giaithoa

 

 

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

NT Kiên, Kim Âu, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan, NT Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 VIẾT CHO ĐÚNG SỰ THẬT LỮ GIANG VS TRẦN GIA PHỤNG

 

Xưa nay tôn giáo và chính trị là những đề tài dễ gây tranh luận và có khi dẫn đến xỉ vả nhau. Sự tranh luận càng dễ gay gắt khi những người trong cuộc có định kiến. Và đó cũng là chuyện b́nh thường. Vào năm 2009 đă có sự tranh luận liên quan về lịch sử và tôn giáo giữa hai cây bút nổi tiếng ở hải ngoại – Lữ Giang ở Quận Cam và Trần Gia Phụng ở Toronto.

 

Diễn đàn cho đăng cả hai bài viết để rộng đường dư luận.

 

Viết cho đúng sự thật

 

Lữ Giang

 

Ông Trần Gia Phụng nghiên cứu khá nhiều sử liệu, nhất là cổ sử, nhưng khi tŕnh bày, ông thường cố gắng viết “theo lề đường bên phải”, viết cho “hợp với ḷng dân”, hợp với dư luận ngoài phố hơn là sự thật, do đó ông thường được hoan nghinh và có khi c̣n được tôn là “sử gia” hay “đại sử gia”. Một thí dụ cụ thế:

 

Trong bài “Chuyện một chiếc ải đă mất”, khi nói về ải Nam Quan, ông nh́n nhận theo cổ sử:

“Danh từ “Nam Quan” do triều đ́nh Trung Hoa đặt, có nghĩa là cánh cửa mở xuống hay đi xuống phía nam. Như thế, khi xây dựng cửa ải Nam Quan, triều đ́nh Trung Hoa chính thức xác nhận đây là biên giới phía nam của nước Trung Hoa, giống như Nhạn Môn Quan là cửa ải cực bắc Trung Hoa. Mỗi lần sứ quan một trong hai nước bước qua cửa ải là tiến vào địa phận nước bên kia.”

 

Sau khi Trung Quốc xây ải Nam Quang xong, người Tàu xây ở phía bắc ải một nhà tiếp tân gọi là “Chiêu Đức Đài”, ta cũng xây một nhà tiếp tân ở phía nam ải gọi là “Ngưỡng Đức Đài”. Như vậy là Tàu “Chiêu” (khiến cho tới với ḿnh), c̣n ta “Ngưỡng” (ngẩng mặt nh́n lên)!

 

Tuy nhiên, để vọng theo tiếng khóc ải Nam Quan (của Tàu) đang vang lên ở ngoài phố, “sử gia” Trần Gia Phụng đă phán rằng ải Nam Quan có hai phần: “phần kiến trúc do chính quyền Trung Hoa xây dựng từ thế kỷ 16 gồm có cửa quan và những cơ sở phụ thuộc phía bắc ải” là của Tàu, c̣n phần thứ hai là Ngưỡng Đức Đài (cái nhà tiếp tân) và hai dăy hành lang tả hữu do Đại Việt xây là phần ải Nam Quan của ta! Nói cách khác, ông đă biến cái nhà tiếp tân của ta thành một phần của ải Nam Quan để “ḥa cả làng”! Với tài biến hóa sử “theo ḷng dân”, theo “lề đường bên phải” này, ông quả là một nhà “lái sử” tài t́nh!

 

Tuy nhiên, khi viết bài “Lư do cuộc đảo chính 1.11.1963” đăng trên dcvonline.net ngày 4.11.2009 và một số websites khác như tuoitrevhn.com, v.v, ông không c̣n biến chế sử “theo ḷng dân” nữa mà viết phịa sử. Ông đă lựa chọn những “sử liệu” nhảm nhí do những kẻ có tŕnh độ ấu trỉ về xuyên tạc lịch sử tung ra để làm căn bản cho bài viết của ḿnh.

 

Ông bắt chước Đỗ Mậu hay Vũ Ngự Chiêu chỉ t́m trích dẫn những “sử liệu” phù hợp với mục tiêu “oanh tạc” của ông, mặc dầu đó là những “sử liệu” rất nhảm nhí, và bỏ qua những sử liệu chính thức, có căn bản không thể chối căi được. Ông cũng không cần biết đến một tài liệu quan trọng là bản phúc tŕnh điều tra về vụ Phật Giáo năm 1963 của phái đoàn Liên Hiệp Quốc và các tài liệu đă được giải mă trong hơn 10 năm trở lại đây!

 

V́ bài “Lư do cuộc đảo chính 1.11.1963” khá dài, trong bài này chúng tôi chỉ xin đề cập đến mục 2 nói về “Dụ số 10 và vấn đề tôn giáo”. Chúng tôi sẽ đề cập đến những mục khác trong những lần tiếp theo.

 

Trong mục nói về nói về “Dụ số 10 và vấn đề tôn giáo” ông đă đề cập đến hai vấn đề: Vấn đề thứ nhất: Ông trích dẫn phịa sử để chứng minh rằng Dụ số 10 do chính phủ Trần Văn Hữu ban hành đă ưu đăi Thiên Chúa Giáo và “quy định các tôn giáo và hội đoàn chỉ được treo cờ trong khuôn viên nơi thờ phượng, hoặc trụ sở hội đoàn mà thôi”.

 

Vấn đề thứ hai c̣n khôi hài hơn: Ông cũng viện dẫn phịa sử để cho rằng Tổng Giám mục Huế Ngô Đ́nh Thục lúc đó đă vận động để được Ṭa thánh La Mă phong chức Hồng Y nên t́m cách báo cáo láo với Ṭa Thánh rằng số tín đồ trong tổng giáo phận ông gồm hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị, chiếm 80% dân số khu vực. Ông ngăn cản treo nhiều cờ Phật Giáo để Toà Thánh thấy báo cáo của ông đúng, từ đó đưa tới biến cố Phật Giáo ở Huế năm 1963!

