MINH THỊ
'
Người quốc gia là người đặt quyền lợi của tổ quốc và dân tộc lên bản vị tối thượng chứ không tranh quyền, đoạt lợi cho cá nhân, phe nhóm, đảng phái hay bầy đàn tôn giáo của ḿnh.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
Lời Thú Tội của một Kư giả trong việc Tường Tŕnh về Hillary –
5 Qui lệ bất thành văn của giới truyền thông về Hillary
(Confessions of a Clinton reporter: The Media‘ s 5 unspoken rules
for covering Hillary - by Jonathan Allen - updated July 6, 2015)
Công việc của một phóng viên là “an ủi những kẻ khổ sở và làm cho những kẻ đang thoải mái phải đau khổ” –- một tôn chỉ mà khôi hài thay lúc đầu được viết để bôi bác bản chất “ta đây đúng” của các kư giả. Thế nên sự biện minh cho việc theo đuổi một nhân vật có tên tuổi trong quần chúng gia tăng theo tỷ lệ với tầm vóc của họ. Nhân vật càng quyền cao chức trọng th́ việc theo đuổi càng ráo riết.
Sau một phần tư thế kỷ trên sân khấu chính trị quốc gia, không có nhân vật chính trị thoải mái nào đáng bị hành tội hơn Hillary Clinton.Và bà ta sẽ chịu nhiều phiền muộn trong một năm rưỡi tới đây.
Thường thường đây là một phương cách tốt để các phóng viên hành nghề. Nói cho cùng, khi một kẻ muốn có quyền lực nhiều chừng nào trong một nước cộng ḥa, th́ cử tri lại càng nên biết nhiều thêm về họ. Điều này cũng là cái khung cơ bản để suy nghĩ về mối quan hệ độc hại - lâu dài giữa Clinton và giới truyền thông, là tại sao việc tường tŕnh về Hillary lại khác biệt với việc tường tŕnh các ứng cử viên tranh cử Tổng thống khác, và liệu sự khác biệt này có gây nên những biến dạng/méo mó mà sau cùng sẽ ảnh hưởng cuộc tranh cử Tổng thống.
Những qui lệ về Clinton được nung nấu bởi sự mong mỏi của các phóng viên và biên tập viên là dành cho cho cái giải thưởng tối hậu của nghành báo chí hiện đại: là t́m được một tin sốt dẽo có thể hạ bệ Hillary Clinton và đế chế chính trị của gia đ́nh bà trước ai hết. Ít nhất về phương diện này, những người của đảng Cộng Ḥa và truyền thông có cùng chung quyền lợi.
V́ là đồng tác giả của một cuốn sách viết về việc Bill và Hillary đă xử dụng thời gian Hillary làm việc cho bộ Ngoại giao để tạo dựng guồng máy chính trị cho gia đ́nh và dọn đường cho việc họ phát động chiến dịch tranh cử lần thứ tư, tôi rất hiểu những năng- động tác dụng hỗ tương giữa các quyền lực này (Tác giả Jon Allen cùng với Amie Parnes viết cuốn sách lọai bán chạy nhất (the best –sellers) với nhan đề “HRC: State Secrets and the Rebirth of Hillary Clinton”). Như thế nghĩa là tôi đă nghiên cứu, t́m ṭi rất kỹ về mối liên hệ của Clinton với giới truyền thông và chính tôi đă có kinh nghiệm trực tiếp.Trên cương vị một người viết sách, tôi cảm thấy có bổn phận đối với bản thân và đối với độc giả trong việc báo cáo, điều tra và viết với sự tổng hợp của ḷng ṭ ṃ, sự nghi ngại, sự toàn diện, sự thấu đáo về mọi mặt và cả ḷng quan hoài (compassion) mà tôi vẫn dùng cho bất cứ đề tài nào khác. Dĩ nhiên tôi muốn bán sách. Và việc dễ dàng nhất là viết về gia đ́nh Clinton như thể họ là những kẻ tàn độc nhất trên đời. Điều đó cũng đúng với việc báo cáo tin tức hàng ngày. Muốn cho người ta ghé vào website ḿnh ư? Viết một chuyện xấu xa về Clinton, nhất là Hillary.
