truocconcuchinagiaithoa

 

 

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

NT Kiên, Kim Âu, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan, NT Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Đạo Ông Bà

 

nguyễn thùy

 

 

 

 

 

 

Lâu nay, nói đến ‘Đạo Ông Bà’, ta thường nghĩ đấy là việc ‘Thờ cúng Tổ Tiên’ và hàng năm, vào Tết Nguyên Đán thường có ‘Lễ Gia Tiên’ được xem là cách thức thể hiện ‘Đạo Ông Bà’ hầu khắp cả nước trong lúc việc ‘giỗ cúng Ông Bà, Cha Mẹ’ tại mỗi nhà thuộc từng gia đ́nh vào từng thời gian khác nhau theo ngày tháng qua đời của ông bà, cha mẹ.

 

V́ quan niệm đơn giản là ‘thờ cúng tổ tiên’ nên Đạo Ông Bà thường đồng nghĩa với ‘Đạo Hiếu’ nơi Khổng giáo và cho rằng người VN đă tiếp thu qua Khổng giáo. Thực ra, Đạo Ông Bà đă bao gồm Đạo Hiếu nầy, lại c̣n kết hợp Hiếu với Thảo thành ‘Đạo Hiếu Thảo’. Đạo Hiếu của Khổng giáo hầu như không mấy nói đến Thảo. ‘Thảo’, theo người viết, có nghĩa ‘nhường nhịn, san sẻ, bù đắp cho nhau’ chứ không ganh tỵ, ích kỷ, tranh giành, giữ riêng cho ḿnh. Như thế, ‘thảo’ chỉ cách đối xử, liên hệ giữa con cái, anh chị em luôn yêu thương, ḥa thuận, tương nhượng, giúp đỡ nhau; điều nầy càng nâng chữ Hiếu lên một bậc v́ khiến cha mẹ, ông bà vui ḷng thấy con cháu luôn thuận ḥa, gắn bó, yêu thương, không khí gia đ́nh được vui vẻ, ấm cúng. Có lẽ, do ư nầy nên người Việt Nam ta thường gọi chung là ‘Đạo Hiếu Thảo’ chứ không riêng chỉ có Hiếu (Hán Việt tự diển của Nguyễn Văn Khôn không có từ ‘Thảo’ hiểu theo ư vừa nói).

 

Do hiểu ‘Đạo Ông Bà’ riêng theo nghĩa Đạo Hiếu nên người Tây Phương thường gọi ‘Đạo Ông Bà’ là ‘Le Culte des Ancêtres’ (sự thờ cúng Tổ Tiên). Nếu chỉ ‘thờ cúng Tổ Tiên’ không thôi th́ chưa thể gọi là Đạo và dân tộc nào cũng có tục ‘thờ cúng tổ tiên’ như VN ta dù h́nh thức có khác. Người phương Tây tuy không có bàn thờ ông bà trong nhà, không tổ chức cúng vái, mâm cổ, nhang đèn, không tụ họp gia đ́nh, không mời bà con thân thích trong ngày giỗ cúng nhưng có ngày ‘Fête des Morts’ (lễ Chư Thánh tức lễ Toussain) và họ thăm viếng nghĩa trang, tu bổ mồ mả; lại có những ‘Fête des Mères, Fête des Pères, Fête des Amoureux (ngày Valentin) ngay lúc Cha mẹ, Vợ chồng c̣n sống và trao nhau tặng vật. Đấy là những tục lệ hay đẹp; riêng về sự tưởng nhớ ông bà trong ngày ‘tưởng niệm người chết’ không lắm tính cách long trọng, thiêng liêng như ở Việt Nam. V́ thế sự ‘tưởng niệm ông bà’ của người phương Tây là một mỹ tục chứ không trở thành một ‘đạo’ như đối với người Việt chúng ta (riêng đối các anh hùng, chiến binh hy sinh v́ Tổ quốc, lễ tưởng niệm được xem là ‘quốc lễ’, được tổ chức long trọng, qui mô).