 

 

V́ ông Trần Gia Phụng vốn được tôn là “sử gia” hay “đại sử gia”, nên chúng tôi thấy cần phải tŕnh bày hai vấn đề này lại một lần để mọi người, nhất là các tăng sĩ Phật Giáo (đặc biệt là Hoà Thượng Chơn Thành) cho đến nay vẫn c̣n ôm Dụ số 10 như một vơ khí tấn công, biết rơ sự thật và hiểu được ông Trần Gia Phụng đă viết sử như thế nào.

 

NÓI CHO RƠ VỀ DỤ SỐ 10

 

Ông Trần Gia Phụng đă viết như sau:

 

“Chính sách tôn giáo của chính phủ Diệm dựa trên Dụ số 10 do chính phủ Trần Văn Hữu ban hành ngày 6.8.1950 dưới thời quốc trưởng Bảo Đại. Dụ nầy ấn định quy chế các hiệp hội, gồm có 5 chương, 45 điều. Điều 1 của dụ nầy sắp các tôn giáo, trừ Ky-Tô giáo, vào loại hiệp hội thường (như hội thể thao, hội đua ngựa...); trong khi điều 45 của dụ nầy cho biết sẽ ấn định quy chế đặc biệt cho các hội truyền đạo Ky-Tô và các hội Hoa kiều. Dụ nầy cũng quy định các tôn giáo và hội đoàn chỉ được treo cờ trong khuôn viên nơi thờ phượng, hoặc trụ sở hội đoàn mà thôi”.

 

Đây là những chuyện biạ đặt và dựng đứng v́ thiếu hiểu biết về luật pháp và lịch sử.

 

1.- Ai ban hành Dụ số 10?

 

Dụ là một đạo luật, chỉ có vua, quốc trưởng hay tổng thống mới có quyền ban hành. Thủ tướng không có quyền. Vậy ai đă ban hành Dụ số 10 ấn định quy chế hiệp hội cho toàn nước Việt Nam?

 

Dụ số 10 không phải do chính phủ Ngô Đ́nh Diệm ban hành hay do thực dân Pháp để lại như Giáo Hội Ấn Quang đă xác quyết. Dụ này do Bảo Đại kư tại Vichy, Pháp, ngày 6.8.1950, được đăng vào Công Báo Việt Nam số 33 ngày 19.8.1950.

 

Dưới thời Pháp thuộc, trên đất nước có nhiều quy chế lập hội khác nhau do chính quyền Nam Triều và chính quyền Pháp ban hành. Tại Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp, và các vùng nhượng địa của Pháp như Đà Nẵng, Hà Nội và Hải Pḥng, quy chế hiệp hội ấn định do Luật về Hiệp Hội 1901 (Les associations loi 1901) và các văn kiện kế tiếp của Pháp được áp dụng. T́nh trạng này không phù hợp với một quốc gia độc lập và thống nhất nữa.

 

Theo Luật sư Trần Văn Tuyên kể lại, sau khi chính phủ Nguyễn Phan Long được thiết lập do Sắc Lệnh số 6/QT ngày 21.1.1950 của Quốc Trưởng Bảo Đại, chính phủ này đă quyết định biên soạn một quy chế hiệp hội chung cho cả nước. Nhưng công việc này chưa hoàn tất th́ cuối tháng 4 năm 1950 chính phủ Nguyễn Phan Long bị giải tán. Chính phủ Trần Văn Hữu được thiết lập do Sắc Lệnh số 37/CP ngày 6.5.1950 để thay thế chính phủ Nguyễn Phan Long.

Trong chính phủ mới này, Luật sư Trần Văn Tuyên được cử làm Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng. Ông cho biết khi ông làm Bộ Trưởng được ít lâu th́ Phủ Thủ Tướng nhận được dự luật về quy chế lập hội do Bộ Nội Vụ và Bộ Tư Pháp phối hợp soạn thảo và đệ tŕnh.

Ông đă xem và thấy đa số các điều khoản chính trong dự luật này đều dựa theo quy chế lập hội của Pháp với một số sửa đổi cho phù hợp với t́nh h́nh tại Việt Nam lúc đó. Ông đă tŕnh Thủ Tứng Trần Văn Hữu phê chuẩn và gởi qua Pháp cho Bảo Đại kư, v́ lúc đó Bảo Đại đang ở Pháp.

Luật về Hiệp Hội 1901 của Pháp vẫn c̣n được áp dụng ở Pháp cho đến ngày nay. C̣n Dụ số 10 ngày 6.8.1950 vẫn được áp dụng tại miền Nam cho đến ngày 30.4.1975 và khi ra hải ngoại, các đoàn thể của người Việt khi soạn nội quy cho các đoàn thể của ḿnh cũng thường phỏng theo Dụ này.

 

2.- Ở mô cũng như rứa!

 

Khi phê phán Điều 1 của Dụ số 10 “sắp các tôn giáo, trừ Ky-Tô giáo, vào loại hiệp hội thường (như hội thể thao, hội đua ngựa...)” ông Trần Gia Phụng không hề biết rằng các quốc gia lớn trên thế giới (như Pháp và Mỹ) cũng quy định không khác ǵ Dụ số 10, v́ Dụ số 10 cóp luật về hiệp hội của Pháp. Điều 1 của Dụ số 10 đă quy định như sau:

“Hội là hiệp ước của hai hay nhiều người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo, chính trị, từ thiện, thể thao và đồng nghiệp ái hữu.

“Muốn có hiệu lực th́ hội nào cũng phải hợp với nguyên tắc chung của pháp luật về khế ước và nghĩa vụ.”