Là một phóng viên, tôi bị kẹt phải xử dụng các qui lệ về Clinton. Đây là việc mà tôi đă thấy ở các đồng nghiệp và ở chính tôi.
Qui Lệ 1:
Bất cứ chuyện ǵ dù có vẻ lố bịch đến đâu, đều đáng được các cơ quan Liên bang, Quốc Hội, Nhóm âm mưu cánh-hữu đầy quyền lực (the vast right-wing conspiracy) và các tổ hợp truyền thông, báo chí điều tra đến nơi đến chốn.
Một trong những bạn đồng nghiệp cũ của tôi, một phóng viên rành nghề đă có vô số chiến lợi phẩm - tức là thành tích triệt hạ các chính trị gia - có một lần nói với tôi rằng bất cứ ai trong công quyền đều đang che dấu một chuyện ǵ. Ai sẽ bị ch́m xuồng trong một vụ tai tiếng? Đó là những chính trị gia mà chúng ta quyết tâm truy đuổi.
Điều đó có thể không đúng 100 phần trăm nhưng cũng khá đúng. Việc lựa chọn một cá nhân để theo dơi hoài hoài, hết lần này đến lần khác, làm cho tiếng tăm người này bị nhơ nhuốc, ngay cả khi vụ điều tra hay báo cáo rốt cuộc không t́m ra được chuyện chi xấu xa hay tội lỗi cả -- và đó cũng là thời gian mất đi v́ các phóng viên đă không điều tra ǵ về các địch thủ của họ. Nguồn gốc của việc tố cáo này có thể phát xuất từ đảng đối lập, từ những người cùng đảng, hay từ sự quan sát và việc đào xới ngày đêm của chính phóng viên. Nhưng có hai việc rất rơ ràng: Nếu không có điều tra, sẽ không có tai tiếng (scandal). Và nếu không có tai tiếng, sẽ không có việc lột da đầu ai làm chiến phẩm.
Gia đ́nh Clinton đă bị điều tra liên tục khoảng 25 năm nay. Ai cũng biết rằng họ cung cấp thông tin cho các điều tra viên, luật sư và kư giả về t́nh h́nh tài chánh, về các thương thảo doanh nghiêp hay từ thiện, về tiến tŕnh quyết định trong chính quyền nhiều hơn bất cứ một viên chức nào trong lịch sử Mỹ. Họ đă nh́n thấy vô số bạn bè bị c̣ng tay sau lưng dẫn vào phiên xử tại Quốc hội,và trong vài trường hợp, bị tống vào ngục. Họ biết rằng bất cứ lời tuyên bố nào của ḿnh cũng có thể bị ghi vào hồ sơ và bị (đối phương hay nhà báo) vặn vẹo cho mục tiêu chính trị.
Hai chuyện buộc tội không bằng chứng và phi lư nhất đối với Hillary trong cuộc đời chính trị của bà –cho tới nay -- là chuyện Hiillary có dính dáng đến vụ tự tử của Vincent Foster, một phụ tá của Clinton tại Ṭa Bạch ốc và Hillary cũng chịu trách nhiệm về việc quân khủng bố tấn công và giết chết Đại sứ Mỹ Chris Stevens tại Libya. Hai chuyện này như hai tấm b́a chận sách ở hai đầu (bookends). Và ở giữa là Travelgate, Filegate và Whitewater. Có chuyện chính đáng nhiều, có chuyện chính đáng ít.
Khi Clinton bỗng nhiên tuyên bố rằng vợ chồng bà “trắng tay” khi họ rời Ṭa Bạch Ốc, đó là bởi v́ họ đă dùng tất cả tiền bạc vào việc đối phó trước những cuộc điều tra tới tấp, tối tăm mặt mũi, kéo dài 8 năm.
V́ thế, có thể hiểu tại sao vợ chồng Clinton lại có đầu óc nghi kỵ khi nghe nói đến chuyện minh bạch hóa. Nhưng sự ám ảnh về việc người khác hại ḿnh làm cho họ thành bí mật, và sự bí mật của họ lại làm cho các người đảng Cộng Ḥa và giới báo chí nghi ngờ họ đă làm chuyện sai trái. Điều này thúc đẩy việc điều tra vốn chỉ làm cho vợ chồng Clinton càng quyết giữ bí mật. Nỗi ám ảnh bị bách hại và việc điều tra không ngừng đă nuôi nhau, củng cố nhau trong cái chu kỳ vô tận của tấn công và chống trả.
Trong khi đó, giới chính trị gia và quần chúng bị bắt buộc phải chọn một trong hai phe bất toàn: một bên là cặp vợ chồng quyền lực h́nh như luôn luôn giấu diếm chuyện ǵ và bên kia là cơ chế tập hợp của nhóm điều tra ở Washington quá lộ liễu tinh thần phe đảng và tỏ ra thất bại trong khả năng chứng tỏ một hành vi lỗi lầm/sai trái trầm trọng.
Đối với các người theo đảng Cộng Ḥa, đây là một chiến lược hợp lư. Họ biết rằng nếu họ cứ tiếp tục điều tra Hillary, chuyện này sẽ làm một công hai việc: thứ nhất là giữ cho giới truyền thông cứ tiếp tục viết về những chuyện tai tiếng, và thứ hai là làm nản ḷng những cử tri không muốn trở lại cái thời điểm giới chính trị tàn sát nhau của những nàm 1990. Phe Cộng Ḥa tiết lộ một phần câu chuyện cho các phóng viên đang đói ḷng chờ một cái tin ác liệt, ngon lành, tin này sẽ giúp họ đạt được cái phần thưởng chính trị vĩ đại nhất trong các phần thưởng. Nhưng những người này (CH) cũng sai lầm khi quá vội vàng (jump the gun) buộc tội Clinton làm chuyện sai trái, và điều này cho phép bà ta tự bảo vệ ḿnh bằng cách chỉ ra những điều vô lư và điên rồ của phe đối nghịch.
Qui Lệ 2:
Tất cả những cáo buộc, dù lố bịch đế đâu, đều đáng tin tưởng cho đến khi chuyện này được chứng minh là hoàn toàn sai, tuyệt đối sai. Và ngay cả khi ấy th́ câu chuyện vẫn tiếp tục sống mạnh trong giới truyền thông bảo thủ.
Năm 2014, khi đi ṿng quanh nước Mỹ để cổ động việc bán sách, đồng tác giả và tôi đă bị thiên hạ liên tục t́m cách thuyết phục chúng tôi phải xác định một cách quả quyết rằng Hillary là một phụ nữ đồng tính luyến ái. Một người đàn ông đă đ̣i hỏi chúng tôi phải lập tức nói đến vấn đề này trong buổi Hỏi và Đáp tại một tiệm Barnes và Noble ở vùng Upper West Side của Mahattan, nơi mà bạn nghĩ rằng loại chuyện này sẽ không xảy ra.
Tờ National Enquirer trong tháng 4 đăng một câu chuyện cáo buộc Clinton xóa sạch máy computer riêng v́ nó chứa đựng những tài liệu có thể t́m ra các t́nh nhân đồng tính luyến ái của bà.
Trong khi đó, giới truyền thông bảo thủ cũng tin tưởng chắc chắn rằng Hillary sẽ gây chiến với Thiên Chúa giáo nếu bà ta đắc cử Tổng thống. Nhưng một điều được khám phá ra trong những email tại bộ Ngoại giao là Clinton chia sẻ những suy ngẫm về tôn giáo hàng ngày với bạn bè.
.
Đề tài: Điều suy ngẫm hôm nay:
“Lên tiếng cho những ai không thể cất tiếng nói, lên tiếng cho quyền của tất cả những ai khốn khổ. Lên tiếng và phê phán một cách công bằng; bênh vực quyền của những người nghèo khó và thiếu thốn”. Proverbs 31:8-9
Không chỉ là các sự cáo buộc “lạc quẻ” (out-of-the-box) đă làm cho guồng máy truyền thông quay cuồng. Một năm trước khi Cheasea Clinton lập gia đ́nh, nhân viên làm việc cho Clinton bị bận rộn bởi các kư giả của truyền thông gịng chính (mainstream) v́ các kư giả này nhất định tin tưởng rằng cô ta đă lo xong xuôi những hôn ước bí mật.
Bàn về những chuyện nghiêm túc hơn, bạn có nhớ cơn “cảm cúm” Benghazi ?
Nhiều đối thủ chính trị và thành viên của nghành truyền thông không thể chấp nhận chuyện Clinton đă bắt buộc phải bỏ cuộc trần t́nh trước Thượng Viện về Benghazi v́ bà ta đă bị bất tĩnh nhân sự sau khi ngă đập đầu xuống đất.Giờ đây, 3 năm sau, nghĩ rằng Clinton đă kiếm cớ tránh né chuyện này th́ thật khôi hài v́ bà ta đă tường tŕnh một cách long trọng (testified) tại cả hai phía của Quốc Hội –hoặc cho rằng như Karl Rove gợi ư là Hillary bị tổn thương năo bộ. Và nếu bà ta bịa chuyện bị ngất v́ đập đầu xuống đất để khỏi ra tường trinh (trước Thượng Viện) th́ làm sao bà ta lại có thể bị tổn thương năo bộ v́ một cú té giả vờ?
Nhóm kiểm soát /gạn lọc tin tức (echo chamber) của giới truyền thông bảo thủ cứ chuyển qua chuyển lại những nhận xét độc địa từ Rush Limbaugh qua Fox News, để chắc chắn rằng những gịng chữ tác hại nhất trong một câu chuyện – sự thật hay hư cấu – sống măi. Chuyện tấn công Benghazi là một ví dụ toàn hảo. Các tên khủng bố giết bốn người Mỹ. Nhóm gạn lọc/kiểm soát tin tức bảo thủ có vẻ chắc chắn rằng đây là lỗi của Hillary.
Lập luận nghe có lư là chúng ta (Mỹ) không nên nhăy vào Libya ngay từ đầu, và các vụ giết người này là móc xích cuối cùng, thành quả, của môt chính sách tồi tệ.Nhưng cánh hữu c̣n muốn chứng minh rằng chuyện xảy ra là do Clinton - đă làm hay - đă không làm - về các vấn đề an ninh.
Nhóm bảo thủ này nói về việc xin hỗ trợ cho Libya đă bị từ chối (họ không cần quan tâm đến việc tiếp tế cần nhất là phải cho Tripoli, không phải cho Benghazi, và không có bằng chứng rằng chính Clinton biết về việc yêu cầu này), họ nói về một lệnh từ trên ngăn chận sự tiếp viện tiến vào Benghazi (họ không quan tâm đến việc nếu có tiếp viện th́ cũng muộn v́ chỉ có thể đến đó sau khi cuộc chiến đă xong, và ngay cả một ủy ban của các dân biểu Cộng Ḥa cũng điều tra và cho biết không có một cái lệnh (order) như thế bao giờ. Và chuyện lố bịch, nhăm nhí nhất trong mọi chuyện nhăm nhí là Clinton biết vụ tấn công sẽ xảy ra. Sau đây là cách Linbaugh cáo buộc trong tháng Năm.
“Vấn đề là họ (Clinton) biết về cuộc tấn công Benghazi 10 ngày trước khi nó xảy ra.
Họ biết ai đă làm chuyện này.“
Sự tự do của giới truyền thông bảo thủ được quyền tung ra những cáo buộc ngoài sức tưởng tượng thường có tác động như một lực khủng khiếp buộc các phóng viên phải điều tra về những lời tố cáo đó, và làm như thế th́ lập đi lập lại những lời này. Khi mà những lời tố cáo kia được chứng minh (debunked) rằng chúng không những sai lạc mà c̣n thuộc một kế hoạch gạt gẫm (dư luận), th́ những lời cáo buộc này đă là một phần tâm thức tổng hợp của quần chúng Hoa Kỳ. Hay như người ta nói, là cái láo đi ṿng quanh thế giới trước khi sự thật ra khỏi gường.
Qui Lệ 3:
Giới truyền thông có định kiến rằng Hillary đang hành động với ư đồ xấu xa cho đến khi có những bằng chứng rơ rệt cho thấy ngược lại.
Một vấn đề phát xuất từ quan hệ tồi tệ giữa Clinton và các phóng viên là các nhà báo thường có định kiến rằng là Hillary đang hành động với ư đồ xấu xa. Chuyện này cũng có lư do. Mặc dầu Hillary đă có thêm những người mới vào nhóm lo việc liên hệ với báo chí trong cuộc vận động tranh cử này, lập trường họat động của bà đối với giới truyền thông vẫn luôn luôn phản ảnh phương cách thời Bill Clinton làm Tổng thống đối phó với các kư giả.
Trở lại giữa thập niên của những năm 90, Bill Clinton nhờ vào một số phát ngôn viên lăo luyện/xảo quyệt về chính trị (Machiavellan) không để cho các nhà báo lại gần. Thời Bill Clinton, phương cách đối phó (với kư giả) là t́m cách cản trở càng lâu càng tốt, nói láo nếu cần --- hoặc đôi khi - c̣n đặt câu hỏi ngược lại các kẻ đang t́m cách hỏi ḿnh. Dầu ǵ th́ Bill Clinton đă từng chỉ tay tại một cuộc họp báo và nói với các phóng viên,”Tôi không có quan hệ t́nh dục với người đàn bà ấy… Cô Lewinsky.” Sau đó ông ta cũng nói dối trong lời khai có tuyên thệ.
Bởi thế nên giới báo chí có nhiều tiền lệ khi tin rằng vợ chồng Clinton không sẵn sàng giao tiếp – và thỉnh thoảng, ngay khi có thể tiếp xúc với họ-- họ cũng đang giấu diếm một điều ǵ đó. Về phía gia đ́nh Clinton, với quá tŕnh của những cuộc điều tra có - khói - mà - không có lửa phát động chống lại họ, cũng có nhiều tiền lệ không tin tưởng nhà báo. Kết quả là một mối tương quan hỏng bét, không hoạt động được, về cả hai phía. Gia đ́nh Clinton tin rằng nhà báo hành xử với ư đồ xấu xa, c̣n giới báo chí th́ tin rằng thái độ của gia đ́nh Clinton đối với họ là bằng chứng của việc vợ chồng Clinton đang giấu chuyện ǵ.
Thái độ này tiếp tục xảy ra trong cuộc tranh cử của Hillary năm 2008 và một phần nào trong khi bà ta làm Ngoại trưởng. Đáp ứng tiêu chuẩn của bà cho một câu hỏi của phóng viên không phải là một câu trả lời. Đó là cách không để ư đến câu đó hay dùng phương pháp tranh luận của Socrate bằng cách hỏi ngươc nhà báo một câu khác. Thật rơ ràng là Clinton không thích giới báo chí chút nào, như Glenn Thrush và Maggie Haberman đă tường tŕnh năm ngoái.
Khi được hỏi v́ sao Clinton không cố gắng hơn trong việc tiếp nối với các phóng viên trong những năm qua, một nhân viên kỳ cựu của chiến dịch tranh cử của Clinton bắt đầu trả lời “quay” các lư do như,“Bà ta bận quá, bà ta hay nói thẳng quá, vân vân “
rồi bỗng dưng nói trắng trợn: ” Này, bà ta ghét các người. Chấm hết. Chuyện đó chẳng bao giờ thay đổi”.
Vào buổi diễn hành vào ngày lễ Độc Lập tuần trước, các phụ tá của Clinton dùng dây thừng làm thành một rào cản di động dă chiến để ngăn các phóng viên, không cho họ đến gần ứng cử viên và cử tri. Hillary đối với họ như đối với gia súc, và các phóng viên đáp lễ bằng cách chiếu video đó trên TV ba ngày liền.
Sự không tin tưởng của báo chí là một vấn đề tai hại của Clinton. Và v́ truyền thông là cái loa cho quần chúng, như vậy nên đâu có ai ngạc nhiên khi nhiều cử tri có khuynh hướng tin rằng Hillary thường hành động với ư đồ xấu xa. Hầu hết người Mỹ tin rằng bà ta không thành thật và không đáng tin cậy.Quan điểm này được chia sẻ bởi các kư giả và đai đa số quần chúng làm cho họ coi các hành động của Clinton như là đặc biệt tàn ác.
Chẳng hạn như trường hợp này:
Hillary kiếm được vô số tiền khi làm diễn giả được trả tiền cho giới thương mại trước khi làm việc cho chính phủ. Dĩ nhiên Jeb Bush cũng thế. Nhưng trước khi Bush tiết lộ về con số kế toán của vài buổi diễn thuyết mới đây, giới truyền thông rất ít quan tâm đến chuyện này. Hoan hô Ken Vogel của Politico trong việc “đào xới” ra tin này trong bài báo đăng ngày Thứ Năm. Sự mất thăng bằng trong việc nghĩ rằng Hillary có những động lực xấu xa khi chưa có chứng cớ là một cách khác làm cho Qui lệ về Clinton gây ra ảnh hưởng méo mó trong cái nh́n của quần chúng về bà ta. Và điều này lại cũng tự tạo ra một tác dụng tồn tại lâu dài:
Qui luật này khiến Clinton nghĩ rằng giới báo chí có thành kiến về bà,điều này làm cho bà cư-xử tệ nhạt với báo chí và chuyện cư-xử này sẽ dẫn đến việc thêm nhiều phóng viên nghĩ rằng bà ta đang cố giấu diếm chuyện họ một chuyện ǵ đó.
Qui lệ 4:
Mọi chuyện liên hệ đến Hillary đều đáng được loan tin v́ gia đ́nh Clintons tương đương với Hoàng gia của nước Mỹ
Khi Clinton là diễn giả chính của một buổi gây quỹ của David Axelrod giúp bệnh nhân bệnh động kinh vào tháng 6 nămm 2013, vài cơ quan truyền thông lớn đă gởi phóng viên tham dự để viết tường tŕnh.Thời điểm đó c̣n tới hơn 3 năm mới tới cuộc tranh cử 2016. Từng lời, từng cử chỉ, từng nét diễn tả trên mặt đều được xem xét kỹ.
Video về Clinton gọi môt tô burrito tại tiệm Chipotle đă trở thành h́nh ảnh đầu tiên trên mạng của việc tranh cử của bà.
Đầu năm nay, các phóng viên đă trở thành đề tài giễu cho các nhà hài hước chuyên tŕnh diễn về khuya khi các phóng viên chạy thục mạng cho kịp chiếc xe van vận động tranh cử chạy qua.
Việc tường tŕnh từng chi tiết nhỏ nhặt chẳng phải là đường một chiều. Một phóng viên đă được rỉ tai về chuyến đi ghé Chipotle nên rồi ai cũng biết. Hillary thật ra mong mỏi sự chú ư của thiên hạ hơn là ghét bỏ nó.
Nhưng chuyện này cũng có một hậu quả biến dạng không hay .Cũng như hoàng gia ở Luân Đôn, nhũng giây phút riêng tư b́nh thường trở thành chuyện của quần chúng : chuyện ngoại t́nh của chồng, chuyện đám cưới con gái, chuyện bà có cháu ngoại.
Trước mắt một người quan sát vô t́nh, sự chú ư của các phóng viên báo chí làm cho Clinton có vẻ như ham được truyền thông nhắc đến hơn một chính trị gia thường. Dĩ nhiên một phần của mối liên hệ yêu/ghét (với truyền thông) là ḷng rất mong được nhà báo tường tŕnh theo một chiều hướng có lợi cho ḿnh. Nhưng thỉnh thoảng Clinton cũng hiểu rằng không nên xuất hiện trước ánh đèn pha rọi tới nhiều quá.
Thí dụ điển h́nh nhất là khi Clinton không nhận lời xuất hiện trong một buổi mạn đàm về chính trị ngày Chủ nhật ngay sau vụ tấn công Benghazi. Susan Rice, lúc đó là đại sứ của Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, bây giờ là cố vấn an ninh quốc gia nhảy vào thế chổ. Các buổi xuất hiện này làm Rice mất cơ hội làm người kế nhiệm Hillary trong chức vụ ngoại trưởng Mỹ v́ nhiều Thượng nghị sĩ kết luận rằng Rice đă nói dối về khởi thủy và bản chất của vụ tấn công.
Báo chí bị thu hút bởi gia đ́nh Clinton nên họ thế nào cũng theo dơi và tường tŕnh dù Hillary muốn hay không.
Qui lệ 5:
Tất cả những ǵ Hillary làm đều giả dối và được tính toán như thế nào cho có lợi tối đa về phương diện chính trị.
Đối với một người thua cuộc bầu cử sơ bộ năm 2008 sau khi đă dẫn đầu với một tỷ lệ lớn và bây giờ đang trên đà thua Bernie Sanders, Clinton được khen là rất khôn ngoan về mặt chính trị.
Những kẻ muốn hạ bà nh́n thấy trong bất cứ việc ǵ bà ta làm, ngay cả trong việc có một đứa cháu ngoại chào đời là một mưu đồ chính trị có kế hoạch và thực hiện tuyệt diệu.
Việc Clinton công khai nâng niu đứa cháu bé lả một trong những cử chỉ rơ rệt nhất vừa t́nh cảm vừa đáng ngờ của một chính trị gia Mỹ mà tôi biết. Chúng ta có những tổng thống đă là cha mẹ, và chúng ta đă có những tổng thống là ông bà. Nhưng kiểu tranh cử dựa trên t́nh liên đới với các vị là ông là bà thật là mới mẻ !
Và Clinton nhập cuộc bằng cách dùng những chuyện tích cực trong đời bà để có lợi về phương diện chính trị. Điều này không làm cho bà ta khác với những ứng cử viên tổng thống khác --- nó làm cho bà ta giống họ. Tuần trước, Thống đốc Chris Christie của tiểu bang New Jersey khi phát động việc tranh cử tổng thống Mỹ đă nói về bà nội bà ngoại, bà mẹ, bà vợ và con cái của ông ta. Liệu điều đó đă được tính toán để gởi thông điệp về Christie cho quần chúng? Lẽ dĩ nhiên !
Nhưng trường hợp đặc sắc nhất là nước mắt -- giọt lệ chảy dài trên má Clinton khi bà vận động tranh cử ở New Hampshire sau khi bị xếp hạng thứ ba (sau Barack Obama và John Edwards) tại các cuộc bỏ phiếu sơ bộ của đảng dân chủ năm 2008. --
Nữ kư giả Maureen Dowd của tờ New York Times đă công khai luận tội Hillary về điều mà Dowd cho là cửa sổ vào phần tăm tối của tâm hồn Hillary.
