Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Tái sinh và đầu thai

 

 

1. Sự Khác Nhau Giữa Tái Sinh & Đầu Thai

 

Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong ư nghĩa ‘chuyển kiếp’ hay ‘đầu thai kiếp sau’ theo ư nghĩa có ‘linh hồn’ thường hằng dịch chuyển từ đời này qua đời khác, như là do Thượng Đế sắp đặt hoặc như là một linh hồn tối thượng hay một linh hồn phổ quát – đại ngă (Param-atma).

 

Phật giáo không tin vào bất kỳ dạng chuyển kiếp hay chuyển linh hồn nào. Không có ǵ thoát ra khỏi một thể xác và chui vào một thể xác khác. Mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra theo quy luật thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada). Mọi sự vật xảy ra, xuất hiện hay tồn tại đều do những sự vật khác trước đó tạo điều kiện mà có, rồi đến khi chúng xuất hiện chúng lại là điều kiện để sinh ra những sự vật khác.

 

Trong học thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada), Đức Phật đă giảng giải rằng Dục Vọng làm khởi sinh Dính Chấp, rồi do có Dính Chấp nên dẫn đến sự Trở Thành, hiện thành (hay là sự liên tục của quá tŕnh sự sống bị tác động bởi Nghiệp) và cuối cùng dẫn đến sự Sinh ra. Dục Vọng của một người sắp chết hay đang chết cũng làm khởi sinh sự Dính Chấp và dẫn đến sự liên tục của quá tŕnh sự sống là Trở Thành, Hiện Thành thông qua Nghiệp hay Nghiệp Hữu (Kammabhava), và cuối cùng tạo nên sự Sinh, mà ta hay gọi là Tái Sinh. Điều này tương đồng và trùng khớp với cách diễn tả của Diệu Đế Thứ Hai (Nguồn Gốc của sự Khổ) cho rằng chính Dục Vọng đă dẫn đến tạo thành một ‘thực thể’ sống hay một ‘con người’ mới được cấu tạo bằng năm Uẩn dính chấp chính là “Khổ”.

 

2. Sự Tái Sinh Diễn ra Như Thế nào

 

Bắt đầu từ khái niệm một ‘con người’, Đức Phật đă dạy rằng “mầm” móng của cuộc sống được “gieo trồng” chỉ khi nào có đủ 3 điều kiện: Mẹ và Cha hợp duyên, đây là giai đoạn có mẹ (trứng chín) và một ‘Thực Thể’ hay “một con người chuẩn bị được sinh ra” đă có mặt, đă ‘hiện thành’, đă chết ở đâu đó, hay vừa kết thúc sự sống ở đâu đó. Chứ không nên hiểu theo nghĩa là ‘một con người hay một linh hồn đang chờ trứng và tinh trùng giao phối và rồi ‘chui’ vào đó để đầu thai”. Yếu tố người Cha chỉ cung cấp cho chúng ta vật chất vệ tinh trong quá tŕnh tái sinh. Nhưng điều này không có nghĩa mọi loài chúng sinh đều cần phải có yếu tố cha mới sinh ra được, bởi v́ có nhiều loài được sinh ra một cách tự nhiên, tùy theo Nghiệp (Kamma).

 

“Chết”, theo đạo Phật, là một sự ngưng lại, sự chấm dứt của một đời sống “sinh-vật-lư” của một ‘cá thể’ chúng sinh. Sự chết diễn ra bằng việc chấm dứt giác quan sự sống (jivitindriya) hay c̣n gọi là mạng căn (HV), nhiệt và thức. Cái chết không phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của một sự sống, mặc dù thời gian sống hay ‘mạng sống’ đă đến lúc chết, tuy nhiên nguồn lực đă “chạy” hay “duy tŕ” sự sống đó vẫn c̣n chứ không bị hủy diệt hay chấm dứt.

 

Khi cái “chết” đang xảy ra, một tiến tŕnh Tâm mới được gọi là (tâm) Thức Tái Sinh (patisandhi citta, tiếng Anh: Rebirth Consciousness) được xúc tiến (duyên) bởi Nghiệp Tái Sinh (tiếng Anh: Reproductive Kamma) hay là Nghiệp Hữu (kamma-bhava), tức quá tŕnh “Trở Thành”, cùng khởi sinh với 3 nhóm vật chất (sắc) do nghiệp tạo ra, cấu thành thân, giống và cơ sở tiếp xúc (chỗ dựa của Thức). Tất cả chúng làm điều kiện (duyên) làm khởi sinh những quá tŕnh vật chất và tinh thần (danh và sắc) trong noăn trứng, bây giờ theo nghĩa truyền thống hay gọi là một ‘con người’ đă hiện diện trong bào thai. Thức Tái Sinh và 3 nhóm vật chất (sắc) do nghiệp tạo ra đó được gọi chung.

 

là: “Con người sắp được sinh ra”. Danh từ này chỉ được dùng để diễn tả trong ngữ cảnh này khi không c̣n biết mượn danh từ khác xuất thế gian để giải thích tiến tŕnh tâm và vật chất cấu tạo nên ‘thực thể’ sống này. Không nên hiểu lầm đó là một linh hồn thường hằng nào đó đang đợi chui vào bào thai hay tử cung để được tái sinh.

 

3. Thức Kết Nối Lại hay Thức Tái Sinh

 

Theo giáo lư về Duyên Khởi của Đức Phật, “thông qua tiến tŕnh Trở Thành hay Nghiệp hữu (kamma-bhava), mà khởi sinh (duyên) cho Tái Sinh”. Để hiểu được vấn đề này một cách rơ ràng, chúng ta cần phải hiểu được rằng trong thực tại tuyệt đối, không có cái gọi là một ‘con người’ hay một ‘thực thể’ thường hằng nào đó, mà chỉ có tiến tŕnh sinh lư vật lư hay danh sắc (nama-rupa). Ngay cả trong cuộc sống từ lúc khởi đầu cho đến khi chết, những quá tŕnh danh sắc (nama-rupas) luôn khởi sinh và mất đi, sinh diệt liên tục và liên tục.

 

Cái chết là sự diệt Thức cuối cùng cùng lúc với sự tàn hoại của danh sắc (nama-rupa). Tái sinh lập tức xảy ra, khởi sinh một Thức mới, được gọi là Thức Kết Nối hay Thức Tái Sinh, cùng với (chỗ dựa) danh sắc (nama-rupa) mới. Nó được gọi là Thức kết nối lại bởi v́ nó nối liền sự sống mới và cũ. Sự khởi sinh Thức Tái Sinh do duyên hay sự xúc tiến của Nghiệp cuối cùng trước khi chết. Nói cách khác, chính Nghiệp cuối cùng trước khi chết là nhân duyên làm khởi sinh Thức tái sinh.

 

Nếu Nghiệp (kamma) là nghiệp lành, thiện, th́ sự tái sinh sẽ diễn ra ở cuộc sống hạnh phúc. Nếu Nghiệp là dữ, bất thiện, th́ sự tái sinh sẽ diễn ra ở một cuộc sống đau khổ. Điều này chính là ư nghĩa khi Đức Phật nói: “Tất cả chúng sinh được sinh ra từ chính nghiệp của ḿnh (Kammayoni)”.

 

▪ Một điều rất quan trọng để chúng ta lưu tâm rằng:

 

Không có một linh hồn nào rời khỏi thể xác và chui vào thể (a) xác mới.

 

─ Nếu không hiểu được điều này th́ rất khó chấp nhận nó và thường bị dẫn đến một kiểu tin là có sự di chuyển linh hồn hay hồn đi đầu thai vào thân xác khác, mà trong nhiều phần khác chúng ta gọi là: Quan điểm sai lầm về một linh hồn bất tử.

 

Khi những Hành Động Tạo Nghiệp hay Nghiệp ((b) Kamma), (Xin nhắc lại, trong khái niệm này, hành động cố ư, hành động ư chí, hành động tạo nghiệp, Hành hay Nghiệp… đều diễn tả một nghĩa như nhau –ND), th́ tùy thuộc vào & do Vô Minh và Dục vọng, chúng sinh chưa diệt sạch những ô nhiễm này sẽ tiếp tục tích lũy Nghiệp (Kamma) hay mang nghiệp (nghiệp hữu) và tiếp tục chịu tái sinh sau khi chết.

 

─ Nếu không hiểu điều này, th́ khó mà tin nó và thường bị dẫn đến kiểu tin là sự sống bị hủy diệt hoàn toàn sau khi chết. Đó là quan điểm sai lạc về sự tự hủy diệt, không c̣n/là ǵ sau khi chết, mà những nhà duy vật hiện đại c̣n đang chấp thủ.

 

4. Những Kiểu Chết

 

Sự chết có thể xảy ra v́ một trong 4 nguyên nhân sau đây:

 

Sự kiệt quệ hay hết cạn nguồn lực của (1) Nghiệp Tái Sinh ban đầu của kiếp sống hiện tại. (Nghiệp Tái Sinh này có từ lúc sinh, làm

 

khởi sinh sự sống hay tái sinh ra kiếp sống hiện tại. Không phải Nghiệp Tái Sinh cho sự sống tiếp theo sau khi cái chết của kiếp này -ND).

 

Sự (2) chấm hết chu kỳ sự sống, sự chấm dứt ‘mạng sống’, mạng chung.

 

Sự xảy ra đồng thời của 2 nguyên nhân trên, vừa hết nguồn lực (3) Nghiệp Tái Sinh và cũng vừa đến lúc kết thúc chu kỳ hay ‘ṿng đời’ sự sống.

 

Tác động của một Nghiệp ((4) Kamma) mạnh hơn, bất ngờ cắt đứt nguồn lực của Thức Tái Sinh trước khi đến thời hạn kết thúc chu kỳ vay ‘ṿng đời’ sự sống. Dân gian hay gọi là chết “bất đắc kỳ tử”, tức chưa đến chu kỳ hay mạng chung đă chết, thường là do nghiệp nặng hội đủ duyên.

 

Ba kiểu chết đầu tiên gọi là Chết đúng lúc hay Chết đúng mạng. Kiểu chết cuối cùng là Chết không đúng lúc, không đúng thời mạng.

 

Ví dụ như có một ngọn đèn, ngọn lửa bị tắt là do một trong 4 trường hợp sau đây:

 

Tim hết, (1)

 

Dầu cạn hết, (2)

 

Vừa dầu cạn vừa tim hết, và (3)

 

Lư do hay tác nhân khác hay không liên quan, như một ngọn gió (4) mạnh thổi tắt.

 

Tương tự vậy, cái chết của chúng sinh cũng có thể do một trong những lư do miêu tả ở trên.

 

5. Những Đối Tượng Hiện Diện Trong Tâm trước lúc Chết

 

Một người sắp chết th́ sẽ đối diện với một Nghiệp (Kamma), một Biểu hiện Nghiệp hay Nghiệp tướng (Kamma Nimitta) hoặc Biểu hiện cảnh giới tái sinh (Gati Nimitta).

 

Nghiệp ở đây là hành động, nghiệp của người chết, dù nghiệp tốt hay xấu.

 

─ Nghiệp mạnh nhất như định nghĩa trước đây chính là Nghiệp Nặng. Nếu Nghiệp Nặng này không có, th́ người sắp chết có thể hồi tưởng hay khởi ‘niệm’ hành động ngay trước ‘cổng’ chết, đó được gọi là Nghiệp Cận Tử hay Cận Tử Nghiệp.

 

─ Nếu những Cận Tử Nghiệp này cũng không có, th́ Nghiệp Thói Quen hay nghiệp quán tính sẽ hiện diện đến người sắp chết, đó là những hành động hay làm, thường xuyên làm trong cuộc sống của người đó, chẳng hạn như nghiệp (thói quen) ăn cắp, đối với người sắp chết là một kẻ trộm, hay nghiệp (thói quen) chăm sóc người bệnh yếu trong trường hợp người sắp chết là một người nghành y tế…

 

Nhưng nếu cũng không có những loại Nghiệp Thói Quen cũng như các Nghiệp nặng, nhẹ khác kia, th́ những Nghiệp dự trữ, c̣n mang từ nhiều (hay vô số) kiếp sống trước, được gọi là Nghiệp Tích Lũy sẽ trở thành đối tượng của suy nghĩ hay tâm Thức ngay lúc chết. Trong số những hành động (Hành) cần làm, th́ những Phật tử tại gia thường được dạy phải nên làm trước lúc chết, đó là: Thực Hiện 10 Việc Làm (Hành) Công Đức, bao gồm:

 

─ Tụng niệm về Tam Bảo và về Ngũ Giới một cách thành tâm;

 

─ Hồi tưởng lại một chuyến hành hương về xứ Phật, đă đến những Phật tích, thánh tích để tăng trưởng ḷng tin và ḷng thành kính đối với Đức Phật, Pháp, Tăng;

 

─ Mở băng đĩa lắng nghe lại những bài giáo Pháp hoặc nghe Tăng Ni tụng niệm;

 

─ Hồi tưởng, niệm Công Đức của Tam Bảo, hồi tưởng, niệm lại những Công Đức hay ḷng Độ Lượng, thiền quán về ḷng Từ Bi hay Tứ Niệm Xứ (Satipatthana)…

 

Những hành động tốt lành như vậy sẽ tạo điều kiện làm khởi sinh những trạng thái Tâm lành, thiện để quyết định cái (tiến tŕnh) Nghiệp cuối cùng trước khi chết và dẫn dắt tái sinh đến cảnh giới nhiều phúc lành, hiền nhiều, dữ ít.

 

Cái chết đến bất kỳ lúc nào, mỗi người nên làm những nghiệp tốt, chuẩn bị tinh thần lành, thiện, để lúc đi xa, hành trang vẫn gồm nhiều Thức tốt đẹp để vượt qua những cuộc hành tŕnh dài, vô định trong những kiếp tương lai.

 

tái sinh và đầu thai

 

▪ Kamma Nimitta, Biểu Hiện Nghiệp, là tâm cảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm hay ư tưởng một người thu nhận được vào lúc “kết” nghiệp (Kamma). Chẳng hạn đó là những con dao trong trường hợp người sắp chết là một người hàng thịt; là những bệnh nhân trong trường hợp người sắp chết là bác sĩ; là một biểu hiện hay biểu tượng để thành kính như h́nh, tượng Phật, Cây Bồ-Đề, hay là một kư ức hạnh phúc trong một chuyến đi hành hương ở Ấn Độ của người sắp chết…trong những trường hợp người sắp chết là một Phật tử kính đạo; ….

 

▪ Gati Nimitta, Biểu Hiện Cảnh giới Tái sinh, là những dấu hiệu, biểu hiện về một nơi nào đó mà sự tái sinh đang có khuynh hướng xảy ra ở đó; hoặc là biểu hiện một sự kiện xảy ra có một không hai, chấn động, không bao giờ quên được trong đời của một người sắp chết điều đó sẽ chi phối và dẫn đến cơi tái sinh nào đó.

 

Nếu những dấu hiệu chỉ dẫn về sự tái sinh, như nói trên, là xấu, là dữ, nhưng người sắp chết có thể chuyển thành lành, tốt bằng (cách thay thế) những suy nghĩ trước lúc chết, như vậy những suy nghĩ lành, tốt bây giờ sẽ đóng vai tṛ như nghiệp Cận Tử Nghiệp và ảnh hưởng, tác động ra loại Nghiệp Tái Sinh để làm duyên lành (điều kiện tốt) cho Tái Sinh.

 

Những biểu hiện, biểu tượng về nơi đến hay ‘vận mệnh’ của một người lúc sắp chết có thể là những ngọn lửa địa ngục, những vùng núi non, dạ con trong bụng mẹ, thiên cung trên cơi trời…

 

6. Năm Viễn Cảnh Của Một Người Sắp Chết

 

Theo Đại trưởng lăo tiến Sĩ Rastrapal Mahathera, 5 viễn cảnh của một người đang chết thường là:

 

1) Lửa địa ngục, thường đối với những người thường bị sinh về cảnh giới địa ngục.

 

2) Thú vật và rừng núi, thường đối với những người bị tái sinh thành súc sanh.

 

3) Màn tối, thường đối với những người tái sinh thành ngạ quỷ (hay ‘hồn’ ma).

 

4) Những cha, mẹ và người thân quyến thuộc đă qua đời, thường đối với những người được tái sinh làm người.

 

5) Thiên cung, nhà cửa hay xe ngựa trên cơi trời, thường đối với những người được sinh về cơi trời để hưởng phúc.

 

Chuyện kể bên Tàu về người sắp chết nói rằng người nghe được tiếng dây xích hoặc thấy viễn cảnh những hộ vệ của Vua Yama (Diêm Ma Vương) với đầu trâu mặt ngựa gớm ghiếc mang xiềng xích đến để lôi người ấy về địa ngục để phân xử.

 

Gati-nimitta (Biểu hiện về nơi tái sinh) luôn luôn là những biểu hiện, dấu hiệu vật lư được hiện lên ở “cửa-Tâm” như là một giấc mơ vậy.

 

Về mặt tâm lư học, những giai đoạn hay viễn cảnh này của Tâm có thể được gọi là ảo ảnh (illusion), ảo tưởng (hallucination) hay ảo giác đánh lừa (delusion). V́ vậy, những người có Tâm minh mẫn và không bị hoang mang vào lúc sắp chết có thể không hiện trong tâm hay thấy ǵ về một viễn cảnh của nơi sắp tái sinh về.

 

Những bạn đọc muốn t́m hiểu thêm về những viễn cảnh trên giường chết, nên t́m đọc quyển sách của Đại trưởng lăo Tiến Sĩ Rastrapal Mahathera (Sách &Tài Liệu Tham Khảo, Số 3.) trong đó tác giả đă kể lại kinh nghiệm cá nhân của một cư sĩ trong lúc hấp hối thấy được nhiều viễn cảnh trên và những cách thức trưởng lăo đă giúp làm dịu những nỗi sợ của người hấp hối để dẫn đến trạng thái tâm có thể dẫn đến tái sinh vào một cơi tốt lành.

 

7. Thức Hấp Hối, Thức Lúc Đang Chết

 

Thử lấy đối tượng là một hành động, một nghiệp (kamma) hoặc là một Biểu Hiện của Nghiệp (kamma nimitta) hoặc là Biểu Hiện, dấu hiệu của Nơi sẽ Tái Sinh đến (gati nimitta), th́ Thức chạy dọc theo một tiến tŕnh (course) của nó, thậm chí ngay cả khi cái chết xảy ra trong một tức th́, trong một cái ‘tích’-chưa-đến-‘tắc’.

 

Theo “Vi Diệu Pháp” (Abhidhamma), một tiến tŕnh tư duy, ư nghĩ b́nh thường chạy trong 17 khoảng-khắc-nghĩ hay c̣n gọi là 17 sát-na Tâm (citta), trong đó tiến tŕnh Javana3 kéo dài 7 sát-na tâm. Giai đoạn Javana này là quan trọng nhất, đứng về mặt đạo đức, cho việc tái sinh của một người. Đến giai đoạn tâm lư này những ǵ xấu hay tốt, lành hay dữ, th́ thật sự đă làm xong rồi: Nghiệp (kamma) đă được thi hành!.

 

Những luận sư nói rằng trong một giai đoạn, khoảng khắc ngắn ngủi này, giống như ánh chớp của một tia chớp bằng tốc độ ánh sáng, vẫn có hàng tỷ sát-na Tâm (cittas). Trong tiến tŕnh tư duy trước khi chết, th́ tiến tŕnh Javana là rất yếu ớt và chỉ chạy trong ṿng 5 sát-na Tâm. Nhưng tiến tŕnh Javana này lại là quan trọng nhất v́ nó quyết định Nghiệp Tái Sinh (reproductive kamma) cho kiếp sống tiếp theo. Sau đó th́ Thức đăng nhập hay đăng kư (registering consciousness) nhận diện đối tượng có thể theo hoặc không theo. Cuối cùng, Thức Lâm Chung hay Thức Tử Mạng (cuti-citta), là tâm thức cuối cùng được biết đến của kiếp sống hiện tại (trước khi tái sinh qua kiếp sống tiếp theo).

 

“Ngay khi chết, Thức cuối cùng (Thức tử mạng) biến mất, làm điều kiện, làm khởi sinh cho một Thức mới xuất hiện, đó là Thức Tái Sinh (Patisandhi) trong một thể xác hay một dạng sinh hài mới. Rồi

 

3 Từ này đă từng được dịch là “khoảnh khắc thúc đẩy” hoặc “khoảnh khắc tốc hành” (theo dịch giả Nguyễn Văn Ngân dịch “Đạo Vô Ngại Giải” từ tiếng Anh sang tiếng Việt).

 

Cũng như C. A. F. Rhys Davids, Bhikkhu Bodhi đề nghị để nguyên chữ javana không dịch. Đây là một thuật ngữ thuộc “Vi Diệu Pháp” cao học. Xin bạn đọc t́m đọc về đề tài này theo bản dịch từ tiếng Pali qua tiếng Anh của Ngài Bhikkhu Bodhi (“A Comprehensive Manual of Abhidhamma”, BPS, [Kandy 1993] đoạn (12) trang 124, chú thích 8, 9 trang 372, trang 389. Chữ ‘tiến tŕnh’ (vīthi: nđ ‘lộ tŕnh’) được dịch theo Bhikkhu Bodhi, sđd, đ. 4 trang 151). Dịch giả Nguyễn Văn Ngân dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt “Đạo Vô Ngại Giải”).

 

đến lượt Thức mới (Thức Tái Sinh) cũng lập tức biến mất, liên tục, liên tục, như một ḍng chảy không gián đoạn, như ḍng sông vậy, (liên tục chảy, nhưng đó là những giọt nước mới (Thức mới) liên tục đến rồi chảy qua, chứ không có một giọt nước nào đến rồi đứng yên không chảy đi –ND). Ḍng chảy mới của sự sống này mang theo tất cả kinh nghiệm của quá khứ. Ḍng chảy mới hay sự sống mới này không phải tuyệt đối giống hệt trong quá khứ, v́ sự sống trong quá khứ bao gồm những thành phần cấu tạo khác, mà cũng không hoàn toàn khác nhau, mà chỉ có chung một ḍng Nghiệp lực.

 

Sự biến điệu, sự gián đoạn hay chuyển đổi giữa các Thức trong ḍng chảy này là cực kỳ ‘chớp nhoáng’ nhanh hơn điện chớp mà ta thường gọi là một sát-na Tâm hay sát-na Thức, một khoảng khắc thời gian cực nhỏ, không có chỗ cho bất cứ cái ǵ xen vào giữa.

 

(Bạn có thể h́nh dung thời gian giữa khi 2 điểm sát nhau trên một bánh xe đang quay nhanh tiếp xúc mặt đất vậy, theo lư thuyết vật lư học. Mặc dù điều đó là cực kỳ ‘dài’ hơn cái khoảng cách của tiến tŕnh tâm của 2 Thức sinh diệt, nhưng chúng ta c̣n không h́nh dung ra được có bất cứ đơn vị thời gian hay hiện tượng nào có thể xảy ra giữa 2 điểm tiếp xúc đó – ND).

 

Đó được gọi là trạng thái chuyển tiếp hay trung gian hay c̣n gọi là trung hữu (antara-bhava). Theo bộ “Những Điểm Dị Biệt” (Kathavatthu) của Vi Diệu Pháp Tạng, có một số trường phái Phật giáo, như Pubbaseliya (Đông Sơn Trụ Bộ) và Sammatiya (Chánh Lượng Bộ) cho rằng có một giai đoạn tạm thời để chờ thọ thai (đầu thai lại, re-conception) mất một tuần hay nhiều hơn. Lập luận ngược lại dựa vào lời tuyên thuyết của Đức Phật là chỉ có 3 giai đoạn “Trở Thành” (tức là giai đoạn Trở thành, hiện thành hay c̣n gọi là Hữu (bhava) trong ṿng duyên khởi) – đó là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Cho nên, những người theo Phật giáo không tin rằng có ‘linh hồn’ của một người chết chiếm chỗ trong giai đoạn chuyển tiếp nào đó đến khi t́m thấy được một nơi thích hợp hay tử cung để đầu thai vào. Sự Tái Sinh diễn ra ngay lập tức và không có sự khác biệt nhau về mặt thời gian dù ‘người đó’ tái sinh về cảnh giới phúc lành trên trời hay người. Cái thật sự thúc đẩy, duyên sinh cho sự Tái Sinh không phải là Thức Tử Mạng (cuti-citta), nhưng chính là tiến tŕnh tâm thức Javana như đă diễn tả ở trên. Nếu tiến tŕnh Javana là tốt lành, th́ tái sinh sẽ diễn ra ở một cảnh giới phúc lành; nếu nó không tốt không lành, th́ tái sinh sẽ diễn ra ở một cảnh giới đau khổ, đày đọa.

 

Sau khi hiểu được điều này và hiểu được sự thật là cái chết có thể đến bất cứ lúc nào trong đời, th́ chúng ta luôn luôn chú tâm và thực hành nhiều điều tốt lành và khéo léo để có thể đối diện với lúc lâm chung trước khi quá muộn màng

 

8. Những Kiểu Sinh

 

Có 4 kiểu sinh (tái sinh), đó là:

 

Sinh từ trứng (a) (noăn sinh), như loài chim, ḅ sát và cá.

 

Sinh từ dạ con (b) (thai sinh), như người, động vật có vú và một số địa thân trên trái đất.

 

Sinh từ độ ẩm, nơi ẩm ướt (c) (thấp sinh), như một số loài côn trùng lấy độ ẩm, nơi ẩm ướt làm sinh sôi.

 

Sinh do tự phát (d) (tự nhiên sinh), đó là những chúng sinh ‘khuất mắt’, mắt thường của người không thể nh́n thấy được. Do duyên từ nghiệp trong quá khứ, họ xuất hiện bất ngờ, không tùy thuộc vào cha, mẹ ǵ cả. Trời Phạm Thiên (Brahmas), thiên thần (devas), ngạ quỷ (petas), quỷ thần hay A-tu-la (asuras) và những chúng sinh trong địa ngục đều thuộc nhóm này.

 

Có 9 nhóm vật chất (sắc) được tạo ra bởi Nghiệp (Kamma), đó là: Căn hay chỗ dựa của Thức, nguồn gốc căn bản của sự sống, giống đực, giống cái và 5 cơ sở vật chất là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. 9 nhóm vật chất này phát triển đầy đủ trong những loài chúng sinh thuộc nhóm tự nhiên sinh. V́ thế, loài chúng sinh tự nhiên hay sinh tự phát không cần có cha mẹ để dễ cung cấp nhanh lớp vật chất hay những tế bào cho sự tái sinh của chúng sinh đó.

 

tái sinh và đầu thai

 

9. Bốn Cảnh Giới

 

Có 4 cảnh giới hay 4 cơi sống:

 

a) Cảnh Dục Giới nhiều Đau Khổ (apaya/ kamaduggati bhumi)

 

b) Cảnh Dục Giới nhiều Phúc Lành (kamasugati bhumi).

 

c) Cảnh Sắc Giới (rupa bhumi).

 

d) Cảnh Vô Sắc Giới (arupa bhumi).

 

a) Trong Cảnh Dục Giới nhiều đau khổ, có 4 cảnh giới, đó là:

 

Địa ngục (niraya),

 

Súc sinh hay thú giới,

 

Ngạ quỷ hay ‘ma’ giới (peta), và

 

Quỷ thần hay A-tu-la (asuras).

 

Sự tái sinh vào những cảnh giới này là do nghiệp tái sinh không lành, dữ, bất thiện, đóng vai tṛ quyết định ngay lúc chết.

 

b) Trong 7 cảnh giới nhiều phúc lành bao gồm cơi người và 6 cơi trời, th́ sự tái sinh vào cơi người hay thiên thần là do tác động của nghiệp tái sinh thiện (cao hơn). Tuy nhiên nếu cùng tái sinh làm người mà bị câm, điếc, đui, què, tật nguyền, hoặc tái sinh thành quỷ thần A-tu-la thuộc cơi hạ giới của Tứ Đại Thiên Vương, th́ những sự tái sinh đó là do tác động thúc đẩy của Nghiệp tái sinh tiểu thiện (thấp hơn).

 

(Xem thêm Chương XI, Những loại Nghiệp Thiện).

 

c) Trong cảnh Sắc Giới (rupa bhumi), sự tái sinh vào 1 trong 16 cảnh giới của những vị trời Phạm Thiên (Brahma) là nhờ vào sự chứng đạt Tầng Thiền Sắc Giới (rupa jhana) của một người.

 

d) Trong cảnh Vô Sắc Giới (arupa bhumi), sự tái sinh vào trong 4 cảnh Vô Sắc Giới của những vị trời Phạm Thiên là nhờ vào sự chứng đạt Tầng Thiền Vô Sắc Giới (arupa jhana) của một người.

 

Nguồn: Giáo tŕnh Phật học (Bro. Chan Khoon San – Lê Kim Kha dịch Việt)

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Bảo Tàng Lịch Sử

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten