngày càng tinh vi. Các bí mật quốc gia được truyền lại toàn vẹn, tất cả các kho tàng của dĩ văng được xếp vào văn khố và có người biết sử dụng văn khố. Ngày nay một nhà lănh đạo Anh đứng lên, đương nhiên sau lưng có một hậu thuẫn 400 năm dĩ văng, một di sản vô cùng quư báu tạo ra cho họ một sức mạnh phi thường. Bởi v́, với hậu thuẫn hiếm có đó, một nhà lănh đạo Anh có thể ứng phó và giải quyết những vấn đề vượt hẳn khả năng của những người, dầu tài ba đến đâu nhưng lại thiếu hậu thuẫn của dĩ văng.

 

Muốn thực hiện được sự liên tục lănh đạo quốc gia nói trên, một bộ máy lănh đạo phải thoả măn ba điều kiện. Trước hết phải chấp nhận nguyên tắc thay đổi người lănh đạo lúc cần, và cả lúc b́nh thường miễn là những thay đổi không quá nhặt trong thời gian để cho sự thay đổi không có thể biến thành hỗn loạn. Điều thứ hai, bộ máy lănh đạo phải được quan niệm như thế nào để cho sự chuyển quyền lúc nào cũng thực hiện được một cách b́nh thường trong êm ái và hoà b́nh, giữa người lănh đạo măn nhiệm và người lănh đạo mới thọ nhiệm. Điều thứ ba, là bộ máy lănh đạo phải có một h́nh thức tổ chức vừa tượng trưng cho sự liên tục lănh đạo quốc gia, vừa thể hiện cho sự liên tục đó trong thực tế.

 

Để thoả măn điều kiện thứ ba, các chính thể trên thế giới áp dụng nhiều h́nh thức khác nhau nhưng chung quy thuộc về bốn loại. Ở Pháp, quốc trưởng là Tổng Thống tượng trưng cho sự liên tục lănh đạo quốc gia. Ở Mỹ, tổ chức Tối Cao Pháp Đ́nh. Ở Nga, Đảng Cộng Sản. Ở các nước quân chủ, có Vua và Hoàng Gia.

 

Chức vụ Tổng Thống ở Pháp không hoàn toàn thoả măn được sự tượng trưng cho sự liên tục lănh đạo quốc gia, bởi v́ óc sợ độc tài của người Pháp giới hạn nhiệm kỳ Tổng Thống là 5 năm hay 7 năm. Chẳng những thế, sự tranh chấp giữa các Đảng chính trị, mọc ra như nấm, thường tạo ra cho các cuộc bầu cử Tổng Thống một không khí trả giá, làm giảm uy nghiêm của người Quốc Trưởng.

 

Các giới lănh đạo trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia phải có một tinh thần trách nhiệm và tự giác rất cao và một kinh nghiệm lănh đạo trưởng thành mới đưa một tổ chức như Tối Cao Pháp Đ́nh ở Mỹ lên bằng một tượng trưng sự liên tục lănh đạo quốc gia.

 

 

Trong các h́nh thức nêu ra trên đây, h́nh thức Đảng Cộng Sản ở Nga là một h́nh thức kém hơn cả, bởi v́, trong thực tế, Đảng Cộng Sản hoàn toàn thất bại trong việc thực hiện sự liên tục lănh đạo quốc gia. Chế độ Cộng Sản không chấp nhận sự thay đổi lănh đạo và khi lănh đạo từ trần hay cần phải thay đổi sự tranh cướp chính quyền thường thường diễn ra một cách đẫm máu. Đây là một trong các nhược điểm của chế độ Cộng Sản.

 

Cho đến ngày nay, h́nh thức thoả măn nhất điều kiện bảo đảm sự liên tục lănh đạo quốc gia là h́nh thức Hoàng gia của các chế độ có vua như ở Anh và ở Nhật. V́ thế cho nên, sau khi chiến bại, mặc dù áp lực mạnh bạo và hành vi người chiến thắng của quân đội Mỹ đối với Thiên Hoàng, các nhà lănh đạo Nhật Bản, một lần nữa đă tỏ ra vô cùng sáng suốt, khi mang hết nỗ lực để bảo vệ Hoàng Gia Nhật. Hoàng Gia là biểu hiện cho sự liên tục lănh đạo quốc gia. Nhà Vua thể hiện sự liên tục lănh đạo quốc gia và đóng vai tṛ người thác thụ các bí mật quốc gia.

 

Nhân vấn đề này, một lần nữa, chúng ta lại nhận thức rằng sự lỡ cơ hội phát triển của chúng ta, thế kỷ vừa qua, đối với dân tộc chúng ta, là một tai hại vô cùng to tát. Nếu nhà Nguyễn đă thực hiện được công cuộc duy tân, như Vua Duy Tân đă có ư định th́ ngày nay, có lẽ, ngoài sự phát triển dân tộc đă thực hiện được, chúng ta đă thừa hưởng một chính thể có những nền tảng vững chắc vào bậc nhất trong thế giới.

 

Trong bốn h́nh thức trên đây, không có h́nh thức nào áp đụng cho chúng ta được, v́ những lư do mà mọi người đều đoán biết. H́nh thức Đảng Cộng Sản không thể chấp nhận được v́ chúng ta đă đặt vấn đề tiên quyết loại trừ chủ nghĩa Cộng Sản, và v́ h́nh thức đó không có khả năng thoả măn điều kiện bảo đảm sự liên tục lănh đạo quốc gia. H́nh thức chức vụ Tổng Thống ở Pháp cũng không hoàn toàn bảo đảm sự liên tục lănh đạo quốc gia. Nhà Nguyễn đă bỏ lỡ cơ hội áp dụng h́nh thức Hoàng Gia. H́nh thức Tối Cao Pháp Đ́nh ở Mỹ không thể áp dụng được v́ kinh nghiệm lănh đạo của chúng ta c̣n ấu trĩ, trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia. Chúng ta phải t́m một h́nh thức tương tự như h́nh thức thứ tư trên đây, nhưng để được thích nghi hoá với hoàn cảnh địa phương của chúng ta, không đ̣i hỏi một kinh nghiệm lănh đạo mà chúng ta c̣n thiếu, và một tinh thần trách nhiệm cao độ chỉ t́m được ở một số ít người.

 

Chúng ta có thể đặt ra một Thượng hội đồng quốc gia, gồm những người có công trạng với tổ quốc và thấu triệt các vấn đề lănh đạo quốc gia, mà số lượng sẽ phù hợp với hoàn cảnh. Số người này sẽ được thay đổi một bách phân, trong một định kỳ, theo những thể thức thích nghi với điều kiện nội bộ của chính trường Việt Nam. Và trong một chu kỳ nhất định, Thượng hội đồng sẽ bầu một Quốc Trưởng, trong hay ở ngoài, hàng ngũ của ḿnh.

 

Thượng hội đồng sẽ tượng trưng cho sự lănh đạo liên tục quốc gia, riêng biệt với nhiệm vụ Quốc Trưởng. Quốc Trưởng thể hiện cho sự liên tục đó trong thực tế và đồng thời là người thụ thác các bí mật quốc gia.

 

Điều kiện thay đổi người lănh đạo có thể thực hiện được bằng cách giao quyền hành pháp cho một người Thủ Tướng, chọn trong những người lănh đạo của hai đảng chính trị sẽ nói đến dưới đây. Thủ Tướng sẽ do Quốc Trưởng bổ nhiệm với sự đồng ư của tổ chức tượng trưng cho sự lănh đạo liên tục của quốc gia. Để tránh các sự lạm dụng có thể xảy ra, các nhà soạn hiến pháp có thể đặt ra những cơ thức kiểm soát giản dị và hữu hiệu.

 

Hai khuynh hướng

 

Hai yếu tố chính, trong trạng thái thăng bằng động tiến của một quốc gia, là quyền lợi ngắn hạn của cá nhân của các phần tử trong tập thể và quyền lợi dài hạn của tập thể. Nếu chúng ta đặt nặng về quyền lợi cá nhân và bỏ quyền lợi của tập thể, tập thể suy đồi rồi quyền lợi cá nhân cũng mất, v́ không được bảo vệ bởi tập thể. Nhưng nếu chúng ta chỉ chú trọng đến quyền lợi tập thể và hy sinh tất cả quyền lợi của cá nhân, th́ các phần tử của tập thể không c̣n lư do sống nữa, và chính mục đích của tập thể, là bảo vệ đời sống cho cá nhân, cũng sẽ phá sản và do đó tập thể không c̣n lư do tồn tại nữa. 

V́ vậy cho nên, sự giữ một trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể là điều chính yếu trong sự lănh đạo quốc gia. 

