Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

 

Sơ Thảo: Bài sử khác cho Việt Nam*

 

CHƯƠNG I:

 

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CĂN BẢN ĐỂ VIỆC T̀M HIỂU LỊCH SỬ VIỆT NAM MANG TÍNH HIỆN ĐẠI

 

 

 

Đất cho người

 

Giở một quyển sách địa lí của lớp trung học, một quyển sách giới thiệu về Việt Nam, đi t́m thêm những số liệu mới nhất cho các biến số trong đó th́ ta có thể có những dữ kiện ví dụ như sau:

 

102 08’ – 109 28’ Đông

 

8 02’ – 23 23’ Bắc

 

329 241 km2

 

79 827 400 người (2002)

 

Bờ biển 3200 km, biên giới đất liền 4 510 km, rộng nhất 699 km Bắc Bộ, 50 km Quảng B́nh. 54 dân tộc. (Non nước Việt Nam, sách Hướng dẫn du lịch của Tổng cục Du lịch Việt Nam 2004, in lần thứ 6.)

 

hay theo Nguyễn Đ́nh Đầu lấy số liệu 2003 của Quốc hội:

 

Diện tích Việt Nam là 329.314, 56km2, dân số 80.930.200 người.

 

[Cứ tự nhiên thay đổi để được cập nhật hoá. Theo lối này th́ biết đâu có thể h́nh thành một quyển sử của tập thể?]

 

Đó là bằng chứng của hiện tại, không có ǵ như một thứ định mệnh để hănh diện hay than văn. Tuy nhiên vốn chỉ là một dấu vết định vị để t́m hiểu quá khứ, nó lại chứa đựng những yếu tố hướng dẫn tận trong tiềm thức những nhà nghiên cứu về thời đă qua của đất nước. Ví dụ biên giới phía bắc giáp với Trung Quốc đă khiến các học giả hai nước giành giật quyền làm chủ các trống đồng tiên khởi, giống như là các đường ranh ấy đă được vẽ ra để phụ thuộc vào các lập luận ngày nay vậy. Biên giới quy định vùng thống thuộc là kết quả vận hành lịch sử lúc nổi rơ, lúc ch́m lắng của các tập đoàn tiếp giáp nhau. Cho nên cái u lồi qua phía tây của các tỉnh Ḥa B́nh, Thanh Hoá, Nghệ An ngày nay có được chính là nhờ những ḍng vua ngự trị nước Việt từ thế kỉ XV đă phát khởi ở quanh vùng ấy. Không biết th́ hăy đọc Lam Sơn thực lục để nghe chính lời người chủ thời đại nói về Ai Lao: “… lấy đất đai của nó làm nơi chứa quân của ta…” V́ lẽ đó khi nh́n thấy biên giới miền đông bắc có cánh cung lơm về phía nam th́ ta hiểu được áp lực của Trung Hoa đè về phía ấy trong ư thức muốn chiếm lại thuộc địa xưa qua con đường xâm nhập quen thuộc từ thời cổ. Đó là biên giới xê xích của hai châu Giao, Quảng thời thuộc trị qua kèn cựa tranh chấp mà ưu thế lấn lướt là thuộc về phía Bắc. Chính sự giao tiếp liên tục giữa hai nước về hướng này khiến biên giới ở đây được rơ ràng hơn phía tây bắc, mù mờ hơn, gây nhiều tranh căi hơn.

 

Biên giới phía tây dọc B́nh Trị Thiên hẹp lại khiến con đường Hồ Chí Minh trong cuộc chiến vừa qua phải băng qua đất Lào, biên giới ấy là dấu vết phân biệt sinh hoạt vùng đồng bằng quen thuộc của dân Việt tách ra với dân miền sơn cước, như khi Lê Quư Đôn phân biệt Man thượng, Man hạ, hay khi Nguyễn Thân lập lũy Trấn Man vào nửa sau thế kỉ XIX trên vùng tây Quảng Ngăi. Phần ph́nh ra phía Tây Nguyên là công tŕnh lấn lướt đất Lào của người Pháp khi phân định ranh giới cho 5 “nước” Đông Dương của ḿnh, cốt ư giành lấy một hậu phương sản xuất cho các cửa biển phía đông. Biên giới phía nam, tây nam là công tŕnh của các vua chúa Nguyễn nhưng lại cũng có bàn tay người Pháp vẽ nên vào lúc cuối.

 

Cũng chính bàn tay người Pháp với lực lượng hải quân lớn đă đẩy xa biên giới phía đông đến quần đảo Trường Sa nơi các tên Itu-Aba, Spratley… Triều đ́nh Việt xuất thân từ “miền Dưới” như Trần, vẫn chỉ chú ư nhiều đến các đảo ven bờ như Vân Đồn, cho đến khi chúa Nguyễn kế tục phần đất Chiêm Thành mới mon men ra ngoài Hoàng Sa để đất được ghi vào bản đồ của người Âu, thế mà cũng phải đợi đến triều Nguyễn mới có dấu hiệu chiếm lĩnh. Ư thức đại dương / biển lớn đến muộn trong đầu óc người Việt, các người cầm quyền Việt nên mới có chuyện năm 1958 Chính phủ VN DCCH công nhân đường biên giới lănh hải của CHND TQ.

 

Trước 1975, mua một tấm bản đồ Trung Quốc ở Chợ Lớn của Đài Loan in cho học tṛ trung học của họ dùng th́ thấy ngay cái túi Tây Sa, Nam Sa tḥng xuống sâu dưới biển Đông trong lúc VNCH có quân trấn đóng trên ấy, cũng từng xác nhận chủ quyền mà sách vở học đường th́ hờ hững như là chuyện riêng của “ở trên” mà thôi. Và do đó khi người Pháp yếu thế, Trung Hoa Quốc Dân Đảng mới chiếm đảo Phú Lâm (phần đông bắc Hoàng Sa – sau về tay Hồng Quân) và Itu-Aba, đổi tên là đảo Ba B́nh. Khi Đệ nhị Cộng hoà yếu thế th́ các nước chung quanh giành thêm phần của ḿnh như Thitu / Thị Tứ thành Pagasa của Philippin… Các chính phủ Quốc Gia Bảo Đại và Việt Nam Cộng hoà mang tính chất kế thừa quyền lực Pháp nên mới ra sức bảo vệ chủ quyền qua các hội nghị quốc tế, bắt đầu từ Hội nghị San Francisco 1951, và mang quân ra đóng ở các đảo. C̣n đảng CSVN vốn theo một chủ thuyết quốc tế nhưng người lănh đạo lại mang đầy tâm t́nh, kiến thức sách vở truyền thống, lớp người xưa hơn chỉ biết đến ông vua Hùng ở vùng Ngă Ba, thấy nơi dừng chân ở cái ải trên đường cống sứ cũng nhận là của ḿnh; lớp người kế cận sôi động với tiếng gọi Nam tiến, chăm chắm nh́n vào đồng bằng Cửu Long màu mỡ, rồi theo t́nh h́nh chiến trận nhận ra vị trí chiến lược của Tây Nguyên gợi ư một tương lai quyền lực “Liên bang Đông Dương” làm thoả măn cả hai lí tưởng quốc gia lẫn quốc tế. Thế là từ câu thuộc ḷng “Từ ải Nam Quan (?!) tới mũi Cà Mau” họ không thể có tầm nh́n chiến lược lớn rộng hơn cái khung sông núi cũ có hướng ph́nh to ấy. Thêm với sự căm thù họ Nguyễn, không cần biết ǵ đến sách vở của họ và viết về họ, nên mới có sơ hở chính trị tai hại 1958, trong đó ư tưởng về sự đồng hành chiến đấu cho quốc tế, cho giai cấp chỉ là một sự biện minh muộn màng. Chứng cớ “Đảng” đă thực t́nh không biết Việt Nam có phần đất mịt mù ngoài biển kia là: sau 1975, người dân Miền Nam c̣n thấy một bản đồ Việt Nam DCCH (ấn bản của Cục Bản đồ 1972?) ghi tên Tây Sa và Nam Sa! Rồi cũng sau 1975 c̣n thấy những sục sạo của nhà cầm quyền mới muốn vặn hỏi xem cuộc triển lăm chứng minh chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa năm 1974 của nhóm chủ trương Tập san Sử Địa là do ư đồ ǵ của “đế quốc và tay sai” nhằm chống phá Cách mạng? Các bản đồ biển Đông xác nhận chủ quyền in ấn gần đây thật là lạc loài trên các sách địa lí trong nước, dù là của chuyên gia khảo sát kĩ từng khu vực, bởi v́ nếu không quên luôn th́ họ cũng chỉ loáng thoáng nhắc đến những tên quần đảo hờ hững mà không ghi nổi một chút chi tiết để tỏ ra có chút quan tâm nào. Những ồn ào về biên giới biển loáng thoáng trong báo chí quốc nội gần đây chỉ là cái đà thuộc loại phản ứng cạnh tranh với thành phần di tản – các nhóm này th́ như đă t́m ra được một chứng cớ để giành lại cái chính nghĩa về trách nhiệm đối với một địa vực đă vuột khỏi tầm tay ḿnh từ lâu.

 

Có nguyên nhân tạo dựng phức tạp như thế cho nên chính ba khu vực cổ điển của nước Việt cũng mang dáng dấp khác biệt, không phải là do riêng biệt một quyền lực nào cố ư lập nên. Tuy nhiên khung cảnh thiên nhiên lại vẫn là điểm khởi đầu cho con người hoạt động nên các ḍng sông đă hướng dẫn con đường di chuyển Nam tiến toàn vùng Đông Nam Á lục địa, rơ rệt trong thời có sử v́ các chứng cớ được ghi lại và các kết quả hiển hiện trước mắt. Đó là những đoàn người đi theo triền lưu vực sông Hồng, sông Mă, sông Cả, sông Cửu Long cũng như về phía tây xa hơn, trên các sông Chao Praya, Saluen, Irrawaddi. Và cũng như mọi sinh hoạt phức tạp khác của loài người, hướng Nam tiến lớn rộng đă nói cũng không ngăn được những hướng di chuyển ngắn theo các chiều khác đă gây được những biến động lịch sử khuất lấp hay lại bị xếp vào tầm nh́n quen thuộc của thành kiến. Khó có thể t́m ra bằng chứng cụ thể của các ḍng người từ biển đổ vào đất liền. Trong khi đó ḍng di chuyển của tộc Thái về phía phủ Đô hộ An Nam, v́ phải uốn nắn theo h́nh thể địa lí theo các triền lưu vực nên đă có hướng đông lẫn lộn, và gặp sự ngăn chận từ chính quyền thuộc địa Đường chống với ư định “thác Đông” (khai thác về hướng đông) của nước Nam Chiếu, c̣n với Đại Việt th́ gặp chính quyền Lí, Trần. Áp lực của các triều đại này yếu thế trên vùng xa hơn phía nam đă là cơ hội cho các nhóm Thái khác xuyên được qua các lưu vực lớn hướng đông nam hay theo các ngóc ngách sông ngắn tây đông để góp phần vào việc tạo dựng một triều đại Việt lâu dài nhất.

 

Vị trí nhiệt đới khuôn nắn nền nông nghiệp trồng lúa nước với những ưu thế và hạn chế của nó. Các ḍng sông ngắn tuông ra biển, mở ra những giao tiếp nhiều chiều trong những khuôn khổ vùng hạn hẹp v́ các lưu vực nhỏ đă được nối với nhau qua đường nước mặn. Đó là t́nh h́nh các sông ngắn dọc miền Trung đă định h́nh cho các tập họp chính trị Chàm xưa. Các châu thổ lớn chứa đựng nhiều sức người, sức của lại làm cơ sở cho những tập đoàn lớn quy tụ và phát triển lấn át các tập đoàn nhỏ, rơ rệt trong trường hợp Đại Việt đối kháng với các tập đoàn Chàm trên những lưu vực miền Trung, và lanh chân trên châu thổ Cửu Long trong khi chính quyền Angkor khai thác cạn kiệt vùng Biển Hồ mới xuôi đến Phnom Pênh th́ đă gặp chúa Nguyễn và Minh dân lưu vong.

 

Biển khơi lại mở rộng giao tiếp không chỉ bắc nam mà c̣n là đông tây, khiến cho người ta nghĩ ra tập họp từ “(Việt Nam là) bao lơn trông ra Thái B́nh Dương”. Lối nh́n khoa đại đó hợp với thói quen của tập thể nhưng dù sao th́ nếu thu nhỏ lại cũng có ư nghĩa về nơi giao tiếp của một vùng riêng biệt được công nhận có tên là Đông Nam Á, sau những năm tháng tranh căi về tính chất phụ thuộc của nó vào Trung Hoa hay Ấn Độ, hai trung tâm văn hoá khuynh loát một thời.

 

Người Hán khi lần ṃ xuống phía nam để t́m cách thông thương với Đại Tần – đế quốc La Mă, đồng thời họ cũng chiếm được phần đất nằm trong khu vực nhiệt đới có các sản phẩm cần thiết cho nhu cầu sang cả của họ nên không buông bỏ, và sẽ cố tâm chiếm lại hoặc áp đặt ảnh hưởng trên-trước, khi không thể cai trị trực tiếp được nữa. Tính chất nhiệt đới đem lại hệ luỵ cho Việt Nam như trên th́ cũng gây khó khăn cho triều đ́nh phương Bắc với thủy thổ khắc nghiệt làm chùn bước những cuộc tiến chiếm hay đóng quân cai trị. Và thế là đưa đến t́nh trạng nhùng nhằng độc lập / phiên thuộc c̣n ảnh hưởng măi đến tận ngày nay sau thời gian ngắn rứt ra để Việt Nam rơi vào ṿng tay người Pháp, thế giới Tây Phương hiện đại.

 

Các dấu vết và những tác động khúc xạ trong/ngoài, xưa/nay

 

Quá khứ phải được ghi lại mới thành sử, sử phải được kí. Và tất nhiên có nhiều h́nh thức ghi lại, trong đó chữ viết là chứng cớ xác định nhất v́ nó là biểu hiện cụ thể, rơ ràng về sinh hoạt của một tập đoàn lưu giữ được qua thời gian. Tuy nhiên không phải là tập đoàn nào cũng có chữ viết và h́nh thức chữ viết nào cũng được sử dụng với kết quả lưu giữ quá khứ như nhau. Chữ viết trong vùng ĐNÁ là mượn từ hai khối văn minh có trước: Trung Quốc và Ấn Độ, nên lịch sử ghi lại trong vùng cũng phải chịu ch́m nổi một chừng mực theo với tính chất văn minh của hai nơi đó. Nói một cách sơ sài, nền văn minh Ấn hướng nhiều về suy tưởng triết lí nên các ghi chép để lại không nhiều chi tiết cụ thể rành rẽ hơn phần của người Trung Hoa, vốn từ rất sớm đă lưu tâm đến mặt sinh hoạt xă hội nhân sinh.

 

Sự khác biệt đó thấy rơ rệt ở quá khứ Việt Nam, nơi từng xuất hiện các tập đoàn xây dựng những thể chế chính trị riêng biệt chịu ảnh hưởng Trung Hoa và Ấn Độ trước khi thành một khối thống nhất chính trị bây giờ. Có thể nói phần đất phía nam, bao gồm Nam Bộ ngày nay, được nhắc đến một thời mang tên Phù Nam rồi từ đó toả rộng ra, là do sự tái hiện của các nhà nghiên cứu người Pháp, từ sử sách lan qua các tài liệu khảo cổ học. Và nước/các nước Champa tuy xuất hiện có bằng cớ, thường xuyên, dài lâu hơn nhưng không được biết đến rành rẽ, liên tục chỉ v́ những điều có thể gọi là sử của họ là những ghi chép của người ngoài, c̣n phần của chính bản thân th́ lại khắc trên bia đá với những khuyết điểm của chứng tích mang quan niệm nhân sinh thể hiện như ta đă nói. H́nh thức “kí” mang dấu địa phương, trên lá buông – không kể các thứ viết, sao chép lại trên giấy tây, giấy xi măng – không có độ tin cậy cao không phải v́ khiếm khuyết của vật liệu dễ hư nát mà v́ từ căn bản suy tưởng thiên về trừu tượng, tôn giáo đă khiến chúng thiếu sự chính xác đ̣i hỏi. Số phận của một dân tộc nhỏ, thành tựu tương đối ít, bia đá để lại không nhiều, ví dụ so ngay với đế quốc Khmer, khiến cho có một lúc người ta đă thiên về các đền đài Angkor, bỏ lơ một phần Champa v́ chứng liệu dưới tay không bù lại được công sức học hỏi. Tuy nhiên các học giả Pháp dù không hoàn toàn lôi nước Champa từ trong tối tăm nhưng cũng chính nhờ họ khởi đầu mà lịch sử nước này được sáng sủa hơn, liên tục hơn.

 

Cái ưu thế về kí cho sử thật không chối căi khi ta nh́n về phần Việt Nam phía bắc, nơi có va chạm với Trung Hoa từ rất sớm, khi đế quốc Tần Hán tràn xuống nam để liên tục cai trị khoảnh đất này, khuôn nắn nó theo h́nh thức dù bị co cưỡng nhưng cũng không thể rời bỏ được suốt trong tiến tŕnh dài của lịch sử. Và do đó, chính ở phần đất này của Việt Nam ta đă gặp những chứng tích xưa nhất, hay những bám víu xưa nhất để có thể ghi lại như là lịch sử. Sự khiếm khuyết về bằng cớ văn tự như đă nói khiến người Việt không thể có những hiểu biết về chính ḿnh từ tập đoàn Chàm đối chọi ở phía Nam, để quân b́nh với những huênh hoang tự phụ trong sử Việt cũ. T́nh trạng chênh lệch về ghi chép ảnh hưởng đến việc định giá nhân vật, biến động lịch sử cũng tiếp tục xuất hiện ở hai chính quyền Đàng Trong, Đàng Ngoài khiến cho sử gia chính thống ngày nay có dịp xoá thoả măn tính địa phương dưới chính nghĩa thống nhất bây giờ, đă đem Đô đốc Đặng Tiến Đông đầy đủ tên họ, bằng sắc, bia tượng đá, thay cho Đô đốc Long cụt ngủn, chỉ xuất hiện có một lần trong trận Đống Đa vang danh mà không có “người xứ ḿnh” tham dự. Và Bảo tàng Quang Trung, ngoài dụng ư dành cho các nhà lănh đạo trồng cây “lưu danh hậu thế,” ăn-theo nhân vật lịch sử, toàn thể hệ thống tưởng niệm đó như một cái đền ở đất Bắc đem vào với các danh thần di cư, mang cả bằng cớ biết rằng không thật như tượng chùa Bộc thay ông Quang Trung, để có người trẻ địa phương cảm thấy ông Nguyễn Huệ không chỉ lạc loài trên g̣ Đống Đa mà c̣n cô đơn ngay cả trên quê hương của ông. Tuy nhiên, dù sao th́ sử gia cũng phải làm việc trong thực tế có được mà thôi.

 

Thật ra th́ Phù Nam cũng có căn cứ xuất hiện đầu tiên rơ ràng là từ tài liệu Trung Hoa, ghi chép trong thế kỉ III. Trước khi Khang Thái, Chu Ứng từ đất Ngô Tôn Quyền đến (khoảng năm 250) th́ đất này dù có hàng chục ông “vua”, ta cũng không thể biết được chỉ v́ bờ đông vịnh Thái Lan của đất Phù Nam đó c̣n là cách biệt với Trung Hoa, nơi những người có thói quen ghi chép. Trong khi đó trung châu sông Hồng nằm trong ṿng sinh hoạt có văn tự đă lâu, vào lúc đă thấy sự tranh chấp lấn chiếm giữa các quan chức Thục Hán cũ và nhà Ngô thắng thế, và đă lưu lại chứng tích của cả một sinh hoạt phồn tạp, tuy không đủ thoả măn người đời nay nhưng cũng làm đầy các trang sách… Cho nên ở đây, thật sớm, người ta đă biết đến không những các ông Lạc, Việt trước thời các ông Vua Núi ở phía nam kia mà c̣n biết có những ông mang tôn hiệu Vương dù “ở trần,” nhờ xác nhận của Triệu Đà vào thế kỉ II tCn. Thế là vùng đất này khi ghép vào với đế quốc Trung Hoa tuy chỉ là phần bên lề nhưng quá khứ của nó cũng trở nên liên tục, rành rẽ hơn phần phía nam. Ông An Dương Vương khởi đầu, móc nối với nhân vật lịch sử Triệu Đà, ráng níu kéo ông Lạc/Hùng Vương, cho tiếp tục với các quan lại Thiên triều cai trị, làm loạn, với những tập đoàn bản xứ nổi dậy, thất bại theo sự thăng trầm ở trung ương xa xôi. Cho đến khi lấy được nền độc lập th́ phần đất này có tên riêng, mang sẵn một lề lối chép sử của chủ nhân ông cũ, cứ tiếp tục theo ông Khổng Tử, ông Tư Mă Thiên, ông Chu Tử, theo các Quốc sử quán… để gầy dựng một truyền thống sử kí tuy không dồi dào như nơi cỗi gốc nhưng cũng đủ để mà hănh diện với nơi khác. Và từ ưu thế đó, theo bước nhân tuần của kinh sách học hỏi, người ta lấy làm ṇng cốt để viết lịch sử toàn vùng.

