Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lời thú tội của một Sát thủ Kinh tế

 

"Confessions of an Economic Hit Man"

  

Tác giả: John Perkins

 

 

 

Chương 24

 

Tổng thống Êcuađo đấu tranh với các công ty dầu lửa

 

 

 

Công việc ở Côlômbia và Panama giúp tôi có nhiều cơ hội qua lại và thăm Êcuađo, đất nước mà tôi coi là quê hương thứ hai của mình.  Ecuador đã từng có thời gian dài đặt dưới ách thống trị của độc tài và các thế lực cánh hữu vốn chịu sự điều kiện của những quyền lợi chính trị cũng như thương mại của Hoa Kỳ. Kinh tế Ecuador chủ yếu nhờ vào xuất khẩu hoa quả, và chế độ tập đoàn trị đã thâm nhập rất sâu vào đất nước này. Từ cuối những năm 60, dầu lửa ở lưu vực sông Amazon của  Ecuador bắt đầu được khai thác, gây nên những cơn sốt mua sắm lu bù của một nhóm các gia đình nắm quyền thống trị  Ecuador, và làm lợi cho các người nước ngoài. Những gia đình này đã chất lên  Ecuador gánh nợ chồng chất, cùng lời hứa sẽ trả nợ bằng nguồn thu từ dầu lửa. Những con đường và các khu công nghiệp, những đập thủy lợi, các hệ thống phân phối và truyền dẫn, cũng như các dự án năng lượng khác mọc lên khắp đất nước. Các công ty kỹ thuật và xây dựng nước ngoài lại một lần nữa phất lên nhanh chóng.

Ngôi sao đang tỏa sáng trên dãy Andy này là một ngoại lệ đối với quy luật về sự tham nhũng gắn liền với chính trị và sự đồng lõa với chủ nghĩa tập đoàn. Jaime Roldos là một giáo sư đại học, một luật sư sắp bước sang tuổi 40, người mà tôi đã có vài dịp gặp trước đây. Ông là một người có sức lôi cuốn và rất thanh lịch. Một lần, tôi đã bốc đồng và đề nghị bay tới Quito và tư vấn miễn phí cho ông bất cứ khi nào ông cần. Tôi nói điều này một phần là đùa, nhưng cũng bởi vì tôi vui lòng được làm điều đó vào kỳ nghỉ của mình - tôi quý ông và, như tôi đã nói ngay với ông rằng tôi luôn tìm cơ hội để đến thăm đất nước quê hương ông. Ông cười lớn và đưa ra một thỏa thuận tương tự, rằng bất cứ khi nào tôi có vướng mắc gì trong việc đàm phán về giá dầu, tôi có thể gọi cho ông.

Ông nổi tiếng là một người theo chủ nghĩa dân túy và là một nhà yêu nước, luôn tin tưởng mạnh mẽ vào quyền lợi của người nghèo và tin rằng trách nhiệm của các nhà chính trị là phải sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước một cách thận trọng. Khi ông bắt đầu tiến hành chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1978, ông đã giành được sự quan tâm của những người dân Êcuađo cũng như những nước có dầu lửa đang bị nước ngoài khai thác- và cả những công dân của tất cả các quốc gia đang mong muốn thoát khỏi ảnh hưởng của các thế lực bên ngoài. Roldos là một chính trị gia tân tiến hiếm có, và không bao giờ sợ phải đối mặt với thực tế. Ông theo sát các công ty dầu lửa và cái hệ thống không quá tinh vi đang hỗ trợ chúng.

Chẳng hạn, ông buộc tội Viện Ngôn ngữ mùa hạ (SIL), thực chất là một nhóm truyền giáo từ Mỹ, đã câu kết với các công ty dầu lửa. Tôi có quen những người truyền giáo thuộc viên SIL từ ngày tôi còn trong Quân đoàn Hòa bình. Viện cớ là đi nghiên cứu, ghi lại, và dịch các ngôn ngữ bản địa, tổ chức này đã thâm nhập vào Êcuađo cũng như nhiều nước khác.

Vào những năm đầu đi tìm dầu mỏ, khi SIL đang hợp tác tích cực với bộ tộc Huaorani ở lưu vực sông Amazon, thì những rối loạn bắt đầu xuất hiện. Hễ các nhà địa chất học của các công ty dầu lửa báo về trụ sở công ty rằng một khu vực nào đó có những đặc điểm cho thấy có khả năng có dầu lửa dưới lòng đất thì SIL lại đến và khuyên người dân bản địa di chuyển đi khỏi vùng đất đó, đến những vùng đất truyền giáo dành riêng cho các bộ tộc lạc; nơi họ sẽ được cấp miễn phí nơi ăn, chỗ ở, quần áo, các thiết bị y tế, và một nền giáo dục hướng đạo. Đổi lại, họ phải nhượng đất cho các công ty dầu lửa.

Có rất nhiều lời đồn đại cho rằng các nhóm truyền giáo của SIL đã dùng hàng loạt các chiêu thức gian dối nhằm thuyết phục các bộ lạc bỏ nhà chuyển đến sống tại vùng truyền giáo. Có một câu chuyện thường được người ta kể đi kể lại rằng các nhóm này đã phát thức ăn có pha thêm thuốc nhuận tràng- rồi lại tặng thuốc để chữa bệnh ỉa chảy cho các bộ lạc này. Trên khắp lãnh thổ của Huaorani, SIL đã dùng máy bay thả các thùng thực phẩm có đáy giả gắn những máy phát radio nhỏ xíu. Các máy thu đặt tại các trạm liên lạc hết sức tinh vi do quân nhân Mỹ đóng tại căn cứ quân sự ở Shell cung cấp đã bắt sóng các máy phát này. Bất cứ khi nào có một người dân của bộ lạc bị rắn độc cắn hay bị ốm nặng, thì một đại diện của SIL đều đến, mang theo thuốc chữa rắn cắn hay các loại thuốc thích hợp - thường là bằng máy bay trực thăng của các công ty dầu lửa.

Trong người ngày đầu tìm kiếm dầu lửa, người ta đã tìm thấy 5 người truyền giáo SIL chết với cây giáo của người Huaorani đâm xuyên qua cơ thể. Sau nay, người Huaorani đã tuyên bố rằng họ làm thế để cảnh cáo SIL lã hãy dừng lại. Nhưng không ai để ý gì đến lời cảnh cáo này cả. Trên thực tế thì nó có tác động hoàn toàn ngược lại. Rachel Saint, chị của một trong những người đàn ông bị giết, đi khắp Hoa Kỳ, xuất hiện trên Đài Truyền hình Quốc gia để quyên góp tiền và kêu gọi sự ủng hộ cho SIL và các công ty dầu lửa, những người mà cô ta khẳng định là đang cố giúp “những kẻ man di mọi rợ kia” trở nên văn minh hơn và có văn hóa hơn.

SIL đã nhận được tài trợ từ các tổ chức từ thiện của Rockefeller. Jaime Roldos  khẳng định, mối quan hệ với Rockefeller cho thấy SIL thực sự là một đạo quân tiên phòng trong chiến dịch cướp đất của thổ dân và thúc đẩy các hoạt động khai thác dầu lửa; chính John D.Rockefellerm, người thừa kế dòng họ Rockefeller đã thành lập Standard Oil - công ty mẹ của Chevron, Exxon và Mobil sau này. 1

Tôi có cảm giác Roldos  đang đi theo con đường mà Torrijos đã soi rọi. Cả hai đã đứng lên chống lại cường quốc mạnh nhất thế giới. Torrijos muốn lấy lại kênh đào, trong khi quan điểm dân tộc mạnh mẽ của Roldos  về dầu lửa đã đe dọa những công ty có thế lực nhất trên thế giới. Giống như Torrijos, Roldos  không theo chủ nghĩa cộng sản, mà đang đứng lên giành quyền lợi cho dân tộc để đảm bảo cho vận mệnh của một đất nước. Và cũng ngân hàng với Torrijos, các chuyên gia đã tiên đoán là Washington và các công ty dầu lửa sẽ không bao giờ chịu để Roldos  trở thành tổng thống, và nếu ông có được bầu thì số phận của ông cũng sẽ chẳng khác nào số phận của Arbenz ở Guatemala hay Allende ở Chile.

Với tôi thì dường như cả hai con người này đều dẫn đầu một phong trào mới trên chính trường Mỹ Latinh. Phong trào này có thể sẽ là nền tảng cho những thay đổi có ảnh hưởng đến mọi quốc gia trên hành tinh này. Họ không phải là Castro hay Gadhafi. Họ không có quan hệ gì với Ngay hay Trung Quốc; hay như trong trường hợp của Allende, không có quan hệ gì với phong trào xã hội chủ nghĩa quốc tế. Họ, những người lãnh đạo thông minh, có uy tín, được quần chúng yêu mến, là những người theo chủ nghĩa thực tế chứ không theo chủ nghĩa giáo điều. Họ là những người yêu nước những không phải là những người chống Mỹ. Nếu chế độ tập đoàn trị được xây dựng trên ba trụ cột- các tập đoàn lớn, các ngân hàng quốc tế, và các chính phủ đầy mưu mô- thì Roldos  và Torrijos đã không cho phép trụ cột thứ 3 là sự cấu kết giữa các chính phủ tồn tại.

Một phần chính trong cương lĩnh chính trị của Roldos  là chính sách Hydrocarbon. Nền tảng của chính sách này là dầu lửa, tiềm năng lớn nhất của Êcuađo và việc khai thác nó trong tương lai phải đem lại lợi ích lớn nhất cho phần lớn người dân nước này. Roldos  tin tưởng mạnh mẽ rằng, Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ người nghèo và người bị tước quyền công dân. Ông hy vọng rằng chính sách Hydrocarbon trên thực tế có thể trở thành một phương tiện để tiến hành cải cách xã hội. Song, ông cũng biết cần phải thận trọng vì ông hiểu rằng ở Êcuađo, cũng như ở nhiều nước khác nữa, ông không thể được bầu làm tổng thống nếu không có được sự ủng hộ của ít nhất là một số dòng tộc có quyền thế, và rằng thậm chí nếu ông có tìm cách thắng cử mà không nhờ đến họ đi nữa thì các chương trình cải cách của ông cũng sẽ không thể tiến hành được khi không nhận được sự ủng hộ của những nhóm người này.

Bản thân tôi đã nhẹ nhõm khi Tổng thống Carter đang bám trụ trong Nhà Trắng vào thời khắc quan trọng này. Mặc dù phải chịu áp lực từ Texaco và các tập đoàn dầu lửa khác, Washington vẫn duy trì quan điểm của mình. Tôi biết sẽ không thể có điều này nếu đảng Dân chủ hay đảng Cộng hòa nắm quyền.   

Hơn hết thảy mọi thứ, tôi tin rằng chính chính sách Hydrocarbons đã thuyết phục những người Êcuađo đưa Jaime Roldos  đến Dinh Tổng thống ở Quito- vị Tổng thống đầu tiên của họ được bầu cử một cách dân chủ sau một thời gian dài dưới ách thống trị độc tài. Ngày 10 tháng 8 năm 1979, ông đã đặt ra nền tảng cho chính sách này với lời mở đầu như sau: Chúng ta phải áp dụng các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ nguồn năng lượng  của đất nước. Nhà nước phải duy trì sự đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu và không đánh mất đi tính độc lập về kinh tế của nước mình... Các quyết định của chúng ta phải dựa trên các quyền lợi quốc gia và trong khuôn khổ bảo vệ vô hạn chủ quyền dân tộc.

Một lần khi còn đương chức, Roldos đã phải đối đầu với Texaco, vì trong thời gian đó, Texaco đã trở thành một trong những thế lực mạnh trong lĩnh vực này. Đó là một mối quan hệ gai góc. Kẻ khổng lồ trong lĩnh vực dầu lửa không tin vị Tổng thống mới và không muốn trở thành một phần của cái chính sách đang có nguy cơ trở thành tiền lệ mới. Công ty này hiểu rất rõ rằng những chính sách như vậy có thể sẽ là mô hình cho các nước khác đi theo.

 Bài phát biểu của một trong những cố vấn chính cho Roldos, Jose Carvajal, đã tóm tắt thái độ của chính quyền mới:

Nếu một đối tác (Texaco) không muốn chấp nhận rủi ro, không muốn đầu tư để tìm kiếm thăm dò, hay không muốn khai thác các khu khai thác dầu lửa có điều kiện, thì đối tác khác có quyền tiến hành các dự án đầu tư đó và sau đó được quyền sở hữu... Chúng ta tin rằng mối quan hệ của chúng ta với các công ty nước ngoài phải là một mối quan hệ công bằng; chúng ta phải cứng rắn trong đấu tranh; chúng ta phải chuẩn bị tinh thần để đương đầu với mọi áp lực, song chúng ta không nên tỏ ra sợ hãi hay cảm thấy kém cỏi hơn khi thương thảo với các đối tác nước ngoài đó.

Vào ngày đầu năm 1980, tôi đã đưa ra quyết định. Đó là sự khởi đầu một thập niên mới. Và 28 ngày nữa tôi sẽ bước sang tuổi 35. Tôi quyết tâm trong năm tới tôi sẽ tạo ra một bước ngoặt lớn trong cuộc đời, và trong tương lai tôi sẽ cố gắng theo gương những người anh hùng thời hiện đại như Jaime Roldos  và Omar Torrijos.

Thêm vào đó, một sự kiện chấn động đã xảy ra. Xét về lợi nhuận, Bruno là Chủ tịch thành công nhất trong lịch sử của MAIN. Song, thật bất ngờ và không hề báo trước, Mac Hall đã hạ bệ ông.

 

 

Chương 25

Tôi ra đi

 

 

Việc Mac Hall hạ bệ Bruno đã gây rung chuyển cả MAIN. Sự kiện này đã gây xáo trộn và chia rẽ trong nội bộ công ty. Mặc dù Bruno cũng có khá nhiều kẻ thù, nhưng ngay cả một vài người trong số họ cũng thất vọng. Đối với những người trong công ty thì hành động này rõ ràng là xuất phát từ sự đố kỵ. Trong các cuộc thảo luận quanh bàn ăn hay quầy giải khát, người ta rỉ tai nhau chắc Hall cảm thấy mối nguy từ một người kém mình đến 15 tuổi, và là người đã giúp đưa công ty đạt đến một mức lợi nhuận mới.

 

“Hall không thể cho phép Bruno cứ tiếp tục lên như thế này”, một người nói. “Hall chắc chắn phải hiểu rằng việc Bruno sẽ thay thế ông ta chỉ còn là vấn đề thời gian và ông sẽ sớm phải về vườn.”

 

Như để chứng minh cho những lời đồn đại. Hall chỉ định Paul Priddy làm Chủ tịch mới. Paul đã làm Phó chủ tịch cho MAIN trong nhiều năm nay và là một kỹ sư dễ hòa đồng và rất say mê công việc. Theo tôi nghĩ thì anh ta cũng chỉ là một người đàn ông ba phải, chậm chạp, người sẽ cúi đầu tuân thủ những ý tưởng nhất thời của Hall và sẽ chẳng thể trở thành một nguy cơ cho Hall vì những mức siêu lợi nhuận. Nhiều người khác nữa cũng cùng chung ý kiến này. Đối với tôi, sự ra đi của Bruno thật đáng buồn. Cá nhân ông là một người thông thái và là nhân tố chính giúp cho công việc của chúng tôi ở nước ngoài. Trong khi đó, Priddy chỉ tập trung vào công việc trong nước và gần như chẳng biết gì về vai trò thực của chúng tôi ở nước ngoài. Tôi băn khoăn không hiểu công ty này sẽ đi về đâu. Tôi đã gọi điện về nhà cho Bruno và thấy ông đầy triết lý.

 

“John ạ, ông ta biết rằng ông ta không có một lý do nào cả”, ông nói về Hall như vậy, “vì thế tôi đã yêu cầu một khoản tiền đến bù kha khá, và tôi đã có được nó. Mac nắm trong tay một số lượng lớn cổ phiếu có quyền biểu quyết ưu đãi, và một khi ông ta quyết định như thế thì tôi chẳng thể làm gì được nữa.”

 

Bruno cũng ngụ ý ông đang cân nhắc một vài đề nghị mời ông vào những vị trí cao cấp tại các ngân hàng đa quốc gia đã từng là khách hàng của chúng tôi. Tôi hỏi ông xem là tôi nên làm gì. “Hãy luôn đề phòng”, ông khuyên tôi. “Mac Hall đã mất liên hệ với thực tiễn, nhưng chẳng ai nói cho ông ta biết cả- nhất là không phải lúc này, sau những gì ông ấy đã làm với tôi.”

Vào cuối tháng 3 năm 1980, do vẫn còn choáng váng bởi sự ra đi của Bruno, tôi đã đi nghỉ bằng thuyền buồm tới đảo Virgin. Đi cùng tôi có “Mary”, một cô gái cùng làm việc cho MAIN. Mặc dù tôi đã không nghĩ về điều này khi quyết định chọn địa điểm nhưng giờ thì tôi biết rằng chính lịch sử của vùng này là một nhân tố giúp tôi đưa ra quyết định mà nhờ đó tôi có thể bắt đầu thực hiện quyết tâm cho năm mới của mình. Ý niệm đầu tiên chợt nảy đến vào một buổi chiều sớm trong khi tôi đi vòng quanh đảo St. John và đổi hướng chạy vào kênh Sir Francis Drake, ranh giới phân chia địa phận giữa Anh và Mỹ trên quần đảo Virgin.

Tên của kênh đào này dĩ nhiên được đặt theo tên của một gã cướp vàng người Anh. Điều này làm tôi nhớ đến những lần trong suốt thập niên trước đó, tôi đã nghĩ về những tên cướp biển và những nhân vật lịch sử khác, như Drake và Ngài Henry Morgan, người đã cướp bóc và bóc lột của cải nhưng lại được người ta ca tụng - thậm chí còn được phong tước vì hành động của mình. Tôi thường tự hỏi tại sao, dù được nuôi dạy để kính trọng những con người như vậy tôi vẫn cảm thấy day dứt về những hành động ăn cướp, bóc lột của họ đối với các nước như Inđônêxia, Panama, Côlômbia, và Êcuađo. Rất nhiều người anh hùng của tôi như Ethan Allen, Thomas Jefferson, George Washington, Daniel Boone, Davy Crockett, Lewis và Clark, là những người đã bóc lột người da đỏ, các nô lệ, chiếm đoạt đất đai không thuộc về mình. Tôi đã thấy một vài tấm gương như vậy để xoa dịu bớt tội lỗi của mình. Giờ đây, khi đang đi dọc theo kênh đào Sir Francis Drake, tôi nhận ra sự điên rồ trong cách nghĩ trước đây của mình.

Tôi nhớ một số điều mà tôi đã cố tình lờ đi trong nhiều năm. Ethan Allen đã phải ở vài tháng trong các nhà tù hôi hám và chật chội của Anh quốc, gần như luôn bị cột xích sắt nặng 30 pound, và rồi ở trong ngục tối của Anh quốc thêm một thời gian nữa. Ông là một tù nhân chiến tranh, bị bắt trong trận chiến Montreal năm 1775 khi chiến đấu giành độc lập như Jaime Roldos  và Omar Torrijos hiện đang đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc mình. Thomas Jefferson, George Washington, và tất cả các vị cha già dân tộc khác đã không tiếc tính mạng của mình cho những lý tưởng như vậy. Chiến thắng không bao giờ được báo trước; và họ đều hiểu rằng nếu thua trân, họ sẽ bị treo cổ như những kẻ phản bội. Daniel Boone, Davy Crockett, và Lewis và Clark cũng đã chịu nhiều gian khổ và đã phải hy sinh rất nhiều thứ.

Thế còn Drake và Morgan? Tôi hơi mơ hồ về giai đoạn đó trong lịch sử, nhưng tôi nhớ rằng những tín đồ Tin Lành người Anh nhận thấy mình bị các tín đồ Công giáo người Tây Ban Nha đe dọa rất nhiều. Do đó, theo tôi, nhiều khả năng là Drake và Morgan quay sang làm cướp biển để chơi khăm những kẻ đó bằng cách giành giật lấy của cải của đế chế Tây Ban Nha nằm ở các tàu chở vàng nhằm bảo vệ sự thiêng liêng của nước Anh, hơn là mong muốn thu lợi riêng cho chính mình.

Khi chiếc thuyền của chúng tôi đang đi xuôi theo kênh đào, lướt đi trong gió, rồi di chuyển đến gần các ngọn núi trên biển- đảo Great Thatch ở phía Bắc và St. John ở phía Nam- tôi không tài nào gạt bỏ được những ý nghĩ này ra khỏi đầu. Mary đưa tôi chai bia và vặn to bài hát của Jimmy Buffet. Song khung cảnh tuyệt đẹp xung quanh và cả cảm giác thanh thản mà việc bơi thuyền thường mang lại vẫn không giúp tôi hết tức giận. Tôi cố gắng xua đuổi cảm giác ấy. Tôi tu cạn chai bia. Nhưng cảm giác ấy vẫn không buông tha tôi.

Những giọng nói trong lịch sử và cái cách tôi dùng chúng để thỏa mãn tính tham lam của mình khiến tôi giận dữ. Tôi giận cả cha mẹ mình, và cả với Tilton - ngôi trường trung học trên đồi luôn tự cho mình là nhất - vì đã buộc tôi phải chấp nhận một lịch sử như vậy.

Tôi lại mở một chai bia khác. Nếu được thì tôi đã giết chết Mac Hall vì những gì ông ta đã làm với Bruno. Một con tàu gỗ với lá cờ bảy sắc cầu vồng lướt qua trước mặt chúng tôi, những cánh buồm hai bên căng phồng, đi theo gió dọc kênh đào. Nửa tá thanh niên trẻ hét to và vẫy chúng tôi, đó là dân hippies trong bộ sarong sáng màu, một cặp nam nữ hoàn toàn trần truồng trên boong trước.

Một điều rõ ràng tóat ra từ chiếc tàu và bề ngoài của họ là họ sống ở trên tàu, một cộng đồng chung, những tên cướp biển thời hiện đại, tự do và phóng đãng. Tôi cố vẫy họ nhưng không tài nòa làm được. Tôi phải cố thắng cảm giác ghen tỵ dang ngập tràn trong tôi. Mary đứng trên boong, nhìn theo bóng họ khuất dần. “Anh có thích một cuộc sống như vậy không?”, cô hỏi.

Và tôi chợt hiểu. Không phải tại cha mẹ tôi, cũng không phải tại Tilton, hay tại Mac Hall. Mà là bởi tôi căm ghét chính cuộc sống của mình. Người phải chịu trách nhiệm, kẻ mà tôi ghê tởm ấy, chính là bản thân tôi. Mary bỗng reo to. Cô ấy chỉ về phía mạn phải con tàu. Rồi bước lại gần tôi và nói. “Vịnh Leinster kìa”, cô ấy nói, “nơi thả neo đêm nay đây rồi.”

Nó kia rồi, cái vịnh nhỏ đang nép mình vào đảo St. John, đó là nơi các con tàu cướp biển thường nằm để phục kích những chuyến tàu chở vàng đi qua vùng nước mênh mông này. Tôi cho thuyền lại gần hơn nữa, rồi trao bánh lái cho Mary và đi lên boong trước. Khi cô ấy lái con thuyền vòng quanh đảo Watermelon vào cái vịnh tuyệt đẹp đó, tôi hạ buồm và lôi mỏ neo ra. Còn cô ấy thì khéo léo hạ cánh buồm chính xuống. Tôi quăng neo ra khỏi tàu: sợi xích rơi ào xuống dòng nước trong vắt như pha lê và con thuyền trôi đi một đoạn trước khi dừng lại.

Khi con thuyền đã dừng hẳn, Mary nhảy xuống bơi, rồi chợp mắt một lúc. Tôi viết lại cho cô ấy một lời nhắn rồi chèo xuồng vào bờ, neo xuồng ngay sát tàn tích của một đồn điền trồng mía trước đây. Tôi ngồi đó, cạnh dòng nước một lúc lâu, cố gắng không nghĩ ngợi gì, tập trung gạt bỏ mọi cảm xúc. Nhưng tôi không tài nào làm nổi.

Lúc xế chiều, tôi cố gắng hết sức leo lên đỉnh đồi và thấy mình đang đứng trên bức tường loang lổ của đồn điền lâu đời này, nhìn xuống chiếc thuyền đang neo đậu. Tôi ngắm mặt trợi lặn về hướng Caribê. Mọi thứ lúc này đây dường như thật yên bình, nhưng tôi hiểu rằng trước kia khu đồn điền xung quanh mình đã từng là nơi chứng kiến những cảnh đời khổ cực không kể xiết; hàng trăm nô lệ Châu Phi đã bỏ xác ở nơi này- dưới nòng súng, họ bị bắt phải xây dựng lâu đài, trồng và thu hoạch mía, và phải vận hành máy móc để biến đường thô thành nguyên liệu chính của rượu rum.

Sự yên tĩnh ở nơi đây đã che giấu cho lịch sử tàn ác của nó, cũng như che giấu cơn giận đang trào lên trong lòng tôi. Mặt trời khuất sau đỉnh núi trên đảo. Ráng chiều đỏ rực trải trên bầu trời. Rồi mặt biển tối dần đi, và tôi phải đối diện với một thực tế phũ phàng là tôi cũng chỉ là một tên buôn nô lệ mà thôi, và rằng công việc của tôi ở MAIN không chỉ là dùng các khoản nợ để lôi kéo những nước nghèo vào đế chế toàn cầu. Những dự báo được tôi thổi phồng lên không chỉ là phương tiện để đảm bảo rằng khi nào đất nước chúng tôi cần dầu lửa thì chúng tôi có thể đòi cho đủ mới thôi, và vị trí của tôi không đơn giản chỉ là tăng lợi nhuận cho công ty. Mà công việc của tôi còn liên quan đến những người dân và gia đình họ, họ giống như những người đã bỏ mạng để xây dựng bức tường nơi tôi đang đứng, những người tôi đã bóc lột.

 Trong 10 năm qua, tôi cũng chỉ là con cháu những tên buôn nô lệ đã từng lũ lượt kéo vào rừng sâu Châu Phi và lùa đàn ông, đàn bà ra những con tàu đang chờ sẵn. Chỉ khác là theo một phương thức hiện đại hơn, tinh vi hơn - bởi tôi chưa từng phải trông thấy các xác chết, ngửi thấy mùi thịt thối rữa, hay nghe những tiếng kêu ai oán. Nhưng những gì tôi đã làm thì độc ác chẳng kém gì, và chỉ bởi tôi đã có thể trốn tránh được, cá nhân tôi không phải trực tiếp dính líu gì đến những xác chết, mùi thịt người, và những tiếng kêu bi thương, vì vậy có lẽ rút cục thì tôi là kẻ tội đồ xấu xa nhất.

Tôi liếc nhìn lại con thuyền nhỏ đang neo đậu, và đang phải chống trả với dòng nước chảy xiết. Mary đang đi thơ thẩn trên boong, có lẽ là đang uống một ly Margarita và chờ tôi về để pha cho tôi một ly. Vào lúc đó, khi nhìn thấy cô ấy trong những tia nắng cuối cùng của ngày, trông thật thỏai mái, và đầy tin tưởng, tôi bất chợt cảm thấy day dứt về những gì tôi đã làm với cô ấy và với tất cả những ai đã làm việc cho tôi, cái cách mà tôi đã biến họ thành những EHM. Tôi đang đối xử với họ theo cách mà Claudine đã làm với tôi, nhưng lại không có được sự chân thành như thế. Tôi đang lôi kéo họ bằng việc tăng lương và đề bạt để họ trở thành những tên buôn nô lệ, và cũng như tôi, họ đang bị trói buộc vào hệ thống này. Phải, họ cũng đã bị biến thành những kẻ nô lệ.

Tôi quay lưng lại với biển, với vịnh, và với cả ráng chiều đỏ rực. Tôi nhắm mắt lại trước bức tường do những người nô lệ bị buộc phải rời bỏ quê hương xây dựng nên. Tôi nhảy lên, chộp lấy cành cây, và bắt đầu đập mạnh vào những bức tường đá. Tôi cứ đập như thế cho đến khi kiệt sức. Tôi nằm lăn ra cỏ, ngắm những đám mây lững lờ trôi.

Cuối cùng thì tôi cũng quay trở lại xuồng. Tôi đứng trên bờ, nhìn ra chiếc thuyền của chúng tôi đang neo đậu nơi dòng nước trong xanh, và hiểu mình phải làm gì. Tôi biết rằng nếu tôi quay trở lại cuộc sống trước đây, trở lại MAIN và tất cả những gì mà MAIN đang đại diện, tôi sẽ lạc đường mãi mãi. Tiền lương cao, tiền hưu trí, bảo hiểm và tiền thù lao, tài sản... Càng ở lại đó lâu tôi càng khó có thể thoát ra được. Tôi đã trở thành một nô lệ. Tôi có thể tiếp tục đánh mình nhừ tử như  tôi đã đánh vào những bức tường đá đó, hoặc tôi có thể chạy trốn.

Hai ngày sau tôi trở lại Boston. Vào ngày 1 tháng 4 năm 1980, tôi bước vào văn phòng của Paul Priddly và xin thôi việc.

 

PHẦN IV: 1981- HIỆN TẠI

 

Chương 26

Cái chết của Tổng thống Êcuađo [/b]

 

 

Đi khỏi MAIN không dễ chút nào. Paul Riddy không thể tin nổi điều đó. “Cá tháng tư”, anh ta nháy mắt.

Tôi quả quyết với anh ta là tôi hoàn toàn nghiêm túc. Tôi nhớ Paula đã từng khuyên tôi không nên gây thù địch với bất cứ ai hoặc cho ai biết bất cứ lý do gì để nghi ngờ rằng tôi có thể vạch trần công việc EHM của mình, tôi nhấn mạnh rằng tôi đánh giá cao những gì MAIN làm cho tôi nhưng tôi muốn tiến xa hơn nữa. Tôi luôn muốn viết về những người mà tôi được MAIN giới thiệu ở khắp nơi trên thế giới, nhưng không liên quan gì đến chính trị cả. Tôi nói tôi muốn làm cộng tác viên cho National Geographic và một vài tờ tạp chí khác, và tôi muốn được tiếp tục đi du lịch. Tôi tuyên bố luôn trung thành với MAIN và thề rằng tôi sẽ luôn ca ngợi MAIN. Cuối cùng, Paul cũng đồng ý.

        Sau đó, đến lượt tất cả những người còn lại ra sức khuyên tôi đừng đi khỏi MAIN. Tôi luôn phải nghe những lời như công việc này thật tốt với tôi, có những người thậm chí còn cho rằng tôi mất trí. Tôi chợt hiểu rằng không ai muốn chấp nhận sự thật là tôi tự đi khỏi MAIN , có lẽ một phần vì điều đó buộc họ phải nhìn lại chính mình. Nếu sự ra đi của tôi không phải là điên rồ, thì có lẽ chính ở lại như họ mới là mất trí. Nhìn nhận tôi như là một người điên rồ có lẽ dễ chịu hơn.

Nhưng phản ứng của đám nhân viên dưới quyền của tôi mới khiến tôi thực sự bối rối. Trong mắt họ, tôi đã bỏ rơi họ trong khi chưa có ai chuẩn bị để có thể kế nhiệm tôi. Mặc dù vậy, tôi đã quyết định. Sau bao nhiêu năm tháng đắn đo, tôi kiên quyết phải xóa sổ mọi thứ.

Thật không may, mọi việc không suôn sẻ như vậy. Thực sự thì tôi không còn việc làm, nhưng vì tôi vẫn chưa phải là một hội viên có quyền hạn nên số tiền bán cổ phiếu không đủ để tôi có thể bỏ việc, nếu ở lại MAIN thêm vài năm nữa, rất có thể tôi sẽ trở thành một nhà triệu phú 40 tuổi như tôi đã từng hình dung, nhưng giờ đây tôi mới 35 và mục tiêu đó còn quá xa vời. Quả là một ngày tháng tư lạnh lẽo và ảm đạm ở Boston.

Thế rồi một ngày Paul Riddy lấy cớ gọi tôi đến văn phòng. “Một khách hàng đang dọa bỏ chúng ta”, anh ta nói. “Họ thuê chúng ta chỉ vì họ muốn anh làm đại diện cho họ với tư cách là nhân chứng chuyên môn”. Tôi cân nhắc. Trong lúc ngồi đối diện chỉ cách Paul một cái bàn tôi đã quyết định. Tôi tự đặt giá cho mình – một  cái giá cao gấp ba lần lương tháng cũ của tôi tại MAIN. Không ngờ anh ta chấp nhận, và thế là sự nghiệp mới của tôi bắt đầu.

Những năm sau đó tôi làm việc với tư cách người làm chứng cấp cao- phần lớn cho những công ty điện lực của Mỹ đang cần Ủy ban dịch vụ công phê duyệt để xây dựng các nhà máy năng lượng mới. Một trong số những khách hàng của tôi là công ty dịch vụ công của New Hampshire. Công việc của tôi là chứng minh trước tòa tính khả thi của nhà máy năng lượng hạt nhân Seabrook, một dự án đang gây nhiều tranh cãi.

Tuy không trực tiếp liên quan đến Mỹ Latinh nữa, nhưng tôi vẫn theo dõi những sự kiện vẫn diễn ra ở đó. Với tư cách là một nhân chứng chuyên môn, ngoài những lúc phải ra hầu tòa, tôi có rất nhiều thời gian. Tôi giữ liên hệ với Paula và nối lại những quan hệ mà tôi có từ những ngày còn làm việc cho Quân đoàn Hòa bình ở Êcuađo - đất nước bỗng trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý trong nền chính trị dầu lửa quốc tế.

Jaime Roldós đang lên. Ông coi trọng những gì ông đã hứa khi đứng ra tranh cử và đang tìm mọi cách để chống lại các công ty dầu lửa. Dường như ông nhận thấy rất rõ những điểu mà người khác ở cả hai bờ kênh đào Panama không thấy hoặc cố tình không thấy. Ông hiểu rằng những gì đang diễn ra có nguy cơ biến thế giới thành một đế chế toàn cầu mà trong đó những người dân nước ông sẽ chỉ đóng một vai trò rất nhỏ, gần như là nô lệ. Những bài báo nói về ông mà tôi đọc gây ấn tượng mạnh không chỉ bởi sự tận tụy của ông mà còn bởi khả năng nhìn nhận vấn đề một cách uyên thâm của ông. Những vấn đề sâu xa mà ông nhìn thấy chính là cái thực tiễn rằng, chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới của nền chính trị thế giới.

Tháng 11/1980, trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng, Carter đã thua Reagan. Hiệp ước kênh đào Panama mà ông đàm phán với Torrijos, tình hình ở Iran, đặc biệt là sự thất bại trong kế hoạch giải cứu những con tin bị bắt giữ tại sứ quán Mỹ là lý do chính khiến ông thua cuộc. Nhưng một điều gì đó tế nhị hơn cũng đang diễn ra. Một Tổng thống với mục tiêu lớn nhất là hoà bình thế giới, người quyết tâm hạn chế sự phụ thuộc của Mỹ vào dầu lửa đã bị thay thế bởi một kẻ với niềm tin rằng chính sức mạnh quân sự, quyền kiểm soát tất cả các mỏ dầu mới giúp nước Mỹ nắm giữ một cách chính đáng vị trí chóp bu của thế giới, và đó là một phần của Thuyết bành trướng theo định mệnh. Vị Tổng thống, người cho lắp những tấm panen năng lượng mặt trời trên nóc nhà Trắng đã bị thay thế bởi một kẻ mà ngay sau khi chiếm lĩnh được phòng bầu dục đã cho hạ những tấm panen đó xuống.       

Có thể Carter không phải là một nhà chính trị tài giỏi, nhưng giấc mơ về nước Mỹ của ông cũng giống như những điều được viết trong bản tuyên ngôn độc lập của chúng ta. Nhìn lại ông thật hoài cổ với những ý tưởng đã đúc kết nên dân tộc này và đã đưa tổ tiên chúng ta đến bờ biển của nước Mỹ. Khi chúng ta so sánh ông với những người tiền nhiệm gần ông nhất và với những người kế vị, ông hoàn toàn khác hẳn. Cái nhìn về thế giới của ông khác hẳn với cái nhìn của những EHM.

Trong khi đó, Reagan chắc chắn sẽ là người góp phần xây dựng đế chế toàn cầu, là một bầy tôi của chế độ tập đoàn trị. Vào thời điểm ông ta nhậm chức, tôi thấy việc trước kia ông ta đã từng là một diễn viên Hollywood thật phù hợp, vì như vậy ông ta là người đã từng làm theo những chỉ thị từ trên xuống của những người có thế lực, một người biết nhận mệnh lệnh. Đó sẽ là môt đặc điểm của ông ta. Ông ta sẽ phục vụ cho những người chạy như con thoi từ các văn phòng của những tổng giám đốc công ty đến các hội đồng của ngân hàng và đến những hành lang của chính phủ. Ông ta sẽ phục vụ những người mà nhìn qua tưởng chừng như làm việc cho ông ta nhưng thực ra chính họ lại nắm quyền điều hành chính phủ - những người như Phó tổng thống George H. W. Bush, ngoại trưởng George Strultz, bộ trưởng quốc phòng Caspar Weinperger, Richard Cheney, Richard Helms, và Robert McNamara.

Ông ta sẽ bảo vệ những gì mà họ muốn: một nước Mỹ kiểm soát toàn thế giới cùng tất cả nguồn lực của nó, một thế giới tuân theo mệnh lệnh của Mỹ, và quân đội Mỹ sẽ củng cố những luật lệ mà nước Mỹ đặt ra, một hệ thống thương mại và ngân hàng ủng hộ nước Mỹ như vị thủ lĩnh của Đế chế toàn cầu.

Hướng tới tương lai, dường như chúng ta đang bước vào một giai đoạn đầy triển vọng của các EHM. Lại là một trò đủa nữa của số phận khi tôi chọn đúng thời khắc lịch sử này để rút lui. Tuy vậy, càng cân nhắc kỹ tôi càng cảm thấy dễ chịu. Tôi biết tôi đã quyết định đúng.       

Điều này về lâu dài sẽ thế nào, tôi không rõ nhưng tôi biết rằng trong lịch sử không có một đế chế nào tồn tại lâu và thời thế thì luôn thay đổi. Theo cách nhìn của tôi, những người như Roldos cho phép chúng ta hy vọng. Tôi chắc chắn là vị tổng thống mới của Êcuađo nhìn thấy những điều khó lường trong tình thế hiện nay. Tôi biết ông đã từng ngưỡng mộ Torrijos và đã tán thưởng lập trường dũng cảm của Carter về kênh đào Panama. Tôi có cảm giác Roldos chắc chắn sẽ không chùn bước. Tôi chỉ hy vọng sự kiên cường của ông sẽ soi đường cho những người đứng đầu các quốc gia khác, ông và Torrijos có thể cho họ nguồn cảm hứng mà họ cần.       

Đầu năm 1981, chính phủ của Roldos chính thức trình Quốc hội Êcuađo dự luật về khí thải hydrocacbon mới. Nếu được thi hành, dự luật này sẽ làm thay đổi mối quan hệ giữa Êcuađo và các công ty dầu lửa. Trên nhiều giác độ, dự luật này có tính cấp tiến và thậm chí quyết liệt. Rõ ràng nó được lập ra để thay đổi hoạt động của các công ty. Ảnh hưởng của nó sẽ vươn ra ngoài biên giới Êcuađo, đến hầu hết các nước Mỹ Latinh và khắp thế giới.1     

Các công ty dầu lửa phản ứng đúng như dự đoán- họ tranh thủ hết các thế lực và tiền bạc mà họ có. Những người phụ trách quan hệ cộng đồng của các công ty này bắt đầu chiến dịch bôi nhọ Jame Roldos, và những người chuyên đi vận động hành lang lao đến Quito và Washinton với những cặp tài liệu đầy chặt tiền và những lời hăm dọa. Họ cố thêu dệt hình ảnh vị Tổng thống đầu tiên được bầu một cách dân chủ trong lịch sử cận đại của Êcuađo như một Castro thứ hai. Nhưng Roldos không chịu khuất phục trước bất kỳ sự hăm dọa nào. Ông phản ứng bằng cách vạch mặt những âm mưu chính trị và dầu lửa - tôn giáo. Ông công khai buộc tội Viện ngôn ngữ mùa hè đã cấu kết với các công ty dầu lửa và ngay sau đó, bằng một nước cờ thật táo bạo - thậm chí là liều lĩnh, ông trục xuất viện này khỏi Êcuađo.2

 Chỉ vài tuần sau khi chương trình của ông được trình quốc hội và chỉ vài ngày sau khi ông đuổi cổ những người truyền giáo của Viện Ngôn ngữ mùa hè, ông cảnh báo những tổ chức nước ngoài, có cả công ty dầu lửa và không chỉ dừng lại ở đó, rằng những kế hoạch mà họ định thi hành không có lợi cho người dân Êcuađo, họ sẽ buộc phải rời khỏi đất nước này. Ông thuyết trình một bài diễn văn quan trọng tại sân vận động Olympic Atahualpa ở Quito và sau đó đi tới một làng nhỏ ở nam Êcuađo.      

Ông chết ở đó trong một tai nạn máy bay, vào ngày 24 tháng 5 năm 1981.  

Cả thế giới bị sốc. Những người Mỹ Latinh nổi giận. Báo chí khắp bán cầu loan tin: “Một vụ ám sát của CIA!”. Bên cạnh sự thật là Washington và các công ty dầu lửa căm ghét ông, nhiều sự kiện khác dường như cũng ủng hộ lời buộc tội này, và mối nghi ngờ ngày càng tăng lên khi nhiều thông tin được tung ra.

Tuy không có bằng chứng cụ thể, nhưng một số nhân chứng khẳng định rằng Roldos đã được báo trước về vụ ám sát và có nhiều biện pháp đề phòng và có dùng hai chiếc trực thăng khác nhau. Đến giờ phút cuối cùng, một sĩ quan đã thuyết phục ông đi bằng chiếc trực thăng nghi trang. Chiếc này đã nổ tung.

Bất chấp phản ứng của thế giới, tin tức hầu như không được đăng tải trên báo chí Mỹ.

Osvaldo Hurtardo lên kế vị chức tổng thống. Ông ta phục hồi lại Viện Ngôn ngữ mùa hè và những công ty dầu lửa tài trợ cho tổ chức này. Cuối năm, ông ta cho bắt đầu môt chương trình đầy tham vọng nhằm tăng sản lượng dầu cho Texaco và một số các công ty nước ngoài khác tại vịnh Guayaquil và vùng vịnh Amazon.4

Omar Torrijos, để ca tụng Roldos, nói về ông như nói về một người “anh em”. Ông đã thú nhận đã có những cơn ác mộng về vụ ám sát chính mình; ông thấy mình rơi từ trên trời xuống trong một quả cầu lửa khổng lồ. Đó là một lời tiên tri.

 

 Chương 27

Panama: Lại một vị Tổng thống nữa bị ám sát

 

Cái chết của Roldos làm tôi sửng sốt, mặc dù đáng ra tôi không nên sửng sốt như vậy. Tôi đâu có ngây thơ. Tôi đã từng biết đến Arbenz, Mossadegh, Allende- và rất nhiều người khác nữa, những người mà tên tuổi của họ chưa bao giờ được nhắc đến trên báo cí hoặc các cuốn sách lịch sử nhưng cuộc đời của họ đã bị huỷ hoại hoặc bị rút ngắn lại bởi họ đã dám đứng lên chống lại chế độ tập đoàn trị. Song tôi vẫn sửng sốt. Nó diễn ra quá trắng trợn. Sau thành công vang dội của chúng tôi ở Ả rập Xêút, tôi đã kết luận rằng những hành động trơ trẽn như vậy đã thuộc về quá khứ. Tôi nghĩ rằng những con chó rừng đã được nhốt vào sở thú.

Giờ tôi biết tôi đã sai. Tôi dám chắc cái chết của Roldos không phải là một tai nạn. Nó có tất cả dấu hiệu của một vụ ám sát do CIA sắp đặt. Tôi hiểu nó được thực hiện thật trắng trợn để gửi đi một lời đe dọa. Chính phủ Reagan, với hình tượng của một chàng trai cao bồi Hollywood, là một phương tiện lý tưởng để chuyển tải những thông điệp như vậy. Những con chó rừng đã quay trở lại. Chúng muốn Torrijos và bất kỳ ai có ý định tham gia vào chiến dịch chống lại chế độ tập đoàn trị hiểu được vấn đề đó.

Nhưng Torrijos không chịu lùi bước. Giống như Roldos, ông không để bị đe dọa. Ông cũng trục xuất Viện Nghiên cứu mùa hè và kiên quyết từ chối lời đề nghị của chính phủ Reagan về việc đàm phán lại hiệp ước kênh đào. Hai tháng sau khi Roldós  bị ám sát, cơn ác mộng của Torrijos trở thành sự thật, ông chết trong một vụ tai nạn máy bay. Đó là vào ngày 31 tháng 7 năm 1981.

Châu Mỹ Latinh và cả thế giới quay cuồng. Torrijos nổi tiếng trên khắp thế giới; người ta ngưỡng mộ ông vì ông đã buộc Mỹ phải trả lại kênh đào Panama cho những người chủ hợp pháp của nó và vì ông tiếp tục đứng lên chống lại Reagan. Ông là nhà vô địch trong cuộc đua đòi nhân quyền, là lãnh tụ của một dân tộc đã mở rộng vòng tay đón nhận những người tị nạn chính trị, trong đó có cả quốc vương Iran, một tiếng nói thuyết phục cho công bằng xã hội, người mà nhiều người tin rằng phải được đề cử cho giải Nobel vì Hòa bình.

Giờ đây ông đã ra đi. “Một vụ ám sát của CIA!”. Một lần nữa báo chí và các bài xã luận lại tràn ngập dòng chữ này. Graham Greene mở đầu với cuốn sách làm quen với vị tướng, cuốn sách mà ông viết từ chuyến đi mà tôi gặp ông tại khách sạn Panama với đoạn sau:

Năm1981, khi đồ đạc đã được sắp xếp cho chuyến thăm lần thứ năm tới Panama của tôi thì chuông điện thoại reo. Herera, một người bạn và là người luôn tiếp đãi tôi nồng hậu mỗi lần tôi đến Panama báo tin tướng Omar Torrijos đã ra đi. Chiếc máy bay nhỏ chở ông đến ngôi nhà của chính mình tại Coclesito ở vùng núi Panama đã nổ tung và không một ai sống sót. Vài ngày sau, trung sĩ Chuchu, biệt hiệu José de Jesus Martinéz, cựu giáo sư triết học Mác tại trường đại học Panama, giáo sư toán và thơ, nói với tôi: “Có một quả bom trong cái máy bay ấy. Tôi biết có một quả bom trong máy bay, nhưng tôi không thể nói với anh qua điện thoại tại sao tôi biết”.1

Dân chúng ở khắp nơi khóc than cho sự ra đi của một người nổi tiếng là luôn bảo vệ người nghèo và những người bị áp bức và họ căm phẫn đòi Washington mở cuộc điều tra về những hoạt động của CIA. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra. Có rất nhiều người căm thù Torrijos, và trong danh sách ấy có những tên tuổi đầy thế lực. Khi còn sống, ông đã từng bị Tổng thống Reagan, Phó Tổng thống Bush, Bộ trưởng Quốc phòng Weinberger và các Tổng tham mưu trưởng cũng như rất nhiều tổng giám đốc các tập đoàn hùng mạnh căm ghét không giấu diếm.

Đặc biệt, các tướng lĩnh quân đội đã phát điên lên vì những điều khoản trong hiệp ước Torrijos - Carter buộc họ phải đóng cửa trường quân sự Mỹ và bộ tổng chỉ huy chiến tranh miền Nam. Điều này buộc họ đối đầu với một thách thức lớn. Một là họ phải tìm cách để không phải làm theo hiệp ước, hai là phải tìm một nước khác sẵn sàng tiếp nhận những căn cứ này - một viễn cảnh không tưởng vào cuối thế kỷ XX.

Tất nhiên, còn một giải pháp nữa, thủ tiêu Torrijos và đàm phán lại hiệp ước này với người kế vị của ông. Nhiều tập đoàn đa quốc gia khổng lồ cũng nằm trong danh sách những kẻ thù của Torrijos. Phần lớn những tập đoàn này có mối liên hệ mật thiết với các chính trị gia ở Mỹ và đều dính líu đến việc bóc lột sức lao động và các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Mỹ Latinh- dầu lửa, gỗ, đồng, bôxit, và đất nông nghiệp.

Đó là những công ty chế biến, những công ty viễn thông, các tập đoàn hàng hải và vận tải, các công ty xây dựng và công nghệ. Tập đoàn Bechtel là một ví dụ điển hình về mối quan hệ mật thiết giữa các công ty tư nhân và chính phủ Mỹ. Tôi biết rõ Bechtel; tại MAIN chúng tôi thường làm việc với công ty này và kỹ sư trưởng của công ty đã trở thành một người bạn thân của tôi. Bechtel là công ty xây dựng và lắp ghép có thế lực nhất nước Mỹ. Chủ tịch và lãnh đạo công ty là George Schultz và Caspar Weinberger, những người đã hết sức khinh miệt Torrijos khi ông công khai đồng ý với một kế hoạch của Nhật Bản về việc kênh đào Panama hiện tại bằng một kênh đào khác hiệu quả hơn. Việc này sẽ không chỉ tước đoạt quyền sở hữu của Mỹ mà còn gạt Bechtel khỏi một trong những công trình xây dựng sôi động và béo bở nhất của thế kỷ.

Torrijos đứng lên chống lại tất cả bọn họ, và ông làm điều này với một óc hài hước thanh lịch, duyên dáng và tuyệt vời nhất. Giờ đây ông đã chết, và thay thế ông là người được ông đỡ đầu, Manuel Noriega, một người không uy tín, không sức thu hút, cũng chẳng có được sự dí dỏm và trí thông minh của Torrijos, người mà rất nhiều người ngờ rằng không hề có khả năng chống lại những Bush, Reagan, và Bechtel của thế giới.

Bản thân tôi bị suy sụp bởi bi kịch này. Tôi ngồi hàng giờ suy nghĩ về những cuộc nói chuyện với Torrijos. Một đêm, tôi ngồi rất lâu nhìn chằm chằm vào bức ảnh của ông trong một tờ tạp chí và hồi tưởng lại đêm đầu tiên của mình ở Panama, đi taxi trong mưa, dừng lại trước tấm áp phích khổng lồ với bức ảnh của ông. “Lý tưởng của Omar là tự do; chưa có thứ vũ khí nào có thể giết chết được một lý tưởng!”. Ký ức về câu nói đó khiến tôi rùng mình, hệt như trong cái đêm bão ngày nào.

Khi ấy tôi không hề biết rằng cùng với Carter, Torrijos sẽ trả lại kênh đào Panama cho những người xứng đáng được sở hữu nó một cách hợp pháp, rằng chiến thắng này, cùng với những cố gắng hòa giải các bất đồng giữa những người Mỹ Latinh xã hội chủ nghĩa và những tên độc tài, sẽ làm cho chính quyền Reagan- Bush phát điên lên và tìm cách để hãm hại ông.3 Tôi không thể biết rằng vào một đêm khác ông sẽ bị giết trong chuyến bay thông thường trên chiếc Twin Otter, hoặc là phần lớn thế giới trừ nước Mỹ sẽ tin chắc là cái chết của Torrijos khi mới 52 tuổi chỉ là một vụ ám sát nữa trong hàng loạt các vụ ám sát của CIA.

Nếu Torrijos còn sống, chắc chắn ông sẽ tìm cách dập tắt làn sóng bạo lực đang dấy lên và từng mang tai họa cho biết bao dân tộc ở Trung và Nam Mỹ. Căn cứ vào những gì ông đã làm được, rất có thể ông sẽ tìm cách đạt được một thỏa thuận để làm giảm bớt sự tàn phá của các công ty dầu lửa quốc tế tại khu vực Amazon như Êcuađo, Colombia, và Pêru. Và hành động này cũng sẽ giúp làm bớt đi những cuộc xung đột khủng khiếp mà Washington nhắc đến như khủng bố và cuộc chiến ma túy, nhưng Torrijos lại nhìn nhận những hành động này như hành động của những con người tuyệt vọng để bảo vệ gia đình và mái nhà của họ.

Quan trọng hơn, tôi dám chắc ông sẽ trở thành một hình mẫu cho một thế hệ các nhà lãnh tụ mới ở Châu Mỹ, Châu Phi, và Châu Á - điều mà CIA, NSA và những EHM không bao giờ cho phép xảy ra.

 

Chương 28

Công ty của tôi, Enron, và George W. Bush

 

Vào thời điểm Torrijos bị ám sát, đã mấy tháng liền tôi không gặp Paula. Tôi hẹn hò với cô gái khác, trong đó có Winifred Grant, môt nhà quy hoạch môi trường trẻ mà tôi gặp ở MAIN; tình cờ bố của cô lại là kỹ sư trưởng của Bechtel. Paula đang hẹn hò với một nhà báo Colombia. Chúng tôi vẫn là bạn nhưng quyết định cắt đứt những sợi dây tình cảm lãng mạn. Tôi vật lộn với công việc làm chứng chuyên môn của mình, đăc biệt trong vụ biện hộ cho Nhà máy Năng lượng hạt nhân Seabrook. Dường như tôi lại đang bán rẻ mình, lại trở về với vài trò cũ của mình đơn giản chỉ vì tiền. Winifred giúp tôi rất nhiều trong thời gian này. Cô ấy là một nhà môi trường học nhưng đồng thời rất hiểu về sự cần thiết phải cung cấp điện với lượng ngày càng tăng. Cô ấy lớn lên ở vùng Berkeley của vịnh Đông San Francisco và tốt nghiệp đại học UC Berkeley. Cô ấy là một người phóng khoáng, có cái nhìn cuộc sống đối lập hẳn với cách nhìn khắt khe của bố mẹ tôi và Ann. Quan hệ của chúng tôi tiến triển tốt. Winifred xin nghỉ phép ở MAIN, và chúng tôi cùng đi trên chiếc thuyền của tôi dọc bờ Đại Tây Dương xuống Florida. Chúng tôi thường để thuyền lại các biến cảng để tôi có thể bay đi làm chứng chuyên môn. Cuối cùng, chúng tôi xuống West Palm Beach, Florida và thuê một căn hộ ở đó. Chúng tôi kết hôn và con gái tôi, Jessica, chào đời ngày 17/05/1982. tôi đã 36 tuổi, già hơn nhiều so với đám đàn ông vẫn đưa vợ đến các lớp học kiến thức chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh. Một phần công việc của tôi về Seabrook là phải thuyết phục Ủy ban dịch vụ công cộng New Hampshire rằng năng lượng hạt nhân là giải pháp tốt nhất và hiệu quả nhất để cung cấp điện cho bang. Thật đáng tiếc, càng tìm hiểu vấn để kỹ hơn, tôi càng nghi ngờ giá trị của những lý lẽ mà tôi đưa ra. Vào thời điểm ấy, tài liệu, sách báo nói về vấn đề này luôn thay đổi, phản ánh những bước tiến trong nghiên cứu, và ngày càng cho thấy có rất nhiều loại hình năng lượng khác, ưu việt hơn hẳn năng lượng hạt nhân cả về mặt kỹ thuật lẫn hiệu quả.Rồi cán cân cũng bắt đầu lệch khỏi thuyết cũ cho rằng năng lượng hạt nhân là an toàn. Người ta đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về độ tin cậy của các hệ thống hỗ trợ, về việc đào tạo những cán bộ vận hành, về khuynh hướng sơ suất trong yếu tố con người, sự hao mòn máy móc và sự thiếu an toàn của việc loại bỏ các chất thải hạt nhân. Tôi bắt đầu cảm thấy lo lắng, không thoải mái với nhiệm vụ mà người ta đã trả tiền để tôi hoàn thành và phải tuyên thệ để làm cái việc mà rốt cuộc sẽ khiến tôi phải ra tòa. Tôi ngày càng tin chắc rằng có những công nghệ phát điện mới mà không làm hại đến môi trường. Đặc biệt là những công nghệ phát điện từ những chất mà trước đây người ta vẫn coi là chất thải.

 Rồi một ngày tôi thông báo với các ông chủ tịch tại công ty dịch vụ New Hampshire là tôi sẽ không làm chứng cho họ nữa. Tôi từ bỏ cái công việc mang lại cho tôi rất nhiều tiền và quyết định thành lập công ty để có thể ứng dụng những công nghệ mới này và đưa vào thực tiễn những gì trước đây mới chỉ là lý thuyết. Winifred ủng hộ tôi hoàn toàn, bất chấp những điều không lường trước được của một cuộc mạo hiểm, bất chấp thực tiễn là lần đầu tiên trong đời, cô ây sắp có con.

Vài tháng sau khi Jessica chào đời, năm 1982, tôi thành lập hệ thống năng lượng độc lập (IPS), một công ty với sứ mệnh xây dựng những nhà máy năng lượng có lợi cho môi trường và dựng lên những mô hình để khuyến khích các công ty khác noi theo. Đó là một công việc rất mạo hiểm, và phần lớn những công ty theo đuổi điều này đã thấy bại. Tuy vậy, “những sự trùng hợp ngẫu nhiên” đã luôn xuất hiện để cứu chúng tôi. Thực tế tôi dám chắc là rất nhiều lần đã có người giúp tôi, rằng tôi được đền đáp cho những gì tôi đã làm trước kia và vì tôi đã biết giữ im lặng.

Bruno Zambotti nhận môt vị trí cao cấp tại Ngân hàng phát triển Liên Mỹ. Ông đồng ý vào hội đồng quản trị của IPS và lo về mặt tài chính cho công ty non trẻ. Chúng tôi nhận được sự hỗ trợ từ Bankers Trush; ESI Energy; Prudential Insurance Company; Chadbourne và Parke (một công ty luật lớn trên Wall Street, công ty mà Ed Muskie, cựu thượng nghị sĩ Mỹ, ứng cử viên tổng thống và ngoại trưởng là một cộng sự); và Riley Stoker Corporation (một công ty xây dựng, thành viên của tập đoàn Ashland Oil Company, công ty này đã thiết kế và xây dựng nhiều nồi hơi tinh xảo bằng những công nghệ có tính đột phá cho các nhà máy điện). Chúng tôi thậm chí có được cả hỗ trợ từ quốc hội Mỹ, chúng tôi được miễn một loại thuế đặc biệt, điều này giúp cho IPS có được lợi thế so với những đối thủ khác.

Năm 1986, cả IPS và Bechtel cùng lúc khởi công xây dựng nhà máy năng lượng với những công nghệ tiên tiến và hiện đại nhất để đốt than phế thải không gây nên mưa axit. Đến cuối thập kỷ, cả hai công ty đã làm nên một cuộc cách mạng trong ngành dịch vụ công, trực tiếp góp phần củng cố luật chống ô nhiễm quốc gia bằng cách chứng minh một cách dứt khoát rằng rất nhiều thứ mà trước đây người ta vẫn tưởng là chất thải có thể được chuyển thành điện, và than có thể đốt mà không gây nên mưa axit và nhờ vậy bác bỏ những luận điệu trái ngược của các công ty dịch vụ công. Nhà máy của chúng tôi cũng chứng minh rằng có thể huy động vốn cho những công nghệ chưa qua kiểm nghiệm và tiên tiến như vậy thông qua một công ty tư nhân qui mô nhỏ, qua phố Wall và các phương tiện tài chính thông thường.1  

Một lợi ích nữa của việc này là nhà máy năng lượng của IPS thải khí thải nhiệt vào một nhà kính khoảng 1,5 hecta thay vì thải vào không khí hay vào nguồn nước gây ô nhiễm môi trường.

Vai trò Chủ tịch IPS của tôi giúp tôi biết được những gì đang diễn ra trong ngành năng lượng. Tôi quen với những người có thế lực trong các ngành: các luật sư, những người vận động hành lang, các chủ ngân hàng đầu tư, và các viên chức cao cấp của các công ty lớn. Tôi cũng có lợi thế là bố vợ làm việc hơn 30 năm tại Bechtel, giữ cương vị của một kỹ sư trưởng, và giờ ông đang chịu trách nhiệm xây dựng một thành phố ở Ảrập xêút- kết quả trực tiếp của công việc mà tôi đã làm vào những năm 70, trong thời kỳ vụ rửa tiền của Ảrập Xêút. Winifred lớn lên gần trụ sở chính ở Bechtel tại San Francisco và cũng là thành viên của đại gia đình cái công ty ấy; công việc đầu tiên của cô ấy sau khi tốt nghiệp UC Berkeley là ở Bechtel.

Ngành năng lượng đang trải qua một thay đổi lớn. Các công ty công trình lớn đang dùng mọi thủ đoạn để mua lại hoặc chí ít thì cũng cạnh tranh với các công ty trước kia đã từng độc quyền. Bãi bỏ quy định, luật lệ đã trở thành khẩu hiệu, luật lệ liên tục thay đổi. Đầy rẫy cơ hội cho những kẻ tham vọng muốn lợi dụng tình thế hỗn loạn tại tòa án và quốc hội. Những người am hiểu trong ngành gọi đây là “Miền Tây hoang dã” của ngành năng lượng.

Một trong số những nạn nhân của quá trình này là MAIN. Đúng như Bruno đã dự đoán, Mac Hall đã mất hết khái niệm về thực tế và không một ai dám nói với ông ta điều đó. Paul Riddy chưa bao giờ nắm quyền và những người đứng đầu MAIN không chỉ không chớp thời cơ, không tận dụng những cơ hội mà những thay đổi lớn lao trong ngành đem lại mà còn phạm một loạt sai lầm. Chỉ vài năm sau khi Bruno đạt dược mức lãi kỷ lục, MAIN đã đánh mất vị trí EHM của mình và rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính. Những hội viên của MAIN bán nó cho một công ty xây dựng và lắp ghép lớn biết tận dụng thời cơ.

Trong khi vào năm 80, tôi nhận được gần 30 đô la cho mỗi cổ phần thì những cổ đông khác chỉ nhận được chưa đến một nửa số đó sau gần bốn năm. Thế là một trăm năm đầy kiêu hãnh của công ty đã kết thúc một cách nhục nhã. Tôi buồn khi nhìn thấy công ty bị xóa sổ nhưng tôi cũng cảm thấy rằng mình đã ra đi đúng lúc. Tên tuổi MAIN còn tồn tại với người sở hữu mới thêm một thời gian nữa, nhưng sau đó nó hoàn toàn biến mất. Cái biểu trưng mà trước đây từng rất có trọng lượng với nhiều quốc gia trên thế giới đã chìm vào quên lãng.

MAIN là thí dụ của một công ty đã không đương đầu được với sự thay đổi của ngành năng lượng. Trái ngược với MAIN là hình ảnh một công ty phát triển nhanh nhất trong ngành bỗng nhiên xuất hiện và ngay lập tức lấy được những hợp đồng khổng lồ. Phần lớn những buổi họp thường bắt đầu bằng những câu chuyện gẫu, người ta uống cà phê, sắp xếp lại giấy tờ, và ở thời điểm này, những câu chuyện gẫu thường xoay quanh Enron. Không một ai ngoài công ty có thể hiểu được làm thế nào mà Enron có thể đạt được những điều kỳ diệu như vậy. Những người trong cuộc chỉ cười và giữ im lặng. Đôi khi, vì bị hỏi dồn, họ nói về một cách quản lý mới, cách quản lý các nguồn tài chính đầy sáng tạo và về việc họ cam kết chỉ thuê những nhà quản lý biết cách vận động hành lang trên khắp thế giới.

Với tôi, tất cả những điều này nghe có vẻ như là một kiểu EHM mới. Đế chế toàn cầu đang tiến lên phía trước với một tốc độ chóng mặt.

 Với những người quan tâm đến dầu lửa và đến tình hình quốc tế như chúng tôi, một đề tài nóng hổi nữa là con trai của Phó Tổng thống, George W. Bush (Bush con ). Công ty đầu tiên của tay này, Arbusto (tiếng Tây Ba Nha của từ Bush (bụi rậm)) là một thất bại mà cuối cùng cứu được chỉ nhờ sáp nhập với Spectrum 7. Sau đó Spectrum 7 gần như đứng trên bờ vực phá sản và Harken Energy Corporation đã mua lại công ty này vào năm 1986. George Bush được giữ lại trong Hội đồng Quản trị với tư cách là một nhà tư vấn với mức lương 120.000 đô la mỗi năm.2

Tất cả chúng tôi đều cho rằng Bush có được vị trí này là nhờ vào ông bố Phó Tổng thống của mình, vì những thành tích của ông ta khi còn là quản lý công ty dầu lửa chắc chắn không đủ đảm bảo cho ông ta vị trí này. Việc Harken nhân cơ hội này bắt đầu mở rộng các chi nhánh kinh doanh ra nước ngoài và tích cực tìm cách đầu tư ở Trung Đông cũng không phải là ngẫu nhiên. Tạp chí Vanityfair đã bình luận: “Từ khi Bush có chân trong hội đồng quản trị, những điều kỳ diệu bắt đầu xảy đến với Harken- các cơ hội đầu tư mới , những nguồn tài chính bất ngờ, quyền được lắp đặt giàn khoan hết sức ngẫu nhiên”.3

Năm 1989, Amoco đang đàm phán với chính phủ của Bahrain về quyền lắp đặt giàn khoan ở ngoài khơi. Khi đó Phó Tổng thống Bush được bầu tổng thống. Liền sau đó, Michael- một cố vấn của Bộ ngoại giao được giao nhiệm vụ hướng dẫn cho Đại sứ Mỹ mới ở Bahrain, Charles Hostler- sắp đặt một cuộc gặp mặt giữa chính phủ Bahrain và Harken Energy. Ngay lập tức Amoco được Harken thế chân. Mặc dù Harken chưa bao giờ đặt giàn khoan ngoài khu vực Đông Nam nước Mỹ, và lại càng chưa bao giờ ở ngoài khơi, công ty này đã dành được quyền đặt dàn khoan ở Bahrain, một điều chưa từng xảy ra ở trong thế giới Ảrập. Chỉ trong vòng vài tuần giá cổ phiếu của Harken Energy tăng hơn 20%, từ 4.5$ lên 5,5$ cho mỗi cổ phiếu.

Kể cả những bậc lão làng trong ngành năng lượng cũng bị sốc bởi sự kiện ở Bahrain. “Tôi hy vọng G.W. Bush không làm bất cứ điều gì khiến cha anh ta phải trả giá”, một người bạn luật sư của tôi, chuyên làm về lĩnh vực năng lượng và cũng là một người hết sức ủng hộ đảng Cộng hòa nói. Chúng tôi đang uống Cocktail tại một quán bar ở góc phố Wall, trên đỉnh tòa nhà thương mại thế giới. Anh ta nói một cách chán nản: “Tôi không biết có đáng thế không”, lắc đầu một cách buồn bã, anh tiếp “chẳng biết sự nghiệp của ông con có đáng để ông bố phải mạo hiểm cái chức tổng thống không?”.

Tôi không ngạc nhiên như những người khác, nhưng có lẽ là vì tôi có một triển vọng độc nhất vô nhị. Tôi đã từng làm việc cho chính phủ Cô oét, Ảrập Xêút, Ai cập và Iran, tôi hiểu nền chính trị Cận Đông, và tôi biết là Bush, cũng giống như những người quản lý Enron, là một phần của cái mạng lưới mà tôi và những đồng sự EHM của mình đã tạo dựng lên; họ là những địa chủ và ông chủ đồn điền.

 

 

  1. Confessions of an Economic Hit Man

  2. Confessions of an Economic Hit Man

  3. Confessions of an Economic Hit Man

  4. Confessions of an Economic Hit Man

  5. Confessions of an Economic Hit Man

  6. Confessions of an Economic Hit Man

  7. Confessions of an Economic Hit Man

  8. Confessions of an Economic Hit Man

  9. Confessions of an Economic Hit Man

  10. Confessions of an Economic Hit Man

 

http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: