Tháng 06-2012
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
Tổng Kết Cuộc Chiến Việt Nam
Phạm Trần Anh
October 20, 2012
LTG: Cuộc chiến Việt Nam đă xem như chấm dứt được ba mươi bảy năm nhưng vẫn c̣n để lại những “Hội Chứng Việt Nam” trong ḷng tất cả con dân nước Việt.
Cho đến ngày nay, kể cả những người từng tham dự cuộc chiến, cầm súng chiến đấu vẫn không nhận chân được vấn đề là bản chất của cuộc chiến Việt Nam? Chiến tranh Việt Nam có phải là cuộc chiến để giành độc lập dân tộc như Cộng Sản Việt Nam vẫn rêu rao tuyên truyền? Thật vậy, đồng bào miền Bắc nhất là các đảng viên đoàn viên bị nhồi nhét tuyên truyền “Bác Hồ” là người yêu nước và đảng Cộng sản Việt Nam có công giành lại độc lập từ tay thực dân Pháp. Trong khi đó, Đồng bào trong Nam th́ chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh ư thức hệ để ngăn chặn làn sóng đỏ, bảo vệ miền Nam tự do. Đối với đa số quần chúng nhân dân th́ hiểu đơn giản là cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn. Thật vậy, đối với quần chúng và nhất là giới nghệ sĩ th́ đó là một cuộc nội chiến tương tàn “Ba mươi năm nội chiến từng ngày …” nồi da xáo thịt “Người chết hai lần … thịt da nát tan …!” khiến 4 triệu đồng bào Việt Nam ở miền Bắc đă hi sinh cho một cuộc chiến vô nghĩa. Sở dĩ CSVN c̣n tồn tại tới giờ này v́ đa số đảng viên CS tuy thất vọng về tập đoàn lănh đạo Việt gian CS nhưng vẫn c̣n biện minh, bám víu vào luận điểm cho rằng HCM và đảng CSVN có công giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Một khi biết rơ sự thật lịch sử th́ họ sẽ cùng với toàn dân đứng lên chuyển đổi lịch sử trong nay mai.
Chính v́ vậy, chúng ta phải t́m hiểu bản chất của cuộc chiến hay nói cách khác, hiểu rơ ư đồ của các thế lực quốc tế toan tính những ǵ trên xương máu mồ hôi và nước mắt của toàn dân Việt Nam, từ đó chúng ta mới thấy rơ toàn bộ vấn đề. Để hiểu rỏ bản chất cuộc chiến Việt Nam, với tư cách một người nghiên cứu lịch sử trên quan điểm dân tộc, chúng tôi chỉ đưa ra những nhận định trung thực không nhằm mục đích tuyên truyền cho một chế độ nào, một đảng phái chính trị nào. Chúng ta cùng lược duyệt các sự kiện lịch sử trọng yếu, các hiệp ước quốc tế liên quan đến Việt Nam đối chiếu với thực tế chính trị sau đây:
- Hiệp Ước Patenôtre 1884 kư kết ngày 6-6-1884 giữa triều đ́nh nhà Nguyễn và thực dân Pháp qui định Nam Kỳ Tự trị và Pháp chính thức áp đặt chế độ bảo hộ Bắc và Trung Việt Nam.
- Ngày 9-3-1945, Quân Phiệt Nhật lật đổ Thực dân Pháp. Ngày 11-3-1945, Cơ Mật Viện triều Nguyễn họp khẩn cấp và ra tuyên bố “Huỷ bỏ Hiệp ước 1884 và Khôi phục chủ quyền cuả Việt Nam”. Ngày 12-3-1945, Cao Miên tuyên bố độc lập và ngày 15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập. Ngày 8-5-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố chương tŕnh Hưng Quốc, lá cờ “Quẻ Ly” được chọn làm quốc kỳ và bài “Đăng Đàn” của triều đ́nh nhà Nguyễn được chọn làm quốc ca.
- Ngày 17-8-1945, Tổng hội giáo giới tổ chức cho công chức Hà Nội biểu t́nh để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Cuộc biểu t́nh diễn hành qua các đường phố th́ cán bộ CS trương cờ đỏ sao vàng biến cuộc biểu t́nh của công chức thành biểu t́nh ủng hộ mặt trận Việt Minh. Ngày 19-8-1945, biểu t́nh lớn tại nhà hát lớn Hà Nội, mặt trận Việt Minh xuất hiện cùng với cờ đỏ sao vàng xuất hiện nhiều nơi. Việt Minh “Cướp Chính quyền”, chiếm các công sở trong thành phố. Ngày 22-8-1945, Mặt Trận Việt Minh chính thức xuất hiện tại Hà Nội và Sài G̣n. Vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị.
- Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh độc “Tuyên ngôn Độc lập” và tŕnh diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa tại Hà Nội. Ngày 11-11-1945, Đảng CS Đông Dương tuyên bố tự giải tán để trở thành “Nhóm Nghiên cứu Mác Xít”.
- Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh kư kết hiệp ước sơ bộ với Pháp cho phép quân Pháp đổ bộ vào Bắc bộ thay thế quân đội Trung Hoa hậu thuẫn cho Việt Nam Quốc Dân Đảng để rảnh tay tiêu diệt đối thủ là VNQD. Ngày 19-12-1946, Chiến tranh Việt Pháp bùng nổ bắt đầu từ Hà Nội.
- Ngày 5-6-1948 công bố bản Tuyên ngôn V́ệt Pháp trên chiến hạm Duguay-Trouin tại vịnh Hạ Long giữa Cao Ủy Pháp Émile Bollaert và Thủ tướng Lâm thời Nguyễn văn Xuân. Tuyên ngôn vịnh Hạ Long minh định Pháp quốc thừa nhận Việt Nam là một quốc gia Độc lập và thống nhất trong Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết.
- Ngày 14-1-1950, nhà nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Quốc chính thức thừa nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa do Hồ Chí Minh lănh đạo. Ngày 31-1-1950, Liên bang Sô Viết thừa nhận Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa do Hồ Chí Minh lănh đạo đă chính thức đứng vào hàng ngũ các nước cộng sản nên Trung Quốc bắt đầu công khai viện trợ vũ khí tối tân cho VNDCCH.
- Ngày 7-2-1950, Hoa Kỳ, Anh quốc thừa nhận quốc gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại lănh đạo để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa CS xuống Đông Nam Á. Kể từ thời điểm này, cuộc chiến Việt Nam không c̣n là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mà đă trở thành cuộc chiến tranh ư thức hệ giữa 2 hệ thống tư tưởng: Chủ nghĩa CS và chủ nghĩa Tư Bản của thế giới tự do.
- Ngày 20-7-1954, Kư kết thỏa ước ngưng bắn giữa Giữa Pháp và Việt Minh. Tuyên bố chung kết Hội nghị Genève qui định các điều khoản chính trị về việc tạm thời chia đôi đất nước và tổ chức Tổng tuyển cử được Anh, Pháp, Ai Lao, Trung Quốc, Liên Sô, Cambodia và Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa thỏa thuận. Tuyên bố Chung kết không được thi hành v́ Hoa Kỳ không thỏa thuận và không hỗ trợ Tuyên bố Chung này. Ngay khi các bên vừa đặt bút kư kết hiệp định, Ngoại trưởng Trần văn Đỗ khóc và tuyên bố “Chính phủ Quốc Gia Việt Nam phản đối việc kư kết hiệp định đ́nh chiến trái với nguyện vọng độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam cũng như sự lạm quyền của Tổng tư lệnh Pháp tự ư ấn định ngày tổng tuyển cử… Tuy nhiên, Việt Nam cũng cố gắng hoan nghênh mọi nỗ lực để tái lập ḥa b́nh và không dùng vơ lực để cản trở việc thi hành hiệp định”.
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Trung Cộng tuyên bố quyền làm chủ biển Đông. Ngày 14-9-1958, Thủ tướng VNDCCH gửi thư cho Thủ tướng quốc vụ viện Chu Ân Lai “Ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của chính phủ nước Cộng Ḥa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
- Mao Trạch Đông tuyên bố trắng trợn ư đồ xâm chiếm Miền Nam Việt Nam như sau: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore. Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …”. CSVN nhận chỉ thị phát động cuộc chiến tranh “Giải phóng” miền Nam VN. Tháng 4 năm 1959, Ủy ban Trung ương đảng họp lần thứ 15 quyết định dùng vũ lực xâm chiếm miền Nam Ngày 20-12-1960: Hà Nội công bố Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam do LS Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch.
- Ngày 27-1-1973 Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Ḥa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam đă kư HIỆP ĐỊNH CHẤM DỨT CHIẾN TRANH VÀ TÁI LẬP H̉A B̀NH TẠI VIỆT NAM Hiệp Định Ḥa B́nh Paris nhằm “kết thúc chiến tranh và tái lập ḥa b́nh tại Việt Nam”. Vào lúc kư hiệp định, VNCH kiểm soát 75% lănh thổ và 85% dân số.
Điều 15 qui định “Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp ḥa b́nh trên căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Nam và Miền Bắc, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào, thời gian thống nhất sẽ do Miền Nam và Miền Bắc Việt Nam đồng thỏa thuận”.
TỔNG KẾT CUỘC CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Việt Nam với bờ biển dài như h́nh chữ S nh́n ra biển Đông Thái B́nh Dương, khống chế toàn bộ hải tŕnh từ Đông sang Tây và ngược lại nên được xem như “ngă tư giao thương quốc tế”. Ngoài vị trí “địa lư chiến lược” hết sức quan trọng, Việt Nam c̣n có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và một hải phận rộng 1 triệu km2 với trữ lượng dầu hỏa tiềm tàng đă khiến các cường quốc luôn t́m mọi cách xâm chiếm, can thiệp vào Việt Nam. Lịch sử cận đại chứng minh khu vực Đông Nam Á nói chung và Đông Dương nói riêng là một khu vực địa lư-chính trị và quân sự nên cuộc chiến tranh ở Việt Nam kéo theo cả Đông Dương (Việt, Miên, Lào) và cả khối Đông Nam Á trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo ở vùng này.
Ngày 3-2-1930 Hồ Chí Minh thành lập đảng CSVN đến tháng 10-1930 theo chỉ thị của Cộng sản quốc tế đổi tên là đảng Cộng Sản Đông Dương. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh thực dân Pháp. Ngày 11-3-1945, Cơ Mật Viện triều Nguyễn họp khẩn cấp và ra tuyên bố “Huỷ bỏ Hiệp ước 1884 và Khôi phục chủ quyền cuả Việt Nam”. Ngày 12-3-1945, Cao Miên tuyên bố độc lập và ngày 15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập. Như vậy, Việt Nam trên nguyên tắc đă chính thức độc lập kể từ ngày 11-3-1945 với chính phủ Trần Trọng Kim đầu tiên trong lịch sử. Cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp mà Cộng Sản phát động dưới danh nghĩa giải phóng các dân tộc Việt Miên Lào trong thực chất là để bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản, nhuộm đỏ cả Đông Dương để mở đường cho Trung Cộng tiến xuống Đông Nam Á. Ngày 14-1-1950, Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, ngày 31-1-1950 Liên Sô công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng ḥa là nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á nên ngày 7-2-1950, Anh, Hoa Kỳ và các nước tự do công nhận chính phủ quốc gia Bảo Đại. Hồ Chí Minh lănh đạo chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa đă chính thức đứng vào hàng ngũ Cộng Sản nên cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc đă trở thành chiến tranh ư thức hệ giữa Cộng Sản và tư bản, đưa dân tộc Việt Nam vào thế khốn cùng. Để lợi dụng ḷng yêu nước của toàn dân, ngày 11-11-1945, đảng Cộng Sản Đông Dương giải tán rồi thành lập đảng Lao Động (16-3-1951) trá h́nh của đảng Cộng Sản để lănh đạo phong trào Việt Minh.
Ngày 2-6-1948, thành lập chính phủ Trung Ương Lâm thời do Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng, ban hành Hiến chương Lâm thời của nước Việt Nam, chọn quốc kỳ cờ vàng ba sọc đỏ và bài “Thanh niên Hành khúc” sau khi đă đổi lời của Lưu Hữu Phưóc làm quốc ca. Ngày 5-6-1948 công bố bản Tuyên ngôn V́ệt Pháp gọi là Tuyên ngôn vịnh Hạ Long minh định Pháp quốc thừa nhận Việt Nam là một quốc gia Độc lập và thống nhất trong Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết.
Từ tháng 8-1945 đến 1-1946, Hồ Chí Minh đă gửi 8 bức thư cho TT Harry S Truman và bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kêu gọi HK xin được công nhận và giúp ngăn quân đội Pháp trở lại Đông Dương. Thế nhưng, toán OSS cơ quan t́nh báo chiến lược của Hoa Kỳ ở Đông Dương do Thiếu tá Thomas More và Đại úy Patty sống cùng với Hồ Chí Minh trong hang Pắc Pó đă báo cáo Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Ái Quốc, nhận chỉ thị của Đệ tam quốc tế CS nên vẫn sinh hoạt đảng, hát quốc tế ca, học tập chủ nghĩa Mác Lê. Chính v́ vậy, Hoa Kỳ đă không công nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Nếu là bất cứ người Việt Nam nào th́ vận mệnh đất nước Việt Nam đă thay đổi ngay từ lúc đó, nếu không độc lập ngay th́ cũng hưởng qui chế chế độ Ủy trị của Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt là sau thế chiến lần thứ hai, với sự ra đời của Liên Hiệp Quốc và nhất là chủ trương giải thực của Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt đă mở đầu cho phong trào dân tộc tự quyết của các quốc gia Đông Nam Á. Indonesia tuyên bố độc lập ngày 17 tháng 8 năm 1945, Hoa Kỳ trao trả độc lập cho Philippines năm 1946, Burma giành lại độc lập từ tay người Anh năm 1948 và Pháp chính thức rút khỏi Đông Dương sau hiệp định Genève 20-7-1954. Người Anh đă trao lại độc lập cho Malaya năm 1957 và sau đó là Singapore, Sabah và Sarawak năm 1963 trong khuôn khổ Liên bang Malaysia.
Từ thực tế lịch sử trên, nếu Hồ Chí Minh không đem chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam th́ đất nước chúng ta đă độc lập mà không phải hy sinh oan uổng hàng triệu người Việt Nam vô tội cho tham vọng xâm lược bành trướng của Cộng sản. Chính Cộng Sản Việt Nam đă phản bội kháng chiến để thỏa hiệp với thực dân Pháp, kư kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia đôi đất nước trong lúc cao trào kháng chiến của toàn dân đang trên đà thắng lợi. Chính phủ quốc gia Việt Nam không đặt bút kư kết hiệp định Genève để phản đối sự cấu kết giữa Cộng sản và thực dân Pháp chia đôi đất nước. Nguồn sử liệu của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này cho biết Trung ương đảng đă nhận chỉ thị của đảng Cộng Sản Trung Quốc kư kết chia đôi đất nước. Ngay khi vừa kư hiệp định, Cộng Sản Việt Nam đă chỉ thị cho 85 ngàn đảng viên chưa bị lộ rút vào hoạt động bí mật, chôn giấu hơn 1 vạn súng và nhiều điện đài. Đến năm 1955, bộ máy chỉ đạo của đảng từ xứ ủy, tỉnh ủy đến huyện ủy đă được sắp xếp xong và chuyển hướng hoạt động bí mật chờ thời cơ.
Ngày 8-9-1954, Liên minh Pḥng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization gọi tắt là SEATO) được thành lập bao gồm 8 nước là Australia, Pháp, Anh, New Zealand, Pakistan, Philippine, Thái Lan và Hoa Kỳ để ngăn chặn sự xâm lược của chủ nghĩa Cộng Sản xuống Đông Nam Á. Ngày 20-11-1954, Thủ tướng Pháp Mendès France viếng thăm Hoa Kỳ xác nhận: “Chấm dứt sự kiểm soát của Pháp về kinh tế, thương mại và tài chánh tại Việt Nam: Chuyển giao quân đội Quốc gia cho Việt Nam, chuyển giao trách nhiệm huấn luyện quân đội quốc gia cho Hoa Kỳ và rút hết quân đội Viễn chinh Pháp ra khỏi Việt Nam ”. Ngày 9-8-1955, Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố chính phủ của ông không kư hiệp định nên không bị ràng buộc bởi hiệp định Genève và việc bầu cử không thể thực hiện được “Chừng nào mà chế độ Cộng Sản chưa cho phép người dân Việt nam được hưởng những quyền tự do dân chủ và những quyền căn bản của con người.”.
Ngay sau khi vừa đặt bút kư hiệp định Genève, Ban chấp hành trung ương đảng Lao Động trá h́nh của đảng Cộng Sản Việt Nam đă họp để chuẩn bị sách lược đấu tranh thống nhất đất nước. Các cơ sở đảng để lại sau hiệp định có nhiệm vụ phát động nhân dân đấu tranh chính trị đ̣i hiệp thương giữa 2 miền Nam Bắc, thực hiện tổng tuyển cử, phong trào ḥa b́nh Sài G̣n Chợ Lớn đ̣i các quyền tự do dân chủ… Để đối phó với các hoạt động nằm vùng này, giữa năm 1955, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm cho phát động chiến dịch “Tố Cộng” trên toàn quốc. Trước những thiệt hại nặng nề này, Cộng Sản Việt Nam quyết định tiến hành khủng bố và ám sát những viên chức địa phương, những giáo viên có lập trường quốc gia. Theo báo cáo của ṭa Đại sứ HK th́ cuối năm 1960 đă có 700 viên chức Việt Nam Cộng Ḥa bị sát hại. Tháng giêng năm 1959, đảng Lao Động (CSVN) ra nghị quyết kết hợp đấu tranh chính trị với lực lượng vũ trang, chuyển người và vũ khí vào miền Nam. Tháng 3 năm 1959, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm tuyên bố đặt Việt Nam Cộng Ḥa trong t́nh trạng chiến tranh.
Sau khi Trung Cộng đánh chiếm Tây Tạng năm 1959, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore.Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …” nên tháng 4 năm 1959, Ủy ban Trung ương đảng họp lần thứ 15 quyết định dùng vũ lực xâm chiếm miền Nam. Ngày 20-12-1960, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam do LS Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch được thành lập với chiêu bài “Đánh đổ chế độ thuộc địa trá h́nh của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đ́nh Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, ḥa b́nh và trung lập, tiến tới thống nhất tổ quốc”. Đầu năm 1961, quân đội giải phóng Miền Nam Việt nam hoạt động mạnh với 3 thành phần gồm đội quân chủ lực là binh sĩ miền Bắc và cán bộ tập kết trở về, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ hoạt động hiệu qủa ở miền Nam. Chính phủ Hoa Kỳ đưa ra sách lược chống du kích do sir Robert Thompson người Anh cố vấn cho chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, đồng thời gia tăng quân số, vũ khí với sự giúp đỡ của cố vấn Hoa Kỳ. Giữa năm 1961, kinh tế gia Eugene Staley được phái sang cố vấn chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa thành lập Ấp Chiến lược để tách rời dân chúng ra khỏi sự kiểm soát khống chế của quân Cộng sản. Ngày 11-10-1961, Thống tướng Maxwell Taylor được TT Kennedy cử sang nghiên cứu t́nh h́nh nghiêm trọng của VN về phúc tŕnh lên TT là để ngăn chặn quân xâm nhập từ miền Bắc qua biên giới Lào cần ít nhất là 3 sư đoàn quân chiến đấu Mỹ. Bản phúc tŕnh của bộ trưởng quốc pḥng Mac namara và bộ trưởng Ngoại giao Dean Rush đều nhấn mạnh trách nhiệm của Hoa Kỳ là phải bảo vệ Việt Nam khỏi rơi vào tay Cộng sản. Bản phúc tŕnh viết “… Chúng ta phải chuẩn bị để đưa lực lượng chiến đấu Hoa Kỳ vào Việt Nam nếu điều đó cần thiết để thành công. Tùy theo hoàn cảnh, có thể quân đội Hoa Kỳ cũng phải đánh vào nguồn xâm lược ở Bắc Việt”.
Trước t́nh h́nh này, TT Ngô Đ́nh Diệm ban bố t́nh trạng khẩn cấp trên toàn quốc ngày 15-10-1961. Ngày 3-2-1962, thành lập ủy ban trung ương đặc trách ấp chiến lược do cố vấn Ngô Đ́nh Nhu chỉ huy. Theo báo cáo kết qủa 1 năm thực hiện đă lập xong 5.917 ấp chiến lược qui tụ 8 triệu dân. Bộ chỉ huy yểm trợ Quân sự Hoa Kỳ (MACV) được thành lập, số cố vấn quân sự tăng từ 700 lên 12.000 người vào giữa năm 1962.
Ngày 23-7-1962, Hiệp định Trung lập Lào được kư kết, phe tả đă đưa Pathet Lào vào chính phủ liên hiệp để không cho Hoa Kỳ can thiệp vào t́nh h́nh Lào. Đồng thời, quân Cộng sản vẫn sử dụng đường ṃn Hồ Chí Minh ở phiá Đông do phe Pathet Lào kiểm soát để chuyển vận ồ ạt vũ khí đạn dược vào chiến trường miền Nam. Từ năm 1962, đường ṃn được mở rộng để cho những đoàn xe tải dài từ 50 đến 75 dặm (miles) di chuyển vào ban đêm dưới sự bảo vệ của trên 70 ngàn quân chính qui Cộng sản. Mỗi tháng có thể chuyển được 8 ngàn quân và 10 ngàn tấn vũ khí đạn dược cung ứng cho nhu cầu chiến trường ngày càng ác liệt.
Trong khi quân Cộng sản quấy rối khắp nơi th́ t́nh h́nh chính trị miền Nam có nhiều rối loạn kể từ cuối năm 1960 với cuộc đảo chánh của tư lệnh lực lượng nhảy dù. Cuộc đảo chánh do các đảng phái quốc gia tổ chức tuy thất bại nhưng chứng tỏ sự suy yếu của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Ngay từ khi về nhận chức Thủ Tướng, ông Ngô Đ́nh Diệm đă được sự ủng hộ nồng nhiệt của quân đội quốc gia và 1 triệu đồng bào di cư. Chính sự ủng hộ này khiến TT Ngô Đ́nh Diệm và nhất là cố vấn Ngô Đ́nh Nhu có những tính toán chủ quan sai lầm dẫn đến sự sụp đổ của nền đệ nhất Cộng Ḥa. Việc dẹp B́nh Xuyên là cần thiết nhưng dẹp luôn các giáo phái khác và các đảng phái quốc gia nhất là áp dụng triệt để dụ số 10 ngăn cấm hoạt động của một số hội đoàn, các tôn giáo đă gây nên sự chia rẽ trong hàng ngũ quốc gia. Ngày 7-7-1963, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đă tự vẫn trong tù để lại di chúc “Lịch sử” đắng cay cho những người quốc gia: “Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy ḿnh cũng như Ḥa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do”.
Đầu tháng giêng năm 1963, Cộng quân tấn công ấp Bắc gây tiếng vang bất lợi cho quân đội Việt Nam Cộng Ḥa tại quốc hội Hoa Kỳ. Theo phúc tŕnh của phái bộ quân sự Mỹ Macv th́ Cộng quân kiểm soát được gần một nửa dân số và lănh thổ về ban đêm. Ngày 15-12-1964, bộ trưởng quốc pḥng Mac Namara phải sang Việt Nam thị sát t́nh h́nh. Một kế hoạch có tên là Oplan 34A áp dụng biện pháp mạnh để thuyết phục Hà Nội v́ lợi ích của chính họ mà từ bỏ ư định xâm lược miền Nam. Kế hoạch chưa thi hành th́ vụ Maddox xảy ra. Hạm trưởng chiến hạm Maddox loan báo chiến hạm bị các tiểu đĩnh của Cộng Sản dự định tấn công ngoài hải phận quốc tế từ ngày 2 đến 4 tháng 8-1964. Ngày 5-8-1964, sau cuộc họp với lănh tụ lưỡng đảng quốc hội, TT Hoa Kỳ Johnson ra lệnh oanh tạc Bắc Việt. Nghị quyết “Vịnh Bắc Việt” được quốc hội thông qua ngày 7-8 với đa số phiếu tuyệt đối ở hạ viện và 88-2 ở thượng viện cho phép quân đội HK được tham chiến mở đầu cho thời kỳ chiến tranh khốc liệt nhất tại Việt Nam từ 1965 đến 1973.
Trước khi có những biện pháp quyết liệt, ngày 13-8 TT Johnson đă nhờ trung gian Seaborn trong phái đoàn Canada gặp Phạm văn Đồng một lần nữa để nhắc lại đề nghị của Mỹ hồi tháng 6 về việc “nhận viện trợ hay bị tàn phá?” th́ Phạm văn Đồng nhẹ nhàng nhắc Seaborn rằng lần sau trở lại với những đề nghị mới của Mỹ nên dựa trên căn bản hiệp định Genève. Ngày 6-2-1965, Thủ Tướng Liên Sô Kossygin đến Hà Nội và lớn tiếng cảnh báo Hoa Kỳ chớ động đến Bắc Việt Nam. Không quân Liên Sô chuyên chở Hỏa tiễn Sam cùng các loại vũ khí tối tân, cố vấn và bộ đội chiến đấu pḥng không đến Việt Nam dưới danh nghĩa chuyên viên. Ngày 7-2-1965, quân Cộng sản tấn công phi trường Pleiku, máy bay Mỹ từ đệ thất hạm đội tấn công cơ sở quân sự ở Đồng Hới. Chiến dịch “Sấm Rền” với hàng trăm phi cơ tấn công các kho đạn, các cầu đường ở miền Bắc.
Sau khi đưa ra các đề nghị không được Cộng Sản Việt Nam chấp nhận, ngày 8-3-1965 hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến đổ bộ Đà Nẵng để giữ an ninh cho phi trường. Cộng Sản Việt Nam tuy tuyên bố mạnh nhưng cũng hiểu rơ quyết tâm của Hoa Kỳ nên Phạm văn Đồng mới bắn tiếng đề nghi Hoa Kỳ thương thuyết trên căn bản hiệp định Genève. Khi Hoa Kỳ leo thang oanh tạc miền Bắc th́ quốc tế Cộng Sản phải vận động tuyên truyền cho phong trào phản chiến trên toàn thế giới chống chiến tranh. Ngày 16-10-1965, những cuộc biểu t́nh chống chính sách Mỹ tại VN được tổ chức đồng loạt tại London, Copenhagen, Stockholm, Brussels, Rome và 40 thành phố ở Hoa Kỳ.
Tính đến cuối năm 1965 th́ số quân Mỹ tham chiến là 175 ngàn. Chi phí chiến tranh cũng tăng lên đến 2,9% của ngân sách quốc gia. Ngày 29-9-1967, Tổng Thống Johnson đọc diễn văn ở San Antonio hứa ngưng oanh tạc nếu Cộng Sản Việt Nam không lợi dụng việc ngưng oanh tạc để đưa thêm người và vũ khí vào miền Nam. Hà Nội bác bỏ đề nghị có điều kiện này để chờ t́nh h́nh bầu cử TT Hoa Kỳ năm 1968 sẽ thuận lợi hơn. T́nh h́nh chiến sự năm 1967 cho thấy quân Cộng Sản đă không đương đầu được với lực lượng cơ động “T́m và diệt” của quân đồng minh. Tuy đạt được vài thắng lợi nhưng sau đó bị tiêu diệt nên lực lượng bị tiêu hao dần. Chính v́ vậy, Cộng Sản Việt Nam quyết định đốt giai đoạn phát động “Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa” để giành thắng lợi quyết định trước khi ngồi vào bàn hội nghị. Lợi dụng dịp tết Mậu Thân, Hà Nội kêu gọi hưu chiến 48 giờ. Chính phủ VNCH tuân thủ lệnh hưu chiến cho quân đội công chức về quê ăn tết. Ngày 30-1-1968, Hà Nội ra lệnh tổng tiến công Mậu Thân trên toàn lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa. Ngày 11-2-1968, Việt Nam Cộng Ḥa ra lệnh Tổng Động viên. Ngày 24-2-1968, quân lực Việt Nam Cộng Ḥa tái chiếm thành phố Huế. Theo thống kê th́ 4.954 binh sĩ VNCH tử trận, 3.895 binh sĩ Hoa Kỳ và các nước đồng minh và 14.300 thường dân bị chết oan. Về phiá Cộng Sản đă thú nhận thất bại nặng nề v́ “đánh giá cao lực lượng ḿnh, đánh giá thấp lực lượng địch và do tư tưởng nóng vội muốn giành thắng lợi lớn, kết thúc chiến tranh nhanh nên nhiều vùng nông thôn giải phóng của ta trước đây bị địch chiếm. Mục tiêu của cuộc tổng tiến công và tổng nổi dậy không đạt được đầy đủ. Lực lượng của ta bị tổn thất nhiều với 111.306 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và chính trị ở miền Nam đă hy sinh và bị thương…”. Sau cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân, về phương diện quân sự th́ hầu như toàn bộ lực lượng quân giải phóng bị tiêu diệt. Về phương diện chính trị cũng hoàn toàn thất bại v́ nhân dân miền Nam không những không ủng hộ mà c̣n chán ghét ghê tởm hành động dă man của cộng quân. Nếu đồng minh Hoa Kỳ và VNCH biết khai thác thời cơ, huy động các sư đoàn chủ lực thiện chiến như lực lượng nhảy dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt Động quân tung ra những trận đánh thẳng vào miền Bắc th́ t́nh h́nh có thể đă thay đổi.
Sự kiện ṭa đại sứ Mỹ bị tấn công và hơn 3 ngàn quân nhân Mỹ tử thương đối với nhân dân và quốc hội Mỹ là một tổn thất hết sức nặng nề về mặt tâm lư. Người dân bất b́nh với chính quyền Johnson v́ danh dự bị tổn thương, đời sống khó khăn hơn v́ phải đóng thuế thêm 10% cho ngân sách quốc pḥng. Ngay trong đảng dân chủ, TT Johnson bị nhóm chủ ḥa phê phán chỉ trích. Ngày 31-10-1968, TT Johnson tuyên bố ngưng các cuộc tấn công trên lănh thổ Bắc Việt trừ khu vực dưới vĩ tuyến 20 và đề nghị mở ḥa đàm với Bắc Việt. Đồng thời TT Johnson tuyên bố sẽ không ứng cử và cũng không chấp nhận đảng dân chủ đề cử để hậu thuẫn cho Phó TT Humphrey tranh cử Tổng Thống. Ứng cử viên Mac Govern của đảng dân chủ với lập trường chủ ḥa, sẵn sàng lập chính phủ liên hiệp với Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam nên chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa không chịu tham gia ḥa đàm. Trong khi ứng cử viên Nixon của đảng Cộng Ḥa với lập trường cứng rắn tuyên bố úp mở rằng đă có kế hoạch bí mật để chấm dứt chiến tranh Việt Nam đă thắng cử với đa số phiếu cử tri đoàn (302/191) và 43,3%/ 42,7% số phiếu cử tri.
Sau khi TT Nixon nhậm chức ngày 20-1-1969, th́ phiên họp chính thức đầu tiên giữa “Hai phe, bốn bên” bắt đầu ngày 25-1-1969 với sự tham dự của phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa. Trong bài diễn văn ngày 14-5-1969, TT Nixon xác định quân đội Hoa Kỳ và quân đội Cộng Sản Bắc Việt đồng thời rút khỏi miền Nam Việt Nam và Hà Nội phải ngưng mọi cuộc tiếp viện về người và vũ khí cho Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Cộng Sản Việt Nam chủ trương vừa đánh vừa đàm để khai thác thời cơ bầu cử TT Hoa Kỳ sẽ tạo lợi thế cho họ. Về phía Hoa Kỳ, Nixon tiếp tục chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh. Ngày 8-6-1969, TT Hoa Kỳ Nixon họp với TT Việt Nam Cộng Ḥa Nguyễn văn Thiệu tại Midway loan báo sẽ rút 25 ngàn quân nhân Mỹ khỏi VN trước tháng 8. Để mở đầu cho kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh, bộ trưởng quốc pḥng HK yêu cầu quốc hội chuẩn chi 156 triệu mỹ kim để tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội Việt nam Cộng Ḥa. Hoa Kỳ chuyển giao phi cơ, chiến hạm, máy bay trực thăng, xe quân sự đủ loại, hơn 1 triệu khẩu súng M 16 cho quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa cũng tăng quân số từ 850 ngàn lên khoảng 1 triệu binh sĩ. Ngày 15-11-1969, hơn 250 ngàn người biểu t́nh tuần hành tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn cùng với các cuộc biểu t́nh khác ở Pháp, Tây Đức và Anh. Đây là cuộc biểu t́nh phản chiến lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Ngày 9-1-1971, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh đă thảo luận với Chu Ân Lai về vấn đề Việt Nam: “Nhân danh tổng thống Nixon, tôi xin thông báo với Thủ tướng một cách trịnh trọng nhất rằng trước hết, chúng tôi sửa soạn rút quân hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu có một cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi. Thứ đến, chúng tôi sẽ để cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc cho một ḿnh người Việt… Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút quân và diễn biến chính trị. Không phải là để chúng tôi có thể trở lại Việt Nam mà chúng tôi để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ… Hôm qua, tôi đă thưa với Thủ tướng, và tôi muốn nhắc lại rằng, nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn toàn, mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.”. Trong một thông điệp gửi đến người dân Mỹ liên quan tới chiến tranh Việt Nam, ngày 7 tháng 4 năm 1971, Tổng thống Nixon đă nói: “Vấn đề rất đơn giản đó là như thế này: chúng ta sẽ rời khỏi Việt Nam theo cách mà – bởi những hành động của chính chúng ta – cố ư chuyển giao đất nước cho những người Cộng sản? Hay là chúng ta sẽ rời khỏi theo cách, cho người miền Nam Việt Nam một cơ hội hợp lư để tồn tại như là những người tự do? Kế hoạch của tôi sẽ chấm dứt sự tham gia của người Mỹ theo cách sẽ cung cấp cho miền Nam cơ hội đó. Và một kế hoạch khác sẽ kết thúc nó một cách vội vàng và trao chiến thắng cho những người Cộng sản”.
Ngày 21-2-1972, TT Nixon viếng thăm Trung Quốc. Trong cuộc họp đầu tiên với Chu Ân Lai ngày hôm sau 22-2-1972, tổng thống Nixon đề cập ngay đến vấn đề Việt Nam: “Nếu tôi ngồi vào bàn với bất cứ nhà lănh đạo nào của Bắc Việt Nam, và cùng nhau bàn bạc về việc đ́nh chiến và nhận lại tù binh của chúng tôi, tất cả người Hoa Kỳ sẽ được rút ra khỏi Việt Nam trong sáu tháng kể từ ngày đó… Chúng tôi đă đề nghị rút hết người Hoa Kỳ, mà không để cái “đuôi” đàng sau – như cách nói của Thủ tướng – và ngưng bắn trên toàn Đông Dương, miễn là chúng tôi lấy lại được tù binh. Sau đó, chúng tôi sẽ để cho dân chúng ở đó tự quyết định.”. Kết qủa chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Nixon năm 1972, đă giúp Hoa Kỳ chấm dứt sự tham gia trong chiến tranh Việt Nam không phải là cách mà Tổng thống Nixon, Hoa Kỳ và nhiều người Việt mong đợi. Thế nhưng chuyến đi này của Tổng thống Nixon đă đă làm thay đổi cán cân quyền lực toàn cầu cũng như lập ra một trật tự thế giới mới.
Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tại Bắc Kinh.
Photo hôm 25-2-1972courtesy National Archives & Records Administration.
Thông cáo chung được kư kết tại Thượng Hải ngày 28 tháng 2, trong đó hai nước cam kết đi đến b́nh thường hóa, cùng nhau hợp tác trao đổi trên nhiều lĩnh vực. Hoa Kỳ công nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc và hai bên cam kết giải quyết vấn đề Đông Dương trong đó có chiến tranh Việt Nam.
Chuyến công du của TT Nixon đă tạo ra những chuyển biến lịch sử, Hoa Kỳ đă thành công trong việc phân hóa hàng ngũ Cộng Sản để Trung Quốc trở thành đồng minh với Hoa Kỳ. Để thực hiện điều này, Hoa Kỳ đă bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc nên không phủ quyết cuộc bỏ phiếu của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 25-10-1971 theo đó, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng) được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay Trung Hoa Dân Quốc. Chính v́ quyền lợi của Hoa Kỳ và quyền lợi cá nhân của Nixon, ông ta đă hy sinh quyền lợi của đồng minh” nên muốn TT Nguyễn văn Thiệu kư vào bản hiệp định trước ngày bầu cử TT Hoa Kỳ. Để thuyết phục Việt Nam Cộng Ḥa, TT Nixon đă viết thư cho TT Thiệu ngày 16-10-1972 cam kết “Trong thời kỳ tiếp theo cuộc đ́nh chiến, Ngài có thể hoàn toàn an tâm là chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp cho chính phủ của Ngài sự yểm trợ đầy đủ nhất, kể cả viện trợ kinh tế và bất cứ viện trợ quân sự nào phù hợp với những điều khoản của hiệp định… Tôi cam kết với ngài rằng bất cứ sự bội tín nào về phiá họ cũng sẽ bị chúng tôi lên án khắt khe nhất và nó sẽ có hậu qủa trầm trọng nhất… Tôi tin chắc rằng đó là giải pháp tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được và cũng là giải pháp đáp ứng được điều kiện tuyệt đối của tôi là Việt Nam Cộng Ḥa phải được tồn tại là một quốc gia tự do…”. Ngày 26-10-1972, sau khi đến Sài G̣n thuyết phục chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa kư vào hiệp định bị TT Nguyễn văn Thiệu cương quyết từ chối nhưng khi trở về Hoa Thịnh Đốn, ngoại trưởng Henry Kissinger tuyên bố “Ḥa b́nh đang ở trong tầm tay”. Người dân Mỹ tin rằng đă có một giải pháp để chấm dứt chiến tranh nên đại đa số người dân Hoa Kỳ đă bầu cho Nixon với tỷ lệ 60,7% so với 37,5% cho Mac Govern. Trong khi đó, đảng dân chủ thắng lớn với 76 dân biểu và 8 Thượng nghị sĩ phản chiến vào quốc hội.
Sau khi thắng cử th́ Nixon cương quyết hơn nên ra lệnh tiến hành chiến dịch oanh tạc Linebacker II lớn nhất trong chiến tranh VN ngày 27-12-1972, tập trung vào khu vực Hà Nội, Hải Pḥng để buộc Hà Nội phải đi đến thỏa hiệp. Hà Nội đă bắn 1.200 hỏa tiễn Địa không do chuyên viên Liên Sô điều khiển, hạ 15 B52 và 15 phi cơ khác, 93 phi công chết hay mất tích. Sau đó, ngày 17-1-1973, TT Nixon gửi thêm lá thư cam kết cụ thể với TT Thiệu như sau “Tự do độc lập của nước VNCH vẫn luôn luôn là mục tiêu trọng đại trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Tôi đă theo đuổi mục tiêu này trong suốt cuộc đời chính trị của tôi… Tôi xin nhắc lại những cam kết đó như sau: Thứ nhất, Hoa Kỳ công nhận chính phủ của Ngài là chính phủ duy nhất hợp pháp ở miền Nam Việt Nam. Thứ hai, Hoa Kỳ không công nhận quyền có mặt của quân đội ngoại quốc trên lănh thổ miền Nam và thứ ba, Hoa Kỳ sẽ phản ứng mănh liệt nếu nếu bản hiệp định bị vi phạm”. Sau khi Việt Nam Cộng Ḥa đồng ư kư, TT Nixon đă gửi ngay 1 lá thư ca tụng TT Nguyễn văn Thiệu như sau “Thưa TT, Với ḷng can đảm và kiên tŕ, Ngài đă bảo vệ được quyền lợi của dân tộc Việt Nam trong công cuộc theo đuổi mục tiêu duy tŕ tự do và độc lập”. Cuối cùng, Hiệp định chấm dứt chiến tranh và Tái lập Ḥa b́nh tại Việt Nam được kư kết tại Paris giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, Việt Nam Cộng Ḥa, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Vào thời điểm kư kết hiệp định 27-1-1973, VNCH kiểm soát 75% lănh thổ và 85% dân số. Ngày 29-3-1973, các đơn vị cuối cùng của Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam.
Một biến cố khác xảy ra đă tác động trực tiếp vào sự suy vong của miền Nam Việt Nam. Ngày 6-10-1973, Khối Ả Rập bất ngờ tấn công Do Thái đang cử hành “Lễ Đền tội Yum Kippur”. Quân Do Thái bị thảm bại nên TT Nixon cho thiết lập cầu không vận tiếp liệu cho Do Thái. Do Thái phản công, sau hơn 3 tuần, khối Ả rập phải kư hiệp định đ́nh chiến. Sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho Do Thái khiến khối Ả Rập tức giận, OPEC quyết định giảm mức sản xuất khiến giá dần thô tăng gấp 4 lần đồng thời các nước Abu Dhabi, Libyia, Saudi Arabia, Algeria và Kuwait cấm vận, cắt đứt dầu hỏa xuất cảng sang Hoa Kỳ. Chính phủ Nixon phải áp dụng chính sách khắc khổ nên nên người dân bất măn và Việt Nam Cộng Ḥa chịu hậu quả trầm trọng của cuộc chiến này. Quân viện của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Ḥa tài khóa 1972-1973 là 2,1 tỷ dollars, sau khi Hoa Kỳ bị cấm vận dầu lửa, quân viện giảm xuống c̣n 1 tỷ 2 và tài khóa 1974-1975 là 1 tỷ. Tháng 8 năm 1974, mức chuẩn chi 1 tỷ cho Việt Nam Cộng Ḥa bị cắt xuống c̣n 700 triệu dollars. Khi TT Nixon xin quốc hội viện trợ cho Việt Nam Cộng Ḥa th́ quốc hội chỉ chuẩn chi 313 triệu Mỹ kim. Như vậy, quân viện cho Việt Nam Cộng Ḥa từ 2,1 tỷ bị, số tiền bị cắt 1,4 tỷ được chuyển sang cho Do Thái nên quân viện Do Thái tăng lên 1,5 tỷ cũng cắt c̣n 700 triệu trong năm này.
Chính sách của Hoa Kỳ trong thực tế được quyết định bởi một “Thế Lực Ngầm”, đó là một tập hợp của các tài phiệt như Rockfeller, Ford foundation … mà hầu hết do vốn của các doanh nhân Do Thái. T́nh h́nh thế giới đă thay đổi khi các chiến lược gia Hoa Kỳ quyết định phá vỡ thế cân bằng chiến lược cũ để tạo một chiến lược mới có lợi cho Hoa Kỳ nhiều hơn. Về mặt chính trị, Hoa Kỳ hy sinh Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Việt Nam Cộng Ḥa, chuyển giao một phần công nghệ chế tạo vũ khí tối tân để Trung Quốc trở thành đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ khiến Liên Sô suy yếu và đi tới sụp đổ. Trên phương diện kinh tế, thị trường trên 1 tỷ người dân Trung Quốc là món hàng béo bở hấp dẫn và nguồn nhân công rẻ mạt cho các nhà tài phiệt đầu tư Hoa Kỳ. Chính quyền lợi của tập đoàn tài phiệt này nên Hoa Kỳ đă phản bội lời cam kết với các đồng minh Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Việt Nam Cộng Ḥa. Thêm vào đó, quyền lợi của đảng Dân Chủ nói chung và của Thượng Nghị Sĩ chủ ḥa Mac Govern đă chủ trương rút khỏi Việt Nam bằng mọi giá, tích cực hỗ trợ cho phong trào chống chiến tranh đang được Cộng Sản quốc tế yểm trợ tối đa nên ngày càng lên cao đến mức không thể kiểm soát nổi khiến chính giới Hoa Kỳ bao gồm cả hành pháp và cả những nhà lập pháp chân chính cũng đành bó tay chấp nhận không thể làm ǵ khác hơn được. Theo Thượng Nghị Sĩ Jim Web th́ chính thành phần này đă cộng tác với cái gọi là Liên Hiệp Ḥa B́nh Đông Dương, một tổ chức ngoại vi của Cộng Sản đă được Edward Kennedy, Mac Govern là những “phần tử của một nhóm quyền lực ngầm gọi là Liên lạc Ngoại giao (SFR) được tài trợ bởi hệ thống tài phiệt quốc tế như Rockfeller, Ford Foundation… có ảnh hưởng vô cùng lớn trong chính trường đă phát động phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ. Liên Hiệp Hoà B́nh Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974 đă vận dụng nữ tài tử Jane Fonda và Tom Hayden đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại Việt Nam Cộng Ḥa”. Phong trào chống chiến tranh Việt Nam được sự chi viện tối đa của Cộng sản quốc tế về nhân lực và tài chánh nên tác động đồng loạt trên toàn thế giới. Tài liệu của đảng Cộng Sản Liên Sô cho biết đă cung cấp 2 tỷ dollars mỗi năm và huy động 500 ngàn đảng viên xâm nhập phong trào phản chiến biểu t́nh trên khắp thế giới. Tại quốc hội Hoa Kỳ, một “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chánh”trong đó có Harold Ickes và Bill Clinton nỗ lực vận động những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống Cộng Sản, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị bộ đội chánh quy Bắc Việt được khối Sô Viết và Trung Cộng yểm trợ. Năm 1974, Thượng viện Hoa Kỳ đă bỏ phiếu thuận với tỷ lệ 43-38 để kèm vào việc chuẩn chi ngân sách quốc pḥng một điều kiện gọi là “Tu chính Kennedy”. Ngày 11-7-1974, Ted Kennedy đề nghị cắt 50% viện trợ kinh tế cho Việt Nam Cộng Ḥa và ngày 8-8-1974, TT Nixon phải từ chức v́ hậu qủa của vụ Watergate khiến t́nh h́nh Việt Nam trở nên bi đát hơn. Khi Nixon từ chức, ông bắt buộc phải kư thành luật một mức tối đa ngân sách quân viện cho Việt Nam Cộng Ḥa là 1 tỷ. Ngay khi nhận chức, Tổng Thống H. Ford đă tái cam kết thực hiện “Những ǵ nước tôi đă cam kết với quư quốc…” nhưng chỉ vài ngày sau, ủy ban chuẩn chi của thượng viện đă cắt từ “Mức chấp thuận” là 1 tỷ xuống c̣n 700 triệu. Trong khi đó, t́nh h́nh chiến sự ngày một gia tăng với sự xâm nhập ồ ạt binh sĩ và vũ khí của quân Cộng Sản mà theo phúc tŕnh của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa th́ số đạn tồn kho sẽ hết vào tháng 6 năm 1975 nên chỉ c̣n đủ cung ứng được từ 30-45 ngày. Thế lực ngầm qua quốc hội một lần nữa t́m đủ mọi cách để tiêu diệt Việt Nam Cộng Ḥa qua những quyết nghị cấm không được dùng quỹ Đối giá của viện trợ nhập cảng để trả lương cho cảnh sát, bộ quốc pḥng cấm luôn cơ quan quốc pḥng DAO tài trợ… GS Warren Nutter, cựu phụ tá Tổng trưởng quốc pḥng Hoa Kỳ đặc trách phần tài chính của chương tŕnh Việt Nam hóa chiến tranh đă nói thẳng với TT Thiệu: “Quốc hội HK đôi khi hành động vô trách nhiệm như vậy. Cái trung tâm Tài nguyên Đông Dương đang hết sức t́m cách tiêu diệt VNCH…”. Ông khuyến cáo chính phủ Hoa Kỳ rằng:“Bỏ miền Nam là rơi vào đổ vỡ và thảm sát chỉ v́ hơn kém nửa tỷ dollars sẽ có hậu qủa c̣n sâu sa hơn đó là xé nát lương tâm nước Mỹ. Nó sẽ là ngọn gió thổi bay ảnh hưởng của HK tuy c̣n mạnh mà đang yếu dần trên chính trường quốc tế…”. Ngày 26 tháng 2 năm 1975, TT Ford gửi thư cho TT Thiệu gợi ư về việc điều đ́nh để có 1 giải pháp chính trị “…Chúng tôi tiếp tục tin tưởng rằng việc thực thi hiệp định Paris, cùng các cuộc điều đ́nh trực tiếp giữa các phe phái Việt Nam, là con đường nhanh nhất, hữu hiệu nhất để chấm dứt cuộc đổ máu tại Việt Nam…”. Cuối cùng, ngày 13-3-1975, đảng Dân chủ chiếm đa số tại thượng viện và Hạ viện bỏ phiếu cho một nghị quyết chống bất cứ viện trợ nào thêm cho Việt Nam. Trước thực trạng đó, TT Thiệu đă phải quyết định “Tái phối trí” lực lượng v́ không c̣n đủ khả năng pḥng thủ diện địa nữa. Ngày 15-3-1975, cuộc di tản chiến thuật từ Pleiku tạo nên một bầu không khí hoảng loạn của quân dân cán chánh VNCH. Do áp lực của quốc hội, TT Nguyễn văn Thiệu bàn giao chính quyền cho Phó TT Trần văn Hương rồi TT Hương bàn giao cho Đại Tướng Dương văn Minh mở đầu cho sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng ḥa ngày 30-4-1975.
Sau hơn ba thập niên, sự thật lịch sử của cuộc chiến Việt Nam đă cho chúng ta những nhận định sau:
1. CHIẾN TRANH VIỆT NAM KHÔNG PHẢI LÀ CUỘC CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Cộng sản Việt Nam vẫn tuyên truyền rêu rao là đă hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi sự thống trị của 2 đế quốc Pháp và Hoa Kỳ. Thế nhưng, sự thật là sau khi quân Nhật lật đổ chế độ thực dân Pháp, ngày 11-3-1945, Cơ Mật Viện triều Nguyễn đă tuyên bố “Hủy bỏ Hiệp ước 1884 qui định Pháp bảo hộ Việt Nam và Khôi phục chủ quyền cuả một nước Việt Nam độc lập”. Ngày 12-3-1945, Cao Miên tuyên bố độc lập và ngày 15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập. Nhận chỉ thị của Cộng Sản quốc tế đấu tranh vũ trang lật đổ chế độ quốc gia Việt Nam, ngày 19 tháng 8 năm 1945, đảng Cộng Sản Việt Nam núp dưới danh nghĩa Việt Minh cướp chính quyền. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập và thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh kư thỏa hiệp sơ bộ với thực dân Pháp đồng ư để quân Pháp ra Bắc thay thế quân đội Trung Hoa giải giới quân Nhật để lợi dụng cơ hội này t́m cách tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Sau khi cấu kết với thực dân Pháp bất thành, ngày 19-12-1946, Hồ Chí Minh kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”, cuộc chiến tranh Việt Minh và Pháp bắt đầu. Tháng 12,1947, Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long được kư kết giữa Cao Ủy Pháp Bollaert với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Theo Hiệp Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết. Ngày 8-3-1949, TổngThống Cộng Ḥa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đă kư với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đă giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lănh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
Lịch sử đă chứng minh rằng, Cộng sản Việt Nam đă núp dưới danh nghĩa kháng chiến, lợi dụng ḷng yêu nước của người dân Việt Nam để nhuộm đỏ cả Đông Dương, bành trướng chủ nghĩa CS mở đường xuống Đông Nam Á. Chính Hồ Chí Minh đă không giấu giếm sự thật khi gặp Salisbury tai Hà Nội năm 1965: “Những ngày tuyệt diệu rồi đây sẽ đến khi tất cả các đồng chí đă đến bên nhau. Tất cả mọi người đang nỗ lực tranh đấu để đem đến sự thành công của Miền Bắc Việt Nam, đó chính là sự thành công của những người Nga, những người Tàu, và những chế độ tại Đông Âu. Tất cả đều muốn làm cho Miền Bắc Việt Nam trở thành một mẫu mực, một nơi triển lăm thu hút muôn người, và một mẫu mực lư tưởng của chủ nghĩa Cộng sản có thể đưa đến cho các dân tộc tại Á Châu và đặc biệt nhất là vùng Đông Nam Á.”. Đây là bằng chứng quá rơ ràng cho mọi người thấy Hồ Chí Minh đă không bao giờ thực tâm tranh đấu v́ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc cho dân tộc Việt Nam mà sử dụng cả dân tộc Việt Nam như một công cụ để phục vụ tham vọng bành trướng của Đế Quốc Cộng Sản Nga Sô.
2. CUỘC CHIẾN VIỆT NAM LÀ CUỘC CHIẾN TRANH Ư THỨC HỆ
Tháng 1 năm 1945, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc xin đứng vào hàng ngũ quốc tế CS nên ngày 14-1-1950 Cộng Ḥa Nhân dân Trung Hoa (Trung Cộng) công nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Ḥa. Ngày 31-1-1950, Liên Sô công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa là thành tŕ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Sự kiện lịch sử này đánh dấu một bước ngoặt lịch sử là VNDCCH chính thức đứng vào hàng ngũ cộng sản nên ngày 7-2-1950, Hoa Kỳ, Anh và các nước thế giới tự do công nhận chính phủ quốc gia Bảo Đại để ngăn chặn làn sóng đỏ tràn xuống Đông Nam Á. Cuộc chiến Việt Nam chính thức trở thành cuộc chiến tranh ư thức hệ giữa Cộng sản và thế giới tự do. Sau khi Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore.Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …”. Tháng 4 năm 1959, Ủy ban Trung ương đảng họp lần thứ 15 quyết định thành lập Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ngày 20-12-1960, với chiêu bài “Đánh đổ chế độ thuộc địa trá h́nh của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đ́nh Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân chủ, ḥa b́nh và trung lập, tiến tới thống nhất tổ quốc”. Sau khi chiếm được cả miền Nam, chính Lê Duẫn, tổng bí thư của đảng CSVN đă xác nhận một lần nữa:“Chúng ta đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc và ngày nay, yêu nước là yêu xă hội chủ nghĩa”. Bộ mặt thật của CS đă phơi bầy trước lịch sử. Cuộc kháng chiến của dân tộc đă bị lợi dụng, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đă hy sinh hàng triệu người VN vô tội để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ cả Đông Dương.
3. CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM ĐỐI ĐẦU GIỮA CS VÀ TƯ BẢN KHIẾN SINH LỰC CỦA DÂN TỘC BỊ TIÊU HAO TRẦM TRỌNG
Trước đây, chúng ta bị bộ máy tuyên truyền của Cộng sản lừa dối rằng lực lượng đồng minh Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Thái Lan và Đại Hàn đến Việt Nam để chống lại một nước nhỏ bé là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và nhân dân miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, sau hơn 30 năm, chúng ta mới biết cả Liên Sô, Trung Cộng lẫn Bắc Triều Tiên đều tham chiến ở Việt Nam. Việt Nam trở thành chiến trường giữa 2 khối Cộng Sản và thế giới tự do. Sự thật lịch sử này được một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc phát biểu như sau: “Trong giai đoạn giúp Việt Nam chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đă v́ Việt Nam mà đóng góp không biết bao nhiêu tài lực, nhân lực, vật lực, pháo binh, công binh, nhân viên đường sắt, nhân viên thư tín, hải quân, không quân, hậu cần vận tải … 16 sư đoàn, hơn 300.000 lính Hồng quân Trung Quốc ở Việt Nam trong hơn 3 năm 9 tháng đấu tranh. Tác chiến đối không 2153 lần, bắn rơi 1707 máy bay Mỹ, bắt sống 42 phi công Mỹ, viện trợ Việt Nam xây dựng Hải Pḥng, Ḥn Gai, các thành phố duyên hải và xây dựng hệ thống pḥng ngự ở tam giác châu thổ sông Hồng, tu sửa và xây dựng các tuyến đường huyết mạch, sân bay, tuyến đường sắt đông tây, mở đường trên biển chuyên chở vũ khí vào miền Nam và chi viện cho đường ṃn Hồ Chí Minh. Từ năm 1950 đến năm 1978, TQ đă viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ mỹ kim, trong đó 93% là viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu mà 1446 chiến sỹ đă hy sinh, 4200 người trọng thương… những hy sinh đó tuyệt đối không thể tính được bằng tiền”. Gần đây, chúng ta mới biết được là các đơn vị pḥng không Liên Sô và phi công Bắc Hàn cũng tham dự cuộc chiến tranh VN. Cựu Trung Tướng Yevgeni Antonov, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên Sô tại Việt Nam tiết lộ rằng Liên Bang Sô Viết đă gởi một trung đoàn pḥng không với đầy đủ vũ khí và trang bị sang Việt Nam tham chiến và 13 người lính pḥng không Liên Xô đă chết trên chiến trường miền Bắc. Trung đoàn pḥng không Liên Sô đă bắn rơi những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trên bầu trời Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu cơ A-4 Skyhawk của Thượng Nghị Sĩ John McCain. Theo tiết lộ của cựu trung tướng Liên Xô Yevgeni Antonov, chỉ huy lực lượng pḥng không Liên Xô tại Việt Nam từ 1969 đến 1970 th́ Việt Nam là một pḥng thí nghiệm cho vũ khí Liên Sô để chuẩn bị cho việc máy bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa Liên Sô trong trường hợp có chiến tranh giữa hai khối sau này. Sự thật lịch sử đă chứng minh rằng chính Hồ Chí Minh, cán bộ của CS quốc tế đă đưa dân tộc vào cuộc chiến tranh ư hệ, hy sinh xương máu của hàng triệu người dân lành vô tội để bành trướng chủ nghĩa CS xuống toàn cơi Đông Dương. Sinh lực của dân tộc bị tiêu hao trầm trọng, hàng triệu người dân vô tội hy sinh, đất nước nghèo nàn tan hoang đổ nát, ḷng người ly tán. Cái gọi là thống nhất đất nước chỉ là sự xâm lăng của bạo lực và hận thù khiến dân tộc Việt Nam ly tán, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi t́m tự do. Cộng sản Việt Nam đă phơi bầy bản chất độc tài dă man trả thù, hành hạ đày đọa quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Ḥa trong các trại tù gọi là “Cải tạo” cùng với biện pháp đổi tiền, đánh tư bản mại sản, bắt đi kinh tế mới để tước đoạt tài sản của nhân dân… Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng đă “Thống nhất được đất nước” nhưng thực tế đă chứng minh rằng cái gọi là giải phóng miền Nam đă để lại trong ḷng dân tộc một sự phân ly ngăn cách không ǵ có thể hàn gắn được.
4. HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CSVN CHÍNH LÀ TỘI ĐỒ CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Điều 1 của Hiến chương Hội Quốc Liên và Liên Hiệp Quốc đều nhấn mạnh đến quyền dân tộc tự quyết. Phong trào giải thể chế độ thực dân là xu thế của thời đại được ghi rơ trong Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Các đế quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Ḥa Lan đă lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho các thuộc địa Á Châu như Phi Luật Tân, Syrie và Liban năm 1946, Ấn Độ và Pakistan độc lập năm 1947, Miến Điện-Tích Lan và Palestine năm 1948, Việt Nam-Ai Lao, Cao Miên và Nam Dương năm 1949. Chính v́ Hồ Chí Minh và nhà nước VN Dân chủ Cộng Ḥa đứng vào hàng ngũ CS, chủ trương đấu tranh vơ trang cướp chính quyền để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản nên dân tộc Việt mới hứng chịu thảm họa khốc liệt của chiến tranh. Hàng triệu người Việt Nam vô tội phải hy sinh, gia đ́nh Việt Nam nào cũng chịu cảnh thương đau mất mát, thống khổ triền miên. Chính Cộng Sản Việt Nam đă đưa dân tộc Việt Nam vào thế trên đe dưới búa của cuộc chiến tranh ư thức hệ giữa Cộng Sản và thế giới tự do. Chính Cộng Sản Việt Nam đă rước voi Mác Lê về giầy mả tổ Hùng Vương, cơng rắn độc Trung Cộng về cắn gà nhà dân tộc khiến gần 4 triệu người dân Việt đă hy sinh cho cuộc chiến tranh phi nghĩa này để rồi đất nước Việt Nam sau hơn 30 năm vẫn là một nước nghèo nàn chậm tiến nhất thế giới. Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN chính là tội đồ của dân tộc Việt Nam.
5. MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM LÀ CÔNG CỤ CỦA ĐẢNG CSVN
Trong chiến tranh, Cộng Sản rêu rao tuyên truyền Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do những người miền Nam đứng lên “Chống Mỹ Cứu Nước” nên được giới trí thức tả khuynh trong phong trào phản chiến ủng hộ. Sau khi đem quân xâm chiếm Tây Tạng năm 1959, Mao Trạch Đông đă chỉ thị phải chiếm miền Nam VN bằng mọi giá để mở đường xuống Đông Nam Á nên ngày 20-12-1960, đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Sau khi xâm chiếm miền Nam Việt Nam, ngày 2-7-1976, Quốc hội Cộng sản tuyên bố thống nhất Việt Nam, đặt tên nước là Cộng Ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam, cờ và hiến pháp là cờ và hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Phạm văn Đồng tiếp tục làm Thủ tướng. Cái gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng” và “chính quyền Lâm thời Việt Nam” bị giải tán. Ngày 14 đến 20-12-1976, Đại hội Đảng Lao Động họp lần đầu quyết định lấy lại tên là đảng Cộng sản Việt Nam, Lê Duẫn được bầu là Tổng Bí Thư. Bộ mặt thật của đảng Cộng sản Việt Nam đă phơi bầy trước lịch sử. Sự kiện này chứng tỏ việc loan báo đảng CS Đông Dương tự giải tán ngày 11-11-1945 rồi thành lập đảng lao Động 16-3-1951 chỉ để che giấu bản chất CS, lừa dối nhân dân dưới danh nghĩa đảng Lao Động. Núp dưới danh nghĩa Việt Minh, dùng chiêu bài kháng chiến giành độc lập dân tộc nhưng thực chất là lợi dụng xương máu của đồng bào để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ Việt Nam và các nước Lào, Camphuchia mà thôi.
6. CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐĂ HY SINH HÀNG TRIỆU NGƯỜI VN VÔ TỘI ĐỂ TIÊU HAO SINH LỰC HOA KỲ CHO LIÊN SÔ
Khi bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản xuống Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, cả Liên Sô lẫn Trung Quốc đều chủ trương đánh Mỹ, tiêu hao sinh lực Hoa Kỳ cho đến người Việt Nam cuối cùng để bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản. Mỗi năm Hoa Kỳ đă chi tiêu 20 tỷ dollars cho chiến tranh trong khi Liên Sô chỉ chi viện 1 tỷ dollars khiến ngân sách Hoa Kỳ kiệt quệ. Đảng CS Liên Sô đă thành công trong việc phân hóa hàng ngũ lănh đạo Hoa Kỳ khiến nội t́nh nước Mỹ bị chia rẽ trầm trọng. Cái gọi là “Hội chứng Việt Nam” đă làm mất niềm tin nơi người dân Hoa Kỳ và của cả đồng minh của Hoa Kỳ trên thế giới nữa.
7. CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐĂ HY SINH HÀNG TRIỆU NGƯỜI VIỆT NAM VÔ TỘI ĐỂ MỞ ĐƯỜNG CHO ĐẾ QUỐC MỚI TRUNG CỘNG TIẾN XUỐNG ĐÔNG NAM Á
Đối với đế quốc mới Trung Cộng đây là một thắng lợi v́ chiếm được miền Nam làm bàn đạp mở đường tiến xuống Đông Nam Á, mặt khác cuộc chiến Việt Nam đă hủy hoại tiềm lực của Việt Nam để Trung Quốc dễ bề thống trị. Chính v́ món nợ trong chiến tranh nên Cộng Sản Việt Nam phải dâng đất nhường biển cho Trung Quốc. Ngày 25 tháng 12 năm 1999, Lê Khả Phiêu TBT đảng CSVN và Trần Đức Lương, chủ tịch nước CHXHCNVN đi Bắc Kinh kư kết Hiệp ước phân định biên giới. Hiệp ước này chính thức nhượng một phần lănh thổ thuộc Ải Nam Quan, một nửa thác Bản Giốc và nhiều dăy núi thuộc Hà Giang, Lạng Sơn. Ngày 30 tháng 12 năm 2000, nhà nước CSVN kư kết với Trung Quốc 2 hiệp ước phân định vùng vịnh Bắc Việt và Hợp tác nghề đánh bắt cá. Với 2 hiệp ước này, Trung Quốc chính thức khai thác tài nguyên hơn 11 ngàn cây số vuông trong vùng vịnh Bắc Việt. Tháng 6 năm 2007, Trung Cộng phổ biến một bản đồ vẽ biển Đông của Việt Nam bao gồm cả Hoàng Sa Trường Sa là lănh hải mới của Trung Cộng. Cuối cùng, người thắng trong 2 cuộc chiến tranh này chính là Trung Cộng và kẻ thua chính là Cộng Sản Việt Nam v́ bộ mặt thật hại dân bán nước đă phơi bày trước nhân dân và họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.
8. HỘI CHỨNG VIỆT NAM CHO HOA KỲ
Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đă để lại cho họ một hội chứng “sự chia rẽ trầm trọng trong nội bộ nước Mỹ”, đồng thời uy tín của Hoa Kỳ sút giảm trên chính trường quốc tế. Về phương diện chính trị, Hoa Kỳ đă bị đánh bại bởi chính quốc hội Hoa Kỳ với đa số đảng viên đảng dân chủ đă đặt quyền lợi đảng lên trên quyền lợi quốc gia để bị Cộng sản lừa dối và tùng phục quyền lực ngầm chi phối chính sách của Hoa Kỳ.
Trong lịch sử Hoa Kỳ, nền dân chủ chính trị đă xây dựng nên một quốc gia hùng mạnh là biểu tượng của dân chủ tự do cho toàn thế giới, thế nhưng chính nền dân chủ đó đă bị giới tài phiệt lũng đoạn qua việc gây quỹ ứng cử nên các dân biểu nghị sĩ dễ bị lèo lái v́ quyền lợi của nhóm tài phiệt. Việc hoạch định chính sách thay v́ toàn thể hội đồng an ninh quốc gia quyết định th́ hầu như giao phó cho viên cố vấn an ninh toàn quyền quyết định nên đă bị nhóm quyền lực ngầm thao túng v́ quyền lợi riêng tư phe nhóm mà quên đi quyền lợi và cả danh dự của nước Mỹ. Chính trường Hoa Kỳ trong thời chiến tranh Việt Nam bị nhóm quyền lực ngầm mua chuộc tác động cả quốc hội Hoa Kỳ đă đưa nước Mỹ vào một sự kiện từng có trong lịch sử gọi là “Hội chứng Việt Nam” nên Tổng thống Johnson đă phải cay đắng thốt lên sự thật đau ḷng:“Chính chúng ta đă đánh bại chúng ta!!!”.
Vào thập niên năm mươi-sáu mươi, Hoa Kỳ tham dự chiến tranh Việt Nam để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản. Bước sang thập niên bảy mươi, lợi dụng sự mâu thuẫn giữa Liên Sô và Trung Quốc sau cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước hồi tháng 8 năm 1969, dẫn đến việc Liên Xô đưa ra các kế hoạch chi tiết cho một cuộc tấn công hạt nhân vào Trung Quốc. Mao Trạch Đông lo ngại và muốn t́m một sự ḥa giải với Hoa Kỳ để Trung Quốc rảnh tay mà đối phó với Liên Sô nên Hoa Kỳ lại dùng chiến tranh Việt Nam để phân hoá hàng ngũ quốc tế Cộng sản. Để hoá giải ư đồ của Liên Sô muốn Hoa Kỳ sa lầy trong cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ đă “Việt Nam hoá” chiến tranh và t́m giải pháp rút quân trong danh dự. Hoa Kỳ đưa Trung Quốc vào thay Trung Hoa Dân Quốc trong hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và bỏ ngỏ vùng biển Đông Nam Á để Trung Quốc tách hẳn khỏi Liên Sô và trở thành đồng minh của Hoa Kỳ. Sau khi rút chân ra khỏi Việt Nam, chi phí dành cho chiến tranh được dồn sang chế tạo vũ khí cạnh tranh quốc pḥng với Liên Sô nên năm 1981, chỉ với 11 tỷ dollars Hoa Kỳ đă chế tạo được phi thuyền con Thoi vượt xa Liên Sô trong lănh vực không gian. Cuối năm 1988, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa cộng sản ở các nước Đông Âu đă dẫn tới những biến đổi lịch sử: Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc quay trở lại theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Cộng Ḥa Dân chủ Đức sát nhập vào Cộng Ḥa Liên bang Đức. Ngày 21-8 đảng Cộng sản Liên Sô bị đ́nh chỉ hoạt động trong toàn liên bang, chính phủ Sô viết bị giải thể. Mười một nước cộng ḥa tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên bang Sô Viết. Một làn sóng chống đảng Cộng sản và chống Xă hội chủ nghĩa dâng cao khắp mọi nơi. Ngày 21-12-1991 chính thức thành lập các quốc gia độc lập SNG buộc Tổng thống Liên Sô M Gorbachev phải từ chức và cùng ngày đó, ngày 25-12-1991 lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện Cẩm Linh (Kremlin) sau 74 năm bị hạ xuống. Đây là một thất bại nặng nề của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của chủ nghĩa Cộng sản trên thực tế không c̣n tồn tại nữa. Chính Hoa Kỳ đă góp phần giật sập Liên Sô, thành tŕ của chủ nghĩa Cộng Sản nên xét cho cùng, Hoa Kỳ thắng lợi nhất trong cuộc chiến này.
Lời thú nhận “Tất cả chúng ta đều đă bị lừa” của Jane Fonda, người đă ủng hộ tích cực nhất cho phong trào phản chiến bị giựt dây bởi Cộng sản đă phải xin lỗi quân đội và nhân dân Hoa Kỳ đă nói lên tất cả sự thật. Không chỉ một Jane Fonda mà cả nước Mỹ và cả cán bộ đảng viên và nhân dân miền Bắc cũng bị lừa dối bởi bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chủ nghĩa Cộng Sản đă và đang bị nhân loại vất vào giỏ rác của lịch sử. Cuối cùng, hơn ba mươi năm sau, kẻ gọi là chiến thắng lại phải trải thảm đỏ mời người gọi là chiến bại để mong được là đối tác hàng đầu cả về kinh tế lẫn quân sự đă trả lời cho câu hỏi ai thắng ai trong cuộc chiến Việt Nam.
9. DÂN TỘC VIỆT NAM THẮNG
Trong suốt thời gian chiến tranh, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa đă chiến thắng cả 5 trận đánh lịch sử. Cộng Sản Việt Nam đă thất bại nặng nề trong tổng công kích tết Mậu Thân 1968, trên phương diện chính trị Cộng Sản Việt Nam lại thất bại hơn v́ không có một người dân nào ở miền Nam tự do “Tổng Nổi Dậy” theo lời kêu gọi của cái gọi là mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Thống Tướng Westmoreland, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đă chua chát nhận định: “Chúng ta đă tham dự một cuộc chiến mà bị trói một tay, một cuộc chiến tranh không được thắng. Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đă không giữ đúng lời cam kết với quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa v́ chúng tôi đă bỏ rơi các bạn…”. Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đă tuyên bố trong buổi lễ Ngày Cựu Chiến binh năm 1982 như sau: “Chúng ta hăy tôn vinh những chiến sĩ Hoa Kỳ đă chiến đấu tại Việt Nam. Họ là những chiến sĩ anh hùng v́ họ đă chiến đấu trong hoàn cảnh không có quyền thắng trận”. Hơn ba mươi năm sau khi kết thúc cuộc chiến, Henry Kissinger, trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 29-9-2010 đă tự nhận lỗi lầm: “Sự thảm bại tại VN vào ngày 30-4-1975 là do Hoa Kỳ gây nên, chứ không phải VNCH”.
Sau ngày Cộng sản xâm chiếm miền Nam, hàng triệu người phải bỏ quê hương ra đi t́m tự do nhưng sau gần 37 năm, ngọn cờ vàng vẫn tung bay trên khắp thế giới như biểu tượng cho dân chủ tự do. Cuộc chiến ngày nay không c̣n là cuộc chiến của miền Nam tự do nữa mà đă trở thành cuộc chiến của toàn dân tộc chống tập đoàn Việt gian Cộng Sản độc tài, bất nhân hại dân bán nước. Một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ sẽ chuyển đổi lịch sử trong nay mai và mà thắng lợi cuối cùng chính là của dân tộc Việt Nam.
PHẠM TRẦN ANH
(Trích trong bộ LƯỢC SỬ VIỆT NAM, phát hành trong tháng 9 năm 2012)
Liên lạc với Tác giả: quocvietanhpham@yahoo.com
Phone: 714-603-9291
www.vietthuc.org