 

Chúng ta không nói đến những khuyết điểm tự thân của nền sử học gốc từ Trung Hoa tuy ở đó sự dồi dào các sách vở sử kí đă khiến người nghiên cứu ngày nay rộng đường t́m kiếm, suy luận hơn. Các vương triều Việt cai trị trên một đất nước nhỏ hẹp, chỉ “bằng bàn tay” như Trần Nhân Tông thú nhận, nên không để lại mỗi triều đại một quyển sử riêng biệt như ở nước lớn Trung Hoa mà chỉ chắp nối dồn vào một tập chính thức viết cho 17, 18 thế kỉ với tên chung là Đại Việt sử kí toàn thư, in năm 1697. Chỉ có nó nên sử quan triều Nguyễn muốn viết tiếp cho hết triều đại trước cũng phải dựa vào nó để thành Khâm định Việt sử thông giám cương mục, mà không biết đến một quyển sử xưa lạc loài trong cung nhà Thanh, quyển Đại Việt sử lược viết cho triều Lí trước nó. Toàn thư mang tính độc nhất đến mức độ các gia phả, địa phương chí (như Hoan Châu kí) cứ mang ra chép lại, gán ghép danh giá cho ḍng họ ḿnh khiến người sau thất vọng khi cứ tưởng có thể t́m thêm điều ǵ mới lạ cho sử học ở những bản sách mang tính cách riêng tư, khu vực như thế. Toàn thư mang tính cách độc nhất như vậy khiến cho các sử gia bây giờ, dù tân hay cựu, dù có lập trường chính trị chống đối không đội trời chung đi nữa cũng vẫn xê xích sao chép, tiếp nối truyền thống sử vương triều của nó, truyền thống thâm nhập sâu xa đến đương nhiên trở thành quốc sử thời của nhân dân, quần chúng. Các Thực lục của nhà Nguyễn th́ dài hơi hơn nhưng đến lúc này th́ sự giao tiếp quốc tế đă lớn rộng hơn.

 

Nhưng khuyết điểm của sử kí, ghi chép cũ của Việt Nam, gần như không được nhắc tới, là sai lạc đến từ t́nh trạng mượn một thứ chữ bên ngoài để ghi những sự kiện, địa điểm bản xứ, chưa kể đến trường hợp người sử dụng hoặc không đủ khả năng tự thân hoặc v́ ngập ch́m trong hệ luỵ thời đại mà không thể diễn tả ra cho đúng. Thấy con giông không biết gọi là ǵ liền dùng chữ chỉ con thạch sùng / thằn lằn quen thuộc trong nhà. Có đệm thêm chữ Nôm để diễn tả ngôn ngữ bản xứ th́ cũng là một loại chữ-Hán-khác, không biết phải đọc theo đâu, làm cớ cho sự che giấu điều tưởng là đáng “xấu hổ,” ví dụ tên của (Lí) “thường Kiệt.” Thấy người ta dùng chữ “giao long,” không chép chữ “thuồng luồng” Nôm trại ra (t’luồng) từ gốc Hán “long” lại cứ theo kinh sách văn hoa cũ, không chịu nghĩ ra rằng từ trong nguyên văn được tả, đó là con cá sấu quen thuộc ở xứ ḿnh, con cá sấu hiện h́nh ngay trên các trống, đồ đồng Đông Sơn, không lẫn vào đâu đươc. Có lúc Nôm và Hán không loại trừ nhau, ví dụ địa danh lấy từ sự kiện có cái Thang (dùng để) Trông (xa) canh chừng địch quân, ghi vào sử chữ Hán: Vọng Thê thành danh xưng chính thức, lại không xoá được tên Nôm kia, thế là trên đất Nam Bộ ngày nay có cả hai: Thang Trông và Vọng Thê! Điều này rơ ràng nhất khi gần đây các ban viện, cá nhân cố sức dịch những tài liệu sử địa ngày xưa ra chữ quốc ngữ, và gặp những chữ Hán, Nôm ví dụ chỉ những loại cây trái, ngành nghề, các địa điểm mà dịch giả không thể nào kiểm tra để điều chỉnh cho chính xác được… Cho nên chúng ta gặp t́nh trạng có sách sử của một giáo sư Đại học cho quân Nguyễn Ánh Tây Sơn đánh nhau ở Giá Khê, Tam Phụ… như là ở bên Tàu chứ không phải lội bùn śnh, lăn lộn cát bụi ở Rạch Giá, Ba Giồng trên đất Nam Bộ! Cũng may đây là sách vở của những thế kỉ gần gũi, tên đất ch́m khuất nhưng vẫn c̣n đâu đó, sinh hoạt đổi thay nhưng c̣n có người nhớ lại, và c̣n có ư đi t́m. Với sách của những thế kỉ xa xưa th́ không có những thắc mắc như trên để gợi sự hoài nghi, nên người ta cứ càng dễ dàng tin tưởng để sao chép, và nghi ngờ những ai nói khác đi.

 

Thật khó mà kể hết những sai lạc của Toàn thư chỉ riêng vấn đề dùng chữ Hán để ghi sự kiện Việt. Vả lại không phải chỉ lầm lạc của người xưa mà c̣n là sai sót của người nay khi dùng thứ chữ của thời đại ḿnh để phô diễn kiến thức lấy từ sách cũ. Khuyết điểm của dụng cụ, của con người, sự chênh lệch văn hoá, do thời gian níu kéo với nhau làm cho sự thật xưa cũ như chập chờn đùa bỡn, nhạo cợt người nghiên cứu cứ mải phân vân giữa niềm tin sự thật và mối lo báng bổ tiền nhân khi t́m cách thoát khỏi thành kiến đă định h́nh.

 

Về khả năng biểu diễn sự kiện th́ ngay chữ Hán cũng không theo kịp với đ̣i hỏi của ngày nay. Ví dụ ở bản in chữ Hán (hay ngay chính nơi bản thảo?) đă có sự lỏng lẻo trong cách phân biệt các danh từ riêng với danh từ chung. Việc thêm dấu chỉ định bên lề như thường thấy là thêm sự cách biệt của bản văn với tác giả. Và thế là, ví dụ, xác quyết rằng chúng ta từng có một quyển sử tên là Việt Chí đă làm bận tâm các học giả trong ngoài, xưa nay trong lúc nếu có sự phân biệt h́nh thức ngay từ lúc đầu để chỉ ra ư nghĩa của tập họp Việt-chí – chữ in nghiêng hoặc đặt trong ngoặc kép, th́ thấy ngay tính chất phiếm chỉ của tên quyển sách kia, vốn chỉ có nghĩa là “quyển sách viết về nước Việt”! Trong cuộc tranh căi gần đây về quyển Toàn thư (muốn được gọi là) “bản Chính Hoà (1697),” một phe phản đối đă cho rằng cơ quan Nội các chỉ mới có từ thời Nguyễn cho nên bản sách kia không thể xuất hiện vào thời Lê Trung hưng, c̣n phe “chính thống” quan phương th́ viện dẫn ngay ở Toàn thư, sự kiện năm 1673 ghi: (dịch) “Hạ lệnh cho các quan văn vào Nội các của Vương phủ để nghị bàn việc nước. Việc chầu hầu ở Nội các bắt đầu từ đấy…” để cho rằng Nội các đă được thành lập dưới thời chúa Trịnh từ trước năm in bản Chính Hoà (1697). Nhưng đó là cưỡng ép viết hoa một chữ không có dấu hiệu xác định trong nguyên bản! chứ tổ chức Nội các không hề được Phan Huy Chú nhắc tới. Các viện dẫn từ tổ chức của Minh, Thanh không có tính quyết định trong cuộc tranh luận này. Các từ trích dẫn “nội / Nội các” của thế kỉ XVIII hay đơn lẻ của chính Phan Huy Chú cũng không đủ bào chữa cho sự vắng bóng của một cơ cấu tổ chức chính quyền quan trọng như thế trong tác phẩm của ông sử gia. Trong lúc đó hàng chữ “Nội các quan bản” đối ứng với hàng chữ “Quốc tử giám tàng bản” chỉ rơ ràng đó là một cơ quan chính thức! Ông Hoa Bằng khi dịch (1975) Lịch triều tạp kỉ, đụng đến chữ “nội các” của năm 1673 trên, đă không viết hoa nó, chứng tỏ có sự dè dặt đáng kể hơn là những người nhiệt t́nh có quyền thế về sau.

 

Tuy Mạnh Tử dạy “Tận tín thư bất như vô thư” nhưng học sách đâm ra nhiễm sách, các sử quan của ta đă đem chuyện ở đất của Thánh Khổng vào xứ sở của ḿnh, thay cho những sự việc cụ thể, đơn giản hơn. Sử của nho thần đến sau đă che khuất một lớp người viết sử trước không thuộc truyền thống của họ, đă đem ư thức hệ của ḿnh để dẫn giải lịch sử. Họ từng chép nguyên cả lời đe doạ của vua Tần (do Lí Tư viết) về việc “phần thư,” cho vào mệnh lệnh “đổi mới” của Lê Thánh Tông. Thế rồi cái đà chép sách đó đi vào sử, tên các sách sử Việt đầu tiên chưa thể xa rời quyển Sử kí Tư Mă Thiên nguyên gốc: Sử kí của Đỗ Thiện, (Đại Việt) Sử kí của Lê Văn Hưu. Người ta đưa chuyện con tin Đinh Liễn sống ở nhà họ Ngô theo giao kết liên minh trở thành chuyện của Bái Công Hạng Vũ thời Hán Sở tranh hùng. Chuyện Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn cướp ngôi Đinh theo tính chất truyền nghiệp cho thủ lĩnh mạnh thế được diễn tả như cuộc binh biến Trần Kiều chuyển từ Hậu Chu sang Triệu Tống như Nguyễn Nghiễm (thế kỉ XVIII) đă thấy ra nhờ tiếp xúc nhiều hơn với sách vở. Chuyện Lí Công Uẩn ôm thây Lê Long Việt khóc cứ như là bài bản của thời Xuân Thu Chiến Quốc! Trần Nhật Duật xông xáo vào vùng tập đoàn Thái ở Đà Giang được sử quan gia thần nịnh chủ coi như hành động của Đường Thái Tông, Quách Tử Nghi của nhà Đường khuất phục Hung Nô. Rồi chuyện bà vợ Trần Nhân Tông lấy chiếu che cho ông Hoàng Đế khi con hổ sút chuồng thật giống như sử quan đă viết giữa lúc nh́n vào bức hoạ của Cố Khải Chi (345-406) vẽ vợ Hán Nguyên Đế (48-33tCn.) che cho vua tránh con báo sút chuồng!

 

Chẳng biết có gây oan uổng cho người xưa hay không nhưng chẳng hạn, khi đọc đoạn tả chuyện Ngô Nhật Khánh rút dao rạch mặt vợ vạch âm mưu lừa dối của Đinh, việc Lê Phụng Hiểu cứu giá (1028), kể tội phản nghịch, chém Vũ Đức Vương, thấy sao mà giống một “truyện Tàu” nào quá! (Một người không quen, qua internet, cho biết là chuyện Trần Thánh Tông sai đốt hồ sơ vương hầu Trần xin hàng Nguyên cũng thấy trong Tam Quốc chí diễn nghĩa!) Thật có quá nhiều những điều trùng hợp để không thể coi là ngẫu nhiên. Có thể sử quan xưa chỉ làm việc tô điểm văn chương trầm bổng cho những điều ghi chép, thế mà người nay đă có quá nhiều kẻ tin là thật. Việc dời đô về Thăng Long mở ra một thời đại lâu dài, văn minh khiến cho sử quan phải tô vẽ chuyện lấy ngôi Lê cho dài hơi, kéo theo thật nhiều dấu vết thần ḱ (sấm kí, chó trắng mang chữ “thiên tử”) cùng âm mưu về trước lâu ngày, nhiều nhân vật tham gia, t́nh tiết khuất khúc… trong lúc thật ra Ngọa Triều chết chỉ mới cách một ngày là đă có đảo chính! Và do đó, chuyện Dời Đô lại có dáng như một chuyến đi li khai!

 

Tất nhiên cũng không nên coi nhẹ những điều tô vẽ không-thật ấy. Một khi đă được đưa vào sách của nhà nước, chính thức, chúng trở thành những tín điều càng lúc càng vững vàng hơn qua thời gian, nhất là khi được quyền bính phù trợ, bồi đắp. Rồi từ tín điều, chúng thúc đẩy hành động tạo ra lịch sử mới, lúc bấy giờ th́ không thể gọi là giả trá nữa. Chuyện Hùng Vương của thời đại ngày nay là một minh chứng hùng hồn nhất.

 

Tập họp Hùng Vương cùng tiên tổ đi vào sử Việt ở thế kỉ XV là do sự thoả hiệp của tầng lớp nho sĩ trung châu phải chịu đựng sự chèn ép của tập họp Mường Thái đến cai trị xứ này sau khi họ đánh đuổi được quân Minh. Tuy nhiên cũng phải lưu ư rằng Ngô Sĩ Liên, người hạ bút, tuy nói đến “công đầu gây nên cơ nghiệp nước ta” vẫn đặt giai đoạn này vào phần Ngoại sử, hàm ư hoài nghi cẩn trọng – hay là để bày tỏ một phản kháng tinh tế? Nhưng đă ngự trị trong khung của quyền lực tối cao th́ tác động của nó chỉ có đà tăng thêm mà thôi. Hơn một thế kỉ sau thời ḱ cái “triều đại” sơ khởi chỉ với 18 ông vua chưa có tên, với một ông tướng (Phù Đổng), hai ứng viên làm rể c̣n bị ngờ vực là không thật đấy, sau thời gian cũng vừa đủ cho một truyền thống bám víu, lớp hậu duệ Mường Thái thứ hai đă cố sức khai thác, thêu dệt để lấy chính danh cho phe Tây Việt làm công cuộc “trung hưng” cơ nghiệp cũ (Nguyễn Bính 1572), và tiếp tục củng cố nền trung hưng đó trong thế kỉ XVIII (Nguyễn Hiền 1737). Nhưng cũng trong thời gian đó lại có sự đổ vỡ khác của các tập đoàn đi từ đất Thanh Hoá: Trịnh và Nguyễn. Cho nên khi có sự thống nhất đầu thế kỉ XIX th́ hệ thống Hùng Vương lại được khai thác như một sự thoả hiệp mới trong đó những nhận xét của sử quan, lời phê của Tự Đức cho thấy một chút gượng gạo công nhận của phe mới vừa thắng trận mà phải chịu lùi bước chiến thuật để việc chiếm vùng đất bên ngoài cương vực của ḿnh, trở thành có chính nghĩa. Tác động của sách vở qua quá khứ lâu dài cũng đă thấy hiện lên trong sự kiện một phe của Quốc sử quán không chịu lối công nhận “một phần” (phần Hùng Vương) để đ̣i giữ nguyên công tŕnh của Ngô Sĩ Liên.

 

Tuy nhiên hệ thống Hùng Vương dù qua bao thế kỉ th́ cũng chỉ dành cho tầng lớp cầm quyền tối cao để giữ danh vị của ḿnh, dành cho những người dùi mài kinh sử để mon men vào cơ cấu quyền bính. Tính chất phổ thông, “b́nh dân” của ông vua Hùng chỉ được mở rộng về sau theo với sự tiến bộ của thời đại giao thông thuận tiện, với báo chí, với câu ca, tiếng nhạc gợi tâm t́nh sâu kín về một đất nước nhọc nhằn nằm trong ṿng ngoại thuộc. Cho nên, với công cuộc chiến đấu giành độc lập lọt vào tay một tập đoàn chính trị chuyên trách vận động quần chúng từng đạt hiệu quả trên toàn thế giới, ông vua Hùng đă nhảy vụt lên trên điện đài lịch sử, không chỉ gợi tâm t́nh thân thuộc kính nể mà c̣n được khoác áo khoa học với các ngành nghiên cứu mới. Nhưng trong lúc cùng đi với đà tăng tiến phổ thông hóa, h́nh ảnh các vua Hùng cũng mang theo sự tŕ trệ của quá khứ chính danh được làm-mới lại. Các ông vua Hùng nay trở về trong tay những người lănh đạo đất nước nắm giữ các phương tiện kĩ thuật, nhân văn mới đă không muốn chừa cho một sự phản kháng nào cả. Sự thống nhất bằng quân lực năm 1975 với những xáo trộn tiếp theo sau đă được củng cố bằng một lề lối cai trị khắt khe, trong đó có cả việc điều phối dân số vào Nam để củng cố chiến thắng tận nền tảng quần chúng. Rồi với sự thành công có chừng mực trong việc nâng cao mức sống, người ta nhận ra rằng ông vua Hùng có thể sử dụng như một h́nh ảnh mang tính t́nh cảm hơn, siết chặt thêm tính thống nhất mà c̣n có dáng thành công êm dịu hơn. Thế là có việc nâng ngày giỗ Tổ của các hội đoàn điện phủ đền Hùng lên thành ngày Quốc lễ. Ông Hùng Vương chính thức thành Quốc tổ nước Việt từ năm 2007 tiếp tục kéo theo sự xu phụ ồ ạt, tuy b́nh thường mà có dạng văn minh tân tiến: Danh hiệu Đông Sơn từng được ghép với “thời đại Hùng Vương” được cổ động, trở thành “thương hiệu” Việt Nam, nhắc kèm với danh vọng vài tay khoa bảng Tây chẳng biết ǵ về cổ sử Việt; cái bánh chưng (thiu), bánh giầy (độn) của truyền thống cạnh tranh với li cà phê đời nguyên tử, muốn lập kỉ lục Guinness để dâng Tổ đến nỗi nhân viên của tổ chức này phải đến “dâng hương” trong ngày lễ 2008. Cái cồng của người thiểu số Quảng Nam cũng được dâng cho tổ Việt nhận ra sự hiện diện nhỏ bé của ḿnh… Bao nhiêu tiền của đổ ra để xây dựng đền Hùng mới ở TP. Hồ Chí Minh thay cái đền thờ lính Âu chiến trong Sở Thú. Bao nhiêu tiền của đổ ra tạo dựng một trung tâm đền Hùng hoành tráng cho Phú Thọ, có viện dẫn lời Tổng bí thư Lê Duẫn để xây dựng ngôi tháp 18 từng chứa bọc trăm trứng, hiện đại hoá với tính chất điển h́nh các thành phần khu vực địa lí Việt Nam mới… Người ta cương quyết biến huyền thoại thành bê tông, như các triều đại xưa đă phá dỡ ngôi miếu mái tranh vách lá để xây đền ngói gạch tường vây. Quá khứ, hiện tại quyện với nhau để những người di tản cũng lập đền Hùng trên đất mới, loan báo tổ chức Giỗ Tổ rầm rộ hơn (10-3âl. 2008), tranh giành quyền chính thống với những người đă xua đuổi họ để chiếm lấy nhà cửa, tiền bạc. Cả một sự thoả hiệp khuất lấp ban đầu, với thời gian, nay đă trở thành một lịch sử hoành tráng trong sự lấp liếm cường điệu, không dễ ǵ có thể đánh đổ được.

 

Chữ Hán, khung trời văn minh Hán đối với nhà nho là cao sang hơn tiếng nói, cuộc sống của tập thể dân chúng chung quanh cho nên họ thấy cần phải loại bỏ thực tế đó để vươn lên. Họ coi đất nước, triều đ́nh họ phục vụ như một thứ mẫu h́nh (tiểu) Thiên tử chuyển từ phương Bắc xuống, giống như Lê Thánh Tông bắt chước Hán Cao Tổ đái vào mũ các quan, hay xưa hơn, Ngô Xương Văn xưng là Nam Tấn Vương mượn danh nhà Hậu Tấn đồng thời của phương Bắc, Lê Hoàn lấy niên hiệu Thiên Phúc (936-944) cũng của nhà Hậu Tấn ngắn ngủi (936-946). Truyện tích Phù Đổng có kẻ xâm lấn là giặc Ân cũng thật dễ hiểu: Nho sĩ viết truyện, coi ḿnh đang phục vụ một ḍng chính thống Chu (“Ngô ṭng Chu” – Khổng Tử), th́ kẻ chống cự thất bại tất phải là kẻ thất bại của nhà Chu từ nơi cỗi gốc, nhà Ân. V́ thế cái cổng ngoài của Hoa Lư cũng mang tên Đồng Quan như trên đất Vạn Lí Trường Thành. Mơ mộng chuyển h́nh mẫu trở thành thực tế, họ chép luôn cả lời đồn đăi ước mơ thành sử kiện như chuyện Mạc Đỉnh Chi chụp lầm chim sẻ nơi triều đ́nh Nguyên kèm theo bài văn tế nàng công chúa nước lớn.

 

Nho gia học thuộc ḷng sách đă đem ra dẫn chứng, ngâm vịnh, sử dụng theo một tinh thần chiếm đoạt khá ngây thơ rồi để lại cho người sau bằng cớ như chính đó là của ḿnh, của thời đại ḿnh. Thơ Lạc Tân Vương, Tống từ được mượn để chứng tỏ kiến thức tột đỉnh của nhà ngoại giao thời mở nước. Cổ phong, từ khúc, Đường thi đă được Đặng Trần Côn xếp thành khúc ngâm của người Chinh phụ, tiền đề cho những dịch bản gây nhiều tranh căi, đến ngày nay lại phảng phất thêm một ư hướng feminist tân thời. Điều vay mượn nhập-tâm này cũng dẫn đến một tinh thần hướng thượng trong hoang tưởng của tầng lớp trí thức gia thần xưa, là chứng cớ rắp ranh đi vào sách vở chính thức của triều đ́nh với hàng chục câu chuyện truyền khẩu về các ông “lưỡng quốc trạng nguyên” có khi mang dấu vết tiền thân là hoàng đế phương Bắc (có chữ chứng minh trong ḷng bàn tay nắm chặt của cậu bé vừa lọt ḷng mẹ chẳng hạn!)

 

Những khuyết điểm như thế đă không được sửa chữa mà nhân thời gian tranh đấu độc lập vừa qua, sự tự tôn lại được tiếp cánh với lớp sử gia cục bộ dân tộc / địa phương chủ nghĩa ngày nay. Các sự kiện trong sách của vương triều xưa trở thành bằng chứng hùng hồn không thể chối căi về một quá khứ oai hùng, về một nền văn minh ưu việt của một trung tâm Thiên tử nhỏ chỉ có ban ơn chứ không thu nhận, chỉ có chiến thắng chứ không thất bại, chỉ có đạo đức vô cùng chứ không bạc ác xấu xa, dù chỉ là sai lầm b́nh thường như ở các khu vực nhân loại khác. Do đó khi giao tiếp được mở rộng trong thời đại mới để có dịp khoe khoang nhiều với các đối tượng vượt trên tầm mức địa phương, quốc gia, một lớp sử gia / học giả trịch thượng nối tiếp xuất hiện trên tư thế quyền uy, đương nhiên một cách thật trẻ con dễ thương. Cứ đem những nghiên cứu của các ông Nguyễn Văn Huyên, Đào Duy Anh, Trần Văn Giáp ra so sánh với các tác giả ngày nay th́ thấy rơ ràng sự khác biệt. (Ông Phạm Huy Thông, người có quyền chức bênh vực hùng hổ nhất cho Hùng Vương – Đông Sơn, trước 1945 chỉ nổi danh là thi sĩ chứ không phải là học giả, danh vị sau có vẻ là nhờ bằng cấp từ nước Pháp và sự nhanh chóng thích ứng với thời đại.) Tự ái địa phương giấu trong lớp vỏ dân tộc khiến người ta không thể chấp nhận sự thật rằng những bậc anh hùng khai sáng, vua chúa, con cháu dâu rể vua Hùng, tướng Hai Bà Trưng được ca ngợi, ghi vào sử sách từ lâu lại vốn chỉ là những loài “tinh gỗ đá, quái côn trùng,” ma da, rái cá, cá sấu, rùa, rắn… Không chỉ có những ông quan xứ Huế xa xôi mỉa mai như trên mà người xứ Hải Dương Phạm Đ́nh Hổ trong Vũ trung tùy bút cũng từng càu nhàu bực tức nên lời về t́nh trạng công kênh thần thánh, lịch sử xứ ḿnh như thế. Chưa kể loại bằng chứng ngờ nghệch của Lê Quư Đôn về việc ông thần Long Uyên bày tỏ oai linh, vật chết con trâu ngay giữa công đường! Cái ưu thế của một hai tập sách, theo với thời đại, đă có tầm mức lớn rộng hơn số lượng và nội dung thông tin nằm trong đó.

 

Đi theo với tính cách chủ nhân ông của đất nước, các sản phẩm tự tôn này xuống đến từng địa phương nhỏ, lan cả ra đến khối lưu vong, những người này hoặc dễ dàng chịu khuất phục v́ sự nhỏ bé của ḿnh, hoặc tuy mang tâm t́nh chống đối chính trị nhưng vẫn cảm nhận được thế yếu ớt của ḿnh nên lại cũng ào ạt chia xẻ sự ngông nghênh kia, tưởng chừng như có thể lấy đó làm bằng cớ có thẩm quyền để phủ nhận quyền bính hiện tại nọ. Quyền bính vững chắc thêm một thế hệ nữa th́ đủ thuyết phục đám con cháu của “khúc ruột ngàn dặm” không thích ứng được với xă hội mới, sẽ chịu lôi cuốn theo những Chuyện kể lịch sử, những phát hiện “sử liệu” mới vốn thật vô cùng xa lạ với tinh thần của nền giáo dục họ đang thụ nhận.

 

Sử học của thời mới cũng được phát triển nhờ sự tiếp trợ của những bộ môn khảo sát mới, nhất là khoa khảo cổ học, để đi sâu vào quá khứ hơn, ở những khu vực không có chữ viết làm bằng cớ hay có thoảng qua mà bằng cớ vật chất tiếp trợ c̣n ẩn sâu trong ḷng đất đâu đó. Tên Phù Nam th́ đă có trong ghi chép Trung Hoa, được học giả Pháp hồi đầu thế kỉ XX (P. Pelliot, 1903) diễn giải dài ḍng cho ra h́nh tượng một vùng đất, nhưng bằng cớ vật chất cho “đế quốc” ấy hiển hiện có tính cách thuyết phục là từ những khảo sát đào bới của L. Malleret trước Thế chiến II trên vùng Nam Bộ, tập trung ở Óc Eo, để đem danh xưng khuất lấp này vào bản đồ khảo cổ học quốc tế. Đất nước Champa nằm trong sử sách Việt, Trung Hoa chỉ có những ghi chép cống sứ cầu cạnh, những tù binh chiến bại, t́nh h́nh thật hợp với các tháp đổ nát c̣n lại nhưng khảo cổ học đă làm sáng tỏ thêm những giai đoạn lịch sử của nó, đă đào bới, lưu giữ, bảo tŕ những tượng đài, những công tŕnh kiến trúc chứng tỏ một nền văn minh đáng hănh diện không những của một thời mà, nếu chịu khó suy nghĩ, c̣n thấy ẩn khuất dưới những hiện tượng, sinh hoạt của lớp người hiện tại, trước mắt. Trên vùng Đại Việt, học giả Pháp đưa ra tên một nền văn hoá Hoà B́nh, Bắc Sơn c̣n giữ lại cái tên Hoà B́nh mở rộng cho cả vùng Đông Nam Á, thêm một nền văn minh Đông Sơn cùng những chứng tích mộ táng thời Bắc thuộc, một giai đoạn nghệ thuật Đại La với những đ́nh đền, chùa miếu thời độc lập được khai thác sâu hơn với các nhà khảo cổ học Việt Nam về sau. Có tầm mức lớn hiện nay là việc khai quật “hoàng thành Thăng Long” đang tiến hành, quan trọng th́ có đó nhưng đến tầm mức quốc tế như đă khoe khoang ầm ĩ th́ thật chưa đủ để vội vă lập hồ sơ xin UNESCO công nhận – như ư định lập hồ sơ cho đền Hùng, biểu lộ một tinh thần hiếu danh bệnh hoạn phô trương ra ngoài biên giới. (Xem sách ảnh Hoàng thành Thăng Long 2006.) Không biết người ta có tránh được cung cách “khảo cổ mĩ thuật” vướng víu trong ư thức tự tôn như khi khai quật các khu vực mộ địa mà chỉ lo thu hồi vật dụng, không quan tâm đến các cách sắp xếp, dàn trải các đơn vị…, đại khái những điều thuộc phần tinh tế của kĩ thuật đào bới, giúp người nay hiểu hơn về sinh hoạt b́nh thường của các tập đoàn xưa. Ch. Higham đă chê nhẹ như thế khi nói về các khai quật thời đá mới, đồng thau của Việt Nam.

 

Những ngành khoa học xă hội, nhân văn khác cũng góp phần vào việc làm sáng tỏ quá khứ toàn vùng. Có điều nền sử học khoa học non trẻ của Việt Nam đă phải chịu sự uốn nắn của những biến động chính trị hiện đại trong đó nền độc lập kết thành của đất nước lại lôi kéo sử gia trở về với vị trí sử thần xưa trong sự nhiệt thành mới, với quan niệm “văn chương để đời”, được khuyến khích bằng các loại Bảng vàng bia đá mới như các công tŕnh chịu mất danh hiệu riêng để gộp chung trong các “Tác phẩm được Giải thưởng Hồ Chí Minh”, như chứng cớ đă hiện h́nh nơi các tên đường “danh nhân” mới đặt ở các ngơ, xóm trung ương, nếu có chật hẹp th́ lấn xuống phía nam! Đường hướng “Sử học phục vụ chế độ” được chỉ đạo đề ra từ quyền bính chính trị đă khiến các công tŕnh tạo được tiếng vang với những người cả tin mà không thể nào ngờ đến mức độ sa sút phẩm chất của người nghiên cứu. Và v́ thế chúng thiếu phần thuyết phục với những người nh́n ra, thấy được sự can thiệp trắng trợn của người cầm quyền: “Các đồng chí phải nặn óc t́m cho ra chế độ chiếm hữu nô lệ ở Việt Nam”, đó là lời của Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói với các sử gia Miền Bắc. Cho nên, ví dụ trong công tŕnh chứng minh Có một thời đại Hùng Vương tuy có sự nhiệt thành của những nhà nghiên cứu, nhưng vốn dụng ư về phía nhà chính trị là chứng minh một thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ đă khiến cho công tŕnh khoa học kia thay v́ là những lần ṃ t́m ṭi theo chứng tích lại trở thành một bước đường tương đối giản dị: Chứng minh sự kiện theo một định đề có sẵn, chứng minh mọi sản phẩm đồng thau cao cấp (trống đồng, vũ khí, mộ táng…) đều là của một thời Hùng Vương hoàng kim không thể phủ nhận được. Hễ cứ thu nhặt được một sản phẩm đồng th́ tất là của văn minh Đông Sơn (bao hàm thời đại Hùng Vương, thật xưa!) không nệ rằng chúng có chứng tích nằm trong thời đại lịch sử. Trống đồng Cổ Loa có các ḍng chữ Hán của thế kỉ II, thế mà người ta cứ lập lờ để cả học giả ngoại quốc xếp chung với Ngọc Lũ thông thường được cho là của 6, 700 năm trước đó! Và v́ thế người ta cứ giữ măi thành Cổ Loa c̣n lại ngày nay cho là của An Dương Vương dù có chứng cớ trái lại.

 

Chuyện xưa đến chuyện gần gũi, chuyện nay: Chứng minh một thứ tinh thần dân tộc thống nhất có từ trong sâu thẳm của lịch sử loài người, trong tiềm thức của người dân Việt (?), không cần biết đám “người”/homo-, đám dân ấy phải chịu chuyển biến như thế nào qua thời gian, trên bước đường di chuyển. Mọi lí thuyết, sự kiện dẫn chứng mới có thể đưa đến một lề lối suy nghĩ rộng mở đều bị thu hẹp vào trong tinh thần “thống nhất” chính trị bây giờ để vẽ ra một tiến tŕnh lịch sử rồng rắn cắn đuôi quy về “tổ tiên ta từ Miền Bắc…” hàm ư khuất nhục người khác theo một tiến tŕnh lịch sử Nam tiến thuần chủng, suông đuột, tuy là đề tài mới nhưng đôi khi cũng có vẻ ngang ngược như chuyện Quang Trung thống nhất đất nước được tận t́nh đe doạ bênh vực một thời. Thêm một thế hệ, kể từ 1975, uốn ḿnh theo các chủ trương (chiến thắng đế quốc, chống bá quyền, nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh…) hay lúng túng xoay quanh các đề tài cũ, lúc co cụm, lúc rụt rè bứt phá, làm bằng chứng về phía học thuật cho t́nh h́nh chính trị co giật đổi mới theo định hướng xă hội chủ nghĩa. Trong t́nh trạng đó rơ ràng các sử gia, một phần v́ c̣n phải bám sát vào hệ thống thư lại mới nên đă tỏ ra c̣n tuân phục quyền bính hơn nhân vật của các ngành khác, như phía văn học chẳng hạn…

 

 

CHƯƠNG II

 

QUÁ KHỨ XA XƯA

 

 

 

Dấu vết những nền văn hoá khảo cổ

 

Phát hiện ở cuối thế kỉ XIX của E. Dubois với “người Java” đă có lúc khiến người ta tưởng là nhân loại phát xuất từ ĐNÁ cho đến khi có các phát hiện ở châu Phi với R. Leaky. Thuyết cỗi gốc loài người nằm ở châu Phi được các nhà khảo cổ chứng thực bằng các hiện vật xương cốt, và đến nay nó cũng không suy suyển khi các nhà di truyền học ở Berkeley lập thuyết mới dựa trên khảo sát mtDNA, đi t́m người phụ nữ đầu tiên (The Search for Eve) của thành phần nhân loại hiện nay (Homo sapiens). Riêng về ĐNÁ, tuy có những phát hiện ở Chu Khẩu Điếm và những kết quả rải rác trên đất Trung Quốc, người ta vẫn thấy dấu vết người cổ xưa nhất là trên vùng đảo Java để phỏng đoán về một trung tâm địa phương cho con người nơi đây. Việt Nam với phát hiện vài cái răng, mảnh xương hàm ở Thẩm Khuyên (Lạng Sơn) tuy bị người ngoài chê nhẹ “chưa thấy đưa ra chi tiết” nhưng cũng được tham dự như một phần hiện diện của con người Homo erectus trong vùng. Có vẻ các học giả Việt Nam hoặc chậm chạp trong kiến thức hoặc sợ mất phần trong sự chia xẻ vinh dự xưa cũ của Thẩm Khuyên được cho là khoảng 300 000 đến 500 000 năm trước, nên không mặn mà với lí thuyết mtDNA đơn trung tâm. Và do đó chúng ta thấy có những con số nối kết trong khoảng trung gian đến thời đại vua Hùng: người H. sapiens “sớm” ở Hang Hùm (Hoàng Liên Sơn), người H. sapiens “chân chính” ở hang Kéo Lèng (Lạng Sơn) cách ngày nay 30000 năm, rồi Sơn Vi ở Mái đá Ngườm (Bắc Thái) 23-18000 năm, Hoà B́nh 13000 năm, Bắc Sơn 10000 năm có gốm thô để chuẩn bị qua thời đại kim khí…(hay tuỳ tác giả mà có thay đổi địa điểm, xác định chủ thể, chuyển dịch thời gian) cứ như là đă chứng minh được phả hệ liên tục cha truyền con nối cả hàng chục vạn năm! Những dấu vết thời đá cũ của người cổ cũng thấy ở phía nam, trên đất Đồng Nai, Sông Bé cho là gần đồng thời với núi Đọ (Thanh Hoá), Thẩm Khuyên. Người ta c̣n nghĩ rằng có thể t́m dấu vết người cổ phía dưới lớp phún thạch trên đất Tây Nguyên như đă thấy chứng cớ thời đá cũ ở di chỉ Lung Leng (Kontum). Dấu vết người th́ chưa t́m ra nhưng dưới lớp basalt ở Tân Lộc (Dak Lak) thấy có di cốt động vật hoá thạch mang dấu vết chặt của người (?)

 

Các nhà cổ nhân học cố ghép những nhóm người xưa ấy vào những tập đoàn lớn với những di chủng c̣n lại ngày nay trên những vùng khuất lấp, cách biệt với những khu vực nhiều xáo trộn. Nhưng cũng có thể nói là phần lớn, như ngay chính các bộ xương c̣n lại chứng tỏ, họ không phải là tổ tiên trực tiếp của những người bây giờ đang sinh sống trên những vùng đất của họ. Người “Hoà B́nh” không là tổ tiên của dân Việt không phải v́ danh xưng kia chỉ mang tính cách quy ước của ngành khảo cổ học mà c̣n v́ các chứng cớ xương cốt để lại đă không đưa đến kết luận như thế. (Phải nhắc đến tính chất quy ước về tên của một nền văn hóa khảo cổ học v́ như có người, cả đến những nhà chuyên môn không đè nén được tinh thần tự tôn dân tộc, cứ cho người “Hoà B́nh” [ở bắc Việt Nam] mang ŕu đá đi khắp ĐNÁ, cứ thấy nơi nào có trống đồng th́ cho là có người Việt-cổ – gốc Đông Sơn, Bắc Việt Nam – đă từng sinh sống nơi ấy, không cần biết sau đó th́ họ đi đâu!)

 

Thông thường th́ người ta ghép các tập họp người ĐNÁ theo hai nhóm ngôn ngữ: Austro-asiatic và Austronesian. Giở một tập sách hay một chương nào bàn về các tập họp người ở Việt Nam th́ ta có thể thấy sự phân loại chi tiết từng nhóm một. Dân Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Austro-asiatic, c̣n dân Chàm là một phân nhánh của Austronesian. Vấn đề hướng di chuyển th́ trừ lí thuyết c̣n mới của S. Oppenheimer, thông thường người ta cho là từ lục địa tràn ra hải đảo như vẫn c̣n thấy trong thời đại lịch sử của quá khứ gần và trước mắt, có khi với những tập nhóm lẻ tẻ không phải không ảnh hưởng đến t́nh h́nh chung như ta vẫn tưởng. Lớp người Austronesian đi trước nên tiến xa hơn, kẻ chậm chạp là dân Chàm và những người đồng ngôn ngữ khác trên vùng Tây Nguyên – tuy chậm chạp nhưng họ đă ở phía đông Trường Sơn trong khi nhóm Mon-Khmer Austro-asiatic c̣n ở phía tây. Cũng có thuyết uyển chuyển hơn, cho Austronesian tuy cũng phát xuất từ Nam Trung Hoa như Austro-asiatic nhưng ra hải đảo phía Đài Loan rồi phát triển xuống nam, lộn ngược lên lục địa với dân Chàm và những nhóm liên hệ, ở đây họ lấn những dân nói tiếng Austro-asiatic trước khi bị người nói tiếng Việt thay thế. Có vẻ đến ngày nay th́ thuyết này mang tính thuyết phục thêm với di chỉ khảo cổ Lung Leng (2001), huyện Sa Thầy của Kontum đậm nét Sa Huỳnh với các mộ chum, nối kết với vùng đông bắc Thái Lan và trên đất Lào. Truyện cổ của các dân tộc Tây Nguyên cũng có nhắc đến gốc gác biển của họ. Theo sự chấp nhận chung ngày nay th́ tiếng Việt nằm trong phân nhánh Mon-Khmer của Austro-asiatic. Và chúng ta sẽ thấy, trên căn bản lịch sử ngôn ngữ, người ta nghĩ rằng đă có một ḍng di chuyển thu hẹp hơn đưa một lớp người từ Thượng Lào và bắc Khu 4 cũ của Việt Nam, xâm nhập đồng bằng Bắc Bộ vốn đă có người nói tiếng Tày Thái cổ ở đấy. Có những khoảng thời gian đứt đoạn không thể giúp nh́n ra sự liên tục của những tập nhóm dân đến sinh hoạt trong vùng. Nhiều giả thuyết đă đưa ra nhưng không đủ sức thuyết phục v́ thiếu chứng cớ đă đành mà c̣n v́ sự tranh luận có chen vào những tâm t́nh, tự ái riêng tư của người ngày nay nữa.

 

Không có dấu vết chứng tỏ dân săn bắn hái lượm Hoà B́nh Bắc Sơn rời hang đá ở độ cao 15 mét trở lên, xuống đồng dù rằng những nhà khảo cổ học Việt Nam muốn chứng minh có các dấu vết trồng trọt để gán danh hiệu văn hoá nông nghiệp cho những người này. Những tập nhóm ở bờ biển khoảng 8000 năm trước sống bằng hái lượm đă để lại các đống vỏ ṣ dày lớn vùng Thanh Hoá, Nghệ An. Lớp người ở ven vịnh Hạ Long 5000 năm trước cũng sống chủ yếu bằng hải sản. Nền nông nghiệp trồng lúa nước lại đi theo với lớp người Austro-asiatic v́ khi phục hồi tiếng cổ thấy có dấu vết hiểu biết về lúa. Lúa Oryza sativa đă có mặt đầu tiên khoảng 5000 tCn. ở Hà Mẫu Độ tỉnh Chiết Giang (nam Trường Giang) với hàng mét thóc trấu để lại. Trong khi đó dấu vết thóc ở Đồng Đậu là khoảng nửa sau thiên niên kỉ II tCn.

 

Các nhà khảo cổ học Việt Nam đă đem từ ḷng đất ra những hiểu biết về những tập đoàn người sinh sống trên vùng đồng bằng mà họ đưa ra các mốc tiến triển với các tên địa điểm Phùng Nguyên, Đồng Đậu, G̣ Mun, và tên Đông Sơn có sẵn. Đấy là những người đi theo sinh hoạt nông nghiệp, săn bắn chủ yếu c̣n bằng các vật dụng đồ đá mài nhẵn. Vật dụng trang sức cũng đa số là đồ đá. Người ta đă thuần dưỡng được trâu ḅ, heo, gà, chó như các dân tộc nông nghiệp Á Đông khác. Các khu vực cư trú có diện tích rộng nhưng chưa thấy dấu vết nhà cửa có lẽ v́ vật dụng xây cất bằng tre lá không thể lưu lại bền lâu được. Dấu vết đồng đă xuất hiện nhưng thay v́ chất liệu đồng thau thời ḱ Đông Sơn về sau có ch́ th́ thời ḱ này không có. Sinh hoạt sử dụng đồ đá c̣n chiếm ưu thế cho nên chỉ có thể coi các dấu vết kia như một thoáng “đổi mới” từ ảnh hưởng phương bắc tràn xuống hay từ Thái Lan qua, chưa kịp thay đổi nền tảng cũ.

 

Thời đại đồng sẽ phát triển khoảng nửa sau thiên niên kỉ I tCn. với vật chứng tiêu biểu là trống đồng và các ŕu đồng mang tính cách thờ cúng, phẩm vật tiêu biểu cho quyền lực hơn là để chiến đấu. Đó là thời đại thường được gọi là văn minh Đông Sơn. Tên gọi này nếu vẫn giữ tính chất quy ước của khảo cổ học th́ tránh được tính chất tự tôn khu vực, khỏi gây nên tranh căi để có thể xét đến những dạng đặc sắc từng vùng, và sự lan toả của nó có khi không phải chỉ v́ uy thế văn minh mà chỉ giản dị là sự chuyển dịch vật dụng như các trống đồng kiểu Heger t́m thấy ngoài Việt Nam, hoặc trong một chừng mực phải dè dặt hơn, trên vùng Tây Nguyên, B́nh Định, Khánh Hoà, B́nh Dương… ngày nay, hay các đơn vị mang kiểu dáng Vân Nam trên đất Việt. Danh xưng Văn minh Đông Sơn vẫn thường được sử dụng như của một nền văn hoá khảo cổ nhưng thật ra nó đă có phần đi sâu vào thời đại lịch sử nếu ta chịu khó khảo sát chi li hơn với các bằng cớ xuất hiện ở Bắc Việt Nam. Với những phát hiện mới, người ta không dùng tên Đông Sơn cho cả vùng Đông Nam Á mà nay đă dành riêng cho Việt Nam. Thời ḱ Đồng này mang dấu vết liên hệ với vùng Lĩnh Nam của nam Trung Quốc, được cho là khoảng nửa sau thiên niên kỉ I tCn. Tính chất sông nước thể hiện thật rơ trên trống Đông Sơn chứng tỏ thêm một dấu vết duyên hải, hải đảo, hoặc có tự nguồn gốc hoặc là bằng chứng thiên di như khi ông Đào Duy Anh muốn chứng minh liên hệ của đám dân Việt miền Phúc Kiến đi theo loài chim hậu điểu ông gọi là Lạc. Việc phát hiện mộ Triệu Mạt / Triệu Văn Vương, cháu Triệu Đà cho thấy dấu vết Đông Sơn đậm đà trên vùng Quảng Châu ngày xưa v́ h́nh tượng người lông chim trang trí trên tường mộ đă không khác trên trống đồng tí nào mà c̣n mang tính hoành tráng hơn. Tính sông nước cũng là dấu hiệu khác biệt với của tập đoàn Điền trên các trống đồng Vân Nam – ở đây tuy cũng có nhà sàn nhưng là tượng chứ không phải là tranh khắc, thêm có đánh nhau trên ngựa cỡi, có cọp leo thang, thuyền bè thô vụng hơn, có kho tàng vỏ ṣ gốc biển từ đó chứng minh cho tính chất lục địa của tập đoàn… Có nghĩa là hai tập đoàn cùng đúc trống đồng nhưng phát triển theo tính chất khu vực riêng biệt của ḿnh. V́ thế ta mới gặp những dấu vết trung gian như khi thấy thạp đồng Đào Thịnh có tượng người, trống đồng đính theo tượng ở khu vực Việt Nam (cóc từng chùm, chó, vật giống như cáo), c̣n người Chuỳnh thiểu số nay ở Quảng Tây th́ vừa có trống Đông Sơn, vừa chồng chất tượng xe trâu trên mặt trống.

 

Trên vùng đất Chàm cũ th́ cũng người Pháp đă phát hiện một nền văn hoá Sa Huỳnh với mộ chum c̣n nhiều bí ẩn. Đó là nền văn hoá được các nhà khảo cổ học Việt Nam cố chứng minh là tiền thân của văn minh Champa. Nó mang nhiều tính chất hải đảo với dấu vết gốm, các vật dụng trang sức, nhưng cũng có các gương đồng, tiền Hán… Và thắc mắc lớn nhất là nó mang tính chất thời ḱ đồ sắt, gần như không dính dấp ǵ đến vùng đồ đồng kề cận phía bắc – dù với các trống đồng phát hiện gần đây, chúng cũng mang sắc thái lạc loài với Sa Huỳnh thấy rơ. Xét theo tiến tŕnh phát triển ngôn ngữ th́ tiếng Chàm phát sinh khoảng 1000 năm tCn., do đó người ta cho rằng nhóm Chàm gốc Malayo-Polynesian lên lục địa trước cả thời ḱ đồng nơi này, rồi xuyên sâu vào vùng cao nguyên đông bắc Thái để chịu ảnh hưởng thời đại sắt nơi đây vốn có nhiều quặng sắt. Lối chôn cất Sa Huỳnh lại giống với ở Ban Kan Luang trên thung lũng Mun của Thái.

 

Chúng ta cũng lưu ư vùng Trấn Ninh (thường gọi là Cánh Đồng Chum) có các chum đá chứa tro xương thiêu. Có hang đá vôi thiêu xác, tro người thường th́ bỏ vào chum đất c̣n tro lănh chúa th́ trong chum đá. Nghĩa là vấn đề mộ chum lại bắt qua một nền văn hoá cự thạch: menhir ở Hua Pan tập trung từng vùng hay đặt cạnh đường đi, phía Việt Nam có dolmen Guốc vua Thục ở Cao Bằng, “bia đá” menhir ở Lào Cai, Lạng Sơn, lần xuống đồng bằng ở Bắc Giang, Bắc Ninh (núi Lạn Kha)… đến các ông Đống khổng lồ mơ hồ “bóp chết rắn, cắn nát núi, húi sạch rừng, bưng ngang lũ,” trong thời đại lịch sử đă biến thành ông Phù Đổng Thiên tướng giúp vua Hùng, ông Cao Lỗ giúp An Dương Vương, ông Lí Ông Trọng giúp vua Tần chống Hung Nô, ông thần Chàng Vàng / Đô Lỗ ở Thanh Hà, Hải Dương giúp Lê Đại Hành chống Tống. Trên đường vào nam có đá ở Quảng Ngăi, chuyển hoá thành người bắt cá biển bằng tay không ở cái Rổ Đó Khổng Lồ (nay là bán đảo Phương Mai, B́nh Định), nối kết các ông bà Khổng Lồ của hệ thống Khmer, cuối đường có mộ đá Xuân Lộc nổi danh, và tràn ra ngoài hải đảo mang dấu khắc hoạ người đi theo trống Heger I. Lại cũng thấy dấu vết mộ chum ở lớp đất tiền Óc Eo, trên vùng đất đỏ, giồng ngập mặn lưu vực Đồng Nai, ngoài đảo Côn Sơn, trên Tây Nguyên theo các khai quật gần đây. Chưa kể là c̣n có thể liên hệ mộ chum với mộ nồi ṿ úp nhau trên vùng Bắc Việt Nam, xa hơn đến tận Trung Quốc… Chính từ trong điểm chung vẫn có sự khác biệt do ảnh hưởng từng khu vực. Ta đă thấy chum đá ở Thượng Lào, nhưng ở vùng Chàm cũ th́ là chum đất chứa tro cải táng giống như ở Đồng Nai (Hàng G̣n, Phú Hoà…), ở Giồng Phệt (Bà Rịa Vũng Tàu) th́ chôn người chết trực tiếp trong chum đồng thời với các mộ đất, c̣n ở Phú Chánh (B́nh Dương) là chum gỗ! Nhưng lại cũng như tập nhóm Đông Sơn, Sa Huỳnh cũng kéo dài đến thời ḱ có sử như chứng cớ hiện diện của các vật dụng (gương Tây Hán ở B́nh Yên – Quảng Nam, gương Đông Hán ở Phú Chánh.)

 

Địa điểm Samrong Sen gần Biển Hồ thuộc vào thời đá mới + đồng, cư dân như người tại chỗ bây giờ. Có lẽ Nam Bộ ngày nay của thiên niên kỉ trước Công nguyên phần lớn c̣n thuộc cư dân Austronesian đồ đá. Đàn đá, một đặc trưng văn hoá Tây Nguyên ngày nay đă được t́m thấy trong tầng văn hoá khảo cổ ở B́nh Đa (Đồng Nai). Tuy nhiên ảnh hưởng đồng thau cũng đă tràn tới theo ngả Thái Lan nơi có các nguồn mỏ đồng được khai thác cung cấp đến các vùng thật xa. Ở Dốc Chùa bên bờ sông Đồng Nai người ta đă đào được các khuôn đúc ŕu đồng với số lượng nhiều nhất Việt Nam chưa kể số lượng khuôn đúc của dân vùng Bưng Bạc (Bà Rịa Vũng Tàu) sống trên nhà sàn. Nên mở ngoặc để nói về các qua đồng có văn khắc dấu chấm và chữ S rằn rện, thấy được ở Nam Bộ (Dốc Chùa 13 cái, Long Giao 18 cái – tổng cộng phỏng đoán là đến 70 cái) và một hai đơn vị ở B́nh Thuận, được nhà khảo cổ Việt Nam cho là thuộc thời Chiến Quốc và học giả thế giới bắt chước theo mà không lưu ư rằng các đạo quân Trần Thượng Xuyên (Minh, thế kỉ XVII) hay Lí Tài (Thanh, cuối thế kỉ XVIII) trong vùng có thể sử dụng các vũ khí tượng trưng (chất đồng ở đây mềm giống như là của đồ lỗ bộ) mang đặc điểm Hán tộc như thế. Lập luận càng vững chắc hơn khi trong năm 2006 một người Chu Ru đă phát hiện một kho qua đồng khác lên đến 6, 700 đơn vị ở Cẩm Mĩ, cách Long Giao khoảng 4km. Qua lần này lại thếp vàng chứng tỏ không phải là để chiến đấu, và toán quân Trần Thượng Xuyên được kể là chủ nhân hẳn hợp hơn là Lí Tài.

 

Những vùng śnh lầy cửa sông Đồng Nai cũng không vắng người. Lưu vực miền hạ Cửu Long tuy là lớn nhưng không phải chỉ mới tạo thành gần đây. Mũi Cà Mau đă thấy rơ ràng trên các bản đồ châu Âu xưa nhất. Các không ảnh cho thấy vùng Hậu Giang có những đường nước ngang dọc hoặc mang công dụng tưới tiêu, hoặc là đường thuỷ lưu thông. Cho nên các nhà khảo cổ Việt Nam bây giờ đào xới lớp đất dưới Óc Eo lấy mẫu C14 đo đạc thấy có dấu vết cư trú nhà sàn và sinh hoạt dân bản xứ trước khi ảnh hưởng Ấn Độ tràn tới.

 

Văn minh Đông Sơn và những đường nét sơ sử phía Bắc

 

Như đă nói, vùng phía bắc Việt Nam thấy tộc Hoa Hạ tràn xuống phía nam nên có ưu thế tiếp cận văn tự Hán sớm và khiến cho lịch sử nơi này sáng tỏ trước tiên.

 

Các tên chỉ về lănh thổ, tập đoàn, lănh tụ mà bây giờ người ta tranh căi để xác định về nguồn gốc dân tộc, diễn giải về lịch sử nơi này đều bắt đầu bằng dấu vết nơi các thư tịch Trung Quốc. Sử kí Tư Mă Thiên (viết khoảng 104-91 tCn.), Hán thư (viết khoảng 58-79) có các tên Lạc, Việt với những tập họp nhiều dạng h́nh của chúng: Lạc Việt, Âu Lạc, Tây Âu Lạc, Tây Âu, Đông Âu… Cựu Đường thư (viết khoảng 924-946), phần Địa lí chí dẫn Nam Việt chí của Thẩm Hoài Viễn (viết khoảng 453-456) có tên Hùng Vương, Hùng hầu, Hùng điền. C̣n Giao Châu ngoại vực kí gần với thời Nam Việt chí th́ được Thuỷ Kinh chú (515) nhắc đến Lạc Vương, Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc điền, Lạc dân. Có điều rắc rối nan giải là dù ở các sách xưa nhất như Sử kí, Hán thư, các bản văn hiện tồn cũng trải qua nhiều sửa đổi, nhiều chú giải của người sau qua những biến đổi ngữ âm, do sự mù mờ văn tự, cách ngắt chữ ngắt câu… khiến cho vấn đề xác định lại tuỳ thuộc vào tâm t́nh sử gia hơn lúc nào hết. Ví dụ trong khi Giao Châu ngoại vực kí kể ra cả một hệ thống tổ chức chính trị, kinh tế thông suốt trên dưới th́ Quảng Châu kí (420-436) lại không nhắc đến Lạc Vương. C̣n cụm từ “tây âu lạc” chẳng hiểu có gốc là một chỉ danh khác-Hán như thế nào nhưng bây giờ có thể xếp thành: Tây Âu Lạc (một “nước”), (phía) tây (là) Âu Lạc, Tây Âu (và) Lạc (Việt) rồi từ đó vị trí các lănh thổ, tập đoàn liên hệ có thể co dăn theo tinh thần yêu nước của các sử gia khiến cho nước Việt cổ xưa mở rộng ra không những chỉ ḱnh địch với thủ lănh địa phương là Triệu Đà mà c̣n tranh chiến với cả trung ương Tần Hán nữa. Các tên Việt, Lạc nh́n theo lối viết chữ quốc ngữ ngày nay được tranh luận nhiều để có người thấy có địa điểm L-Ạ-C ở vùng xuất phát của tộc Hoa Hạ, và không kể đến gốc gác chữ Hán như thế nào, bèn cho rằng dân Việt cũng có phần – mà là phần hơn, nên ghép Lạc thư là của Việt (Nam) rồi kéo luôn cả Hà đồ, âm dương ngũ hành…, càng lúc tin tưởng càng vững chắc không ǵ lay chuyển nổi.

 

Như đă thấy, các tên chỉ tộc danh, lănh thổ xưa nhất chỉ người Việt ngày nay là ở Sử kí, phần “Nam Việt Uư Đà liệt truyện,” Hán thư chỉ là chép theo và thêm bớt chi tiết. Những tranh luận về ư nghĩa đích thực của chúng chỉ gây thêm rắc rối v́ đó là cách phiên âm một từ, một ư niệm địa phương – cũng không hẳn là cố định, của một người đi buôn, một nhân vật quân sự, một tay thư lại Hán ghi vào sổ sách, rồi qua bao nhiêu chặng đường khác nhau sẽ chuyền đến tai Tư Mă Thiên ngồi ở Lạc Dương hay đang trên con đường phiêu lăng t́m kiến thức của ông. Và cũng v́ thế không có ǵ để xác nhận rằng tập đoàn Việt ở đây giống với nước Việt mà người Hoa Hạ biết có tranh giành quyền lực thời Chiến Quốc, thế kỉ V tCn. Tuy nhiên chính v́ lẽ gần cận âm vận này mà người Hán giữ được cái tên đó, đến khi tràn xuống phương nam, hiểu biết về địa phương có phần chi li hơn trước, liền xếp các tộc đoàn khác-Hán với một số thói tục tương tự ít nhiều vào cùng nhóm “Việt” để gọi gọn là Bách Việt, từ người dưới đồng, ngoài hải đảo như Lạc Việt, đến người trên núi cỡi voi như Điền Việt sâu tận bên trong cao nguyên Vân Nam. Rơ rệt có sự liên tưởng sẵn nên lời người chú giải Hán thư âm nghĩa cho Sử kí cũng có thể hiểu “Lạc là Việt đấy” (Lạc, Việt dă). Rồi từ đấy là lí thuyết thiên di của L. Aurousseau vẽ đường cho tập đoàn tan ră Việt Câu Tiễn xuống châu thổ sông Hồng. Ông Đào Duy Anh tuy bài bác Aurousseau nhưng cũng cho dân Việt vùng Phúc Kiến theo đường biển đến Bắc Bộ. Và như đă nói, h́nh tượng người-chim trên vách mộ Triệu Mạt là bằng chứng mới nhất về một dạng văn hoá mang tính đồng biển ở trên vùng người Hán gọi là của dân Bách Việt. Có điều dấu hiệu đa tạp ngôn ngữ c̣n thấy về sau cũng chứng minh vấn đề đă không giản dị.

 

Đám dân Lạc ấy làm ruộng nước, suy từ nguyên gốc nguồn tin (nói về ruộng, giống như với tập họp Hùng tương ứng) th́ không thể nào có tô tem là chim Lạc (?) hay chuyển từ “ló”, “lúa” cả. Diễn giải thông thường ngay từ văn bản xưa, là dân ấy làm ruộng theo nước thuỷ triều lên xuống nhưng ông Nguyễn Duy Hinh lại cho rằng đó là làm ruộng theo vùng mực nước khô cạn hay đầy ngập – vùng ruộng mùa và ruộng chiêm, sự phân biệt này là của thời có sử lưu truyền đến ngày nay. Lí lẽ chưa đủ vững chắc nhưng đó cũng là thêm một chứng dẫn về sự nan giải trong việc t́m hiểu nguyên ngữ nữa. Tập họp Lạc làm ruộng theo nước triều lên xuống cũng tương hợp với các h́nh khắc hoạ trên trống đồng với sinh hoạt nhà sàn giă gạo cùng với sinh hoạt sông nước có dáng lan ra biển rộng, lên phía Bắc, bên ngoài địa giới quốc gia ngày nay. Rồi như đă thấy, gần đồng thời với nguồn tin tiếp về tập họp chính trị Lạc trên đồng bằng Bắc Bộ ngày nay th́ cũng có nguồn tin về tập họp Hùng gần đâu đó. Thế là nảy ra ư cho rằng người xưa lẫn lộn. Có lẽ Ngô Sĩ Liên là sử gia Việt đầu tiên nêu ra ư kiến “Lạc tướng hậu ngoa vi Hùng tướng.” Chúng ta không hiểu tại sao ông không nói đến cấp bực Vương, chỉ biết rằng học giả Pháp H. Maspéro (1918) đă sử dụng lối viết chữ Hán để chứng minh chữ Hùng là Lạc viết sai qua, nghĩa là chỉ có Lạc Vương chứ không có Hùng Vương. Vấn đề không đi đến đâu cũng giống như khi ông chứng minh Văn Lang là từ Dạ Lang viết lẫn lộn qua. E. Gaspardone (1955) th́ lưu ư rằng Lạc và Hùng là hai truyền thống khác nhau. Ông Nguyễn Duy Hinh có vẻ không tin vào danh xưng Hùng Vương nên đề tựa cho quyển sách của ông là Văn minh Lạc Việt chứ không gọi là thời đại Hùng Vương hay Văn minh sông Hồng…

 

Tuy nhiên danh xưng Hùng Vương lại được một quyển sử khác đưa ra chắc nịch về thời ḱ xuất hiện, tuy không biết nguồn tin phát xuất từ đâu nhưng lại hợp với tính chất phối hợp thần, thế quyền của các chính quyền thời sơ sử và như thế làm an tâm các sử gia “Thời đại Hùng Vương” ngày nay hơn. Đại Việt sử lược ghi: “Đời Trang Vương nhà Chu (696-682 tCn.) ở bộ lạc Gia Ninh có dị nhân dùng ảo thuật quy phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chân chất, chính sự dùng lối thắt nút.” Không rơ tác giả vô danh kia lấy niên đại từ đâu. Nhưng căn cứ vào thời đại xuất hiện quyển sách th́ đồng thời với tác giả cũng có Hồ Tông Thốc với các sách Việt nam thế chí, Việt sử cương mục vào cuối thế kỉ XIV nói đến 18 đời Hùng Vương. Ngay cả người Minh, tác giả An Nam chí (1419) cũng nhắc đến Mị Nương “con gái Hùng Vương” ở Tản Viên. Có điều c̣n một chút lẫn lộn: Ở nơi mà ngày nay là đền Hùng, họ thấy có “cố chỉ của cung Lạc Vương.” Hai chữ Lạc và Hùng do đó cứ ngập ngừng quanh quất trong công tŕnh các sử gia Việt, và danh xưng Hùng chỉ trở thành độc bá khi có quyết định chính trị chen vào.

 

Như thế các dấu vết sử liệu cũng như thực địa cho thấy nơi quanh đỉnh đầu lưu vực sông Hồng từ xưa đă có ít ra là một tập họp có người đứng đầu xưng là “vương”. Điều đó không phải là lạ. Từ năm 180 tCn, Triệu Đà đă nói với sứ giả Hán rằng phía đông của ông ta thủ lănh Mân Việt một ngàn người tự xưng vương, phía tây, dân Âu Lạc ở trần cũng xưng vương! Gạt sang bên cách giải thích cụm từ “tây âu lạc” rắc rối như đă thấy, cứ cho rằng Âu Lạc Triệu Đà nói đây là nước của An Dương Vương th́ thấy rằng dưới ảnh hưởng của văn minh Hán tộc tràn xuống nam, nhiều tập họp dân bản thổ đă bắt đầu tổ chức thành đơn vị lớn nhỏ mà người cầm đầu theo cung cách hướng thượng tự nhiên, đă xưng Vương như nơi khuôn mẫu họ bắt chước theo. Nghĩa là không phải chỉ có (Mân Việt và) Âu Lạc mà Triệu Đà tiếp cận được. Những “nước” khác trong vùng không tiếp xúc được với người “có chữ” (Hán), đă tan biến vào trong thời gian chỉ c̣n lại một nước Lạc và một nước khác kém may mắn hơn nhưng vẫn đủ may mắn để tồn tại là “nước” Hùng. Nhiều trăm năm sau khi người Hán chiếm đóng, họ c̣n thấy ở vùng này có rất nhiều tập họp người khác ngôn ngữ, muốn hiểu nhau phải qua thông dịch, như đối với Việt Thường của sách vở xưa. Mă Viện thắng Hai Bà Trưng, bắt cả hơn 300 “cừ soái” đem về Linh Lăng. Gần hai trăm năm sau, sớ Tiết Tổng dâng lên vua Ngô (231) c̣n cho ta biết: “(Giao Chỉ) sông núi xa xôi, tập tục không như nhau, ngôn ngữ phải thông qua nhiều lần phiên dịch mới hiểu…” Và cả đến thế kỉ VIII, sự xuất hiện của Vua Đen Mai Thúc Loan c̣n cho thấy dấu vết không nhỏ của tập họp người mang dáng dấp Hải Đảo trên vùng Nghệ Tĩnh nay. Rơ ràng là trước khi người Hán biết đến xứ sở này, không thể có một chính quyền thống nhất dù sử gia ngày nay viện dẫn đến tài liệu thống kê dân số nói dân thuộc địa phương nam của nhà Hán đó có cả gần triệu người! Trở lại về trước, ta chỉ c̣n thấy hai tập họp Hùng và Lạc. Nguồn gốc của chữ Hùng th́ cũng đă có nhiều giải thích trong đó có của ông Trần Quốc Vượng, minh định cho một nền văn minh bản địa cao cấp, nhưng cũng như với trường hợp của chữ Lạc, vấn đề vẫn không đi đến kết luận thoả đáng.

 

Chúng ta chỉ thấy ngay khởi đầu, thông tin về hai tập họp người gần tương đồng thời đại đó đă có sự phân biệt về nơi cư trú. Lạc là để nói về một tập họp người trồng lúa nước nơi một vùng khoáng đăng, vùng đồng bằng gần biển, ít ra là tách biệt với rừng núi. C̣n Hùng, cũng có gốc từ ruộng đất như Lạc – tên “hùng điền” lấy từ ư đất bốc hơi mạnh, nghĩa là đất ở những thung lũng hẹp, gần rừng núi hơn. Truyền thuyết 50 người con theo mẹ lên núi có vẻ là rơi rớt của một ư niệm “hùng” như thế. Khi người Hán tràn xuống nam, họ chiếm vùng đồng bằng không những v́ Triệu Đà có liên hệ trước với Âu Lạc mà v́ từ bản thân khai thác của dân Hán, họ chủ yếu tập trung quyền bính ở vùng châu thổ, dành các đất trên rừng núi xa, cho thuộc vào ṿng ki mi (ràng buộc lỏng lẻo) v́ không đủ khả năng chế ngự. Tên Lạc, Âu Lạc, Lạc Việt trở thành quen thuộc trên cửa miệng, văn thư quan lại Hán để chỉ đám dân thuộc địa vùng đồng bằng theo với địa danh hành chính Giao Châu gồm cả Hợp Phố của Quảng Đông ngày nay, nên có lúc họ gọi là Lạc Việt cả người ở đảo Hải Nam. Tập họp Lạc Việt trở thành bao trùm trên cả những vùng không hẳn được xác định lúc đầu. C̣n người Hùng th́ bị quên lăng v́ lúc này đă trở thành điểm nhỏ bên lề những biến động lớn trong ghi chép của đế quốc Hán đă vươn đến tầm mức quốc tế, cho nên chỉ c̣n lại ở những kí ức địa phương. “Cung cũ của Lạc Vương,” lời ghi chép ở thế kỉ XV của người Minh đó là kết tụ của kí ức dân chúng địa phương về ông vua xưa của ḿnh (Hùng), và sự lầm lẫn của người cai trị về một loại lănh chúa mất địa vị (Lạc) đă bị lịch sử đưa vào ṿng “nội thuộc” của họ từ lâu. Họ Trần kiêu ngạo của vùng đồng bằng không xây cất cung ấy v́ họ không hề để ư đến một lănh chúa ở vùng di man như họ từng ứng xử. Đền đài tàn tạ mà người Minh trông thấy là của dân chúng và lănh chúa địa phương xây cất nên. Không biết các nhà khảo cổ Việt Nam hiện nay có lưu ư để t́m kiếm “cố cung” ấy hay không.

 

Trường hợp “quên” của người Hán cũng xuất hiện với người Việt về sau khi các quan cai trị đă ra đi mang Lạc Vương theo gót chân họ. Hùng Vương trở lại nổi bật trong lịch sử độc lập Việt và càng lúc càng có uy thế hơn khi một ḍng vua gốc man từ Thanh Hoá đến cai trị khiến cho nho sĩ trung châu Ngô Sĩ Liên thấy không có ǵ phải ngượng ngùng khi đưa một lănh chúa man vào làm tổ nước Việt của ông, công việc hợp với tính chất xưng tụng vị chủ tể như đúng với vai tṛ thần tử phải có, chưa kể là do sức ép từ tập đoàn Mường Thái đang cai trị trên thành phần tập đoàn trung châu yếu thế của ông.

 

Các sử gia Việt Nam ngày nay thường ghép “Thời đại Hùng Vương” với nền văn minh Đông Sơn, điều này th́ cũng không gây tranh căi lớn nếu không có ư tưởng Bốn ngàn năm văn hiến níu kéo vào. Muốn sử dụng từ “văn minh” cho giai đoạn Đông Sơn hẳn phải là nh́n từ những vật dụng cao cấp: vũ khí có trang trí, mang h́nh tượng người, thú dùng cho tế lễ hay để chứng tỏ uy thế một cấp bực quản lí vùng như đă nói. Và trống đồng. Trống đồng thấy nhiều nhất qua chứng tích sau trận thắng năm 43 của Mă Viện. Dù có đi t́m những ảnh hưởng từ bên ngoài vào th́ dấu vết địa phương cũng nổi bật trên trống đồng, ví dụ trong khi trống đồng Vân Nam rườm rà với các khuôn tượng th́ trống Việt phía nam tinh tế với các vành trang sức. Tất nhiên không thể bỗng nhiên người ta đúc ngay được một tuyệt phẩm của một ḍng trống cao cấp bởi phải trải qua nhiều giai đoạn thử nghiệm, sáng tạo. Thế mà ngay trên trống Ngọc Lũ đă thấy khắc đến 15 trống loại 1 rồi, điều đó có nghĩa là không thể biết khoảng thời gian bao lâu từ lúc có trống đồng nói chung đến trống Ngọc Lũ. Nhưng không nên có ảo tưởng t́m lại được nguyên mẫu v́ tự thân của tiến bộ người ta đă loại trừ những vật dụng xấu, kém một khi có các vật phẩm cao cấp hơn. Thêm nữa, đồng là hiếm th́ không thể lấy nguyên liệu mới đúc trống mới mà phải lấy ngay trên các trống xấu, cũ. Lối phân loại của Heger chỉ xác định tương đối giai đoạn suy tàn của trống chứ không phải là giai đoạn h́nh thành.

 

Việc tranh căi giành nhau “quê hương của trống Đông Sơn” giữa các học giả Trung-Việt trong các năm 1980 chỉ là sự nổ bùng do hậu quả của cuộc chiến 1979 chứ không đưa đến kết luận thoả đáng nào ngoài việc ai giữ phần nấy trong im lặng bên phe ḿnh. Phía Việt không chịu mẫu ở Vạn Gia Bá là nguyên thuỷ th́ hẳn cũng không chịu kết quả C14 ở Thạch Trại Sơn: 690+/-90 tCn. Việc xác định thời điểm đúc trống cao cấp c̣n thấy của Việt Nam lại thêm rắc rối v́ các trống Việt thường được t́m ra một cách t́nh cờ, tự bản thân không có dấu vết xác định thời đại. Trống ghép với mộ Việt Khê th́ chỉ là 530 tCn. nhưng mẫu thử nghiệm lấy từ gỗ thuyền th́ phải tụt lại khoảng cả trăm năm. Trừ một điểm hơi tỏ rơ, có thể là muộn, ở trống Cổ Loa. V́ những mù mờ nói trên nên người ta xếp thời điểm cao cấp của trống Đông Sơn là trước thế kỉ III tCn, thời điểm chưa có sự xâm nhập của quân binh Hán trên vùng này, hay thế kỉ VII, VIII tCn. ǵ đó, có lẽ là do chịu ảnh hưởng của đoạn văn Đại Việt sử lược kể trên để đặt cho đúng với thời đại vua Hùng. Thế là, với một chút dè dặt người ta cho thời điểm trống Đông Sơn là ở thế kỉ V tCn, trung b́nh nằm giữa thiên niên kỉ đó. Trống Cổ Loa được cho là thuộc loại Heger I lại có những ḍng chữ Hán không ai thiết tha t́m hiểu kĩ hơn nhưng được nhận ra là lối chữ của thế kỉ II. Như vậy trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ dù xưa hơn cũng vẫn khó có cách biệt đến cả mươi thế kỉ. Mặt khác, nh́n những biến dạng từ cá sấu thẳng ḿnh rồi uốn ḿnh, cách điệu trên trống, ŕu đồng, trên các hộ tâm phiến rồi ghép với chứng cớ ngôn ngữ biểu diễn con vật đó bằng chữ “long”/rồng mang ư thức cao cấp, Hán đem đặt tên cho thủ phủ thuộc địa: Long Biên / Long Uyên, để lên đến tột đỉnh là kinh đô Cá Sấu Thăng Long của Lí, ta thấy rơ ràng có những vật dụng của “văn minh Đông Sơn” đă không xưa cũ như ḷng tự tôn muốn thấy.

 

Tuy nhiên việc có các trống xưa ở vùng đồng bằng, gần đồng bằng, cũng như các dấu vết sinh hoạt thời đồng thau cao cấp (như khu mộ Việt Khê chẳng hạn) cũng chứng tỏ rằng các thủ lănh địa phương bản xứ đă có đủ khả năng về tiền bạc, tập họp người và quyền uy để đúc trống tạo thêm quyền uy trong các cuộc hội lễ từng được quan lại Hán đương thời ghi nhận. Có lẽ phải đến hàng vạn thủ lănh như thế đă ch́m lấp theo thời gian, theo với các trống đồng họ chôn hay lưu truyền cho Mă Viện tịch thu, có c̣n sót lại, t́nh cờ vẹt đất bày ra th́ lại phải mang những cái tên lạ lùng chưa có ngày xưa: Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa… May mắn trong đám thủ lĩnh ấy có hai tập họp được người Hán ghi lại mà nay cũng chỉ đọc ra tên theo kiểu của họ, không biết gốc gác là ǵ: Hùng “Vương,” Lạc “Vương.” Và họ trở thành biểu tượng cho địa phương một khi toàn vùng thay đổi, phát triển . Các cấp bực “vương”, “hầu”, “tướng” chỉ là mượn của quan niệm Trung Quốc, không thể nào được coi là giống với nguyên mẫu nhưng cũng để lại cho ta một ư niệm về một tổ chức tuy không lớn rộng nhưng có trên có dưới, có phân công nhiệm vụ điều hành dân sự và quân sự. Cũng nên theo các nghiên cứu ngày nay mà nhận ra rằng các trống loại 1 xuất hiện nhiều nhất ở ŕa tây nam đồng bằng sông Hồng và lan về nam đến sông Mă. Và cả những trống loại 1, hay các trống muộn hơn, vẫn có thể hoặc xuất hiện trong thời Bắc thuộc hay về sau, và nhờ giao thương phát triển mà lan tràn khắp Đông Nam Á.

 

Cả hai tài liệu gây ra sự phân vân Hùng/Lạc đều công nhận một nhân vật duy nhất lật đổ nhóm thủ lănh ăn ruộng kia: An Dương Vương. Lại cũng có điều phân vân không rơ, An Dương Vương là vua Thục của cái nước bị tiêu diệt năm 316 tCn., là “Con vua Thục” của ḍng giống lưu lạc kia, hay chỉ là một tên Thục mượn-tiếng, không bà con dây mơ rễ má ǵ với nhau như sau này ta thấy rất nhiều trên các triều đại mượn tên Trung Quốc. Là gốc gác từ đâu không rơ nhưng chắc chắn là “nước” Thục kia không ở xa “nước” Hùng/Lạc, đâu đó phía tây bắc theo các ḍng sông chuyển về đồng bằng t́m đất sống, mở mang địa vực, nới rộng quyền lực. Địa điểm Cổ Loa kèm theo, là nơi đóng đô, bằng chứng thường được chỉ ra là ngôi thành c̣n lại có vẻ không vững chắc hơn truyền thuyết lễ tế ngày nay ở làng Nhồi trong thành, liên kết thần đá Cao Lỗ với lănh tụ thế tục: vua. Và nhân vật An Dương Vương này có dáng lịch sử v́ bám vào một nhân vật lịch sử Trung Quốc: Triệu Đà. Dù có những loại chuyện thần thuyết kèm theo sự tranh chiến giữa đôi bên như chuyện nỏ thần lông ngỗng, nước Âu Lạc của An Dương Vương cũng xuất hiện với “Uư Đà” theo các tài liệu tiếp nối, cho thấy theo xác nhận thông thường là Đà đánh chiếm Âu Lạc vào khoảng năm 179 tCn. Quá khứ miền Bắc Việt Nam từ đây bắt đầu bước vào thời đại lịch sử thực sự.

 

CHƯƠNG III:

 

CÁC QUYỀN LỰC BẢN XỨ TRƯỚC SỰ TRÀN LẤN HOA ẤN

 

 

Vấn đề Triệu Đà – Nhà Triệu

 

Như đă thấy, tài liệu muộn như Nam Việt chí kể chuyện Thục cướp nước của Hùng Vương, rồi sau đó Triệu Đà lại chiếm đất Thục. Nhưng Sử kí hơn năm thế kỉ trước th́ chỉ nhắc đến Lạc, Âu Lạc để người sau (Quảng Châu kí) ghi chuyện “Thục vương tử” đánh Lạc hầu, xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê, cuối cùng bị Triệu Đà diệt, “sai hai sứ giả coi việc cai trị hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân tức là Âu Lạc vậy.” Thế là nối kết các tài liệu mà không đi vào chi tiết, ta có nhân vật An Dương Vương, ít ra là làm vua trên vùng đất đỉnh đầu trung châu sông Hồng, theo Toàn thư là từ 257 đến 208 tCn. Các con số không vững chắc nhưng hăy cứ ghi lại như một định hạn cho tâm trí vào thời mù mờ này, cũng như về số tuổi quá cao của Triệu Đà: 256-136tCn. Sử gia Đào Duy Anh th́ cho rằng Âu Lạc bị chiếm sau lúc Cao Hậu mất, sau năm 180 tCn. c̣n thời Thục Phán lên ngôi th́ khoảng 214 tCn. theo lập luận dân Việt công cử người đánh Tần của ông.

 

Triệu Đà chiếm Âu Lạc đặt hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, cũng theo sử ta, đặt hai viên điển sứ trông coi (về mặt hành chính?), c̣n về mặt quân sự có chức Tả tướng, nghĩa là “bảo hộ” Âu Lạc, nói theo lối bây giờ. Tên Giao Chỉ tuy gây nhiều tranh luận về ư nghĩa nhưng c̣n có thể t́m gốc gác trong các sách xưa của Trung Quốc chứ tên Cửu Chân th́ hoàn toàn mới mẻ, hoặc có thể đó chỉ là phiên âm của một từ địa phương mà sau không c̣n t́m được dấu vết. Nhờ chuyện chiếm đóng của Hán về sau, ta có tài liệu để suy đoán thêm là Triệu Đà vẫn để con cháu nhà Thục giữ vùng Tây Vu, xưng là Tây Vu Vương cũng chẳng sao, nghĩa là các thủ lănh ở các nơi khác vẫn trông coi phần đất, dân lệ thuộc ḿnh. Các sự kiện được ghi lại rời rạc, chắp nối như thế không cho ta thấy rơ những thay đổi trong vùng – chắc cũng không nhiều, nhưng cả hàng thế kỉ tiếp xúc trực tiếp với quyền lực Hán tộc, dù của địa phương, hẳn cũng không phải là không có chút ảnh hưởng nào. Khi quân Hán tiến đến bờ cơi Âu Lạc cũ th́ hai viên điển sứ của Triệu đă đem cống ḅ, rượu mừng và dâng sổ bộ hai quận. Cung cách giao tiếp không những đă có tính cách nghi lễ mà chi tiết c̣n chứng tỏ rằng những người cai trị của Triệu đă làm việc kiểm kê dân số trong vùng, hẳn là khác với lúc “tự do” trước kia.

 

Vai tṛ của nhà Triệu trong nước Việt ngày sau đă gây nhiều tranh căi và tuy có lúc bị phủ nhận nhưng kết quả để lại đă sâu đậm hơn là ta tưởng. Quyển sử chính thức đầu tiên cho Đại Việt, quyển Đại Việt sử kí, và quyển Đại Việt sử lược tiếp theo, cả hai đều sắp xếp nhà Triệu như một triều đại Việt. Cho nên không lấy làm lạ là tập họp sử chính thức tiếp theo, viết cho đến thế kỉ XVII cũng không đổi khác mà c̣n ghi chi tiết hơn: Người nối ngôi Triệu Đà là con Trọng Thuỷ, hàm ư con của Mị Châu với mớ lông ngỗng bay đâu đó. Những lời tán dương Triệu Đà không suy suyển qua các thời đại. Tuy nhiên dần dà th́ tính chất tách rời hệ thống phương Bắc cũng sâu đậm hơn nên lại thấy có phản ứng ngược như trường hợp Hồ Sĩ Dương trong lời b́nh khi soạn lại Lam Sơn thực lục (1679), vương vấn gợi nhớ thời chống Minh: “Vũ Đế nhà Triệu… chẳng qua cũng là một người Hán sang cai trị nước ta, chưa được chính thống.” Hơn hai trăm năm sau, Ngô Th́ Sĩ tuy cũng phủ nhận nhưng lúng túng trong tinh thần dân tộc hơn: Ông cho thời ḱ Triệu là “ngoại thuộc” nhưng với các triều Hán… Đường th́ ghi là “nội thuộc.” Một khoảng cách rành rẽ trong thời gian người Pháp cai trị qua đến thời ḱ kháng chiến giành độc lập khiến cho vấn đề loại trừ nhà Triệu mang tính dứt khoát hơn (Đào Duy Anh).

 

Tuy nhiên ảnh hưởng của sự công nhận nhà Triệu qua năm tháng dài không phải đă không đem lại tích cực từ một hướng khác: Đó là vai tṛ của nó trong sự h́nh thành quốc hiệu Việt Nam ngày nay. Được coi là Việt trong “vô số Việt” (bách Việt) vậy mà chỉ có nước Nam Việt dám đương đầu với Hán tộc, được chính quyền trung ương Hán tộc nhắc nhở luôn trong các văn thư với các triều đại độc lập về sau, cho nên Nam Việt có mặt trong sử Việt là một dấu hiệu bám víu hănh diện. Một người chống đối trong thời thuộc trị (Lí Bí) xưng là Nam Việt Đế (541). Chính sử Việt dựng lên một ông vua thần nước tiếp theo, đă xưng là Việt Vương lại mang thêm tính danh Triệu, nhập nhoà với ông Triệu Vũ Đế xưa để thờ chung trên châu thổ sông Hồng. Thế rồi tên nước của Đinh đối với Tống là Nam Việt Vương dành cho Đinh Liễn, với bên trong là Đại Cồ Việt rồi văn hoa hơn, là Đại Việt suốt gần mươi thế kỉ độc lập nhưng vẫn ở thế phiên thuộc chính trị, văn hoá không rời trung ương phương Bắc. Truyền thống bám vào Triệu Đà đó thành điều in trí hiển nhiên trong đầu các sử quan, cho đến cả một triều đ́nh thành danh xa tận phương nam như nhà Nguyễn, khi xưng tên nước, lúc khởi đầu cũng đă muốn là Nam Việt trước khi là Việt Nam theo sự ép uổng của nhà Thanh. Nước lớn muốn rẫy ra khỏi quá khứ, nước nhỏ vẫn lăn bám vào, cho nên đến ông Trần Trọng Kim với thế giới đă đổi khác mà vẫn c̣n giữ một chương Nhà Triệu trong quyển sử thời đại của ḿnh!

 

Các tập đoàn Lạc và quyền lực Hán: Vấn đề Mă Viện

 

Nam Việt mất, quân Hán nhân đó tràn xuống chiếm lĩnh cả phần thuộc địa Âu Lạc cũ, ngoài hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân lại đặt thêm quận Nhật Nam (111 tCn.) có dáng là đă tiến xa hơn về phía nam. Thật ra th́ phần lớn vùng thuộc địa mới này, một phần của Giao Chỉ Bộ, đều nằm về phía nam mặt trời luôn cả trong ngày Hạ chí (21-3) nhưng có vẻ người ta dành cái tên Nhật Nam (phía nam mặt trời) cho quận ở đuôi sau rốt. Biên giới của nó co dăn theo t́nh h́nh quyền lực của người chiếm đóng, có thể thấy là ở khoảng đèo Hải Vân ngày nay, nhưng có người muốn đẩy xa đến tận vùng đèo Cả. Trông coi mỗi quận là Thái thú có Đô uư cầm quân đồn trú. Triều đ́nh Hán đưa một quan chức là Thứ sử (lập năm 107 tCn.), tháng 8 đến kiểm tra, tháng Giêng trở về kinh đô báo cáo. Suốt cả thời ḱ cai trị của Tây Hán (111 tCn.- 6 sau Cn.) qua thời gian soán đoạt ngắn ngủi của Vương Măng (9-25), người ta chỉ ghi nhận có ba Thái thú, chứng tỏ sự thờ ơ của họ ở thuộc địa phương nam này. Ư định dùng Giao Chỉ làm vị trí trung gian để tiếp xúc với Đại Tần / Đông La Mă chỉ mới manh nha. Họ phải lo củng cố thuộc địa. Công việc mới mẻ, các quan Thái thú đốc thúc các trưởng lại trị dân qua tầng lớp Lạc tướng cũ, chỉ cốt giữ sao cho yên ổn. Trong buổi đầu c̣n phải lấy tiền bạc lúa gạo của các quận cũ cung cấp cho các quận mới, những đồ cống nạp dâng lên Triều đ́nh chắc là thu từ các Lạc tướng, thuộc về những đặc sản địa phương như ngà voi, sừng tê giác, ngọc trai, lông chim trả… Tài liệu hiếm hoi nhưng cũng đă thấy có chênh mực từng vùng như Giao Chỉ phải cung cấp gạo cho Cửu Chân v́ ở đây t́nh trạng sản xuất thấp kém hơn, dân chỉ biết lấy săn bắn làm nghiệp, Đô úy Triệu Quá phải dạy cày bằng ḅ, Thái thú Nhâm Diên chế điền khí, khai khẩn ruộng nương, lập quan hệ hôn nhân bằng giá thú… Ngay cả dân Giao Chỉ cũng làm sử gia Hán vốn quen với tập tục của ḿnh, phải ngạc nhiên chê bai: “Người như cầm thú, ngôn ngữ khác nhau, không phân biệt trưởng ấu, bới tóc ở gáy, đi chân đất, lấy vải luồn qua đầu làm áo” – kiểu poncho c̣n thấy ở Nam Mĩ ngày nay. Chứng nhân Tiết Tổng làm thái thú Hợp Phố ở gần bên th́ thấy chi li hơn: “Chu Nhai trừ chốn châu huyện việc giá thú tiến hành… (có) mai mối đến nhà, c̣n nam nữ dân chúng vào hội lễ thích nhau th́ tự thành vợ chồng, cha mẹ không cản trở được. Hai huyện Mê Linh của Giao Chỉ và Đô Lung của Cửu Chân, hễ anh chết th́ em lấy chị dâu làm tục đời đời (levirat), quan lại biết cũng không ngăn cấm được. Nam nữ quận Nhật Nam ở trần truồng không biết hổ thẹn…”

 

Tất nhiên t́nh h́nh không thể giữ yên măi như thế được. Về mặt tâm tưởng, quan lại Hán tự phụ ḿnh mang sứ mệnh vương hoá, phải lo “giáo hoá” dân man di cho biết lễ nghĩa, theo luật pháp mới, làm con dân Triều đ́nh trên cao. Về mặt thực tế, họ phải khai thác thuộc địa, thu thuế má để nuôi sống cả một hệ thống cai trị càng lúc càng phải cồng kềnh hơn. Trong công việc đó họ có thêm sự trợ giúp của những di dân đồng tộc hoặc đi t́m sinh kế, hoặc lánh nạn chính trị từ phương Bắc xuống như vào giai đoạn Vương Măng chiếm quyền. Người ta kể trong loại cải cách này có hai viên Thái thú được coi như đă đem lại hạnh phúc cho dân chúng thuộc địa: Tích Quang coi Giao Chỉ thời Vương Măng, được dẫn việc năm 29 của Đông Hán, Nhâm Diên quan chức cùng thời làm đổi thay ở quận Cửu Chân. Tuy nhiên khi quan lại thuộc địa tự coi như đă làm một ân huệ cho dân bản xứ th́ người bị trị lại oán hận khi nh́n vào phần đời sống họ phải mất đi. Các Lạc tướng thấy dân dưới quyền cũa ḿnh càng lúc càng vuột khỏi tầm tay trong lúc quyền lực Hán càng lúc càng chen vào mạnh mẽ hơn. Điều đó càng đậm nết với triều đại Hán thứ hai: Đông Hán bắt đầu năm 25, phục hưng ḍng họ cũ, đem lại uy thế lấn lướt hơn.

 

Thái thú đă lớn quyền thế mà năm 30, chức Đô uư c̣n được băi bỏ để Thái thú kiêm nhiệm, có nghĩa là nắm quyền dân sự lẫn quân sự. Cũng thời Đông Hán, Thứ sử không phải về kinh báo cáo như trước mà hiện diện liên tục ngay tại trị sở giám sát. Chức này vốn nhỏ hơn Thái thú nhưng hẳn v́ sự thay đổi này đă trở nên nhiều quyền hành hơn. Hệ thống cai trị như thế càng chặt chẽ hơn. Sử quan Hán khởi đầu đổ hết tội gây nên bạo loạn nơi Tô Định, người thay thế Tích Quang năm 34, tuy nhiên phải nhận rằng sự chuyển đổi người mới cũng là một nguyên cớ quan trọng. Thái thú đă lớn quyền, nhiệm sở lại cách xa triều đ́nh, nên dễ dàng vơ vét, nghĩa là Tô Định không làm ǵ khác hơn các đồng sự của ḿnh, chỉ có điều là có thể đă làm đậm hơn trong thời gian mới tới, hay là đă rủi ro đến vào lúc sự bất măn của dân bị trị lên đến cao độ. Và thế là có cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43) theo lối thường gọi cho đến nay, nhưng thật ra đây là của hai trung tâm Lạc liên kết: Mê Linh và Châu Diên (của ông Thi, chồng bà Trưng Trắc). Sự liên kết hôn nhân đó là dấu hiệu đe dọa rơ rệt cho nhà cầm quyền. Sau này với cuộc viễn chinh của Mă Viện, người ta thấy thêm các “cừ soái” phía nam: Đô Dương và Chu Bá ở Cửu Chân, không có vẻ ǵ là tướng lĩnh của Hai Bà cả. Thế mà cuộc nổi dậy lại có “uy danh động đến Bắc Phương,” chứng tỏ tầm mức bất măn đồng loạt rộng lớn của dân thuộc địa, không chỉ tuỳ thuộc vào số các lănh tụ c̣n được lịch sử ghi tên. Có khoảng 65 thành bị triệt hạ (nhiều hơn số huyện chính thức toàn cơi), có nghĩa là chừng ấy đơn vị người Hán bị tràn ngập ở mức độ khác nhau. Sau này c̣n thấy đền thờ Hai Bà trên những vùng đất phía bắc ngoài Việt Nam, chỉ v́ ngày xưa là thuộc Giao Châu nên chịu ảnh hưởng của cuộc nổi dậy năm 40. Cho nên, lo sợ cho sự sụp đổ của đế quốc mới hồi phục, Hán Quang Vũ mới cử viên tướng tài Mă Viện ra quân.

 

Với khả năng của bản thân và sức mạnh của nhà Hán hưng khởi lại, đầu năm 42, Mă Viện đă điều động hai vạn quân cùng thuyền xe ngh́n cỗ dẫn đến thành công trong những chiến dịch vũ băo: thắng ở Lăng Bạc (4-43), đầu năm sau chém được Trưng Trắc, Trưng Nhị, rồi đi suốt chiều dài thuộc địa, đánh dẹp ở địa phương, cuối năm 44 đă thu quân khải hoàn. Ta biết được t́nh h́nh chiến trận, địa phương nhờ tờ tấu tŕnh công tích lên vua Hán cùng những lời ông nói với tướng sĩ được ghi lại. Chiến tích đó đă đem đến đảo lộn lớn cho thuộc địa, chứng tỏ là sau cả hai ngàn năm mà dân chúng Việt c̣n thờ Đông Hán Đại Vương / Phục Ba trong các đ́nh làng. Nhưng tầm mức quan trọng của nó gợi nên cho các sử gia bây giờ lại là từ phân tích của H. Maspéro trong công tŕnh khảo cứu của ông mà ngay cả những người muốn bác bỏ cũng phải đồng ư theo một lối công nhận quanh co khác. Mă Viện đă xoá sạch tầng lớp Lạc tướng (hay con cháu) của chế độ bản xứ cũ qua chiến trận, hoặc tiêu diệt, hoặc bắt đi đày ở Linh Lăng phía bắc cho bật gốc rễ. Việc tịch thu trống đồng đúc ngựa, cấp thời cũng là phá vỡ nền tảng, lề lối sinh hoạt truyền thống cũ gây cản trở cho các giới chức cầm quyền. Ông đă sắp xếp việc cai trị ở quận huyện chặt chẽ hơn. Chính ông đă chia hai vùng đất bản bộ của con cháu An Dương Vương xưa để làm yếu đi sức đề kháng mà lại c̣n xây thành tŕ đóng quân kềm giữ nữa. Ngôi thành ấy, Kiển Thành / thành Kén, với hai lớp ṿng lũy bao quanh một trung tâm, đă đứng sừng sững trên một vùng cho đến măi thời cận đại vẫn không có loại tương đương. Ngôi thành sẽ được sử quan Việt gọi là Cổ Loa và gán cho An Dương Vương ấy, ghép với ḱ tích thần nhân xây dựng, được đồn thổi ra đến 9 ṿng thành, rất cao, chu vi 9 dặm làm niềm hănh diện cho sử gia Việt đến bây giờ.

 

Tác động huỷ diệt của chiến tranh sâu xa đến mức khiến không c̣n sức phản kháng nào đáng kể của dân bản xứ trong một thời gian dài lâu. Họ phải chờ sự thay đổi nơi chính bản thân họ, mà lần này th́ lại là từ người cai trị họ đưa tới. Đổi thay lớn tới mức cho tới nay có người phải tự hỏi: Qua ngàn năm Bắc thuộc, đám dân bản xứ đă bị đồng hoá hay chỉ là chuyển hoá thôi?

 

Thật ra th́ vấn đề đổi thay ở thuộc địa Giao Chỉ cũng không phải chỉ là do công tích của Mă Viện. Tự bản chất, chiến tranh nào cũng là nguồn gốc của phá hoại, triệt tiêu, do đó sự suy sụp của tầng lớp Lạc tướng khi thất bại cũng là điều dễ hiểu. Và tiếp theo đó th́ phải có sự thay thế nhưng lại tiến triển rất chậm chạp. Cứ nh́n những điều ghi chép trong sử các triều đại Trung Quốc cai trị vào thời này mà sử ta chép lại th́ rơ ràng là rất lưa thưa. Số mộ Hán khai quật trước Thế chiến II cho thấy các quan lại phải chịu chôn tại chỗ, không thể đưa xác về quê hương bản quán, chứng tỏ một t́nh trạng giao tiếp xa xôi cách trở giữa các khu vực. Trận địa, theo lời Mă Viện than thở với thuộc tướng: “Trời th́ dưới nước lụt, trên mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt, trông lên th́ thấy diều hâu bay bổng rớt xuống nước chết…” Với viên tướng nổi danh đă để lại cho đời nguyện vọng “da ngựa bọc thây” mà c̣n bi quan đến như thế, trông con chim bói cá thành chim diều hâu chết ngộp (B́nh Nguyên Lộc 1971), th́ t́nh h́nh đối với các viên quan khác phải thấy là bi đát đến đâu! Và chính t́nh trạng phân cách đó đă khiến cho thuộc địa từ từ đi vào đổi thay để giữ được một phần bản sắc của ḿnh.

 

Cuối đường Đế quốc Hán: Lâm Ấp

 

Không những các sử quan Hán đă ghi lại những biến động ở vùng Bắc Việt Nam ngày nay mà họ c̣n lưu giữ được sự hiện diện của một tập họp chính quyền xuất phát từ chính thuộc địa của họ, có tên là nước Lâm Ấp. Phần này thoát được số phận của phần phía Bắc, không phải chịu đeo đuổi măi trong ṿng lệ thuộc văn hoá Hán cả sau thời độc lập mà lại mang một tính cách riêng trước khi phải chịu khuất phục hẳn, lần này lại là qua kẻ nối tiếp tính chất họ đă rời bỏ trước kia.

 

Chúng ta đă biết quận Nhật Nam của nhà Hán có phần cuối là huyện Tượng Lâm, đi xa về phía nam mà sử gia ngày nay chỉ định một giới hạn khá rộng, hoặc đến đèo Cù Mông, hoặc măi tận đèo Cả. Trong khoảng địa vực ấy, sử quan Hán đă ghi những biến động chống đối của một/những tập họp dân bản xứ không lầm lẫn được với di dân phương Bắc mà họ gọi là “lại dân.” Tập họp dân bản xứ có sức mạnh khiến cho người nổi dậy ở Cửu Chân phải nương tựa vào họ (chuyện năm 157), và làm e dè chính quyền trung ương không muốn cất quân chinh phạt (138). Biến động trải suốt thế kỉ I, II (các năm 100, 137, 144, 157, 190), cuối cùng dẫn đến việc thành lập nước Lâm Ấp mà quốc danh chỉ thấy ghi vào năm 347 trong Lâm Ấp kí, sách viết có lẽ vào khoảng nửa sau thế kỉ V.

 

Hành trạng của những người cầm đầu nước này được sử quan Hán ghi rơ: Khu Liên, Phạm Hùng (làm vua 270-280), Phạm Dật (+336), Phạm Văn (làm vua 336-349), Phạm Phật (349-380), Phạm Hồ Đạt (380-413) nối tiếp nhau từ thế kỉ II đến thế kỉ V. Tên vua được ghi bằng âm Hán v́ lí do qua ghi chép của người Hán nên không thể nào hoàn nguyên lại âm bản xứ được. Tuy nhiên có thể thấy rằng Khu Liên được nhắc tới qua hai lần nổi dậy (137, 190) là chứng cớ không phải tên riêng cá nhân hoặc tộc đoàn. Sử gia Đào Duy Anh đă cho rằng chỉ có lần nổi dậy năm 137 là đúng thôi, c̣n lần thứ hai là do lầm lẫn của người ghi chép về sau. Nếu nhớ rằng người Hán không có âm R, phải thay thế bằng âm L th́ Khu Liên có thể là Khu Riên và do đó có âm gần cận với ku rung, danh xưng chỉ tộc trưởng, thủ lĩnh trong ngôn ngữ austro-asiatic như đă bàn luận. Điều này có vẻ mâu thuẫn với sự hiểu biết của ta về tộc chủ thể thành lập nước Champa có nguồn gốc hải đảo nói tiếng malayo-polynesian, một nhánh của austronesian. Nhưng có lẽ chính v́ dấu vết Hán tràn ngập trên thuộc địa khiến ta không nhận ra rằng những Đinh, Lê sau này vẫn có dáng dấp những kurung / khu liên của Lâm Ấp. Nghĩa là một sự nhập nhoà văn hoá vẫn có thể xảy ra trong một khu vực chính trị tập họp nhiều chủng loại.

 

Người ta có thể nghi ngờ sự liên tục lịch sử của phần đất phía nam này với các tên “nước” tiếp theo: Hoàn Vương, Chiêm Thành. Tuy nhiên, dấu hiệu xuất phát của Lâm Ấp như đă thấy là từ một mảnh thuộc địa Hán tách rời ra, phần huyện Tượng Lâm bị chuyển đổi là Tượng-Lâm-ấp rồi đánh rơi một phần, c̣n lại là Lâm-ấp được giữ thành tên nước, theo cách gọi tiện lợi cho một triều đ́nh Hán. Tấn thư cho biết “Khu Liên” là con viên công tào huyện Tượng Lâm mà công tào là chức quan dưới quyền Thái thú coi việc đề bạt công lao, điều đó chứng tỏ người nổi dậy đă thấm nhuần ảnh hưởng Hán không ít. Mặt khác, ảnh hưởng hải đảo thấy trên dấu vết văn hoá Sa Huỳnh đă khiến có sự tách rời dễ dàng thuộc địa Hán ở một vùng xa xôi mà binh lực chính quyền khó đạt hiệu quả. Các lưu vực nhỏ cách biệt bằng những khối núi đâm ngang ở Miền Trung ngày nay, trong khi dung chứa những tập họp cư dân Sa Huỳnh, phải có những phản ứng khác nhau theo thời gian, do ảnh hưởng từ hai khối Hoa Ấn để vươn lên đến tổ chức tập quyền lănh thổ cao, đó là lí do cấu thành chênh lệch các nước Chàm sau này và cũng là lí do chính về sự trưởng thành và suy yếu của họ. Ảnh hưởng Hán đến với Lâm Ấp không phải chỉ từ những manh mún kiến thức xâm nhập vào thuộc địa mà c̣n là từ nội địa của chức quyền chiếm đóng: Phạm Văn là thuộc tướng của một nhân vật bên trong Nhật Nam, với kinh nghiệm đi buôn Trung Quốc đă trở về bày vẽ cho Phạm Dật xây cung thất, thành tŕ rồi sau đó phát triển thêm quyền lực lănh thổ. Nét vạch văn hoá xê xích quanh vùng Thuận Quảng c̣n thấy về sau khiến ta nghĩ đến giai đoạn đầu mà kinh thành Khu Túc quanh vùng Huế mang ảnh hưởng Hán hơn, và thành Trà Kiệu (Quảng Nam) th́ đậm ảnh hưởng Ấn hơn của khu vực Amaravati ở đấy, cả hai yếu tố đă đồng thời làm nên nước Lâm Ấp trong t́nh trạng tiên khởi của nó. Từ đó ta nhận ra sự mập mờ nguyên ngữ của họ Phạm làm vua nơi này.

 

Họ Phạm được ghi lại của các vua Lâm Ấp không phải là điều chứng tỏ họ theo chế độ tông pháp của Trung Hoa. Bởi v́ Phạm Văn không dính dấp thân tộc ǵ với Phạm Dật mà ông ta cướp ngôi, c̣n chủ tướng của Văn cũng được gán là họ Phạm, Phạm Chuỳ/Trĩ. Các vua Phù Nam được sử quan Trung Hoa chép ra cũng không thoát họ Phạm. Vua Lâm Ấp không có bia đá mang tên tương đương nhưng các vua về sau đă được khắc để người ta đem ra đối chiếu, và thường gán cho chữ “phạm” là chuyển từ cái đuôi “…varman” của Phạn ngữ, nên nếu không có đối chứng người ta vẫn cố hoàn nguyên theo hướng này như khi G. Maspero cho Bê-mi-thuế bị Lê Hoàn giết (982) là Paramesvaravarman. Dù sao th́ đó cũng là chứng cớ ảnh hưởng Ấn Độ đă tràn đến trong vùng mà cũng có thể v́ ảnh hưởng này khiến cho vùng chịu đựng quyền lực Hán ít nhất – v́ xa xôi cách trở này, đă có đủ khả năng tách rời khỏi đế quốc Hán. Rồi với thời gian, khi Trung Hoa gặp nạn phân liệt Nam Bắc triều không đủ sức thu hồi lại phần đă mất, nhóm người chống đối đă tiếp thu ảnh hưởng Ấn mạnh hơn để không những không trở lại tuỳ thuộc mà c̣n lấn ra phía bắc, làm kẻ ḱnh địch trong nhiều thế kỉ tiếp theo. Những cuộc đánh phá Lâm Ấp của các quan lại Giao Chỉ thường cho thấy là đă cướp nhiều vàng bạc, tượng thần bằng vàng… và ngược lại, các ghi chú về những trận cướp phá Tháp Bà của “cướp biển” Mă Lai trên bia kí, chứng tỏ Lâm Ấp (và Chiêm Thành về sau) đă lậm sâu vào ḍng giao thương thời cổ của Ấn hướng về tính cách thu mua vàng ở bán đảo Mă Lai, ảnh hưởng đến Phù Nam, Java. Hết thời ḱ Phù Nam, họ c̣n hưởng tiếp với vai tṛ bến đậu của các ghe thuyền từ Trung Quốc đi qua eo biền Sunda và ngược lại, khi có sự xê dịch chuyển đổi đường giao thương đông tây từ thế kỉ V.

 

Kinh đô Lâm Ấp tuy không được xác định rơ, nhưng vị trí không ngoài vùng Thừa Thiên Quảng Nam ngày nay vốn có ưu thế là phần lục địa chồm ra biển khơi nhiều hơn so với vùng phía bắc, nên là chốn thuận lợi cho những cuộc giao tiếp hàng hải, là trạm trung chuyển của các chuyến thương buôn Hoa qua Ấn, ra vùng hải đảo hay ngược lại. Truyện tích Bà Chúa Xứ ghi nhận ở Tháp Bà Nha Trang ngày nay là kết tụ của ḍng giao thương sản vật quư trong vùng: trầm hương, lan đến tận Trung Hoa phía bắc, và cũng ẩn hiện trong khúc gỗ trôi nổi ở truyện tích Lợi tế Linh thông Huệ tín Vương (Việt điện u linh tập). Trung tâm của Lâm Ấp tả ở Thuỷ Kinh chú mang dáng vẻ thô sơ có thể tạm dùng cho giai đoạn đầu được: “Đô thành có điện quay về hướng đông, cao hơn thành quá một trượng rưỡi… dùng phân ḅ trát tường vách màu xanh (?)… Phi tần không có cung quán ở riêng… Đền thần tháp quỷ lớn nhỏ 8 miếu, đài tạ nhiều tầng giống như tháp Phật, ngoài thành không có phố xá, ít người ở; bờ bể tiêu điều, không thể là nơi người ta ở được…”

 

Rơ ràng là nội địa Lâm Ấp không đủ cho một nền nông nghiệp nuôi sống vững vàng một số đông người để làm cơ sở cho sự cường thịnh lâu dài. Lợi tức bấp bênh từ việc khai thác sản phẩm hái lượm địa phương nhiệt đới và từ vai tṛ trung gian buôn bán là chứng cớ về sự bất thường trong những giai đoạn cường thịnh và yếu ớt của họ. Đất đai không đủ nuôi một số dân đông cần thiết cho tổ chức chính quyền lớn, quân lực mạnh. Xứ sở đó làm bến đỗ của ḍng giao thương lớn cũng từng mang lại sự thịnh vượng nhưng lại dung chứa nhiều thành phần lưu dân trên biển bất hợp pháp, v́ thế đất nước Lâm Ấp / Chàm thường bị lôi cuốn vào những cuộc cướp phá các nước lân cận (mà không đủ khả năng mở rộng lănh thổ) hoặc v́ cạnh tranh hoặc để lấy của cải. Cho nên trong lịch sử của họ có thật nhiều giai đoạn với những nhân vật nổi bật trong chiến tranh lại dễ dàng suy sụp tiếp theo chỉ v́ nhân vật kia chết đi đă để lại cả một khoảng trống quyền lực dẫn đến t́nh trạng tranh giành, rối loạn.

 

Sử Trung Hoa tuy là mang tính cách tài liệu thiết yếu giúp ta hiểu về vùng đất trung Việt Nam thời xưa này nhưng phần lớn mang tính tổng hợp nên khó tách ra để hiểu cư dân Lâm Ấp sống như thế nào, chịu đựng thể chế chính trị làm sao… Tuy nhiên nếu dùng tài liệu xưa nhất là Tấn thư (nửa đầu thế kỉ VII) th́ có thể nghe tả: “Tục nước đó đều mở cửa phía bắc hướng về mặt trời, c̣n như nhà ở hướng đông hay tây không nhất định. Người tính hung hăn, giỏi chiến đấu, tài đi núi, quen ở nước, không quen ở đất bằng. Bốn mùa ấm áp… không tuyết, người ở trần, đi chân đất, cho màu đen là đẹp, quư nữ khinh nam, cùng họ kết hôn với nhau, phụ nữ đi hỏi rể trước. Con gái lúc cưới mặc áo già bàn (?), quấn ngang tấm vải may kín như bờ rào giếng, đầu đội hoa báu. Người có tang cắt mái tóc, coi là có hiếu. Đốt thây ngoài nội coi là tang lễ. Vua đội mũ thiên quan, đeo chuỗi ngọc mỗi lần ra triều, tử đệ thị thần đều không được tới gần… (Thư thông hiếu Trung Quốc) đều viết chữ Hồ…” Gộp lại để suy đoán th́ thấy dân Lâm Áp thiên vể nghề đi biển, thân tộc truyền theo ḍng mẹ, việc đốt thây có dáng như làm chứng cho các mộ chum đào được ngày nay. Một chi tiết đáng chú ư v́ c̣n được Lê Quư Đôn ghi thoáng chút liên hệ: Vua chúa, dân chúng họ mặc áo vải cát bá / cổ bá / cổ bối, tên cây đă chuyển qua âm Hán Việt nhưng c̣n dễ thấy nguyên gốc Mă Lai qua tiếng Anh Pháp là kapok ngày nay. Đó là vải dệt từ bông (cây) g̣n mà Lê Quư Đôn có ghi nhận với tên “mộc miên”, với dư âm trong ngôn ngữ dân chúng ngày nay c̣n chữ “bông g̣n” để chỉ loại bông vải dùng trong ngành y tế.

 

Tuy nhiên cũng không hẳn có sự đồng nhất văn hoá hay chủng tộc ở vùng này. Thứ sử Giao Châu Đào Hoàng từng tâu với Tấn Đế (353): “(Lâm Ấp) rất nhiều chủng loại, bè đảng dựa nhau…” Ngày nay người ta c̣n thấy một nhóm khá lớn nóí tiếng chamic, Chàm H’roi, ở ngay phía tây kinh đô Vijaya của các thế kỉ X – XV, vậy mà có vẻ không chút gắn bó nào với đồng chủng phía đông. Chính sự tiếp xúc với người Hán trong t́nh cảnh thuộc trị đă khiến cho một nhóm Chăm học được cách tập họp người, tổ chức quản lí của Hán gây dựng nên một trung tâm quyền lực mà ta theo Trung Quốc gọi là nước Lâm Ấp, trong khi không thể biết đến những tập họp khác mà chứng cớ ngày nay vốn là từ những nhà khảo cổ. Họ t́m thấy những tấm bia chỉ rơ vào nửa sau thế kỉ IV trên vùng Quảng Nam đến Phú Yên ngày nay có một ông vua tên Phạn là Bhadravarman, người dựng ở Mĩ Sơn ngôi đền đầu tiên thờ thần Civa tượng trưng bằng linga, cái linga xưa nhất trên vùng Đông Dương. Thung lũng Mĩ Sơn trở thành Thánh địa của nhiều triều đại với ḥn Chụp Mahaparvata lù lù to lớn trong vùng tượng trưng cho núi Meru, trung tâm vũ trụ theo tin tưởng Ấn Giáo. Và trên vùng Trà Kiệu, phía đông Mĩ Sơn lại cũng có tấm bia xưa nhất bằng chữ Chàm, nghĩa là lúc đó có một tập họp nói tiếng Chàm trong vùng Quảng Nam này. Các học giả đă cố đồng hoá ông vua này với Phạm Hồ Đạt hay Phạm Phật trong sách sử Trung Hoa nhưng sự đối chiếu không được sít sao, không gây được thoả thiếp. Chỉ có thể giả định rằng đó cũng là một trung tâm Chàm khác mang dấu Ấn hoá đậm hơn, có thể là Amaravati với kinh đô Sinhapura, ṇng cốt của tập họp mang tên Champa sau này, kết hợp với Lâm Ấp trong sự phát triển để đương cự với nhà cầm quyền thuộc địa phương bắc.

 

Vào giữa thế kỉ III, Lâm Ấp đă lấn ra đến sông Gianh ngày nay, đẩy tiền đồn đến nơi này mà có người đoán định là thành Khu Túc. Phạm Văn, người với kiến thức Hán nhiều như đă nói, có bốn năm vạn quân (Tấn thư) từng đánh chiếm các vùng mang tên không Hán tí nào, nghĩa là ngoài ṿng của Nhật Nam, bên trong của Lâm Ấp: Đại Ḱ Giới, Tiểu Ḱ Giới, Thúc Bộc, Từ Lang, Khuất Đô Càn, Lỗ Phù Đan. Với lực lượng đó, năm 347, Văn công hăm Nhật Nam, giết thái thú, san bằng thành tŕ rồi đề nghị lấy Hoành Sơn làm biên giới và c̣n tiếp tục đánh phá các năm sau cho đến khi chết. Sức phản công của châu Giao đối với Lâm Ấp nổi rơ khi có sự hợp nhất từ trung ương như nhà Tấn với thứ sử Nguyễn Phu (353), với các quan thuộc địa cai trị nổi bật như trường hợp nhà họ Đỗ các năm 381, 399, 413 c̣n th́ chỉ nghe những lời than phiền bất lực: “(Lâm Ấp hàng năm) cướp bóc dân lành, phá quận huyện, giết hại trưởng lại.” (Lời Đào Hoàng, chuyện TT nhắc năm 353.) Vào thế kỉ sau, Phạm Dương Mại đầy tự tín nên đề nghị với vua Lưu Tống để ḿnh cai trị châu Giao (432) khiến Tống phái Thứ sử Đàn Hoà Chi đánh phá kinh thành, xâm nhập sâu vào đất kẻ địch (446). Càng về sau quan chức Trung Hoa càng tiếp xúc sát sao hơn với t́nh h́nh của nước mà họ vẫn c̣n gọi là Lâm Ấp, cho nên ta thấy họ ghi nhận các tên vua hoặc rơ nghĩa như Dương Mại / Yan Mah (Vua Vàng) hoặc mang dấu ấn phiên âm khúc mắc như Bật Xuế Bạt Ma, Cao Thú Luật Đà La Bạt Ma… chứ không chỉ Phạm… Phạm… như trước nữa.

 

Do t́nh h́nh phát triển đó mà Lâm Ấp sẽ có t́nh trạng chuyển đổi trung tâm quyền lực, đương cự hoặc cử người giao tiếp với Trung Hoa để các sử quan nơi này đặt những tên khác nhau: Hoàn Vương, Chiêm Thành tiếp theo, không nệ rằng trong nước họ đă có tên Champa ghi trên bia đá Mĩ Sơn III (657). Diễn biến trong giai đoạn đầu thành lập một nước mang dấu vết ảnh hưởng Ấn Độ như thế, xuất phát ngay từ bên trong đế quốc Hán chỉ c̣n lại trong sử Việt về sau, là những cuộc tranh chiến cướp phá của đôi bên, không cho thấy ảnh hưởng ǵ đến phần thuộc địa c̣n lại, ví dụ xem chúng có cản trở tiến tŕnh Hán hoá trên đất Việt hay không? Những ảnh hưởng đó qua giai đoạn khác, giữa những tranh chiến của hai thành phần nối tiếp – Chiêm Thành và Đại Việt – sẽ xuất hiện rơ ràng hơn, cho thấy chúng đă thực sự ăn sâu vào trong xă hội của Đại Việt, Việt Nam ngày nay.

 

Bên kia Đế quốc Hán: Phù Nam đi sâu vào đường giao tiếp Ấn

 

Biên giới phía nam Nhật Nam mù mờ như thế nào th́ giới hạn quyền lực lănh thổ của vùng được xác định là của Chiêm Thành và nước Phù Nam cũng mù mờ như thế ấy. Có cái bia ở làng Vơ Cạnh gần Nha Trang được tranh căi lâu ngày xem nó là của bên nào trong hai nước mang tính Ấn ở phía nam Việt Nam này. Rốt lại điều giải thích mới nhất cho biết nhân danh Sri Mara được trưng dẫn trên bia là bắt chước theo lối tự nhận của một ḍng vua thuộc Nam Ấn Độ, và bia có vẻ thuộc cuối thế kỉ III đầu thế kỉ IV, nghĩa là không thể chứng minh được có dính dấp ǵ đến hai hệ thống chính trị kia. Bia Vơ Cạnh chỉ chứng tỏ một điểm vươn tới của ảnh hưởng Ấn Độ không có dấu vết Trung Hoa trong thời cổ trên đất Việt Nam mà mối liên hệ đậm nét nhất lại là ở xa hơn về phía nam, nơi được xác nhận là có một nước, có lúc được coi là một đế quốc: Phù Nam.

 

Tên nước th́ lại cũng từ nguồn tin Trung Hoa. Dấu vết xưa nhất là bút kí của Khang Thái, Chu Ứng, hai sứ giả của Ngô Tôn Quyền trong chuyến đi xuống phía nam (245-250) t́m đường thông thương mua vật dụng quư v́ đường bộ đă bị nhà Nguỵ chận tắc. Tài liệu gốc: Phù Nam kí của Chu Ứng không c̣n nhưng thấy rải ra trong thư sử Trung Hoa, xưa nhất là ở Tam Quốc chí (giữa thế kỉ III), với chi tiết thành lập nước ở Tấn thư (thế kỉ VII). Đó là chuyện về một nước tên là Phù Nam có quân trưởng là một người con gái bị một “người nước ngoài là Hỗn Hội” / Hỗn Điền vượt biển đến bắt làm vợ và chiếm giữ lănh thổ. Tổ chức “nước” được kể là từ cuộc phối hợp đó nhưng chắc cũng c̣n lưu giữ sinh hoạt đă có từ trước. Đó là nước phía tây Lâm Ấp hơn ba ngàn lí, trong vùng vịnh biển lớn. Đất rộng 3000 lí, có thành tŕ cung điện nhà ở. Người đen điu xấu xí, búi tóc thân trần, đi chân đất, phụ nữ mặc áo chui đầu, người chất phác, thẳng thắn, không trộm cướp, theo nghề cày cấy, trồng trọt. Ham thích điêu khắc, chạm trổ. Bát đĩa phần nhiều bằng bạc. Dùng vàng bạc, châu ngọc, hương liệu làm đồ cống và nạp thuế. Họ cũng có sách vở, có nhà lưu giữ. Văn tự giống chữ người Hồ. Ma chay hôn nhân đại khái cũng giống như Lâm Ấp… Nguồn tin đó vốn từ người Trung Hoa nên các vua Phù Nam, lại cũng giống như trường hợp Lâm Ấp, phải mang âm giọng Hán, trong đó lẫn lộn vài ông họ Phạm.

 

Đất nước Phù Nam được xác định rơ hơn nhờ công tŕnh khảo cứu của học giả phương Tây, nhất là Pháp, trong đó nghiên cứu của P. Pelliot (1903) chiếm phần mở đầu quan trọng. Tài liệu thư tịch lại cũng được sự phối hợp của các công tŕnh khảo cổ mà khởi đầu trên diện rộng là của L. Malleret từ tháng 2 đến tháng 4-1944. Tổng hợp lại th́ trung tâm Phù Nam là phần phía tây sông Hậu có cảng vùng Óc Eo (phát hiện năm 1942), có kinh đô trên vùng núi tây nam Campuchia ngày nay, nghĩa là trên “vịnh biển lớn” (Thái Lan) như Tấn thư đă tả. Tên nước là từ một tiếng cổ mà có người cho là từ tiếng Khmer phnom, bnam có nghĩa là núi, riêng ông Lương Ninh cho bnam là tên tộc người – người Núi. Dù thế nào đi nữa th́ h́nh ảnh “núi” cũng được lưu giữ như một tiêu biểu cho các vua Phù Nam để chuyển qua triều đại trên đảo Java và trở lại với đế quốc Angkor rồi rơi rớt nơi biệt hiệu của một tướng cướp Nam Bộ thời Pháp thuộc, c̣n lưu giữ tiếng tăm bằng một hồi kí thời VNCH: Sơn Vương.

 

Dấu hiệu bản xứ thấy nơi lời tả về h́nh dáng người dân, về t́nh trạng có nữ chúa cầm đầu và hẳn là có sinh hoạt trồng lúa nước, hay đúng hơn, là khai thác “lúa trời” (Oryza rufipogon và Oryza nivara), lúa hoang c̣n thấy gần đây nên được ghi nhận “một năm trồng, thu hoạch ba năm.” Bia Đồng Tháp Mười nói đến một “Đức vua… khơi cạn nước biến biển sữa bằng một đầm hồ hương thảo [khai khẩn, khơi úng, đắp đất làm đền, làm hồ nước]..,” một vị hoàng tử “được cai quản một cơ sở gồm những người sống bằng lộc thánh (trên đất khai khẩn) từ bùn lầy…” Những hồ nước công cộng như thế, có tên trapeang, được khuếch trương về sau trong việc xây dựng Angkor của Kampuchia và cũng c̣n trong danh xưng tỉnh Trà Vang/Vinh cũ, chuyển qua tên ao Bà Om gần tỉnh lị. Ḍng thương mại Ấn Hoa trong sự khai thác vàng bạc, hương liệu Đông Nam Á mở rộng con đường giao thương từ Ấn theo thuyền đến bán đảo Mă Lai, chuyển đường bộ qua eo Kra, lại lên thuyền qua vịnh Thái Lan đến vùng Tây Nam Bộ ngày nay trước khi hướng về phía Bắc, đă mở đường cho h́nh ảnh Hỗn Điền vượt biển đến nơi này. Truyền thuyết thành lập Phù Nam cũng được ghi trên bia Mĩ Sơn III với nhân vật mang tên Ấn tương đương: Kaundinya, người lấy công chúa Soma, con gái vua tộc Naga. Do đó Hỗn Điền chỉ là tên Hán hoá của Kaundinya, cũng không phải là một danh xưng cá nhân mà là tên của một tộc tăm tiếng ở tây bắc Ấn.

 

Phạm Sư Man (cầm quyền khoảng 225-230) khuếch trương quyền lực “tiến đánh hơn 10 nước… mở rộng đất đai năm sáu ngàn lí” có vẻ như đă bao trùm cả vịnh Thái Lan, khiến chính quyền nhà Lương biết đến danh hiệu “Phù Nam Đại Vương” của ông ta. Kết quả là đất nước có thành tŕ, sử dụng chữ Phạn để ghi chép, có thư viện lưu trữ. Văn tự t́m thấy trên những di vật Óc Eo là loại chữ Phạn cổ. Giao tiếp về xa được người Hán ghi nhận là Phạm Chiên (khoảng 230-250) sai sứ cống nhà Ngô, Phạm Tầm (250-290) tiếp phái bộ Khang Thái Chu Ứng, năm 289 c̣n sai sứ cống Tấn Vũ Đế. Sau các năm 268, 285 cũng có ghi sứ Phù Nam đến. Khảo cổ học đồng bằng Cửu Long t́m được huy chương, đồng tiền vàng h́nh các Hoàng Đế La Mă Antonius Pius (138-161), Marcus Aurelius (161-180), có phù điêu vua Ba Tư trên hột thuỷ tinh… Dấu vết c̣n lại như thế cho thấy một sự phát triển cương vực của Phù Nam trong những thế kỉ đầu Công nguyên, dẫn đến sự thành lập một “đế quốc,” hẳn là không được chặt chẽ lắm v́ phải tuỳ thuộc nhiều vào yếu tố giao thương trong vùng.

 

Sự toả rộng như thế cũng làm yếu các thành phần ở trung tâm cho nên ta thấy những chuyện tranh đoạt quyền bính gay gắt (ví dụ sau thời ḱ Phạm Sư Man) gây ra những sự tàn phá chắc đă để lại trên lớp đất khảo cổ năm 1944. Do đó những người xây dựng các triều Phù Nam tiếp theo lại cũng từ nơi xa đến, với những Kaundinya mới, theo lời phân trần với vua Trung Quốc là “do thần nhân phái đến cai trị” (Phù Nam) nhưng hẳn không phải được mời gọi mà là bằng kết quả của binh đao giống như nhân vật trước kia. Đó là người được Tấn thư ghi tên Chiên Đàn (Chandra), gốc Thiên Trúc, cống voi năm 357. T́nh h́nh như thế khiến cho tính chất Ấn hoá sâu đậm hơn trong giai đoạn chuyển hoá này của Phù Nam. Tiếp theo là “vua nước Phù Nam họ Kiều Trần Như tên Đồ Gia Bạt Ma [lại cũng Kaundinya] phái thuyền buôn đến Quảng Châu, năm 484 dâng biểu xưng thần” với nhà Lưu Tống, xúi Tống đánh Lâm Ấp, hay ít ra là không can thiệp để Phù Nam tự ḿnh thanh toán kẻ thù. Sử Trung Quốc cho biết khoảng giữa thế kỉ V có một hoàng tử Phù Nam làm vua Lâm Ấp (hay một vùng của khu vực được cho là của Lâm Ấp).

 

Tuy nhiên mối lo không phải là từ phía Lâm Ấp mà là từ những thế lực xa. Theo với sự chuyển hướng buôn bán từ vai tṛ tham dự của Trung Quốc, đường giao thương đông tây sẽ không sử dụng lối chuyển vận phức tạp qua bán đảo Mă Lai ở eo Kra mà thẳng bằng đường biển, ṿng xuống tận cùng phía nam qua eo biển Sunda, như thế là bỏ rơi Phù Nam sang bên lề. Một tập họp người ở vùng Korat của Thái Lan ngày nay phát triển thành tộc người Khmer, lập nước được sử Trung Hoa gọi là “Chân Lạp, nguyên là thuộc quốc của Phù Nam, họ vua là Sát Lợi, tên là Chất Đa Tư Na (Sitrasena/Mahendravarman) đă dần dần làm cho nước trở nên cường thịnh… bèn chiếm luôn cả Phù Nam” (Lương Ninh dẫn Tuỳ thư). Chất Đa Tư Na chết năm 624, và có thể coi như Phù Nam đă tan ră vào đầu thế kỉ VII, các tàn dư quyền bính rải rác trong vùng không c̣n giữ được uy danh lớn lao như cũ nữa. Vùng đất sau này gọi là Khmer Krom (Khmer hạ) nằm lệch bên lề của đế quốc Angkor xây dựng trên cơ sở nông nghiệp vùng Biển Hồ, chỉ có dân cư tụ tập trên những giồng đất cao trong thế tạo dựng của một lưu vực sông lớn (Mekong) nên không có ưu thế khai thác theo lối vùng trên nữa, đành phải chờ đến những biến động khác mới trở lại trên chính trường khu vực.

 

Chuyển hoá trong thời thuộc trị:

 

Vấn đề Sĩ Nhiếp và bóng dáng các lực lượng mới của thuộc địa

 

Phần thuộc địa c̣n lại của Trung Quốc phải chịu qua ảnh hưởng của sự thịnh suy, hưng vong của các triều đại cầm quyền từ trung ương. Như đă thấy, vai tṛ của Mă Viện tuy được nhấn mạnh vào sự thay đổi sau biến động năm 40 nhưng điều chính yếu là từ đây, các triều đ́nh Hán tộc đă chuyên chú đến phương Nam nhiều hơn v́ nguồn lợi thổ sản nhiệt đới ở đây đem về cho chính quyền, và nh́n với vị trí trung gian giao thương xa hơn về phía tây, nam của vùng đất này. Nhưng ư muốn lấn lướt, đi sâu vào việc cai trị dân bản xứ không phải lúc nào cũng đạt được kết quả. Nhà Hán tàn tạ th́ thời đại Tam Quốc tiếp theo chỉ có nước Ngô (222-277) can thiệp mạnh vào thuộc địa mà lại cũng không bền lâu. Dấu ấn “Ngô” chỉ người Trung Quốc trong tâm trí người Việt miền Bắc có lẽ một phần là do sự lưu giữ về một thời Sĩ Nhiếp làm “Nam Giao học tổ” của các nhà nho truyền lại như sẽ bàn tới. Một triều Tấn với thời gian thống nhất ngắn ngủi, chuyển quyền hành qua các triều đại phía nam, ảnh hưởng trực tiếp đến thuộc địa: Lưu Tống (420-479), Tề (479-502), Lương (502-557), Trần (557-589). Quyền bính trung ương yếu ớt dẫn tới sự tự chủ của các quan lại địa phương mà nổi bật lên lúc đầu là trường hợp Sĩ Nhiếp (137-226).

 

Có thể nói đại khái, Sĩ Nhiếp vốn là Thái thú Giao Chỉ của nhà Hán tàn tạ đă chuyển sang dùng cống sứ hối lộ thần phục nhà Ngô rồi dựa vào thế phân tranh mà Ngô phải chịu để trấn giữ thuộc địa như một vùng đất tự trị với quyền hành phân phối cho anh em trông coi cả biên cảnh Giao Chỉ bộ (Hợp Phố, Quảng Châu, Cửu Chân). Chứng nhân đương thời ghi nhận ông “mỗi khi ra vào chuông khánh đánh lên thật uy nghi, kèn sáo, trống phách, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi bên đốt hương, hàng chục thê thiếp ngồi trong xe, đệ tử cỡi ngựa đi theo, uy chấn vạn lí đến Uư Đà cũng không hơn được…” Rơ ràng tính chất trọng tâm của quận Giao Chỉ trên toàn thể thuộc địa đă được kết tập từ đây.

 

Vấn đề được đưa ra là kí ức về Sĩ Nhiếp đă được lưu giữ ở địa phương thật lâu dài và vượt quá tầm mức của một ông quan cai trị một quận, dù là quận trù phú. Sau ông cũng có những ḍng họ được chính quyền trung ương giao cho trọng trách trấn giữ thuộc địa suốt đời, cả đến trường hợp cha truyền con nối như Đào Hoàng từ Ngô qua đầu Tấn, họ Đỗ với Đỗ Viện, thứ sử Giao Châu 381, có con là Đỗ Tuệ Độ thay 411. Thế mà cho đến thời gian gần đây (chúng tôi không rơ t́nh h́nh sau thời Phá đ́nh của VNDCCH) Sĩ Nhiếp vẫn c̣n được thờ cúng. Ông được sắp xếp ở hàng đầu trong danh mục thần linh đất Việt (Việt điện u linh tập) với hai dấu vết: nơi thờ và mộ táng, trên đất Hà Bắc, năm 1706 c̣n được dân đúc ngựa sắt cho miếu đền. Tại sao? Lí do có lẽ vẫn nằm trong vấn đề “có chữ.” Sĩ Nhiếp được lưu truyền là nhờ tầng lớp nho gia ghi nhớ, tôn sùng. Châu Giao là đất dung chứa những người lánh nạn từ các biến loạn triều đ́nh phương Bắc, tuy nhiên với sử sách ghi lại th́ chỉ có thẩm quyền địa phương là Sĩ Nhiếp chiếu cố đến họ nhiều nhất kể cả với những trường hợp có bất đồng, xung đột. Tên Sĩ Nhiếp được ghi nhớ ngang với Triệu Đà trong chiếu vua Hán ban cho chính ông, trong chiếu vua Tống cho Lê Hoàn, c̣n được đề cao hơn Triệu Đà trong lời thư Trần Quốc Huy đương thời. Quyền tước và danh vọng văn hoá khiến ông được tôn “vương”, gọi là “Nam giao học tổ,” nghĩa là tán tụng bởi thành phần trí thức tụ tập quanh ông. Những người tị nạn với chức tuớc, đất đai được ban phát, che chở rồi sẽ trở thành một tầng lớp trí thức có tài sản, sẽ bám chặt vào địa phương hơn là các quan chức đến rồi đi theo sự bổ nhiệm của triều đ́nh. Những mẫu nhà thu gọn có lầu gác, sân trong ở Phao Sơn (Hải Dương) hay có tường thành, vọng canh ở Nghi Vệ (Bắc Ninh) do khảo cổ học đào được chứng tỏ dấu vết hiện diện của những lớp người thực dân đời Hán đó. Có điều chúng ta không biết đến lúc nào th́ con cháu những người này ư thức được ḿnh là người địa phương.

 

Sử Việt cho rằng Sĩ Nhiếp sáu đời ở Giao Chỉ th́ thành người địa phương, trường hợp Lí Bí cũng có thể kể như vậy tuy ông này c̣n một khoảng thời gian xa hơn đến vài trăm năm sau nữa. Sử Việt cũng rộng răi cho cả Đỗ Viện (381) là “người Chu Diên nước ta.” Cho nên cũng khó thấy mức độ nào là dân địa phương thực thụ, những người nổi dậy như Lương Thạc (đầu thế kỉ IV, liên quan đến các năm 322, 323), Lí Trường Nhân (468), Lí Thúc Hiến (479)… Chỉ có thể phỏng đoán theo chức vụ, vai tṛ thấp thỏi như “đốc quân dưới trướng (Thái thú),” “người trong châu”… để xác định mà thôi. Trường hợp Bà Triệu (248) th́ dễ tin nhờ tính chất “người khổng lồ” vú-dài-ba-thước c̣n lưu dấu trên bán đảo Đông Dương ngày nay. Những Lạc hầu, Lạc tướng đeo ấn đồng thao xanh làm huyện lệnh qua cơn băo Mă Viện hẳn đă trở nên hiếm nhưng dấu vết một Khu Riên / Kurung liên hệ đến chức vụ công tào ghi công lao của quận thú, trở thành thân thuộc / người mở đầu nước Lâm Ấp cũng là chứng cớ gián tiếp cho sự hiện diện trong thời gian tan ră này của những người thuộc “chế độ cũ” đi vào làm nhân viên cấp thấp trong hệ thống cai trị.

 

Lại cũng chứng nhân Tiết Tổng kể chuyện thuộc địa: “Thái thú Cửu Chân là Đam Manh v́ bố vợ là Chu Kinh mà bày tiệc mời các quan to. Khi rượu say cho cử nhạc, công tào Phan Hâm đứng dậy múa, rồi mời Kinh, Kinh không chịu đứng lên, Hâm cứ thúc ép măi. Manh nổi giận giết Hâm. Em của Hâm đem quân đánh Manh. Thái thú Giao Chỉ trước là Sĩ Nhiếp sai quân đến đánh dẹp không được…” Cung cách ứng xử của công tào Phan Hâm rơ ràng không phải của quan lại Hán khuôn thước; họ Phan như sẽ chứng tỏ về sau, biểu hiện một họ man di. Quyền lực nhà họ Phan này rơ ràng lại đủ sức đương đầu với cả Sĩ Nhiếp, nghĩa là tuy làm thuộc cấp nhưng họ là những lănh tụ địa phương. Sinh hoạt theo chức phận mới, những người này sẽ làm đổi thay tập họp dưới quyền, cụ thể là mở hướng tư nhân hoá tài sản để chính quyền có thể thu thuế má, điều động nhân lực theo đường hướng mới chứ không phải chỉ vơ vét cống nạp như trước.

 

Các cuộc kiểm tra dân số thời Tấn, Tề, Lương cho thấy có sự thu hẹp số lượng hộ khẩu hẳn một phần v́ sự đổi thay tính chất kiểm kê (chỉ dừng ở “hộ”, không ghi đến “khẩu”, cá nhân) đi theo với t́nh trạng xét định nhân khẩu mới. Phần khác cũng có thể v́ sự đổi thay sinh hoạt, văn hoá đă gây nên khủng hoảng, làm sa sút đà sinh sản, số chết chóc tăng lên. Về phía di dân Hán, có thể nghĩ đến tính chất địa phương hoá bằng cách nh́n vào t́nh trạng hôn nhân của họ. Họ phải lấy vợ địa phương, dù là với t́nh trạng thê thiếp như chứng dẫn ở Sĩ Nhiếp th́ sự pha trộn chủng tộc vẫn là thực tế. Dân bản xứ lại đông như chứng tỏ ở thống kê đầu thế kỉ I, ở những cuộc chống đối làm nản ḷng quan chức trung ương phải đi b́nh định, điều đó có nghĩa là dân nhập cư không thể tràn ngập, lấn át về mặt chủng loại được. Có điều thực tế phản kháng muốn đi đến thành công trong một chừng mực nào cũng phải dựa vào tầng lớp có quyền bính, thân thế, có cuộc sống theo đúng với trào lưu hiện hành, nghĩa là trào lưu Hán hoá chứ không phải vọng về với Lạc dân xưa kia. Cho nên lớp người lai là ứng viên có ưu thế nhất để những cuộc nổi dậy có tiếng vang hoặc đi đến thành công.

 

Vấn đề c̣n lại là sự thống nhất ngôn ngữ. Tiếng bản xứ đă được kết hợp vào lúc nào để có một chừng mực h́nh dạng chung nhất cho dân thuộc địa trao đổi với nhau không phải qua trung gian phiên dịch như Tiết Tổng đă phàn nàn hồi thế kỉ III, để làm điều kiện kết tập địa vực lớn, tạo sức mạnh đối kháng với quyền lực bên ngoài?

 

Các nhà ngữ học Việt Nam ngày nay cho biết tiếng Việt thuộc ḍng Môn Khmer của ngôn ngữ Austro-asiatic / Nam Á. Họ đă dùng phương pháp nghiên cứu riêng của ngành, không tuỳ thuộc vào các tài liệu lịch sử thông thường, để cho biết cách đây 4000 năm, một nhánh chi phái của Mon Khmer là proto Việt Chứt “đă từ vùng Thượng Lào và bắc Khu 4 cũ (Việt Nam) do sự hấp dẫn của nền văn minh lúa nước phía bắc mà di dân ra vùng vịnh Bắc Bộ ngày nay, hoà huyết với những cư dân nói tiếng Thai Kadai, có lúc bằng con đường hoà b́nh, có lúc bằng con đường chiến tranh… Tiếng nói mới mà đa số là từ Việt Chứt đă vận hành theo cơ chế mới Tày Thái, giản hoá âm tiết và đi vào con đường đơn tiết hoá trở thành tiếng Việt chung… và mở đầu quá tŕnh thanh điệu hoá rồi lại tiếp xúc với tiếng Hán thời Bắc thuộc…” (Nguyễn Ngọc San, 2003.)

 

Tuy chúng ta thấy có hơi dị ứng với con số 4000 năm quen thuộc và cũng thắc mắc v́ sao dân nói tiếng tiền – Việt Chứt lại áp đặt được tiếng nói của ḿnh trên đám dân nói tiếng Tày Thái ở vùng vịnh Bắc Bộ “quanh Hà Nội (?)” nhưng cũng phải theo chuyên viên mà nhận rằng tiếng Việt Chứt trên vùng đồng bằng phía bắc đă thành h́nh khoảng 2500, 2000 năm cách ngày nay trước khi tiếp xúc với tiếng Hán của người cai trị vùng đất. Tuy nhiên nhóm từ gộp “ngôn ngữ Việt Chứt” dễ làm cho ta nghĩ rằng đă sẵn sàng có một thứ tiếng chung để cùng nghe, cùng hiểu được trong khi chứng dẫn lịch sử th́ lại không cho ta thấy điều đó như đă biết. Vậy th́ chỉ có thể hiểu rằng khi người Hán đến, đám dân địa phương đă có những từ, ngữ từng địa vực khác nhau nhưng dùng trao đổi với nhau được v́ đặt trên một căn bản chung mà nhà khoa học ngày nay mang óc tổng hợp gọi là ngôn ngữ Việt Chứt thôi. Tuy nhiên, chính trên căn bản chung ấy, với một khung ngữ pháp chung, với những từ ngữ gần giống nhau, các tập đoàn có thể học được tiếng nói của nhau dễ dàng để trao đổi với nhau. Giống như người Anh học tiếng Pháp hay ngược lại. Muốn t́m chứng dẫn có vẻ xa rời thời công kĩ nghệ hơn th́ có thể nh́n vào lớp người Phi Châu dưới-xích-đạo nói tiếng khác nhau nhưng cũng có cách thông hiểu với nhau được nhờ cùng khung ngôn ngữ Bantu. Các tập họp liền lạc địa vực có thể làm trung gian thông hiểu cho các tập họp ở về phía xa hơn. Các tập họp người sống gần nhau gây ảnh hưởng với nhau về mặt ngôn ngữ, như ngày nay dân Chàm B́nh, Ninh Thuận nói có dấu giọng v́ tiếp xúc với người Việt trong khi người Chàm Châu Đốc lại không thấy có. Do đó, trong trường hợp Lạc dân của thuộc địa Hán, chính khung cai trị của đế quốc Hán khi kết hợp họ với nhau trong một hệ thống hành chính quân sự – và văn hoá, qua thời gian, đă tạo nên một ngôn ngữ thống nhất. Chúng ta không biết thời điểm cụ thể dứt khoát nhưng người ta thường cho là phải đến thời ḱ thuộc Đường thế kỉ VIII mới có dấu hiệu rơ rệt. Đó là chứng cớ, có thể về sau nhưng được gán cho Phùng Hưng với danh hiệu tôn vinh từ dân chúng: Bố Cái Đại Vương. Ông K.W. Taylor đă đọc khác là Vua Cái Đại Vương dựa trên lối ghép tương tự một tập họp tiếng bản xứ “vua lớn” với tập họp từ Hán “đại vương” giống như ở tên nước Đại/Cồ Việt. Nhưng theo lối nào th́ đó cũng là chứng cớ xa xưa nhất về một thứ tiếng Man ở thuộc địa phía nam của các triều đại Trung Quốc. Đồng thời ta cũng thấy chứng cớ về một ḍng Thiền xâm nhập thuộc địa trong đời Đường, đúng tên phải là Bích Quan (“nh́n vào tường”) lại vẫn được gọi là Quan Bích, theo kiểu dùng chữ Hán mà theo văn pháp Việt, không hiểu đă được dùng vào lúc khởi thuỷ hay không.

 

Lí Bí và cuộc tranh khởi độc lập đầu tiên của thuộc địa Giao Chỉ

 

T́nh h́nh trung ương yếu ớt dẫn đến sự tiếm quyền ở địa phương nhưng lần này th́ lại tiến lên một mức độ trầm trọng hơn: Người chiếm quyền lập triều đại, xưng Nam Việt Đế. Đó là Lí Bí, muốn lưu giữ truyền thống Triệu Đà xưa nhưng lấy quốc hiệu mới là Vạn Xuân, đặt niên hiệu Thiên Đức, chia người cai trị (541-546). Trong quá khứ, khi có sự đảo lộn ở trung ương th́ quan cai trị địa phương, nhất là ở bộ phận xung yếu: châu Giao, quan thái thú hay thứ sử ở đấy hoặc chống cự lại triều đ́nh mới để bị tiêu diệt, hoặc đầu hàng để hi vọng tiếp tục quan chức. Tuy nhiên càng về sau th́ có lúc họ đă tự xử lí với nhau không cần câu viện đến sức mạnh từ xa. Năm 502 nhà Tề mất, Thứ sử Giao Châu Lí Nguyên Khải chống lại triều mới (505) bị Trưởng sử Lí Tắc dùng tông binh giết, chiếm châu tự cai trị đến 513 mới thấy được Lương phong chính thức. Vấn đề tông binh – binh riêng thuộc ḍng họ – của Lí Tắc làm nên việc chứng tỏ ngay cả quan cấp dưới cũng có lực lượng riêng lấy từ vùng đất quản trị của người đại biểu ḍng họ. Và điều này th́ cũng không phải đúng riêng cho trường hợp Lí Tắc. Nghĩa là cho cả Lí Bí, người “hào trưởng” nhưng lại cầm quân ở biên cương (Cửu Đức, phía giáp với Lâm Ấp), hẳn là một nơi vẫn bị coi như là đày ải. Tướng cầm quân th́ năng động hơn quan ở chốn yên lành, nên Lí Bí đă đánh đuổi được Tiêu Tư, Thứ sử Giao Châu (541). Lại cũng không phải chỉ là sự bất măn của một ḍng họ. Theo về với Bí c̣n có một bộ phận trí thức địa phương không t́m được cơ hội thành đạt theo đường lối chính thức mà đại biểu là Tinh Thiều, người lặn lội đến tận kinh đô, mỏi ṃn chờ đợi tiến cử mà không được, liền xoay đi t́m hướng tiến thân nơi chính địa phương ḿnh.

 

Lí Bí được sử Việt công nhận là “người Nam” v́ ḍng dơi sống ở thuộc địa đă đến năm trăm năm. Nhưng dấu bản xứ sâu đậm hơn th́ đúng là trường hợp tù trưởng Triệu Túc ở Chu Diên, trên vùng đồng bằng có hướng tiếp giáp biển khơi, là một bộ phận quan trọng của một vùng trù phú. Không phải chỉ có sự tiếp trợ vật chất mà c̣n cả sự tiếp trợ tinh thần chứng tỏ Lí Bí bám chặt với địa phương hơn các ông quan cai trị nổi loạn khác. Đó là trường hợp làm nổi lên trong lịch sử vai tṛ của tập họp các ông thần nước, về phía tây sẽ có tên là Lí Phục Man, phía đông có tên là Trương Hống, Trương Hát, Triệu Quang Phục. Ông thần cửa biển vùng Lục Đầu chặn hướng tiến quân của quân địch từ ngoài biển vào xâm nhập kinh đô của Vạn Xuân (Long Biên cũ) nên được Nam Việt đế coi trọng, trở thành truyền thuyết được Lí Bí giao trách nhiệm “lấy lại cơ nghiệp” cho ḿnh, do đó có tên Quang Phục, mang họ Triệu của xứ Nam Việt xưa – rồi với thời gian sẽ trở thành nhân vật lịch sử thực thụ trong chính sử nhà nước cuối thế kỉ XV.

 

Tuy nhiên uy thế của nhiên thần địa phương lại gặp sự cạnh tranh của một tôn giáo mang tính toàn cầu, tuy có ư thức địa phương hoá nhưng vẫn không chịu bỏ phần lănh đạo trên trước. Thời Sĩ Nhiếp thấy có (sư) người Hồ đốt hương theo xe quan thái thú. Sử Phật Giáo Việt Nam cho biết Luy Lâu (được ngày nay cho là thuộc Thuận Thành, Hà Bắc), từ thế kỉ III đă là một trung tâm Phật Giáo quan trọng ngang với Lạc Dương của Hán. Hai ḍng Thiền trong đó ḍng Nam Phương, cái tên chỉ rơ hướng xuất phát – đến trước, sau mới là ḍng Quan Bích của Trung Hoa. Ḍng Nam Phương với sư Ấn làm thụ thai Man Nương trong truyện truyền ḱ ở Lĩnh Nam chích quái, chứng tỏ ngành Phật Giáo Mật tông đă cố gắng hoà nhập với tục thờ sinh thực khí ở địa phương, nhưng sự kiện tính nữ ở đấy trở thành Phật Bà / Phật Mẫu lại là dấu vết ương ngạnh chống trả của địa phương.

 

Thời gian vị sư Ấn Vinitaruci / T́ Ni Đa Lưu Chi (chết 594) đến làng Dâu (580) là đồng thời với câu chuyện xung đột tranh chiếm quyền hành của ông thần biển Triệu Quang Phục và Lí Phật Tử. Ông đệ tử nhà Phật được cho thắng, tức là chứng tỏ có sự rời bỏ một phần mối tin tưởng vào thần quyền của nhà cầm quyền mới, điều đó chắc cũng làm yếu đi lực lượng của những người nổi dậy. Lí Bí không chống nổi với quân Trần Bá Tiên, bị giết (546), người anh là Lí Thiên Bảo cũng bỏ chạy ra ngoài cơi, cơ nghiệp được coi như truyền lại cho anh em, và bộ tướng Lí Phật Tử, như đă nói, đă hướng mạnh vào sự phát triển Phật Giáo từ Ấn qua, và có lẽ tồn tại được nhờ sự rối loạn ở triều đ́nh Lương, khi tướng Trần Bá Tiên phải rút về dự phần tranh chiếm quyền hành mà bỏ lơ phương nam. Nguồn thông tin ít ỏi của sử Trung Quốc về phía này cũng chứng tỏ trong một thời gian, phần cựu thuộc địa không có sự can thiệp từ phương Bắc để cho Phật Giáo Ấn phát triển, và có lẽ là nguyên nhân khiến Lí Phật Tử xa rời tin tưởng thần quyền địa phương. Tuy nhiên rơ ràng là tôn giáo mới chưa đủ khả năng kết tập lực lượng mới giúp cho người làm chủ Giao Châu giữ được quyền bính. Phía bắc, Tuỳ thống nhất đất nước, sai Dương Tố diệt Lí Xuân (590), nghe lời Tố cử thứ sử châu Qua là Lưu Phương chinh Nam, bắt Lí Phật Tử đưa về Bắc (602), kết thúc một giai đoạn cố gắng độc lập ngắn ngủi nhưng quan trọng v́ đă mở màn cho các lực lượng li khai về sau có đà khoét sâu sự phân hoá trên thuộc địa phương Nam của Trung Hoa.

 

Phụ lục

 

KHẢO CỔ HỌC PHÙ NAM TRÊN ĐỒNG BẰNG CỬU LONG

 

 

Như đă nói, lịch sử Phù Nam bắt đầu từ khi P. Pelliot (1903) tách các tài liệu thư sử Trung Hoa phối hợp với một số bia đá để đưa ra một đề mục có ư nghĩa dứt khoát “Le Fou Nan” (Nước Phù Nam). Nhưng để cho Phù Nam có một địa vực th́ lại phải cần đến những khai quật rộng lớn, đầu tiên là của L. Malleret trong năm 1944 trên vùng đất Miền Tây Nam Bộ, phát hiện ra di tích nổi tiếng Óc Eo để tạo lập danh xưng Văn hoá Óc Eo cho khảo cổ học thế giới.

 

Địa điểm Óc Eo nằm dưới chân núi Ba Thê, trước chiến tranh thuộc xă Mĩ Lâm, tổng Kiến Hào, tỉnh Rạch Giá nay thuộc xă Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Ở đây, từ đầu những năm 40 thế kỉ XX, trên vùng đất ngập nước phần lớn trong năm này, người làm ruộng thường lượm được nhiều vật trang sức bằng vàng bạc, đá quư khiến người ta đổ xô đến “t́m của,” tụ tập thành dăy phố có quán ăn, rạp hát… ồn ào huyên náo. Trường Viễn Đông Bác Cổ phải lật đật tổ chức khai quật do L. Malleret dẫn đầu, trong đó một nhân viên, ông Trần Huy Bá nhân tiện đi theo làm việc, cũng để lại một kí sự ngắn trên tờ Tri Tân tạp chí số 172: “Hai tháng ở g̣ Óc Eo hay là câu chuyện đi đào vàng.” Công việc dang dở v́ chiến tranh nhưng cũng đủ cho Malleret thu xếp tŕnh bày trong bộ L’Archéologie du delta du Mékong (Bốn tập, 1959, 1960, 1962, 1963). Chính ở Óc Eo, Malleret đă t́m được các bằng cớ vật chất chứng minh có sự giao tiếp thật xa của một ḍng thương mại quốc tế mà Óc Eo đóng vai tṛ thương cảng: vài chiếc nhẫn mặt ngọc khắc chữ viết loại sớm ở Ấn Độ, vài chiếc gương Hán thế kỉ II, những huy chương có nguồn gốc La Mă xuất phát từ thế kỉ II… Những dấu hiệu lịch sử này khiến Malleret đă dành quyển III của ông cho nhan đề “Nền văn hoá Phù Nam,” và xác định rằng Óc Eo là “cảng thị… là bộ phận duyên hải của Vương quốc cổ Ấn Độ hoá Phù Nam.” Ông đă tách biệt Phù Nam ra khỏi lịch sử Khmer, chứng minh Phù Nam có trước, ngoài tính chất quốc tế, c̣n có sinh hoạt nội địa với các công tŕnh kênh đào, trồng lúa nước với tổ chức xă hội cao cấp có bia đá, chữ viết, xây cất tín ngưỡng, tượng tôn giáo gỗ, đá… Óc Eo chỉ là tiền cảng của kinh đô Phù Nam mà Malleret đặt ở Angkor Borei thuộc tỉnh Takeo, Kampuchia ngày nay.

 

Sau 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục công tŕnh, ban đầu là kiểm tra lại những địa điểm khảo sát ngày trước đă bị bỏ phế lâu năm, đồng thời t́m những địa điểm mới và khai thác t́m hiểu sâu rộng thêm. Các năm gần đây lại có sự hiện diện trở lại của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Kết quả là người ta đi sâu vào trong thời gian hơn để có thể nói đến một thời ḱ tiền – Óc Eo và mở rộng về mặt không gian Phù Nam trên đất Nam Bộ, ví dụ sự phát hiện vùng trung tâm Đồng Tháp Mười như một khu vực phát triển khác nữa, không những chỉ là khu cư trú nông nghiệp mà c̣n có ngành nghề thủ công, có giao tiếp thương mại từ xa, không thua Óc Eo. Di vật t́m thấy dồi dào hơn làm sáng tỏ hơn cuộc sống của dân cư trong vùng một thời, nay là Việt Nam. Những nghiên cứu cũng đưa các nhà khảo cổ t́m ra các địa điểm nặng tính chất Ấn Giáo trên vùng Nam Tây Nguyên như di tích Proh (huyện Đơn Dương, Lâm Đồng), như nơi được gọi là “Thánh địa Cát Tiên” (Lâm Đồng), với cả một hệ thống đền thờ c̣n di vật linga vàng, bạc, lá vàng… với mộ táng, có dáng như bằng cớ phát triển cao độ vào khoảng các thế kỉ IV- IX, X của những tập đoàn thiểu số Mạ, Kơho, Churu… trong vùng, chịu ảnh hưởng của Óc Eo, Champa.

 

 

 

Xem tiếp Sơ Thảo: Bài sử khác cho Việt Nam

 

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Bảo Tàng Lịch Sử

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Hoàng Hải Thủy

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten