Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

 

LONG MẠCH ĐẤT VIỆT

 

Đỗ Thị Anh Thư

Apr 17, 2015

 

 

 

Ai chưa t́m hiểu về long mạch quốc gia th́ sẽ hiểu hơn sau khi đọc bài viết AT sưu tầm này. Đặc biệt có nội dung nói đến vị trí quan trọng của Núi Hàm Rồng ( chính là Ḥn Chẹ) trong dăy núi Bà V́ ( thuộc Ba V́, TP Hà Nội) mà hiện nay đang được cho 1 DN  khai thác đá và phá hủy gần hết núi Hàm Rồng ( ảnh hiện trạng Núi Hàm Rồng ngày 12/4/2015)

--------------

LONG MẠCH ĐẤT VIỆT

Trong Phong Vân có khái niệm Long mạch. Vậy hăy t́m hiểu sơ bộ 1 chút về Long mạch đất Việt:

Long mạch là mạch đất bên trong có chứa khí mạch, giống như trong cành cây có chứa nhựa cây, nó có thể chạy qua những dăy đồi núi cao, cũng có thể đi rất thấp, luồn qua sông qua suối, thậm chí qua biển, rồi đột ngột nhô lên với những thớ đất lắm khi uốn lượn sà sà trên mặt ruộng như h́nh con rồng đang cuộn ḿnh vươn tới để ôm chầu vào một huyệt đất nào đó

Trước huyệt kết có đất nổi lên cao che chắn (gọi là án), hoặc có g̣ bao quanh kết h́nh ấn kiếm, ngựa voi, chiêng trống (gọi là sa).

 

I. Núi Tản Viên

Ngay sau khi ḥa b́nh lập lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh nh́n địa thế “tiền thủy - hậu thạch”, trước mặt nơi hội tụ của ba ḍng: sông Hồng, sông Đà, sông Thao và dựa lưng vào núi Tản Viên, nước sông Đà chảy từ bên trái sang bên phải “Trường lưu thủy”, tất cả đều chảy về biển lớn, nh́n toàn cảnh h́nh thế tay ngai, mạch đất linh thiêng.

Theo sách “ Bắc – Thành Địa dư chí” của Lê Đại Cương chép : “ Núi này ở huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai (nay là huyện Ba V́, tỉnh Hà Tây). H́nh núi tṛn như cái tán nên gọi là Tản Viên, rộng răi bao la, đứng cao hùng vĩ, làm trấn sơn cho cả nước, cao 2.310 trượng, chu vi 18.605 trượng, hướng tây có Đà Giang chảy quanh theo, rừng cây rậm rạp, cảnh trí đẹp”.

Nếu lấy núi Nghĩa Lĩnh (cố đô của nước Văn Lang thời tiền sử) làm tâm điểm th́ núi Ba V́ và núi Tam Đảo là hai điểm đối xứng tạo thành “Thế tay ngai” trong luật phong thủy do triều đại Vua Hùng tạo lập.

Vua nhà Đường (Trung Quốc) đă coi núi Ba V́ như một đầu rồng hùng mạnh, c̣n thân rồng chạy suốt tời phương Nam (dăy Trường Sơn ngày nay). Để nước Nam không thể phát Vương, vua Đường đă cử Cao Biền (vị tướng kiêm phù thủy) dùng pháp thuật cho đào một trăm cái giếng xung quanh chân núi Ba V́ để trấn yểm tà triệt long mạch nước ta. Nhưng cứ đào gần xong giếng nào th́ giếng đó lại bị sập, nên chúng đành phải bỏ cuộc bởi dăy núi thiêng – núi Tổ của nước Đại Việt.

 

 

II. Đường kinh mạch linh thiêng

Ở phương diện hẹp, phong thuỷ hài hoà, gia đ́nh mới hạnh phúc. Nh́n rộng hơn, phong thuỷ quốc gia hanh thông, đất nước mới thịnh vượng. Chẳng phải ngẫu nhiên mà 1.000 năm trước, vua Lư Thái Tổ đă chọn thế “rồng cuộn, hổ chầu” của Thăng Long để ngày nay tiếng thơm muôn đời. Nói vậy để nhớ lại rằng, từ xưa các cụ coi linh khí, long mạch đối với sự phát triển của đất nước là điều tối quan trọng.

Từ đỉnh Everest trên dăy Hymalaya cao 8.880 m so với mặt biển, có đường kinh mạch linh thiêng trông giống h́nh con Rồng lớn, đi từ nóc nhà thế giới là cao nguyên Tây Tạng dọc theo biên giới Ấn Độ, xéo qua cao nguyên Vân Nam, đến đỉnh Panxipang cao 3.143 m của dăy Hoàng Liên Sơn tỉnh Lao Cai, rồi toả ra trên Đồng bằng Bắc Bộ nước ta và chui xuống biển sâu ở Vịnh Hạ Long, cuối cùng đường kinh mạch kết thúc ở Vịnh Mindanao - Philippines ở đáy Đại dương sâu 10.800 m.

Đây là “con Rồng” lớn nhất thế giới. Những nhà nghiên cứu phong thuỷ đă phát hiện ra đường kinh mạch này và cho rằng, đây là đường kinh mạch quan trọng quyết định vận mệnh của quốc gia.

 

 

III. Thăng Long - tâm điểm của Đồng bằng Bắc Bộ và cả nước

Trên sơ đồ NÚI CHẦU SÔNG TỤ mà nhà nghiên cứu phong thuỷ Ngô Nguyên Phi đă mô tả, th́ 8 dăy núi ṿng cung xoáy theo h́nh rẻ quạt đi lần lượt từ dăy Đông Triều, Bắc Sơn, Ngân Sơn, Sông Gâm theo hướng Đông Bắc Tây Nam, đến dăy Sông Đà và Ninh B́nh từ phía Tây Nam hất ngược lên, cuối cùng là dăy Hoàng Liên Sơn và dăy Tam Đảo đi từ chính Bắc xuống… Tám dăy núi ṿng cung quy tụ ở tâm điểm Thăng Long. Kèm theo hướng núi là hướng các con sông cũng đồng quy về trung tâm Thăng Long, đúng như 2 câu thơ vịnh của thầy Tả Ao:

“Thiên sơn vạn Thuỷ triều lai

Can Chi bát quái trong ngoài tôn nghinh”

Đó chính là thế quư hiểm độc nhất vô nhị của nước ta.

Trên bản đồ địa h́nh, trong thế đồng quy của 8 dăy núi xoáy lại, không rơ từ mạch ngầm nào mà ngọn núi Ba V́ sừng sững “mọc lên”, như thể tạo hoá đă cố công dụng nạp linh khí của “bốn phương tám hướng” về đây.

Đỉnh núi chỉ cao 1.296 m, nhưng là đỉnh cao nhất của khu vực Thăng Long, là nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh với bao nhiêu câu chuyện truyền thuyết, như chuyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh thời Hùng Vương; chuyện từng đoàn quạ đen sà xuống bên Hồ Tây uy hiếp giấc ngủ của Mă Viện, sau khi ông tướng già đó truy đuổi hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, khiến hai bà phải nhảy xuống sông tự vẫn ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên; đến câu chuyện thầy phong thuỷ Cao Biền bị Tản Viên Sơn Thánh phạt khi ông phù thuỷ này định dùng tà thuật để đùa giỡn với Thánh Nhân Đất Việt.

 

 

IV. Hồ Tây - yếu huyệt của Thăng Long

Lịch sử 1.200 năm trước, khi quan đô hộ sứ kiêm thầy phong thuỷ Cao Biền phát hiện ra linh khí của vùng đất quư hiển này, nên quyết tâm xây dựng Thành Đại La có 30 km bờ đê bao quanh, để lập ra một Vương quốc cho riêng ḿnh, th́ ông ta đă chọn Hồ Tây là “Năo Thuỷ”, tức là nơi “Hào kiệt thời nào cũng có”.

Sông Hồng, Sông Tô đối với yếu huyệt Hồ Tây cũng có mối liên hệ mật thiết, là Long Mạch chủ của yếu huyệt. Câu chuyện Tản Viên Sơn luôn luôn gắn liền với hiện tượng các ḍng sông sau khi chúng “gặp nhau” ở Việt Tŕ và thực sự “hội tụ” ở Thăng Long, khi sông Hồng mở ra rất rộng, rồi nối với sông Đuống, sông Cầu ở bên Tả ngạn và rất nhiều sông con ở bên Hữu ngạn, tất cả đều liên thông với Hồ Tây qua Long mạch chủ là sông Tô Lịch.