Rơ ràng là điều 1 của Dụ số 10 đă phỏng theo điều 1 của luật về hiệp hội của Pháp năm 1901:

“L'association est la convention par laquelle deux ou plusieurs personnes mettent en commun d'une façon permanente leurs connaissances ou leur activité dans un but autre que de partager des bénéfices. Elle est régie quant à sa validité, par les principes généraux du droit applicable aux contrats et obligations.”

Ở Mỹ, hầu hết các hiệp hội bất vụ lợi đều được thiết lập v́ lư do tôn giáo, bác ái, văn học, khoa học hay giáo dục.

Luật thuế vụ liên bang của Mỹ [Federal 501(c)(3) Status] đă định danh 5 thứ hiệp hội bất vụ lợi có thể được miễn thuế, đó là các hiệp hội có mục đích bác ái, các tổ chức khoa học (scientific organizations), các tổ chức giáo dục (educational organizations), các hiệp hội có mục đích văn học, và các nhóm tôn giáo (religious groups)

Trong bài thuyết pháp trong chương tŕnh “Tiếng Từ Bi” vào lúc 8 giờ tối ngày 8.11.2007 trên đài phát thanh Little Saigon ở Orange County, Hoà Thượng Chơn Thành có nói rằng “trong thời Pháp thuộc thực dân Pháp đưa Phật Giáo vào trong cái tṛng của Đạo Dụ số 10 gióng như là một hiệp hội đá banh, hiệp hội đua ngựa, vân vân...”

Luận điệu này đă được ông Trần Gia Phụng nhai lại như đă nói trên. Nay qua Mỹ, Hoà Thượng Chơn Thành cũng đưa Phật Giáo vào hội non-profit v́ mục đích tôn giáo để có thể hoạt động hợp pháp và được miễn thuế, nó có khác ǵ hoạt động theo Dụ số 10 ở Việt Nam đâu? Ở mô cũng như rứa. Qua Pháp lại càng gióng hơn.

Thật ra, Giáo Hội cũng chỉ là một hiệp hội, nhưng người Thiên Chúa Giáo gọi là Giáo Hội (Church) v́ đó là chữ được dùng trong Thánh Kinh (Mat. 16,19). Không hiểu năm 1964, khi 11 tổ chức Phật Giáo Việt Nam thành lập một tổ chức Phật Giáo thống nhất, họ cũng dùng chữ Giáo Hội (Church). Vậy chữ Church đó lấy từ đâu?

 

3.- Dụ số 10 không quy định việc treo cờ

Ông Trần Gia Phụng đă căn cứ vào điều nào trong Dụ số 10 để nói rằng “Dụ nầy cũng quy định các tôn giáo và hội đoàn chỉ được treo cờ trong khuôn viên nơi thờ phượng, hoặc trụ sở hội đoàn mà thôi”? Chúng tôi tin chắc khi viết như vậy, “đại sử gia” Trần Gia Phụng chưa bao giờ được đọc bản văn Dụ số 10 nên đă nói bừa. Trong Dụ số 10 không có điều khoản nào quy định như vậy cả.

Năm 1962, Bộ Nội Vụ đă ban hành văn kiện ấn định thể thức treo cờ tại những nơi thờ tự trong những buổi lễ tôn giáo theo sự thỏa thuận của các tôn giáo. Trong buổi thuyết tŕnh cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc điều tra vụ Phật Giáo, Tướng Trần Tử Oai có nhấn mạnh: “Như thế, sự quy định của Chính Phủ về vấn đề treo cờ là chung cho tất cả các tôn giáo không có thiên vị tôn giáo nào.”

 

4.- Nguỵ luận v́ thiếu hiểu biết

Điều thứ 44 (không phải điều 45 như ông Trần Gia Phụng nói) của Dụ số 10 có quy định: “Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô và các Hoa kiều Lư sự hội sẽ ấn định sau.”

Căn cứ vào điều luật này, các tăng sĩ Phật giáo đấu tranh và ông Trần Gia Phụng cho rằng Dụ số 10 đă ưu đăi Thiên Chúa Giáo (không nhắc ǵ đến Hoa Kiều Lư Sự Hội)! Đây là một lối nguỵ luận v́ thiếu hiểu biết. Chúng tôi tin chắc rằng các tăng sĩ đấu tranh và “đại sử gia” Trần Gia Phụng chưa bao giờ đọc biên bản h́nh thành Dụ số 10 hay phỏng vấn những người tham gia h́nh thành Dụ số 10 nên đă ngụy luận như vậy.

Theo thỏa Ước Việt – Pháp được kư kết giữa Bảo Đại và Tổng Thống Vincent Auriol của Pháp tại điện Élysée ngày 8.3.1949 và các hiệp định thi hành thỏa ước này được Quốc Trưởng Bảo Đại và Cao Ủy Pháp Pignon kư ngày 30.12.1949 tại Toà Đô Chánh Sài G̣n, Pháp công nhận Việt Nam có tổ chức hành chánh riêng, tư pháp riêng, tài chánh riêng, quân đội riêng, liên hệ ngoại giao riêng, v.v. Tuy nhiên, Khoản I của thỏa ước đă đưa ra một giới hạn như sau:

 

“Sự cai trị các sắc dân không phải là người Việt Nam... sẽ được cứu xét bằng quy chế riêng… Các quy chế này phải được sự thỏa thuận của Đại Diện Chính Phủ Cộng Hoà Pháp Quốc, vẫn c̣n có trách nhiệm đối với họ.”

Từ năm 1960, khi chưa có vụ Phật Giáo, ông Vũ Quốc Thông, Giáo Sư Đại Học Luật Khoa Sài G̣n, giải thích rằng việc quy định những vấn đề liên quan đến chính sách ngoại giao hay các luật lệ liên quan đến người Pháp và ngoại kiều sinh sống tại Việt Nam, đều phải có sự đồng ư của Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, chính phủ Việt Nam mới được ban hành. Do đó, muốn ban hành các quy chế về các hội truyền giáo của Thiên Chúa Giáo và của Hoa Kiều đang hoạt động tại Việt Nam như Société des Missions Etrangères de Paris, Protestant Mission, Chinese Congregations, v.v..., đều phải có sự đồng ư của Pháp mới ban hành được.

(Vũ Quóc Thông, Việt Nam Tự Do, Chính Thể Cộng Ḥa Nhân Vị, Nguyệt san Quê Hương số 16, ngày 16 tháng 10 năm 1960, tr. 1 - 39 và 247 – 262).

 

Công Giáo Việt Nam lúc đó đang đặt dưới quyền của Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris (Société des Missions Etrangères de Paris) của Pháp và có một quy chế riêng do Pháp ấn định. Ngày 27.12.1886 Pháp cũng đă chính thức hóa quy chế bang hội của người Hoa tại Việt Nam và đặt dưới sự kiểm soát của Pháp. Theo thỏa ước Élysée, muốn ấn định quy chế của hai tổ chức này, Việt Nam phải tham khảo ư kiến của Pháp trước khi quy định. V́ thế, điều 44 Dụ số 10 phải quy định: “Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia tô và các Hoa Kiều Lư Sự Hội sẽ ấn định sau.”

Như vậy, một “chế độ đặc biệt” được nói ở đây không phải để ưu đăi Thiên Chúa Giáo và các Hoa Kiều Lư Sự Hội, mà v́ bị kẹt thỏa ước Élysée. Vă lại, lúc đó ngoài Công Giáo ra, đă có tôn giáo nào thành lập Giáo Hội đâu mà nói chuyện ưu đăi hay không ưu đăi?

Điều đáng tiếc là các nhà sư đấu tranh lại vinh vào điều 44 của Dụ số 10 như một nguỵ luận để chống ông Diệm và nay được “đại sử gia” Trần Gia Phụng nhai lại!

Sau này, Bộ Nội Vụ cũng đă soạn một quy chế tôn giáo theo mô thức của Pháp, nhưng khi chính phủ Phan Huy Quát đem ra hỏi ư kiến th́ bị các tôn giáo phản đối mạnh mẽ nên phải dẹp bỏ.

 

5.- Bể tan v́ “chế độ đặc biệt”

 

Sau cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, 11 Giáo Phái và Hội Đoàn Phật Giáo đă họp tại Chùa Xá Lợi ngày 4.1.1964 và biểu quyết một Bản Hiến Chương thành lập Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất, đưa ra những quy định nằm trên và ngoài luật pháp quốc gia. V́ thế, khi bản Hiến Chương này được tŕnh lên Bộ Nội Vụ, Bộ này đă chiếu Dụ số 10, ban hành Nghị Định số 329-BNV/KS ngày 24.3.1964 cho “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được phép thành lập trong khôn khổ luật lệ hiện hành”. Nghị Định này do Tướng Tôn Thất Đính, Tổng Trưởng Nội Vụ kư tên.

Tuy nhiên, khi Tướng Khánh lên làm Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng kiêm Thủ Tướng, để lấy ḷng Phật Giáo, Tướng Khánh đă kư Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964 phê chuẩn Hiến Chương nói trên, ban cho GHPGVNTN một “chế độ đặc biệt” nằm trên và ngoài luật pháp quốc gia.

Chính “chế độ đặc biệt” này và những tranh chấp nghiêm trọng và đẩm màu trong nội bộ đă làm GHPGVNTN bể thành Giáo Hội Ấn Quang và Giáo Hội Việt Nam Quốc Tự. Chính phủ đă ban hành Sắc Luật số 023/67 ngày 18.7.1967 chuẩn y Hiến Chương ngày 14.3.1967 của Giáo Hội Việt Nam Quốc Tự và thu hồi Hiến Chương của Giáo Hội Ấn Quang khiến Giáo Hội này phải hoạt động ngoài ṿng luật pháp.

Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, Giáo Hội Ấn Quang lại bể thành giáo hội quốc doanh và giáo hội không quốc doanh. Ra hải ngoại, giáo hội này lại bể ra thành Giáo Hội Liên Tông và Giáo Hội Ấn Quang. Mới đây, đa số các tổ chức Phật Giáo hải ngoại đă thành lập GHPGVNTN Liên Châu tách ra khỏi GHPGVNTN của Ḥa Thượng Quảng Độ. Điều này cho thấy một “chế độ đặc biệt” là rất tai hại.

Những dẫn chứng trong phần này đă cho thấy ông Trần Gia Phụng là người viết sử rất cẩu thả, không nghiên cứu đến nơi đến chốn trước khi viết, ngay cả Dụ số 10 ông cũng chưa hề đọc mà dám viết về Dụ này!

 

CHUYỆN GIẢ MẠO SỐ GIÁO DÂN

 

Ông Trần Gia Phụng dẫn chứng rằng Đức Tổng Giáo Mục Ngô Đ́nh Thục đă ngụy tạo số giáo dân trong tổng giáo phận Huế của ông để vận động làm Hồng Y, đưa tới biến cố Phật Giáo năm 1963. Đây là một chuyện hoàn toàn bịa đặt.

Thật ra, ông Trần Gia Phụng chỉ nhai lại luận điệu của Thích Trí Quang, một thiền sư đại vọng ngữ (nói điều sai quấy) trong thế kỷ 20 của Phật Giáo Việt Nam, đưa tới nhiều nghiệp chướng liên tục và kéo dài.

Trong tập “Tiểu truyện tự ghi” Thích Trí Quang có nói đến nguyên nhân đưa đến biến cố Phật Giáo năm 1963 như sau:

“Vatican điều tra thấy Huế, địa phận của Tổng giám mục Ngô đ́nh Thục, sao mà Phật giáo nhiều quá: Phật đản th́ cờ Phật giáo đầy 2 bên đường từ Huế ra Lavang, kiệu đức mẹ th́ từ Lavang vào Huế không có cờ của Vatican. Ông Ngô đ́nh Diệm bèn bắt công chức Huế kê tên cả nhà để đưa cho anh ḿnh báo cáo là giáo dân, và Phật đản 2507 (1963) th́ triệt hạ cờ Phật giáo để Vatican thấy dân Huế theo anh ḿnh hết rồi.”

Đây là chuyện không không thể xẩy ra được v́ ba lư do chính sau đây:

 

(1) Nếu lúc đó Toà Thánh Vatican muốn nâng một giáo sĩ Việt Nam lên làm Hồng Y th́ người đó phải là Tổng Giám Mục Hà Nội hay Sài G̣n chứ không phải là Huế.

(2) Số giáo dân được rửa tội hàng năm đều phải ghi vào sổ rửa tội và báo cáo cho Toà Thánh biết, nên ông Diệm không thể muốn bắt ghi bao nhiêu giáo dân cũng được.

(3) Việc suy cử một giáo sĩ làm Hồng Y thường dựa vào đề nghị của Hội Đồng Giám Mục và Khâm Sứ Ṭa Thánh chứ không bao giờ dựa vào những chuyện vớ vẫn như thế.

Những dẫn chứng trong đoạn này cho thấy ông Trần Gia Phụng đă cố ư dựa vào những sự kiện nhảm nhí để viết sử!

 

VIẾT THEO “LỀ ĐƯỜNG BÊN PHẢI”

 

Trong bài nói trên, “đại sử gia” Trần Gia Phụng c̣n viết nhiều phịa sử khác, chúng tôi sẽ nói sau. Khi lời cảnh cáo của chúng tôi được gởi qua email, h́nh như bài nói trên của “đại sử gia” Trần Gia Phụng đă được rút ra khỏi nhiều websites, kể cả dcvonline.net.

Thời Xuân Thu, Thôi Trữ sau khi giết vua Tề, ra lệnh cho Thái Sử Bá phải ghi vào sử: “Tề Trang Công bị bạo bệnh mà chết”. Thái Sử Bá ghi: “Năm Ất Hợi, tháng Năm, Thôi Trữ giết vua”. Thôi Trữ nổi giận lôi Thái Sử Bá ra chém.

Thái Sử Bá có 3 người em là Trọng, Thúc và Quí, nối nghiệp nhà làm chức Thái Sử. Trọng thay anh, cũng chép y như thế và bị giết. Thúc kế nhiệm, cũng làm y thế và cùng chung số phận. Đến phiên người em út là Quí, cũng làm không khác ba người anh đă chết. Thôi Trữ hỏi Thái Sử Quí:

- Ba anh của nhà ngươi v́ chép như thế mà đă chết cả, ngươi không sợ chết sao?

Thái Sử Quí trả lời:

- Chép đúng sự thật là chức phận của người làm sử. Nếu làm không đúng chức phận để cầu mạng sống th́ thà chết c̣n hơn.

 

Không lẽ bây giờ chỉ v́ một hai cái thư phản kháng hay một chiếc xe Van đậu ở bên đường dọa biểu t́nh mà người viết sử và người làm thông tin đă sợ, phải viết theo “lề đường bên phải” sao? Như vậy làm sao đánh thắng Cộng Sản?

Ngồi mát ăn bát vàng, hèn hơn những người đấu tranh ở trong nước nhiều!

 

Ngày 23.11.2009

Lữ Giang

 

 

Viết cho đúng sự thật

 

Trần Gia Phụng

 

 

Trong bài tựa đề “Viết cho đúng sự thật” ngày 23-11-2009, ông Lữ Giang đă đề cập đến bài “Lư do cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963” của tôi. Tôi cảm ơn ông Lữ Giang đă viết bài phê b́nh bài viết của tôi, nhưng tôi thành thật thưa với ông, lối viết tự cao và khiêu khích cố hữu của ông chỉ gây thêm mâu thuẫn, chứ chẳng có ích lợi ǵ trong việc trao đổi, học hỏi với nhau.

Sở dĩ tôi nói chuyện học hỏi, v́ có lẽ ông cũng c̣n nhớ trước đây ông đă từng gởi sách qua nhờ tôi hiệu đính những sai lầm căn bản về kiến thức sử học của ông để ông xuất bản. Nếu lúc đó tôi dùng ngôn ngữ trịch thượng, thiếu lễ độ với ông, th́ chắc chắn chẳng giúp ích ǵ cho ông Lữ Giang cả. Bây giờ xem như ông hiệu đính bài tôi viết, th́ cũng tốt thôi nhưng với ngôn ngữ từ tốn th́ có lẽ hữu ích hơn. Suốt đời chúng ta luôn luôn phải học hỏi, và tôi cũng đang khao khát học hỏi đây, ông Lữ Giang.

Ông Lữ Giang chống việc chụp mũ “cộng sản” hay “chống cộng”, chống việc chụp mũ “lề trái” hay “lề phải”, nhưng ông Lữ Giang là người chụp mũ tất cả những ai viết trái ư ông là “lề phải”, rồi “phịa sử”, hết người nầy phịa sử đến người khác phịa sử, trong khi ông viết như thế nào, phịa hay không phịa, th́ thiên hạ biết rơ.

Một điều tôi muốn nói trước với ông Lữ Giang là tôi chưa bao giờ tự nhận tôi là “sử gia”. Trong những lần phỏng vấn trên các đài phát thanh, truyền h́nh hay trên báo, tôi luôn luôn xác nhận tôi là người học sử, nghiên cứu sử và cố gắng viết sử, chứ chưa bao giờ tôi tự nhận tôi là sử gia. Nếu có báo hay đài truyền thanh hay truyền h́nh gọi tôi là sử gia, th́ đó là quyền của họ, tôi không thể cấm họ được.

Ông Lữ Giang nên lưu ư là nếu tôi viết “phịa sử”, th́ người ta thấy ngay, hiểu ngay và không tử tế với tôi đâu. Ông Lữ Giang cố gắng viết cho đàng hoàng, nghiêm túc, tự nhiên sẽ có nhiều người gọi ông là “sử gia”. Ông khỏi phải nhọc công xoi mói.

Bây giờ, tôi xin trả lời từng điểm ông Lữ Giang (LG) đă đưa ra.

1) Chuyện ải Nam Quan: Dù ông LG nói lui nói tới theo ư của ông, nhưng ông không thể chối căi rằng ải Nam Quan có hai nghĩa: ải Nam Quan là một cái đèo hay đoạn đường đèo và kiến trúc trên đèo. Trên đoạn đường đèo đó có hai phần kiến trúc: kiến trúc của Trung Hoa và kiến trúc của Việt Nam.

Ngang qua mặt ải do người Trung Hoa xây trước là ranh giới giữa hai nước. H́nh ảnh vẫn c̣n đó. Bây giờ, Trung Cộng đă nuốt luôn công tŕnh kiến trúc của Việt Nam và nuốt luôn đoạn đường đèo đó, thưa ông Lữ Giang. Nếu ông bảo tôi phịa, th́ xin hỏi ông công tŕnh kiến trúc về phía Việt Nam do người Pháp chụp h́nh c̣n lưu lại, nay nằm ở đâu?

 

2) Bài đăng báo: Bài “Lư do cuộc đảo chánh 1-11-1963” tôi không đăng trên dconline.net (LG viết 2 lần trong bài của LG), mà tôi đăng trên danchimviet online edition. Xin lưu ư ông LG có hai web site là D.C.V. Online và Danchimviet online edition. Tôi đăng trên Danchimviet online edition và Danchimviet online edition cũng không sợ ông đến nỗi như ông nói mà rút bài tôi lại.

V́ bài vở càng ngày càng chồng chất, nên những bài gởi lâu phải vào hồ sơ lưu trữ, nhường chỗ cho bài khác. Không phải riêng danchimviet online mà báo nào cũng thế. Bây giờ ông LG cứ vào kho lưu trữ của web site nầy th́ sẽ thấy ngay bài tôi vẫn c̣n đó. Như vậy, không biết ông LG hấp tấp lộn địa chỉ web site, hay cố t́nh phịa ra để cho oai, v́ người ta sợ bài của LG nên phải cất bài TGP? Mới nhập đề đă thấy ai phịa rồi?

 

3) Ai ban hành dụ số 10?: Tôi viết: “Chính sách tôn giáo của chính phủ Diệm dựa trên Dụ số 10 do chính phủ Trần Văn Hữu ban hành ngày 6-8-1950 dưới thời quốc trưởng Bảo Đại.” Ông LG tỏ ra rất hiểu biết về pháp luật, nhưng sau khi nói quanh co một đoạn về Trần Văn Tuyên, ông LG lại viết: “Ông [luật sư Trần Văn Tuyên] đă tŕnh Thủ tướng Trần Văn Hữu phê chuẩn và gởi qua Pháp cho Bảo Đại kư, v́ lúc đó Bảo Đại đang ở Pháp.” Trước sau ǵ cũng Trần Văn Hữu và Bảo Đại. Vậy tôi viết đúng sự thật hay tôi phịa ra, thưa ông LG?

 

4) Ở mô cũng như rứa (từ ngữ của LG): Ông LG cho rằng: "ông Trần Gia Phụng không hề biết rằng các quốc gia lớn trên thế giới (như Pháp và Mỹ) cũng quy định không khác ǵ Dụ số 10, v́ Dụ số 10 cóp luật về hiệp hội của Pháp.” Ông nói đúng, tôi không hề biết và cũng không cần biết những điều trên thế giới, v́ biết để làm ǵ? Tôi chỉ cần biết tại Việt Nam, dưới thời chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, việc treo cờ được quy định như vậy, và được chính quyền Diệm giải thích và thi hành theo cách của chính phủ Diệm, chứ không thi hành theo cách các nước ngoài.

Giải thích và thi hành của chính phủ Diệm như thế nào th́ cở tuổi chúng ta, ông và tôi ai cũng biết. Nếu nói đến tài liệu của Đỗ Mậu hay của Vũ Ngự Chiêu ông đều chê, th́ mời ông vào thêm những tài liệu khác của Trần Văn Đôn, Nguyễn Trân, và nhất là tài liệu của linh mục Cao Văn Luận (chương 13: “Chế độ bắt đầu nứt rạn”). Linh mục Luận là một tu sĩ Ky-Tô giáo, không lẽ lại phịa ra để nói không tốt về ông giám mục và ông tổng thống đồng đạo hay sao?

Sau đây là lời LM Cao Văn Luận nói với đại sứ Nolting ngày 14-5-1963 tại Sàig̣n: "Cách đây chỉ ít tháng, có nhiều cuộc lễ bên Công giáo, như lễ tựu chức của giám mục (Ngô Đ́nh Thục], và các cuộc rước kiệu, bên Công giáo đă treo cờ khắp nơi bên ngoài khuôn viên nhà thờ, sao lúc ấy không có lệnh cấm, và không thi hành lệnh cấm một cách nghiêm chỉnh.” (L.M. Cao Văn Luận, Bên gịng lịch sử 1940-1975, Sacramento: TanTu Research tái bản, 1983, tr. 233.)

