Trang Chủ . Kim Âu . Lưu Trữ. Báo Chí . RFI . RFA . Tác Giả . Chính Trị . Văn Nghệ . Khoa Học . Kỹ thuật . Mục Lục . Quảng Cáo . Photo . Photo 1. Tinh Hoa . Liên lạc

 

Một Trang Lịch Sử (tài liệu US Senate)

 

 

 

 

MINH THỊ

Bài trong trang này nhằm cung cấp thông tin phục vụ yêu cầu tham khảo, điều nghiên của Người Việt Quốc Gia trong tinh thần "tri kỷ, tri bỉ", " biết ta, biết địch" để nhận rơ những âm mưu, quỷ kế, ngôn từ và hành động của kẻ thù và có phản ứng, đối sách kịp thời. V́ mục đích chiến đấu chống kẻ thù chung là Cộng Sản nên nhận được bài cùng lập trường là chúng tôi tiếp sức phổ biến. V́ thế có những tác gỉa chúng tôi đăng bài nhưng chưa liên lạc được. Nếu tác gỉa nào cảm thấy không hài ḷng xin liên lạc qua email, chúng tôi sẽ lấy bài của quư vị xuống trong ṿng 48 tiếng. 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lời ṭa soạn:

Tuần Báo Chính Nghĩa phát hành tại Atlanta, Georgia đă 14 năm nay. Lập trường, quan điểm và chủ trương của chúng tôi rất rơ ràng: Chống Cộng, Chống bọn bịp bợm buôn bán chiêu bài ái quốc, Chống bọn đội lốt tôn giáo để lũng đoạn tinh thần của Người Việt Quốc Gia. Chống Ḥa Giải-Ḥa hợp với cộng sản. Chống bọn hoạt đầu chính trị đang khom lưng, quỳ gối với cộng sản để xin ghế. Chống bọn đấu tranh dân chủ giả hiệu.. v́ hành động của những nhóm người này tác hại sâu xa đến tinh thần chống cộng của Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại. Chúng tôi tin rằng trên toàn thể các Cộng đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại, ngoài Tuần Báo Chính Nghĩa không có tờ báo giấy thứ hai dám đăng tải những bài viết chống lại cả một bọn người đang khom lưng, quỳ gối xin được bưng bô cho Cộng Sản để được chúng thí cho chút “xương thừa, máu văi” trên bàn tiệc xương máu của Dân Tộc Việt Nam. Bọn chúng không đông nhưng bọn chúng đă no cơm, ấm cật, đă làm giàu tại hải ngoại từ lâu qua những đồng tiền quyên góp dưới những chiêu bài bịp bợm quần chúng; v́ thế bọn chúng thừa phương tiện: đài phát thanh, truyền h́nh,báo giấy để lũng đoạn nhằm chiếm lấy thắng lợi trong cuộc chiến cuối cùng trên mặt trận văn hóa, chính trị để đạt tới mục đích nhuộm đỏ toàn Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại. Chính sách tâm công của Cộng Sản vô cùng hiểm độc nhưng đại khối Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại lại thờ ơ đến mức độ vô tâm thể hiện qua mấy chữ “khối thầm lặng”.
Ư thức đại cuộc của dân tộc vốn không phải là của riêng ai nên chúng tôi tiếp tay quảng bá những bài viết phù hợp với lập trường, quan điểm của chúng tôi không chỉ trên điện báo mà ngay trên báo giấy (điện báo có tầm ảnh hưởng rộng nhưng không sâu, số lượng tham gia diễn đàn lớn nhất chỉ vài ngàn, những ư kiến, bài viết trên điện báo không gây hại cụ thể cho các tác giả - websites Chính Nghĩa không thuần túy là một tờ điện báo mà chỉ là một bộ phận của Tuần Báo Chính Nghĩa.) Chúng tôi chấp nhận tất cả mọi khó khăn với tư cách của một con dân VNCH, khó khăn đến đâu chúng tôi cũng không hăi sợ bởi đối với một Người Việt Quốc Gia Chân Chính điều đáng sợ nhất là “Vong Thân”. Đối với chúng tôi chỉ có một điều khó khăn lớn nhất mà chúng tôi không thể làm được: đó là việc phản bội lại Tổ Quốc và Dân Tộc.Tất nhiên đối với chúng tôi Tổ Quốc và Dân Tộc đứng trên tất cả. Không có tôn giáo nào, thế lực nào, đảng phái nào, tổ chức nào, cá nhân nào có quyền đứng trên lợi ích của Tổ Quốc và Dân Tộc. Thực tế không một Người Việt Quốc Gia Chân Chính nào bài xích tôn giáo. Nhưng những người quốc gia cầm bút không thể ngồi yên v́ bọn kiêu tăng khoác áo cà sa, đội lốt tu hành kia chẳng phải là đức Phật. Huống chi chúng sinh đang ch́m trong bến Mê mà cứ ngỡ rằng ḿnh đă t́m ra biển Giác nên Kẻ Sĩ buộc phải ra tay.
Xảo ngôn, vọng ngữ vốn phản lại Phật tính. Kẻ nào nói xấu người hiền th́ như ngửa mặt nhổ nước miếng lên trời. Lớp áo tu hành vốn chỉ là h́nh thức, h́nh thức không phải là nội dung và bản chất. Hăy nh́n việc họ làm, đừng nghe lời họ nói. Lắm kẻ mồm mép lúc nào cũng tự nhận là phật tử thuần thành nhưng THAM, SÂN, SI quá ư lộ liễu. Khi Sự Thật phơi bày th́ lập tức mọi người thấy ngay “những cái bồ dao găm” trong bụng họ. Lịch sử đă chỉ rơ: chính v́ nhóm kiêu tăng, mạt tăng lộng hành dẫn tới Pháp mạt rồi Quốc mạt chứ đào đâu ra Pháp nạn. Quốc mạt hay Pháp mạt đều bắt nguồn từ thượng tầng chức sắc trong hàng giáo phẩm và quần chúng trở thành nạn nhân v́ sự mê muội, tối tăm của ḷng cuồng tín. Người cầm bút có trách nhiệm phải dũng cảm nói lên SỰ THẬT để thức tỉnh quần chúng trong thời kỳ mà những kẻ khoác áo tu hành c̣n tệ mạt hơn những phường hạ lưu thế tục. Kim Âu

 

 

Cuộc Bạo Loạn Miền Trung : Mùa Hè 1966

 

 

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

 

 

 "Ḥa Thượng"  Thích Thiện Hào: Hội chủ Hội Phật Giáo Việt Nam.

 

Như đứng trước Thượng Đế trong giờ phán xét sau cùng, tôi xin ghi lại tất cả những thảm cảnh tang tóc, đau thương mà lũ giặc thù cộng sản cùng các lực lượng « tranh đấu » và « Ḥa hợp Ḥa giải » Ấn Quang đă từng gieo rắc trên mănh đất thân yêu là thành phố Đà Nẵng đầy lưu dấu của tôi.

Hôm nay, noi theo lời dạy của nhà học giả Nguyễn Trường Tộ : « Biết mà không nói là bất lương ». Nên, bằng tất cả tâm thành từ bài này trở đi, tôi sẽ tuần tự viết với đầy đủ những chi tiết trong mọi biến cố mà tôi đă từng mắt thấy tai nghe, v́ tôi muốn viết khi các nạn nhân và cả chứng nhân tất cả các vị ấy hiện c̣n đang sống đa số tại hải ngoại, để minh chứng cho tiếng nói trung thực của tôi, mục đích là để cho lớp trẻ sau này biết đường mà lánh xa lũ sát nhân tàn bạo ấy.

Trong những bài trước tôi có nói đến « công lao » của « Lực lượng Ḥa hợp Ḥa giải » của Ấn Quang mà không nêu cụ thể chứng minh. Vậy để biết rơ hơn xin mời quư độc giả hăy cùng đọc lại báo Quê mẹ số 108 tháng 3 năm 1990, trang 21, đă đăng ( nguyên văn ) một trong « Năm yêu sách của Phật giáo do Thượng Tọa Thích Thanh Từ, Đại biểu giáo quyền Phật giáo đương kim Tổng thư kư Hội đồng Trị sự Trung ương Phật giáo Việt Nam Thống Nhất vào tháng 02 năm 1990 đă đưa ra Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản tại Hà Nội :

«Yêu sách thứ năm : Phải nhớ ơn các nhà tu hành, các tín đồ Phật giáo đă góp công lao vào công cuộc tranh đấu thống nhất đất nước trước đây.»

Không những thế, mà « Thượng tọa » c̣n lo lắng :

« … làm cho niềm tin của quần chúng đối với đảng và nhà nước bị xói ṃn… và để lấy lại niềm tin của quần chúng.»

Nghĩa là «Thượng tọa » sợ cộng sản sụp đổ. Theo tôi, «Thượng tọa» đừng nên quá lo xa, bởi dân tộc Việt Nam từ thưở vua Hùng lập quốc đă có truyền thống kính sợ Trời tức Thượng Đế, v́ thế những người Việt Nam đứng về phía dân tộc họ đều có thừa ḷng nhân ái, không ai có những hành động như các lực lượng «tranh đấu» của Ấn Quang đă đối với các nạn nhân tại Đà Nẵng đâu. Bởi họ có nhân tính, họ tin có Ông Trời, họ sợ Ông Trời «sẽ đổ cơn thịnh nộ xuống». Chỉ có lũ vô thần, phi nhân, tàn bạo chúng mới không tin có Trời nên đă đặt Trời xuống ngang bằng với quỷ vật nên chẳng ai biết sợ ai cả.

Hiện nay bạo quyển Hà Nội đă thỏa măn «Năm yêu sách của Phật giáo» nên «Thượng tọa» Thích Thanh Từ đương nắm giữ giáo quyền và cả thế quyền nữa.

Nguyên do và mục đích của Ấn Quang trong cuộc bạo loạn tại Miền Trung :

Mục đích chính của Phật giáo Ấn Quang là chiếm giữ miền Trung, để thành lập Chính phủ Miền Trung, liên minh với Việt cộng để đánh Việt Nam Cộng Ḥa. Ấn Quang đă chuẩn bị từ lâu, chỉ chờ cơ hội để nỗi loạn. V́ vậy, nhân việc tướng Nguyễn Chánh Thi bị cách chức vào ngày 10-3-1966. Phật giáo đă lấy cớ đó biểu t́nh đ̣i chính phủ phải trả tướng Thi trở lại vùng 1. Khi chính phủ trả tướng Thi trở lại vùng 1 nhưng không có chức vụ ǵ cả. Th́ Ấn Quang lại đ̣i chính phủ phải phục hồi cho tướng Thi với các chức: Tư lệnh Quân Đoàn 1, Vùng 1, kiêm đại biểu chính phủ tại Vùng 1 Chiến Thuật. Việc làm này của Phật giáo Ấn Quang đă khiến một tín đồ thuần thành của Phật giáo là ông Bùi Quang Sạn, chỉ huy trưởng Đơn vị T́nh báo tác chiến tại Quảng Nam (sau đó ông là dân biểu ) đă nói :

« Chuyện ông Thi bị cách chức là chuyện của quân đội mắc mớ ǵ đến Phật giáo. Chỉ có muốn nỗi loạn cướp chính quyền để hợp tác với Việt cộng mà thôi.»

Sau đó, ông Bùi Quang Sạn đă bị bắt giam tại «chùa» Phổ Đà tức Phật Học Viện Trung Phần và trong cuộc nỗi loạn mùa hè 1966, Phổ Đà- Phật Học Viện đă trở thành «Tổng Hành Dinh Quân Đoàn Vạn Hạnh.» Khi bị bắt, Phật giáo đă bắn bể bàn chân trái của ông Bùi Quang Sạn, nhưng «Quân Đoàn Vạn Hạnh» đă không cho ai băng bó cả. Chẳng những thế, mà QĐVH c̣n trói thúc ké hai tay ông ra sau lưng và buộc ông phải đi bộ cùng với nhiều người bị bắt. V́ thế, trong số tù nhân Phật giáo này có hai ông Ngô Hải Quảng và ông Nguyễn Kim Thành phải d́u ông Bùi Quang Sạn đi trên đường phố đến chùa Phổ Đà. Trước mắt đồng bào, nhiều người đă thấy ông Bùi Quang Sạn đi chân đất, bàn chân trái bê bết máu, mặt mày trông rất đau đớn. Nên biết, khác hơn cả tù thời Pháp và Việt cộng. Tất cả tù nhân Phật giáo đều bị Quân Đoàn Vạn Hạnh buộc phải cởi bỏ áo quần ngoài chỉ được mặc quần áo lót, phải cởi bỏ luôn giày, dép, vớ, phải đi chân đất trên các đường phố, khi vào nhà tù Phổ Đà các vị tù này cũng không được mặc áo quần dài chỉ được mặc đồ lót và phải đi chân đất. Và họ đă ở trong nhà tù Phổ Đà, bị đánh đập bốn mươi ngày mới được giải cứu.

V́ thế, Giáo sư Trịnh Thể, Hiệu trưởng trường Trung học Nguyễn Công Trứ và ông Phan Thuyết, Chủ sự pḥng hành chánh Bệnh viện Toàn khoa ĐN, bởi quá thương các vị tù không tội này nên ông đă đến chùa xin được thăm nuôi, các «thầy» đồng ư, nhưng không được gặp mặt, chỉ được gửi vào chùa những chiếc chiếu (nhưng không được gửi chăn, màn…) và quần áo lót qua người cai tù là Trung sĩ quân cảnh Nguyễn Văn Sự, ngoài ra tù nhân không được nhận một vật dụng hay bất cứ thực phẩm nào cả . V́ số tù quá đông nên các nhân sĩ và đồng bào đă giúp đỡ mua những chiếc chiếu và đồ lót, nhưng chỉ có hai vị không thể mang vào chùa được, nên hai vị đă nghĩ ra một cách là dắt tôi đến chùa «xin các thầy cho con nhỏ này nó phụ anh em tôi mang chiếu và đồ lót vào chùa, các thầy hăy an tâm v́ nó hiền như cục đất à.»

Tôi không biết mấy ông trong chùa thấy tôi hiền, hay chỉ là con gái vô hại, hay ư Trời cho tôi được chứng kiến những điều ấy, nên khiến cho họ bằng ḷng cho tôi được cùng giáo sư Trịnh Thể và ông Phan Thuyết đi thăm tù nhân tại chùa Phổ Đà.

Sau đó, hai vị bảo tôi cùng đi t́m người, t́m xe để chở số chiếu và đồ lót đó đem đến trước cổng chùa giao cho Nguyễn Văn Sự, rồi những người đi thăm nuôi và tài xế tất cả đều phải đi ngay. Một điều ít khó khăn hơn những thân nhân của QCCVNCH trong các trại tù cải tạo của công sản, là khi vào thăm nuôi mỗi người có người thân khác nhau, phải qua kiểm sóat thăm nuôi, phải chờ đợi, c̣n các vị tù nhân Phật giáo này không được phép nhận bất cứ cái ǵ của ai kể cả cha, mẹ, vợ, con. V́ vậy, sau khi giao số chiếu và đồ lót cho cai tù Nguyễn Văn Sự, y cứ cho đem vào chùa rồi hàng trăm vị tù tự chia xẻ với nhau để dùng. Sau 30-04-1975, khi gặp tôi trong trại cải tạo T.154, giáo sư Trịnh Thể bảo : « Hồi xưa mấy ổng mà biết rơ em hiền như vậy th́ đừng ḥng mà đến gần được cái cổng chùa, chứ đừng có nói đến chuyện thăm nuôi.

Những diễn tiến của cuộc bạo loạn :

Như tôi đă nói về nguyên do và mục đích của cuộc bạo loạn. Bây giờ tôi xin trở lại từ những ngày đầu :

Sau khi tướng Nguyễn Chánh Thi trở về Đà Nẵng, nhưng chính phủ cương quyết không phục chức theo yêu sách của Phật giáo Ấn Quang. Thấy vậy, Phật giáo lại đ̣i phải thành lập chính phủ dân sự. Mặc dù biết những đ̣i hỏi của Phật giáo là quá đáng, nhưng Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lănh đạo Quốc gia, đă triệu tập Quốc dân đại hội và tuyên bố sẽ tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến trong ṿng sáu tháng. Song, v́ chưa đạt được mục đích nên Phật giáo lại tiếp tục biểu t́nh. Lần này với những biểu ngữ và dùng loa phóng thanh hô to những khẩu hiệu :

«Đả đảo Thiệu-Kỳ, Thiệu-Kỳ phải từ chức.»

Khi nhắc lại điều này, tôi muốn hỏi Phật giáo là tại sao từ sau ngày 30-4-1975, cho đến nay, Ấn Quang vẫn luôn kêu gào nào là từng bị Việt cộng bỏ tù, áp bức, pháp nạn… Như vậy, tại sao Phật giáo không tổ chức biểu t́nh đả đảo cộng sản, không làm như mùa hè 1966, không đ̣i bạo quyền Hà Nội phải từ chức, trong khi vẫn ca rằng Việt Nam có tới 90% là Phật tử ?

Trở lại cuộc nỗi loạn, khi chính phủ không từ chức, v́ từ chức rồi giao chính quyền cho ai ? Chẳng lẽ giao cho Thầy chùa ? V́ vậy, Phật giáo bắt đầu cuộc bạo loạn bằng việc công khai tuyên bố đă thành lập «Quân đoàn Cách mạng Vạn Hạnh», Thích Minh Chiếu là Tư lệnh Quân đoàn. Tổng hành dinh được đặt tại chùa Phổ Đà ở số 340 đường Phan Châu Trinh Đà Nẵng như tôi đă viết ở bài trước.

Lúc này, Thích Đôn Hậu đă kéo một đám đệ tử từ Huế vào Đà Nẵng. Trong số này, có những tên cũng đă từng chỉ huy « Đoàn Thanh niên Phật tử Cứu quốc» trong cuộc tấn công hai phường Thanh Bồ và Đức Lợi vào ngày 24-8-1964, như các tên sau đây :

Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Tuyên …và hơn hai ngàn thanh niên, hợp lại cùng với đám đệ tử tại Đà Nẵng cũng đă từng sát cánh với nhau trong cuộc thảm sát Thanh Bồ như : Phan Xuân Huy, Phan Chánh Dinh, Vĩnh Kha, Hồ Công Lộ, Hà Xuân Kỳ …

Sau khi vào Đà Nẵng, Thích Đôn Hậu và đám đệ tử tập hợp tại chùa Pháp Lâm, tức chùa tỉnh giáo hội Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng, là cơ quan chỉ đạo chính trị ở số 500 đường Ông Ích Khiêm. Chính tại chùa Pháp Lâm, Thích Đôn Hậu đă nhân danh Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Miền Vạn Hạnh ( tức miền Trung ) dùng truyền đơn và loa phóng thanh phát lời kêu gọi :

« …Các quân nhân Phật tử hăy mau mau quay về gia nhập Quân đoàn Cách mạng Vạn Hạnh, các Phật tử trong mọi nghành cảnh sát, công tư chức, sinh viên học sinh, thanh niên và đồng bào Phật tử hăy gia nhập lực lượng đấu tranh để lật đổ chính phủ Thiệu-Kỳ.»

Cho đến nay, đă bốn mươi hai năm qua rồi. Nhưng khi nhắc lại lời kêu gọi này của Thích Đôn Hậu chắc những ai đă từng chứng kiến cuộc nỗi loạn này cũng thấy rằng : Quả thật, lời kêu gọi ấy có hiệu quả, bởi lúc ấy đă có không ít một số sĩ quan, binh lính, công tư chức rời bỏ hàng ngũ và nhiệm sở đế gia nhập «Quân Đoàn Vạn Hạnh» Riêng sinh viên, học sinh, thanh niên Phật tử đă được «Thượng tọa» Thích Minh Chiếu, Thiếu tá Trưởng pḥng Tuyên úy Phật giáo vùng 1 chiến thuật trang bị súng đạn đủ loại, một số em học sinh nhỏ tuổi th́ được trang bị bằng gậy gộc, gạch, đá để gia nhập «Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử» Thích Minh Chiếu hiện đang có mặt tại Hoa Kỳ như tôi đă viết ở bài trước.

Lực lượng biểu t́nh từ đâu ra ?

Trong suốt thời gian nỗi loạn, tại thành phố Đà Nẵng ai cũng thấy con số người đi biểu t́nh rất đông đảo, nhưng chỉ có người dân Đà Nẵng mới biết rơ trong đoàn người đó có phải họ đều tự nguyện đi biểu t́nh hay không ?

Và đây là sự thật : Quư vị đă đọc qua bài 30-4-1975 : Máu và nước mắt, ở số báo trước, quư vị đă biết về số người đi «diễn hành» vào ngày 19-5-1975, để «mừng» sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Pháp Lâm, th́ quư vị ắt đă biết có một số đông đồng bào đi biểu t́nh trong cuộc bạo loạn này không phải là tự nguyện.

Để biết rơ hơn, tôi xin ghi lại những sự ǵ mà chính tôi đă chứng kiến. Tôi vẫn nhớ như in, vào thời gian đầu của cuộc nỗi loạn chỉ có một số ít phật tử đi theo tiếng gọi của…thầy chùa. V́ vậy, « Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử » tay cầm gậy gộc đến từng khu chợ, tay vung gậy, mồm la hét, đe dọa, bắt buộc đồng bào phải băi thị để đi biểu t́nh, ai phản đối th́ bị đánh đập, và ĐTNPTQT đă đạp đổ những sạp hàng, những gánh bún… Cuối cùng, đồng bào phải nuốt nước mắt để đi biểu t́nh. Điều này, nhà văn Nguyễn Mộng Giác chắc có biết, nên đă viết qua trong «Mùa Biển Động» nhưng có thể v́ để bán sách nên ông không viết đầy đủ.

Bàn Phật xuống đường.

Trước khi nói đến chuyện bàn Phật xuống đường. Tôi phải nói rơ xuất xứ từ hơn ba ngàn cái bàn Phật đă nằm la liệt trên khắp đường phố Đà Nẵng. Nên biết, trong hơn ba ngàn cái bàn Phật đó, có rất nhiều cái bàn Phật dă chiến. V́ không có đủ bàn Phật, nên chỉ ở các cổng chùa mới có những bàn Phật trang nghiêm, c̣n ở các nơi khác th́ các «thầy» ra lệnh cho «Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử» ( từ đây xin tôi xin viết tắt là ĐTNPTQT) tay cầm búa, gậy ngang nhiên vào nhà Phật tử khiêng bàn Phật của họ ra đường, cũng nên biết trong nhà của đồng bào Đà Nẵng chỉ có một cái bàn thờ, họ thường để tượng, ảnh Phật ở trên và thờ chung với Tổ tiên, ông bà, có gia đ́nh nghèo họ để bàn thờ trên mặt tủ. Khi ĐTNPTQT, đến khiêng bàn thờ họ nhất định không cho, v́ biết đem bàn thờ, đem tủ ra đường phơi nắng, dầm mưa th́ chắc chắn sẽ bị hư, bị găy. Nhưng rồi họ cũng không ngăn cản được, bởi trên tay ĐTNPTQT, toàn là búa, gậy, gạch, đá. Nhưng thấy cũng chưa đủ, ĐTNPTQT đă đi vào các chợ khiêng những chiếc bàn vốn là của bà bán hàng xén, ông bán thịt, cô bán bún, chị bán tôm, tép, cá khô …đă bị bắt buộc phải băi thị. V́ thế, khi đem ra đường trên mặt bàn c̣n dính đủ loại mặt hàng như : Đường, bột,tiêu, ớt, dầu, muối, mắm, thịt, văy cá nhầy nhụa. Nhưng đă được ĐTNPTQT phủ lên một tấm nylon có in h́nh hoa lá đủ mầu sắc ( loại dùng để trải bàn) Rồi đem tượng Phật, có cái chỉ là một tấm ảnh Phật được lồng vào khung gỗ. Tiếp theo, ĐTNPTQT dùng những chiếc lon sữa ḅ hoặc những cái hộp đựng thịt, nhặt ở những nơi mà các xe thầu rác của sở Mỹ đổ ra, đem rửa sạch, đổ gạo và cắm nhang (hương) vào. Bên cạnh cũng là những chiếc lon như đă nói, nhưng khác hơn là nó được úp xuống, gắn đèn sáp đỏ lên. Tất cả được thượng lên bàn dưới chân tượng, ảnh Phật. Sau cùng là đốt nhang đèn.

Như thế, từ cái bàn bán hàng, bán thịt, bán bún …ngoài chợ, tất cả chúng đều nghiễm nhiên trở thành những cái bàn Phật, nhang, đèn, khói hương nghi ngút.

Có người nói, quân chính phủ đă đạp, đổ bàn Phật, nhang, đèn. Nên tôi cũng xin nói rơ là điều đó không hề có. Các chiến sĩ dẹp loạn chỉ khiêng các bàn Phật để lên trên lề đường cho xe cộ lưu thông mà thôi.

Nhưng v́ hơn bốn tháng bị bắt buộc băi thị, không ai bán gạo hay thức ăn, nên những người hành khất và các em thiếu thi hè phố cũng phải chịu đói theo đồng bào. Bởi thế, nên cứ chờ khi các chiến sĩ dẹp loạn quay lưng, th́ các vị khất sĩ này liền tới ngay các bàn Phật, tay này rút nhang vứt xuống đất, tay kia bưng những lon gạo trút vào các túi cái bang. Cùng lúc các chủ nhân của những chiếc bàn cũng nhanh chân đi thu hồi lại những chiếc bàn, để c̣n đem ra chợ buôn bán sau một thời gian dài chịu đói khát. Và tất nhiên, những người này họ phải đem nhang đèn để xuống đất, v́ họ chỉ lấy lại những chiếc bàn của họ mà thôi.

Trở lại chuyện bàn Phật xuống đường.

Người dân Đà Nẵng đă chứng kiến và gánh chịu những khốn khổ v́ hơn bốn tháng Trời bàn Phật nằm đầy đường, Đà Nẵng trở thành thành phố chết, xe cộ không thể lưu thông, người phải đi bộ, các chợ vắng hoe, dân chúng không làm ăn buôn bán ǵ được, quân nhân, công chức, lao công không có lương, nhiều gia đ́nh bị đói v́ họ là những người dân từ các quận xa xôi như : Trà Mi, Tiên Phước, Hậu Đức, Khâm Đức, Quế Sơn …chạy về Đà Nẵng để lánh nạn cộng sản.

Hành quân Đinh Bộ Lĩnh :

Giữa lúc Phật giáo đă cướp chính quyền toàn thành phố Đà Nẵng, trong đó có Đài phát thanh. Chỉ trừ phi trường, mặc dù có dự tính nhưng không dám tấn công v́ sợ Hoa Kỳ. Người dân Đà Nẵng đang khốn khổ và giữa lúc sinh mạng của các vị QCCVNCH là những tù nhân Phật giáo trong chùa Phổ Đà đang như sợi chỉ mành treo chuông. Như ông Lê Nguyên Long Trưởng ty Thông tin Quảng Nam đă kể :

«Tui không biết con số chính xác là tại chùa có bao nhiêu người, nhưng tui biết chúng tui mỗi pḥng có bảy mươi người, mà các pḥng của nhà tăng tại chùa Phổ Đà th́ nhiều, v́ chùa này là Phật Học Viện Trung Phần mà, nên nó lớn lắm mà đều kín chỗ hết, chúng tui nằm sát nhau rất chật chội, v́ mùa hè nên nóng lắm, ai cũng đều phải trải chiếu nằm trên nền xi măng, lại bị muỗi đốt kinh khủng v́ không có mùng, không được mặc áo quần dài, không có dép, không có khăn tắm, khăn mặt, không có xà pḥng, không có kem và bàn chải đánh răng, không có cái ǵ cả ngoài bộ đồ lót trên người và chiếc chiếu, nghĩa là chúng tui đă sống như người ở thời tiền sử. C̣n cách hỏi cung của mấy ổng th́ ghê gớm lắm, v́ mỗi lần hỏi cung là mỗi lần chúng tui đều bị tụi nó oánh, mà tụi nó có hỏi cung chi mô, nó kêu từng người ra pḥng khác để nó oánh cho đă thôi, khi về pḥng người nào cũng giống như cái mền rách. Trời ôi ! tụi nó tàn ác lắm, nó oánh, nó oánh tụi tui, nó oánh (nó đánh) từ trái sang phải, chúng tui tưởng đă bỏ xác trong chùa Phổ Đà rồi chớ. Nhưng chưa hết mô c̣n thêm một nỗi kinh hoàng hơn nữa là trước các cửa sổ các pḥng đều có treo lựu đạn với lời tuyên bố của Quân Đoàn Vạn Hạnh : Đ.M, nếu Thiệu-Kỳ mà đưa quân vào đây là chúng tao bung lựu đạn cho chúng mầy chết tan xác hết.»

Tưởng cũng nên nhắc lại ông Lê Nguyên Long bị bắt trong lúc đang lái chiếc Vespa chở giáo sư Nguyễn Hữu Chi, Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, trên đường từ Quảng Nam về Đà Nẵng vừa đi đến ngă ba Duy Tân ĐN, th́ bị Phật giáo chặn bắt cả hai vị. Sau đó Giáo sư Nguyễn Hữu Chi và ông Lê Nguyên Long bị đưa vào nhà tù Phổ Đà là nơi giam giữ nhiều tù nhân nhất, ngoài ra cũng có nhiều chùa cũng đă trở thành nhà tù như chùa Tam Bảo Tự ở số 323 đường Phan Châu Trinh ĐN.

Ngày 16-4-1966, «Phật giáo» đă vây bắt Thiếu tá Mai Xuân Hậu, quận trưởng quận Ḥa Vang, và đồng loạt tấn công các trụ sở đảng phái, bắt hàng trăm viên chức chính quyền và các cán bộ của VNQDĐ do cụ Vũ Hồng Khanh lănh đạo (ông Lê Nguyên Long cũng là VNQDĐ) đồng thời Phật giáo cũng tấn công Trụ sở Liên hiệp Nghiệp đoàn Lao công ở số 15 B đường Thống Nhất bắt ông Trần Ḥa Tổng thư kư Liên hiệp Nghiệp đoàn và các nhân viên đem giam vào chùa Phổ Đà và c̣n quá nhiều người mà tôi không làm sao kể hết.

Cũng trong thời gian ấy, Phật giáo đă tấn công quân nhân và đốt các xe của quân đội Hoa Kỳ. Một trường hợp đă có rất nhiều biết đó là tại đầu đường Bạch Đằng, trước Cổ viện Chàm nh́n sang Trường Trung Học Sao Mai, khi đó một chiếc xe Jeep nhà binh trên xe có hai Sĩ quan, một Hoa Kỳ và một Đại Hàn vừa chạy trờ đến, th́ «Đ̣an Thanh niên Phật tử Quyết tử» xông ra chặn đường và lôi hai Sĩ quan này xuống đất, hai Sĩ quan này hốt hoảng kêu cứu th́ liền bị đám này túm cổ áo và đánh hội đồng, cùng lúc tưới xăng vào xe và châm lửa đốt. Khi ngọn lửa bốc cháy th́ có nhiều người từ khách sạn Moderne do Phu nhân Trung tá Trần Nguyên An làm chủ đă chạy ra giải vây, lợi dụng lúc lúc đó Phu nhân Trung tá Trần Nguyên An đă kéo cả hai Sĩ quan chạy vào khách sạn che giấu. Sau đó bà đă t́m cách đưa họ trở về đơn vị.

Trong hoàn cảnh đó, ở dưới đất th́ diễn ra cảnh đốt phá, vây bắt, đánh người th́ trên không máy bay của quân đội đồng minh lượn quanh không phận Đà Nẵng không ngớt phát lời kêu gọi :

«Chúng tôi quân đội đồng minh, chỉ giúp đỡ và bảo vệ Việt Nam Cộng Ḥa. Chúng tôi không có đụng chạm đến Phật giáo cũng như chính phủ. Vậy chúng tôi thiết tha kêu gọi quư vị hăy chấm dứt việc hành hung và đốt xe của các quân sĩ đang thi hành công vụ.»

Nhưng «Lực lượng Tranh đấu Phật giáo» chẳng ai thèm nghe cả. Chính v́ thế, tại Quảng Nam Việt cộng đă lợi dụng cảnh hỗn loạn ở thành phố để tấn công, nên các đoàn xe của quân đội Việt –Mỹ phải lên đường tiếp viện. Nhưng khi đoàn xe chạy qua khỏi ngă ba Huế th́ trong chùa Phổ Quang do «Thượng tọa»Thích Từ Mẫn trụ tŕ đă ra lệnh cho « Phật tử » đông đảo sẵn có ra nằm la liệt trên mặt đường, ngăn cản đoàn quân viện không cho tiến vào Quảng Nam để cùng các đơn vị bạn chiến đấu với cộng quân.( Thích Từ Mẫn là chủ nhà sách Văn Nghệ tại Cali, Hoa Kỳ).

Mặt khác, các thầy đă ra lệnh cho «Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử» đến nhà ông Nguyễn Bá Sáu, ông Sáu là người Bắc di cư ở số 19 đường Lư Thái Tổ, là nơi cung cấp củi cho toàn thành phố và nói với ông Nguyễn Bá Sáu là cho mượn hết số củi đó chở về các chùa để các thầy tự thiêu. Ông Nguyễn Bá Sáu không cho mượn, ông nói : «Tự thiêu củi cháy hết rồi lấy cái ǵ trả cho tôi.» Nhưng ĐTNPTQT cứ xông vào khiêng hết số củi bỏ lên xe đem về chất trước các sân chùa, chùa nào cũng có một đống củi, rồi các «thầy» tuyên bố :

«Nếu Thiệu-Kỳ đem quân vào chùa sẽ có người tự thiêu.»

Song, quân chính phủ không hề động đến một cái chùa nào cả, chẳng phải quân đội sợ các «thầy» tự thiêu, v́ biết các «thầy» sợ chết lắm, mà v́ sinh mạng của hàng trăm con tin là QCCVNCH đang ở trong chùa.

Đến lúc quân chính phủ đă kiểm soát gần hết thành phố ; ông Nguyễn Bá Sáu đem xe đến các chùa đ̣i củi lại, ông nói :

«Các thầy nói mượn củi của tôi để tự thiêu, nhưng đến giờ này cũng không thấy ai tự thiêu cả, th́ trả củi lại cho tôi, để tôi bán lấy tiền nuôi vợ con tôi. C̣n nếu thầy nào muốn tự thiêu th́ cho tôi biết, tôi sẽ cúng dường bằng xăng và nếu cần thuốc mê, thuốc tê, thuôc ngủ th́ tôi cũng xin cúng dường luôn (ông Nguyễn Bá Sáu c̣n có tiệm thuốc tây nữa) v́ tự thiêu bằng xăng sạch sẽ hơn.»

Song, đó là màn cuối cùng của các «thầy», bởi thấy quân của chính phủ không nhượng bộ th́ «Quân đoàn Vạn Hạnh» một số đă «đào ngũ» khi biết rơ các thầy là cộng sản, một số không trốn được nhưng cũng xuống tinh thần, nên các thầy c̣n cần đến những đống củi chất trước chùa để hù dọa chính phủ. V́ thế, các thầy không cho ông Sáu chở củi về . Nhưng ông Sáu th́ cương quyết thu hồi số củi của ông, ông liền cho người khiêng hết củi bỏ lên xe chở về chất trước nhà. Lúc này, «Quân đoàn Vạn Hạnh» đang rầu thúi ruột v́ quân chính phủ đă kiểm soát gần hết thành phố nên chẳng có ai ngăn cản.

Nhưng sau khi ông Sáu chở hết củi về rồi, các «thầy» mới thấy lo, v́ không có củi lấy cái ǵ để hù tự thiêu với quân chính phủ. V́ thế, các thầy lại ra lệnh cho «Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử» tay cầm gậy gộc đến nhà ông Nguyễn Bá Sáu đánh ông một trận cho đỡ tức.

Phần ông Sáu, khi thấy đám côn đồ này xông vào nhà ông sợ quá liền chui vào đống củi, đám này bảo ông phải ra cho chúng đánh, ông không dám chui ra. Chúng biết ông trốn trong đống củi, nhưng củi nhiều quá chúng không biết ông trốn ở chổ nào. Tức quá,chúng liền tưới xăng vào đống củi và châm lửa đốt. Khi ngọn lửa bốc cháy, vợ con ông kêu cứu, đồng bào trong xóm nhiều người la lớn kêu cứu. Trong đó có ông Trương Quang Bông, lúc đó đương ở trên lầu bốn của Khách sạn Tao Nhă do vợ ông làm chủ ở số 172, đường Lư Thái Tổ. V́ ở gần nhà ông Nguyễn Bá Sáu, nên khi thấy ngọn lữa bốc cháy và nghe những tiếng kêu cứu của đồng bào,nên ông Trương Quang Bông đă gọi điên thoại cho sở cứu hỏa. V́ thế, lính cứu hỏa đă kịp thời dập tắt ngọn lửa, cứu ông Sáu ra khỏi đống củi và đưa ông đến bệnh viện. Ông chỉ bị bỏng nhẹ nên thoát chết, nhưng chưa thoát được bàn tay của các «thầy», nên sau ngày 30-4-1975, ông Sáu lại bị các «thầy» đem ra «Ṭa án nhân dân» đấu tố đủ thứ «tội» cuối cùng tôi lại gặp ông tại Trại cải tạo T.154, và ông cũng ở gần mười năm mới được trở về.

Qua những hành động như đă kể. Chúng ta ai chũng thấy rằng các «thầy» quả thật quá ngang ngược, đă lấy củi của ông Sáu trong lúc ông không đồng ư, đến khi muốn thu hồi củi ông Sáu phải tự thuê xe chở về, rồi cũng không yên thân, các thầy lại cho lũ côn đồ tới nhà đánh ông, lại c̣n chuẩn bị cả xăng mang theo để đốt sống ông Sáu nữa. Nhưng, nếu sở cứu hỏa không cấp cứu kịp thời th́ chẳng phải một ḿnh ông Sáu và gia đ́nh ông chịu chết, mà nhà cửa và sinh mạng của đồng bào ở lân cận nhà ông Sáu tại đường Lư Thái Tổ cũng phải cùng chung số phận !!!.

Quân chính phủ có gây thương vong cho nhân mạng hay không ?

Vừa qua, trên mạng lưới toàn cầu tôi thấy cả hai ông tướng Tôn Thất Đính và Nguyễn Chánh Thi đă phát biểu hoàn toàn bịa đặt, như nói là « …trong cuộc tranh đấu của Phật giáo quân chính phủ đă làm thiệt mạng cho 240 người tại Đà Nẵng»

Nên biết, suốt thời gian ấy ông Thi đă trốn ngoài Huế nên không biết hay thấy những ǵ đă xăy ra tại Đà Nẵng. Bây giờ ông Thi đă chết, nhưng cách đây mười năm, sau khi đọc cuốn hồi kư của ông tôi có một bài viết trên Văn Nghệ Tiền Phong số 556, trong đó có một đoạn, nay tôi xin viết lại đoạn đó như sau : Tôi đă đọc cuốn hồi kư ấy, ngay từ trang đầu tiên ông đă viết : «V́ ḷng yêu nước tôi đă gia nhâp quân đội 1940… ». Tôi muốn hỏi tướng Thi : Vào thời điểm đó Trung tướng nói yêu nước là yêu nước nào ? Gia nhập quân đội nào ? Cầm súng của ai và để bắn giết ai ?

Và những câu hỏi trên cho đến chết tướng Thi vẫn không trả lời được.

Riêng tướng Tôn Thất Đính. Trong cuộc bạo loạn của Phật giáo tại Đà Nẵng. Sau bốn mươi ngày «Phật giáo bắt giam nhiều vị QCCVNCH, chính phủ đưa ông ra Miền Trung để điều đ́nh với phe nỗi loạn để giải cứu số tù nhân Phật giáo

Ngày 26-5-1966, khi tướng Đính đến chùa Phổ Đà gặp các tù nhân Phật giáo chính ông đă nói với các vị tù nhân câu này tôi xin nhắc lại nguyên văn :

«Tôi đến để trả tự do cho các anh, để các anh trở về chiến đấu với cộng sản.»

Với câu nói này tướng Đính đă bị hai ông Lê Nguyên Long và ông Ngô Hải Quảng phản đối đến rất nặng lời. Riêng ông Lê Nguyên Long v́ ức quá ông đă vung cả hai tay chỉ ngay sát vào ngực áo cà sa của từng ông Sư la lớn tôi xin ghi lại nguyên văn như sau đây :

« Trung tướng bảo chúng tôi đi đánh cộng sản hả ? Đánh cộng sản đâu cần phải đi xa. Cộng sản đây ń, cộng sản đây ń.(cộng sản đây này).»

Tôi không muốn nhắc lại dài ḍng, tôi chỉ nói thêm là khi đó có nhiều người không chịu ra khỏi chùa, họ đ̣i phải đưa Thích Đôn Hậu, Thích Minh Chiếu và các thầy chùa cùng nội vụ ra ṭa, đ̣i thầy chùa phải trả lời tại sao bắt họ ? Họ có tội ǵ ?Thầy chùa lấy tư cách ǵ để bắt giam, đánh đập họ bốn mươi ngày ? Nhưng họ đă không đ̣i được công đạo, v́ chính quyền lúc ấy khiếp nhược, cầu an.

Cho đến bây giờ, tôi cũng không hiểu tại sao tướng Đính lại nói : «Tôi đến để trả tự do cho các anh …» Phải chăng chính tướng Đính đă ra lệnh cho «Quân đoàn Vạn Hạnh» bắt giam các vị ấy ? V́ chỉ có người ra lệnh và người bắt giam mới có tư cách «để trả tự do». C̣n một điều nữa là cả hai ông tướng đều nói đến hàng trăm người đă thiệt mạng, nhưng tại sao không đưa ra được một bằng chứng cụ thể ? C̣n tôi, tôi có đủ bằng chứng và nhân chứng sống cũng như tên, họ, chánh, trú quán của những nạn nhân c̣n sống cũng như thân nhân của người đă chết.

C̣n một điều khác nữa là không ai biết được những diễn biến bên trong giữa Phật giáo và tướng Đính, v́ sau đó Tôn Thất Đính chẳng những không giúp chính phủ mà c̣n đứng về phe nỗi loạn. V́ vậy, chính phủ phải gấp rút đưa quân ra Trung để dẹp loạn, khi thấy sự quyết liệt của chính phủ th́ những người cầm đầu của loạn quân trong cái gọi là « Quân đoàn Vạn Hạnh » đă rút vào sào huyệt cuối cùng là «chùa» Pháp Lâm ở số 500 đường Ông Ích Khiêm ĐN.

Khi quân chính phủ đă kiểm soát toàn thành phố ĐN trừ chùa Pháp Lâm. V́ để hoàn tất kế hoạch hành quân mà không gây đổ máu, quân đội đă bao vây chùa Pháp Lâm, dùng loa phóng thanh kêu gọi tất cả hăy ra đầu hàng. Lúc này mọi người đều thấy những người này tuần tự bước ra khỏi chùa, hai tay đều giơ cao khỏi đầu và xin đầu hàng quân chính phủ, trong những người ra đầu hàng này người ta đă thấy những tên quen thuộc như sau đây :

1- Trung tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh quân đoàn 1, Vùng 1 chiến thuât, kiêm Đại biểu chính phủ tại vùng 1.

2- Đại tá Nguyễn Văn Mô, Tham mưu trưởng Quân đoàn 1

3- Đại tá Đàm Quang Yêu, Tư lệnh Biệt khu Quảng-Đà

4- Bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, Thị trưởng Đà Nẵng

5- Lưu Văn Ngộ, Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia ĐN

6- Âu Quang Minh, Trưởng ty cảnh sát Quốc gia Quảng Nam.

Tiếp theo sau là những thuộc hạ của những người này, trong «Quân đoàn Vạn Hạnh»

Sau đó, Quân chính phủ đă ra lệnh buộc sáu ông Đính-Mô-Yêu-Mẫn-Ngộ- Minh và thuộc hạ phải leo lên xe bít bùng và chở lên phi trường đưa về Sài G̣n tống giam.

Nhưng tiếc rằng, chính phủ lúc ấy đă không làm hết việc. Tại sao chỉ bắt tướng Đính và năm người cầm đầu cùng loạn quân c̣n lại trong «chùa» mà không bắt thầy chùa. Nên nhớ, là chính phủ có quyền bắt tất cả những kẻ đă gây ra cuộc bạo loạn để đưa ra Ṭa án Quân sự Mặt trận và bỏ tù, cũng như buộc hoàn tục, v́ họ có tu thật đâu, họ chỉ núp dưới chiếc áo cà sa để làm giặc. V́ các «thầy» đều có mang lon sĩ quan Tuyên úy, như Thích Minh Chiếu, Thiếu tá trưởng pḥng Tuyên úy Phật giáo Vùng 1 Chiến thuật, Thích Như Huệ mang lon Đại úy Biệt động quân đi dụ dỗ trẻ em vị thành niên đến có bầu, bị gia đ́nh các bé gái ở Hội An kiện ra ṭa, và c̣n rất nhiều nữa.

Chính v́ việc làm nữa vời này của chính phủ nên mới di họa cho đến 30-4-1974, và không biết sẽ c̣n đến bao lâu nữa ???!!!

Để trả lời tướng Tôn Thất Đính và trên hết là tôi muốn trân trọng gửi đến quư độc giả những sự kiện đă xăy ra thật chính xác như sau đây :

Trước hết, tướng Tôn Thất Đinh v́ đă trốn trong các chùa. Sau cùng là Chùa Pháp Lâm nên không bao giờ thấy hay biết những ǵ xăy ra ở bên ngoài. V́ vậy, tôi khẳng định lại một lần nữa là những ǵ tướng Đính nói là hoàn toàn bịa đặt.

Thảm cảnh của đồng bào tại Thành Phố Đà Nẵng :

Sau hơn bốn tháng, người dân thành phố Đà Nẵng đang đối mặt với tử thần, th́ Chiến dịch Hành quân Đinh Bộ Lĩnh được ban hành. Khi bộ chỉ huy lực lượng hành quân ĐBL đă chiếm được Đài phát thanh Đà Nẵng th́ đă phát lời kêu gọi của Đại tá Nguyễn Thanh Yên, Chỉ huy trưởng Thủy quân Lục chiến kiêm Quân Trấn Trưởng Đà Nẵng như sau :

« … Nghiêm cấm quân sĩ không được xâm phạm chốn tôn nghiêm, tuyệt đối không được nổ súng bắn trả lại quân phản loạn cho dù có bị thương vong. Đồng thời kêu gọi đồng bào hăy tiếp tay quân đội chính phủ, khiêng các bàn thờ Phật tổ để tạm yên trên lề đường cho xe cộ lưu thông, văn hồi an ninh trên lănh thổ Quăng Nam-Đà Nẵng. Nhưng nhớ phải cẩn thận không được làm ngă đổ tắt nhang đèn.»

V́ bị đói khổ nhiều ngày tháng, nên đồng bào ĐN rất vui mừng hưởng ứng lời kêu gọi và đă hăng hái tiếp tay với các chiến sĩ dẹp loạn, trong đó có em Lê Quang San 16 tuổi, học sinh lớp Đệ tứ trường Trung học An Hải quận 3, con của ông bà Lê Quang Khâm, chánh quán thôn Bát Nhị, xă Kỳ Ngọc, quận Điện Bàn, Quảng Nam, lánh nạn cộng sản tại An Cư1, phường An Hải Đông, quân 3 ĐN.

Lúc đó, những kẻ cầm đầu của cuộc bạo loạn miền Trung đă rút vào sào huyệt cuối cùng là chùa Pháp Lâm tức chùa Tỉnh giáo hội Phật giáo Quảng Nam-Đà Nẵng, tại số 500 đường Ông Ích Khiêm ĐN, để pḥng thủ.

Nhưng họ vẫn không chịu ngưng tiếng súng, mà từ trong chùa «Quân đoàn Vạn Hạnh» cứ bắn xả từng loạt đạn ra đường, những người khiêng dọn bỏ chạy, riêng em Lê Quang San v́ sợ quá không chạy được nên đă chui xuống bàn Phật để tránh đạn th́ bị lính của Quân đoànVạn Hạnh lôi vào cổng chùa Pháp Lâm, rồi giáng cho em những trận đ̣n thừa sống thiếu chết, sau đó nổ súng bắn em San chết gục tại phía trong cổng chùa Pháp Lâm.

Nghe điện báo của quân sĩ trấn thủ vùng này, Đại tá Nguyễn Thanh Yên đích thân đến tận nơi chứng kiến xác chết của em San. Rồi Đại tá Nguyễn Thanh Yên ra lệnh đưa thi thể em lên Quân y viện Duy Tân chờ t́m thân nhân nhận xác.

Sau đó, qua tường tŕnh của các viên chức an ninh, biết được gia đ́nh em nghèo, cha làm nghề đạp xích lô, mẹ làm công việc nội trợ, Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia, đă gửi đến gia đ́nh em 20.000 đồng để giúp đỡ việc an táng cho em San.

Mặc dù chính phủ đưa quân ra Trung vào ngày 27-6-1966, nhưng cho đến hết tháng bảy các binh sĩ và đồng bào mới thu dọn sạch sẽ trên đường phố, đầu tháng tám các chợ mới đông, thành phố Đà Nẵng mới hồi sinh.

Về con số thương vong, ai cũng biết có người chết và rất nhiều người bị thương do đạn của «Quân đoàn Vạn Hạnh» từ trong các chùa bắn ra để giết chết đồng bào và quân chính phủ làm công việc dọn dẹp trên đường phố. Một số người bị thương v́ bị «Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử» đánh đập và dùng gậy gộc, gạch, đá tấn công, bởi họ không chịu băi thị, không chịu đi biểu t́nh, không cho khiêng bàn thờ Phật của họ ra đường. C̣n quân chính phủ không dám nỗ súng v́ trong các chùa c̣n có hàng trăm con tin là QCCVNCH. Nên biết, nếu đúng như lời của hai ông Thi-Đính th́ c̣n loạn hơn như thế nữa. Bởi, chỉ cần có một người của loạn quân mà chết, dù là trúng gió chết hay bị chó cắn mà chết , th́ chắc chắn quân bạo loạn sẽ khiêng cái xác ấy đi biểu t́nh và nói là quân chính phủ giết họ. Nhưng may mắn là trong suốt thời gian bạo loạn gió cũng hiền, chó cũng biết sợ nên «lực lượng tranh đấu» chẳng có ai trầy sướt ǵ cả.

Khi t́nh h́nh Đà Nẵng đă ổn định ông bà Lê Quang Khâm đến Đặc khu quân trấn gặp Đại tá Nguyễn Thanh Yên, yêu cầu đưa ra pháp lư để làm sáng tỏ cái chết của em Lê Quang San th́ được Đại tá trả lời :

«Tôi cũng là người Đà Nẵng, xin thành thật chia xẻ nỗi đau thương của ông bà, nếu cần ǵ tôi sẽ đề nghị ông Thị trưởng giúp đỡ. C̣n điều ông bà yêu cầu, tôi xin lỗi không làm được, v́ như mọi người đều biết các trụ sở đảng phái, nghiệp đoàn cũng bị tấn công, hàng trăm QCCVNCH đă bị bắt giam trong chùa Phổ Đà. V́ thế, trước mắt mọi người Phật giáo đă không c̣n tính chất của tôn giáo nữa. Song, không có cách nào khác hơn v́ vũ khí của quân đội th́ mang bên ngoài bộ quân phục, nhưng vũ khí của các thầy lại nằm bên trong chiếc áo cà sa ! Không phải một ḿnh cháu San mà c̣n rất nhiều nạn nhân, trong đó có rất nhiều binh sĩ đă mất mạng ! Nếu tôi có làm điều ǵ hơn nữa th́ chỉ tạo nhân tố cho họ dùng biển người trấn áp, mà không biết chừng lại nỗi loạn lên nữa, bởi dù là cọp trên rừng mà đă lạc xuống đồng cũng đành chịu vậy !

V́ hưởng ứng lời kêu gọi của quân đội mà ra nông nỗi, vậy tôi thành thật xin lỗi ông bà cũng như tất cả các gia đ́nh của những nạn nhân xin hăy thấy được nỗi khó khăn của tôi mà dành cho tôi một sự cảm thông.»

Trước những lời chí t́nh của Đại tá Nguyễn Thanh Yên, ông Lê Quang Khâm đă nói : «Chúng tôi xin cám ơn Đại tá, nhưng ngoài việc muốn làm sáng tỏ về cái chết oan uổng của con tôi, chúng tôi không cần ǵ khác hơn nữa cả.»

Tôi cũng muốn nói thêm rằng, ngoài số người đă bị bắt c̣n có một số cán bộ đảng phái đă chạy thoát, bị Phật giáo truy đuổi, một số chạy lên được phi trường, một số chạy xuống khu Nội Hà, phường Thanh B́nh th́ được đồng bào miền Bắc di cư nuôi giấu trong nhà. Đặc biệt một số đông cùng đường đă chạy vào nhà thờ nhờ Cha Bề trên Nguyễn Văn Phương che chở, nhưng Cha Nguyễn Văn Phương không thể để «quư vị» ấy trong nhà thờ được, v́ như thế nhà thờ sẽ bị tấn công.

Bởi vậy, Cha Phương đă cho người gọi ông Trần Văn Tuyên đến đón «quư vị» ấy về nhà nuôi giấu, và vợ con ông Tuyên đă cơm bưng, nước rót hầu «quư vị» ấy hơn hai tháng.

Ai cũng biết hơn bốn tháng trời Đà Nẵng là thành phố chết, có tiền không mua gạo được, mà số người ẩn trốn lại quá đông. V́ thế, Cha Phương đă kêu gọi đồng bào di cư BV đóng góp để nuôi họ. Riêng ông Trần Văn Tuyên v́ nhà ông nuôi giấu người đông nhất, nên «quư vị» ấy đă chứng kiến hàng ngày cảnh ông Tuyên đă mang bị đi xin từng lon gạo, từng tí mắm «của tuy tơ tóc nghĩa so ngh́n trùng» để đem về nuôi họ.

Đến khi sóng lặng, gió êm «quư vị» này ai cũng có chức cả, nào là Chủ tịch, bí thư, nghị sĩ, dân biểu, nghị viên …Lúc này «vị» nào cũng đi đứng hiên ngang nên tuyệt đối không một ai c̣n nhớ đến cái lúc cùng đường xông đại vào nhà người ta cầu cứu, cũng như lúc từ nhà thờ Thanh B́nh đến nhà ông bà Trần Văn Tuyên «quư vị» đă vừa lết vừa ḅ v́ sợ «Phật giáo» phát giác. Hơn ai hết, là đồng bào miền Bắc di cư họ thừa hiểu nếu «Phật giáo» biết được họ đă nuôi giấu «quư vị» trong nhà th́ cả phường Thanh B́nh cũng cùng số phận như Thanh Bồ trước đó, song họ bất chấp mọi thứ bởi thấy nguy là phải cứu, thế nhưng, làm người cái lịch sự tối thiểu là phải biết nói lời cám ơn khi được người khác cứu giúp. Nhưng «quư vị» ấy kể từ lúc rời khỏi Thanh B́nh, trước 1975, «quư vị» ai cũng có quyền, có chức vậy mà không hề có một ai ghé lại nhà ông bà Trần Văn Tuyên nói lời cám ơn. Ngày ông Trần Văn Tuyên mất cũng không có nữa lời chia buồn cùng gia đ́nh.

Hiện nay, bà Trần Văn Tuyên và các con vẫn c̣n ở nguyên căn nhà cũ ở đường Cao Thắng, nơi ngày xưa «quư vị» từng ăn trốn ngủ lén hơn hai tháng ở đó.

Trước ngày vượt biển, tôi có đến nhà bà Tuyên nhiều lần, bà cười rất vui vẻ khi nhắc lại những ngày nuôi giấu «quư vị» trong nhà. Lúc ấy, các con của ông bà cũng như tất cả thiếu nhi phường Thanh B́nh, theo sự hướng dẫn của bố mẹ, chúng đă trở thành đội canh pḥng quanh phường để giữ an ninh cho «quư vị». Tôi nhớ tên từng «vị» đấy.

Tôi không sánh «quư vị» với Hàn Tín xưa. Tôi chỉ nhớ trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du có đoạn nàng Kiều của lầu xanh, khi thoát cơn bĩ cục đă mượn oai của Từ Hải để ân đền, oán trả. Trong truyện Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu, có nói đến tên tiểu đồng hàng ngày đi xin cơm về cúng mộ Lục Vân Tiên :

 

« … Sáng đi khuyên giáo tối về cúng đơm,

Dốc ḷng trả nợ áo cơm,

Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền.»

 

Lúc thi ân, ông bà Trần Văn Tuyên không hề mong «quư vị» đền đáp, nhưng là những kẻ đă thọ ân mà suốt mấy chục năm qua quư vị» đă thực sự quên đi những ngày tháng ấy th́ rơ ràng là «quư vị» đă không xứng danh là quân tử.

Trên đây, là những lời tôi muốn nhắc lại cái t́nh người với các «vị chính khách». C̣n nói đến cuôc bạo loạn bàn Phật xuống đường vào mùa hè 1966, th́ c̣n quá nhiều nhưng bài viết đă dài. Tôi xin tạm dừng lại ở nơi đây. Hẹn tái ngộ quư độc giả trên trang báo này về Cuộc Thảm Sát Thanh Bồ-Đức Lợi, Đà Nẵng 24-8-1964.

 

 

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền