US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Thượng Đế tạo ra con người ? một giả thuyết.
Con người làm ra Thượng Đế : một điều hiển nhiên !
Thượng Đế và Thần Linh được tạo ra như thế nào ?
Nguyễn Hoài Vân
Bài này không bàn đến sự hiện hữu của Thượng Đế. Thượng Đế không cần có người « tin » hay không « tin » rằng Ngài hiện hữu để thực sự hiện hữu. Trong bài này tôi chỉ muốn nói đến cái mà con người gọi là « Thượng Đế ». « Thượng Đế » ấy được tạo ra bao giờ, như thế nào, để làm ǵ ? Và ai đă làm nên cái « Thượng Đế » ấy ?
Một nghiên cứu khoa học :
Vào tháng ba năm 2009, nhóm Bác Sĩ chuyên khoa Thần Kinh thuộc Đại Học Bethesda (Hoa Kỳ) đă chứng minh được sự hiện hữu của ư tưởng Thượng Đế, trong năo bộ của mọi người , kể cả những người tuyên bố ḿnh « vô thần ».
Để đi đến kết quả này, các nhà bác học đă thực hiện hai cuộc nghiên cứu.
Trong nghiên cứu đầu tiên, họ tuyển mộ 26 người thuận tay phải, trung b́nh 37,7 tuổi. Những người này phải trả lời 70 câu hỏi (1) liên quan đến tôn giáo, dựa trên thang phát biểu Likert, gồm 7 bậc (1), từ «hoàn toàn không đồng ư» đến «hoàn toàn đồng ư». Kết quả được phân tích theo những phương pháp hiện đại nhất (2) để nhận ra trong các yếu tố được phân tích, yếu tố nào hội đủ điều kiện để có thể được coi là phổ quát. Từ đó, Grafman và cộng sự mô tả ba cột trụ của tư tưởng tôn giáo. Đó là :
- Ư tưởng về sự hiện hữu của một thế lực siêu nhiên theo dơi và dẫn dắt mọi hành vi của chúng ta
- Quan niệm thế lực siêu nhiên này có thể phát biểu những t́nh cảm : thương, giận, đưa đến thưởng phạt
- Và các ư tưởng đến từ giáo dục, cũng như sự t́m ṭi cá nhân, tùy môi trường sống của mỗi người.
Nghiên cứu thứ hai dựa trên kỹ thuật chụp cắt lớp «cộng hưởng từ trường» năo bộ (functional magnetic resonance imaging). Bốn mươi người được chọn theo cùng tiêu chuẩn với 26 người của nghiên cứu thứ nhất. Họ phải trả lời các câu hỏi đă được tuyển chọn trong nghiên cứu trước. Các tác giả quan sát xem những mệnh đề liên hệ đến 3 cột trụ của tư tưởng tôn giáo vừa nói ở trên có khả năng làm « chạy » những vùng nào trong năo bộ ? Kết quả là :
-Ư tưởng « một Thượng Đế ảnh hưởng vào đời sống của mỗi người » làm « chạy » vùng trán dưới (circonvolutions frontales inférieures).
- Ư tưởng « một Thượng Đế có khả năng yêu thương » làm « chạy » vùng trán giữa (circonvolutions frontales moyennes), cùng với vùng Brodmann số 11 của năo phải. Nếu người ta nghĩ đến khả năng tức giận và trừng phạt của Thượng Đế, th́ các vùng trán giữa và Brodmann 21 bên trái được bật lên.
- Các ư tưởng liên hệ đến giáo dục tôn giáo hay t́m ṭi cá nhân, làm chạy quá nhiều vùng, không thể hệ thống hóa.
Điều đáng chú ư là dù cho đối tượng nghiên cứu có tự nhận ḿnh là người vô thần đi chăng nữa, bộ óc của người ấy vẫn làm chạy các vùng liên hệ khi các ư tưởng cột trụ của tôn giáo được nêu lên, y hệt như những người có niềm tin tôn giáo. Như thế, quan niệm một một thế lực tối cao đă được in sẵn vào đầu óc của mỗi người chúng ta, từ một quá khứ rất xa xôi trong quá tŕnh tiến hóa (3).
Ai làm nên Thượng Đế ?
Sự kiện quan niệm Thượng Đế, hay nói rộng hơn là quan niệm Thần Linh, đă được in sẵn trong năo bộ của mọi người, kể cả những người vô thần, cho biết là quan niệm ấy đă khởi sự hiện hữu nơi tổ tiên chúng ta, ở một thời điểm đủ xa xưa để được lưu truyền rộng răi. Đi t́m thời điểm ấy đem chúng ta ch́m vào một quá khứ mơ hồ …
Có thể từ 160 ngàn năm trước, một anh chàng Australopithèque đă biết h́nh dung một đấng siêu nhiên khi nhặt và giữ bên ḿnh một mảnh đá dẹp có h́nh dáng tương tự như mặt người ? Hay quan niệm siêu nhiên đă hiện hữu từ cách đây 100 ngàn năm, với những ngôi mộ của người Homo Sapiens và người Neanderthal ? Hoặc giả t́m cách liên hệ với những thế lực siêu nhiên chính là quan tâm chủ yếu của những người đă vẽ lên những bức tranh trong các động đá từ 33 ngàn năm trước ? Hay phải đợi đến đầu thời « Đá Mới » (néolithique) cách đây gần 10 ngàn năm, khi những h́nh tượng Thần Linh bắt đầu hiện hữu ? (4)
Một nhận xét quan trọng khác là dù trong bất cứ nền văn hóa nào, Thần Linh, hay Thượng Đế, cũng đều được tạo nên theo những mô h́nh rất chính xác. Mô h́nh ấy phản ảnh quan niệm của con người về chính ḿnh đối lại với thiên nhiên.
Mô h́nh cấu tạo nên Thần Linh và Thượng Đế
Khi nh́n chính ḿnh và đồng loại của ḿnh (5), con người đặt ngay câu hỏi : « để làm ǵ », trong khi câu hỏi đặt ra khi đối diện với thiên nhiên là « cái ǵ đă làm ra nó». Sự hiện hữu, qua hành động, của con người lệ thuộc vào Chủ Ư của ḿnh. Tại sao một người lại có thái độ, có hành vi như thế ? Người ấy muốn ǵ ? Có ư định ǵ ? Đối với thiên nhiên, người ta không đặt câu hỏi muốn ǵ, có ư định ǵ, mà câu hỏi thông thường là : nó từ đâu ra, cái ǵ đă làm cho nó như thế ? Cũng đều là « nguyên do », nhưng trong một trường hợp nguyên do ấy nằm ở quan hệ nhân quả (causalité), và trong trường hợp kia, nằm ở chủ ư (intentionnalité).
Việc Thượng Đế cũng như Thần Linh hoàn toàn được làm nên theo mô h́nh « chủ ư », tức hoàn toàn rập khuôn với quan niệm của con người về chính ḿnh, trong căn bản không có ǵ đáng ngạc nhiên. Người ta có thể nói rằng : không ai tạo nên Thượng Đế, Thượng Đế không có nguyên nhân, v́ là nguyên nhân đầu tiên, nên vấn đề nhân quả không đặt ra, chỉ có chủ ư. Thật ra, suy luận ấy không ảnh hưởng nhiều vào sự tác thành Thượng Đế. Điều cần nhận xét là Thần Linh hay Thượng Đế đều phải tuân theo những quy luật vô cùng chặt chẽ, khắt khe, về Chủ Ư.
Hành vi của Thượng Đế hay Thần Linh th́ đương nhiên là siêu nhiên. Nhưng điều ấy không quan trọng. Điều quan trọng là nếu một Thần Linh (hay Thượng Đế) có hành động, dù siêu nhiên, nhưng trệch ra ngoài những quy định về chủ ư do con người đặt ra, th́ sẽ lập tức bị loại trừ ngay. Thí dụ : Đức Mẹ th́ phải khóc, khóc được ra máu thay v́ nước mắt th́ càng tốt. Một Đức Mẹ vui vẻ nhăn răng cười hề hề th́ nhất định là … không chấp nhận được, sẽ lập tức bị loại trừ, mặc dù việc một bức tượng Đức Mẹ nhăn răng cười là một hiện tượng siêu nhiên rơ rệt ! H́nh tượng một vị Thần có thể làm những phép lạ hiển nhiên như ợ, đánh rắm v.v… nhưng con người không thể cho phép những điều ấy xảy ra, mặc dù không có ǵ « thần thánh », siêu nhiên hơn những điều này. Thậm chí các vị Thần có những hành vi tương tự hoàn toàn không được phép hiện hữu, không được con người cho phép có mặt trên trần thế ! Con người chỉ cho phép Thần Thánh có một số chủ ư hạn hẹp, và nhất định không được có những hành vi không phù hợp với các chủ ư ấy.
Các « phụ tá » của Thần Linh (hay Thượng Đế) cũng phải chịu những ràng buộc tương tự. Giả sử một vị « pháp sư » giơ tay làm phép trước những tín đồ thành kính, và … Ôi nhiệm màu ! Một chai bia lạnh với đĩa tôm khô củ kiệu hiện ngay ra trên bàn thờ … Hay một một thày phù thủy niệm chú chữa trị cho một con bệnh ngặt nghèo, nhưng thay v́ làm cho thân chủ đứng dậy vươn vai khỏe khoắn, th́ lại làm chạy … TV, máy pha cà phê, hay máy giặt ! Những « thành quả » ấy là những phép lạ vô cùng nhiệm màu, không ai có thể phủ nhận được, nhưng chúng không tuân theo những quy định khắt khe về chủ đích mà con người đă đặt ra. Con người không thể cho phép chúng hiện hữu.
Chết là … khởi điểm ?
Một cộng đồng người tiền sử … Rồi, một người chết. Một người được kính trọng, yêu mến. Một người cha, người chồng, anh, chú, hay một người bạn thân quen … Qua kinh nghiệm tích tụ từ nhiều thế hệ, mọi người trong cộng đồng đều biết xác chết kia sẽ là một hiểm họa cho tất cả. Nó sẽ x́nh thối. Sẽ đem lại bệnh tật, chết chóc. Đó là « thảo tŕnh hư thối », đă in sẵn trong năo bộ của mỗi người. Thảo tŕnh này khiến người ta kinh sợ xác chết, kiêng kỵ đụng chạm vào nó, hay đụng vào những ǵ đụng chạm đến nó, và nhanh chóng t́m cách loại bỏ nó.
Tuy nhiên trong năo bộ của những người tụ tập chung quanh xác chết, c̣n có một thảo tŕnh khác, vốn hoạt động từ lúc người chết c̣n sống, và vẫn tiếp tục chạy cùng lúc với thảo tŕnh « hư thối ». Thảo tŕnh này có thể được gọi là thảo tŕnh « thân thuộc ». Các tín hiệu của nó cho những người hiện diện biết người quá cố chính là cha, mẹ, anh, chị, chú, bạn, của ḿnh. Trên phương diện thuần lư th́ thảo tŕnh « thân thuộc » này phải ngưng chạy khi thảo tŕnh « hư thối » được bật lên. Đống thịt đang sắp sửa chương ph́nh rữa nát kia không thể là người thân thuộc, yêu mến, của ḿnh. Nó chỉ có thể là một đống thịt đang sắp sửa chương ph́nh rữa nát. Không ai có thể thân quen với một đống thịt đang sắp sửa chương ph́nh rữa nát. Và người ta chỉ có thể đem hủy, chôn, đốt, đống thịt thối ấy một cách tự nhiên, không cần thắc mắc.
Vấn đề là thảo tŕnh « thân thuộc » không chịu tắt đi khi thảo tŕnh « hư thối » bắt đầu khởi động. Và những người tụ tập quanh xác chết phải đối đầu với một mặc cảm tội lỗi ghê gớm. Họ bị bắt buộc phải đem hủy diệt người cha, người chồng, người bạn của họ. Mặc cảm tội lỗi ấy khiến họ tự thấy phải « làm một cái ǵ » đền bù lại cho hành động hủy diệt một người thân thương kia. Đó có thể là một nguyên do của các nghi thức tống táng c̣n thịnh hành cho đến ngày nay.
Nghi thức tống táng tự nó bao hàm ư nghĩ về người chết như thể họ « c̣n sống ». Chúng ta thường nghe những câu như : « ông ấy sẽ hài ḷng lắm với số người tham dự tang lễ, với bài giảng của cha sở, bài điếu văn của Đại Tá X., với nhạc bản được tŕnh tấu trong nghi thức hạ huyệt, với lá cờ phủ trên quan tài v.v… ». Ngay cả nhiều năm sau, người ta cũng vẫn có thể quả quyết, « bà ấy chắc hănh diện lắm trước sự thành công của cháu X hay Y …». Làm thế nào để quan niệm được người chết « như thể c̣n sống », đồng thời biết rằng người chết chỉ là một đống thịt xương rữa thối ? Chỉ có một cách : đó là quan niệm người chết vẫn « sống », nhưng không c̣n gắn liền với thân xác hư thối của họ nữa. Ư tưởng một thực thể siêu nhiên, phi vật chất được h́nh thành. Thực thể này « như sống » với những đặc điểm tâm lư và những hành vi rập khuôn theo tâm lư và hành vi của đương sự trước khi chết. Thông thường, người chết che chở, giúp đỡ những người thân thương, và, ngược lại, là một đe dọa, có thể rất khủng khiếp đối với những kẻ bị oán ghét …
Rồi, đời này qua đời khác, những người có nhiều ảnh hưởng trong cộng đồng của họ, đến độ người ta c̣n nhớ đến họ sau nhiều chục hay nhiều trăm năm, trở thành những thực thể « đặc biệt », với những quyền năng đặc biệt, ảnh hưởng đến cả cộng đồng. Họ trở thành những vị Thần … Các vị Thần này vượt khỏi liên hệ gia đ́nh, để trở thành Thần Nhân của cả một dân tộc. Người ta thường phóng đại khả năng và việc làm của các vị này lúc sinh thời để gán cho họ những quyền phép nhiệm màu. Từ đó sinh ra những Thần Linh « chuyên ngành ». Mỗi vị Thần đặc biệt linh thiêng trong một lănh vực của cuộc sống. Theo các dấu tích khảo cổ, có lẽ h́nh tượng thần linh xưa nhất là các Thần Nữ chuyên phù trợ cho việc thụ thai và sinh dưỡng con cái.
Thiên Nhiên Thần Thánh
Như thế, hai cái thảo tŕnh « thân thuộc » và « hư thối », khi cùng chạy một lúc trước sự chết, đă đẻ ra quan niệm có những sự sống bên cạnh ta, có thể ảnh hưởng, tốt cũng như xấu, vào ta, mà ta không thể nhận biết được bằng giác quan. Một khi đă nghĩ được như thế th́ cánh cửa hoàn toàn rộng mở cho sự h́nh thành của mọi Thánh, Thần, đủ loại. Trong tinh thần « cởi mở » ấy, một số súc vật được tôn sùng như Thần Linh, và một số Thần Linh xuất hiện dưới dạng súc vật hay nửa người nửa thú. Trong các trường hợp này, hiện tượng « chuyên ngành » cũng thường được nhận thấy, như đă nói ở trên, thí dụ Thần Ḅ Mộng gúp tăng cường dương tính. Việc mở rộng ư tưởng Thần Linh đến súc vật rất phổ quát. Người ta hiện c̣n nhận thấy những dấu tích của nó trong các tôn giáo vẫn thường được coi là chống lại việc này, như Ky Tô Giáo, với biểu tượng « Con Chiên Thiên Chúa » (Agnus Dei), hay chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần …
Không ngừng ở đó, người ta thần thánh hóa các hiện tượng thiên nhiên, gắn liền chúng với các Thần Linh. Thế là Thần Sông, Thần Biển, Thần Sấm, Thần Gió, Thần Lửa, v.v… h́nh thành. Đời sống của vị Thần ấy được kể lại trong những huyền thoại, thường là để cắt nghĩa thiên nhiên, h́nh dung sự tạo tác ra nó và sự vận hành của nó, ở dạng b́nh thường, cũng như ở dạng bất thường, như trong những lúc thiên tai. Dấu tích của thảo tŕnh « thân thuộc » hay phiên bản « gia tộc » của nó, nhiều khi vẫn hiện diện nơi các vị Thần « thiên nhiên » này. Thí dụ như nhiều vị anh hùng trong các huyền thoại Mahabharatta và Ramayana chính là con cháu của các vị Thần thiên nhiên, như Thần gió, thần mặt trời, mặt trăng, lửa, sông Hằng v.v… (đọc trên trang nhà của người viết). Người Ấn tự coi ḿnh như hậu duệ của các nhân vật trong những huyền thoại trên, nên có thể coi đó như ư thức về liên hệ « gia tộc » giữa con người với thiên nhiên. Tương tự như thế, trong Huyền Thoại Hy Lạp, các vị Thần đầu tiên (thuộc thế hệ « Titan ») cũng là những thành tố nguyên thủy của thiên nhiên, như trời, đất, biển v.v... Họ là con cháu của các vị Thần tạo ra vũ trụ và chính họ cũng sanh ra mọi sự vật trên đời này. Mặt khác, chúng ta đều biết là người Nhật, qua Hoàng Gia của họ, đều đến từ Nữ Thần Mặt Trời (Thiên Chiếu – Amaterasu) …
Chúng ta đă nhận ra là khi đă đi xâu vào ư thức về Thần Linh, th́ thảo tŕnh « thân thuộc » được cập nhật thành một phiên bản mới gọi là thảo tŕnh « gia tộc ». Phiên bản « gia tộc » được áp dụng cùng lúc với Thần Thánh và với thiên nhiên, đưa đến ư thức con người và thiên nhiên thuộc về cùng một gia đ́nh, ḍng tộc. Điều khôi hài là ư thức này hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại, đặc biệt là thuyết tiến hóa.
Mặt khác, thảo tŕnh « gia tộc » cũng là một phương cách để t́m đến Thượng Đế.
Sự h́nh thành của Thượng Đế
Như đă nói, những đời sống linh thiêng đầu tiên là những người thân thuộc chết đi mà người ta không muốn cho chết thật, phải tạo ra cho họ một sự hiện hữu đặc biệt. Thử lấy thí dụ một người con vừa đem chôn cha ḿnh xong, quay về lập bàn thờ tôn sùng người cha quá cố như một sự sống linh thiêng, vẫn tiếp tục hiện hữu đâu đó, có thể đến với ḿnh, phù hộ cho ḿnh, đồng thời cũng có thể là một đe dọa, gắt gao trừng trị ḿnh, nếu có chuyện ǵ không vừa ư … Người cha ấy cũng có một người cha, rồi người cha của người cha kia cũng lại có một người cha v.v… Cứ như thế lần lần từ thế hệ này sang thế hệ khác, không những người ta có rất hiều linh hồn phải tôn thờ, phụng dưỡng, làm cho vừa ư, mà người ta cũng dần dần t́m đến gần một người Cha đặc biệt, người Cha của mọi người cha, Cha của mọi sự vật trên đời. Đấng Cha chung ấy chính là Thượng Đế.
Tuy thảo tŕnh « gia tộc » áp dụng cho Thần Linh đưa đến một một Thần Linh tối thượng, nhưng trong điều kiện sống rải rác, ít trao đổi với nhau, các cộng đồng người chỉ đạt được đến khái niệm một vị Thần tối thượng … của riêng dân tộc ḿnh ! Vị Thần ấy che chở hay trừng phạt dân của ḿnh, tùy hành vi và thái độ của đám dân này hoặc của những người lănh đạo họ.
Rồi, ngày kia, một sự ngờ vực lớn nảy sinh từ đáy ḷng những người du mục Trung Đông …
Khi người du mục đi từ nơi này sang nơi khác, họ phải thờ cúng hết vị Thần địa phương này đến vị Thần địa phương khác, vị Thần nào cũng được “quảng cáo” là tối cao, quyền năng mạnh mẽ nhất. Đến một lúc nào đó, người du mục không c̣n tin nổi vào các vị Thần « đồng tối thượng » này nữa, và một ư niệm nảy sinh, ư niệm một vị thần tối thượng thật sự. Từ tối thượng, vị Thần ấy dần dần trở thành duy nhất, loại bỏ các thần địa phương như những h́nh tượng vô nghĩa. Các thần linh lặt vặt khác, gắn liền với thiên nhiên, như thần sông, thần núi, thần « cây đa », thần sấm, thần mưa, v.v.. cũng từ từ phải chịu chung một số phận.
Từ một Thượng Đế duy nhất đến thuyết Duy Vật và thuyết Tân Tiến
Một hệ luận bất ngờ của việc tin vào một Thượng Đế duy nhất là sự nảy sinh ra thuyết Duy Vật. Thật vậy, thuyết Duy Vật đến từ sự vứt bỏ các thần linh ra khỏi thế giới. Thượng Đế duy nhất khiến cho thiên nhiên không c̣n chút thần thánh nào trong đó, và không c̣n được giải thích bởi hành vi của thần linh nữa. Sấm chớp, mưa gió, bệnh tật không c̣n lệ thuộc vào sự vui buồn của các ông thần, bà thánh, và người ta buộc phải t́m cho chúng một giải thích khác, một giải thích giựa trên vật chất thuần túy. Thuyết duy vật từ đó ra đời. Cùng với óc khoa học.
Đồng thời người ta nhận thấy sự xuất hiện của thuyết tân tiến. Trong khi người dân định cư quan niệm thời gian như những chu kỳ xoay chuyển, hết gieo đến cấy, cấy xong đến gặt, gặt xong lại gieo … th́ người du mục luôn mỗi ngày thức giấc trước một chân trời mới, luôn luôn đổi khác, trong ḍng thời gian được nh́n như một đường thẳng. Thượng Đế, vị Thần duy nhất mà họ tôn thờ, lại có một giao ước với họ. Ngài hứa cho họ một tương lai tốt đẹp, một vùng “đất hứa” để dừng chân. Đó chính là định nghĩa của thuyết tân tiến : ngày mai không những sẽ là một ngày hoàn toàn mới, khác hẳn ngày hôm nay, mà ngày mai sẽ tốt hơn ngày hôm nay, tương lai sẽ tốt hơn hiện tại. Gián đoạn triệt để giữa tương lai và hiện tại cũng chính là cội rễ của ư tưởng … Cách Mạng !
Dần dần chính Thượng Đế cũng bị loại ra khỏi lư trí của con người. Người ta cho rằng Thượng Đế « không thể nghĩ bàn ». Không một đầu óc nào có thể quan niệm được Thượng Đế. Ngay khi chúng ta nghĩ đến Thượng Đế, th́ cái Thượng Đế mà chúng ta nghĩ đến ấy không c̣n là Thượng Đế nữa, v́ Thượng Đế thật vượt trội hơn, khác biệt hơn cái Thượng Đế mà chúng ta có thể quan niệm được gấp bội phần. Nói cách khác, Thượng Đế vô hạn, không thể bị giam hăm trong đầu óc hạn hẹp của con người.
Thuyết tân tiến, cộng với óc khoa học, cộng với việc không thể nghĩ, không thể bàn đến Thượng Đế, bắt buộc con người phải tin vào chính ḿnh, vào trí thông minh, khả năng t́m ṭi, suy luận của ḿnh, để không ngừng tiến bộ trong niềm tin vào thuyết tân tiến. Mặc dù có những lúc ngờ vực, đa số nhân loại hiện vẫn đang dấn bước trên con đường này.
Thượng Đế và thuyết vong thân
Khuynh hướng mời Thượng Đế ra khỏi tâm trí của ḿnh, cũng giúp tạo ra … Tôn Giáo ! Con người có những lo lắng, sợ sệt, đồng thời cũng có những ước vọng, ham muốn, như ước vọng được thi đậu, làm ăn trúng mối, t́nh duyên suôi thuận, được lành bệnh, b́nh an, tránh tai nạn, v.v… Tất cả những yếu tố ấy được con người phóng ra trước mặt ḿnh để tạo thành Thượng Đế và các Thần Thánh đủ loại. Khi một người quỳ trước một đấng « linh thiêng » để cầu xin chuyện này việc khác th́ trong thực chất, người ấy chỉ quỳ trước những ước vọng, ham muốn của ḿnh. Khi cầu nguyện để được những điều này, người ấy cúng bái chính ḿnh, hay nói chính xác là thờ cúng cái phần tâm lư đầy ham muốn và lo sợ của ḿnh. Nhưng, người ta hoàn toàn không ư thức được điều ấy, và vẫn nghĩ Thần Linh, cũng như Thượng Đế là những thực thể biệt lập với mính. Mặt khác, để cho Thượng Đế kia có thể chu toàn sứ mạng che chở ḿnh, và đem lại cho ḿnh những ǵ ḿnh mong muốn, người ta có nhu cầu phải biến Thượng Đế nọ thành một đấng Toàn Năng, quyền phép vô biên. Rồi tính lo lắng cũng khiến người ta cảm thấy cần kết tụ những mảnh tâm lư đầy dục vọng và âu lo được phóng ra ngoài tâm hồn ḿnh như vừa nói, thành một hệ thống bao gồm những nghi thức chính xác, những giáo điều phải tin theo v.v… Thế là Tôn Giáo h́nh thành !
Con người cũng có trong thân tâm ḿnh những ư tưởng hướng thiện. Đây là một « thảo tŕnh » từng hiện hữu trong tâm trí của cha ông chúng ta ngay từ giai đoạn h́nh thành các cộng đồng người. Có thể gọi thảo tŕnh ấy là « thảo tŕnh hợp tác ». Thật vậy, ư thức « thiện » được nảy sinh khi chúng ta đối diện với một người khác. Khi ấy, chúng ta lập tức cảm thấy ḿnh có một trách nhiệm nào đó đối với người này. Trách nhiệm ấy khiến chúng ta tử tế chào hỏi, nói năng thân thiện, lịch sự, tránh làm mích ḷng, và nếu người ấy gặp phải vấn đề ǵ, thí dụ như ngất xỉu, lạc đường v.v… th́ chúng ta tự cảm thấy phải làm tất cả những ǵ có thể làm được để giúp đỡ người này. Tổng hợp những thái độ ấy được gọi là sự « thiện », tốt. Chúng ta cũng có thể chọn thái độ ngược lại, đó là những thái độ « bất thiện », xấu. Nguyên nhân của ư thức hướng thiện là nâng cao sự hợp tác, tương trợ, giao dịch tốt đẹp giữa các thành viên của một cộng đồng. Cộng đồng người nguyên thủy nào thiếu « thảo tŕnh hợp tác » này trong cấu trúc tâm lư th́ sẽ tàn lụi và biến mất một cách nhanh chóng. Các thành viên của cộng đồng ấy cư xử ích kỷ, lừa đảo, dối trá, khinh bạc, lạnh lẽo, thậm chí ác độc đối với nhau, chưa kể đối với người ngoài, và phủ lên môi trường sống của họ một không khí đối kháng, bạo lực, chia rẽ, đưa đến tàn phá, hủy diệt. Ngược lại, các cộng đồng hiện hữu và phát triển được trong ḍng thời gian chính là những cộng đồng với nhiều thành viên mang « thảo tŕnh hợp tác ». Họ truyền cho hậu duệ của họ, là chúng ta, thảo tŕnh ấy. V́ thế đa số chúng ta đều có ư thức về cái tốt, về sự thiện, trong cấu trúc tâm lư của ḿnh.
Tuy nhiên, với khuynh hướng mời Thượng Đế ra khỏi tâm trí ḿnh, gắn liền với việc loại bỏ Thượng Đế ra khỏi thiên nhiên (chúng ta cũng thuộc thiên nhiên !), con người phóng cái ư thức hướng thiện trong thâm tâm ra ngoài ḿnh để biến nó thành một thực thể không c̣n liên hệ ǵ với ḿnh, và cho nó một sự sống biệt lập. Thượng Đế toàn thiện ra đời ! Những ǵ Thượng Đế ấy đ̣i hỏi, phán truyền qua những giáo sĩ của Ngài, chính là những ǵ đa số con người tự cảm thấy trong đầu óc ḿnh, và đa phần là những điều cần thiết cho xă hội. Thật ra, cũng có những trường hợp, đấng Thượng Đế ấy bị « bắt cóc » bởi một giai cấp thần quyền, nhân danh Ngài phán dạy những điều thiên lệch, những « chân lư » bị uốn nắn theo những quyền lợi bè cánh, giai cấp, hay bị lu mờ bởi những tâm lư bệnh hoạn …
Việc phóng những ǵ thuộc về ḿnh ra ngoài ḿnh, rồi xem đó như một thực thể khác biệt với ḿnh, chính là hiện tượng « vong thân », đánh mất chính ḿnh.
Trở về với thiên nhiên : Thượng Đế làm ḥa với khoa học
Làm sao đem được Thượng Đế trở lại với thiên nhiên và với chính ḿnh ? Đó là một quan tâm của nhiều trào lưu tư tưởng. Thần học Ky Tô Giáo quan niệm một Thượng Đế « nhập thế », hiện diện ở khắp mọi nơi, đồng thời « nhập thể », làm một với con người, qua con người tiêu biểu là Đức Ky Tô, vừa là người thật, vừa là Thiên Chúa thật. Tư tưởng này mang một ưu điểm lớn là không c̣n cần « nghĩ bàn » về Thiên Chúa như một thực thể biệt lập nữa, mà có thể cảm nghiệm Thiên Chúa như cảm nghiệm chính ḿnh. Trở ngại được nói đến ở trên, rằng không thể nào quan niệm được Thượng Đế với tâm trí hạn hẹp của ḿnh, tự nhiên bị dẹp tan. Người ta chỉ cần ư thức ḿnh làm một với Chúa, qua « bí tích » nền tảng của Ky Tô Giáo là nghi thức « rước lễ » : « communion » (« comme un » nghĩa là « như một »). Spinoza cũng quan niệm Thiên Chúa ở trong mỗi sự vật (panthéisme). Ấn Giáo th́ quan niệm không có ǵ hiện hữu ngoài Thiên Chúa, mọi sự vật đều là những thể hiện của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, tất cả các quan niệm này đều khởi đi từ một lập trường duy tâm thuần túy, không bắt rễ từ một thực tại cụ thể. Chúng ta thử quay về phía khoa học vật chất xem có cách nào quan niệm được Thượng Đế hay không ?
Nếu chấp nhận giả thuyết « Big Bang » th́ khởi đầu của vật chất trong vũ trụ là một « điểm vật chất ». Mặt khác, có thể giả sử mỗi tŕnh độ vật chất đều có một cái « Thức » riêng. Tŕnh độ khởi đầu của vật chất, cũng có cái « Thức » của nó. Từ điểm khởi đầy ấy, vật chất tiến hóa, cho ra các ngôi sao, vi khuẩn, súc vật, rồi con người, với những tŕnh độ « Thức » đặc biệt cho mỗi giai đoạn. Tuy nhiên, trong mối giai đoạn tiến hóa, sự vật đều giữ lại những cái « Thức » của các giai đoạn trước, được lắng đọng trong một Siêu Thức, Vô Thức hay Tiềm Thức nào đó. Điều này có thể được chứng minh nơi các loài động vật. Thí dụ những cái thức của các giai đoạn trước con người như loài cá, loài có vú bốn chân … không c̣n được « Ư thức » một cách rơ rệt nơi con người nữa, nhưng vẫn không bị xóa đi mà vẫn c̣n hiện diện trong Vô thức, Tiềm thức hay Bản năng của con người. Cái « Thức » của giai đoạn khởi đầu của vật chất (khi chỉ có một điểm vật chất trong vũ trụ) có thể cũng vẫn c̣n hiện diện nơi con người và nơi tất cả sự vật trong vũ trụ. V́ thế, đi vào đến một độ sâu nào đó của Tâm Thức, người ta sẽ t́m thấy một Siêu Thức chung cho toàn thể loài người, và đi sâu hơn nữa, người ta sẽ t́m thấy Siêu Thức chung cho con người và các động vật, rồi chung cho con người, động và thực vật, cứ như thế, càng đi vào sâu thêm, th́ cái Siêu Thức ấy càng mở rộng để trở thành Siêu Thức chung của toàn thể vạn vật.
Định nghĩa « khoa học » của Thượng Đế
Thế nhưng, cái Thức của giai đoạn trước « Big Bang », trước khi có điểm vật chất nguyên thủy, th́ là ǵ ? Trước khi có điểm vật chất nguyên thủy th́ chưa có vật chất. Cái Thức của giai đoạn đó là « Thức » của một cái ǵ « phi vật chất ». Nói cách khác, đó là Ư Thức Thuần Túy, hoàn toàn tách khỏi vật chất và hoàn toàn không lệ thuộc vật chất. Đó phải chăng chính là định nghĩa của Thiên Chúa : một Ư Thức thuần túy, phi vật chất, quy định vật chất, quy định sự tiến hóa của vật chất, quy định toàn thể vũ trụ này và tiềm tàng nơi mọi sự vật ?
Thế nhưng nếu con người và phần c̣n lại của thiên nhiên đều cùng chung một căn bản vật chất và cùng được quy định bởi một Ư Thức Thuần Túy, th́ tại sao lại có sự khác biệt nền tảng giữa thiên nhiên và con người, ở chỗ sự hiện hữu, qua hành động, của con người tùy thuộc vào Chủ Ư (intentionalité) của ḿnh, trong khi thiên nhiên chỉ biết phục tùng quan hệ Nhân Quả (causalité) ? Chúng ta đă đề cập đến điều này ở phần đầu bài viết.
Nhà toán học Whitehead t́m cách giải thích sự tách biệt ấy giữa thiên nhiên và con người bằng cách quan niệm rằng trong mọi tŕnh độ của vật chất, từ hạt điện tử đến con người, đều có một « thần khí sáng tạo» thúc đẩy và chủ tŕ những chọn lựa biến hóa và « hành động » của nó. Thật vậy, nếu ta lấy thí dụ một hạt điện tử, th́ ở mỗi thời điểm nó có một số chọn lựa, để vào thời điểm kế tiếp nó sẽ không c̣n là nó nữa, v́ đă thay đổi vị trí, tốc độ, năng lượng v.v… Người ta có thể tính được xác suất của mỗi thay đổi, bằng phương tŕnh Schrödinger chẳng hạn. Trong trường hợp con người, th́ số lượng chọn lựa biến hóa và hành động trở nên nhiều vô số, không thể tiên liệu được qua một phương tŕnh toán học. Tuy nhiên, đàng sau những hành động và thay đổi của con người vẫn có một « thần khí sáng tạo » thúc đẩy và chủ tŕ. V́ thế, việc con người có vẻ như thoát khỏi các quy luật nhân quả vật lư, trong khi các tŕnh độ thấp của vật chất lại hoàn toàn lệ thuộc vào những quy luật ấy, chỉ là một vấn đề số lượng chọn lựa. Một thành tố của thiên nhiên càng phức tạp th́ sự thay đổi của nó càng ít bị các định luật vật lư quy định và càng khó tiên liệu. Ngược lại, một thành tố của thiên nhiên càng đơn giản th́ càng lệ thuộc các quy định của vật lư và các sự chuyển hóa của nó càng dễ tiên liệu. Nói cách khác, sự « sáng tạo » của con người không khác biệt trong bản chất với những « chọn lựa » của hạt điện tử, mà chỉ do tŕnh độ phức tạp của con người. Trong mọi trường hợp, theo Whitehead, th́ đàng sau những « hành vi » ấy luôn hiện diện một « thần khí sáng tạo » thúc đẩy con người cũng như toàn thể sự vật trở thành một cái ǵ mới, nhưng không phải bất cứ cái mới nào, mà một cái mới được sắp đặt theo một chủ đích, một sơ đồ, một chương tŕnh Sáng Tạo chung. « Thần Khí Sáng Tạo » ấy được Whitehead gọi là : Thượng Đế !
KẾT LUẬN
Tiến tŕnh tiến hóa khởi đi từ vật chất ở dạng đơn giản nhất đă đưa đến sự h́nh thành của những con người biết băn khoăn ray rứt cho tương lai của ḿnh. Mà tương lai thực sự, chắc chắn nhất, tạo nhiều băn khoăn ray rứt nhất, chính là Sự Chết. Tiến hóa chẳng qua chỉ là tiến tŕnh đưa đến ư thức Phi Hữu, đến một trí thông minh có khả năng quan niệm Sự Chết, quan niệm một vực sâu không đáy bên kia bờ Hiện Hữu. Rồi, khi để cho sự suy nghĩ của ḿnh rơi vào vực sâu này, con người không khỏi quay cuồng vùng vẫy một cách tuyệt vọng để t́m cách bám víu vào một cái ǵ, một nhánh cây, một mỏm đá … Nhưng, trong cảnh giới Phi Hữu đàng sau sự chết, không có những mỏm đá, không có những nhánh cây. Trong Phi Hữu, con người chỉ có thể bám víu vào những sự thể phi hữu. Người ta gọi đó là Thần Linh, là Thượng Đế …
Thượng Đế tạo ra con người ? Một giả thuyết (6).
Con người làm ra Thượng Đế : một điều hiển nhiên !
Nguyễn Hoài Vân
Đầu năm 2010
(1) Chú ư : số 7 (và các nhân số của 7) là số của Thượng Đế, của sự hoàn hảo, trong vùng văn hóa Ấn Âu (đọc : Vài nét về Huyền Thoại Ấn Độ - các Vị Thần - Nguyễn Hoài Vân – 2005, và Sáng Thế Kư đọc bởi một Người Việt Nam – Phần 1 – NHV – 2003 trên trang nhà của tác giả : http://nguyenhoaivan.com/)
(2) Méthode d’échelonnement multidimensionnel avec facteurs limitatifs linéaires
(3) Proc Natl Acad Sci, ấn bản mạng ngày 7/3/2009
(4) Isabelle Bourdial – Science et Vie n° 1055 – 8/2005
(5) Khái niệm « đồng loại » có thể được nới rộng ra đến súc vật, với những giới hạn và trong một số điều kiện.
(6) Giả thuyết, v́ tùy thuộc vào những giả thuyết về chính Thượng Đế (như giả thuyết Whitehead), vào những giả thuyết về sự tạo thành vũ trụ, sự vật (thuyết Big Bang, hay một giả thuyết khác) … Người ta cũng có thể nghĩ Thế Giới được tạo nên bởi một Ác Thần, v́ Thế Giới đầy sự ác, nhưng có hy vọng được cứu rỗi bởi một Đấng Cứu Thế được gửi đến bởi Thượng Đế Toàn Thiện. Đó là niềm tin của nhiều giáo phái thuộc trào lưu « Chứng Ngộ » Gnostique, một trào lưu của Ky Tô Giáo Nguyên Thủy, như giáo phái Manicheisme. Lại một giả thuyết !
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/
http://nguoidalat.informe.com/forum/
http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/