Như thế, trong việc thi hành luật của chính phủ Diệm có khác nhau giữa Công giáo và Phật giáo không, thưa ông LG? Chính cái khác nhau đó giải thích câu “chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia-Tô…”, chứ cần chi phải giải thích dài ḍng.

 

5) Dụ số 10 không quy định việc treo cờ: Theo ông LG giải thích, dụ số 10 không quy định việc treo cờ mà việc treo cờ được ấn định trong văn kiện bộ Nội vụ năm 1962. Thưa ông LG, đó là văn kiện nào thế? Văn kiện đó xuất hiện ngày nào, xin ông LG vui ḷng cho biết để chúng ta cùng vào Công báo Việt Nam Cộng Ḥa t́m lại. Tôi cũng cần t́m lại để học hỏi thêm.

C̣n tướng Trần Tử Oai là đại diện của chính phủ Diệm, th́ phải nói tốt cho chính phủ Diệm, chứ tướng Oai biết nói ǵ hơn? Nếu ông LG là luật sư bào chữa, ông luôn luôn phải nói tốt cho thân chủ của ông. Trường hợp tướng Trần Tử Oai, nếu ông Oai nói khác th́ sẽ bị lột lon, cách chức nếu không th́ đi tù. [Tôi xin thêm: Tôi đă bỏ nhiều thời giờ để t́m trong sách Hai mươi năm qua của Đoàn Thêm về văn kiện của bộ Nội vụ năm 1962 mà LG ông nói đến, nhưng tôi không thấy. Ông LG có gặp trong sách đó th́ xin cho tôi biết.]

Riêng tài liệu mà tôi có, th́ nghị định số 358-BNV/KS ngày 9-7-1963 ấn định thể lệ treo cờ Phật giáo, và nghị định số 396/NV/KS ngày 29-7-1963 áp dụng thể lệ treo cờ cho các môn phái công nhận Phật giáo kỳ. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua 1945-1964 việc từng ngày, California: Nxb. Xuân Thu tái bản không đề năm, tt. 254, 256.)

Hai nghị định nầy xuất hiện sau biến cố Phật giáo ở Huế và trước khi phái đoàn Phật giáo Thế giới đến Sài G̣n ngày 24-10-1963, nên tướng Trần Tử Oai mới dựa vào đó để trả lời. Ở đây, ông LG ghi thêm một điểm phịa nữa là văn kiện của bộ Nội vụ kư vào tháng 7-1963 được ông Lữ Giang hóa phép thành năm 1962, để bào chữa cho lập luận của ông. Ai phịa thế ông Lữ Giang?

 

6) Ngụy luận v́ thiếu hiểu biết: Ông LG viết: “Điều thứ 44 (không phải điều 45 như ông Trần Gia Phụng nói) của Dụ số 10 có quy định: “Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia tô và các Hoa kiều Lư sự hội sẽ ấn định sau.” Căn cứ vào điều luật này, các tăng sĩ Phật giáo đấu tranh và ông Trần Gia Phụng cho rằng Dụ số 10 đă ưu đăi Thiên Chúa Giáo (không nhắc ǵ đến Hoa Kiều Lư Sự Hội)! “ (Ông LG in đậm)

Như đă tŕnh bày ở trên, luật lệ là một việc, giải thích và thi hành là một việc. Cách giải thích của ông LG dựa vào sự thỏa thuận giữa hai chính phủ Pháp và Quốc Gia Việt Nam theo Hiệp định Élysée. Nếu chính phủ Diệm hiểu như vậy, và tỏ ra công b́nh trong việc treo cờ th́ làm ǵ sinh chuyện?

Đàng nầy, chính phủ Diệm hiểu theo cách của chính phủ Diệm: Đó là “Chế độ đặc biệt” nghĩa là không bị ràng buộc vào dụ số 10 nên như lời LM Cao Văn Luận nói với đại sứ Nolting: “bên Công giáo đă treo cờ khắp nơi bên ngoài khuôn viên nhà thờ, sao lúc ấy không có lệnh cấm, và không thi hành một lệnh cấm một cách nghiêm chỉnh”. Trong trường hợp nầy ai là người ngụy luận và thiếu hiểu biết thưa ông LG? Không lẽ là LM Cao Văn Luận?

 

7) Chuyện “Bể tan v́ chế độ đặc biệt” không liên hệ đến bài nầy.

Cool Chuyện giám mục Ngô Đ́nh Thục vận động để dược phong hồng y: Ông LG đưa ra ba điều kiện để được phong hồng y: “1) Nếu lúc đó Toà Thánh Vatican muốn nâng một giáo sĩ Việt Nam lên làm Hồng Y th́ người đó phải là Tổng Giám Mục Hà Nội hay Sài G̣n chứ không phải là Huế. (2) Số giáo dân được rửa tội hàng năm đều phải ghi vào sổ rửa tội và báo cáo cho Toà Thánh biết, nên ông Diệm không thể muốn bắt ghi bao nhiêu giáo dân cũng được. (3) Việc suy cử một giáo sĩ làm Hồng Y thường dựa vào đề nghị của Hội Đồng Giám Mục và Khâm Sứ Ṭa Thánh chứ không bao giờ dựa vào những chuyện vớ vẫn như thế.”

Không ai căi những điều ông LG đưa ra, nhưng đây là những điều kiện để Ṭa thánh Vatican xét phong hồng y; c̣n việc vận động để được phong hồng y là hoàn toàn chuyện khác. Nguyễn Tất Thành khi đến Paris năm 1911 đâu có đủ điều kiện để vào học trường Thuộc Địa Paris, mà vẫn làm đơn xin nhập học. Do đó giám mục Thục vận động là một việc, c̣n Ṭa thánh Vatican chấp thuận hay không là việc khác. Lúc đó, mới xin ông LG mở luật của Ṭa thánh ra.

Nếu sống trên đời ai cũng thực hiện đúng theo luật lệ th́ làm ǵ có chuyện mà bàn. Khổ nỗi, có nhiều người xem thường luật lệ, muốn làm theo ư ḿnh mới sinh ra nhiều chuyện. Mời ông LG hăy đọc câu nói của giám mục Ngô Đ́nh Thục với LM Cao Văn Luận tại Huế ngày 9-5-1963: "Những anh công chức và quân nhân nào mà treo cờ Phật giáo hôm ấy, tôi sẽ cho nó lên Ban Mê Thuột hay Pleiku. C̣n mấy anh “trọc” chùa Từ Đàm nếu cứ lộn xộn th́ sẽ cho đi Côn đảo.”(Cao Văn Luận, sđd. tr. 232.) Đây là tôi trích nguyên văn lời tường thuật của một linh mục Ky-Tô giáo La Mă chứ không phải là “phịa sử”, thưa ông Lữ Giang.

Ông Ngô Đ́nh Thục quyền uy như thế th́ chuyện ông vận động để được phong hồng y là chuyện có thể xảy ra. Giám mục Thục vận động làm hồng y là chuyện dân chúng lúc đó bàn tán xôn xao và một số tài liệu ghi lại. Ngoài việc vận động để được phong hồng y, trong giới Ky-Tô hữu, ai cũng biết những hoạt động của giám mục Thục. Có lẽ ông LG không cần nhắc chuyện dài của giám mục Thục bị Đức giáo hoàng treo chén v́ phạm luật sau năm 1975? Có cần thiết không ông LG?

 

9) Viết theo “lề đường bên phải”: Như trên đă nói, bất cứ ai không viết theo ư ông LG đều bị ông LG chụp cho một cái mũ là “phịa sử”, “lề phải, lề trái”, trong khi chỉ riêng trong phạm vi bài nầy, tôi đă chứng minh ông LG hơn một lần phịa chuyện.

Riêng tôi, tôi học sử và viết lại lịch sử theo những điều tôi hiểu biết và tôi cố gắng tránh thiên vị và quá khích. Bằng chứng là khi viết về “lư do cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963”, tôi viết rằng tổng thống Ngô Đ́nhDiệm chủ trương tập trung quyền lực. Có người viết e-mail trách tôi là sao không nói ông Diệm độc tài mà lại nói tập trung quyền lực?

Có thể tôi viết sai v́ sức học kém, v́ ít đọc tài liệu, v́ những tài liệu tôi dùng bị sai, nhưng chắc chắn không phải tôi viết theo lề bên phải hay bên trái. Dầu sao, tôi vẫn cảm ơn ông Lữ Giang v́ nhờ ông tôi mới có cơ hội viết thêm về một số vấn đề tôi chưa viết.

Có một điều cần nhấn mạnh là cá nhân người nào làm th́ người đó chịu trách nhiệm, đừng v́ cá nhân đó theo tôn giáo nầy hay tôn giáo khác mà đưa vấn đề thành sự đối đầu tôn giáo rất nguy hiểm. Ví dụ trường hợp tôi viết về chế độ Ngô Đ́nh Diệm, th́ chế độ Diệm có điểm tốt mà cũng có điểm không tốt. Rủi một điều là cái điểm không tốt nguy hại nhất cho chế độ Diệm chính là vụ treo cờ Phật giáo mà ai đă từng ở miền Trung, nhất là ở Huế và Đà Nẵng đều thấy và biết.

Chuyện nầy cũng được các tác giả Ky-Tô giáo viết lại, ví dụ cụ thể nhất là linh mục Cao Văn Luận. Từ cái điểm không tốt nầy mới nẩy sinh ra đủ thứ chuyện, làm sụp đổ chế độ Diệm. Cái điểm không tốt nầy thuộc về trách nhiệm cá nhân hai ông Ngô Đ́nh Thục và Ngô Đ́nh Diệm chứ không liên hệ ǵ đến Ky-Tô giáo cả. Phải tách bạch rơ ràng như thế để tránh những hiểu lầm đáng tiếc, những chụp mũ vu vơ.

Như thế, tôi đă trả lời ông LG từng điểm một. Cuối cùng, v́ ông đă dùng một điển tích cũ để kết luận bài của ông, nên tôi cũng xin phép dùng một điển tích cũ để kết luận bài nầy. Trong Phật pháp, chuyện xưa kể rằng một hôm Đức Phật đến truyền giáo tại một xứ nọ, có một người đàn bà đến dâng lễ lên Đức Phật. Ngài biết rằng người đàn bà nổi tiếng hỗn láo trong làng, nên Ngài hỏi: "Ngươi biếu cho ta những thứ nầy, nếu ta không nhận th́ ngươi làm ǵ?” Bà ta trả lời "Nếu ông không nhận th́ tôi đem về.” Đức Phật ôn tồn bảo: "Lâu nay ngươi hỗn hào chửi rủa người ta, người ta không nhận, vậy người hăy nhận lại đi.”

Vâng tôi xin tặng ông Lữ Giang câu chuyện nầy để từ nay về sau, ông phê b́nh lịch sự, nghiêm túc, tôi xin tiếp thu, học hỏi. C̣n nếu với ngôn ngữ như trong bài viết “Viết cho đúng sự thật”, th́ xin ông tự mang về, chứ sẽ tôi không trả lời.

 

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 24-11-2009)

 

 

http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

NT Kiên, Kim Âu, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan, NT Sám