tuthucuamottubinhtruocconcuchinagiaithoa
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
Lại nói về đồng minh
© 2014 Lê Tuấn Huy
Việc giàn khoan Haiyang Shiyou 981 được đưa vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho thấy Hà Nội đă thất bại trong việc dùng “đồng chí” và “phi liên kết” làmđối sách cho sự bành trướng trên biển của Bắc Kinh.Vài năm gần đây, Việt Nam đă chuyển bước nhất định để tạo vị thế mới. Tuy vậy, sau những thắng lợi ngoại giao từ ghế chủ tịch luân phiên ASEAN (2010), đến khi Hoa Kỳ xoay trục, được sự hỗ trợ của một số lập luận cũ và mới, Hà Nội chỉ duy tŕđường hướng mới ở mức tối thiểu để “cân bằng” với các bên, và càng xác quyết con đường phi đồng minh.
alt
Trước khi bàn đến các lập luận ấy, cần nhắc lại rằng lịch sử và thực tế đă cho thấy đồng minh là một nhu cầu và quan hệ khách quan ở mọi thời đại, mọi lănh thổ, mọi chế độ xă hội. Nó có thể là một liên minh chính thức về nhiều mặt, theo mục tiêu chiến lược, mà cũng có thể chỉ là sự gắn kết không chính thức hoặc tùy vào mục tiêu t́nh thế, dựa trên những chia sẻ về giá trị, quyền lợi, hoặc chỉ là động thái sách lược, chiến thuật. Nó có thể là một liên minh chính trị, một khối quân sự, kinh tế, hay những dạng đồng minh về thể chế, văn hóa… Và quan hệ đồng chí cũng chỉ là một biến thể trong sự đa dạng đó.
Từ sau Thế chiến thứ II, ngoài con số rất hiếm hoi quốc gia được thừa nhận trung lập, c̣n lại, tùy tương quan và giai đoạn, không một không gian địa lư nào tránh khỏi thế liên kết ngoại biên, theo h́nh thức này hay h́nh thức khác.
Khi chưa có sự việc nghiêm trọng hiện nay tại Biển Đông, các ư kiến đứng trên cương vị chính thống đă không bác cách tiếp cận đồng chí. Ngược lại, có nhiều khẳngđịnh, rằng Việt Nam không cần đến đồng minh, v́ quyết định là ở nội lực.
alt
1. Hiểu nội lực và ngoại lực như thế nào?
Phát triển nội lực để xây dựng một quốc gia thịnh vượng, đủ sức đối mặt với mọi thách thức, là quan điểm hoàn toàn đúng. Nhưng nói rộng ra, rằng phải tự lực chứkhông cần đến ngoại lực, không cần đến đồng minh, là hoàn toàn sai.
Về nhận thức, lập luận mở rộng đó phản ánh một tư duy phi lịch sử và phi thực tế.
Vềchiến lược, nó lấy cái dài hạn thay cho cái cấp bách, nhầm lẫn giữa tương quan kinh tế – xă hội với tương quan chính trị – quân sự, bởi nội lực là cái trường kỳ của mọi quốc gia, và khoảng cách giữa các nước về nguồn lực này không phải một sớm một chiều mà rút ngắn, trong khi vấn đề chủ quyền liên quan đến Trung Quốc lại rất cấp bách.
Vềchiến thuật, chỉ nhắm đến nội lực (vốn rất thua kém) th́ chẳng khác nào tựtrói tay trước một đối thủ vừa vũ trang hiện đại đầy ḿnh, vừa đủ thế và lực để phân hóa sự liên kết khả dĩ của đối phương.
Bên cạnh đó, nhấn mạnh nội lực để bác bỏ đồng minh, xem nó chỉ là ngoại lực, là cách hiểu siêu h́nh.
Lẽ nào trong hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, chỉ bằng nội lực riêng có mà Việt Nam đă thắng? Đương nhiên là không. Hậu thuẫn và viện trợ của các đồng minh Liên Xô,Đông Âu, Trung Quốc, nếu chỉ là ngoại lực thuần túy, tự nó sẽ chẳng mang ư nghĩa ǵ. Chỉ khi người Việt chuyển hóa thành cái của ḿnh, không xem chúng là bất đắc dĩ hay thiếu hữu dụng, th́ mới có được thành quả như đă thấy.
Tương tự, từ sau đổi mới, nếu xem đầu tư nước ngoài là như một ngoại lực chẳng đặngđừng (phải chấp nhận tư bản nước ngoài vào bóc lột), chứ không xem như một nguồn lực nội tại hóa, th́ chắc chắn bộ mặt đất nước đă không như ngày nay.
Quan hệ đồng minh, khi xác lập đầy đủ và vận hành hiệu quả, sẽ trở thành một cấu thành của nguồn lực chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự của quốc gia. Vấnđề là, thay v́ giữ nhận thức sai lầm khi tách bạch nội lực và ngoại lực, người làm chiến lược cần tính toán, vận dụng nguồn lực đặc biệt này sao cho tối ưu.
Nhưng không dừng ở vấn đề nội lực, có lập luận cho rằng sự liên kết vẫn không bảo đảmđược cho đất nước khi gặp nguy, bởi đồng minh cũng chỉ nhắm đến quyền lợi của họ chứ không v́ quyền lợi của ta. Hai dẫn chứng thuyết phục là hải chiến Hoàng Sa năm 1974 bị Hoa Kỳ làm ngơ, và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 bịLiên Xô tảng lờ.
2. Đồng minh để làm ǵ và quyền lợi trong quan hệ đó ra sao?
Cho rằng xác lập đồng minh là để được lập tức can thiệp quân sự, như nhiệm vụthường trực và bất biến của họ, là cách nghĩ thiếu trách nhiệm với chính ḿnh và người khác.
Trừ khi chiến tranh đă là tất yếu và toàn cục v́ một hay nhiều bên đă có chủ đích, không quốc gia nào lại muốn những xung đột nhất thời và cục bộ trởthành nguyên cớ để khơi mào một cuộc chiến diện rộng, có sự tham gia trực tiếp của các bên thứ ba. Với những chuyển biến của cục diện thế giới từ sau chiến tranh lạnh, người làm chiến lược có lư trí khó mà nghĩ rằng tạo quan hệ đồng minh là để đối tác tức th́ tham chiến cho ḿnh, bất kể nguyên nhân, thời cuộc và chiến cuộc.
Vậy, phải chăng có đồng minh cũng như không, nên không cần phải có? Không, mà chính liên kết ngoại biên là nhằm hạn chế nguy cơ chiến tranh, bởi quan hệ đồng minh là để gia tăng vị thế và giảm thiểu nguy cơ hay thiệt hại cho các quốc gia của liên minh, chứ không phải để can thiệp vô tội vạ, làm tăng nguy cơ cho nước khác và giảm đi cơ hội ḥa hoăn.
Cho nên, đồng minh không phải là loại quan hệ đơn chiều, chỉ để hưởng sự bảo vệ ởquốc gia này và phải đi bảo vệ ở quốc gia khác. Mà, v́ quyền lợi của chính ḿnh, nhận định và xử trí chuẩn xác về chiến lược, sách lược và chiến thuật là điều trước tiên phải có của quốc gia liên hệ trong vụ việc; và cùng với nó, tương tác đồng minh là điều kiện không thể thiếu, v́ đó không những là thế lực răn đe từ xa, hỗ trợ pḥng vệ, mà c̣n là lực lượng trực tiếp hậu thuẫn về ngoại giao và quốc pḥng, chính trị và kinh tế, khi lâm sự.
Đặt hai sự kiện Việt Nam bị đồng minh phớt lờ trong cách nh́n ấy, có lẽ sẽ phần nào khách quan hơn.
Đứng trên lập trường của người Việt, ta không thể không bất b́nh trước những ǵ đă diễn ra. Nhưng cũng cần nh́n rộng hơn, vào thời cuộc và vị thế của hai đồng minh đó, tại thời điểm của mỗi sự kiện.
Về vai tṛ của Hoa Kỳ trong hải chiến Hoàng Sa, đă có ư kiến cho rằng một mặt, sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ kư Hiệp định Paris (27/01/1973) để chấm dứt sự tham chiến của ḿnh; mặt khác, trước sự suy tàn kinh tế của khối Xô Viết và xu hướng tư bản hóa của Hoa Lục, nước Mỹ vừa chọn người đồng chí trở mặt của Liên Xô, vừa chấp nhận thua sách lược tại Việt Namđể sẽ thắng chiến lược trên thế giới, qua việc tập trung nguồn lực cho sự diệt vong khả dĩ của khối Đông Âu.
Chúng ta hiện không đủ dữ liệu để kết luận chắc chắn, nên vẫn không loại trừ việc Hoa Kỳ đă bỏ mặc Hoàng Sa chỉ v́ sự tàn tạ của họ bởi chiến tranh, nhưng khả năng toàn cục như vừa nói cũng là một lư giải cần được nghiên cứu thấu đáo và có thểchấp nhận.
Khác với trường hợp Hoa Kỳ, nại Liên Xô ra để biện hộ cho quan điểm phi đồng minh, là vô lư và bất công. Họ không can thiệp trực tiếp nhưng vẫn hết ḷngủng hộ Việt Nam trong thời gian ấy. Bên cạnh đó, c̣n có những khía cạnh khác cần nh́n vào.
Không thể phủ nhận rằng cuộc chiến biên giới phía Bắc có liên hệ tới việc Việt Namđưa quân vào Kampuchea, ít ra là nguyên cớ đối với Trung Quốc. Với người Việt, hành động của ḿnh là hợp lư. Dù thế, thử hỏi, sau khi kư Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô (08/11/1978), Hà Nội hành động quân sự nhưng có tham vấn trước với đồng minh không, hay chỉ nghĩ rằng ở t́nh huống nào cũng không thể bịMoscow bỏ mặc? Nếu đă tự ḿnh đưa ra quyết sách, không tính đến t́nh thế củađồng minh, th́ không thể trách cứ họ.
Xét trên toàn cục, đấy là thời kỳ mà các khó khăn đă tích tụ sâu rộng ở Liên Xô, và bản thân họ cũng đang trong t́nh trạng rất dễ bùng nổ tại biên giới với Trung Quốc. Vả lại, chỉ có dân chúng Việt Nam khi ấy không biết rằng một tháng là hạnđịnh mà Đặng Tiểu B́nh đă đặt ra cho vụ thử lửa này. Do vậy, xét mọi mặt, việc Liên Xô không can thiệp quân sự là xác đáng.
Nh́n hai sự kiện vừa nói theo kiểu một chiều để cho rằng đồng minh chỉ v́ lợi ích của riêng họ mà thôi, th́ cũng chính là đang xác tín rằng bản thân ta chỉ đứng trên lợi ích của riêng ḿnh để phán xét.
Từ cổchí kim, có nước nào không đứng trên lợi ích của chính ḿnh và đặt nó lên hàngđầu không? Việt Nam không v́ lợi ích của chính ḿnh và không đặt nó lên hàngđầu chăng? Chỉ cần trả lời hai câu hỏi ấy, sẽ lập tức thấy rằng luận cứ đồng minh chỉ v́ quyền lợi riêng của họ, ngay từ việc đặt thành vấn đề, đă là khôngđúng. Nó phản ánh cái tâm thức lấy ḿnh làm trung tâm, đem quyền lợi của ḿnh ra làm đơn vị đo lường cho người khác. Và đương nhiên, với thước đo ấy, sẽ không một quốc gia nào đáp ứng được.
Trong mọi sự vụ liên quốc gia, cái được xét để xác lập hoặc định h́nh quan hệ, là quyền lợi và mục tiêu chung. Nếu có thiện chí, các bên liên quan sẽ điều tiếtđể các quyền lợi trở nên hài ḥa, bởi giữa các chủ thể khác nhau, không thể có quyền lợi nào trùng khít vào nhau, mà chỉ có sự đan xen, giao thoa với nhau. Do vậy, nếu đă nh́n nhận quyền lợi chung, vấn đề là cần chủ động thích ứng, vận dụng và mở rộng nó, thay v́ cứ bất động mà đ̣i hỏi người khác phải v́ quyền lợi của riêng ḿnh.
Mặt khác, cùng một quốc gia sẽ có những quyền lợi chung khác nhau với những nước khác nhau, và chúng có thể xung khắc nhau. Nên, cùng lúc, sẽ có nhiều loại liên hệ đồng minh, tùy theo thực tế và nhu cầu. Từ đây, điều quan trọng là nhận thức về các quyền lợi ấy ra sao để xác định các nội dung, h́nh thức của liên kết, màmấu chốt là xử trí tương quan giữa các liên hệ để xác định đâu là loại đồng minh có tính quyết định. Trừ thời kỳ đối lập toàn cầu giữa hai hệ thống xă hội, với sự thống lĩnh của quyền lợi chung về hệ tư tưởng, tựthân việc liên kết ngoại biên đă là và luôn là vấn đề về quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Nên ngay trong giai đoạn phân cực đó, ta cũng thấy nổi bật những trường hợp trái khoáy làm nên lịch sử:
Liên bang Xô Viết có thể gia nhập khối Đồng minh của kẻ thù không đội trời chung vềư thức hệ khi bị nước Đức phát-xít tấn công. Tương ứng, để bảo vệ không gian tựdo, phương Tây sẵn sàng là bạn chiến đấu của kẻ luôn muốn đào huyệt chôn ḿnh.
Sau cuộc chiến tàn khốc, ở châu Á, Nhật đă nhanh chóng xóa đi mối thâm thù để xác lập đồng minh với chủ nhân hai quả bom nguyên tử ném xuống đất nước ḿnh, bởi quốc gia ấy không những trợ giúp kiến thiết hậu chiến mà c̣n bảo đảm cho họtrước mọi đe dọa quân sự.
C̣n Trung Hoa xă hội chủ nghĩa, đầu những năm 1970, đă đến với phương Tây như mộtđồng minh chính trị quyết định để chống lại Liên Xô, đồng thời cũng là đối tác hiệu năng cho nền kinh tế ọp ẹp của ḿnh. Và cùng lúc, Hoa Kỳ phớt lờ quan hệ đồng minh thể chế với Đài Loan để chọn Hoa Lục làm “đối tác chiến lược toàn diện”.
Thếnhưng ḥn đảo ấy không v́ sự “phản bội” này mà măi “tổn thương”, măi “dự pḥng”điều tương tự và cự tuyệt liên kết để khiến ḿnh có thể cô độc. Họ không v́ sựthay đổi nhất định của đồng minh trước t́nh thế chiến lược mới, không v́ sựtương đồng văn hóa, lịch sử với Trung Quốc để bám lấy những cái chung thiếu thực chất so với nền tự do và ư tưởng độc lập mà họ theo đuổi. Từ khi Hoa Kỳhậu thuẫn Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa giữ ghế tại Liên Hiệp quốc (1971) thay Trung Hoa Dân quốc, cùng với việc tăng cường nội lực từ nền kinh tế tự do và hoàn thiện nền chính trị dân chủ, Đài tiếp tục giữ vững thế liên minh vốn có.Điều đó đă giúp họ hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự, là một trong bốn con rồng châu Á, và sớm trở thành thế lực hải quân trong vùng.
Những ví dụ gần gũi trên cho thấy cách xử trí kinh điển về đồng minh, bao gồm cả yếu tố “đồng chí” ở mỗi bên. Họ không lấy hệ tư tưởng làm tâm điểm, mà là t́nh thế và vị thế. Họ không lấy “anh em” hay “láng giềng” làm chuẩn, mà là quyền lợi thiết thực và sự bảo an. Họ không “ghi vào tâm khảm” một sự biến lịch sử để co thủ, mà nhanh chóng thích ứng với hiện thực để bảo đảm hữu hiệu cho ḿnh.
Trong khi đó, ở Việt Nam, sự cố bị bỏ rơi và nỗi e ngại quyền lợi riêng của đồng minh cứ ám thị không ít người. Gần đây, từ khi Hoa Kỳ xoay trục, nỗi ám ảnh đó lạiđược bổ sung bằng việc cho rằng chúng ta là bên thứ ba của cuộc chơi nước lớn, phải tránh bị lôi kéo để không trở thành nạn nhân.
3. Xác lập vị thế bên thứ ba bằng mong muốn hay thực tế?
Ư kiến cho rằng Việt Nam là bên thứ ba xuất phát từ tầm toàn cầu của vấn đề, là cuộcđua ngôi vị bá chủ giữa Hoa Kỳ và Hoa Lục. Xét về quyền lợi của riêng họ trong vị thế đó, đúng là Việt Nam ở ngoài cuộc. Nhưng xét giữa ta với từng siêu cường, và giữa ta với tương quan chung, th́ không hẳn như vậy.
Với kết thúc của chiến tranh lạnh và do tương quan cụ thể với đồng minh, Hoa Kỳ đă rời khỏi Đông Nam Á qua việc đóng cửa căn cứ không quân Clark (1991) và căn cứ hải quân Subic (1992) ở Philippines. Nga cũng hành động tương tự ở Cam Ranh (1993)[1]. Cơmay b́nh yên của vùng dường như tiến triển thêm sau khi Tuyên bố về Ứng xửcủa các bên tại biển Nam Trung Hoa ra đời (2002).
Phần Việt Nam, sau khi rút khỏi Kampuchea (1989), đă b́nh thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991) và Hoa Kỳ (1995), gia nhập ASEAN (1995), củng cố nền ḥa b́nh qua Hiệp ước Biên giới trên đất liền (1999), Hiệp định Phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định Hợp tác Nghề cá (2000) kư với Trung Quốc. Nhưng chính từ khi hai hiệpđịnh sau có hiệu lực (2004), Hoa Lục khởi sự lối hành xử ngang tàng trên biển.
Ngày 08/01/2005, cảnh sát biển Trung Quốc xả súng vào tàu của ngư dân Thanh Hóa tại vùng đánh cá chung. Chín người chết, bảy người bị thương cùng tám người khác bịbắt về Hải Nam, mà theo họ, là kết quả từ hành động “ăn cướp có vũ trang nghiêm trọng trên biển” của ba tàu Việt Nam. Sự việc đă mở ra thời kỳ mới giữa hai nước: tranh chấp trên biển thay cho trên bộ.
Năm 2008, trong cuộc gặp vào những tháng đầu năm với Tư lệnh vùng Thái B́nh Dương của Hoa Kỳ, Đô đốc Timothy Keating, giới chức tương nhiệm Hoa Lục đă bán chính thức đề nghị hai nước cùng chia đôi Thái B́nh Dương[2].
Đến tháng Ba 2009, cục diện bắt đầu thay đổi từ sau vụ đối đầu Impeccable.
Tháng Năm 2009, Hoa Lục chính thức hóa trước thế giới về lănh hải đường chín đoạn, bằng bản đồ đệ tŕnh cho Liên hiệp quốc.
Tháng Ba 2010, Trung Quốc thông báo với Hoa Kỳ, xem “Nam Hải” là lợi ích cốt lơi. Đáp lại, tháng Bảy 2010, Ngoại trưởng Hillary Clinton loan báo tại Đối thoại Sangri-La, xem ḥa b́nh, ổn định và tự do đi lại ở Biển Đông là lợi ích quốc gia.
Năm sau, trong vùng biển Việt Nam, tàu Trung Quốc cắt cáp tàu B́nh Minh 02 (26/05/2011) và tàu Viking II (09/06/2011).
Tháng Tám 2011, Trợ lư Ngoại trưởng Kurt Campbell nói Hoa Kỳ cần chuyển hướng, từ các thách thức ngắn hạn ở Trung Đông sang các quan ngại lâu dài ở châu Á – Thái B́nh Dương. Đến ngày 11/10/2011, Hillary Cliton công bố bài viết Thế kỷ Thái B́nh Dương của Hoa Kỳ (America’s Pacific Century).
Tháng Mười một 2011, Tổng thống Barak Obama khẳng định châu Á – Thái B́nh Dương là ưu tiên hàng đầu trong chính sách an ninh, cùng lúc với thỏa thuận triển khai 2.500 quân tại căn cứ Darwin, Australia.
Tháng Một 2012, Mỹ công bố chiến lược quốc pḥng mới, giảm chi tiêu và chuyển hướng sang châu Á.
Tháng Sáu 2012, Việt Nam thông qua Luật Biển. Trung Quốc đáp lại bằng việc ồ ạt thực hiện các chương tŕnh phát triển Tam Sa. Trước căng thẳng đó, tháng Bảy cùng năm, ASEAN bắt đầu “chính thức hóa” sự chia rẽ khi lần đầu tiên, hội nghị ngoại trưởng của khối không ra được tuyên bố chung do không thống nhất về vấn đề BiểnĐông.
Trung tuần tháng Mười một 2012, Đại hội XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định xây dựng một cường quốc biển. Ngày 30/11/2012, tàu B́nh Minh 02 lại bị tàu Trung Quốc cắt cáp.
Tháng Một 2013, Tổng thống Obama kư đạo luật chi tiêu quốc pḥng của năm, có điều khoản thể hiện việc Hoa Kỳ từ bỏ lập trường trung lập trong tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư tại Đông Bắc Á.
Ngày 22/01/2013, Philippines loan báo kiện Trung Quốc ra Trọng tài Liên hiệp quốc vềtranh chấp biển. Trước đó, tháng Sáu 2012, băi cạn Scarborough rơi vào tay nước lớn sau khi Philippines lỡ “mềm dẻo” mà tin vào kiểu đàm phán để áp đặt một chiều của Trung Quốc, tin vào lời hứa cùng rút lực lượng hai bên khỏi băi, vốnđă căng thẳng từ khi họ đưa tàu vào hồi tháng Tư. Tháng Năm 2013, tiếp tục trả đũa vụ kiện, Trung Quốc đưa tàu chiến và hải giám vào băi Second Thomas, nhưng chiếm đoạt bất thành.
Đầu tháng Sáu 2013, tại Đối thoại Shangri-La, Bộ trưởng Quốc pḥng Chuck Hagel loan báo chuyển sáu mươi phần trăm lực lượng hải quân và không quân về khu vực Thái B́nh Dương. Hoa Kỳ căn bản hoàn chỉnh kế hoạch xoay trục.
Ngày 22/11/2013, Trung Quốc tuyên bố vùng nhận dạng pḥng không trên biển Hoa Đông. Bốn ngày sau, Hoa Kỳ điều hai máy bay B52 xâm nhập vào đó.
Hạ tuần tháng Tư 2014, vài giờ trước khi Tổng thống Obama đặt chân đến Philippines (sau chặng dừng chân tại Nhật, Nam Hàn và Malaysia), quan chức Mỹ – Phi kư thỏa thuận an ninh mới, cho phép Mỹ sử dụng một số căn cứ quân sự hướng ra BiểnĐông.
Obama vừa rời khỏi châu Á, với các vị trí liên minh tối thiểu dọc biển Hoa Đông và Biển Đông đă chính thức hóa (Nhật – Phi – Úc) mà không có một quốc gia chủ yếu trong tranh chấp, sự vụ giàn khoan 981 xảy đến cho chính nước đó.
Tiến tŕnh trên cho thấy Hoa Kỳ không phải là người khơi mào cuộc đấu hiện nay ởchâu Á – Thái B́nh Dương. Ngoài điểm nóng Bắc Hàn và trách nhiệm với nước Nhật chịu sự giải giáp, họ đă triệt thoát khỏi Đông Nam Á. Nếu không v́ thách thức mới, không hẳn họ lại muốn tốn hao nguồn lực cho nó khi đă hao ṃn bởi sự can thiệp vào Afghanistan và Iraq, bởi cuộc chiến chống khủng bố, và đặc biệt, khiđịa vị kinh tế đă không c̣n như trước. Họ như một thế lực bên ngoài phảitrở thành người trong cuộc, mà mục đích can dự là để duy tŕ trật tự thế giớiđă có.
C̣n Việt Nam, trong các xung đột liên quốc gia có tầm khu vực suốt mấy mươi năm qua, đă và vẫn là một bên chủ yếu. Chúng ta là người trong cuộc tại chỗ,có quyền lợi trực tiếp trong tranh chấp, có mục tiêu đa dạng, cụ thểvà thiết thân hơn các thế lực bên ngoài. Chủ quyền bị đe dọa, tài nguyên bị xâm phạm, môi trường sinh sống ngàn đời của người dân ven biển bị thu hẹp đáng kể…, liệu ta có thể trở thành “bên thứ ba” để một “bên thứ hai” khácđối diện mà xử trí?
Trừ khi không xem quốc gia-dân tộc là tiên quyết mà vẫn cho rằng Trung Quốc thắng thếsẽ giúp chủ nghĩa xă hội vững mạnh, th́ ở tầm toàn cầu, ai lănh đạo thế giới chăng nữa, Việt Nam cũng không liên can. V́ dù Hoa Kỳ hay Hoa Lục, với thực tếlịch sử đă trải qua, người Việt biết rằng nước nhỏ cần uyển chuyển trước nước lớn để bảo đảm cho môi trường phát triển của ḿnh.
Thếnhưng, sẽ có sự khác biệt hết sức lớn đối với Việt Nam khi một trong hai quốc gia này chi phối trật tự thế giới. Phần Hoa Kỳ, với cựu thù, họ không đối nghịch về lănh thổ hay chủ quyền biển. Phần Trung Hoa, với người bạn hữu hảo, ngoài vấn đề lănh thổ trên bộ đă im ắng, nay họ đang manh tâm cướp đoạt biểnđảo. Trừ khi từ bỏ ư đồ thống lĩnh hoặc chiếm lĩnh xa bờ, nhà Hán của thế kỷXXI sẽ không bao giờ ngừng việc khuất phục đồng chí phương Nam, như là điều kiện tiên quyết để thực hiện chiến lược biển của ḿnh. Như vậy, ngay từ những bước đầu tiên của cuộc tranh đua hải dương, biểu hiện quan trọng nhất của tranhđua toàn cầu Mỹ – Trung, liệu ta có thể là kẻ vô can không?
Nếu chặt khúc toàn cục để lấy cái ngọn, tức sự cạnh tranh ngôi vị toàn cầu, th́ chúng ta là người bên ngoài. Nhưng khi xét trong tiến tŕnh tổng thể, từ điểm xuất phát, th́ rơ ràng ta đứng bên trong. Thậm chí, cho dù chỉ xét cái kết cục tận cùng, giả định rằng Hoa Lục sẽ bá chủ, th́ trên con đường đi đến đó, chủquyền của Việt Nam đă bị họ bước qua để đi tiếp. Và tại thời điểm lên ngôi của họ, Việt Nam hoặc phải tự tay dâng lấy toàn bộ biển đảo và độc lập của ḿnh, chịu sự đồng hóa, hoặc phải đối diện với những “trừng phạt” trực tiếp và tàn khốc.
Nhưng dù chưa tính đến viễn cảnh đó, th́ với tương quan Việt – Trung trong bối cảnh hải dương khu vực và thế giới, có đưa yếu tố Mỹ vào hay không cũng không thayđổi được thực tế là Việt Nam đương nhiên ở vào thế đối nghịch với Trung Quốc, trừ khi nước nhỏ có ư tưởng phục tùng.
Với tương quan Mỹ – Trung, trong cuộc đấu ngôi vị thế giới, có đưa yếu tố Việt vào hay không cũng thay đổi được thực tế là phương Nam nằm trong số những đối tượng chính yếu mà phương Bắc phải khuất phục để xác quyết vị thế toàn cầu mới.
Nhưthế, giống như trường hợp vai tṛ đúng của nội lực bị viện dẫn sai trong tương quan với ngoại lực, ư kiến về bên thứ ba xuất phát từ sự thật cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung để kết luận “giả tưởng” rằng chúng ta chỉ là người bên ngoài.
4. Các bên thứ ba tương tự giúp ǵ được cho bên thứ ba Việt Nam?
Sau khi Việt Nam và Indonesia nối tiếp nhau giữ ghế chủ tịch khối Đông Nam Á, Hoa Kỳbắt đầu có những bước đi cụ thể nhằm chuyển hướng quân sự. Từ thời điểm đó, không hẹn mà gặp, các nước có chung nền “văn minh lúa nước” bèn quay về lo cho mảnh ruộng, ao làng b́nh yên của ḿnh, thay v́ cho biển lớn đang dậy sóng.
Kampuchea công khai ủng hộ Trung Quốc trong tranh chấp.
Lào chăm chút cho các đập thủy điện trên ḍng Mekong, vốn có thể gây hại lớn nhất cho đồng minh truyền thống của ḿnh.
Malaysia nay ḥa hoăn hơn nhiều, thậm chí c̣n thẳng thừng “Kẻ thù của quư vị không có nghĩa là kẻ thù của chúng tôi”,trong khi trước đó c̣n kêu gọi ASEAN đoàn kết trong tranh chấp.
Singapore luôn kêu gọi Mỹ quay lại vùng nhưng tự ḿnh không đóng vai tṛ tích cực hơn trong khối, thậm chí khó chịu với Philippines khi nước này kiện Trung Quốc ra toàn quốc tế.
Thailand và Myanmar không cần lo toan với vị trí cách xa Biển Đông. Brunei không phải toan tính với một mẩu biển lọt giữa Malaysia.
Indonesia là quốc gia biển không có mặt trong tranh chấp và giữ thế lớn nhất trong tiểu vùng, th́ cần giữ thái độ không nghiêng về ai để c̣n làm trung gian giữa các bên.
Việt Nam, dù là một bên tranh chấp chính nhưng luôn kiên tŕ con đường riêng với bên kia.
C̣n lại mỗi Philippines, không từ bỏ giải pháp chính trị nhưng tiến hành đồng thời cảbiện pháp pháp lư lẫn xúc tiến liên minh quân sự.
Trước sự tích cực hơn của Mỹ, thay v́ tiếp tục giữ thế tiến công ngoại giao trong hai năm 2010 và 2011 để hợp lực, hầu hết các nước ASEAN dường như đều “nhận ra” chỗ đứng bên ngoài của ḿnh trong bàn cờ chiến lược Mỹ – Trung. Nhưng cách nghĩ đó là tiếp cận rất tai hại cho ASEAN, cho các nước trong tranh chấp Biển Đông và cho Việt Nam.
Việt Nam thấy rằng ḿnh là bên thứ ba, muốn đứng ngoài những ǵ được cho là không liên quan đến lợi ích của ḿnh, sao trách được Kampuchea khi họ hoàn toàn là người ngoài cuộc trong tranh chấp Việt – Trung, sao trách được họ đă chọn lấy nước lớn, v́ với bên thứ ba, hà cớ ǵ phải chọn bên yếu hơn để ḿnh mất đi lợi ích mà c̣n rước họa vào thân?
Việt Nam xem ḿnh là bên thứ ba, sao tránh được Singapore, Malaysia, Indonesia sẽ là người ngoài cuộc khi mà tranh chấp ở bắc và trung phần Biển Đông là của người khác, c̣n ḿnh đă ở vị trí luôn được đồng minh bảo đảm an ninh, nhờ tuyến lưu thông qua các eo Malacca, Sunda và Lombok.
Các nước ASEAN khác cũng có quyền lợi riêng tương tự, tùy vị thế của họ, mà với tưcách bên thứ ba, Việt Nam không thể trông mong nhiều.
Trong khi hối thúc Mỹ nhập cuộc th́ trừ Philippines, các nước ASEAN, kể cả Việt Nam, lại từng bước biến ḿnh thành người ngoài cuộc trước bối cảnh của khu vực và của chính ḿnh, bằng những động thái thiếu thực chất. Trước vai tṛ không thểné tránh của cường quốc, họ nuôi hy vọng chuyển gánh nặng sang Hoa Kỳ, c̣n ḿnh trở thành bên thứ ba, đi dây để hưởng lợi.
Nhưng, không giống các nước trong khu vực, Việt Nam vừa rất khác về quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ, vừa sử dụng một chiến lược chú trọng chiều rộng ngoại giao, thiếu chiều sâu chính trị và quân sự trong tương quan với bên ngoài, nên khó mà hưởng lợi tương tự như họ.
Đối với Mỹ, nếu Việt Nam cho rằng ḿnh đứng ngoài chuyển biến chiến lược chung, và cũng muốn họ thuần túy là bên thứ ba trong vấn đề giữa Việt Nam và Trung Quốc để giữsự ḥa hiếu với phương Bắc, th́ Hoa Kỳ sao phải cố xem ḿnh như người trong cuộc? Và theo đó, họ đương nhiên chỉ cần can dự một cách tối thiểu về ngoại giao v́ cho dù trên toàn cục, nhắm đến tự do hàng hải và kiềm chế đối thủ, th́ với những tranh chấp cục bộ mà ḿnh không có liên hệ đồng minh, họ cũng phải giữ sự ḥa hoăn cho riêng ḿnh khi c̣n có thể.
Thếgiới ngày nay đầy những ràng buộc, và chúng đều tác động đến quyền lợi và an ninh của từng quốc gia liên quan, tùy theo mức độ liên hệ. Nên dù có cố dựa vào cái lợi ích và an ninh chung để thủ lợi cho ḿnh, th́ cũng sẽ chẳng ai hy sinh quyền lợi và an ninh của họ để nhập cuộc nếu bản thân người trong cuộc mà c̣n không dám vào cuộc.
Cái nhận thức kiểu trục lợi của nhiều nước ASEAN và Việt Nam là một vấn đề có hai khía cạnh. Một mặt, họ muốn biến nhân tố bên ngoài thành nhân tố bên trong nhưng lại chuyển nhân tố bên trong thành nhân tố bên ngoài. Điều đó hoàn toàn bất khả, v́ vị thế trong hay ngoài, ngoài thế và lực, c̣n gắn liền với vịtrí của mỗi đối tượng: cái có vị trí bên ngoài có thể mang vị thế bên trong, nhưng cái tại chỗ không thể dời khỏi vị trí ấy để thành cái bên ngoài. Mặt khác, dù muốn người ngoài cuộc giữ vị thế trong cuộc nhưng họ lại muốn kẻ đấy đứng ở bên ngoài chứ không có vị trí tại chỗ. Mà vị trí ấy, ngoài sựhiện diện về chính trị, kinh tế, c̣n phải đứng chân quân sự tại khu vực, tức có sự liên minh cơ hữu và hiện diện thường trực hay bán thường trực của đồng minh.
Nhưvậy, cũng giống trường hợp nội lực và ngoại lực, quan niệm rạch ṛi về bên thứba nhằm tách khỏi thời cuộc mà ḿnh vốn dĩ đă ít nhiều liên đới, là không thấy được sự hàm chứa vị trí của nhau giữa các bên trong từng quan hệ và tổng thể quan hệ, không thấy sự chuyển hóa giữa trong và ngoài, tại chỗ và từ xa, bên này và bên kia, để hợp lực và củng cố vị thế cho chính ḿnh và cho các bên có cùng lợi ích.
Quan niệm đó không những làm giảm hiệu năng đương cự của cả các chủ thể trong khu vực lẫn từ bên ngoài, vừa có thể được vận dụng để thúc đẩy chủ trương song phương mà phương Bắc kiên tŕ với từng nước nhỏ phía nam.
V́ quyền lợi, các nước ít nhiều liên quan đều t́m cách xác lập vị trí bên thứ ba, xem như cách để bảo toàn và thăng tiến nó. Nhưng kỳ thực, vai tṛ ngoài cuộc ảođó lại là yếu tố phá hoại chính quyền lợi mà họ muốn bảo vệ.
Nhưng dù sao, đến đây, lại liên quan đến quyền lợi, hẳn có người vẫn chưa dứt được boăn khoăn về nó trong quan hệ đồng minh.
5. Quyền lợi trong quan hệ đồng minh ra sao? (2)
Quyền lợi của mỗi quốc gia và liên quốc gia không phải là cái bất biến và phi thời gian. Tùy theo giai đoạn lịch sử, bối cảnh địa-chính trịvà vị thế của mỗi nước mà các quyền lợi ấy sẽ biến chuyển. Do vậy, đồng minh là quan hệ luôn tồn tại cùng lịch sử loài người, nhưng các quan hệ đồng minh cụthể lại là cái luôn thay đổi, dù ít hay nhiều, dù mau hay chậm, tạo nên sự đa dạng của loại liên hệ này.
Xem quyền lợi của ḿnh nằm ngoài tổng thể quyền lợi chung của đồng minh (đă định h́nh hay tiềm tàng) đă là sai lầm. Lấy quyền lợi ấy làm cái bất di bất dịch mà các quốc gia đồng minh phải đáp ứng đầy đủ và dưới mọi hoàn cảnh, th́ càng sai lầm hơn. Bởi, vấn đề không phải ở việc cố định một lần về quyền lợi vàđồng minh, mà là ḥa hợp các quyền lợi đó trong thế linh hoạt của ḿnh trước các t́nh thế chiến lược ở mỗi thời đoạn lịch sử, để phục vụ cho một quyền lợi tối thượng, là sự tồn vong của dân tộc.
Các trường hợp trong thế chiến thứ II, trường hợp Trung Quốc trong tương quan với Liên Xô và Mỹ, trường hợp Đài Loan trong quan hệ với Hoa Lục và Hoa Kỳ, chính là sự ḥa hợp và linh hoạt đó. Các trường hợp gần gũi khác cũng vậy.
Ở thếkỷ trước, trong bối cảnh “bóng ma cộng sản” đang lan tràn, các nước Đông Nam Áđă lập tức liên kết với nhau và liên minh chặt chẽ với Hoa Kỳ để ngăn chặn. Đến khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc, họ lại công khai hất cẳng Mỹ khỏi khu vực. Thậm chí, khi nổi lên bốn con rồng châu Á, trên khắp Đông Nam và Đông Bắc Á đă xuất hiện tâm lư bài phương Tây, đề cao các giá trị châu Á với xu hướng gắn kết với Trung Hoa.
Cùng thời kỳ, ngay cả đối với nước Nhật, cũng đă có ư kiến cho rằng sẽ h́nh thành một khối liên kết với Trung Quốc để đối trọng với Mỹ và châu Âu. Trên thực tế,đă có những xê dịch đầu tiên cho điều ấy khi quốc gia Tây phương Đông Bắc Á này khởi động tiến tŕnh thoát khỏi các căn cứ quân sự Mỹ, mà cho đến chính phủtiền nhiệm của Shinzo Abe vẫn c̣n loay hoay toan tính.
Ấy thếmà, vào lúc này, Singapore, quốc gia Đông Nam Á từng ồn ào nhất về giá trị của châu lục và hô hào nhiều nhất cho một tiểu vùng không có Mỹ, lại là nước sớm nhất và không ngớt lời, không nhỏ lời kêu gọi “đế quốc” quay lại, đồng thời chấp nhận những đợt lưu trú không thường xuyên và bán chính thức của lực lượng Hoa Kỳ, để ngăn ngừa từ xa và từ sớm người bạn ít nhiều cùng chủng tộc và mới ngày nào c̣n cùng chung giá trị.
Phải chăng họ kêu gọi Hoa Kỳ quay lại mà không biết rằng sẽ có những tác động chính trị, xă hội cho đất nước ḿnh? Phải chăng Nước Mỹ quay lại mà không biết rằng họ đă từng hất ḿnh đi khi xong việc?
Rồi thêm, giới nắm quyền ở Phnom Penh hiện nay quay lưng lại đồng minh mà họ hàm ơn việc thoát khỏi nạn diệt chủng, để đi với đồng minh mới – vốn là kẻ đầu tṛ từng đẩy đất nước vào cảnh gần như diệt vong – chẳng phải là kẻ xa lạ hay các thế hệ sau, mà cũng chính là những con người của cuối thập niên 1970 nặng t́nh với Việt Nam.
Xung quanh là thế. Chỉ có Việt Nam, đứng trước kẻ đe dọa “trực tiếp và nguy hiểm nhất” đối với chủ quyền biển, trong t́nh thế cấp bách, là cứ măi tính toán cho trọn vẹn, tṛn trịa mọi thứ quyền lợi, kể cả những cái hoàn toàn nằm ngoài phạm trù quốc gia-dân tộc.
Khi đặt quyền lợi trong quan hệ đồng minh, mấu chốt không phải là tiêu chí về một sựbảo đảm hoàn hảo cho nó suốt cả quá khứ, hiện tại, tương lai, và bất biến trong mọi t́nh huống, là điều chỉ có trong bối cảnh tương tự như điều kiện lư tưởng của môi trường thực nghiệm khoa học tự nhiên; mà cốt yếu là quyền lợi đó nhưthế nào và được xét ra sao, trong từng bối cảnh lịch sử-cụ thể. Theo đó, có hai vấn đề cần giải quyết:
- Đâu là quyền lợi quyết định trong số những quyền lợi có chung với các bên tương tác, để từ đó xác định đồng minh: có xác lập đồng minh hay không và những đồng minh nào là khả dĩ, loại đồng minh nào đi với đối tác nào…
- Theo diễn biến lịch sử và chiến lược, quyền lợi riêng và quyền lợi chung sẽ biến chuyển như thế nào, từ đó mà thẩm định (các) liên hệ đồng minh đă có và hướng xử trí tiếp theo: tách đồng minh cũ, tạo đồng minh mới (hoặc không), hay thay đổi nội dung, h́nh thức của liên kết đă có và sẽ có.
Nhưvậy, ở tầm chiến lược, đối diện với bất kỳ quốc gia nào cũng không thể nhận thức quan hệ đối tác hay đồng minh bằng câu chữ tuyên truyền hoặc khái niệm đạođức[3]. Cũng không phải tạo lập đồng minh là thụ động, để đồng minh quyết định thu nhận và sắp đặt quan hệ cho ḿnh, càng không phải là dựa dẫm một chiều để phải nơm nớp lo đến ngày ḿnh sẽ bị bỏ rơi hay bỏ rơi người khác. Ngược lại, chính ḿnh phải chủ động xác lập và điều chỉnh các quan hệ đối tác vàđồng minh trên cơ sở tương thích quyền lợi và điều kiện lịch sử.Do sự tương thích và điều kiện đó, nên đồng thời, liên hệ đồng minh cũng không phải là cái chủ quan, muốn có hay muốn không mà được, không phải là cái muốnđeo bám th́ đeo, muốn bỏ rơi th́ bỏ.
Mộtđồng minh trên cơ sở địa lư hay dân tộc, thể chế hay quân sự, một khi đă không muốn giữ tương tác như giữa các đối tác b́nh đẳng, mà chuyển thành quan hệ giữa người khuất phục và kẻ bị khuất phục, th́ phía yếu hơn chỉ có một con đường đểtránh họa nô lệ, là từ vị thế của ḿnh mà xác lập các quan hệ ngoại biên khác nhằm đương cự lại, chứ không thể viện dẫn t́nh nghĩa quá khứ hay chính nghĩa cao đẹp mà giữ được độc lập và chủ quyền. Lịch sử các dân tộc không hề thiếu dẫn chứng về sự xoay chuyển này.
Đồng thời, một bên của liên minh cơ hữu hay đồng minh giá trị, khi vẫn có chung quyền lợi, chung các giá trị thực chất, và vẫn giữ vị thế mà tương tác chung cần đến, th́ đối tác của nó, dù lớn mạnh hơn cũng không thể rời bỏ. Trở lại các ví dụ gần gũi, ta sẽ thấy.
So với tiềm năng khổng lồ của Hoa Lục, Đài Loan không là ǵ, vậy sao Hoa Kỳ không buông hẳn để đổi lấy niềm tin chiến lược của đối tác lớn về sự chân thành đối với chính sách một nước Trung Hoa? Vào năm 1979, khi căng thẳng chiến tranh lạnh lên cao do sự can dự của Liên Xô vào nội t́nh Afghanistan, trong hoàn cảnh cần định h́nh một mặt trận thống nhất giữa Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản và Trung Quốc để chống lại, nước Mỹ vẫn đi trước một bước để giữ vững cam kết đồng minh với Đài Loan. Tháng Tư 1979, Đạo luật Quan hệ với Đài Loan (Taiwan Relations Act) có hiệu lực, nh́n nhận quan hệ thực tế với Đài cùng với các điều khoản nhằm giúp nơi này tăng cường năng lực tự vệ, đồng thời cho phép can thiệp quân sự nếu ḥn đảo bị tấn công.
So quan hệ tay ba Mỹ – Trung – Nhật trên b́nh diện chung hay trong tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư, cũng tương tự như thế.
Cái mà Hoa Kỳ không thể buông rơi quan hệ đồng minh với Đài Loan và Nhật Bản không phải chỉ là vị trí địa lư của họ. Nh́n sang Myanmar để so th́ điều đấy quá rơ. Nước này có vị trí quan trọng với cả Trung Quốc, Ấn Độ và Hoa Kỳ, lẫn với các nước Đông Nam Á giáp giới, nhưng không v́ thế mà Mỹ muốn có họ bằng mọi giá. Chỉ sau khi Naypyidaw có những bước đi vững chắc từ bỏ nền độc tài quân sự, quan hệ thân thiện hơn mới được xác lập.
Từ đó có thể thấy, dù là nước nhỏ và yếu hơn trong quan hệ đồng minh hay trong thếtrận chiến lược, th́ vấn đề là ở chỗ nước đó như thế nào và có ǵ để đồng minh hay đối tác phải giữ lấy, chứ không phải chỉ t́m kiếm sự an toàn (đối với mối đe dọa và với nguy cơ bị bỏ rơi) bằng cách cho rằng ḿnh có thể nằm ngoài quan hệ và thế trận ấy mà “khai thác” nó cho lợi ích riêng.
6. Tránh né quan hệ đồng minh, được ǵ?
Dù không muốn tạo quan hệ đồng minh, có đúng là Hà Nội chủ trương “trung lập” bằng chính sách “ba không”?
Không kể lịch sử từ năm 1954 đến khi khối xă hội chủ nghĩa Đông Âu tan ră, không kểHội nghị Thành Đô năm 1990 mở ra một giai đoạn đồng minh mới với phương Bắc, Việt Nam hiện nay cũng chưa bao giờ ngừng theo đuổi chính sách liên kết, ngấm ngầm và có chọn lọc.
Trướcđe dọa ẩn tàng về một vùng biển bị xâu xé khi các thế lực dồn về Biển Đông đểngăn chặn Trung Quốc, Hà Nội đă chủ động, đi trước, nhằm xoay chuyển chính t́nh thế đó theo hướng có lợi. Đồng thời với việc đẩy mạnh giao lưu với hải quân các nước tại các hải cảng của ḿnh, Việt Nam cũng tăng cường chia sẻ nguồn lực biển với các quốc gia thân hữu để họ hiện diện tại Biển Đông. Đây là đối sách sáng tạo và đúng đắn, chỉ có điều, với mặt thứ nhất, đó chỉ là những liên hệ phi quân sự và thuần túy về chiều rộng; với mặt thứ hai, đă nhầm lẫn đối tượng đểhướng đến, bởi vẫn đứng trên sự lựa chọn cảm tính.
Trọng tâm đầu tiên của Hà Nội là New Delhi, vốn là người bạn luôn dành ủng hộ cho Việt Nam trong thời chiến cũng như thời b́nh, và cũng là một bên xung khắc trên bộ với Trung Quốc, nay lại bị đe dọa lấn sân ở Ấn Độ Dương. Trong tương lai, việc Ấn Độ khai triển đối ứng tại vùng biển phía nam của Hoa Lục là khả dĩ. Và chính Việt Nam đă thúc đẩy điều đó bằng việc liên tục đưa ra các đề nghị thăm ḍ, khai thác dầu khí. Hà Nội muốn đặt quyền lợi kinh tế vào tay New Delhi đểhọ phải bảo vệ nó, qua đó mà can dự sâu hơn vào vùng biển này. Xa hơn một bước, Việt Nam đă mời hải quânẤn “ướm chân” tại vịnh Nha Trang[4], nơi mà cho đến gần đây, không một tàu quân sự của quốc gia nào khác được tiếp cận[5].
Dù vậy, ngoài những tuyên bố mang tính ngoại giao như các đối tác khác về tự do hàng hải và an ninh khu vực, phía Ấn cũng công khai rơ về giới hạn vai tṛ của ḿnh. Tại Hội nghị Cấp cao kỷ niệm 20 năm Quan hệ Đối thoại ASEAN – Ấn Độ ở New Delhi (20-21/12/2012), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi nước chủ nhà hậu thuẫn ASEAN trong vấn đề Biển Đông, nhưng Ngoại trưởng Ấn Salman Khurshid lại cho rằng chủ quyền phải được giải quyết giữa các nước tranh chấp. Trước đó, trong cuộc họp báo vào tháng Tám 2012, Tư lệnh hải quân Ấn, Đô đốc Nirmal Verma cho biết, dù có sự tái cân bằng chiến lược của Hoa Kỳ cùng với việc Trung Quốc tăng cường sức mạnh và quyếtđoán hơn trên biển, lợi ích hải dương của Ấn Độ vẫn ở khu vực từ eo Malacca đến Vùng Vịnh, kéo dài xuống mũi Hảo Vọng. Ông nói thêm, Ấn sẽ không tích cực triển khai quân sự ở Biển Đông, đồng thời cho rằng dù có tranh căi, các bên ở vùng biển này vẫn phải bảo đảm cho thông thương quốc tế.
Không phải New Delhi co thủ, mà là Hà Nội đă tính toán quá đà. Các nhà làm chiến lược của Việt Nam muốn “đi tắt đón đầu”, “đốt cháy giai đoạn” trong khi chưa phải lúc để Ấn Độ trực tiếp can thiệp ở vùng biển Đông Nam Á. Họ vẫn đang theo đúng“lịch tŕnh” hữu dụng, là trước mắt, cần tập trung cho khu vực vịnh Bengal và biển Andaman như là chiến lược hữu hiệu để chốt chặn mộtđầu Biển Đông, ở nơi vừa cách không xa Malacca, vừa trực diện với kênh Kra dựphóng. Đối sách này c̣n là sự phân bố lực lượng hợp lư khi mà ngoài 60 phần trăm hải quân Mỹ sẽ tập trung cho châu Á-Thái B́nh Dương, vùng biển Đông Bắc Á và Đông Nam Á lại có một trục liên hoàn Nhật – Phi – Úc, trong khi tại Ấn ĐộDương, ngoài lực lượng Mỹ có thể sẽ giảm bớt, chỉ có hải quân Ấn thường trực.
Đối với Nga, Việt Nam cũng có sai lầm tương tự. Con át chủ bài Cam Ranh luôn được bắn tin là rộng cửa mở cho Nga. Sau khi thông qua Luật Biển (21/06/2012) và t́nh h́nh căng thẳng quanh “Tam Sa”, trong chuyến thăm đồng minh khắng khít một thời (26-30/07/2012), Chủ tịch Trương Tấn Sang đă mở lời vềCam Ranh, cùng với khẳngđịnh thuận lợi của Tổng tham mưu trưởng Hải quân Nga. Tuy nhiên, Bộ Quốc pḥng Nga đă lập tức bác bỏ khả năng này.
Nga đă giữ im lặng trong lúc Biển Đông sôi động nhiều năm qua. Lần đầu lên tiếng của họ lại là quan điểm có lợi cho sự tự tung tự tác của Trung Quốc dưới chiêu bài quen thuộc của giới ủng hộ sự độc tài quốc gia và quốc tế: chống can thiệp. Khi t́nh h́nh Scarborough đang căng thẳng, ngày 20/05/2012, Đại sứ Nga tại Philippines, Nikolay Kudashev, nói rằng lập trường chính thức của nước ông là phản đối can thiệp của nước ngoài vào Biển Đông, v́ đó là chuyện nội bộ của các nước có tranh chấp mà cả Mỹvà Nga đều không liên quan. Lần thứ hai lên tiếng của họ là mới đây, sau khi Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Ấn Độ, Philippines… đều ít nhiều chỉ trích Trung Quốc trong vụ đưa giàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam, th́ duy nhất một lần vào ngày 16/05/2014, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga mới cất tiếng, thể hiện tháiđộ tuyệt đốiđứng ngoài, theo công thức ngắn gọn có sẵn, kêu gọi kiềm chế và hy vọng hai bên đàm phán ḥa b́nh.
Khách quan mà nói, về mặt chiến lược và lợi ích quốc gia, Nga không sai, mà là Việt Nam đă lượng định không đúng. Trong khi điều tiên quyết đối với Moscow trước khi có thể chuyển hướng, là củng cố và giành lại không gian hậu Xô Viết trong chừng mực có thể, th́ Hà Nội lại muốn họ quay về Đông Nam Á. Nước Nga thời Putin chỉtận dụng thế mạnh dầu khí và vũ khí nhằm lấy lại vị thế về kinh tế và chính trịphục vụ cho mục tiêu vừa nói. Họ hiện là thế lực duy nhất trên thế giới vừa là“lái dầu” vừa là “lái súng” tầm cỡ. Với họ, Việt Nam cũng chỉ là một bên hợp tác về dầu khí và là khách hàng lớn về vũ khí, như mọi đối tác loại này của họ,kể cả Trung Quốc. Nên với hai bên tranh chấp, họ có thể hữu nghị và nhận tiền mua bán từ cả hai, mà không thể nào “thiên vị” cho một bên. Đó là chưa kể,Trung Quốc là đối tác có vị thế và tiềm lực mà họ cần đến, nhiều hơn là điều tương tự có ở đối tác nhỏ hơn[6]. Vậy mà nước Việt đương thời vẫn măi lấy tiêu chí “thủy chung” để hy vọng vào một thế lực thân Việt Nam nhất hiện diện ở Biển Đông, vừa để kiềm chế Hoa Lục vừađể cân bằng với Hoa Kỳ[7].
Tất nhiên, về chiến thuật ngoại giao, Hà Nội nói rằng tàu của thân hữu vào Nha Trang hay Cam Ranh để thăm hữu nghị hay nhận dịch vụ hậu cần. Nhưng về toan tính chiến lược, khoảng cách giữa căn cứ sửa chữa quân sự và căn cứ quân sự chẳng có ǵ xa xôi, vấn đề chỉ là có đi đến nhất trí và đạt được thỏa thuận đằng sau những ngôn từ ngoại giao hay không. Với Ấn và Nga, lời đáp từ phía họ là không.
Việc nhắm đến Ấn và Nga không phải chỉ v́ những tương đồng dễ thấy, mà c̣n bởi đây là những thay thế sáng giá nhất cho Nhật và Mỹ, là những đối tác sẵn ḷng tạo thế liên minh hơn.
Đối với Nhật, truyền thống cương cường, sự hào phóng, nhanh nhạy, chủ động hỗ trợ nước nhỏ, cùng với vị trí địa lư rất thuận lợi khi cơ động vào vùng biển Đông Nam Á, chỉ thua Ấn ở mỗi nền quốc pḥng c̣n bị ràng buộc bởi một hiến pháp thuần pḥng vệ (mà thực tế đang tiến đến tháo gỡ), cũng không khiến Hà Nội đặt nặng hơn Ấn.
Khi so với Nga, Hoa Kỳ cũng tương tự vậy, trong khi đây là quốc gia duy nhất đủsức và sẵn sàng đối trọng, điều phối các liên hệ đa quốc nhắm vào các thách thức quốc tế. Họ đương nhiên không phải là đối tác duy nhất trong chiến lược kiềm chế tham vọng lănh thổ của Trung Quốc, nhưng là đối tác khảdụng nhất và quyết định nhất.
Lẩn tránh đồng minh khả thi để theo đuổi đồng minh bất khả thi là thực chất và đíchđến của chiến lược phi liên kết của Việt Nam.
Chối bỏquan hệ đồng minh trên lư thuyết nhưng thực tế lại huy động và trông chờ sự can dự rộng răi, cũng như vận động sự hiện diện có chọn lọc của các thế lực khác, là đối sách mà Hà Nội cho là hữu hiệu nhất. Nó vừa tránh công khai liên kết đểkhông kinh động đến Bắc Kinh, vừa bảo toàn được các quyền lợi “ư thức hệ”, vừa có được các liên hệ rộng cho sự ủng hộ ngoại giao, vừa tạo quan hệ thực chất với những đối tác đặc biệt riêng có để nhận sự hậu thuẫn chính trị và quân sự,vừa tranh thủ được thời gian để tăng cường thực lực.
Trong số đó, chỉ có mục tiêu về các quyền lợi phi quốc gia-dân tộc là đạt được. Ngoài ra, tất cả đều dừng lại ở mức chung chung (đối với bên ngoài) hoặc chưa thể đạt mức cần thiết (đối với thế và lực bên trong).
Mục tiêu kiềm chế Trung Quốc đă không đạt được, ngoài khoảng thời gian 2012-2013 có sự êm thắm tạm thời. Nhưng thật ra, đó cũng là hai năm mà Bắc Kinh triển khai thành công đối sách phân hóa ASEAN, và cũng thành công khi đẩy Hà Nội sâu vào thế tự tin, cả trong quan hệ với Trung Quốc[8] lẫn trong chính sách “phi liên kết”. Phần ḿnh, họ không ngây thơ tin vào chủtrương “trung ḥa” giữa các thế lực của Hà Nội.
Mục tiêu nhắm đến các quốc gia thân hữu đă không đạt được, ngoài sự lên tiếng hết sức chừng mực.
Mục tiêu đối với các đối tác chiến lược đủ loại khác cũng đă không đạt được, ngoài những tiếng nói ngoại giao đề cập đến khía cạnh có liên quan đến trật tự toàn cầu.
Kết quả:
- Đối với Việt Nam, khi vô sự là những giao dịch tiền bạc và ca tụng ngoại giao, khi hữu sự là sự cô độc về lực lượng và hành động.
- Các ngỏ quan trọng quanh ŕa đông nam biển Đông Nam Á đă được “đón lỏng”, từ sựquyết đoán trong thế liên minh của các quốc gia. Ngoài Nhật Bản ở ŕa cực bắc, quay mặt vào Biển Đông và dễ tiếp cận Hoàng Sa, Trường Sa là chuỗi các căn cứhải quân và không quân tại Philippines, nay đă được trao quyền sử dụng cho Hoa Kỳ. Cực nam là các cơ sở quân sự tại Úc, đất nước đang ngày càng ra mặt ủng hộ đồng minh. Tây nam là eo Malacca mà cả Hoa Kỳ và Ấn Độ đều không bao giờ sao nhăng. Cực tây là chuỗi căn cứ của Ấn tại hai quần đảo Andaman và Nicobar.
- Không kể phần dọc theo Trung Quốc, ŕa tây Biển Đông, đồng thời cũng là mạn đông kéo dài suốt Việt Nam, là vùng duy nhất hở sườn, mà Hải Dương 981 và Nam Hải 9 đang giúp phô bày.
- Mối liên kết đa quốc ở ŕa đông nam Biển Đông vừa đủ khả năng tập hợp thêm lực lượng mà cũng đủ sức bảo vệ sự thông thương, khi cần. Sự phi liên kết ở ŕa tây th́ đang trực diện với nguy cơ bị cướp đoạt tài nguyên và ngư trường, mà chính quyền sở tại không thể bảo đảm điều tối thiểu là sự an toàn sinh kế của người dân nước ḿnh.
Rơ ràng, trong đối sách với phương Bắc, thực tế đă hiển hiện: chần chừ chỉ có chết.
7. Chần chừ chỉ có chết: lời kết không cần đặt dấu hỏi
Tất nhiên, tới đây, Việt Nam vẫn cần thực hiện các đối sách một cách khôn khéo, nhưng điều đó không thể theo lối cũ được nữa.
Trong những ngày này, Hà Nội đă nhanh chóng thể hiện chiều hướng liên kết với Manila, cũng như có động thái mới với Washington. Nhưng định hướng ấy cần tiếp tục đi vào chiều sâu và thực tế, chứ không thể dừng lại ở mức dùng quan hệ với Hoa Kỳvà các quốc gia có thể liên minh khác như một phương tiện để giữ lấy quan hệ đồng chí với Hoa Lục.
Với nước lớn, không bao giờ muộn khi có thêm đồng minh. Nhưng với nước nhỏ, sẽ quá muộn khi các ưu thế tuột vào tay người khác, trong khi nó có thể đă là thế và lực mới của ḿnh nếu không chần chừ.
Thờiđiểm mà Hà Nội không c̣n thể đi dây hữu hiệu nữa, nay đă đến.
Thờiđiểm của cục diện Philippines có thể sẽ đến khi họ nổi lên như tác nhân chính thay cho Việt Nam, bởi họ vừa là bên chủ động pháp lư kiện Trung Quốc, vừa là nhân tố quân sự tích cực trong kế hoạch cân bằng chiến lược, vừa là chủ thểchính trị đi đầu, dứt khoát và mạnh mẽ đấu tranh với các hành động thay đổi nguyên trạng Trường Sa từ phương Bắc. Với vai tṛ đó, sự hậu thuẫn của đồng minh và quốc tế sẽ tập trung cho họ.
Thờiđiểm mà Đài Loan xác quyết vị thế của ḿnh trong tranh chấp có thể sẽ đến nếu họ được sự ủng hộ để trở thành một bên của tiến tŕnh COC.
Thờiđiểm mà Hoàng Sa và Trường Sa, với tư cách yếu tố độc lập tương đối, chi phối lại các chủ thể tranh chấp cũng đang đến khi Trung Quốc đẩy mạnh phát triển“Tam Sa” và (có thể) hải đảo hóa những nơi đă cưỡng đoạt ở Trường Sa.
Trong viễn cảnh đó, nếu Việt Nam tiếp tục thụ động với những chủ trương như hiện nay, th́ khả năng Biển Đông bị xâu xé cũng sẽ đến, v́ thế giới sẽ không để Trung Quốc độc chiếm vùng biển này. Khi ấy, Hà Nội khó mà lại chuyển hung thành kiếtđược nữa. Một khi các liên minh trong vùng chính thức định h́nh và hiện diệnđầy đủ ở những điểm xung yếu mà không có Việt Nam, với những trải nghiệm trong quan hệ với Hà Nội, có phần chắc các nước này cũng sẽ buông đầu dây phía họ,như Bắc Kinh đă vừa buông.
Trước việc Bắc Kinh dùng hệ thống giàn khoan làm công cụ xâm lược biển, duyên hải phía đông đang phơi ra như một khoảng trống quân sự mà Việt Nam sẽ không thể tựḿnh lấp đầy. Hà Nội không nên hy vọng rằng việc tập trung của các thế lực khácở những nơi khác quanh Biển Đông sẽ khiến Hoa Lục quay sang đối phó, từ đó mà xuống thang với láng giềng phương Nam. Thực tế trước nay là, dù vẫn đối ứng với thế lực lớn, họ sẽ lấy những thế lực nhỏ, yếu làm mục tiêu hàng đầu.
Để hóa giải sự thất thế đó, kiện ra ṭa án quốc tế, một khi Hoa Lục không thừa nhận, sẽ vô hiệu đối với họ. Nhưng cũng chính v́ thế, giải pháp pháp lư này trở thành một giải pháp chính trị và ngoại giao hữu hiệu mà Hà Nội không nên chần chừ,thay v́ việc chọn tâm điểm là sự vận động ngoại giao tràn lan, thiếu hiệu quả.
Giải pháp chính trị hàng đầu là bộ Quy tắc Ứng xử Biển Đông, th́ đang bị Bắc Kinh hủy hoại ngay từ trong tiến tŕnh ỳ ạch của nó, bằng cách tŕ hoăn và dùng sức mạnh tạo nên hiện trạng mới có lợi cho ḿnh. Họ đang đi trước nhiều bước để một khi COC h́nh thành, sẽ phải ghi nhận sự xâm thực đó bằng tiêu chí giữ nguyên hiện trạng.
Cùng lúc, trung tâm chính trị hàng đầu cho việc xử lư tranh chấp, là ASEAN, cũng bịHoa Lục phân hóa và tự phân hóa, bị trói tay và giảm hiệu năng bằng nguyên tắcđồng thuận cả khối.
Giải pháp kinh tế chống Trung Quốc, sẽ không ai tính đến chừng nào Hoa Lục c̣n chưa tấn công quân sự trên diện rộng nhắm vào đồng minh của các thế lực lớn.
C̣n lại là giải pháp quân sự, cũng sẽ không ai tính đến với tư cách là hành động đốiứng cho sự xâm thực phi quân sự hoặc trấn áp cục bộ của Trung Quốc. Thế nhưng, nó luôn được tính đến với tư cách pḥng vệ và răn đe từ xa, vừa để ngăn ngừa xung đột vừa tạo đủ lực cho xung đột, nếu buộc phải vậy. Sự răn đe đó, một nước nhỏ, yếu cả thế và lực không thể một ḿnh mà làm được, không thể vài năm hay chục năm mà làm được, trong khi nguy cơ th́ chực chờ ngay trước mắt.
Dù sao, với tất cả những điều trên, để giữ môi trường ḥa b́nh của mỗi nước, của khu vực và thế giới, hướng chiến lược cần theo đuổi vẫn là ASEAN thực hiện vai tṛ trung tâm chính trị, kiên tŕ với COC, song hành cùng giải pháp pháp lư ở mỗi quốc gia và trong thế liên minh[9]. Đồng thời, tổ chức này cũng cần trở thành trung tâm quân sự của tiểu vùng để hoàn thiện vị thế của một bên đối tác, trực tiếp chịu trách nhiệm về an ninh của chính ḿnh. Phần Hoa Kỳ, với vai tṛ của đồng minh trụ cột, là người điều phối vềchính trị, ngoại giao, quân sự với các thế lực trong và ngoài vùng có can dự,và là lực lượng quân sự tối hậu làm rào chắn cuối cùng, mà các quốc gia có tranh chấp với Trung Quốc cần liên kết.
Việt Nam không thể nằm ngoài thế chiến lược chung đó mà nghĩ rằng vừa duy tŕ được mọi quan hệ tốt đẹp, vừa tự một ḿnh bảo đảm được ḥa b́nh, chủ quyền và an ninh, trong cái thế trọng sức mạnh mà Hoa Lục đă đặt mọi phía vào đó.
Ngoài nội lực cần một quyết tâm chính trị cao nhất mới có thể tạo đà phát triển trọn vẹn, không thể giữ được chủ quyền và nền độc lập bằng sự đơn thương độc mă của chính nghĩa suông và ngoại giao câu chữ. Nghĩ rằng có thể thắng Trung Quốc nhờmặt trận ḷng người mở ra bên trong nó và trong ḷng nhân dân thế giới, như đă từng làm với nước Mỹ, là điều tuyệt đối không tưởng. Hoa Lục toàn trị của thếkỷ XXI không phải là Hoa Kỳ dân chủ của thế kỷ XX để mà phải chịu áp lực của công luận trong và ngoài nước và chịu sự phán xét trực tiếp của người dân nước ḿnh.
Một khi nội lực chỉ là sự hô hào mà không được thực tế hóa bằng những chuyển biến triệt để và toàn diện, một khi chính nghĩa và ngoại giao c̣n chưa được vật chất hóa bằng sức mạnh của sự liên kết đúng đối tượng, th́ chỉ là tự ta đang vô hiệu hóa ḿnh bằng công cụ tuyên truyền.
© 2014 Lê Tuấn Huy
[1] Sau khi không thống nhất giá mới với Việt Nam, Nga không tiếp tục thuê Cam Ranh. Nhưng hai bên đồng ư để lưu trú lại một tổ thu thập tín hiệu vô tuyến hướng ra Biển Đông, chủ yếu nhắm vào Trung Quốc, duy tŕ đến năm 2002.
[2] Hiện vẫn chưa có thông tin chính xác, nhưng qua đối chiếu, có thể đó là cuộc gặp được nhắc đến trong một bản tin của Viện Hải quân Hoa Kỳ vào tháng Hai 2008.
[3] Kiểu như “t́nh hữu nghị là tài sản quư báu”, “người bạn thủy chung”…
[4] Chuyến thăm Nha Trang và Hải Pḥng của tàu INS Airavat (19-22/07/2011) là kết quả chuyến đi trước đó của Đô đốc hải quân Nguyễn Văn Hiến đến Ấn. Hải tŕnh này đă khiến phương Bắc khó chịu và phản ứng theo kiểu của họ: trên đường về, ở Biển Đông, INS Airavat nhận được tín hiệu vô tuyến từ tàu không được nhận dạng của Trung Quốc, yêu cầu tàu Ấn xác định danh tính và lư do hiện diện trong vùng biển “của họ”.
[5] Cập nhật: Vừa mới đây, ngày 24/06/2014, tàu vận tải nặng USNS Cesar Chavez (T-AKE 14) của hải quân Hoa Kỳ đă từ Philippines vào neo tại vịnh Nha Trang trong 15 ngày, để Công ty TNHH một thành viên nhà máy đóng tàu Cam Ranh bảo dưỡng.
[6] Cách đặt vấn đề tại sao Nga không ủng hộ Trung Quốc ở Biển Đông, là nhầm chủ thể. Mức độ xung khắc và xung đột giữa họ với nhau trong quá khứ khiến Kremlin thừa biết Trung Quốc là như thế nào. Mà các chiến lược gia Trung Nam Hải hẳn cũng đủ tầmđể lượng định về các thế lực trên thế giới, và biết rằng họ không trông chờ sự hậu thuẫn của Nga. Câu hỏi “tại sao” ấy nên được đặt ra với Việt Nam th́ đúng hơn.
[7] Cập nhật: Sau hợp đồng dầu khí 400 tỷ dollar Tổng thống Putin đạtđược tại Bắc Kinh vào hạ tuần tháng Năm 2014, chỉ với việc ba tàu của Hạm đội Thái B́nh Dương Nga sau hải tŕnh công vụ ở Ấn Độ Dương trở về, ghé vào Cam Ranh ba ngày (17-20/06/2014) để nhận dịch vụ hậu cần, mà Đại sứ Việt Nam tại Nga đă lại lập tức lên tiếng mời Ngaưu tiên sử dụng Cam Ranh. Và chỉ vài ngày sau,Đặc sứ của Chính phủ được gửi sang để hội đàm với đại diện Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Nga, mở lời ủng hộ họ trong vai tṛ tại châu Á-Thái B́nh Dương. Câu trả lời của họ vẫn là công thức về “nguyên tắc không can thiệp” và đàm phán ḥa b́nh giữa các bên tranh chấp.
[8] Sự tựtin về sự gần gũi này vừa được thể hiện, vừa là kết quả từ các chuyến thăm liên tục của lănh đạo hai nước: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc, 11-15/10/2011. Tổng Bí thư Tập Cận B́nh thăm Việt Nam, 20-22/12/2011. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm Trung Quốc, 19-21/06/2013. Thủ tướng Lư Khắc Cường thăm Việt Nam, 13-15/10/2013.
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/
http://nguoidalat.informe.com/forum/
http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/