truocconcuchinagiaithoa
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
VAI TR̉, SỨ MỆNH CỦA KẺ SĨ, TRÍ THỨC VÀ SĨ PHU THỜI ĐẠI
CHU TẤN
I-Đại Cương:
Trước t́nh h́nh đất nước hiện nay, Công Đồng Việt Nam hải ngoại nói riêng và xă hội VN nói chung lâm vào t́nh trạng chia rẽ phân hóa, khủng hoảng lănh đạo... cũng như bế tắc về nhiều mặt?! Nhiều người đă đăt câu hỏi: Giới trí thức VN có đóng đúng vai tṛ và có thực hiện được trách nhiệm của ḿnh không?Giới trí thức có c̣n giữ được “tinh thần Kẻ Sĩ” ngày xưa hay không? Ưu và khuyết điểm cũa giới trí thức VN, cũng như vai tṛ, sứ mạng của kẻ sĩ, trí thức và sĩ phu thời đại như thế nào?. Chúng ta cùng nhau t́m hiểu và trả lời các vấn nạn trên.
II -Định nghĩa cac danh từ: Kẻ Sĩ, Trí Thức và Sĩ Phu:
A/ Kẻ Sĩ:
Căn cứ theo Từ Điển: Sĩ là người học tṛ_Người nghiên cứu học vấn_(Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh trang 192) Tuy nhiên đây chỉ là nghĩa gốc, nghĩa căn bản của danh từ. Chúng ta cần đặt chữ Sĩ trong môi trường và ư hướng của nền giáo dục theo nho học của các thế kỷ trước để hiểu chữ Sĩ hay “Kẻ Sĩ” một cách thấu đáo và sâu sắc hơn. Đành rằng Sĩ là người học tṛ, song theo quan niệm của ông cha ta xưa : “Tiên học lễ, hậu học văn” người học tṛ xưa trước khi trau dồi kiến thức (hiểu biết) phải “học Lễ” tức học luân lư đạo đức -học “làm người” trước hết, tức là đặt cái học “Thành Nhân” lên trên cái học “Thành Công” như trong thời đại chúng ta! Không những thế, các tiên nho c̣n đưa ra các châm ngôn có tính cách khuôn vàng thước ngọc cho các “kẻ Sĩ” mà tiêu biểu cho tinh thần kẻ sĩ là câu “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lac” ( lo trước nỗi lo của thiên ha và vui sau điêù thiên hạ vui” Do trên chúng ta có thể rút ra một kết luận khá chân xác về Kẻ Sĩ là:
“Người có đạo đức + kiến thức+ có lư tưởng + và trách nhiệm phụng sư tha nhân” Thiếu một trong 4 yếu tố nói trên, không phải là Kẻ Sĩ và càng không bao giờ có tinh thần “kẻ sĩ” cả!!! Lư thuyết gia Lư Đông A đă khái quát. 4 đức tính hay 4 yếu tố nói trên trong 2 chức năng chính của kẻ Sĩ là “Hướng Thượng” và “Hướng Tha”..Hướng thượng là hướng về Trời về Đạo Đức Tâm linh. C̣n “Hướng tha” là có ḷng yêu người,yêu dân tộc, yêu đồng bào và yêu nhân loại.Do trên nếu người trí thức hay “Kẻ Sĩ” nào mà không biết sống “Hướng Thượng” cũng chẳng “Hướng tha” th́ không xứng đáng là “kẻ sĩ’ hay “ người trí thức” vậy.
B/Trí Thức:
Theo Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, tác gỉa đă đưa ra định nghĩa có tính chất phổ thông, “Trí thức”:là người học giỏi , hiểu biết nhiều”.Nhưng nếu chỉ như vậy thôi th́ định nghĩa về người trí thức hoặc thiên về chuyên môn, hoặc thiên về lợi ích cá nhân và dĩ nhiên là không đầy đủ so với định nghĩa về “Kẻ sĩ” bao gồm 4 yếu tố hay 2 chức năng kể trên.
Theo Paul Alexandre Baran (một kinh tế gia và cũng là một học giả nổi tiếng Hoa Kỳ) trong bài “Thế nào là người trí thức”? (The Commitment of the intellectual) tác giả phát biểu về người trí thức là người “lao động về trí óc” và ngoài yếu tố kiến thức ra , người trí thức c̣n là người hội đủ có các yếu tố: (1) Trung lập về đạo đức (2) Khao khát chân lư (3) Tôn trọng sự thật (4) trí thức,c̣n là người phê phán xă hội…. Qua nhận định của Paul Alexandre Baran về người trí thức, chúng ta thấy định nghĩa này gần như tương đương, tương đồng với định nghĩa về vai tṛ của “kẻ Sĩ” theo quan niệm của Đông phương và Việt Nam.
C/ Sĩ Phu:
Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh “sĩ phu chính nghĩa là người đàn ông_Dùng nghĩa rộng là những người có học thức trong môt nước” (HVTĐ trang 193) hay theo Việt Nam tự điển của Lê văn Đức- Lê Ngọc Trụ hiệu đính th́ Sĩ phu: dt, Đàn ông//người tai mắt trong một xă hội (TĐVN trang 1291)Vậy theo định nghĩa của cả hai ông Đào Duy Anh và Lê văn Đức sĩ phu là người trí thức có tầm vóc quốc gia . Đây là định nghĩa phổ thông mà mọi người chúng ta đều có thể chấp nhận được. Tuy nhiên theo thiển ư của chúng tôi Sĩ Phu là người có công tŕnh Lập Đức- Lập Công- hay Lập Ngôn -Nếu không đ̣i hỏi cả “tam lập” th́ ít nhất cũng đạt được “Nhất Lập” trong “Tam lập” nói trên, mới xứng đáng là bậc Sĩ Phu.
III - TinhThần Kẻ Sĩ, Vai Tṛ Giới Trí Thức bị thử thách qua các biến cố lịch sử:
A/ Trí thức dưới chế độ thực dân Pháp:
Kể từ năm 1859 khi quân Pháp đánh chiếm Gia Định, chính thức mở đầu việc xâm lược thực hiện chế độ Thực Dân tại VN. th́ Phong Trào Chống Thực Dân Pháp từ lớp Văn Thân qúy tộc và Sĩ Phu bất khuất được dân chúng hưởng ứng theo về, bừng khởi.Tạo thành các cuộc kháng chiến anh dũng từng địa phưong .Miền Nam có Trương CộngĐịnh,Thủ khoa Huân, Nguyễn Trung Trực.Miền Trung có triều đ́nh vua Hàm Nghi nổi lên chống Pháp, Phan Đ́nh Phùng lập chiến khu Cần Vương, tiếp đến là triều đ́nh Duy Tân chống Pháp có Thái Phiên,Trần Cao Vân lập lực lượng đấu tranh. Miền Bắc có Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng HoaThám, rồi Việt Nam Quang Phục Hội và phong trào Đông Du cũng nuôi hy vọng Cần Vương. Nhưng tất cả đều bị thất bại, trước vơ khí mới củaThực dân.Các chiến khu dần dần bị phá vỡ, lănh tụ hoặc bị tử tiết, hoặc bị lưu đầy hay thoát ra hải ngoại.
Công cuộc nổi dây chống thực dân Pháp bất thành, nhưng điều đáng nói là tinh thần Kẻ Sĩ, tinh thần Sĩ Phu đă bừng sáng hơn bao giờ hết… Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ cần nêu lên tinh thần kẻ Sĩ của một số vị anh hùng như Nguyễn Trung Trực là tiêu biểu: Nguyễn Trung Trực cầm đầu nghĩa quân chống Pháp từ tháng 6 năm 1861 tại Vũng Gù (Định Tường) Ông di động luôn tại các tỉnh miền Đông, miền Tây Việt Nam và đă lập được thành tích đốt tầu Esperence tại vàm Nhật Tảo và vàm Cỏ Đông làm cho thưc dân Pháp kinh hồn bạt vía
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạc Kiên Giang khiếp qủy thần
Tại miền Trung Phan Đ́nh Phùng lập chiến khu, và ngoài bắc Đề Thám được mênh danh là con hùm sám Yên Thế đă làm cho Thực dân Pháp nhiều phen thất điên bát đảo…
Tiếp theo là các bậc sị phu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh khởi xướng phong trào Đông Du…và một người thanh niên Trẻ Nguyễn Thái Học trở thành Đảng Trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng,(24-12-1927) ông chủ trương phát động cuộc khởi nghĩa ngày 10-2-1930 “không thành công cũng thành nhân” .Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt và bị đưa ra Hội đồng Đề H́nh luận tôi, giữa hội đồng, can đảm nhận hết trách nhiệm,17-6-1930 bị đưa lên đoạn đầu đài ở Yên Bái cùng với 12 đồng chí khác. Trước khi lên đoạn đầu đài ông tuyên bố: “Nên độc lập dân tộc phải trả bằng máu” “Hoa Tư Do phải tưới bằng máu”….
B/ Trí Thức, Văn Nghệ Sĩ dưới chế độ Cộng Sản:
Đảng CSVN do Hồ Chí Minh thành lập với chủ trương lợi dụng ḷng yêu nước, đưa ra chiêu bài “đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập nước nhà” “Liên minh lien hiệp với các đảng phái quốc gia để đánh đuổi thực dân Pháp” nhưng thực chất là cướp công kháng chiến của toàn dân, giết hại các nhà lănh tụ cách mạng cũng như các nhà trí thức thuộc phe Quốc Gia như Lư Đông A, Trương Tử Anh. Nhượng Tống, Khái Hưng v.v.. để độc quyền lănh đạo đất nước .Khi có chính quyền trong tay th́ chủ trương “Trí phú địa hào đảo tận gốc trốc tận rễ” phát động phong trào đấu tố dă man trong cải cách ruộng đất …(1946- 1954)
“Một phần không nhỏ trí thức miền Nam ái quốc khác cũng bị cộng sản thủ tiêu như Bùi Quang Chiêu,Hồ văn Ngà,Trần Quang Vinh,bác sĩ Hồ Vĩnh Kư và vợ là bác sĩ Nguyễn Thị Sương, Huỳnh Phú Sổ, Lê Kim Ty,Hùynh Văn Phương, luật sư Lương Văn Giáo, nhà báo Diệp Văn Kỳ, Lê văn Vững…không theo Việt Minh sớm muộn cũng bị thủ tiêu.Trịnh Hưng Ngẫu trong một dịp gặp Trần Văn Giầu nói là ông ta có danh sách hơn 200 người cần thủ tiêu, nhưng chưa thi hành kịp.
Ngay hàng ngũ CS tranh chấp giữa xu hướng đệ tứ Trosky và đệ tam Stalin cũng đứa dến các cuộc thanh toán nội bô.Nhóm đệ tam gồm Trần Văn Giầu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo không thể chối bỏ trách nhiệm về cái chết của nhữngTạ Thu Thâu,Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm… Tàn bạo ở đây là cộng sản thủ tiêu cộng sản, thủ tiêu chính đồng chí của ḿnh.Hồi kư của Nguyễn kỳ Nam ghi “ Ngoài sự bắt bớ của chính phủ, bọn Staliniens quyết đồ sát Tạ Thu Thâu. Ấy là ở Paris mà bọn Staliniens mưu đồ sát hại Tạ Thu Thâu, người bạn của chúng ta chỉ c̣n trông cậy ờ chúng ta ,hy vọng ở chúng ta”
Kư tên: Daniel Guerin
Và về trường hợp Phan Văn Hùm: “Hùm lên miền Đông gặp Dương Bạch Mai, nói với hắn rằng: “Trước chúng ta bất đồng ư kiến về chính trị.Nay nước nhà đang cần đoàn kết chống thực dân, tôi tin rằng anh sẽ bỏ qua việc cũ” Dương Bạch Mai không trả lời, nhưng lại chỉ cho Hùm vào một pḥng bên trái, tức là nói: “một vào không ra nữa được” người ta gọi là cửa tử. Thật vậy, hai hôm sau, Phan văn Hùm bị thủ tiêu”
Tài liệu chính thức của CS cũng xác nhận điều đó qua sự lên án nhóm Trosky là “phản cách mạng”và tuyên bố: “Chính quyền nhân dân đă trừng phạt chúng để làm gương” Chúng ở đây chỉ những người theo Đệ Tứ quốc tế và trừng phạt là ám sát, thủ tiêu. Bản thân Ngô Đ́nh Diệm lẽ ra cũng bị thủ tiêu, sau khi từ chối không hợp tác với CS.Không biết v́ lư do ǵ, Hồ Chí Minh đă thả ông về.Sau này trong dịp nói chuyện với HoàngTùng năm 1981, Kamow được cho biết : “xét t́nh thế lúc đó thả Diệm là một điều sai lầm”
Nguyễn Văn Trấn, một người cộng sản đệ tam được coi là “hung thần chợ Đệm” đă tố cáo chính quyền CS miền Bắc: “Các ông đă ám hại biết bao nhiêu nhân tài miền Nam dù, Nguyễn Văn Trấn là cán bộ thừa hành trong việc thủ tiêu, ám sát các nhà trí thức miền Nam, dù trong cuốn hồi kư ông tránh nói đến vai tṛ của ḿnh. Chủ trương tận dụng bạo lực để độc bá chính trường đă làm tŕ trệ tiến tŕnh giải thực và hao ṃn tinh lực của dân tộc bằng hành vi giết hại các nhà trí thức yêu nước thuộc đủ thành phần.
(Trích Hai Mươi năm Miền Nam 1955- 1975 của Nguyễn Văn Lục trang 86-88)
Ngay cả những nhà trí thức tin tưởng và đi theo CS, cũng bị Đảng CSVN áp dụng chính sách “vắt chanh bỏ vỏ” hay cô lập ruồng bỏ không chút thương tiếc như trường hợp Nguyễn Hữu Đang. Tiến Sĩ Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường, Triết gia Trần ĐứcThảo (lớp trước) hay lớp sau này như luật sư Nguyễn Hưu Thọ, Truơng Như Tảng, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa v.v..
Số phận những nhà trí thức văn nghệ sĩ dưới chế độ CS, họ chỉ có hai con đường hoặc là sợ sệt, hèn hạ chạy theo đương quyền, bẻ cong ng̣i bút tâng bộc chế độ để hưởng bổng lộc mà chế độ CS ban phát; hai là lên tiếng đ̣i cải tiến (Chua dám chống đối) bầu không khí Tư Do Dân Chủ như trường hợp của vụ án Nhân Văn Giai Phẩm tại miền Bắc (1956) mà đă bị chế độ CS đàn áp thẳng tay, vô cùng tàn độc, thê thảm…
Nghiên cứu về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, sử gia Trần Gia Phụng đă đi dến kết luận:
“Ngay từ đầu, báo Nhân Văn khẳng định lập trường theo Đảng Lao Động, chứ không phải mở phong trào văn học hay chính trị ǵ mới Những bài báo Nhân Văn Giai Phẩm nhằm xây dựng lại xă hội miền Bắc bằng cách phê phán nền hành chánh quan liêu, t́nh trạng xă hội tệ hại sau vụ cải cách ruông đất,và nhất là phản đối những trói buộc gắt gao đối với anh em văn nghệ sĩ và trí thức trong thời b́nh. Họ đ̣i thực thi dân chủ, tôn trọng luật pháp,và tự do sáng tác trong khuôn khổ chế độ CS. Những phản kháng này ôn ḥa chỉ giới hạn trong phạm vi báo chí văn chương v́ chỉ nhắm vào những vấn đề có tính cách quản lư, xă hội và văn hóa, chứ không liên quan đến chủ trương hay ư thức hệ chính trị.Đôi khi những bài viết khá gay gắt, nhưng hoàn toàn không manh nha một hành động bạo loạn nào. Có thể giới văn nghệ sĩ và trí thức lúc đó, vẫn c̣n giữ ḷng tin vào lư thuyết cộng sản,hưa hẹn một xă hội không c̣n bất công, không có cảnh người bóc lột người nên mới lên tiếng sửa đổi và xây dựng xă hội mới.Dầu sao họ đă tỏ ra hết sức can đảm khi dấn thân phản kháng và đ̣i hỏi cởi tróivăn nghệ. Biết rằng đàn áp tù đầy đang chờ đón họ, nhưng họ vẫn cưong quyết cùng nhau lên tiếng.Một điểm son đáng qúy là dù đă bị đầy đọa một thời gian dài, đến tận cùng nỗi thống khổ của kiếp nhân sinh, nhiều gười vẫn giữ khí tiết, ḷng can đảm và óc sáng tạo cho dến cuối đời.Họ đă sống đúng như Phùng Quán đă viết:
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngă
Bút giấy tôi ai cướp dật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá
(Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc –HVC trang 121)
Những phản kháng của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm thách đố tính lănh đạo độc tài độc tôn của guồng máy cai trị của ĐảngLĐ, đă đụng phải vách tường nhân sự quan liêu, tham quyền cố vị .Sau thời gian đầu t́m hiểu t́nh h́nh, đảng này đă vũ lộng quyền uy, triệt tiêu ngay tức khắc, mọi phản kháng từ mọi phía,. Để giữ sự ổn cố chính trị,tuyệt đối ở Bắc Việt, nhằm tiến hành chiến tranh xâm lăng miền Nam , đảng LĐ đă ngụy tạo vụ án gián điệp,xét xử những người can đảm đến độ liều lĩnh như Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo. Đảng này quyết gây khiếp đảm đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ, như họ đă từng làm khiếp đảm giới nông dân,bằng cải cách ruộng đật.”
( trích Án tích Cộng Sản Việt Nam trang 205-206 của Trần Gia Phụng)
C/ Những nhà Trí Thức miền Nam dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà :
Trong biến cố 1954, hiệp định Geneve chia đôi dất nước, chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm đă về nước chấp chánh, trong mấy năm đầu, ông đă dẹp tan các giáo phái, ổn định được t́nh thế, cũng như đă đinh cư thành công gần một triệu người dân bắc Việt di cư vào Nam nên uy tín của tổng thống Diệm đă lên rất cao như môt vị cứu tinh dân tộc. Nhưng từ năm 1958 trởvề sau uy tín của nên đệ nhất cộng ḥa đă ngày môt suy giảm
“Theo ghi nhận của một nhân vật chính trường quen thuộc Bùi Diễm, tại nơi ông dạy tư,trường Phan Sao Nam từ hiệu trưởng đến giáo sư đều bất măn.Giờ giải lao giáo sư phần đông thuộc các đảng phái Duy Dân , Đại Việt Quốc Dân Đảng tụ tập quanh chén trà chỉ trích chính phủ, thời điểm đó, nhiều trí thức dấn thân tham gia đảng phái chọn việc giảng dạy tại các trường tư thục như giai đoạn chờ thời, chuẩn bị hành động khi cơ hội đến.
Vào thời gian này cuộc sống người dân đă có nhiều cải tiến.Về giáo dục, các trường tiểu học, trung học được thành lập từ cấp tỉnh đến quận.Về y tế, mỗi tỉnh đều có trạm y tế và nhà thương. Vấn đề đào tạo giáo viên, y tá cán sự y tế, giáo sư được đẩy mạnh, các trường đại học, kỹ thuật, hành chánh, các trường vơ bị mỗi năm đă đào tạo một số lượng chuyên viên, sĩ quan đáp ứng đủ nhu cầu.
Thành qủa này đă tạo ra một lớp trí thức trẻ thành thị tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tây phương, như chủ nghĩa hiện sinh, thậm chí cả chủ nghĩa cộng sản do khung cảnh học đường khoáng đạt .Họ cũng tiếp nhận với nhiều ḍng văn hóa, văn học ngoại quốc do không khí sinh hoạt tự do nên tương đối có một tŕnh độ nhận thức cao và nhạy bén với các vấn đề chính trị từ thực chất của chế độ đến thân phận con người tại các nước nhược tiểu .Lớp trí thức trẻ này về sau đă trở thành thành phần chủ lực trong các phong trào đ̣i hỏi dân chủ cũng như trong biến cố Phật giáo 1963.
T́nh trạng bất măn thực sự công khai vào ngày 26 tháng 4 năm 1960 với sụ kiện 18 nhânsĩ trí thức tiêu biểu của miền Nam họp tại khách sạn Caravelle phổ biến bản tuyên ngôn gửi Tổng Thốn g Ngô Đ́nh Diệm,kư tên trên bản tuyên ngôn gồm các nhân vật Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Nhật Linh- Nguyễn Tường Tam,Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu,Phan Huy Quát, Trần Văn Lư, Nguyễn Tiến Hỷ, Trần Văn Đỗ, Lê ngọc Trấn,Lê Quang Luật,Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên,Phạm Hữu Chương,Trần Văn Tuyên,Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất và linh mục Hồ Văn Vui là đại diện cho nhiều thành phần trí thức của cả 3 miền Nam Trung Bắc, của các tôn giáo, các khuynh hướng chính trị khác nhau và có nhiều người từng cộng tác với chính quyền như Lê Quang Luật,Nguyễn Tăng Nguyên, Trần Văn Đỗ v.v..Do đó có tên nhóm Caravelle và sau thường được nhắc như môt kháng thư đ̣i hỏi TổngThống Diệm từ chức.
Dù hành động của nhóm Caravelle bị đánh giá là quá yếu, nhưng vẫn biểu hiện ư thức dấn thân của giới trí thức miền Nam, trí thức không c̣n đứng bên lề để đàm tiếu hay bàn luận xuông mà đă quyết định nhập cuộc với các yêu cầu cụ thể đặt ra cho ngựi lănh đạo đất nước, trong tinh thần sẵn sàng chi xẻ trách nhiệm. Đáng kể hơn nữa là đă có sự nôí kết giữa một tập thể tuy không đông đảo, nhưng vẫn cho thấy một bước tiến rời xa t́nh trạng đánh lẻ của cá nhân, từng kéo dài qua nhiều năm tháng.Tuy nhiên việc công bố lá thư cũng cho thấy trong lănh vực đấu tranh, giới trí thức miền Nam chưa vượt khỏi tầm nh́n chật hẹp và lạc hướng vốn có.
Nhóm Caravelle dấn thân tranh đấu vơí ư lo toan cho cuộc sống con người, nhưng những nhân vật trí thức tiêu biểu của miền Nam lại gần như gạt hết mọi thành phần dân chúng sang một bên lề, coi đó là những người ngoại cuộc. V́ vậy hành động đấu tranh không gây được ảnh hưởng, không thu hút nổi sự hỗ trợ, thậm chí c̣n bị phê phán là hành vi tranh giành quyền lợi cá nhân, phe phái.
Việc lựa chọn địa điểm sang trọng để hôp báo và giới hạn đối tượng vào một thiẻu số chọn lọc dựa trên tiêu chuẩn học vị và địa vị xă hội đă là lư do chủ yếu cô lập hóa nhũng người dấn thân tranh đấu và mức hiệu qủa đóng góp của trí thức giới vào công cuộc chung đă không thể như mong muốn dù hết thẩy đều mang nặng nhiệt t́nh.
Từ đây một thực cảnh đă hiện đến với không ít người là quay cuồng giữa cơn lốc che mờ lối thoát .Nhiệt t́nh phụng sự luôn nhắc nhở phải dấn thân nhưng vốn liếng kinh nghiệm đấu tranh hạn chế không thể thoát khỏi cảnh bó tay (Trích Hai mươi Năm miền Nam 1955- 1975 –tác giả Nguyễn văn Lục trang 89-93)
IV Những Ưu và Khuyết điểm của Giới Trí Thức Việt Nam:
A/Ưu Điểm:
1. Đẳng cấp Sĩ (xưa) và trí thức (nay) thuộc thành phần lao động trí óc nên có cuộc sống an nhàn và thường có địa vị tốt và cao trong xă hội.
2. Giới trí thức được coi là Nguyên Khí của Quốc Gia
3. Kẻ Sĩ hay giới trí thức là nhũng người tiên tri, tiên giác, là tinh hoa cua Dân Tộc là lương tâm con người, và thời đại.
4. Thường được quần chúng nhân dân nể v́ kính trọng.
5. Chế độ chính trị tốt (Vương đạo) luôn luôn kính hiền đăi Sĩ, trọng dụng kẻ sĩ, trí thức, sĩ phu, chỉ có chế độ độc tài mới sợ trí thức,canh chừng trí thức và đàn áp trí thức mà thôi.
B/ Khuyết Điểm:
1. Thiếu tinh thần mạo hiểm,thiếu óc sáng tạo
2. Đa phần giớí trí thức c̣n mang “tâm lư nho quan” “thích làm lănh tụ …”
3. Thiếu hay “lười nghiên cứu” các nển văn hóa văn minh trên thế giới đến nơi đến chốn
4. Chưa đi sâu vào “Tâm Đạo” nên chưa vượt được ḿnh và cũng do dó chưa có sáng tạo lớn.
5. Thiếu Viễn kiến vể Văn Hóa-Tôn Giáo- Chính Trị trên tầm vóc thế giới
6. Chưa thấm nhuần triết lư “tri- hành-Sống hợp nhất “nên có lư tưởng” mà “thiếu thực dụng”.
7. C̣n nặng vể “cái ta” thiếu tinh thần hoà hợp chưa “get along” được với tập thể trí thức
8. Thiếu óc Tổ chức – chưa sáng tạo ra một hay nhiều quan niệm tổ chức Đảng Phái kiểu mới và Liên Minh kiểu mới thích hợp với nển triết Lư Nhân Chủ Toàn Triển, và Nhân Chủ Toàn Cầu.
9. Chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của Quần chúng nên chưa biết hoà ḿnh vào quần chúng
10. Chưa đi sâu vào Đạo Sống Dân Tộc và Hồn Tính Dân Tộc.
11. Chưa thực sự phản tỉnh thâm uyên, chưa Đại Thức Tỉnh để vượt ḿnh.
12. Chưa (chuẩn bị ) Tập Đại Thành Văn Hoá Việt Nam- Văn Hoá Đông Phưong và Tây Phương.
V- Sứ Mệnh,Vai Tṛ Của Kẻ Sĩ, Trí Thức, Sĩ Phu Thời Đại:
A/ Bài học lịch Sử:
Kinh qua 3 giai doan lịch sử: Thời kỳ Pháp Thuộc, Chế dô CS 1954-2010; và Việt Nam Cộng Ḥa (1955-1975) chúng ta thấy tinh thần Kẻ Sĩ, vai tṛ và sứ mệnh của giới trí thức sĩ phu như thế nào? Giới trí thức có làm tṛn trách nhiệm của ḿnh không? tại sao?
Để trả lời vấn nạn trên đây.Căn cứ vào thực tế lịch sử, chúng ta có thể tóm tắt vào mấy điểm sau đây:
Một là: Tinh Thần kẻ Sĩ (xưa) hay tinh thần của giới trí thức (nay) vẫn c̣n, vẫn kiên cường bất khuất trước bạo lực, và vẫn bền bỉ đấu tranh, chống độc tài áp bức, đ̣i tư do độc lâp cho đất nước, đ̣i Nhân Quyền Dân Chủ Tư Do cho toàn thể nhân dân Việt Nam
Hai là: Tuy tinh thần kẻ sĩ vẫn c̣n, tinh thần giới trí thức vẫn cao, nhưng giới trí thức đă không đóng nổi vai tṛ dẫn đạo lịch sử, dẫn đạo cho chính trị mà c̣n bi các thế lực chính trị bá đạo độc tài đẩy giới trí thức sang bên lề lích sử, thậm chí giới trí thức c̣n trở thành “nạn nhân” của lịch sử (Số trí thức bị CS và các chế độ độc tài quân phiệt cầm tù giết hại hay thủ tiêu rất nhiềulà những bằng chứng xác thực chứng minh cho nhân định này.)
Ba là: Khi vai tṛ của kẻ sĩ hay giới trí thức bị thực tế lịch sử phủ nhận th́ đương nhiên giới trí thức đă không làm tṛn trách nhiệm hay sứ mệnh cứu dân cứu nước của ḿnh. Nói khác đi giới trí thức đă thất bại không chu toàn được trách nhiệm hay sứ mạng của ḿnh đối với quốc dân
Bốn là: V́ sao giới trí thức nói riêng và phe quốc gia nói chung, bị thất bại trước tà quyền Cộng sản? Về phương diện chủ quan, Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện đă thay chúng ta trả lời câu hỏi này:
V́ ấu trĩ thờ ơ u tối
V́ muốn an thân v́ tiếc máu xương
Cả nước đă thu về một mối
Một mối hận thù một mối đau thương
Năm là: Về phương diện khách quan, Giới trí thức nói riêng và các đảng phái quốc gia nói chung, đă thất bại trước tà quyền CS hay các chế độ độc tài quân phiệt v́ các lư do sau:
· Thiếu chủ đạo Văn Hóa-Chưa phát huy được Nhân Chủ Đạo,
· Chưa thấy rơ tầm quan trọng giữa Văn Hóa-Tôn Giáo và Chính Trị tác động vào thời đại như thế nào.
· Chưa nắm được tinh hoa của nền Dân chủ Tây Phương đă được triển khai và thành tựu rực rỡ nhất tại Hoa kỳ.
· Chưa vận động được THẾ QUỐC TẾ hậu thuẫn và có lợi nhất cho công cuộc đấu tranh giành tư do dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam.
· Chưa phát huy được Dân Tộc Tính và Dân Tộc Đạo.
· Thiếu triết lư và quan niệm TỔ CHƯC mới.
· Chưa vận động được khối Đoàn kết toàn dân thành một sức mạnh Tổng Hợp.
B/ Vai tṛ, Sứ mệnh Mới của giới Trí Thức, Sĩ Phu Thời đại.
1. Giới Trí Thức, Sĩ Phu Thời Đại thấm nhuần Đạo Tâm sẽ thắp sáng được ngọn Lửa Thiêng Nhân Chủ Toàn Dân và Nhân Chủ Toàn Cầu. (Đây là ch́a khoá mở tất cả các cánh cửa thời đại.)
2. Giới trí thức sĩ phu thời đại cần nắm vững tinh hoa của nền Dân Chủ Hoa Kỳ để h́nh thành những nguyên lư và nguyên tắc căn bản phục hưng , kiến thiết đất nước.
3. Giới trí thức, sĩ phu thời đại thấm nhuần Việt tính, Đạo Sống Dân Tộc sẽ phát huy và sáng tạo ra những bảng giá trị mới, đưa đất nước đến giầu mạnh và làm Vinh Quang Việt Nam.
4. Giới trí thức sĩ phu thời đại cần thâm cứu, chuẩn bị tinh thần cho cuộc Đại Ḥa Điệu Văn hóa Đông Phương- Văn Hóa Việt Nam- và Văn Hóa Tây Phương.
5. Hơn bao giờ hết, giới trí thức, sĩ phu thời đại cần có viễn kiến Văn Hóa Tôn Giáo Chính Trị toàn cầu mới khai phóng đưọc lịch sử và thóat ra khỏi mê cung của thời cuộc.
6. Giới trí hức, sĩ phu thời đại cần phản tỉnh thâm uyên, (chữ dùng của nhà Văn hóa Lư Đông A) và đại phản tỉnh để tự vượt chính ḿnh.
7. Giới trí thức sĩ phu thời đại cần có quan niệm tổ chức mới thích hợp với thời đại mới,& kỷ nguyên Nhân Chủ toàn cầu.
8. Giới trí thức và sĩ phu thời đại cần hoà ḿnh với quần chúng quốc dân để đại doàn kết quốc dân,kết sinh Dân Tộc
9. Giới trí thức và sĩ phu thời đại với sứ mệnh: Cứu Quốc+ Kiến Quốc, Hướng Thượng và Hướng Tha cùng thắt giải Đồng Tâm ./.
Chu Tấn.
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/
http://nguoidalat.informe.com/forum/
http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/