“Nh́n Hillary không chịu nỗi v́ kiệt lực sau nhiều chục năm ao ước thành người đóng vai chính hơn chỉ là kẻ phụ trội, có một cái ǵ đáng xót xa. Nhưng cũng có một nét mơ hồ của việc thương thân theo kiểu Nixon trong việc Hillary ghẹn ngào. Điều làm cho bà ta xúc động tận xương tủy là việc Hillary nhận ra rằng xứ sở này không rơ là nó cần bà ta biết bao nhiêu.Trong cái cách tự ngưỡng mộ bản thân một cách khác đời, Hillary đang khóc cho chúng ta. Nhưng nét điển h́nh có tính cách đáng buồn của Hillary là việc thật sự làm bà ta khóc là cái viễn ảnh thua cuộc.”
Như Spencer Tracy nói với Katherine Hepburn trong phim “Adam’s Rib, “Lại nữa ! Vũ khí cổ điển của đàn bà. Bảo đảm làm nhũn ḷng thiên hạ. Vài giọt lệ của phụ nữ mạnh hơn bất cứ loại acid nào.“
Báo chí viết về chính trị đă đi quá xa từ việc nặng nề chỉ trích Ed Muskie khóc đến việc buộc tội Clinton đă tính toán rằng các giọt lệ sẽ giúp bà ta thắng cuộc. Hillary không giỏi về toan tính chính trị đến thế.
Những quy lệ về Clinton ảnh hưởng cuộc bầu cử như thế nào
Quan điểm của tôi về việc các kư giả đă thành công trong việc chọn kẻ chiến thắng trên trường chính trị vẫn mơ hồ.
Giới truyền thông có lẽ đă ủng hộ Obama hết ḿnh, nhưng ông ta không thắng cử v́ được hưởng các bài loan tin thuận lợi. Obama thắng v́ ông ta có chiến lược tranh cử hay hơn, có một thông điệp gời cử tri hay hơn và có tài chuyển đạt thông điệp khéo léo hơn trong cuộc bầu cử sơ bộ năm 2008 và hai cuộc bầu cử Tổng thống tiếp theo đó.
Thế đấy, giới truyền thông chắc chắn có thể đánh phủ đầu – ngay cả tiêu diệt một ứng cử viên. Sự chú tâm vào những khiếm khuyết của một ứng cừ viên –- dầu là có thật (real) hay là do tự diễn dịch (perceived) — làm hại cho khả năng của ứng cử viên đó trong việc chuyên tâm về thông điêp của ḿnh cho cử tri và cũng làm cho giới truyền thông không chú ư nhiều đến những mặt tiêu cực của các ứng cử viên khác.
Đây là chuyện xảy ra cho Clinton, và chuyện này coi bộ khó chấm dứt
Hillary đủ thoải mái để làm mục tiêu cho rất nhiều cuộc tấn công của giới kư giả và bà ta cũng đầy đủ quyền lực nên chẳng ai cần phải an ủi bà về các khổ sở phài chịu.
Nhưng các tiêu chuẩn kép/ khác biệt là một yếu tố quan trọng cần ghi nhớ khi đánh giá bà trước các đối thủ khác trong cuộc tranh cử Tổng thống.
Những quy lệ về Clinton dù công b́nh hay bất công, đă làm biến dạng cái nh́n của quần chúng về Hillary Clinton.
Người dịch: Trần Thúy Hạc
Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...
Wednesday, June 19, 1996
CLIP RELEASED JULY 21/2015
https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg
US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL
http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807
BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10 (13.20 - 13.50)
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti
Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Society of Professional Journalists: Code of Ethics download
Liên lạc trang chủ
E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com
Cell: 404-593-4036
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
The Beatles. French Music . Nhạc Pháp . Dalida . Jaune. Ngọc Lan. Thanh Lan. Elvis Phương. Best English1
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures. Dancing Music. 2015
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám
Federation of Anerican Scientist
Học Viện Ngoại Giao
Người Việt Seatle