Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

KIÊU DÂN CÔNG GIÁO THỜI NGÔ Đ̀NH DIỆM

 

Trần Lâm

 

 

Bài các bạn đang đọc được viết với hai mục đích có liên quan mật thiết với nhau.

Thứ nhất, để góp ư với Trần Ngọc Cư, Ḥa Nguyễn và Trần Văn Tích về bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống. Thời Đệ Nhất Cộng ḥa, trong buổi lễ chào cờ, bài ca này phải được hát kèm với Tiếng gọi Công dân, Quốc ca chính thức do Lưu Hữu Phước et al sáng tác. Nó có đoạn như sau:

 

Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống

Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm

Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống

Xin thượng đế ban phước lành cho người

 

Thứ hai, để trả lời một câu hỏi quan trọng mà Dũng Vũ đă đặt ra cho tôi trên diễn đàn talawas. Câu hỏi này có liên quan đến nhận định của sử gia Tạ Chí Đại Trường về khối người từng làm ṇng cốt cho chế độ Ngô Đ́nh Diệm.

Tôi sẽ đi sâu vào bài quốc ca “kép” nói trên, sau khi giải quyết xong thắc mắc do Dũng Vũ nêu lên về nhận định của nhà viết sử họ Tạ.

 

Theo Tạ Chí Đại Trường, người từng sống dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm, đồng bào Công giáo từ Bắc di cư vào Nam thời đó là một khối kiêu dân. Sau đây là toàn bộ văn cảnh của nhận định nói trên nơi trang 457 trong cuốn Sử Việt, đọc vài quyển, được Văn Mới xuất bản tại California năm 2004. Khi bàn về mối hiểm họa của Cộng sản miền Bắc đối với Miền Nam, Tạ Chí Đại Trường tự hỏi:

“Làm cách nào mà một chính quyền Sài G̣n lộn xộn với giáo phái sứ quân, với giang hồ đạo tặc, với Công giáo di cư ít nhiều ǵ cũng là kiêu dân, với cả người Pháp c̣n tham vọng giữ phần đất thuộc địa cuối cùng… có thể đương cự với cả một nền tảng đe doạ trùng trùng như thế? Lịch sử ổn định bước đầu của chính quyền đó là một phối hợp tuyệt vọng của những người Việt chống cộng (một tập-hợp-từ tiêu cực đúng với thực chất hổ-lốn của nó) chỉ c̣n một mảnh đất nương thân, và của người Mĩ đứng nh́n trong b́nh diện chiến lược quốc tế thấy ḿnh phải chen chân vào.”

V́ họ Tạ là một sử gia có uy tín, nên sau khi đọc câu văn mười hai chữ được nhấn mạnh ở trên vào khoảng cuối năm 2004, tôi lập tức t́m cách kiểm chứng nó và tôi đă t́m được sự xác nhận đầu tiên trong hai bài nghiên cứu của Nguyễn Thế Anh, “L’engagement politique du Bouddhisme au Sud-Viêt-Nam dans les années 1960” trong Alain Forest et al (dir.), Bouddhismes et Sociétés Asiatiques: Clergés, Sociétés et Pouvoirs, L’Harmattan, Paris, 1990, tr. 111-124, và “Le Sangha bouddhiste et la société vietnamienne d’aujourd’hui”, được đăng trên trang VIET NAM Infos.

 

Giáo sư Nguyễn Thế Anh là một học giả có tầm vóc quốc tế, được đồng nghiệp Á Âu Mỹ công nhận là một trong những người có thẩm quyền nhất về lịch sử Việt Nam thời cận đại. Thế nhưng, tôi cũng ư thức được rằng tôi không thể chỉ dựa vào uy tín của ông để lượng định mức khả tín của câu văn mười hai chữ nói trên. Hai bài nghiên cứu của vị cựu viện trưởng viện đại học Huế và nguyên Trưởng ban sử học Đại học Văn khoa Sài G̣n này chỉ là những sử liệu hạng hai. Muốn kiểm chứng một cách thấu đáo nhận định của Tạ Chí Đại Trường về “kiêu dân Công giáo” thời Ngô Đ́nh Diệm, tôi phải cố gắng t́m cho ra sử liệu hạng nhất về vấn đề này. Hai loại sử liệu mà tôi phân chia ra thành hạng nhất và hạng hai được Nguyễn Kỳ Phong, tác giả cuốn Vũng lầy của Bạch Ốc: Người Mỹ Và chiến tranh Việt nam 1945- 1975, định nghĩa một cách tương tự như sau:

“Sử liệu có hai loại: primary và secondary documents (tài liệu chánh và tài liệu phụ). Hồi kư, văn kiện chính thức, lời phỏng vấn từ nhân chứng, được xếp vào loại tài liệu chánh. Trích dẫn, nghe nói lại, hay sách biên khảo của người thứ ba, là tài liệu phụ. Hai loại tài liệu đó đều được công nhận khi dùng làm sử liệu viết sách.”

Vốn là mọt sách tu lâu năm trong Tàng Kinh Các ở Tây Phương, nên qua phần ghi chú trong hai quyển sách viết về chiến tranh Việt Nam, tôi đă t́m thấy hai tài liệu được h́nh thành trước ngày 8 tháng 5 năm 1963. Chính v́ được viết ra trước khi biến cố Phật giáo 1963 bùng nổ, nên nội dung của hai tài liệu này không bị chi phối bởi cuộc tranh chấp giữa phong trào Phật giáo và chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Do đó, chúng có một mức độ khả tín rất cao. Hai tài liệu nói trên gồm

1) “The Buddhist Movement in Vietnam and its Difficulties with the Present Government”, một tài liệu do các nhà biên khảo Hoa Kỳ hoàn tất vào tháng Tư năm 1961 và hiện đang được lưu trữ tại Văn khố Chiến tranh Việt Nam ở Lubbock bên Texas, và

2) “L’Église au Sud-Vietnam”, một phóng sự được đăng trên tạp chí Informations Catholiques Internationales vào ngày 15 Mars 1963, từ trang 17 đến trang 26.

 

Như vậy, câu văn mười hai chữ của Tạ Chí Đại Trường chẳng những được một chuyên gia hàng đầu trong ngành sử Việt xác nhận (confirmed), mà c̣n được tăng bổ (corroborated) bởi hai tài liệu chánh (sử liệu hạng nhất) mà chúng ta có quyền cho là rất khả tín. Nhờ vậy nên tôi đă có đầy đủ căn cứ để chấp nhận rằng nhận định ngắn gọn mà Tạ sử gia đă đưa ra về khối kiêu dân Công giáo thời Ngô Đ́nh Diệm cầm quyền tại miền Nam Việt Nam là một nhận định rất khả tín, có thể giúp chúng ta hiểu được tại sao Ngô triều đă đánh mất sự ủng hộ của người Lương và cuối cùng bị lật đổ.

Sau khi công bố những điều vừa mới được viết bên trên trong mục phản hồi ở diễn đàn talawas, tôi hân hạnh nhận được sự lưu tâm và câu hỏi dưới đây của độc giả Dũng Vũ:

‘Thưa ông Trần Lâm,

Ông viết: “Tôi hoàn toàn không vô t́nh khi dùng 2 chữ “kiêu dân”, v́ những sử liệu do tôi đưa lên mạng cho phép tôi suy luận rằng khái niệm “kiêu dân Công giáo” là một khái niệm có thể giúp chúng ta hiểu được tại sao chế độ Diệm đă đánh mất sự ủng hộ của người Lương tại miền Nam Việt Nam, đưa đến sự sụp đổ của chế độ này… Tôi nói chuyện có bằng chứng hẳn hoi, th́ tại sao tôi phải sợ ai?”

Xin phép được hỏi ông: “Kiêu dân” có nghĩa là ǵ?

Cảm ơn ông…’

 

Đây là một câu hỏi rất chính đáng, cần được một sự hồi đáp tường tận. Nếu chúng ta trả lời được câu hỏi này một cách thỏa đáng th́ có lẽ chúng ta sẽ có thể t́m được nguyên nhân sâu xa đưa đến sự sụp đổ của chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Như đă nói qua ở trên, chế độ này c̣n được gọi là Ngô triều hay Ngô trào.

 

Ngô Trào

Trải qua một cuộc bể dâu

Trông vời cố quận biết đâu là nhà

Khéo oan gia, của phá gia

Này là em ruột, này là em dâu!

Cửa nhà dù tính về sau

Ngh́n năm ai có khen đâu Hoàng Sào!

(Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, Chơi Chữ)

 

Tôi không rành chuyện văn chương, nên chỉ dám đoán ṃ rằng câu Cửa nhà dù tính về sau trong bài thơ nói trên ám chỉ việc Ngô Đ́nh Cẩn đă cho xây một ngôi biệt thự rất nguy nga tráng lệ ở ngoài Huế. Tôi c̣n nhớ cách đây khoảng 20 năm tôi có đọc trong Nhật Kư Đỗ Thọ rằng người ta đă phải đập đồ bát vỡ ra từng mảnh để lát nền (cho một phần) trong ngôi biệt thự này. Trong những ḍng chữ dưới đây, tôi sẽ không đập vỡ bất cứ vật ǵ, mà chỉ cố gắng đi lượm lặt những mảnh sử liệu vụn vặt, rồi sắp xếp chúng lại thành một bức khảm mosaic, để Dũng Vũ nói riêng và bạn đọc bốn phương nói chung ít nhiều ǵ cũng thấy được bộ mặt của kiêu dân Công giáo thời Ngô Đ́nh Diệm.

 

Kiêu dân, ngươi là ai?

Thời ḍng họ Ngô Đ́nh “dĩ đức vi chính” tại miền Nam Việt Nam, kiêu dân thường là những tín đồ Công giáo (di cư) dựa vào sự dung túng của kẻ có thế, có quyền để hống hách ngang ngược, xem thường luật pháp, vi phạm một cách trắng trợn nhân quyền và dân quyền của người khác, thường là những Lương dân vô tội.

Sau đây là vài ví dụ điển h́nh.

 

1. Trong suốt ba năm liền, kiêu dân đă hằng đêm ném gạch, đá vào nhà thân nhân vô tội của một chính trị phạm, mà (h́nh như) không hề bị cơ quan công lực trừng phạt. Xem chứng từ của Phan Lạc Giang Đông, một cựu sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng ḥa và cũng là bào đệ của Phạm Lạc Tuyên, một viên sĩ quan tham gia vào cuộc đảo chính hụt ngày 11 tháng 11 năm 1960:

“Gia đ́nh tôi kể từ ngày này hoàn toàn không c̣n được yên nữa. Khu xứ đạo Thái Ḥa (xứ đạo của đồng bào Bắc di cư vào Nam), mọi người ở lối xóm đă có thái độ khác trước. Mỗi tối, khoảng từ bảy, tám giờ th́ một số người, không biết từ nhà nào đă ném gạch, đá lên mái nhà (bằng tole) của gia đ́nh, ông cụ thân sinh tôi rất buồn và gặp thẳng Linh mục xứ đạo để nói việc này, song không giải quyết được. Việc họ ném như thế kéo dài cho đến khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ mới chấm dứt.”[1]

Xin thêm: Xứ đạo Thái Ḥa, theo lời của Phan Lạc Giang Đông, nằm ở Ngă Ba Ông Tạ. Là một người sinh ra và sống những năm đầu đời tại một thị xă hẻo lánh ngoài Vùng II Chiến Thuật trước khi theo cha mẹ vượt biên tỵ nạn Cộng sản, tôi thật t́nh không biết cái ngă ba này nằm ở đâu. Nhưng v́ chúng ta đang bàn về câu văn mười hai chữ của vị sử gia họ Tạ, nên xin ghi luôn chi tiết vui vui bên lề này vào bài.

 

2. Tại tỉnh Quảng Ngăi, một vị linh mục đă thông đồng với viên tỉnh trưởng trong mưu toan cướp đất của một ngôi chùa tại một làng trong tỉnh này để xây tượng đài cho Đức Mẹ, đưa đến sự xung đột giữa Phật tử ở ngôi làng nói trên và chính quyền địa phương. Xem trang 4 trong tài liệu “The Buddhist Movement in Vietnam and its Difficulties with the Present Government” đă được đề cập đến ở phần đầu của bài. Xin nhắc lại, v́ tài liệu này được h́nh thành trước khi cuộc xung đột giữa Phật giáo và chế độ Diệm bùng nổ, nên nội dung của nó rất đáng tin.

 

3. Dưới thời Ngô Đ́nh Diệm, tín đồ Công giáo thường được quân đội và cơ quan Thông tin tiếp tay để tổ chức trên đường phố Sài G̣n hay Huế những cuộc rước lễ [?] linh đ́nh, gây ra sự tắc nghẽn giao thông trầm trọng, khiến cho người Lương phải gặp nhiều phiên phức trong việc đi lại. Việc này đă khiến cho Giáo sư Nguyễn Văn Trung lúc đó phải thốt lên rằng những người tổ chức các cuộc rước lễ [?] nói trên nghĩ đường phố là của riêng của Giáo hội Công giáo hay sao.[2] Tuy nhiên, có người vẫn chưa hài ḷng. Khi Phật tử tiến hành nghi lễ tại chùa th́ sinh hoạt tôn giáo của họ, theo chứng từ của một tín đồ Công giáo Việt Nam, lại bị các công xa của sở Thông tin có mang loa phóng thanh đậu ở gần chùa phá rối.[3]

Chứng từ nói trên được đăng trong tạp chí Informations Catholiques Internationales, phát hành vào tháng Ba năm 1963, cho nên nội dung của nó không thể bị ảnh hưởng bởi biến cố Phật giáo xảy ra sau đó. V́ vậy chứng từ này cũng là một sử liệu rất đáng tin.

 

4. Kiêu dân gây áp lực không cho sách của Nguyễn Hiến Lê được dùng tại các trường ngoài miền Trung, tuy sách này đă được Bộ Thông tin cho phép phát hành. Sau đây là lời tường thuật của chính vị cố học giả họ Nguyễn:

“Đầu niên khóa 1954-1955, trong chương tŕnh Trung học đệ nhất cấp có thêm môn Lịch sử thế giới dạy trong bốn năm. Ông Thiên Giang lúc đó dạy sử các lớp đệ lục, đệ ngũ. Tôi bàn với ông soạn chung bộ sử thế giới càng sớm càng tốt cho học sinh có sách học, khỏi phải chép “cua” (cours). Ông đồng ư. Chúng tôi phân công: tôi viết cuốn đầu và cuốn cuối cho lớp đệ thất và đệ tứ, ông viết hai cuốn giữa cho đệ lục và đệ ngũ. Chúng tôi bỏ hết công việc khác, viết trong 6 tháng xong; tôi bỏ vốn ra in, năm 1955 in xong trước ḱ tựu trường tháng chín.(…)

Sau một linh mục ở Trung yêu cầu bộ Giáo dục cấm bán và tịch thu hết bộ sử đó v́ trong cuốn II viết về thời Trung cổ, chúng tôi có nói đến sự bê bối của một vài Giáo hoàng. Bộ phái một viên bí thư có bằng cử nhân lại tiếp xúc với tôi. Ông này nhă nhặn, khen tôi viết sử có nhiệt tâm, cho nên đọc hấp dẫn như bộ sử Pháp của Michelet; rồi nhận rằng sách tôi được Bộ Thông tin cho phép in, lại nạp bản rồi th́ không có lí ǵ tịch thu, cấm bán được, chỉ có thể ra thông báo cho các trường đừng dùng thôi; cho nên ông ta chỉ yêu cầu tôi bôi đen vài hàng trên hai bản để ông ta đem về nộp bộ, bộ sẽ trả lời linh mục nào đó, c̣n bán th́ tôi cứ bán, không ngại ǵ cả. Tôi chiều ḷng ông. ( ….)

Hồi đó bộ Lịch sử thế giới của tôi chỉ c̣n một số ít. Tôi hỏi các nhà phát hành, được biết có lệnh cấm các trường ngoài Trung dùng nó; trong Nam th́ không. Chỉ ít tháng sau bộ đó bán hết, tôi không tái bản. Công giáo thời đó lên chân như vậy.”[4]

 

5. Cũng theo chứng từ của người Giáo dân mà chúng ta vừa gặp ở phần trên, kiêu dân đă lạm dụng quyền thế để đả kích tín ngưỡng của các học viên người Lương phải theo học khóa học Nhân Vị tại Trung tâm Nhân Vị ở Vĩnh Long. V́ sợ bị ghi danh vào sổ đen, những nạn nhân này đành phải chịu đựng trong im lặng, khiến cho các học viên Công giáo tại khóa học cũng cảm thấy hổ thẹn trước hành động hống hách nói trên.[5]

Đây là một điểm cần phải được nhấn mạnh, v́ nó cho ta thấy rơ không phải tín đồ Công giáo nào tại miền Nam cũng là kiêu dân khi vùng đất đáng lẽ là tự do này phải sống dưới sự thống trị của nhà Ngô. Ngay cả trong hàng giáo phẩm Công giáo cũng đă có những bậc chân tu cố tránh xa chế độ Ngô Đ́nh Diệm để duy tŕ uy tín và tính chất độc lập của Giáo hội.[6]

Cố học giả Nguyễn Hiến Lê cho biết: “Ngô Đ́nh Thục ở Vĩnh Long… tạo ra thuyết Duy linh chống với thuyết Duy vật của Cộng sản, bắt công chức nào cũng phải học. Họ chẳng học được điều ǵ mới cả, chỉ phải nghe mạt sát đạo Phật và đạo Khổng. Những người theo học đại đa số thờ Phật, đau ḷng mà không dám căi.”[7]

Phải chăng thái độ kiêu căng và khiêu khích của một bộ phận quan trọng trong cộng đồng Công giáo tại Miền Nam mà chúng ta vừa thấy qua những trường hợp nêu trên đă là một trong những nguyên nhân chính khiến cho khối người Lương ở phía dưới vĩ tuyến 17 ngày càng xa cách chế độ Ngô Đ́nh Diệm, đưa đến sự sụp đổ của nó vào cuối năm 1963?

 

“Cả làng xin được rửa tội….”

 Do những biến cố xảy ra trong năm 1963, chế độ Ngô Đ́nh Diệm thường bị những người chống đối tố cáo là một chế độ đă lệ thuộc (quá) nhiều vào sự hậu thuẫn trung thành của Giáo dân (di cư) và, v́ vậy, đă dành cho khối người này một sự nâng đỡ đặc biệt. Nhưng thật ra, không phải đợi đến năm 1963 mới thấy được sự gắn bó keo sơn giữa (một khối) tín đồ Công giáo và nền Cộng ḥa Nhân vị do anh em Tổng thống Diệm lănh đạo. Quan hệ này đă nhen nhúm ngay sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm vượt qua được giai đoạn phôi thai đầy nguy hiểm. Trong tạp chí International Affairs phát hành vào tháng 4 năm 1956, J. Donald Lancaster nhận xét:  Tổng thống Diệm bị hạn chế trong việc thế thiên hành đạo tại miền Nam Việt Nam bởi ḷng trung thành đối với tôn giáo cũng như gia đ́nh của chính ông ta.

Ḷng trung thành nói trên rất có thể đă là một trong những yếu tố khiến cho người Lương đột nhiên theo đạo Công giáo hàng loạt thời ḍng họ Ngô Đ́nh cầm cân nẩy mực phía dưới vĩ tuyến 17, một hiện tượng Nguyễn Hiến Lê có đề cập đến trong hồi kư của ḿnh (trang 121, tập II). Ông kể lại: “Diệm-Nhu theo chính sách ba-Đ: Đảng (Cần Lao), Đạo (Công giáo) và Địa phương (miền Trung). Chỉ công chức nào có đủ ba Đ mới được tin dùng, cho nên con số tín đồ Công giáo tăng vọt lên, nhất là ở miền Trung; có giáo đường làm lễ rửa tội hằng trăm người một lúc.”

 

Người nổi tiếng và thành đạt nhất trong nhóm Giáo dân tân ṭng này không phải ai khác hơn là một viên sĩ quan gốc miền Trung tên Nguyễn Văn Thiệu. Ông Thiệu lập gia đ́nh với một nữ tín đồ Công giáo trước khi Ngô triều được thiết lập. Nhưng măi đến năm 1958, tức là lúc triều đại này đă “vững nền thịnh trị”, ông mới để cho Linh mục Bửu Dưỡng, một lư thuyết gia quan trọng của trường phái Cần lao Nhân vị, rửa tội tại Đà Lạt. Chính LM Bửu Dưỡng đă cho Tướng Edward Lansdale biết điều này và nhờ bản báo cáo Lansdale gửi cho Đại sứ Elsworth Bunker ngày 20 tháng 4 năm 1968, nên sử gia Vũ Ngự Chiêu mới có thể t́m ra được một chứng liệu thành văn về sự trở lại đạo của Nguyễn Văn Thiệu.[8] Arthur Dommen, một học giả có cảm t́nh với họ Ngô, cũng cho biết vị Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh trong tương lai này không theo đạo lúc lập gia đ́nh, mà chỉ làm việc này sau khi chiếc ghế Tổng thống của Ngô Đ́nh Diệm đă vững như bàn thạch.[9]

 Trường hợp Nguyễn Văn Thiệu, như đă nói, chỉ là trường hợp nổi bật nhất. Hiện tượng người Lương ồ ạt theo đạo Công giáo thời Ngô Đ́nh Diệm mà Nguyễn Hiến Lê kể lại đă được tạp chí Informations Catholiques Internationales phát hành ngày 15 tháng 3 năm 1963 xác nhận. Nên xem những con số ngoạn mục được nêu ra trong đó. Ngoài ra, nhờ tạp chí này mà chúng ta c̣n biết được Đức ông Ngô Đ́nh Thục đă khoe với một đồng nghiệp người Pháp rằng ở giáo phận Vĩnh Long đôi khi có đến nguyên cả làng xin được rửa tội và, ngoài Phi Luật Tân ra, Nam Việt Nam là quốc gia độc nhất tại Viễn Đông sẽ phải được ở trên con đường đưa đến sự trở lại đạo hoàn toàn.[10] Tuy nhiên, Informations Catholiques Internationales cũng cho chúng ta biết, thái độ đắc thắng do cả chế độ Ngô Đ́nh Diệm lẫn khối thiểu số Công giáo phơi bày đă tạo ra một sự bất măn nhất định trong khối người Lương, một sự bất măn mà tạp chí này cho là dễ thấy ngay tại Sài g̣n cũng như ở các ngôi làng xa xôi hẻo lánh nhất.[11]

Nhận định nói trên rất phù hợp với báo cáo mà Đại Sứ Pháp Roger Lalouette gửi về Paris đúng một năm trước đó.[12] Lalouette cho biết ngoài Cộng sản ra, chế độ Diệm c̣n phải đương đầu với sự chống đối của những thế lực phi Cộng sản:

“Lực lượng chống đối tập họp những người ái quốc cấp tiến, giới trưởng giả Nam Kỳ bị gạt bỏ khỏi những việc công ích bởi những phần tử Bắc hay Trung vào tị nạn, những giáo pháo bị giải giới và bị nghi ngờ và, một cách tổng quát, tất cả những người không Ki-tô chống lại thiểu số Ki-tô (10% dân số) đă đặt tôn giáo Ki-tô La Mă lên hàng quốc giáo. Họ không đ̣i hỏi sự thay đổi trong chế độ, mà là thay đổi cả một chế độ.”

Chính nội dung của những tư liệu được h́nh thành trước biến cố Phật giáo nói trên đă cho phép chúng ta (tạm) tin lời Vũ Tài Lục, người đă từng sống trong thời cai trị của nhà Ngô, khi vị học giả này khẳng định rằng đến tháng 5 năm 1963 th́ sự kỳ thị tôn giáo dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm (mà ông gọi là chế độ Diệm-Thục để nhấn mạnh vai tṛ của Đức Tổng Giám mục Ngô Đ́nh Thục trong đó) đă đến mức không thể chịu đựng hơn được nữa, nên Phật tử đă phải xuống đường để phản đối. Dù sao đi nữa th́ mối liên hệ nhân quả giữa tệ trạng kỳ thị tôn giáo dưới chế độ Ngô Đ́nh Diệm và Biến cố Phật giáo 1963 sẽ được phân tích một cách tường tận hơn trong một bài khác, đang được chuẩn bị.

 

Một hiện tượng thuộc lịch sử?

 

… Chuyện lố lăng nhất mà chế độ Nhân vị của ḍng họ Ngô Đ́nh đă gây ra là việc họ bắt buộc người dân miền Nam hát bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống trong lễ chào cờ. Cách đây trên hai mươi năm, tờ Làng Văn, một nguyệt san chống Cộng hữu danh tại hải ngoại, có đăng trong số 47 một bài mang tên “Sơ kết vấn đề Quốc-Ca”, trong đó có chứa đựng những dữ kiện lư thú về bài hát sùng bái cá nhân nói trên. (Khi đó tôi là một học sinh trung học, c̣n hai năm nữa mới được thi tú tài, nhưng cũng đă bắt đầu có quan tâm đặc biệt đến chế độ Ngô Đ́nh Diệm, nên đă cẩn thận cất giữ tờ báo đó cho đến ngày hôm nay đem ra xài.)

Tờ Làng Văn viết:

“Vấn đề Quốc ca đă được mang ra bàn căi tất cả ba lần. Lần thứ nhất do Quốc hội đệ nhất Cộng-ḥa năm 1956…

Lần thảo luận thứ nhất không đưa tới một sự thay đổi nào, v́ có một số đại diện dân cử v́ ḷng tôn sùng cá nhân, muốn đưa bài Suy tôn Ngô Tổng Thống… ra thay bài Tiếng gọi công dân… Cuộc bàn căi để đi t́m một bài hát khác làm Quốc ca thay cho bài hát đương thời, với tác giả chính đă đứng về phía CS, lại biến thành một cuộc tranh chấp giữa tinh thần tôn quân kiểu mới và khuynh hướng dân chủ tự do. Phe tôn quân không thắng nổi số đông, mà phe đa số cũng không dám dùng thế lực của ḿnh để loại bài suy tôn cá nhân. Trong trường hợp đó, thà giữ nguyên bài cũ c̣n hơn.

Cuối cùng, v́ đoàn kết quốc gia, v́ thể diện của lănh tụ, và quan trọng hơn hết, v́ an ninh bản thân, một giải pháp ch́m xuồng đă được đưa ra, dung hợp cả hai chủ trương: giữ lại bài Tiếng gọi công dân làm Quốc ca, và hát kèm bài Suy tôn Ngô Tổng Thống ngay trong lễ chào cờ. Từ đó, 1956, Việt Nam Cộng ḥa có một bài quốc ca ‘kép’. T́nh trạng này kéo dài tới 1963 mới chấm dứt, sau khi Trung tướng Dương Văn Minh đảo chánh thành công, kết thúc chín năm cai trị của Ngô triều.”[13]

 

 Trong mục phản hồi trên diễn đàn talawas, Trần Ngọc Cư mới đây có lời than phiền về tệ trạng sùng bái cá nhân nói trên. Nhưng có lẽ là người tuổi đă cao, nên họ Trần không muốn nhắc đến khả năng đề kháng thụ động của khối người Lương trước sự lố lăng này của chế độ Ngô Đ́nh Diệm và thái độ kiêu ngạo của tập đoàn Công giáo di cư phía sau lưng nó, một sự đề kháng được biểu lộ qua câu Toàn dân Bùi Chu mút cu Ngô Tổng Thống. Đây là một sử liệu truyền khẩu mà tôi được những người lớn tuổi đă từng sống dưới sự thống trị của Ngô triều kể lại cho nghe tại hải ngoại. Nó rất ăn khớp với những sử liệu thành văn mà tôi đă thu thập được và vừa giới thiệu trong bài này. Do đó, nó rất đáng được ǵn giữ và phổ biến.

 

…..

© 2009 Trần Lâm

© 2009 talawas

 

[1] Nguồn: Phan Lạc Giang Đông, “Nhớ lại và suy Nghĩ”, trong: Chính Đạo [Vũ Ngự Chiêu] (chủ biên), Nh́n lại biến cố 11/11/1960, Văn hóa, Houston, 1997, tr. 210.

[2] Informations Catholiques Internationales, “L’Église au Sud-Vietnam”, 15 Mars 1963, tr. 21.

[3] Ibid, tr. 19.

[4] Tại trang 99 và 100 trong cuốn Đời viết văn của tôi, do Văn Nghệ xuất bản tại California năm 1986.

[5] Ibid.

[6] Ibid, tr. 21.

[7] Hồi kí, Tập II, Văn Nghệ, California, 1990, trang 120-121.

[8] Xem: Chính Đạo, Mậu Thân 68: Thắng hay Bại?, Văn Hóa, Houston, tái bản lần thứ hai, 1998, tr. 355. Xem thêm: Arthur Dommen, The Indochinese Experience of the French and the Americans, Indiana University Press, 2001, tr. 658.

[9] Arthur Dommen nói rằng Nguyễn Văn Thiệu là đảng viên Đại Việt, c̣n Vũ Ngự Chiêu th́ cho biết ông ta là Ủy viên Quân ủy Cần lao Nhân vị Cách mạng Đảng. Xem Nguyên Vũ, Paris Xuân 96, Văn Hóa, 1997, tr. 87-88.

[10] Nguyên văn: “C’est le seul pays d’Extrême-Orient (à part les Philippines) qui soit en marche vers une conversion totale…”

[11] Nguyên văn: “Ce que nous avons appelé, pour faire image, le ‘triomphalisme’ conjugé du régime et de la minorité catholique ne manque pas de nourrir un certain mécontentement chez les non-catholiques. Quoique en contradiction avec les conversions massives dont nous avons parlé plus haut, il est facilement observable à Saigon comme dans les plus lointains villages.”

[12] Báo cáo này đă được Vũ Ngự Chiêu t́m thấy, dịch sang tiếng Việt và cho in lại trong Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975, Tập I-C: 1955-1963, Văn Hóa, Houston, 2000, tr. 248-250.

[13] Bạn đọc bốn phương cần lưu ư đến chi tiết này: Nguyễn Hữu Nghĩa, Chủ bút tờ Làng Văn, đă bị một số người hiểu lầm (?) khái niệm tử năng thừa phụ nghiệp tố cáo là con trai của đại tướng VC Nguyễn Chí Thanh. Nhưng nhờ có Bác sĩ Trần Văn Tích, một người có lập trường chống Cộng rất vững vàng, từng là cộng tác viên cho tờ báo này, nên tôi mới dám xài những dữ kiện do nó cung cấp về bài Suy tôn Ngô Tổng Thống.

[14] Bạn nào hiếu kỳ muốn biết thêm về nó th́ nên t́m đọc: Robert Paxton, Vichy France: Old Guard and New Order, 1940-1944, Knopf, New York, 1972. Sau Đệ Nhị Thế chiến, người Pháp đă cố che giấu sự thật, cố tương đối hóa những việc làm kém sạch sẽ của chế độ này. Chính nhờ sự đào bới trong văn khố Đức của Paxton, một sử gia người Mỹ, mà bộ mặt nhơ nhuốc của nó đă bị lột trần trước công chúng Pháp. Cách đây vài năm, tạp chí Journal of Contemporary History có đăng một bài nghiên cứu về tầm ảnh hưởng sâu rộng của ông ta đối với giới sử học Pháp. Tôi đă đưa bài đó lên mạng, các bạn có thể đọc nó tại đây. Thật thú vị khi thấy một người Mỹ quê ở Virginia giảng cho mấy ông Tây bà Đầm nghe về quá khứ khá bẩn thỉu của quốc gia họ. Nhưng dân Phú Lang Sa vẫn c̣n giữ được tinh thần thượng vơ. Mới đây họ đă trao tặng cho Paxton huân chương Légion d’honneur để bày tỏ ḷng biết ơn đối với công tŕnh nghiên cứu của ông: “Son œuvre a été controversée à une époque où la France refusait de regarder son passé en face, même s’il est difficile à accepter. Grâce à lui on sait que, contrairement à la légende, Vichy n’a pas été contraint à collaborer à ce point et que la Révolution nationale de Pétain, son régime fasciste, n’a pas été imposée par les Allemands.”

[15] “Like many aspects of British constitutional life, its official status derives from custom and use, not from Royal Proclamation or Act of Parliament.”

[16] Hai anh em ông Diệm, ông Nhu cầm vận mệnh quốc gia trong tay, mà khi thủ hạ của họ hại dân vô tội – những người mà họ có bổn phận bảo vệ -  họ lại hoàn toàn không biết. Điều này khiến chúng ta phải tự hỏi tại sao họ không biết. Ở một quốc gia văn minh, nạn nhân có thể dựa vào hệ thống tư pháp độc lập hoặc hệ thống truyền thông tự do để lưu ư giới hữu trách đến những tệ trạng mà họ phải gánh chịu. V́ dưới nền Cộng ḥa Nhân vị, hệ thống tư pháp không được độc lập và giới truyền thông không được tự do nên hai anh em ông Diệm mới có thể không biết ǵ cả. Việc giới lănh đạo của một quốc gia không biết dân vô tội bị xâm phạm phi pháp và việc những nạn nhân này không có cách nào làm cho giới lănh đạo biết được tệ trạng nói trên thật ra là một bản cáo trạng đối với giới lănh đạo đó: Họ không biết, v́ bộ máy chính trị của họ là một bộ máy kém lành mạnh, nếu không muốn nói là bệnh hoạn.