Việc sông Tô Lịch bị lấp, xây nên các phố Chợ Gạo, Ngơ Gạch, Hàng Buồm, Hàng Lược, Quán Thánh, Phan Đ́nh Phùng, Thuỵ Khuê, Hồ Khẩu, Chợ Bưởi... cắt đứt quan hệ với Hồ Tây và ngă ba tam hợp với sông Thiên Phù và sông Nhuệ thông với sông Hồng, đă tạo ra một ḍng sông chết, khiến Sông Tô trong xanh ngày xưa thành nơi đổ nước thải.

 

V. Núi Hàm Rồng – cuộc chiến giữa Cao Biền và Tả Ao

Truyền thuyết kể, Biền thấy đất Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, sợ dân nơi đây bất khuất, khó ḷng cai trị, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét và t́m cách trấn yểm các long mạch để phá vượng khí của người Nam.

Một lần bay qua vùng núi Hàm Rồng, nh́n thấy huyệt Hàm Rồng, Biền nói rằng địa thế này tuy không phải là hung địa “xương long vô túc” (rồng không chân) nhưng cũng là h́nh con rồng què chân, không phải đất cực quư, nên bỏ đi.

Miệng nói vậy nhưng chính y lại âm thầm trở lại, mang theo hài cốt cha để táng vào mong sau này có thể phát đế vương. Sau nhiều lần táng mả cha vào, xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không kết phát.

Cao Biền biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quư th́ lại càng ham thích, rắp tâm làm đến cùng. Biền bèn tán nhỏ xương vừa tung lên th́ có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vỗ cánh quạt vù vù làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tán.

Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu. Quả nhiên không lâu sau, Biền bị triệu về nước rồi bị giết.

 

VI. Kinh đô

Ở nước ta cũng vậy, một ngàn năm trước, khi vừa lên ngôi mới ngoài 30 tuổi, vua Lư Thái Tổ đă có thể tự tay viết bản Thiên Đô Chiếu bất hủ “Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế Rồng cuộn Hổ chầu, chính giữa Nam, Bắc, Đông, Tây, tiện nghi núi sông sau trước”, rồi lập tức nhà Vua cho triều đ́nh rời đô từ Hoa Lư về Đại La.

 

Đỉnh núi Ba V́, và cụ thể tại đỉnh cao 1296m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh chính là một cột ăng teng thu Thiên Khí giáng xuống, kết hợp với Địa Khí của Long mạch trầm hùng ở dăy núi Hy Mă Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), Long mạch này sẽ kết Huyệt tại vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia. Đây chính là Đế Vương Huyệt của Việt Nam và tạo nên Thăng Long - Hà Nội. Như vậy Thăng Long chính là Đại Minh đường của Tản Viên.

 

VII. Kết

Hà Nội với thế núi, thế sông quá lớn, quá hùng vĩ, dài hàng mấy trăm dặm tiến tới, tất cả đều như muốn hướng về phủ phục, triều bái, nên thật quả là thế đất kinh đô muôn đời. Bởi thế nên từ trước khi Hà Nội (tức Thăng Long) được chọn làm thủ đô, nước ta chỉ là một quốc gia nhỏ, sánh ngang hàng với những nước nhỏ như Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp, Lăo Qua (tức Ai Lao)…đă vậy lại c̣n bị Trung Hoa đô hộ suốt gần 10 thế kỷ. Phải đến khi vua Lư Thái Tổ dời đô về đây, đất nước ta mới dần dần trở nên hùng mạnh. Chẳng những thế, tổ tiên ta c̣n nhiều lần đánh bại những cuộc xâm lăng quy mô rất lớn và khốc liệt của các triều đại phong kiến Trung Hoa.

 

Sưu tầm.

KTS Trần Thanh Vân

 

 

TÔI BIẾT G̀ VỀ TRUNG QUỐC?

 

 

 

Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện b́nh thường, cho nên những vấn đề ǵ liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay th́ họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều ǵ khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xă hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!

 

Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương tŕnh văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền h́nh trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?”

 

Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đă 55 năm”

 

– “Cái ǵ? 55 năm?”

 

– “Vâng! từ ngày c̣n là con bé con”.

 

Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải t́m hiểu từ ngày tôi c̣n nhỏ.. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lư toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ư thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào t́nh huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lư thuyết.

 

Sự thật và trải nghiệm

 

Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Cộng mà tôi sắp kể ra, đó là lư do thôi thúc tôi phải đi sâu t́m hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nh́n khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” Trung Cộng hơn tôi. Cho nên, dù đă có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.

 

Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm t́nh hữu nghị…”; trước đó tôi đă có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hăi hùng liên quan đến Trung Quốc.

 

Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953

 

Ngày ấy tôi c̣n nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đă hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xă ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đă cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đ́nh bệnh nhân mang đến tạ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi c̣n có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.

 

Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đă theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đă bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đ́nh và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi c̣n nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm ǵ có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đă được ca ngợi như một chiến công lớn.

 

Nhưng trong CCRĐ th́ công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xă đă treo cổ tự tử v́ bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đă giết ông Bí thư Q. để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bồ́ dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đă được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.

 

Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó th́ hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên th́ tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn c̣n nhớ.

 

Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hố đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đ̣i ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển h́nh.

 

Sau này, khi ông ngoại tôi đă mất rồi, đại gia đ́nh có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hăy nén ḷng quên nỗi đau buồn đó đi.

 

Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt

 

Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, th́ chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.

 

Liên Xô th́ ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Cộng th́ ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Ḥa b́nh lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, th́ trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Cộng. C̣n nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ v́ cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng th́nh dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng th́nh và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Ṭa dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Cộng. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ.

 

Ngày đó gia đ́nh tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đă xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật kư đến tận bây giờ tôi vẫn c̣n giữ được những trang nhật kư trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật kư cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Cộng tên là Khương Năi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đăi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Năi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.

 

Khương Năi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó c̣n có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa.. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba V́...

 

Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ v́ luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ th́ ít mà v́ sợ hăi như thể tôi có liên can tới cơn lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa th́ nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đă bị Trời phạt. Ngày đó Trung Cộng và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm x́ nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ t́nh hữu nghị quái gở ǵ mà “người bạn lớn thân thiết” lại t́m mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?

 

Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lư cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.

 

Du học ở Trung Cộng

 

Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đă có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hăi hồi nhỏ.

 

Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Cộng theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ư thích rồi mang đến tận pḥng riêng phục vụ tận t́nh.

 

Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc th́ được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dă ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận t́nh hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, c̣n vợ ông th́ đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học tṛ chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đăi hơn người, riêng tôi v́ ham thích âm nhạc nên c̣n được giữ ch́a khoá một căn pḥng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.

 

Chưa bao giờ tôi tự đặt cho ḿnh câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước ḿnh hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong ḷng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Cộng ngày đó c̣n nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Cộng phải ăn ở chen chúc trong những căn pḥng chật chội của kư túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loăng và vài miếng ca-la-thầu.

 

Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài G̣n tập kết th́ được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một ṭa nhà 2 tầng có nhiều pḥng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, c̣n tầng một dành cho giáo viên nam. Đă là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ c̣n rất trẻ và đều chưa có gia đ́nh riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậ­y tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đă về nhà, tôi và chị bạn Sài G̣n xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, th́ các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện tṛ và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xă hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.

 

Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, ḥ hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đă từng giảng dạy chúng tôi tận t́nh, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những ḍng chữ tục tĩu.

 

Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đ́nh có nền giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lư cách mạng cho phép học tṛ đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đă hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém trong tim ḿnh, về h́nh ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đă từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, th́ chính họ bị lôi ra đấu tố.

 

Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nh́n nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ th́ họ cắn ḿnh đây?”

 

Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ kư. Chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đă bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá ḥ hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nh́ Trung Cộng, do người Đức thành lập đă gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lư Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức của ông không biết đă trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.

Đến lúc đó th́ t́nh cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Cộng rất tốt, giới trí thức Trung Cộng cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “t́nh hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn t́m hiểu xem cái ǵ là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.

Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bă và vội vàng như ma đuổi..

 

Thời kỳ đă trưởng thành

 

Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đă được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.

Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.

 

Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. C̣n đêm đến, khi ngồi tư lự một ḿnh bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những kư ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.

Lúc này đă đủ lớn để có những chính kiến của riêng ḿnh, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với má»™t chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quư nhau và luôn giúp đỡ nhau, c̣n “Liên Xô xét lại” và “Trung Cộng giáo điều” th́ mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.

Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lư giải rằng sự cố đă xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm người hănh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dơi và nuôi trong ḷng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đă nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu B́nh được phục chức, tôi những tưởng t́nh h́nh sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng th́ liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu B́nh chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu B́nh chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Cộng thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ v́ tranh cướp quyền lực và càng lộ rơ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ của họ mà thôi.

 

Trung Quốc hôm nay?

 

Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng t́m hiểu kỹ th́ ai cũng biết Trung Cộng đă thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, th́ tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Cộng đại nhảy vọt mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn c̣n có một Trung Cộng khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đă từng bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được ḷng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.

 

Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng Tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải v́ họ cảm động, v́ mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc v́ gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhă và đáng xấu hổ. Tôi đọc được t́nh cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đă gây ra cho bao gia gia đ́nh trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”.

 

Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đă dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Cộng hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, c̣n lớp người Trung Cộng thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung Cộng: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu manh mạnh v́ gạo bạo v́ tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đă từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa th́ họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.

 

Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Vơ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển gần một tỷ dân. Nhưng thời nay c̣n có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền h́nh thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đă lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.

 

Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Cộng hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Cộng đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai tṛ lao động chui. Những người này có thể v́ đói khát quá hoặc v́ đă là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để t́m cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.

 

Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.

 

TÔI HIỂU G̀ VỀ TRUNG QUỐC?

 

Sau khi đă biết quá rơ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lư do riêng, một lư do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lư thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lư thuyết mà từ năm 1955 tôi đă “không may” bị tận mắt chứng kiến.

 

Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đă góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đă lăng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh Dịch.

 

Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đă cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đă mắc phải. Lúc này tôi đă có nhiều thời gian để hiểu rơ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Cộng rất thèm muốn. Họ thèm muốn v́ họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi v́ thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Cộng không hề được hưởng lợi.

 

Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich

 

Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich   

 

Nước Trung Hoa h́nh quẻ chấn

 

Theo phân tích và tổng kết hệ thống đă công bố tháng 5/2005 của KTS Lư Thái Sơn, th́ đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai găy, hào ba găy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.

 

Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá tŕnh chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, v́ người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân.. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra th́ các quốc gia đó sẽ giàu có và trù phú hơn nhiều. C̣n Bắc Kinh th́ luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đă đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dă man các vùng xa xôi như  Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.

 

Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đă nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ư thức được rằng có một cách văn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dăy Hymalaya qua cao nguyên Tây Tạng, qua cao nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rồi đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này th́ không những họ có gọng ḱm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ c̣n có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “củng cố nơi họ đă là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.

 

* Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đă bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đă di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật th́ ít, người Hán mới bị đồng hóa th́ nhiều).

 

* Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đă bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhă cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đă khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm  ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Cộng sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).

 

Cung điện Tây Tạng Potola

C̣n ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi v́ Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua th́ giặc ngoại xâm đă bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mă Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?

 

Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu

 

Trong quá tŕnh địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dăy núi cao đóng vai tṛ đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đă phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, th́ đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dăy Hymalaya chạy ṿng vèo như h́nh con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dăy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Tŕ mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba V́ cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lư Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long th́ người Trung Hoa đă ḍm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tự là một trong những kết quả t́m kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Măn Châu th́ vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta t́m thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đă xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đă bị vua Đường trị tội.. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô t́nh chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.

 

Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi ṿng vèo từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, c̣n tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ư, chúng ta sẽ biết.

 

Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á

 

Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta c̣n có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 ḥn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Pḥng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra c̣n có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Ḥn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn x̣e ra ở đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi ḅ chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ư thức được đường lưỡi ḅ này vi phạm đến chủ quyền của ḿnh, mà gần như cả thế giới đă nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi v́ chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Á Châu  và một khi chiếm được Á Châu  rồi th́ bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Âu Châu có để cho họ làm điều đó không ?

 

Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh

 

Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng h́nh chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đă tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, th́ Đất nước ta như một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.

 

 

 

Núi chầu sông tụ Thăng Long theo h́nh thế Âm Dương

 

Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đă vững như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đă phát triển xuống phía Nam th́ con thuyền đất nước đă đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đă là con thuyền th́ các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ư thức được sự sống c̣n của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của ḿnh..

 

Xin hăy nh́n vào h́nh Con Rồng Việt Nam do Tiến sĩ Phạm Gia Minh cung cấp. Nếu dự án Khu đô thị Tây Hồ Tây và Dự án Nhà hát Thăng Long ở đầu con Rồng nước Việt, th́ dự án Bauxite lại ở phần đuôi Rồng.

Con Rồng nước Việt. Phạm Gia Minh vẽ

Trước tiên xin hăy bảo vệ cái đầu. Nếu một cơ thể có cái đầu sáng suốt, lành mạnh, th́ các bộ phận khác cũng sẽ lành mạnh, thậm chí khi đuôi Rồng quẫy một cái th́ những kẻ bám theo ở phần đuôi, ở phần ngoài ŕa như biên giới, hải đảo sẽ rơi rụng. Nhưng nếu cái đầu bị rỗng nát, LONG MẠCH bị triệt th́ nước mất nhà tan.

VN

Lời giới thiệu.

Thần núi Tản Viên là một trong những huyền thoại in đậm trong kư ức người Việt từ rất nhiều đời. Đó là cả một chùm sự tích xâu chuỗi với nhau, từ câu chuyện một chàng trai trẻ khởi đầu cắm gậy ở núi Tản Viên, trải qua việc chàng cưới con gái vua Hùng, rồi cuộc tranh tài cao thấp “năm năm báo oán đời đời đánh ghen” giữa hai vị thần Sơn Tinh và Thủy Tinh, cho đến những hệ quả của trận thư hùng chưa bao giờ dứt ấy đưa đến sự h́nh thành địa mạo một quốc gia Việt Nam uốn lượn như con Rồng ngày nay mà mắt Rồng là Hồ Tây với bao nhiêu kỳ tích c̣n để lại trong địa danh và truyền thuyết: Đầm Xác Cáo, Đầm Trâu Vàng…

Trong ṿng mấy thập niên lại đây, Hồ Tây đă và đang bị con người xâm hại bằng nhiều cách, làm cho mặt Hồ bị co dần lại từng tháng từng ngày. Rừng đào Nhật Tân đỏ thắm hàng năm gần ngay ven hồ đă không c̣n dấu vết, thay vào đấy là những dăy nhà cao tầng Made in In Đô lạnh lùng sừng sững. Giờ đây, lại đang có nguy cơ rừng hồng xiêm Xuân Đỉnh sẽ bị triệt hạ để cho phía Tây Hồ Tây dựng lên một bức tường bê tông kiểu Hàn c̣n trơ tráo hơn thế, ngang nhiên che khuất Tản Lĩnh hàng ngh́n năm luôn soi bóng xuống ḷng Hồ như một sự chiếu ứng linh thiêng mà nhà thơ nổi tiếng đời Trần Phạm Sư Mạnh đă nhắc tới trong thơ. Những việc ấy sẽ để lại hậu quả ǵ? Chúng có liên quan ǵ đến cái cơ thể con Rồng đang ngày một lở loét đau nhức v́ mọi sự chặt phá, bới đào… mà kẻ hưởng lợi quyết không phải là dân tộc này, một dân tộc không ngu xuẩn cũng không hám lợi?

Và khi bị đâm thọc vào lưng – vào tử huyệt – th́ Rồng có cam ḷng chịu chết không hay là sẽ quẫy? Và quẫy như thế nào? Bằng kiến thức nhiều mặt của một nhà kiến trúc am hiểu sâu môi trường học (environnement), cùng với cái học về phong thủy, về Kinh Dịch, và với bản lĩnh của một người hàng chục năm nay quyết dấn thân bảo vệ bằng được sự nguyên vẹn của Hồ Tây, Kiến trúc sư Trần Thanh Vân đưa ra vài lời giải đáp với chúng ta về những “động loạn trái lẽ trời” do ai đó gây ra mà lịch sử đất nước từng chứng kiến hoặc đang hứng chịu. Trang mạng bauxite xin giới thiệu ư kiến của chị, để bạn đọc cùng thử suy ngẫm về ư nghĩa thực tiễn nằm phía sau những lời giải đoán tưởng như rất huyền vi này.

Nguyễn Huệ Chi

 

Từ truyền thuyết xa xưa…

Dân tộc nào cũng có những câu chuyện truyền thuyết và truyền thuyết nào cũng xuất phát từ một hiện tượng có thật xảy ra ở đâu đó, được nhân dân lưu truyền và kiểm chứng. Có những câu chuyện rất xác thực, được kể lại với những t́nh tiết rất xúc động, được nhân dân truyền tụng râm ran, nhưng chỉ một thời gian sau, chuyện đó bị lăng quên. Không ai phê phán, không ai nghi ngờ, nhưng có lẽ do tính tiêu biểu của câu chuyện không cao, kể cả thời gian lẫn phạm vi ảnh hưởng, nên mọi người tự cho phép ḿnh được quên đi. Ngược lại có những chuyện nghe ra thật phi lư, nhưng không ai thắc mắc về những điều phi lư đó, câu chuyện luôn luôn được nhắc lại, được bổ sung nhiều t́nh tiết diệu kỳ và được sống măi trong ḷng dân.