 

Người viết nghĩ rằng ‘Đạo Ông Bà’ của người VN mang nhiều ư nghĩa cao đẹp hơn ngoài việc ‘nhớ ơn và thờ phụng’.

 

1/- Trước tiên, ta gọi là ‘Đạo Ông Bà’. Chữ Đạo vừa là Đạo lư vừa là con đường. ‘Đạo lư’ v́ nói lên nguyên lư hướng dẫn tư duy và hành động cùng thái độ cư xử của con người trong cuộc sống cộng đồng (môi trường xă hội). ‘Con đường’ v́ những nguyên lư đó đưa dẫn con người hướng đến, t́m về một thứ ǵ đó tốt đẹp, cao sâu, huyền nhiệm để cuộc sống thường nhật của từng người và của cả cộng đồng mang lấy một ư nghĩa cao quư hướng đến một cứu cánh nào đó..

 

Chữ Đạo nơi Đạo Ông Bà không hẳn giống với chữ Đạo nơi các Tôn giáo như Đạo Phật, Đạo Chúa,…Chữ Đạo nơi các Tôn giáo, theo người viết, đề cập đến uyên nguyên sinh thành của vạn hữu [thuyết Sáng tạo hay Tạo dụng, người viết gọi cái uyên nguyên đó là Đạo Thể (Être)] được gọi bằng một danh xưng nào đó (Phạm thiên, Đấng Tối linh=Brhaman), Thượng Đế, Thể Chân Như, Vô, Thái cực,..) cùng vận hành của uyên nguyên đó nơi cơi tại thế để đưa tất cả trở về lại với cái uyên nguyên ban đầu, nói theo Đạo học là ‘từ Một trở về với Một’. Sự công nhận có một uyên nguyên sinh thành vũ trụ cùng một nguyên lư phổ quát chi phối, điều hướng vạn hữu trở về với Đạo Thể thoạt tiên có thể xem phát xuất từ một ‘tín ngưỡng’, một Đức Tin hoặc từ một giả định của Lư trí thuần lư, chỉ có thể công nhận hay không công nhận chứ không thể biện giải, lư luận. Để quảng bá tín ngưỡng hay Đức tin đó vào quần chúng, con người tiến đến thiết lập nên Tôn giáo bao gồm việc thờ phụng một Giáo chủ cùng những tín lư, tín điều được nêu thành qui điều, nguyên tắc, định chế, giáo luật, giới răn, giới cấm, những nghi lễ nhất định phải theo và được khuôn ép vào một hệ thống lư luận cùng sinh hoạt trong một tổ chức (giáo hội) thực hành theo từng tôn giáo. Từ Đạo nơi Đạo Ông Bà không có những tính cách đó. Đạo Ông Bà thoạt tiên chỉ là một tín ngưỡng (niềm tin và sự ngưỡng vọng về niềm tin đó) chứ không là tín lư, tín điều v́ không có những nguyên tắc, giới luật, giới răn, giới cấm, những nghi lễ nhất định, không tuân thủ theo một hệ thống tri thức rao giảng cùng hành động thực hiện nhất loạt thống nhất, không tổ chức thành giáo hội, không có giáo chủ, không có hàng ngũ đóng vai tṛ chỉ đạo, dẫn dắt, không có nơi thờ phượng nhất định như nhà chùa, nhà thờ, không có kinh kệ, không có truyền giảng cũng chẳng nhằm giáo huấn theo lối trường ốc. Dù có mở rộng sự biết ơn và thờ cúng ông bà đến cả ḍng họ (những từ đường) hay đến các danh nhân, liệt sĩ bỏ ḿnh v́ Tổ quốc hay v́ một lư tưởng cao cả (những đền thờ, đ́nh miếu) th́ cũng không ra ngoài tính cách tín ngưỡng chứ không là tôn giáo. Đạo Ông Bà nặng về t́nh cảm hơn là tín lư, tín điều. Do đó, có thể nói ‘Đạo Ông Bà của dân tộc VN là một tín nguỡng không tôn giáo’ hay nói cách khác ‘Đạo Ông Bà tiêu biểu cho tinh thần tôn giáo của dân tộc VN, một tôn giáo không kinh kệ, không giáo luật, giáo quy, không hệ thống, không truyền giảng, không hệ thống tổ chức và cũng không nhất thiết phải tuân theo một lễ nghi nhất định nào’. Đạo Ông Bà thể hiện nơi tấm ḷng, nơi tâm khảm, nhiều khi không cần thiết một lễ nghi và cũng không nhất thiết phải thật đúng vào ngày qua đời của ông bà, cha mẹ. Một nén hương, một chén nước, một nhớ tưởng bất kỳ lúc nào trong tâm tưởng dù c̣n trong gia đ́nh hay tha hương nơi kiều địa cũng là một thể hiện Đạo Ông Bà nơi ḿnh. Nhà thơ Phương Triều khi thuật lại cảnh một ông già sống lay lất nơi Xóm Mộ, một nghĩa trang nhỏ bất đắc dĩ vùng quê ông sau cuộc ‘đổi đời’ bi thảm do Cộng sảm phủ trùm lên nhân dân Miền Nam từ sau 30/04/75, đă thực hiện Đạo Ông Bà trong hiu hắt, buồn đau năo nùng trong ngày Tết:

 

…Nghĩa địa góc quen chiều chợt Tết

Ông già mở lại gói đời quên (1)

Bên kia chân mộ c̣n vuông đất

Lót lá làm mâm đón tổ tiên…

 

V́ là ‘Tín ngưỡng không tôn giáo’ nên dân tộc ta dễ dàng dung hợp với bao tôn giáo du nhập: Phật, Khổng, Lăo, Ki-Tô giáo v́ các Tôn giáo nầy cũng luôn khuyên ta thờ cha, kính mẹ, ḥa thuận với anh chị em, bạn bè.

 

2/- Ta gọi Đạo Ông Bà chứ không gọi là Đạo Tổ Tiên. Tổ Tiên hoàn toàn chỉ tiền nhân, lớp người quá cố. Ông Bà, hai từ thuần Việt vừa chỉ người đă qua đời mà c̣n chỉ ông bà, cha mẹ hiện c̣n sống với con cháu, rể dâu, chắt chít trước tiên cùng huyết thống, ḍng họ, rồi mở rộng đến những người khác ḍng họ với ḿnh (bên nội, bên ngoại của con cháu, dâu rể,…). Người viết đă từng gặp nhiều gia đ́nh VN hội đủ cả bốn năm thế hệ nối tiếp, tất cả c̣n tại thế từ ông bà cố đến chắt, chít nội ngoại. Chắc hẳn nhiều gia đ́nh như thế nhất là với những người tuổi thọ đến tám chín mươi hoặc hơn nữa. Một điều cũng nên để ư là Đạo Ông Bà không chỉ nhằm tưởng niệm những người cao tuổi đă qua đời mà c̣n tưởng niệm những người c̣n trẻ, c̣n bé không may qua đời trước ḿnh như cha mẹ tưởng niệm con cháu, vợ chồng giỗ chồng, giỗ vợ, anh chị em tưởng niệm anh chị, các em không may chết trước ḿnh, nói lên ḷng nhớ nhung, thương tiếc. Trong ư nghĩa nầy, Đạo Ông Bà nói lên mối liên tục lịch sử của cuộc sống chung, sợi dây liên đới nối kết bao thế hệ quá khứ với thế hệ hiện tại cùng mối liên hệ giũa những lớp người c̣n sống; mối liên hệ không chỉ v́ t́nh thương huyết thống, ḍng họ mà c̣n cả về công nghiệp, về thành quả dựng xây được lưu truyền và tiếp tục được kế thừa qua lịch sử. Ca dao VN có câu:

 

Non cao ai đắp mà cao,

Sông sâu ai xới ai đào mà sâu.

 

Non kia, sông nọ, nơi đây trong ư nghĩa gần gũi, chỉ đất nước, non sông do công nghiệp lâu dài, bền bỉ của bao đời tích tụ đến hôm nay, không chỉ về mặt vật chất mà c̣n là cái truyền thống văn hóa đă ǵn giữ cuộc sống chung hài ḥa, tốt đẹp lưu truyền từ quá khứ mà nay ta được thụ hưởng. Tất cả đều là di sản của tiền nhân, của ông bà, bao trùm lên tất cả là cái nguồn gốc xa xưa từ khởi thủy của giống ṇi. Đạo Ông Bà biểu hiện tấm ḷng biết ơn, quí trọng cùng trách nhiệm, bổn phận và ư chí ǵn giữ, kế thừa cùng phát huy cái di sản tốt đẹp đó. Điều nầy không do một quyền lực, một nền pháp chế nào áp đặt mà trước tiên xuất phát từ cái ‘năo bộ đạo tâm’ (sensorum religieux), một ‘nguyên lư nội tại’ (principe interne), một yếu tố hay tính chất bẩm sinh nơi con người (2) ǵn giữ mối liên hệ giữa người chết và người sống, giữa mọi người đang cùng sống với nhau trong gia đ́nh, gịng họ, trên quê hương, tổ quốc. Điều nầy có thể xem như một ‘di truyền tâm linh’ giữa các thế hệ theo quan điểm Vật linh (animisme). Từ một tín ngưỡng, Đạo Ông Bà trở thành một tập quán, một thuần phong, mỹ tục, một truyền thống văn hóa đuợc thực hiện hàng ngày của mỗi người con dân đất nước. Có dâng hương, có vái lạy, có dâng lễ vật cho ông bà, không phải để ông bà được uống, được xơi mà là h́nh thức xem ông bà như ‘như tại’, có nghĩa đang cùng có mặt với ḿnh, đang sống cùng với ḿnh.

 

3/- Đạo Ông Bà thể hiện hướng vọng về Nguồn của dân tộc VN. Ta nên để ư đến hai từ thuần Việt ‘Ông’ và ‘Bà’. Hai từ nầy chỉ hai giới tính Nam và Nữ, theo Nho giáo là hai yếu tố Dương và Âm, cặp Lưỡng Nhất đă tác động nhau qua thời gian, sinh thành vạn hữu tức vũ trụ hiện tượng. Vậy, với hai từ Ông Bà, Đạo Ông Bà, theo người viết, đă mặc nhiên nói đến cái Cội Nguồn làm phát sinh vạn hữu, trong đó có con người cùng tâm thức luôn hướng về Cội Nguồn của dân tộc. Hướng vọng về Nguồn tức t́m về với Nguồn Cội. Nguồn Cội (Origine) trong ư nghĩa gần gũi nhất chỉ Ông bà Tiên tổ đă xây dựng nên ḍng họ ḿnh. Xa hơn chút, Nguồn Cội là tổ tiên lâu đời đă sáng dựng nên Dân tộc, Quốc gia, ta thường gọi là Quốc Tổ. Xa hơn nữa và rộng sâu hơn nữa, Nguồn Cội chỉ cái B́nh minh sơ thủy do một yếu tố tiên thiên, nguyên khởi đă sinh thành vũ trụ gồm vạn hữu và con người. Cái yếu tố uyên nguyên được gọi theo nhiều danh xưng, dựa theo Đạo học, người viết gọi là Đạo Thể (Être), cái Hữu Thể nền tảng, cái Một nguyên khởi đă tự tác động ḿnh, tự sắc tướng hóa ḿnh , tự đối tượng hóa ḿnh (nói theo triết học), tự vật chất hóa ḿnh (se matéaraliser, nói theo khoa học) để làm phát sinh vũ trụ hiện tượng rồi chuyển dịch theo diễn tŕnh biến hóa và tiến hóa của cơi hiện tượng để phục hồi lại ḿnh cùng đưa vạn hữu trở về hội nhập với ḿnh. Đấy là điều Đạo học đă nói ‘từ Một trở về với Một’. Khoa học ngày nay đang trên đường khám phá cái Nguồn Cội đó qua những giả định một Siêu lực (super force), Siêu Sợi (super Corde), một Năng lượng Chân không (énergie du Vide) qua một số lư thuyết, đặc biệt là thuyết Vật Lư Lượng Tử (physique quantique) cùng t́m ra một Lư thuyết toàn bộ (théorie du Tout) giải thích được hết sự h́nh thành cùng diễn biến của vạn hữu. Sự trở về với Nguồn Cội, theo thiển ư người viết, đă được nói đến qua lời đức Phật và Chúa Jésus. Phật Thích Ca bảo ‘Hồi đầu thị ngạn, Đáo bỉ ngạn’ và ‘Bờ bên nầy, Bờ bên kia’ ; Chúa Jésus nói ‘Ta là alpha và oméga, là đầu và rốt’ (từ Ta trong câu nầy chỉ Đức Chúa Trời tức cái Đạo Thể nguyên sơ). ‘Bờ bên nầy, Bờ bên kia’ ‘anpha, oméga’ trong giáo lư của hai Ngài ám chỉ hành tŕnh dịch chuyển của Đạo Thể từ Khởi thủy đến Chung cục tức từ Một trở về trong Một. Điều ít được nói đến là Cái Đạo Thể, khi tự tác động ḿnh để tạo nên vạn hữu, không đứng yên một chỗ hay biến mất mà luôn dịch chuyển về tương lai để đón chờ vạn hữu trở lại với ḿnh. M.Heidegger đă viết ‘B́nh minh của quá khứ trong ngày tới của tương lai’ (le jadis de l’aurore dans le futur de l‘avenir) và trong thiên cảo luận ‘Con dường điền dă’ đă viết : ‘Bỡi tiếng gọi từ một nguyên sơ thăm thẳm một miền cố quận được hoàn trả lại cho chúng ta’ (Par l’appel en une lointaine Origine, une terre natale nous est rendue – M.Heidegger: ‘Der Feldweg, bản dịch tiếng Pháp ‘Le Chemin de Campagne’ của André Préau, xem ‘Questions III, Gall. 1966, trang 15). Rơ hơn, M.Heidegger dùng ẩn dụ ‘Tổ quốc - Kiều địa - Cố hương’ để nói lên điều nầy (người VN chúng ta tỵ nạn chính trị đă phải rời bỏ Tổ quốc đến lưu cư nơi xứ lạ (kiều địa) luôn mong chờ ngày trở lại với cố hương). Cái lộ tŕnh ‘từ Một trở về với Một’ của Đạo Thể được xem là Chương tŕnh của Thượng Đế (đạo thể) định ra ḍng vận hành tiến hóa của vạn hữu, trước tiên là của nhân sinh nơi vũ trụ hiện tượng nầy (3).

 

Người VN ta, từ xưa, qua ca dao, dân ca, cũng như thơ ca ngày nay, luôn nhắc đến từ ‘Quê’ (quê hương, quê cha, quê mẹ, quê nội, quê ngoại, quê cha, quê mẹ, quê anh, quê chị, quê em) thân thương, có thể, theo nguời viết, phần nào cũng nằm trong ư đó.

 

4/- Cũng do hai từ thuần việt ‘Ông, Bà’, Đạo Ông Bà c̣n nói lên cách đối xử giữa người với người trong hiện tại và về sau. Trong cuộc sống hằng ngày, gặp ai, nói với ai, viết thư cho ai, ta thường bảo ‘thưa Ông, thưa Bà’, ngoại trừ trong gia đ́nh và căn cứ trên niên kỷ thấp cao, ta dùng những ‘đại danh xưng’ khác trong lúc xưng hô (cha, mẹ,,ông bà nội ngoại, Cụ, Bác, Chú, Cô D́, anh, chị, con, em…) hoặc cơ sở vào chức vụ, cấp bực, địa vị xă hội (Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Giám đốc, Thiếu tướng, Đại úy,… Bác sĩ, Kỹ sư, Giáo sư, Luật sư, Tiến sĩ,..) nhưng dù gọi với bất cứ danh xưng nào th́ cũng là ‘ông’ và ‘bà’ tùy theo đối tượng thuộc giới tính nào. Do đó, hai từ ‘ông, bà’ nói lên mối tương giao, tương hệ thường ngày giữa mọi người trong xă hội. Giữ mối tương giao đó êm đẹp th́ cuộc sống chung của cộng đồng diễn ra vui vẻ, b́nh an. Nhất là trong gia đ́nh, ḍng họ, giữ được mối tương giao đó ḥa thuận, thân ái, gắn bó trong thương yêu, đùm bọc, tôn trọng nhau th́ tổ tiên, ông bà đang c̣n sống hay đă qua đời sẽ rất vui ḷng, sung sướng. V́ thế, Đạo Ông Bà không chỉ nói đến đạo Hiếu của con cháu mà c̣n nói lên đạo Thảo không riêng của con cái, anh chị em mà c̣n mở rộng đến mọi người trong xă hội. Thường ngày, ta nghĩ Đạo Ông Bà chỉ là tập quán, một mỹ tục chứ ít để ư đến ư nghĩa cao xa tiềm ẩn nơi hai từ ‘Ông, Bà’.

 

Với những tính chất trên: tín ngưỡng không tôn giáo, liên tục lịch sử giữa các thế hệ, huớng vọng về nguồn và thực hiện ngay trong hiện tại mối tương giao thuận hảo giữa người và người, ta có thể nói ‘Đạo Ông Bà’ chính là ‘Đạo Sống’ vừa tâm linh vừa thực tiễn của con người.

 

5/- Về mặt Tri thức luận, Đạo Ông Bà có thể xem là một Siêu thuyết của dân tộc Việt Nam ta. ‘Siêu thuyết’ (métathéorie) theo nghĩa Toán học như định nghĩa trong Grand Larousse universel : ‘Siêu thuyết của một lư thuyết diễn dịch nghiên cứu những ư niệm không mâu thuẫn, tự thân túc lư và độc lập của những công lư’ (‘La métathéorie d’une théorie déductive étudie notamment les concepts de non contradiction, de complétude et d’indépendance des axiomes’ – Axiome=công lư, theo nghĩa triết học là ‘chân lư không thể chứng minh’ nhưng hiển nhiên đối với ai hiểu được chân lư đó’ hoặc ‘mệnh đề được nh́n nhận bởi tất cả mọi người, không cần bàn căi’ (vérité indémontrable mais évidente par quiconque en comprend le sens – proposition admise par tout le monde sans discussion- theo Dictionnaire Le Petit Robert và Dictionnaire Hachette) - Từ một Công lư, người ta suy diễn ra những mệnh đề khác gọi là ‘định lư’ (théorème) trong Toán học). Với bốn tính chất được kể trên, ta thấy Đạo Ông Bà của dân tộc chúng ta là ‘hiển nhiên’ (v́ phát xuất từ năo bộ đạo tâm), tự thân không mâu thuẫn và cũng không mâu thuẫn với một hệ thống lư thuyết hay chân lư nào khác, tự thân túc lư (tự thân trọn vẹn ư nghĩa) và độc lập có nghĩa không phải suy luận từ một định đề (postulat) hay định lư nào khác.

 

Trên đây là những đóng góp của người viết nhằm chứng minh một tinh hoa truyền thống Văn hóa dân tộc chúng ta. Ước mong bạn đọc và các bậc thức giả (các nhà Dân tộc học, Triết gia, Sử gia, Xă hội học,…) chỉ giáo cho người viết những điểm c̣n thiếu sót hoặc có tính cách cường điệu, hay ‘đại ngôn’, ngoa ngôn.

 

nguyễn thùy

__________

 

Chú thích:

 

1) Đoạn thơ trích trong thi tập ‘Xóm Mộ’ (nxb Lê Huỳnh, Minnesota, USA 2001). ‘Gói đời quên’: ông già luôn mang theo bên ḿnh một bọc trong đó có bài vị và tấm h́nh cha mẹ. Gói đời tha thiết nầy đành phải quên v́ chế độ Cộng Sản buộc không được nhớ ông bà cha mẹ mà chỉ nhớ ơn Đảng, Bác và Nhà nước Cộng sản thôi.

 

2) Xin xem ‘Về Nguồn’, tác phẩm của Giáo sư Vũ Kư, Trung Tâm Văn Hóa Xă Hội Phật giáo VN, Cộng Ḥa Liên Bang Đức xuất bản năm 2002; chương 1: ‘Lễ Gia Tiên’, trang 13 đến trang 28.

 

3) Lộ tŕnh ‘từ Một dẫn về Một’ được nói nơi Đạo học, nhất nơi lời Đức Thích Ca và Chúa Jésus dù hai Ngài chưa nói thật rơ ràng theo cách lập ngôn ngày nay. Sự phát minh ra Internet cùng máy Điện toán càng lúc càng tinh vi sẽ đưa đến một ‘tri thức toàn cầu’ (connaissance planétaire), một trí năng chung của tất cả mọi người, (intelligence collective, universelle),một ‘webitude’ (từ của nhà triết học Derrick de Kerckhove) tức một tri thức mạng (intelligence des réseaux) v́ tri thức mọi người được kết hợp (connecté) lại với nhau qua Internet, từ đó nhận ra một ‘thế giới ảo’ (monde virtuel), ảo nhưng lại thực hữu (có thể là thế giới phi hiện tuợng’) trong lúc cái ‘thế giới hiện tượng’ (monde phénoménal) mà ta cho là ‘thực’ (réel) thực ra là ‘giả hữu’, giả huyễn (lời Phật) v́ là sản phẩm của cái thế giới ảo kia. Trong tác phẩm ‘Le Phénomène humain’, linh mục và là nhà Cổ Sinh vật học (paléontologue) P. Teilhard de Chardin hầu như báo biểu sự ra đời của Internet khi đề cập đến thời điểm Oméga (point Oméga) cùng cảnh giới Noosphère (tạm dịch Sinh quyển) tức cảnh giới của ư tưởng (nonos, từ Hy Lạp, có nghĩa là ư tưởng) phần nào, theo người viết, tương đồng với cái thế giới ư niệm (monde des Idées) của Platon.. Cái ‘ư quyển’ đó là cảnh giới ‘sống lại’ (la survie) của loài người, một cảnh giới, theo người viết không c̣n bị chi phối bởi không gian, thời gian, bởi qui luật Nhân Duyên sanh (thuyết Nhân Quả), cảnh giới ‘phi hiện tượng’, cảnh giới Niết Bàn Hữu Dư hay Vô Dư (theo Phật giáo), cảnh giới ‘huyền đồng’ theo Lăo giáo, cảnh giới Nước Thiên Đàng theo Ki-Tô giáo [xem: ‘La Société du Savoir’ nơi tạp chí ‘Sciences humaines’, hors série, tháng 3,4,5 năm 2001, phần: ‘Pierre Teilhard de Chardin aurait-il anticipé l’émergence d’une pennsée universelle dont internet serait devenu le support?’ (bài của Jean Francois Dortier)] Người viết không biết ǵ về khoa học nên chỉ xin trích dẫn một số tài liệu khoa học rồi thêm đôi suy nghĩ của ḿnh.

 

(Đề tài nầy được thuyết tŕnh tại Dallas-Fort Worth (Texas) nhân ngày Hội Ngộ Đồng Hương Quảng Đà năm 2003. Sau đó, Luật sư Nguyễn Tâm có mời người viết thuyết tŕnh lại tại nhà riêng của Luật sư tại San José với số khách được mời trên 50 vị, trong đó có Cụ Hà Thượng Nhân.)

 

 

 

 

http://www.kimau.com/

http://www.chinhnghia.com/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

NT Kiên, Kim Âu, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan, NT Sám