Đă nhận thức như vậy rồi th́ biện pháp hữu hiệu để cụ thể hoá việc nuôi dưỡng trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể, là thu họp hai xu hướng tự nhiên phải có ở mỗi phần tử của tập thể vào hai nguồn tư tưởng chính trị. Một bên nặng v́ tập thể và một bên nặng về cá nhân. Trong thực tế hai Đảng chính trị tự đặt cho ḿnh, một bên, một mục đích bảo vệ quyền lợi tập thể, và một bên, mục đích bảo vệ quyền lợi cá nhân, thay nhau mà lănh đạo quốc gia dưới sự kiểm soát tương phản. Các nhà lănh đạo của hai đảng thay nhau nắm quyền hành pháp đương nhiên được quốc gia cung cấp phương tiện hoạt động và Đảng nắm quyền đối lập cũng phải được quốc gia cung cấp phương tiện hoạt động. 

Đại diện của hai đảng thi hành nhiệm vụ của ḿnh ở nghị trường. Và nhiệm vụ đó là lập pháp và kiểm soát hành pháp. Dưới các chế độ độc đảng, như các chế độ độc tài hay Cộng Sản, sự kiểm soát hành pháp hoặc không có hoặc thi hành một cách tương đối. Sở dĩ, dưới chế độ Cộng Sản sự tự phê b́nh và tự kiểm thảo đă được phát huy là v́ chế độ độc đảng của họ không chấp nhận một sự kiểm soát từ ngoài đưa đến, cho nên bắt buộc phải tổ chức một sự tự kiểm soát trong nội bộ. Nhưng một sự tự kiểm soát trong nội bộ không bao giờ chu đáo được, bởi v́, dầu mà các người tự phê b́nh, tự kiểm thảo trong nội bộ có đủ thành thật đi nữa, một điều rất ít có, th́ họ vẫn có thể thành thật mà lầm lẫn. Trong khi đó, một sự kiểm soát từ bên ngoài đưa đến, đương nhiên không mù quáng trước các lầm lẫn của đối phương. 

Nhiệm vụ lập pháp không thể hoàn toàn giao phó cho tổ chức nghị trường được. Trong tŕnh độ dân trí hiện nay của xă hội chúng ta, tính cách đại diện sâu rộng cho nhân dân không thích hợp với khả năng chuyên môn mà công cuộc lập pháp đ̣i hỏi. Nhiệm vụ lập pháp cần giao cho một tổ chức lập pháp chuyên môn, gồm những nhà luật học về hiến pháp và luật pháp. Tổ chức nghị trường có thể đề nghị dự án luật, phản đối hay chấp nhận dự án luật.

 

Hai đảng chính trị có nhiệm vụ mở rộng vấn đề lănh đạo và đào tạo nhiều người lănh đạo.

 

Dưới bộ máy lănh đạo, có bộ máy hành chính, bộ máy quân sự và bộ máy tổ chức quần chúng. Bộ máy lănh đạo là cái năo, bộ máy hành chính và bộ máy quân sự là chân tay, và bộ máy tổ chức quần chúng là cái vận tống để đưa bộ máy lănh đạo đến nhân dân và đưa nhân dân đến bộ máy lănh đạo.

 

Như thế, xây dựng một bộ máy lănh đạo Tây phương hoá không phải là đặt ra những bộ phận hành pháp, lập pháp, tư pháp..., giống như những bộ phận tương tự nhận thấy ở các bộ máy lănh đạo của các nước Tây phương, hoặc dịch những danh từ của họ đă dùng để đặt cho các bộ phận của chúng ta đă tạo ra một cách miễn cưỡng. V́ như thế là chúng ta lại mắc vào cái bệnh h́nh thức. Bệnh h́nh thức ở đây cũng như ở các lĩnh vực khác của đời sống quốc gia, là di sản của thời kỳ Tây phương hoá không mục đích và không đường hướng thời Pháp thuộc.

 

Xây dựng một bộ máy lănh đạo Tây phương hoá, là trước hết t́m hiểu bản chất của bộ máy đó, là phân tích các nguyên tắc ngự trị của bản chất đó, và nhận thức các h́nh thức dùng để cụ thể hoá các nguyên tắc trên.

 

Sau đó, với những vật liệu địa phương, được sử dụng trong hoàn cảnh địa phương, chúng ta xây dựng một bộ máy lănh đạo thích nghi và hữu hiệu cho chúng ta, với những h́nh thức cố nhiên phải uốn nắn theo những điều kiện mà chúng ta đă nhận thức.

 

Nói một cách khác, làm thế là chúng ta đă Tây phương hoá có đường hướng bộ máy lănh đạo của chúng ta. Sau khi phân tích và nhận thức các nguyên tắc ngự trị bộ máy lănh đạo Tây phương, chúng ta xây dựng với những vật liệu của dân tộc và được sử dụng trong hoàn cảnh hiện tại của dân tộc, một bộ máy lănh đạo thích nghi với hoàn cảnh của chúng ta nhưng vẫn tôn trọng những nguyên tắc ngự trị bộ máy lănh đạo của Tây phương. Những nguyên tắc đó không khác những nguyên tắc ngự trị khả năng sáng tạo khoa học mà chúng ta đă biết. Trong trường hợp này, là tính cách ngăn nắp của các bộ phận của bộ máy lănh đạo. Tính cách phân minh của sự phân chia trách nhiệm và quan niệm chính xác về sự liên hệ giữa các trách nhiệm.

 

Kỷ luật quốc gia

 

Giả sử chúng ta có thành công trong công cuộc tổ chức bộ máy lănh đạo quốc gia, th́ sự thành công của bộ máy đó, trong công việc lănh đạo quốc gia, lại tuỳ thuộc ở yếu tố nhân sự. Bộ máy lănh đạo quốc gia sẽ thành công trong công việc lănh đạo quốc gia, nếu các nhân sự có trách nhiệm trong mỗi bộ phận của bộ máy, hiểu rơ phạm vi và giới hạn của trách nhiệm, quả quyết thi hành trách nhiệm và có đủ khả năng đảm đương trách nhiệm. Và nhân dân, mặc dù không ư thức một cách sung măn các vấn đề lănh đạo, nhưng cũng phải được trang bị đủ kiến thức để ư thức vấn đề cần phải giải quyết của dân tộc, và chấp nhận hay phản đối một sự lănh đạo có lợi hay có hại cho vấn đề này.

 

Do đó, vấn đề tổ chức quần chúng là một vấn đề chính yếu trong đời sống quốc gia, như chúng ta sẽ thấy với chi tiết ở một đoạn dưới đây.

 

Các yếu tố nhân sự kể trên đây thuộc vào một biểu lộ tinh thần chung: tinh thần kỷ luật quốc gia. Tinh thần kỷ luật là một sự kiện thiết yếu cho mọi tập thể. Có tập thể là có kỷ luật. Có kỷ luật tập thể mới tồn tại. Tập thể càng lớn, kỷ luật càng thiết yếu, càng phức tạp và vô h́nh. Tập thể quốc gia là một tập thể lớn nhất của một dân tộc v́ thế kỷ luật quốc gia thiết yếu nhất cho dân tộc.

 

Có thể quan niệm kỷ luật quốc gia dưới hai h́nh thức, kỷ luật quốc gia tự do ưng thuận, và kỷ luật quốc gia cưỡng bách. Nếu mỗi người của chúng ta ư thức được tính cách thiết yếu của kỷ luật quốc gia và tự quy phục kỷ luật đó, th́ chúng ta áp dụng một kỷ luật quốc gia tự do ưng thuận. Dân tộc càng có tính khí, kỷ luật quốc gia càng được tự do ưng thuận. Nếu chúng ta không tự quy phục kỷ luật quốc gia, th́ v́ sự sống c̣n của tập thể chúng ta sẽ bị cưỡng bách đặt ḿnh vào kỷ luật quốc gia...

 

Tuy nhiên, vấn đề kỷ luật quốc gia, cũng như tất cả các vấn đề liên quan đời sống của một cộng đồng, vô cùng phức tạp. Từ thái độ cực đoan cưỡng bách của phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng Sản đến thái độ cực đoan tự do đến hỗn loạn, c̣n có một loạt trạng thái thăng bằng, như một quang phổ, hoà hợp tự do và cưỡng bách. Thả lỏng cho tự do hoành hành đến hỗn loạn, hay đặt thành nguyên tắc cực đoan cưỡng bách theo phương pháp độc tài Đảng trị của Cộng Sản, đều là những thái độ chọn một thăng bằng chết, là chọn một con đường dễ. Trong khi đó đời sống, cũng như việc lănh đạo quốc gia, trước hết là duy tŕ và phát triển một trạng thái thăng bằng động tiến giữa hai lực lượng tương phản.

 

Trong trường hợp kỷ luật quốc gia, thực hiện trạng thái thăng bằng động tiến có nghĩa, cho các quốc gia ở trong khối tự do, là đặt nguyên tắc tôn trọng tự do nhưng chế ngự bằng một định phân cưỡng bách cần thiết để bồi dưỡng và phát triển thăng bằng. Định phân cưỡng bách lớn hay nhỏ tuỳ theo tŕnh độ tự giác của các phần tử trong tập thể đối với tính cách thiết yếu của kỷ luật cộng đồng. Nếu tŕnh độ tự giác cao, định phân cưỡng bách nhỏ, và nếu tŕnh độ tự giác thấp, quyền lợi của cộng đồng đ̣i hỏi một định phân cưỡng bách cao. Định luật của xă hội là như vậy: nếu tinh thần tự chủ cao, th́ tŕnh độ tự giác sẽ cao, phân định cưỡng bách sẽ thấp, và chế độ sẽ là một chế độ có nhiều tự do, và mỗi phần tử trong cộng đồng sẽ tự ḿnh làm chủ ḿnh. Nếu tinh thần tự chủ kém, tŕnh độ tự giác sẽ thấp, phân định cưỡng bách sẽ cao và chế độ sẽ là một chế độ tự do hạn chế, và mỗi phần tử trong cộng đồng sẽ nhường một phần lớn, quyền làm chủ ḿnh, cho cộng đồng.

 

Nếu tŕnh độ tự giác vô cùng nghèo nàn, th́ thăng bằng sẽ bị phá vỡ, theo một trong hai cơ thức, tuy có khác nhau nhưng đương nhiên sẽ dẫn dắt đến cùng một kết quả.

 

Nếu tŕnh độ tự giác vô cùng nghèo nàn, sự thực hiện một kỷ luật quốc gia, nhân danh quyền lợi của cộng đồng, sẽ đ̣i hỏi định phân cưỡng bách cao độ. Các nhà lănh đạo trong hoàn cảnh đó, dễ bị các phương pháp độc tài cám dỗ. Riêng đối với chúng ta, chúng ta đă biết một chế độ độc tài sẽ mở cửa cho ngoại xâm của Tàu và cho đời sống nô lệ trong nhiều thế hệ.

 

Nên, trong trường hợp một tŕnh độ tự giác nghèo nàn, nhưng các nhà lănh đạo không v́ quyền lợi của cộng đồng mà đ̣i hỏi một định phân cưỡng bách cao độ, sự hỗn loạn sẽ hoành hành và đương nhiên cũng mở cửa cho ngoại xâm, bằng cách làm tan ră cộng đồng.

 

Như thế vấn đề đă rơ. Nếu chúng ta muốn làm chủ chúng ta, nghĩa là làm chủ vận mạng quốc gia của chúng ta, chúng ta phải cố gắng tạo cho chúng ta một tŕnh độ tự giác cao đối với kỷ luật quốc gia. Nếu không người khác sẽ làm chủ vận mạng chúng ta.

 

Bộ máy quần chúng

 

Như chúng ta đă thấy, trong một phần trên đây, một đặc tính của sự tan ră của xă hội chúng ta là sự mất tín hiệu tập hợp đối với các phần tử trong cộng đồng quốc gia.

 

Ở trong một cộng đồng, tín hiệu tập hợp quan trọng ở chỗ, nếu có tín hiệu tập hợp, th́ sự huy động các phần tử của cộng đồng để theo đuổi một công cuộc chung mới có thể thực hiện được.

 

Nước Nhật, khi bắt đầu công cuộc Tây phương hoá, lợi khí sắc bén nhất của họ là tổ chức xă hội c̣n nguyên vẹn, và sự tin tưởng vào Thiên Hoàng. Các nhà lănh đạo Nhật đă dùng sự tin tưởng vào Thiên Hoàng làm một tín hiệu tập hợp để huy động quần chúng thực hiện công cuộc phát triển dân tộc. Chúng ta đă biết sự thành công của họ. Giả sử chúng ta bắt đầu công cuộc Tây phương hoá đồng thời với Nhật, nghĩa là khi Tây phương mới tấn công, lúc mà xă hội chúng ta chưa bị tan ră, th́ chắc chắn những giá trị tiêu chuẩn lúc bấy giờ của xă hội có thể dùng làm những tín hiệu tập hợp rất hiệu quả. Và sự huy động toàn dân vào công cuộc phát triển dân tộc có nhiều ưu thế hơn ngày nay.

 

Xă hội chúng ta ngày nay, sau thời Pháp thuộc, bị tan ră. Các tín hiệu tập hợp không c̣n. Các nhà lănh đạo, để quy tụ quần chúng, hoặc khai thác mê tín, ở đâu cũng có, của quần chúng, hoặc áp dụng một chính sách độc tài cưỡng bách.

 

Khai thác mê tín, sẽ dẫn dắt đến một ngơ không lối thoát v́ hai lư do. Trước nhất, chính người lănh đạo cũng mê tín, th́ sẽ đưa đám người tin tưởng ở ḿnh vào những con đường phiêu lưu không thiết thực và nhất là không thích nghi với những vấn đề chính của dân tộc. Nếu người lănh đạo chính ḿnh không mê tín, nhưng đám người mê tín theo họ sẽ không sống trong thực tế nữa. Và nếu họ đă không sống trong thực tế, th́ không làm sao dẫn dắt đám người mê tín này vào con đường Tây phương hoá. Không làm sao mang các lư luận xác thực của khoa học thay thế vào các sự huyền bí và hoang đường trong năo của họ. 

Đối với một chính sách độc tài cưỡng bách, chúng ta đă biết hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa dư của chúng ta không cho phép chúng ta áp dụng, nếu chúng ta không muốn đưa dân tộc trở vào ṿng nô lệ. 

Trong một xă hội mà tổ chức không bị tan ră, tín hiệu tập hợp c̣n giữ nguyên giá trị, các tổ chức quần chúng không thiết yếu cho công cuộc lănh đạo bằng trong một xă hội mà tín hiệu tập hợp không c̣n. 

Và xă hội của chúng ta ngày nay ở trong t́nh trạng thứ nh́, v́ thế cho nên tổ chức quần chúng đối với chúng ta vô cùng cần thiết.

 

Xă hội không tổ chức

 

Chúng ta đă thấy, trong một đoạn trên, xă hội của chúng ta ngày nay hoàn toàn vô tổ chức. Sự vô tổ chức đă bắt đầu từ ngày, trong công cuộc Nam tiến, sự chiếm đóng các đất mới đă không được thi hành đúng theo nguyên tắc tổ chức hạ tầng của xă hội chúng ta, lúc nguyên khởi. Các làng mạc ở Nam miền Trung và miền Nam mất dần h́nh thức chặt chẽ và trù mật cần thiết cho một cuộc sống tập thể. V́ vậy cho nên, cùng với sự mất h́nh thức trù mật của hạ tầng, tổ chức xă hội hạ tầng cũng mất.

 

Thời kỳ Pháp thống trị đă làm cho sự tan ră đó càng thêm trầm trọng. Đối với nơi nào mà các tổ chức hạ tầng đă hư hỏng th́ sự thống trị của Pháp càng làm cho sự hư hỏng tăng thêm nhiều lên. Bởi v́, như chúng ta đă biết, bản chất của nền cai trị thực dân là không thiết ǵ đến tương lai của dân bị trị. Nhiệm vụ của nó chỉ giữ trị an. Và v́ vậy cho nên tổ chức quần chúng của chúng ta đối với người Pháp, là không quan hệ, ngược lại, nó c̣n là một trở lực cho công cuộc trị an. Người Pháp chỉ chú trọng đến một bộ máy hành chính chuyên giữ trị an để phục vụ quyền lợi kinh tế của người thống trị. Và như vậy th́ sự giữ cho dân chúng sống rời rạc là một yếu tố quyết định cho sự thành công của chính sách thực dân.

 

Đối với những vùng mà tổ chức hạ tầng của chúng ta c̣n tương đối chặt chẽ, như ở miền Trung và miền Bắc, th́ người Pháp cũng đă làm vỡ tung các tổ chức xă hội hạ tầng của chúng ta. Trước hết, họ đă mang vào nước chúng ta một hệ thống kinh tế, mà tầm hoạt động bao trùm hết lănh thổ Đông Dương thuộc quyền của họ, để thay thế một hệ thống kinh tế đặt trên căn bản tổ chức làng mạc xưa của chúng ta. Kế đó là sự đặt ra chính sách thuế vụ trực tiếp với người dân để thay thế cho chính sách thuế vụ cũ đặt qua trung gian làng mạc, kể như là những đơn vị xă hội, sau gia đ́nh.

 

Dù mà các tổ chức hạ tầng của chúng ta có bền chặt đến đâu, những biện pháp trên cũng làm vỡ tung ra được.

 

Hậu quả của những sự kiện trên, là sự vô tổ chức của xă hội chúng ta ngày nay. Nếu những tín hiệu tập hợp của chúng ta c̣n nguyên giá trị, th́ ảnh hưởng của sự vô tổ chức này sẽ bớt tai hại. Nhưng chính tín hiệu tập hợp của chúng ta lại cũng mất đi v́ thời gian thống trị của thực dân Pháp. V́ vậy cho nên, sự vô tổ chức ngày nay là một t́nh trạng không thể nào để vậy được nếu chúng ta muốn dẫn dắt cộng đồng dân tộc vào con đường thực hiện những công tŕnh vĩ đại như công cuộc phát triển mà chúng ta phải đạt cho kỳ được trong giai đoạn này.

 

Tŕnh độ vô tổ chức

 

Chúng ta phải ư thức rằng, sự vô tổ chức của xă hội chúng ta ngày nay ở vào một tŕnh độ rất trầm trọng. Bởi v́ chúng ta đă loại trừ chủ nghĩa Cộng Sản, th́ đương nhiên, khi nhận xét rằng xă hội chúng ta vô tổ chức, chúng ta không hề lấy sự quân đội hoá quần chúng trong xă hội Cộng Sản làm tiêu chuẩn. Nhưng, sự kiện mà chúng ta muốn nêu lên là chính những tổ chức quần chúng của các quốc gia Tây phương, đặt sự tôn trọng tự do cá nhân làm một nghiêm luật của văn minh, chúng ta cũng không có.

 

Giả sử có ba nhóm người, một nhóm người của chế độ Cộng Sản, một nhóm của chế độ tự do Tây phương và một nhóm người Việt Nam. Cả ba nhóm đều đứng trước một thử thách chung: phải vượt qua một đoạn đường dài có nhiều trở lực thiên nhiên bất ngờ, để di chuyển từ một địa điểm A đến một địa điểm B. Hành động của ba nhóm người sẽ ra sao?

 

Trước hết, trong nhóm người của chế độ Cộng Sản, theo lệnh của người chỉ huy, tất cả đều vào hàng ngũ đă có của ḿnh. Có từng đội nhỏ, dưới sự chỉ huy nghiêm khắc của một đội trưởng. Tất cả các đội họp lại thành đoàn, đặt dưới quyền của một người chỉ huy. Các đội trưởng, súng cầm tay, đạn chuẩn bị, lúc nào cũng sẵn sàng nổ súng, mọi người đều khiếp sợ và nghiêm chỉnh thi hành thượng lệnh. Lănh tụ giải thích rằng, v́ quyền lợi của giai cấp vô sản, Đảng và lănh tụ nhận định sự di chuyển cần phải được thực hiện theo một lộ tŕnh duy nhất mà lănh tụ đă biết. Tất cả đều vừa đồng loạt hoan hô vừa nh́n ṇng súng sâu thẳm đang chĩa vào người. Và cả nhóm tiến lên theo nhịp chân đi của quân đội. Dọc đường gặp trở lực thiên nhiên, cả nhóm người, v́ lănh tụ đă có chủ định và dưới áp lực của ṇng súng, vẫn tiến tới để ngă lần v́ kiệt sức và trở lực không vượt nổi. Cuối cùng, nhóm người, sau khi tiêu hao sinh lực, phải dừng lại đợi thượng lệnh thay đổi lộ tŕnh. Lệnh xuống, mọi người lại vừa nh́n ṇng súng, vừa hoan hô và tất cả lại lên đường theo một lộ tŕnh mới, dẫn dắt đến một trở lực mới. Phong trào nhân dân công xă của Trung Cộng cũng thể hiện trường hợp trên đây.

 

Nhóm người của khối tự do sẽ thực hiện cuộc di chuyển một cách khác. Những người này tự chia làm những nhóm nhỏ. Mỗi nhóm không có người chỉ huy, nhưng có một người được nhóm giao cho trách nhiệm phối hợp các ư kiến chung về cuộc hành tŕnh. Các người trách nhiệm lại hợp nhau, phối hợp hướng đi và tốc độ của các nhóm, để cho sự vận chuyển của toàn thể được điều hoà dưới sự trách nhiệm của một người mà phần đông đều đồng ư trao cho nhiệm vụ lănh đạo. Theo lệnh của người này, tất cả đều lên đường, mỗi người tuy không thấu triệt, nhưng ư thức lư do hành động của cộng đồng và lộ tŕnh trong hiện tại. Mặc dầu không có hoan hô rầm rộ, nhưng có sự cương quyết tiến tới và sự nhận thức các trở lực thiên nhiên đang đợi chờ. Dọc đường gặp trở lực thiên nhiên, nhờ không có một chủ định cứng rắn về lộ tŕnh, tất cả đều ngừng lại và lấy kỹ thuật khoa học nhận định thực tế để t́m cách vượt qua. Nhờ vậy mà Tây phương đă t́m được giải pháp cho các vấn đề xă hội cuối thế kỷ 19.

 

Sau cùng, nhóm người Việt Nam sẽ thực hiện cuộc hành tŕnh như sau. Một người đứng lên, với sự ủng hộ của một vài người khác, giải thích sự cần thiết của cuộc di chuyển và đề nghị một lộ tŕnh. Nhưng chung quanh, kẻ đứng người ngồi, có người lắng tai nghe, có người đang tính việc riêng, có người đang giải trí, có người đang làm việc. Nh́n chung, một cảnh tượng vô cùng hỗn loạn. Lúc người chỉ huy ra lệnh, một số bước lên đường, nhưng tốc độ không đều, người mau, người chậm. Số c̣n lại ngồi ngơ ngác không biết phải làm ǵ. Đi một đỗi, số người đi trước phải trở lại t́m cách thuyết phục những người chưa quyết định. Dằng co, đi, ở không ngă ngũ. Thời giờ qua mà cuộc hành tŕnh chưa bắt đầu, chỉ v́ nhóm người của chúng ta chưa có tổ chức. Do đó, chúng ta bất lực khi cần phải thực hiện một công cuộc cần có sự góp phần của toàn thể cộng đồng.

 

(c̣n tiếp)

Tùng Phong Lê Văn Đồng

 

 

 

 

 

* Trang Chủ

* Kim Âu

* Báo Chí

* Quảng Cáo

* Tác Giả

* Mục Lục

* Pháp Lư

* Cộng Đồng Georgia

* Một Trang Lịch Sử /details

* Một Trang Lịch Sử /djvu.txt

* Một Trang Lịch Sử /org/3

* Một Trang Lịch Sử/pdf

* Biệt kích trong gịng lịch sử

* Hồi Chuông Báo Tử

* Mapquest

* Thời Thế

* Tháng 07-2008

* Tháng 08-2008

* Tháng 09-2008

* Tháng 10-2008

* Tháng 10.2008

* Tháng 11-2008

* Tháng 12-2008

* Tháng 01-2009

* Tháng 02-2009

* Tháng 03-2009

* Tháng 04-2009

* Tháng 05-2009

* Tháng 06-2009

* Tháng 07-2009

* Tháng 08-2009

* Tháng 09-2009

* Tháng 10-2009

* Tháng 11-2009

* Tháng 12-2009

* Tháng 01-2010

* Tội Ác của nhóm PG Ấn Quang

* Vụ Đài Việt Nam Hải Ngoại

* Vấn đề Cựu Tù CT

* Về Tác Phẩm Vô Đề

* Hồng Y Và Lá Cờ

* Giấc Mơ Lănh Tụ

* Biến Động Miền Trung

* Con Đường Đạo

* Gian Đảng Phở Ḅ

* Băng Đảng Việt Tân

* Gian đảng bịp bợm

* Mộng Bá Vương

* Phía Nam Hoành Sơn

* Vô đề - Khuyết danh

* Lưu Trữ

* Nguyễn Mạnh Trinh

* Phùng Ngọc Sa

* Nguyễn văn Chức

* Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

* Hoàng Đạo Thế Kiệt

* Dương Như Nguyện

* Đinh Thạch Bích

* Hoàng Hải Thủy

* Đỗ Hoàng Gia

* Trúc Đông Quân

* Nguyễn Mạnh Quang

* Đào Vũ Anh Hùng

* Đỗ Văn Phúc

* Đinh Lâm Thanh

* Nam Nhân

* Nguyễn Đạt Thịnh

* Phạm Thanh Phương

* Thuư Đặng (BN 587)

* Trương Minh Ḥa

* Tân Dân

* Trần Thanh

* VietEdit

* ChinhNghia Forum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

   

    Trang Chủ . Kim Âu . Lưu Trữ . Báo Chí . BBC . RFI . RFA . Tác Giả . Kỹ thuật . Dịch Thuật . Quảng Cáo . Groups . Portal . Forum .Tinh Hoa . Da Lat . Thư Quán . ChinhNghiaMedia . Liên lạc

 

Một Trang Lịch Sử (tài liệu US Senate)