 

Chuyện giao tranh giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh với sự tích Vua Hùng kén rể là một trong những truyền thuyết sống đời trong ḷng dân như thế. Hàng ngàn năm qua, Sơn Tinh là nhất đẳng Sơn Thần, là Tản Viên Sơn Thánh, là vị Thánh đứng đầu trong Tứ Bất Tử, được nhân dân cả nước măi măi tôn thờ là như vậy. Đền Thượng, nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh ở trên trục tọa độ 21 độ 3’ 28’’ Bắc Vĩ tuyến và 105 độ Kinh Đông 21’ 57’’, đỉnh núi này cao 1226 m so với mặt biển và là một trong ba đỉnh núi cao tạo nên Cụm núi Ba V́.

Có lẽ đă được bàn tay tạo hóa khéo léo sắp đặt, nên cũng trên 21 độ 3’ 28’’ Bắc Vĩ tuyến này, dịch sang phía Đông khoảng 25Km, tại 105 độ 49’ 9’’ Kinh Đông, có một địa điểm rất đặc biệt mà trong dân gian lưu truyền rằng đó là huyệt đạo quốc gia.

Huyệt đạo quốc gia này là ǵ? Đóng vai tṛ ǵ trong việc thịnh suy của dân tộc mà tại sao cả người trong nước và kẻ ngoại bang đều quan tâm đến nó như vậy? Xin phép điểm qua một số sự kiện mà đến nay sách vở vẫn c̣n lưu truyền.

1. Gần 2000 năm trước, khi Mă Viện được triều đ́nh Đông Hán cử sang dẹp cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng th́ ông ta đă là một vị tướng già đầy tài năng. Cuộc chiến diễn ra thật không cân sức, Mă Viện đă nhanh chóng đánh tan được đội quân của Trưng nữ Vương ở Kinh đô Mê Linh, hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị quyết không chiụ rơi vào tay giặc, để bảo toàn khí tiết, hai bà nhảy xuống ḍng Hát Giang tự vẫn. Chiến thắng mà không cảm thấy vẻ vang, trên đường thu quân trở về, tướng Mă Viện nghỉ lại bên bờ Hồ Dâm Đàm (tức là Hồ Tây ngày nay), ở đó ông ta đă nếm trải những ngày khiếp sợ và thấy hôí hận về hành động tận truy, tận diệt của ḿnh. H́nh ảnh “mặt hồ đầy khí lam chướng, đến nỗi đàn diều hâu bay lượn trên hồ đều bị lộn cổ rớt xuống nước” chứng tỏ Mă Viện đă đến vùng trung tâm của Hồ Dâm Đàm tức Bán đảo Tây Hồ ngày nay, nơi đó có huyệt đạo quốc gia mà ngày nay nhân dân ta thường nhắc tới, đàn chim mà ông ta nh́n thấy trong tâm trạng thảng thốt đó chắc không phải là diều hâu mà là Sâm Cầm, cho đến ngày nay, đêm đêm Sâm Cầm vẫn thường bay về sà xuống Hồ Sen nơi đây, đă từng khiến nhiều kẻ có tà tâm khiếp sợ.

2. Sau Mă Viện 800 năm lại có viên quan Tiết độ sứ của vua Đường Trung Tông là Cao Biền. Ông này là một thầy phong thủy kỳ tài, khi sang nước ta nhận chức, ông thầy phong thủy này đă đi khắp nơi trên đất nước ta để tầm long điểm huyệt, ông ta đă viết hẳn một cuốn sách có tên là Cao Biền tấu thư địa lư kiểu tự. Cao Biền không ngờ rằng trên đất nước nhỏ bé này lại có nhiều báu huyệt sản sinh ra nhiều hiền tài đến thế. Theo chỉ đạo của vua Đường, Cao Biền đă cố công trấn yểm rất nhiều nơi, nhưng ông ta đều thất bại. Chuyện kể rằng ở quanh thành Đại La, nơi Cao Biền đă xây dựng “Kinh đô” cho ḿnh và đă tự xưng là Cao Vương, ông ta đă cho yểm rất nhiều bùa huyệt, nhằm củng cố vị trí cai trị vững chắc của ḿnh và nhằm ngăn cản thế lực nổi dậy của nhân dân Giao Chỉ, nhưng ông ta đă uổng công. Không chỉ có vậy, nghe nói ở chính trên đỉnh Tản Viên Sơn, Cao Biền định thực hiện một âm mưu ǵ đó nên cũng đă bị Tản Viên Sơn Thánh tát vào mặt và hốt hoảng bỏ chạy. Vào lúc cuối đời, số phận con người có tài nhưng thâm hiểm này chẳng ra ǵ, điều đó cho thấy độc ác, tàn bạo th́ trước tiên bị vận vào thân.

3. Mùa xuân năm 1010, sau khi lên ngôi ở Hoa Lư, Vua Lư Thái Tổ đă đi thuyền ngược sông Hồng vào thăm thành Đại La của Cao Vương để lại từ 200 năm trước. Nhờ có sự d́u dắt của Thiền sư Vạn Hạnh về phong thủy được phát hiện từ thời Cao Biền để lại, nhà vua đă đỗ thuyền giữa Hồ Tây để chứng kiến hiện tượng Rồng cuốn nước mà sách phong thủy goị là Long quyển thủy được phát tích tại chính huyệt đạo quốc gia là vị trí Đền Kim Ngưu cạnh Phủ Tây Hồ ngày nay. Người quyết định dời đô về La Thành, lấy tên là Thăng Long và tự tay viết bản Thiên Đô Chiếu ngắn gọn chỉ có 214 chữ với tứ văn quan trọng: “Ở giữa khu vực trời đất, được thế Rồng cuộn Hổ chầu, chính giữa Nam, Bắc, Đông, Tây, tiện nghi núi sông sau trước”.

Một quyết định trọng đại được nhà vua ban ra một cách nhanh chóng và được quần thần nhất trí thông qua chỉ dựa trên những phát hiện về phong thủy đă từng bị kẻ thù Phương Bắc nhăm nhăm triệt phá, chứng tỏ sự táo bạo và sáng suốt của Vua-Tôi thời bấy giờ. Lịch sử diễn biến ngót 1.000 năm qua chứng tỏ sự lựa chọn đó là vô cùng chuẩn xác. Hai trăm năm trở lại đây với việc kinh đô dời vào Phú Xuân-Huế (1802-1945) và việc lập ra Tỉnh Hà Nội và xây dựng Thành phố Hà Nội (1831- 2009) đă đẩy đất nước vào cảnh lao đao. Vậy về phong thủy, về âm dương ngũ hành có vi phạm điều ǵ cấm kỵ không? Thiết nghĩ lúc này phải nhận thức được căn nguyên của sự lao đao đó để t́m quyết sách và từng bước văn hồi.

 

Đến truyền thuyết thời nay

 

1. Ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, Nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa ra đời và chọn Hà Nội là Thủ đô, nhưng có lẽ hai chữ Hà Nội và hai chữ Việt Nam không “tương sinh” nên Chính phủ VNDCCH thành lập chưa được bao lâu th́ toàn quốc kháng chiến nổ ra. Chính phủ và nhân đă phải bỏ Hà Nội ra đi, lên trú ngụ ở chiến khu Việt Bắc để trường kỳ kháng chiến.

2. Ngày 1/1/1955 Chính phủ VNDCCH chính thức ra mắt quốc dân mười năm trước đă trở về lại Thủ đô Hà Nội, “Ḥa b́nh đă lập lại” nhưng nửa nước vẫn c̣n trong t́nh trạng chiến tranh.

3. Ngày 2/9/1955, lần đầu tiên ở quảng trường Ba Đ́nh diễn ra cuộc mít tinh trọng thể và biểu t́nh mừng Quốc khánh sau 9 năm thành lập nước. Người ta thấy đội quân nhạc danh dự mặc lễ phục mầu trắng, giầy da mầu đen, mũ kê-pi, ngù tua vàng… đứng ngay trước lễ đài. Sau đội quân nhạc là các cháu thiếu nhi quần xanh, váy xanh, áo trắng, khăn quàng đỏ, tay cầm cờ và hoa. Trước đội quân nhạc là khoảng trống cho các đoàn quân duyệt binh, các đội diễu hành và đặc biệt đó cũng là “sân khấu” cho các đoàn văn công dừng lại biểu diễn. Ai đă được chứng kiến cảnh đó sẽ không bao giờ quên được các cô văn công vừa đi vừa múa, nổi trội nhất là điệu múa Hoa sen của đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ đến từ Trung Quốc. Váy áo xiêm y cực kỳ lộng lẫy và cô nào cũng đẹp như những nàng tiên.

4. Chiều ngày 11/9/1955 ở Hồ Tây nổi lên một cơn lốc dữ dội, trong phút chốc cướp đi 4 mạng người, trong đó có cô diễn viên chính trong điệu múa Hoa sen của đoàn Tề Tề Cáp Nhĩ tên là Khương Năi Tuệ và chàng nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn. C̣n hai người nữa là ai th́ không thấy nói tới. Ngày đó t́nh hữu nghị Việt – Trung – Xô thắm thiết lắm, đến đâu người ta cũng thấy thanh niên nam nữ nắm tay nhau xếp thành ṿng tṛn cùng vỗ tay múa hát tập thể bài

Thắm thiết t́nh Việt Trung Xô.

Đế quốc càng nhiều mối lo,

Đó là t́nh người lao động,

Mối t́nh tràn ngập núi sông…

Nhưng không hiểu sao sau cơn lốc dữ dội chiều hôm đó, khắp Hà Nội lại râm ran bàn về một âm mưu yểm huyệt để phá Long mạch ở Hồ Tây nhưng không thành. Chuyện đó thực hư thế nào không ai biết, báo chí không hề đăng, thủ phạm không bị vạch mặt, nhưng chỉ biết cơn lốc là có thật, người chết là có thật và những người chứng kiến là có thật và nhiều người trong số họ đang c̣n sống khoẻ mạnh.

5. Đầu năm 1979, không cần giấu mặt, người bạn phương Bắc từng thân thiết như môi với răng ngang nhiên tấn công biên giới nước ta. Đúng là môi hở th́ răng lạnh, nhưng răng cắn th́ môi đau.

6. Năm 1998, dự án Thủy Cung Thăng Long sử dụng hơn 20 ha đất thiêng ở Tây Hồ. Đúng tại nơi xưa kia Vua Lư Thái Tổ đă dừng thuyền quyết định viết Thiên Đô Chiếu (21 độ vĩ bắc 3’ 28’’). Dự án đă được một Phó Thủ tướng Chính phủ kư quyết định phê duyệt và một phó Thủ tướng nữa kư quyết định cấp 21 ha đất thiêng. Đây là một dự án được h́nh thành do ḷng tham lam và sự ngu dốt chứ chưa hẳn đă có dụng ư phá hoại. Nhưng cho dù v́ động cơ ǵ mà một kẻ có chức có quyền lại vi phạm vào vùng đất thiêng của huyệt đạo quốc gia, kẻ đó sẽ nếm đủ đ̣n trừng phạt. Bởi vậy tuy dự án này mới bắt đầu, hậu quả tai hại chưa kịp gây ra, nhưng đă có kẻ phải vào tù, một Phó Thủ tướng mất chức, mất luôn cả chân Đại biểu Quốc hội và Ủy viên Trung ương; một Phó Chủ tịch thành phố Thủ đô mất chức và mất tất cả. H́nh phạt quả là nặng. Phải chăng đó là lời nhắc nhở cho những ai có quyền, có chức, biết sai mà vẫn cố t́nh làm và c̣n định hại người khác?

7. Ngày 29/5/2008 Quốc hội đă thông qua nghị quyết mở rộng địa giới hành chính Thủ đô theo cấu trúc phong thủy “TỰA NÚI NH̀N SÔNG – RỒNG CUỘN HỔ NGỒI”. Nếu chúng ta hiểu ư nghĩa của trục phong thủy đó, khơi thông ḍng nước để phục hồi Long mạch, và nếu Thủ đô ta nhanh chóng lấy lại tên Thăng Long để ta có quan hệ Hỏa – Thổ tương sinh th́ t́nh h́nh sẽ dần tốt đẹp lên. Nhưng hôm nay đang có 3 dự án xằng bậy uy hiếp sự an ninh của quốc gia:

Một là dự án KHU ĐÔ THỊ TÂY HỒ TÂY 100% VỐN HÀN QUỐC MANG PHONG CÁCH HÀN QUỐC RỘNG 210,43ha Ở TRÊN TRỤC LONG MẠCH 21 độ 3’ 28’’, TRÊN ĐƯỜNG NỐI TỪ ĐỀN THƯỢNG NÚI TẢN VIÊN VỀ TỚI ĐẦM TRỊ BÊN PHỦ TÂY HỒ.

Hai là dự án NHÀ HÁT THĂNG LONG Ở NGAY TRÊN KHU ĐẤT ĐỊNH LÀM THUỶ CUNG THĂNG LONG 10 NĂM TRƯỚC.

Ba là dự án BAUXTE Ở TÂY NGUYÊN.

Xin hăy nh́n vào h́nh Con Rồng Việt Nam do Tiến sĩ Phạm Gia Minh cung cấp. Nếu dự án Khu đô thị Tây Hồ Tây và Dự án Nhà hát Thăng Long ở đầu con Rồng nước Việt, th́ dự án Bauxite lại ở phần đuôi Rồng.

VN

Con Rồng nước Việt. Phạm Gia Minh vẽ

Trước tiên xin hăy bảo vệ cái đầu. Nếu một cơ thể có cái đầu sáng suốt, lành mạnh, th́ các bộ phận khác cũng sẽ lành mạnh, thậm chí khi đuôi Rồng quẫy một cái th́ những kẻ bám theo ở phần đuôi, ở phần ngoài ŕa như biên giới, hải đảo sẽ rơi rụng. Nhưng nếu cái đầu bị rỗng nát, LONG MẠCH bị triệt th́ nước mất nhà tan.

Thưa quư độc giả,

Tôi viết những ḍng này hết sức chân thành với mong muốn khai minh mở tuệ cho những ai đầu óc đang u tối. Mong hăy tin rằng Tản Viên Sơn Thánh Ngài rất công bằng và rất sáng suốt. Xin hăy hết sức lưu tâm đến lời nhắc nhở hôm nay.

TTV

 

 

LỜI CUỐI BÀI

 

Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những ḍng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xă hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đă có dịp hiểu rất sâu vào cốt lơi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ với Trung Cộng hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp kinh nghiệm như tôi, là hăy tỉnh táo để thoát ra khỏi cơi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Cộng. Cha ông ta đă trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.

 

Tôi biết, lúc này đă có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn c̣n khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người c̣n rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ v́ đôi lúc chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hăy b́nh tâm và suy ngẫm xem cái ǵ tạo nên sức mạnh của họ và cái ǵ đang giết chết sức mạnh đó?

 

Đông dân là một sức mạnh

 

Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải th́ Trung Cộng mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.

 

Trong thế vận hội 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân th́ họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.

 

Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng,

 

Mô h́nh hàng không mẫu hạm ở Vũ Hán

 

Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không v́ dân th́ Nhà nước sẽ khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thẩm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.

Vậy th́ mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?

 

KTS Trần Thanh Vân

 

 

 

KTS Trần Thanh Vân

Đại địa mạch quốc gia

December 28, 2009

 

 

Chuyện 700 năm trước

 

 

 

Trong trận đánh Nguyên Mông lần thứ 3 năm 1288, có hai người “phạm lỗi” với Triều đ́nh nhà Trần, nhưng đều đă lập nên chiến công lớn, góp phần không nhỏ vào việc đuổi giặc Nguyên Mông. Đó là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, con nuôi của vua Trần Thánh Tông và Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

Sách cũ kể rằng Trần Khánh Dư là người rất có tài, nhưng ăn nói th́ quá mạnh bạo mà sinh hoạt th́ hơi phóng túng, nên bị nhà Vua tước hết quan chức, bổng lộc và ông buộc phải về quê ở Chí Linh làm nghề bán than kiếm sống.

Nhưng cũng tại nơi đây, Trần Khánh Dư được phục chức và đă trở thành Phó tướng Vân Đồn. Ông đă chỉ huy quân ta phá tan đội thuyền tiếp tế lương thực của quân Nguyên Mông và góp công lớn vào trận chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng.

Vơ đă giỏi, văn cũng hay, sau này Trần Khánh Dư là người viết lời tựa cho cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của Trần Hưng Đạo, ông viết như sau:

Người giỏi vơ cầm quân th́ không cần bày trận

Người giỏi bày trận th́ không cần đánh

Người giỏi đánh th́ không thua

 

Người khéo thua th́ không chết

Sách cũ cũng kể rằng Trần Quốc Tảng là một người có tài đặc biệt về quân sự, nhưng v́ lúc nhỏ luôn ở bên cạnh ông nội là Trần Liễu, nên Quốc Tảng từng có biểu hiện muốn cướp ngôi vua từ trong tay ḍng thứ, để giành ngôi cho cha ḿnh là ḍng trưởng, khiến Trần Hưng Đạo giận, nên đă “đẩy” con trai đi trấn thủ tận Cửa Suốt, là một nơi ở rất xa Triều đ́nh để tránh hậu hoạ.

Nhưng cũng tại nơi biên cương Tổ quốc này, Hưng Nhượng Vương đă lập nên kỳ tích trong trận thắng Bạch Đằng Giang năm 1288, khiến cho sau khi ngài qua đời năm 1313, nhân dân đồn rằng Đức Ông Trần Quốc Tảng hiện về nhắc nhở, nên đă xây Đền thờ Ngài cùng nhiều tướng lĩnh ở ngay trên đỉnh núi nh́n ra Bái Tử Long.

Ngày nay ngôi Đền Cửa Ông toạ lạc trên núi cao, không khác ǵ một trạm gác tiền tiêu nh́n ra Vịnh Bái Tử Long, khiến cho hậu thế có nhiều người thắc mắc rằng có thật là hai vị tướng danh tiếng đó do v́ có tội nên bị điều ra tận nơi biên cương ấy, hay phải chăng đây cũng là một trong những “bí truyền thư” mà Đức Thánh Trần đă lưu lại để dạy bảo cho chúng ta?

 

Đền Cửa Ông không khác ǵ một trạm gác tiền tiêu nh́n ra Vịnh Bái Tử Long

 

Khi bí mật không c̣n là bí mật

 

Cách đây gần 10 năm, trên mạng thông tin quốc tế có một tấm bản đồ thật thú vị: H́nh một con rồng rất đẹp mà đầu th́ ở dăy núi Hy Mă Lạp Sơn (đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây Bắc Đông Nam của dăy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đă kết thúc ở vùng đại dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m).

Đó là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như h́nh con rồng, tạo ra mạch núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước ta.

 

Sơ đồ đại địa mạch

 

Thế mới biết tại sao vùng đất này luôn luôn bị người ngoài thèm khát và ḍm ngó. Và thế mới biết sự uyên bác kỳ tài của Thiền sư Vạn Hạnh và Vua Lư Thái Tổ đă quyết rời bỏ Hoa Lư, để trở về vùng đất Thăng Long và triệt phá được thiên la địa vơng mà Cao Biền đă trấn yểm trên thành Đại La cũ 200 năm trước.

 

Cho đến hôm nay, tất cả những người có chút hiểu biết về phong thủy và lư thuyết về địa mạch th́ đă hiểu rằng tất cả mọi bí mật xa xưa về đường kinh mạch, về huyệt đạo linh thiêng mà chỉ có các thầy pháp cao tay mới nắm giữ được, th́ nay đă bị phơi bày ra tất cả.

Cái chính là “thiên hạ” th́ biết cả, nhưng những người trong cuộc có ư thức được vấn đề và có những giải pháp mạnh để làm chủ các lợi thế đó hay không?

Nh́n vào sơ đồ “vi địa mạch”

Trở lại với địa h́nh núi sông trên miền Bắc nước ta, th́ có 8 dăy núi ṿng cung tạo thành h́nh rẻ quạt là dăy Đông Triều, dăy Ngân Sơn, dăy Bắc Sơn, dăy Tam Đảo, dăy Sông Gâm, dăy Hoàng Liên Sơn , dăy Sông Đà và dăy Hoà B́nh, trong đó Hoàng Liên Sơn nối từ Hy Mă Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương (3143m).

Hướng đi của các dăy núi đều h́nh thành các con sông như sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu…

Thế nhưng các dăy núi chỉ “chầu” nên đều đă dừng lại từ xa, c̣n các con sông th́ đă “tụ” lại ở Việt Tŕ và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đă “mọc” lên ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba V́ linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh núi này nh́n theo đường chim bay th́ chỉ cách Hồ Tây chừng 25km.

Nhờ khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lư Thái Tổ đi từ sông Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa xuân năm 1010, nhà vua có thể nh́n thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa nh́n thấy đỉnh Ba V́, nên cái tên Thăng Long và tứ văn “Đắc Long bàn Hổ cứ chi thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi” mới xuất hiện trong bản Thiên đô chiếu bất hủ.

 

Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng t́m thấy đỉnh cao 1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một đường kinh mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đă có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa, đă và sẽ măi măi là một quân cảng quan trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc.

Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi người quen gọi là Trục Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và cũng là Kinh đô hơn 1000 năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp pḥng tuyến sông Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lư Thường Kiệt và Ngă ba sông Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập đại bản doanh chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288.

Kỳ lạ thay, đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ quỷ, lộc có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ?

Những người có chút tính hiếu kỳ không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở 21 độ vĩ bắc 3’ 28’’ từ đỉnh Ba V́ và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là huyệt đạo quốc gia.

Tại sao có cái tên đó? Tại v́ nơi đó vẫn sủi bọt mỗi khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái b́nh thông nhau. Nhiều người vẫn c̣n nhớ vào chiều thu nắng đẹp ngày 11/9/1955, người ta đă chứng kiến chính nơi đó đă có cột nước bất chợt phụt lên làm lật úp ba chiếc thuyền gỗ khiến 4 người bị thiệt mạng.

Tiến sĩ Vật lư Nguyễn Thế Hùng ở Viện Vật lư nghe mô tả lại hiện tượng đó th́ đoán rằng chắc có kẻ nào đó đă chui xuống đáy hồ sờ soạng, khiến mạch nước có áp suất lớn bỗng bật lên như khi người ta mở nút chai rượu champagne?

 

Cảng Vân Đồn

Am Mỵ Châu thờ ai?

 

Lúc sinh thời, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng rất hay được mời đi nói chuyện ở nơi này nơi khác. Với giọng nói đầy tự tin, giàu h́nh ảnh và hơi ngang ngang, giáo sư Vượng có cách truyền đạt ư tưởng rất thuyết phục, khiến cho người nghe chưa tin lắm mà vẫn phải tin, đặc biệt với người không theo học ngành sử, hiểu biết sử liệu rất ít mà cũng trở thành rất “am hiểu” về lịch sử. Xin kể đôi điều câu chuyện ông giải thích về am Mỵ Châu ở thành Cổ Loa như sau.

Trong một dịp ngày 8 tháng 3, chúng tôi được nghe một bài giảng của giáo sư Trần Quốc Vượng về tầm quan trọng của Cổ Loa Thành và am thờ nàng Công Chúa Mỵ Châu đối với Thủ đô của chúng ta.

Giọng đầy vẻ bí mật, giáo sư Vượng hỏi:

– Các cô có hiểu tại sao hơn 2000 năm qua, nhân dân ta, kể từ vua chúa đến thường dân đều thành kính thờ một người con gái cụt đầu có tên là Công chúa Mỵ Châu trong một cái am nho nhỏ ở Đền Cổ Loa hay không?

– Dạ không

Đó chính là ta thờ Người Mẹ Tổ Quốc của chúng ta đó. Chuyện t́nh duyên của Mỵ Châu Trọng Thuỷ là chuyện bịa đặt, nhưng chuyện dân tộc ta v́ quá nhân hậu và thiếu cảnh giác nên trót đặt trái tim lên đầu để Triệu Đà cướp mất nước là có thật. Đạo gốc của dân tộc ta là Đạo Mẫu. Bản chất người mẹ là bản chất nhân hậu và dễ bị lừa.

Xưa kia dân tộc ta đă từng bị lừa, bởi vậy nàng Công Chúa Mỵ Châu cụt đầu là hiện thân của Người mẹ Tổ quốc đă và đang đau khổ nhắc ta phải luôn cảnh giác.”

– Vậy câu chuyện nỏ thần là có thật hay không?

– Không! Ta có một bí mật quốc gia quư hơn nỏ thần nhiều nhưng không ai ăn cắp được. Từ 2000 năm trước bí mật đó đă không c̣n là bí mật nữa rồi, nhưng kẻ thù đă từng ra sức phá. Ta đừng quên ta đang có báu vật trong tay.

– Vậy làm cách nào để khắc phục?

– Thiên cơ bất khả lộ. À, có cô nào thích xem tử vi không?

– Có ạ, có ạ!

– Tốt, tôi sẽ lập lá số cho từng người và sẽ có lời khuyên riêng từng người.

Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng rất giỏi khoa tử vi, ông chỉ hỏi ngày sinh tháng đẻ rồi bấm bấm ngón tay mấy cái là phán như thánh phán.

Ông cười nhạo, nói: “Tử vi liên quan đến số phận riêng của từng người th́ ai cũng quan tâm, nhưng cứ giấu giấu giếm giếm như kẻ ăn vụng. C̣n có cái khác quan trọng hơn Tử vi liên quan đến vận mệnh đất nước th́ hễ ai quan tâm đều bị coi là nhảm nhí. Thế mới khổ!” 

 

Trần Thanh Vân

 

May 8, 2015

 

Đôi điều về phong thủy Hà Nội

 

 

Tưởng nhớ Đức Thái phó Lưu Khánh Đàm – Người dâng kế dời đô

 

Từ góc nh́n phong thuỷ, bàn về thế lớn trong thiên hạ, với tŕnh độ c̣n thấp kém song được sự cho phép của Trưởng ban phong thuỷ/ Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, tôi mạo muội có đôi điều như sau:

 

1. Việt Nam có bốn long mạch chính

 

Từ bản đồ vệ tinh trên trang web: www.wikimapia.org, dễ dàng nhận thấy địa h́nh của Việt Nam gồm có bốn long mạch chính:

Mạch núi Trường Sơn: Phát nguyên từ cao nguyên Thanh Tạng hành long qua Vân Nam, Thượng Lào vào Miền Trung Việt Nam tạo thành dăy Trường Sơn kéo dài đến tận Miền Nam. Bên tả có Biển Đông, bên hữu có sông Mê Kông làm giới hạn long mạch.

 

Mạch núi Ba V́: Phát nguyên từ cao nguyên Thanh Tạng hành long qua Vân Nam vào Miền Bắc Việt Nam, qua Lào Cai, Yên Bái, Hà Nội, Nam Định đến Ninh B́nh, Thanh Hoá giới hạn bởi sông Hồng và sông Mă (sông Đà). Long mạch này đi thẳng, ít phân chi nhánh, khiên liên, hùng cường và khí mạch vượng nhất.

Mạch núi Tam Đảo:  Từ Vân Nam vào Miền Bắc Việt Nam, qua Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên tới Thái B́nh.

 

Mạch núi Huyền Đỉnh: Từ dăy Thập vạn đại sơn Quảng Đông/ Trung Quốc qua Quảng Ninh đến Hải Pḥng, Hải Dương, một chi ra biển tạo thành dăy đảo của Vịnh Hạ Long, một chi qua Đông Triều, Phả Lại vào Bắc Giang, Bắc Ninh.

 

2. Đồng bằng châu thổ sông Hồng

 

Ba dăy núi Ba V́, Tam Đảo, Huyền Đỉnh cùng hệ thống sông Hồng, sông Mă chầu về tạo lên vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng tương đối rộng với thế nghiêng Tây Bắc - Đông Nam. Đó cũng là hướng đi của mạch núi Ba V́, mạch núi này có ảnh hưởng chính lên độ nghiêng của Đồng bằng châu thổ sông Hồng.

 

Vấn đề đặt ra là: Trên đất nước Việt Nam th́ phải chọn nơi nào làm Kinh đô ?

 

Trước hết phải dựa vào long mạch: Rơ ràng trong bốn mạch núi Trường Sơn, Ba V́, Tam Đảo và Huyền Đỉnh th́ mạch Ba V́ là hùng mạnh nhất với Tông sơn là đỉnh Phanxiphăng - nóc nhà của Đông Dương cao đến 3.143 m.

 

Thứ  hai là phải dựa vào thuỷ: Lập kinh đô th́ phải chọn nơi thuỷ tụ v́ nước chủ về tiền tài, các thành phố lớn trên thế giới đều ở bên một con sông. Xem ra, trong vùng Bắc Bộ chỉ có 2 điểm thuỷ tụ lớn nhất đó là Hà Nội và Chí Linh/ Hải Dương (Hà Nội là nơi giao hội của 3 con sông: sông Thao, sông Đà, sông Lô tạo thành sông Hồng; Chí Linh là nơi giao hội của Lục đầu giang, xưa kia Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An và Nguyễn Trăi... đă chọn Chí Linh làm nơi ở). Nhưng Chí Linh không phải là nơi hội tụ của các con sông lớn lên không thể so sánh được với Hà Nội.

 

Thứ ba là phải dựa vào địa thế: Theo thuyết âm dương th́ kinh đô phải là nơi trung tâm của trời đất để cai quản bốn bề, nơi giao hoà, cân bằng giữa âm và dương. Đồng bằng Bắc Bộ với thế nghiêng Tây Bắc - Đông Nam th́ rơ ràng Hà Nội là nơi cao và sáng sủa hơn hẳn.

 

3. Núi Ba V́

 

3.1. Ba V́ - Một vùng đất sơn thủy hữu t́nh

 

Long mạch đi khiên liên hùng dũng từ Vân Nam về Lào Cai, Yên Bái rồi băng hồng qua ḍng sông Đà thoát bớt sát khí, khởi đột lên thành phụ mẫu sơn - núi Ba V́, đáo đầu quay ngang khai trướng (mở ṿng cung) về phía sông Hồng. Ở những mạch băng hồng như thế thường hay có quư địa.

 

Địa huyệt các thành phố lớn trên thế giới với thế long tả toàn hay hữu toàn thường chỉ thu được một bên nước long thân từ tổ tông sơn chảy về. Hiếm có nơi nào như địa huyệt Ba V́ - Hà Nội thu được cả lưỡng thuỷ thiếp thân là sông Đà và sông Thao (chỉ có huyệt kết ở đại cán long mới thu được cả hai bên thiếp thuỷ thân); hơn nữa c̣n thu được cả khách thuỷ sông Lô.

 

Lượng nước sông Đà và sông Thao gần như tương đương, rất nhiều và rất mạnh, điều đó chứng tỏ dăy núi Phanxiphăng là một đại cán long ít phân chi nhánh, đi thẳng và liên tục, khí mạch rất hùng cường, đó là một thế núi hiếm có.

 

Núi Ba V́ quay ngang  khai trướng nh́n thủy tụ, ḍng sông Hồng uốn cong như muốn lưu luyến ôm ṿng về phía núi Ba V́, quả là một vùng đất sơn thủy hữu t́nh.

 

3.2. Ngũ hành tinh thể, lưu ư Thủy và Thổ h́nh

 

“Long vô Thủy tinh bất thành biến hóa. Long vô Thổ tinh bất thành thượng cách”. Nghĩa là long mạch mà không có Thủy tinh th́ không biến hóa, không có Thổ tinh th́ không phải long quư thượng cách. Trong ngũ hành, lực lượng phát động tối đại là Thủy, yên tĩnh mà tối trọng hậu là Thổ.

 

Nếu long mạch mà không có Thủy tinh th́ long cương trực, ngoan ngạnh tức là một phiến sơn sát triệt, đúc kết làm sao được. Nếu thấy núi có găy khúc hoặc uốn cong như h́nh sóng nước động cồn lên tức là có Thủy tinh dẫn đi trước, hẳn là kết chân huyệt; nếu không có Thủy h́nh th́ không kết huyệt.

Trên đỉnh núi mà hiện lên một h́nh Thổ tinh như cái b́nh phong th́ lực lượng long mạch rộng lớn, quyết đoán là kết đại quư. Nếu không có Thổ b́nh th́ không phải long hậu trọng, quyết nhiên không hay kết đại địa; dầu có Hỏa tinh, Mộc tinh đứng giữa trời th́ cũng chỉ kết tiểu địa.

 

Vậy, không biết Thủy tinh th́ không phân biệt được có đất kết hay không. Không biết Thổ h́nh th́ không biết rơ đấy là đại địa hay tiểu địa. Thủy và Thổ là “Long gia chi mệnh mạch”.

 

Thủy và Thổ là 2 lực lượng vật chất rất lớn. V́ vạn vật sinh ra ở Thổ, khi trở về cũng ở Thổ; mà Thổ lại phải nhờ Thủy mới nuôi sống được muôn vật. Chỉ có Thủy mới sinh sinh bất diệt, chỉ có Thổ  mới gánh đội được hết thảy. Long có đủ Thủy tinh mới đủ sinh khí, có đủ Thổ tinh th́ mới tải nổi muôn vật. Nên có câu “Vô thủy bất sinh, vô thổ bất thành”.

 

Nếu chỉ thấy Mộc, Hỏa, Kim tinh đứng sừng sững giữa trời mà mừng khoái, cho là quư th́ không thể cùng bàn nói chuyện địa đạo được.

 

3.3. H́nh tượng, tinh thể của núi Ba V́

 

Xét về h́nh tượng, Ba V́ là một thế núi phượng hoàng sải cánh (phi phụng), nó khai trướng về phía sông Hồng, khoảng giữa Hà Nội và Sơn Tây.

Với độ cao gần 1.300m, nó cung cấp khí mạch cho vùng đất rộng lớn bao gồm Hà Nội và Hà Tây cũ, giới mạch là sông Hồng.

Khí mạch của Ba V́ toả đi các hướng nhưng có lẽ thịnh vượng nhất vẫn là nơi gần sông (khí chỉ thuỷ giới ) và về phía Ba V́ khai trướng.

Tinh thể của một ngọn núi là ǵ th́ phải tuỳ theo góc độ của người quan sát, tức là phụ thuộc vào địa điểm đứng nh́n. Chẳng hạn như cùng một quả núi, nếu nh́n phía trước th́ ra h́nh Kim, nhưng nh́n từ phía sau lại ra h́nh Hoả. Bởi vậy, cùng một ngọn núi, tinh thể của nó chiếu về các phương là khác nhau, nên kiểu cách kết huyệt khác nhau, cát hung cũng khác nhau.

 

Để quan sát núi Ba V́ nên bám sát bên ḍng sông Hồng, chọn địa điểm Hà Nội và Sơn Tây và khoảng giữa của 2 địa điểm này.

Theo Chính ngũ hành: Trên cả đoạn quan sát ta đều thấy tổng thể Ba V́ mang hành Thuỷ mọc cao gọi là Trướng thiên thuỷ. Như vậy, có thể đoán rằng dải đất từ Hà Nội đến Sơn Tây, Ba V́ sẽ kết thành nhiều huyệt (trong đó có địa danh Đường Lâm).

 

Nhưng từ phía Hà Nội sẽ nh́n thấy rơ núi U Ḅ mang Thổ h́nh như một bức b́nh phong lớn đứng giữa lưng trời, tại Sơn Tây lại không nh́n thấy rơ. Cho nên có thể kết luận rằng khu vực Hà Nội là nơi kết đại địa.

 

Theo lục phù tinh: Trên núi Ba V́ lại khởi lên vài ngọn nhỏ nữa đó là "phong thượng khởi tinh phong". Đứng xa đều trông thấy rơ tinh phong này, quyết đoán vùng đất này có quư huyệt, không sai. Ngọn chính giữa của núi Ba V́ là Tản Viên mang Hoả h́nh đó là bút "Ḱnh thiên" (bút chống trời), với h́nh thể ở giữa thắt ngẫng, trên xoè ra như cái lọng là "tôn quư chi khí sở sinh". Nơi nào đón được khí mạch của nó sẽ kết thành kỳ huyệt.

 Nh́n từ phía Sơn Tây, Ba V́ có ba đỉnh chính nhô cao tạo thành ngọn núi Tam Thai rất đẹp. Trong phong thuỷ th́ Tam Thai, Ngũ Nhạc, Thất Tinh... đều là thế núi cát tường.

 

4. Trung tâm Hành chính Quốc gia

 

Thủ đô Hà Nội đă một ngh́n năm tuổi. Trong Chiếu rời đô, Lư Thái tổ đă viết: Đó là nơi rồng cuộn, hổ ngồi ( "long bàn hổ cứ" không hẳn là rồng chầu, hổ phục như một số dịch giả đă viết). Nếu tại trung tâm thành phố nh́n theo hướng Bắc - Nam sẽ thấy bên trái - thanh long, ḍng sông Hồng cuộn khúc; bên phải - bạch hổ, núi Ba V́ an toạ uy nghi.

 

Trung tâm Hành chính Quốc gia được xác định bởi nhiều yếu tố, song có lẽ 2 yếu tố đáng quan tâm nhất là: Thời b́nh và thời chiến. Thời b́nh nên ở nơi bằng phẳng, rộng răi, đô hội, giao thương phát triển. Thời chiến  phải ở nơi trú ẩn an toàn, vùng núi non hiểm trở.

 

Theo thuyết phong thuỷ th́ bên trái - thanh long phát văn, bên phải - bạch hổ phát vơ. Vậy thời b́nh nên để Trung tâm Hành chính Quốc gia ở gần phía sông Hồng để tập trung phát triển đất nước, thời chiến có thể lui về chân núi Ba V́ để dụng vơ là một kế sách hợp lư và sáng suốt.

 

Theo ḍng lịch sử từ xa xưa đến nay, thuở Vua Hùng dựng nước đóng đô ở Việt Tŕ, An Dương Vương đóng đô ở Đông Anh, Nhà Đinh và Tiền Lê ở Hoa Lư, Nhà Hồ ở Thanh Hoá, Nhà Mạc ở Cao Bằng, Nhà Nguyễn ở Huế, Chế độ Mỹ - Nguỵ ở Sài G̣n, chưa nơi nào có cả sơn lẫn thuỷ đủ sức mạnh để làm chủ địa h́nh Việt Nam. Chỉ có Hà Nội - Nơi địa linh mới xứng tầm làm đế đô của muôn đời.

 

"Thăng Long đệ nhất đại huyết mạch, Đế vương quư địa :

Đại Việt hữu chi địa (nước Đại Việt có một ngôi đất).

Thăng long thành tối hùng (Thăng Long tối hùng mạnh).

Tam hồng dẫn hậu mạch (ba con sông lớn dẫn hậu mạch là sông Thao, sông Lô, sông Đà).

Song ngư trĩ tiền phương (hai con cá dẫn đường, chính là băi Phúc Xá ngoài sông Hồng).

Tản lĩnh trấn Kiền vị (núi Tản Linh trấn tại phương Kiền – Tây Bắc).

Đảo sơn đương Cấn cung (núi Tam Đảo giữ phương Cấn - Đông Bắc).

Thiên phong hồi Bạch hổ (ngh́n ngọn núi dăy Phanxiphang quay về Bạch hổ - Dăy núi Ba V́).

Vạn thủy nhiễu Thanh long (muôn ḍng nước từ ba con sông Thao, Lô, Đà đều tụ lại, chảy về nhiễu Thanh Long – Ḍng sông Hồng).

Ngoại thế cực trường viễn (thế bên ngoài rất rộng và xa, tất cả cá núi non cả 3 dăy núi Ba V́,  Tam Đảo, Huyền Đinh đều chầu về).

Nội thế tối sung dong (thế bên trong rất mạnh mẽ, đầy đặn).

Tô giang chiếu hậu hữu (sông Tô lịch chiếu từ phía sau, bên phải).

Nùng sơn cư chính cung (núi Nùng đóng tại chính cung).

Chúng sơn giai củng hướng (tất cả núi non đều hướng về rất đẹp).

Vạn thủy tận chiều tông (là nơi tận cùng, hợp lưu của mọi ḍng nước từ thượng nguồn dẫn khí mạch về).

Vị cư cửu trùng nội (là nơi ở của vua chúa -cửu trùng, đất làm kinh đô).

Ức niên bảo tộ long (có thể bền vững tới 10 vạn năm).

Cầu kỳ Hổ bất bức (nhưng cần phải di dịch để Bạch Hổ không bức cận huyệt).

Mạc nhược trung chi đồng (cùng đó, đừng t́m huyệt ở chi giữa)".

 

Trên đây là một số suy ngẫm thiển cận của hậu sinh, chắc có nhiều thiếu sót, lệch lạc thậm chí sai lầm. Kính mong các vị cao nhân tiền bối, các bậc lăo thành trong khoa học tham gia ư kiến để hậu sinh được sáng tỏ đạo trời. Tôi vốn sinh ra và lớn lên ở thôn Lưu Xá - xă Canh Tân - huyện Hưng Hà - tỉnh Thái B́nh, quê hương của Quang lộc đại phu súy thành tá lư công thần, nhập nội thị sảnh đô, đô tri tiết độ sứ đồng tam ty B́nh chương sự, thượng trụ quốc, khai quốc công thần, thực ấp 6.000 hộ, thực phong 3.000 hộ, thái úy quốc công, gia thái phó Lưu Khánh Đàm - Người đă dâng Kế rời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La cho Lư Thái tổ, mở ra một trang sử hào hùng. Hà Nội đă một ngh́n năm tuổi, Chiếu rời đô thuở nào vẫn c̣n nguyên giá trị cho hôm nay và mai sau. Thiết nghĩ việc chọn nơi đặt Trung tâm Hành chính Quốc gia cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để xứng với Tiền nhân mở nước, để dân tộc Việt Nam cường thịnh, măi măi vững bền./.

 

           

TRỊNH TẤN CƯỜNG

 

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of American Scientist

Thư Viện Quốc Gia

Tự Điển Bách Khoa VN

Bảo Tàng Lịch Sử

QLVNCH

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Vatican?

RomanCatholic

Khoa HọcTV

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten