Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Thiền sư Từ Đạo Hạnh - từ chùa Láng đến chùa Thầy

 

 

 

Tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh - Ảnh: Internet

 

1. Trong trường kỳ lịch sử Việt Nam, danh nhân thiền sư Từ Đạo Hạnh (?- 1117) là một trong những hiện tượng văn hóa chứa đựng nhiều điều nghịch lư:

 

- Ông là người có một tiểu sử minh bạch, có tên húy (Từ Lộ), tên cha (Từ Vinh), tên mẹ (Tăng Thị Loan) và quê hương bản quán rơ ràng (hương Yên Lăng, nay thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa- Hà Nội). Ấy thế mà rồi ông được tôn vinh vào hàng Thánh, thánh Láng, thánh Từ Đạo Hạnh, có phép thần thông rồi thác sinh làm vua Lư Thần Tông (1128- 1138), sau c̣n là hậu thân Lê Thần Tông (1619- 1643)

 

- Hành trạng của ông sớm được văn bản hóa trong sử sách (An Nam chí lược, 1333, Thiền uyển tập anh, 1337, Việt điện u linh, 1329, Đại Việt sử kư toàn thư, 1479 và những bia kư khác) song đồng thời vẫn luôn luôn được thêu dệt, huyền thoại hóa, cổ tích hóa, dân gian hóa...

 

- Từ điểm nh́n địa- văn hóa có thể nhấn mạnh thêm, gắn với tên tuổi và cuộc đời hành đạo của ông, cả vùng quê sinh (chùa Láng- Chiêu Thiền tự) và nơi qua đời (chùa Thầy- Thiên Phúc tự) đều là thắng tích, di tích lịch sử lớn của đất nước. Đó cũng là những nơi tổ chức nhiều lễ hội, hội chùa, tṛ diễn sự tích, thơ ca đề vịnh và đi vào tục ngữ, ca dao:

 

            - Hạn hán xuống thăm cha,

            Mồng bảy tháng ba lên thăm mẹ.

            - Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,

            Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy...

 

 

Tất cả những điều nói trên đặt ra yêu cầu cần đi sâu khảo sát, lư giải hiện tượng văn hóa Từ Đạo Hạnh liên quan với hai di tích lịch sử quan trọng: chàa Láng- chùa Thầy.

 

2. Cả hai nơi chùa Láng và chùa Thầy đều giống nhau một điểm là thờ Từ Đạo Hạnh và thờ cả Lư Thần Tông.

 

Sách Đại Nam nhất thống chí chép về chùa Chiêu Thiền: “Ở trại Yên Lăng, huyện Vĩnh Thuận, là chỗ Từ Đạo Hạnh tu luyện thường ngày. Nay trong chùa thờ Từ Đạo Hạnh, lại thờ Lư Thần Tông. Chùa có ḥm gỗ chứa sách Phạn bằng lá đồng là di tích xưa”, đồng thời ghi về chùa Thiên Phúc: “Ở chân núi Sài Sơn, huyện Yên Sơn, xưa gọi là am Hương Hải, lại gọi là viện Bồ Đà. Trong chùa, phía tả thờ tượng thiền sư họ Từ, phía hữu thờ tượng vua Lư Thần Tông, ở giữa thờ tượng Phật”. Gắn nối với những sự kiện được ghi trong sách Thiền uyển tập anh th́ biết rằng thiền sư Tà Đạo Hạnh sinh ra và hành đạo chủ yếu ở địa bàn chùa Láng. Xét đoạn dẫn: “Vua thuận theo lời tâu của Sùng Hiền hầu. Sư bèn đi ngay đến phủ đệ của Sùng Hiền hầu, vào thẳng nơi phu nhân đang tắm mà nh́n. Phu nhân tức giận nói lại với chồng. Nhưng Sùng Hiền hầu đă biết trước nên không căn vặn ǵ”. Điều này phải chăng đă hé lộ khả năng nhà sư đă thực hiện một thủ thuật “chữa bệnh” như thế nào đó cho vợ Sùng Hiền hầu. Thêm nữa, các tài liệu đều xác nhận chùa Thầy- Thiên Phúc tự là nơi sư “trút xác”. Vậy có phải chùa Thầy là nơi sư tu tập nhiều năm hay chỉ đến trụ tŕ sau sự kiện “chữa bệnh” cho vợ Sùng Hiền hầu và ngay thời gian bà sinh con th́ sư “trút xác” tại miền non cao này? Xin đặt một dấu hỏi ở đây về cái chết khá bí ẩn cũng như mối quan hệ đáng ngờ giữa Từ Đạo Hạnh và hậu thân của ngài là Dương Hoán Lư Thần Tông? Song dù thế nào th́ hiển nhiên mối quan hệ Từ Đạo Hạnh- Lư Thần Tông và hai vùng đất thiêng chùa Láng- chùa Thầy đă gắn liền như một chỉnh thể văn hóa- lịch sử thống nhất, vừa huyền ảo vừa tiềm ẩn một khả năng đầy tính hiện thực nào đó.

 

3. Xem xét riêng ở phạm vi chùa Láng có thể thấy thiền sư Từ Đạo Hạnh đă tạo nên một vùng quang phổ văn hóa rộng lớn. Trước hết, đó là sự hiện diện điểm di tích chùa Láng gắn liền với tên tuổi nhà sư, một nơi c̣n để lại nhiều bia kư, một ngôi chùa qua nhiều lần trùng tu đến nay vẫn tồn tại cả quần thể kiến trúc tọa lạc giữa khoảng đất rộng, c̣n nhiều bóng cổ thụ, hài ḥa với không gian và cảnh quan thiên nhiên. 

 

 

Chùa Láng - Ảnh: chuaviet.com.vn 

 

Bân cạnh chùa Láng được coi là trung tâm lại đă h́nh thành cả một tiểu vùng văn hóa Láng với nhiều đền miếu, chùa chiền, trải dọc theo bờ sông Tô Lịch. Đó là chùa Nền tương truyền chính là nền nhà của Từ Đạo Hạnh, chùa Hoa Lăng (xưa c̣n gọi Ba Lăng) là nơi thờ phụ mẫu vốn rất nổi tiếng “Nam thiên tích tự hiện Ba Lăng, nhất phương thắng cảnh, thiên cổ danh lam” (Nơi trời Nam có chùa Ba Lăng, thắng cảnh một phương, danh lam ngàn đời”. Điều đáng chú ư là chùa Ba Lăng chính là nơi bà Tăng Thị Loan từng đến tu, dựng xây chùa và qua đời, sau được vua Lư Thần Tông xuất tiền tôn tạo, tạc tượng phối thờ quan Đô sát Từ Vinh (cha), bà Tăng Thị Loan (mẹ) và chính Từ Đạo Hạnh. Thực tế này càng chứng tỏ ngờ vực về mối quan hệ Từ Đạo Hạnh- Lư Thần Tông trên kia là có cơ sở. Về sau này, vua Lư Anh Tông (1138- 1175) cho mở mang chùa Láng phối thờ cả Từ Đạo Hạnh và Lư Thần Tông. Hàng năm, đến ngày giỗ thánh 7 tháng 3 âm lịch, nhân dân mở hội Láng rước thánh từ chùa Láng qua sông Tô Lịch lên chùa Hoa Lăng thăm mẹ. Lời tục truyền “Hạn hán xuống thăm cha, mùng 7 tháng ba lên thăm mẹ” chính là nói về sự kiện này.

 

Cách chùa Láng khoảng vài ba cây số c̣n có chùa Duệ Tú (thuộc thôn Tiền, xă Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây, nay thuộc địa phận quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội). Nơi đây thờ thiền sư Đại Điên, người có tên tục là Lê Nghĩa, có cha là Lê Hưng, mẹ là Nguyễn Thị Phan, Trong sách Thiền uyển tập anh và một số nguồn tư liệu khác cho rằng Từ Đạo Hạnh đối nghịch với Đại Điên và ông chính là hậu thân Điều Ngự Giác Hoàng, vậy mà ông lại được dân làng trọng vọng, được lập làm thành hoàng, được các triều đại phong kiến sắc phong và ban thêm mỹ tự Huệ Trí đại vương. Thêm nữa, cũng vào ngày 7 tháng ba hàng năm, dân làng vẫn mở hội chùa và dẫn lại sự tích thiền sư. Như vậy, cái nh́n hiện thực cho thấy một h́nh ảnh sư Đại Điên pháp thuật tài ba, được tôn trọng, kính thờ, c̣n tư duy huyền thoại in đậm sắc màu Mật tông lại cho thấy một pháp sư Đại Điên đối lập và chịu thất bại trước thiền sư Từ Đạo Hạnh. Dẫu sao, ông cũng là nhân vật lịch sử có quan hệ chặt chẽ với Từ Đạo Hạnh và góp phần tạo nên truyền thuyết trong cả một hệ thống văn hóa dọc bờ sông Tô.

 

4. Từ chùa Láng đi khoảng 20 km là đến chùa Thầy. Chùa được xây dựng vào thời Lư Nhân Tông (1072- 1127). Theo thuyết phong thủy th́ núi Sài là con rồng lẻ đàn, nhà chùa được dựng vào giữa hàm rồng, sân chùa là lưỡi rồng, Thủy Đ́nh là Ngọc, c̣n núi non xung quanh là rùa, phượng chầu về.

 

 

Chùa Thầy - Ảnh: cad.vn

 

 

Mặc dù sử sách cổ không miêu tả thật rơ nhưng vẫn có thể tính đến hai khả năng về thời gian sư Từ Đạo Hạnh đến tu tập, hoặc ngài đến từ sớm, từng dạy học, hái thuốc giúp dân và tổ chức những tṛ vui như đánh vật, đá cầu, hát chèo, múa rối nước, hoặc ngài đến đây vào khoảng cuối đời gần với sự kiện “thác sinh” thành Lư Thần Tông. Dù thế nào th́ ngài vẫn được kính thờ, đặc biệt trở nên kỳ vĩ với huyền tích ở hang Thánh Hóa, nơi vách hang đá có những vết lơm tượng h́nh như vết đầu, vết chân và vết tay mà thiền sư t́ vào lúc trút xác. Với uy vọng ấy, chùa ngài tu được gọi là chùa Thầy, núi ngài hóa là núi Thầy, làng ngài sống là làng Thầy, tất cả hợp thành một không gian văn hóa in đậm dấu ấn danh nhân Từ Đạo Hạnh.

 

Dân gian có câu “Nhất vui là hội chùa Thầy”. Lễ hội ngày 7 tháng ba diễn ra hết sức sôi động, đặc biệt có biểu diễn tṛ múa rối nước ở nhà Thủy Đ́nh giữa hồ Long Tŕ. Theo khảo sát của một số nhà nghiên cứu, thiền sư Từ Đạo Hạnh đồng thời c̣n là một nghệ sĩ chèo và có những đóng góp quan trọng trong bước đi ban đầu của bộ môn nghệ thuật sân khấu dân tộc đặc sắc này. Qua thời gian tám, chín thế kỷ, vùng quê chùa Thầy lại góp thêm nhiều tên tuổi danh nhân, góp thêm nhiều trang thơ ca đề vịnh, góp phần làm sáng danh h́nh tượng danh nhân văn hóa Từ Đạo Hạnh và cảnh quan thắng tích chùa Thầy.

 

5. Danh nhân văn hóa- thiền sư- nhà thơ Từ Đạo Hạnh là người đă tạo lập và xác định vững chắc mối quan hệ chùa Láng, chùa Thầy, góp phần mở mang, phát triển vùng văn hóa phía Tây Hà Nội, mở ra chiều hướng giao lưu sinh động cho vùng đệm văn hóa Hà Nội- Hà Tây. Có thể nói thêm rằng hiện tượng danh nhân văn hóa Từ Đạo Hạnh đă có nhiều khúc xạ qua thời gian và không gian, trong đó tàng trữ nhiều yếu tố của Phật- Nho và Đạo giáo, đồng thời thể hiện khả năng trầm tích nhiều yếu tố folklore và c̣n bảo lưu cho đến tận ngày nay. Đó cũng chính là điều kiện cho trí tưởng tượng dân gian cất cánh, là cơ sở để gắn kết hai địa danh, hai tiểu vùng văn hóa chùa Láng, chùa Thầy qua sự tích thiền sư Từ Đạo Hạnh đậm đặc màu sắc văn hóa tâm linh, vẻ kỳ ảo và cuốn hút của h́nh tượng danh nhân văn hóa.

 

 

NGUYỄN HỮU SƠN (Tạp Chí Sông Hương)

 

© 2008-2016  Bản quyền thuộc về Báo Giác Ngộ

 

 

Từ Đạo Hạnh, Nguyên Minh Không

 

 

(Ngày nay c̣n đền thờ ở chùa Thiên Phúc, núi Sài Sơn, huyện An Sơn; trong núi đá này có pho tượng, trong chùa có tượng Lư Thần Tông).

 

Ông họ Từ tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, ở chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích (1). Cha tên là Vinh, làm chức Tăng quan Đô sát ở triều Lư, thường qua chơi làng An Lăng, lấy con gái người họ Tăng tên là Loan, nhân thế ở lại đó.

 

Lộ tức là con bà họ Tăng vậy. Thưở thiếu niên, thích du hiệp, phóng khoáng, có chí lớn, hành động ngôn ngữ không ai có thể lường được, thường cùng kẻ nho giả là Măi Sinh, đạo sĩ là Lê Toàn Nghĩa và người con hát là Phan At kết bạn, đêm th́ mải miết đọc sách, ngày th́ thổi sáo đánh cầu, bày tṛ vui chơi.

 

Cha mẹ thường trách là trễ nải, một đêm ghé ḍm qua khe cửa vào trong pḥng thấy ngọn đèn gần tàn, sách vở chồng chất. Lộ vừa gục xuống án mà ngủ, tay vẫn chưa rời khỏi sách; do đó cha mẹ không c̣n lo nghĩ nữa. Sau Lộ dự kỳ thi tăng hương thí, đỗ khoa Bạch liên (2). Không bao lâu, cha dùng tà thuật làm phật ư Diên Thành hầu. Diên Thành hầu nhờ Đại Điên thiền sư dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch. Xác trôi tới cầu An Quyết, trước cửa nhà Diên Thành hầu, hốt nhiên dựng đứng lên ở đấy suốt một ngày không trôi đi.

 

Diên Thành hầu sợ hăi nói với Đại Điên, Đại Điên đến hét lên rằng:

 

“Người tu hành không được phép giận quá một ngày” (3)

 

Dứt lời thây đổ xuống mà trôi đi. Lộ nghĩ việc báo thù cho cha nhưng chưa nghĩ ra mưu kế. Một hôm, ŕnh Đại Điền ra ngoài muốn gây sự đánh, bỗng nghe thấy trên không trung có tiếng thét ngăn lại. Lộ sợ hăi quăng gậy mà đi. Muốn sang chùa bên nước An Độ (4) cầu phép lạ để đánh Điên, đường đi qua đất rợ Kim Xỉ (răng vàng) thấy hiểm trở bèn quay về, ẩn cư ở núi Phật Tích, thường ngày đọc kinh Đại-bi-đà-la, đọc trọn mười vạn tám ngh́n lần.

 

Một hôm, thấy có thần nhân đến trước mặt nói rằng:

 

“Đệ tử tức là Trấn Thiên Vương, cảm phục thầy có công to đức lớn kiên tŕ tụng kinh nên lại đây để thầy sai khiến”.

 

Lộ biết là đạo pháp đă thành, thù cha có thể rửa, bèn thân đến cầu An Quyết, cầm cây gậy chống ở tay thử ném xuống ḍng nước chảy xiết. Gậy đi ngược ḍng nước tới cầu Tây Dương th́ dừng lại. Lộ mừng mà nói rằng:

 

“Phép của ta thắng được Đại Điên rồi!”

 

Bèn đến thẳng chỗ Điên ở (5). Điên nói rằng:

 

“Mày không nhớ chuyện ngày trước sao?”

 

Lộ nh́n lên không trung, tịnh không thấy ǵ, bèn đánh liền. Điên phát bệnh mà chết. Từ đó, thù xưa rửa sạch, tục lự nguôi dần, mới du ngoạn các miền rừng rú để t́m dấu Phật. Nghe tiếng Kiều Trí Huyền ở đạo B́nh Hóa, bèn cung kính tới bái yết và hỏi về chân tâm, đọc câu kệ rằng:

 

Cửu hỗn phong trần vị thức câm (kim),

Bất tri hà xứ thị chân tâm,

Nguyện thừa chỉ giáo khai phương tiện,

Tiện kiến bồ đề đoạn khổ tầm. (6)

 

Huyền đọc kệ đáp lại:

 

Ngũ âm bí quyết diễn chân câm (kim),

Cá trung măn nguyệt lộ thiền tâm.

Hà sa giác thị bồ đề đạo,

Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm (7).

 

Lộ hoang mang chưa hiểu hết, bèn đi tới chùa ở núi Pháp Linh yết kiến Phạm Hội thiền sư, hỏi rằng:

 

“Như thế nào là chân tâm?”

 

Phạm nói:

 

“A-nan-cá chính là chân tâm”.

 

Lộ bỗng nhiên tỉnh ngộ, hỏi rằng:

 

“Thế nào là phép hành trụ?”

 

Phạm nói:

 

“Đói th́ ăn, khát th́ uống”.

 

Lộ bái từ mà đi, từ đó phép lực ngày càng mạnh, duyên thiền ngày càng kết. Các giống rắn núi, thú đồng đến quấn quưt quanh ḿnh. Lộ đốt ngón tay cầu đảo, phun nước trị bệnh, không lúc nào không ứng nghiệm ngay. Có vị sư hỏi rằng:  

“Phải chăng hành, trụ, tọa, ngọa đều là Phật tâm”(8).

 

Lộ đọc kệ đáp rằng:

 

Tác hữu trần sa hữu,

Vi không nhất thiết không.

Hữu, không như thuỷ nguyệt,

Vật chước khả không không. (9)

 

Hoặc lại nói:

 

Nhật nguyệt xuất nham đầu,

Nhân nhân thất hỏa châu.

Quy nhân hữu câu tử,

Hành bộ bất kỵ câu (10).

 

Khi ấy vua Lư Nhân Tông không có con, tháng ba năm Hội tường Đại khánh thứ 3(11), có người ở phủ Thanh Hoa dâng lời nói rằng:

 

“Ở băi bể có đứa trẻ kỳ lạ, mới khoảng lên ba, tự xưng là hoàng tử, lấy hiệu Giác Hoàng, phàm vua làm điều ǵ đứa trẻ ấy cũng biết”.

 

Đó chính là Đại Điên hóa sinh vậy. vua sai quan trung sứ tới xem, thấy đúng như lời nói, bèn đón về Kinh sư, cho ở chùa Báo Thiên. Vua thấy đứa trẻ thông minh kỳ lạ rất lấy làm yêu dấu, muốn lập làm kẻ kế tự, quần thần đều cố khuyên can là không thể được, và nói: “Nếu kẻ kia thật là linh dị, tất phải thác sinh ở nơi cung cấm, sau mới có thể lập được”. Vua nghe theo, bèn mở đại hội bảy ngày đêm cho đầu thai.

 

Lộ nghe tin, nói với chị gái rằng:

 

“Đứa trẻ kia là yêu tà, mê hoặc người ta quá đáng. Ta há chịu ngồi yên mà không cứu, để nó làm mê hoặc ḷng người rối loạn chính pháp sao?”

 

Nhân bảo chị gái giả đó làm người đi xem hội, mặt đem mấy tờ bùa của Lộ treo ở trên rèm. Hội tới ngày thứ hai th́ Giác Hoàng bị bệnh nói với mọi người rằng:

 

“Khắp biên giới trong nước đều có lưới sắt vây che, tuy muốn thác sinh, sợ không có lối vậy”.

 

Vua nghe có kẻ phá mất bùa chú, bèn sai người đi t́m, quả nhiên bắt được Lộ ở Hưng Thánh lâu, trói lại, họp quần thần để xét xử.

 

Vừa lúc đó Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Lộ năn nỉ hỏi:

 

“Xin ra sức cứu bần tăng khỏi phải chịu tội, ngày sau xin ngụ thai trong cung để báo đáp công đức này”.

 

Hầu gật đầu. Đến lúc họp, quần thần tâu với vua rằng:

 

“Bệ hạ không người nối nghiệp nên cầu kẻ kia thác sinh, thế mà tên Lộ cuồng dại dám tự ư phá gỡ phép bùa chú, thật là đắc tội”.

 

Hầu tâu rằng:

 

“Thiết tưởng nếu Giác Hoàng có thần lực th́ dẫu có trăm tên Lộ phá gỡ, phỏng có hề ǵ? Nay lại trái hẳn, Lộ hơn hẳn Giác Hoàng, thần trộm nghĩ nếu như bắt tội Lộ chẳng thà cho Lộ thác sinh”.

 

Vua bằng ḷng.

 

Lộ đến thẳng phủ đệ nhà Hầu, nhằm chỗ phu nhân tắm, nh́n khắp cả (12). Phu nhân giận quá mách với Hầu. Hầu vốn hiểu ư, để mặc không hỏi đến. Phu nhân v́ thế có thai. Lộ dặn Hầu rằng đến ngày phu nhân đẻ con phải báo cho biết trước. Đến ngày tháng, Lộ được người báo tin, bèn tắm rửa thay quần áo, bảo học tṛ rằng:

 

“Mối túc nhân của ta chưa hết, phải thác sinh lần nữa ở đời, tạm làm đến vương, kíp đến khi già, chết làm nhị thập nhị thiên tử. Nếu thấy thân thể tan ra đất, đó là ta đă thâm nhập vào bùn đất không c̣n ở trong cơi sống chết nữa”.  

Học tṛ nghe nói, ai cũng cảm động sụt sùi. Lộ đọc kệ rằng:

 

Thu lai bất báo nhạn lai quy.

Lănh tiếu nhân giam tạm phát bi,

Vị báo môn nhân lưu luyến chước,

Cổ sư kỷ độ tác kim sư (13).

 

Đọc dứt, nghiễm nhiên mà hóa(14). Hầu phu nhân bèn sinh con trai, đặt tên là Dương Hoán. Khi lên ba vua Nhân Tông nuôi ở trong cung, lập làm hoàng thái tử. Nhân tông băng hà, thái tử tức vị, ấy là vua Thần Tông do Lộ thác sinh ra vậy. H́nh xác Lộ nay c̣n ở hơm đá trong chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích, huyện Ninh Sơn (15).

 

Xưa ở làng Đàm Xá, huyện Đại Hoàng (c̣n có tên là Gia Viễn) đất Trường An có người tên là Nguyễn Chí Thành ở chùa Quốc Thanh, hiệu là Minh Không quốc sư, lúc ít tuổi đi du học, gặp Đạo Hạnh, học được Đạo giáo, trải hơn mười năm.

 

Đạo Hạnh thấy người tiết tháo bèn truyền tâm ấn(16) lại đặt tên cho. Kíp tới khi Đạo Hạnh sắp tạ thế, bảo Minh Không rằng:

 

“Xưa tôn sư của ta tu đă tṛn quả phúc mà c̣n bị cái nạn đao thương quả báo, huống chi ở cái thưở mạt thế huyền vi này, há có thể tự giữ ḿnh được sao? Ta nay xuất, ở cái địa vị làm thấy người ta, bệnh trái kiếp sau quyết là khó tránh nổi. Ta với người có duyên, nên cứu giúp nhau.”(17)

 

Đạo Hạnh đă hóa, Minh Không trở về chùa cũ cày ruộng. Hơn hai mươi năm, ẩn hơi kín tiếng. Khi đó Lư Thần Tông bỗng mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng kêu đau đớn gầm rú đáng sợ. Các lương y trong thiên hạ vâng chiếu mà đến, kể hàng ngàn hàng vạn, đều chịu bó tay. Khi ấy có đứa trẻ hát rằng:

 

“Dục trị thiên tử bệnh, tu đắc Nguyễn Minh Không” (nghĩa là: muốn chữa khỏi bệnh nhà vua tất phải t́m được Nguyễn Minh Không).

 

Triều đ́nh bèn sai sứ đi được Minh Không. Minh Không thấy sứ giả đến, trong thuyền có rất nhiều lính, muốn dọn chơm chay cho ăn, bèn lấy một cái nồi nhỏ đem cho họ, bảo họ rằng:

 

“Anh em đông quá sợ không đủ no bụng, tạm ăn vậy” (18).

 

Thế mà bọn lính chèo thuyền hơn một trăm người cùng ăn cũng không sao hết. Lính ăn xong, sư lại bảo:

 

“Anh em hăy tạm ngủ say một lát nữa đợi nước triều dầng lên ta hăy bắt đầu ra đi”.

 

Chúng nghe lời, đều nằm ngủ say ở trên thuyền. Mới trong khoảnh khắc, thuyền đă trở về tới Kinh đô. Bọn lính tỉnh dậy đều lấy làm lạ.

 

Khi Minh Không đến, các bậc có tiếng là học rộng ở khắp các nơi đều đang thi thố mọi phép ở trên điện, thấy Minh Không quê mùa, không thèm chào. Minh Không lấy một chiếc đinh lớn dài hơn năm tấc đóng vào cột điện, lớn tiếng nói rằng: “Có nhổ được đinh này hăy nói chuyện chữa bệnh” (19). Nói như vậy hai ba lần. Không có ai dám nhổ. Minh Không bèn lấy hai ngón tay trái mà nhổ, đinh bật phăng ra. Chúng đều kinh ngạc.

 

Khi gặp Thần Tông, Minh Không lớn tiếng nói:

 

“Kẻ đại trượng phu được tôn lên ngôi thiên tử, giàu có khắp bốn bể, cớ sao c̣n phát bệnh cuồng loạn như vậy?”

 

Vua nghe nói rất run sợ. Minh Không bèn lấy một cái vạc lớn đựng dầu, đun lên sôi sùng sục, rồi lấy tay khoắng vào bốn lần, rắc vẩy lên khắp ḿnh vua, bệnh tức th́ khỏi hết. Vua bèn phong Minh Không làm quốc sư, ban lộc mấy trăm hộ để thưởng công. Năm Tân sửu, niên hiệu Thái b́nh thứ 22, Minh Không tạ thế, thọ bảy mươi sáu tuổi (20).  

 

 

-------------------------

 

Chú thích:

 

Bản A.1200 chép: “… Ở chùa Thiên Phúc, xă Sài Sơn, huyện Yên Sơn, trên núi Phật Tích”.

 

Bản A.1200: “… sau bố là Vinh ứng thi khoa tăng hương, đỗ khoa Bạch liên”.

 

Bản A.2107 chép: “… người tu hành không giận quá một ngày, sống chết chẳng qua chỉ là giấc mộng”.

 

Các bản A.1200, A.1300, A.1752, A.750 đều chép “muốn sang An Độ học phép là…”

 

Bản A.2107 chép: “… bèn dùng phép tàng h́nh đến thẳng nhà Đại Biên…”

 

Dịch ư như sau: Lâu ngày bị gió bụi làm đục không thấy rơ được vàng, không biết nơi nào mới thực là chân tâm. Mong được nghe lời chỉ giáo để mở đường phương tiện, thấy được bồ đề thôi không phải khổ công t́m ṭi.

 

Dịch ư như sau:

 

Ngũ âm bí quyết biểu hiện rơ chân kim (vàng thực),

Trong đó, đầy tháng sẽ lộ rơ ḷng thiền.

Bát ngát như cát ven sông đó mới thực là đạo Bồ Đề,

Hướng tới Bồ Đề ngàn sự t́m ṭi đều xa cách.

Tức là sự đi, ở, nằm ngồi của nhà sự.

 

Dịch ư như sau:

 

Nghĩ là có th́ bụi cát cũng là có,

Coi là không th́ tất cả đều là không.

Có, không chỉ như mặt trăng dưới nước,

Chớ nên coi cái không là có.

 

(10) Dịch ư như sau:

 

Mặt trời mặt trăng ló ra ở đầu núi,

Người người đều cháy ra một khối lửa.

Người về có con ngựa nhỏ,

Đi bộ mà không cưỡi ngựa.

 

(các bài kệ này ư nghĩa rất tối, khó hiểu, xét không cần thiết phải chú giải, chúng tôi chỉ xin dịch ư mà thôi).

 

(11) Tức năm 1113, đời Lư Nhân Tông (năm Đại Quan thứ 4 đời Tống).

 

(12) Bản A.750 chép: “Lộ bèn thân đến nhà Hầu để cáo tạ, vào chỗ phu nhân Đỗ thị tắm liền nh́n trộm. Phu nhân nổi giận mách Hầu. Hầu biết ư không trách. Lộ dặn Hầu rằng: sau này khi phu nhân lâm bồn tất phải báo cho biết trước. Ba năm sau, phu nhân quả có thai. Đến thời sinh nở, Hầu nhớ lại lời dặn cũ của Lộ sai người cấp báo. Lộ bèn tắm giặt thay quần áo, bảo học tṛ rằng…”

 

Bản A.2107 chép: “Lộ được tha, đến yết kiến ở phủ đệ của Hầu, nhập vào chỗ phu nhân tắm, bức phu nhân phải cho xem. Phu nhân giận lắm, bỗng thấy ở thùng tắm có một đứa trẻ, sợ quá bèn thưa với Hầu. Hầu biết ư không hỏi tội…”

 

(13) Dịch ư như sau:

 

Thu tới, không cho chim nhạn báo trước,

Cười nhạt mà nh́n nhân gian đau xót.

Khẽ bảo bọn môn nhân chớ nên luyến tiếc,

Thầy xưa mấy độ hóa thầy nay.

 

(14) Bản A.750 viết: “Qua giờ Ngọ, Đạo Hạnh tịch. Đến giờ Mùi th́ phu nhân sinh, đặt tên là Dương Hoánn, ấy là năm Hội Tường Đại Khánh thứ bảy, vào tháng sáu, mùa Hạ, Dương Hoán lên sáu tuổi, rất thông minh đĩnh ngộ, vua rất yêu dấu. V́ vua tuổi đă cao mà không có con, bèn nuôi Hoán ở trong cung, lập làm thái tử.

 

(15) Bản A.2107 chép: “Nhà vua chết, Dương Hoán lên ngôi, đó là Thần Tông. Xác Từ Đạo Hạnh ngày nay c̣n thấy tung tích trong đá chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích, huyện An Sơn, phủ Quốc Oai. H́nh dáng tới nay vẫn c̣n. Xưa Từ Đạo Hạnh đi chơi, thường thấy trong động có vết chân in trên đá, lấy chân ướm thử th́ thấy vừa khớp. Người đời truyền rằng xác ông tan ra chính ở chỗ ấy. Hàng năm vào ngày 7 tháng ba, nam nữ thường tới dự hội chùa này, chùa hóa thành một nơi thắng cảnh. Cuối đời Minh, quân Minh vào cướp nước ta, trong cuộc binh hỏa, vết tích xưa bị đốt, người làng mới xây lại tượng để thờ”. Đến đây, bản A.2107 kết thúc truyện Từ Đạo Hạnh. Sau đó chép riêng ở dưới truyện Nguyễn Minh Không thiền sư.

 

(16) Bản A.2107 chép: “Đạo Hạnh mừng thấy người có chí bèn truyền cho ấn tiết (ấn và cờ) lại đặt tên cho.

 

(17) Bản A.2107 chép: “Huống hồ, đạo ta c̣n thấp hèn. Nay ta ở trên đời, đứng vào cái địa vị chúa của người, bệnh trái kiếp sau quyết khó tránh nổi…”

 

Bản A.1752 lại chép: “… Huống hồ phép mạt của ta c̣n chưa sáng tỏ, khó ḷng mà tự giữ ǵn được. Ta nay hiện ra trên thế gian ở vào cái địa vị chủ người, sinh, tử, bệnh khó mà tránh thoát”.

 

Xét các bản này th́ ư chung của đoạn văn là: Từ Đạo Hạnh biết trước rằng sau khi ḿnh tái sinh sẽ làm vua, như vậy bản chính chép là làm thầy th́ không đúng lắm.

 

(18) Bản A.2107 chép: “Minh Không thấy sứ giả đến tức th́ đem một nồi cơm nhỏ cho lính chèo thuyền ăn. Bọn theo sau sứ giả rất đông, lo không đủ cơm ăn. Minh Không bảo: hăy tạm ăn vậy. Hàng mấy trăm lính chèo thuyền ăn không sao hết…”

 

(19) Bản A.1200 chép: “Các bậc danh sư thạc túc đang làm phép trên điện… Minh Không quát lớn: kẻ nào nhổ được đinh này mới chữa được bệnh”.

 

(20) Về Minh Không, lại có một truyện khác gọi là Minh Không biệt truyện. Theo bản A.750, truyện như sau:

 

Ở chùa Không Lộ làng Giao Thuỷ có nhà sư tên là Minh Không, xuất gia trụ tŕ ở chùa này vào đời b́nh trị, rất nổi tiếng về đức hạnh. Một hôm, Minh Không ở ngoài đi về, người sư ở cùng pḥng đùa nấp trong cửa buồng nhảy xổ ra, giả làm tiếng hổ kêu để dọa. Minh Không cười nói: “nhà ngươi tu hành mà c̣n muốn làm hổ hay sao? Ta cần phải cứu nhà ngươi mới được”. Mấy năm sau, nhà sư đó chết hóa kiếp thành quốc vương, hốt nhiêm khắp người mọc lông, nhảy nhót la gào, mặt như mặt hổ. T́m khắp thầy thuốc, thầy cúng, sư săi mà không có ai chữa được. Nghe Minh Không có pháp thuật, bèn sai người chèo thuyền đi mời. Minh Không lấy nồi nhỏ nấu cơm cho thuỷ thủ ăn, sứ giả cười nói: “Thuỷ thủ người đông, sợ không đủ no”. Minh Không nói: “Không lo, cứ cho tất cả mọi người cùng ăn sẽ thấy ḷng thảo của ta”. Thuỷ thủ 45 người ăn no mà không hết; mọi người đều lấy làm lạ. Chiều tối lên thuyền, lại khuyên sứ giả và thuỷ thủ ngủ say, đợi trăng lên, gọi dậy nhổ neo, nếu không sẽ không đi. Sứ giả mời măi không được bèn nằm giả ngủ. Bỗng thấy trong thuyền tiếng gió thổi lạnh, đến lúc trăng mọc, nhà sư gọi dậy th́ thuyền đă cặp bến Kinh đô rồi. Minh Không bay lên không mà vào cung, đun nước tắm cho nhà vua, tay rửa tới đâu th́ lông rụng tới đấy. Vua khiến trở về b́nh Than. Nhân hỏi căn nguyên bệnh trạng. Đáp: “Người tu hành trong tu niệm có điều mê hoặc, sám hối mà tẩy rửa th́ sẽ khỏi, không có ǵ khó cả”. Vua lại hỏi: “Nhà thầy sao có tài thần thông bay ở trên không như vậy?” Đáp: “Không phải như thế, kẻ hạ thần vốn mắc bệnh phong, mỗi khi bệnh phát lại không nh́n thấy h́nh dáng vạn vật, không biết cái ǵ là có, cái ǵ là không, chỉ tin ở cái lẽ sống thường t́nh mà thôi, không có ǵ là thần thông cả”. Bèn lại bay lên không mà trở về. Vua ban cho của cải, sư không nhận, vua bèn phong cho chức thần tăng.

 

Hiện nay, ở vùng Gia Viễn (Ninh B́nh) ở huyện Xuân Thuỷ (Nam Định) và huyện Vũ Thư (Thái B́nh) có nhiều nơi thờ Nguyễn Minh Không (có đền riêng hoặc thờ phụ vào chùa), thường có tục bơi chải vào ngày hội, tục này chắc liên quan đến truyện nhà sư đi thuyền một đêm mà đến được Kinh đô. Ngoài ra ở Hà Nội, có đền Lư Quốc Sư (phố Lư Quốc Sư) và đền Thần Quang (Ngũ Xă) cũng thờ Nguyễn Minh Không. C̣n Từ Đạo Hạnh và Lư Thần Tông (kiếp sau của Từ Đạo Hạnh) th́ được thờ ở chùa Láng (nơi quê mẹ của Từ Đạo Hạnh), huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội, và ở chùa Thầy, huyện Quốc Oai, Hà Tây.

 

 

http://vietnamhistory.info/index.php?option=com_content&view=article&id=146:tu-dao-hanh&catid=35:linh-nam-chich-quai&Itemid=22

 

Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam

 

Vào thời Lư có một ông sư quê ở làng Láng gần kinh đô, tên là Từ Vinh. Từ Vinh học được phép tàng h́nh. Không những thế, hắn c̣n biết cả phép biến ḿnh thành bất cứ con vật ǵ hay bất cứ một người nào khác. Khi học được phép lạ, hắn không nghĩ đến việc lợi dụng phép thuật để giúp đỡ người nguy kẻ khó mà chỉ nghĩ cách t́m khoái lạc cho bản thân. Cho nên, hắn đi khắp mọi vùng, bề ngoài làm bộ giảng đạo nhưng kỳ thực là để gần gụi những người đàn bà mà ḿnh ưa thích. Hắn đă có phép, lại không kém khôn ngoan, nên chả một ai hay biết cả.

 

Từ lúc Từ Vinh thi đậu khoa thi Bạch-liên, được vua phong chức tăng quan đô sát, một chức quan lớn trong triều đ́nh, th́ hắn lại lén lút t́m gái ở vùng kinh kỳ. Bấy giờ, ở kinh có một nhà quư tộc tên là Diên Thành hầu có phủ đệ đẹp đẽ trên bờ sông Cót gần làng Từ Vinh. Diên Thành hầu có một đám vợ và nàng hầu, trong đó có một nàng trẻ tuổi, nhan sắc xinh đẹp trên đời khó ai sánh kịp. Từ Vinh chú ư đến nàng. Phủ đệ Diên Thành hầu canh gác rất nghiêm ngặt, nhưng đối với Từ Vinh th́ chẳng mùi ǵ. Nhè những đêm Diên Thành hầu vắng mặt, Từ Vinh tàng h́nh lọt vào buồng của nàng, rồi biến thành chồng nàng lên giường giao hoan. Sáng dậy, y lại tàng h́nh đi ra khỏi cổng trước mắt bọn gác. V́ thế, chẳng những cả nhà Diên Thành hầu không một ai biết mà chính người đàn bà nọ cũng không ngờ là ngoài chồng ḿnh ra, c̣n có một người đàn ông thứ hai nữa.

 

Một hôm, giữa lúc Từ Vinh tàng h́nh bước ra khỏi buồng người đàn bà, th́ chính là lúc Diên Thành hầu lại vào với vợ. Người đàn bà vội kêu lên: - "Sao phu quân vừa ra đă lại trở vào?". Nghe nói thế Diên Thành hầu hiểu ngay nông nỗi và sau khi tra gạn vợ, ông mới biết gian phụ không phải người tầm thường, nếu không có một pháp sư cao tay th́ đừng ḥng trị nổi. Diên Thành hầu căm tức vô cùng, sau một lúc lâu suy nghĩ, ông sực nhớ đến nhà sư Đại Điên phép thuật cao cường nhất trong nước, từng được vua ban tước quốc sư và đă trổ tài mấy phen trị tà bắt quỷ.

 

Khi nghe Diên Thành hầu kể lại câu chuyện, Đại Điên đưa cho ông ta một sợi chỉ ngũ sắc và dặn rằng:

 

- Hầu về đưa sợi chỉ này cho bà ấy, chờ lúc gian tế đến, lẳng lặng buộc vào ngang lưng. Một mặt cho rắc một lớp tro mỏng trước cửa buồng, cho người nấp chỗ kín canh gác. Đợi lúc nào thấy có dấu chân giẫm lên tro th́ đóng ngay cửa lại, dán lá bùa này vào rồi cho người tức tốc đến đây báo tin cho bần đạo. Bần đạo sẽ v́ hầu trừng trị con dâm quỷ.

 

Diên Thành hầu về, làm đúng như lời đă dặn. Quả nhiên, một đêm nọ Từ Vinh tàng h́nh ṃ tới. Hai tên nô hầu chực đêm ở cửa, bỗng nh́n thấy có những dấu chân tiến vào buồng mà không thấy có người, vội dán lá bùa lên cách cửa rồi phi báo cho chủ biết. Đêm ấy, Từ Vinh vô t́nh, không ngờ có cạm bẫy đang giương ra chờ ḿnh, nên chỉ một lúc sau người vợ Diên Thành hầu đă buộc được sợi chỉ ngũ sắc quanh lưng mà hắn cũng không hay biết ǵ cả.

 

Nghe tiếng động, Từ Vinh vội niệm chú biến thành một con gián. Nhưng chỉ bay đến cửa, hắn mới biết rằng khắp mọi nơi đều có phép thần kín mít như bưng, không một khe hở nào chui lọt. Giữa lúc đó th́ Đại Điên đă cầm đuốc tiến vào buồng. Gián ta hoảng hốt ḅ vào một khe vách nằm im tại đó. Cuộc t́m ṭi của Đại Điên đă tưởng như trở nên vô hiệu. Măi về sau, nhờ có sợi chỉ ngũ sắc buộc quanh người tḥ ra ngoài vách, nên Đại Điên lôi ngay được gián ra. Trong tay thần của Đại Điên, Từ Vinh hết phương trốn tránh đành chỉ kêu van xin tha mạng. Đại Điên hỏi:

 

- Mày là ai?

 

Đáp:

 

- Tôi là Từ Vinh. Xin ḥa thượng nghĩ đến t́nh đồng triều, đồng đạo, tha cho tội chết.

 

Nghe kẻ tội phạm xưng tên, Đại Điên nghĩ bụng: - "Phép thuật của hắn có tiếng là cao cường không kém ǵ ta. Nếu không sa cơ v́ mấy lá bùa chưa chắc hắn đă chịu kêu van như thế này đâu. Tha cho hắn sẽ nguy hiểm cho ta. Tất phải trừ đi để khỏi hậu họa". Nghĩ vậy sư ta cười gằn bảo Từ Vinh:

 

- Mày là kẻ tu hành, lại được triều đ́nh trọng dụng mà cố t́nh phá giới, phạm tội chồng chất như thế này ư? Tha cho mày sao được! Thôi ta hóa kiếp cho mày để lo tu tỉnh về sau.

 

Từ Vinh chưa kịp kêu th́ đă bị bàn tay Đại Điên bóp nát vụn. Xác con gián vừa rơi xuống đất th́ hiện nguyên h́nh thành Từ Vinh. Đại Điên đá vào cái thây nói:

 

Kiếp này đă vụng đường tu,

 

Hăy đền tội lỗi, đền bù kiếp sau.

 

Đoạn, ngoảnh bảo Diên Thành hầu:

 

- Thế là trừ được một con dâm quỷ. Hầu cứ bảo người nhà vứt thây nó xuống sông.

 

Diên Thành hầu hết lời cảm tạ và sai người nhà mang mười lạng vàng tống tiễn quốc sư về chùa.

 

Nhưng sáng hôm sau, giữa lúc Đại Điên đang tụng kinh th́ một tên nô của nhà Diên Thành hầu đă hốt hoảng chạy tới báo tin:

 

- Bạch sư cụ, cái thây hôm qua không chịu trôi. Nó cứ đứng sừng sững giữa sông Cót trên mặt nước, tay chỉ vào nhà hầu tôi, mắt nh́n trừng trừng rất dữ tợn. Hầu tôi kính mời sư cụ đến trị ngay cho!

 

Nghe nói, Đại Điên theo đến, chỉ tay vào thây Từ Vinh, đọc một câu quyết:

 

Sống chết là giấc chiêm bao,

 

Dầu giận thế nào không để cách đêm[1].

 

Tự nhiên cái thây ch́m xuống nước và trôi đi.

 

Lại nói chuyện Từ Vinh có một người con tên là Từ Đạo Hạnh. Chàng mới hai mươi lăm tuổi, rất chăm học và rất có hiếu. Cái đêm cha bị giết, Từ Đạo Hạnh được cha báo mộng cho biết sự t́nh và nhắc đi nhắc lại tên Đại Điên, dặn phải trả thù cho bằng được. Tỉnh dậy, chàng hốt hoảng đi t́m cha, và chàng xiết bao đau đớn khi thấy thây cha nổi trên mặt nước. Nóng ḷng v́ báo thù, chàng cầm côn đi t́m Đại Điên. Chờ lúc Đại Điên đi đường một ḿnh, chàng đuổi theo kẻ thù toan chuyện phang cho một côn lên cái đầu trọc. Nhưng vừa định vung côn, chàng bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng can của cha ḿnh: - "Chớ! Chớ nóng nảy. Muốn bóc vỏ quưt dày cần có móng tay nhọn đă!".

 

V́ thế Từ Đạo Hạnh lại thu côn vào nách, nuốt giận trở về. Chàng tính chỉ có cách t́m thầy học phép mới trừ được kẻ thù lợi hại kia. Nghĩ vậy, chàng bỏ nhà đi khắp nơi t́m thầy, thế quyết bao giờ "đắc đạo" mới chịu trở về.

 

Hồi ấy ở về ven biển phía Nam có hai người bạn tâm giao: một người là Nguyễn Minh Không và một người là Dương Không Lộ. Cả hai đều làm nghề chài lưới nhưng rồi rủ nhau cắt tóc đi tu. Sau bao nhiêu năm đọc kinh gơ mơ vẫn chưa được đắc đạo, một hôm Nguyễn Minh Không nói với bạn:

 

- Tôi nghe muốn nh́n được xa th́ phải trèo lên núi cao, muốn uống nước ngọt th́ phải t́m đến tận nguồn. Vậy muốn đắc đạo trừ phi t́m đến quê hương của Như Lai th́ không c̣n cách nào khác.

 

Dương Không Lộ đáp:

 

- Tôi sẵn ḷng đi với bạn, dù có gặp núi cao biển rộng khó khăn đến đâu cũng không quản ngại.

 

Thấy hai chú tiểu cùng phát thệ đi đến đất Phật, một vị sư bác trong chùa cũng hăm hở đ̣i đi theo. Nhưng hồi ấy đường đất từ nước nhà sang đến Thiên-trúc thật là muôn vàn nguy hiểm và vô cùng gian khổ, cho nên sau khi đi được mấy ngày, vị sư bác đă thấy chùn chân, đành cáo bệnh trở về chùa cũ. Chỉ có hai bạn trẻ vững ḷng nhắm hướng Tây tiến bước.

 

Một hôm, họ đến một vùng núi cao, hai người chui vào một ngôi miếu cổ bên đường để ẩn mưa, bỗng gặp một người trẻ tuổi đang ngồi đốt lửa sưởi ở trong đó. Họ bắt đầu làm quen và biết rằng đấy là Từ Đạo Hạnh, cũng lặn lội đi t́m thầy học phép để trả thù cho cha. Sau một đêm chuyện tṛ, ba người kết bạn với nhau. Từ Đạo Hạnh nhiều tuổi hơn được tôn là anh cả. Dương Không Lộ thứ hai và Nguyễn Minh Không là em út.

 

Cuộc hành tŕnh vất vả kéo dài mấy năm trời. Họ đă trèo qua bao nhiêu là núi rừng, lội qua bao nhiêu là sông suối, chung sống với bao nhiêu là người dị chủng. Mặc cho ốm đau, đói khát, rách rưới, họ vẫn không chịu nản.

 

Một hôm, vừa qua xứ Mán Răng Vàng, họ bỗng gặp một ông cụ chở chiếc thuyền độc mộc ở giữa sông. Họ gọi lại hỏi đường. Ông cụ cho biết là theo con đường sông này sang quê hương Phật tổ th́ không c̣n bao xa nữa. Ông cụ c̣n sẵn ḷng chở họ đến nơi. Mừng quá, cả ba người xuống thuyền và thuyền đi nhanh vùn vụt chả mấy chốc đă đến đất Phật.

 

Ông cụ lái đ̣ ch́nh là đức Phật Như Lai. Nghe tin có người thành khẩn mộ đạo đến nỗi không quản gian lao nguy hiểm, nên đức Phật hiện xuống, dùng phép thần thông đưa họ đi. Nhưng khi nghe nói mục đích học đạo của Từ Đạo Hạnh th́ đức Phật không bằng ḷng. Cho nên khi đến nơi, ông cụ lái đ̣ bảo Từ Đạo Hạnh ở lại trông thuyền cho hai anh em lên thăm ḍ trước đă rồi có ǵ sẽ báo lại sau. Thế rồi đức Phật đưa Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ về độ cho thành chính quả, và truyền cho tất cả các thuật biến hóa huyền diệu. Sau khi đắc đạo, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không cúi đầu lạy tạ đức Phật rồi lên đường về nước.

 

Nói chuyện Từ Đạo Hạnh ngồi chờ măi không thấy hai em trở lại, trong bụng lấy làm lo lắng chưa biết nên tính cách ǵ. Xảy gặp một bà cụ già từ trên bờ đi xuống bến xin sang sông. Chàng vui ḷng chống đ̣ giúp bà cụ. Luôn tiện chàng hỏi thăm:

 

- Cụ có thấy một ông già và hai anh chàng đi về ngả ấy không?

 

Bà cụ đáp:

 

- Có. Họ đă gặp đức Phật và đă đắc đạo rồi!

 

Nghe nói thế, Từ Đạo Hạnh đoán chắc bà cụ này không phải là người phàm trần, vội sụp lạy kêu nài:

 

- Xin cụ rủ ḷng thương cho, kẻ đệ tử này mối thù cha trong ḷng canh cánh không lúc nào nguôi.

 

Bà cụ vốn là một vị Bồ tát được đức Phật sai đến đây, bèn trả lời:

 

- Chính v́ t́m đến cơi Phật với một điều ác trong ḷng nên không được độ.

 

Chàng mếu máo bày tỏ lời thề của ḿnh trước linh sàng của cha cho bà cụ nghe và lạy lục van nài đến kỳ cùng. Bà cụ bảo:

 

- Nếu lấy oán báo oán sẽ không tránh khỏi "nghiệp báo". Nhưng v́ người có ḷng thành khẩn nên ta cũng truyền cho.

 

Đoạn dạy cho Từ Đạo Hạnh mọi thuật biến hóa mầu nhiệm và để cho chàng có thể đối địch với kẻ thù, nên Bồ tát c̣n dạy cho phép hô thần tróc quỷ bằng cách tụng chú Đà-la-ni, v.v...

 

Thế là từ đó Từ Đạo Hạnh cũng biết một số phép thần thông. Cho nên, lúc Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không từ đất Thánh trở về th́ chàng đă độn biết được trước, mới định tâm đùa một mẻ để cho hai bạn hoảng sợ chơi. Khi họ sắp sửa đến bến đ̣ phải đi qua một khu rừng rậm, Từ đă hóa làm một con hổ lớn từ trong bụi rậm xông ra định vồ, nhưng chàng không ngờ rằng hai bạn ḿnh đều đă học được phép Phật, nên khi nh́n thấy hổ th́ đoán ngay ra đó là Từ. Họ đồng cười lên. Nguyễn Minh Không đi đầu, nói:

 

Thôi đừng đùa cợt chi nhau,

 

Muốn làm kiếp ấy rồi sau được làm.

 

Nghe thế Từ Đạo Hạnh giật ḿnh tỉnh ngộ. Nhờ phép thần, chàng thấy được kết quả tội lỗi của ḿnh ở kiếp sau. Chàng bèn niệm chú hiện lại nguyên h́nh rồi cười đỡ thẹn:

 

- Anh chỉ định tâm thử chơi, không ngờ mua cười với hai em. Phép thuật của hai em như thế đủ biết không phải tầm thường. Anh chỉ mong em ba đến lúc đó sẽ hết sức giúp anh qua khỏi "nghiệp chướng".

 

Thế rồi ba anh em lên đường về nước. Lần này, họ đi vùn vụt như tên, chả mấy chốc mà trước mắt họ đă thấy sông Lô núi Tản. Ba người chia tay nhau. Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ về quê hương c̣n Từ Đạo Hạnh th́ không về nhà. Chàng nghĩ bụng: - "Ta phải t́m một nơi nào yên tĩnh để tu luyện thêm cho đến chừng hơn hẳn kẻ địch, lúc bấy giờ sẽ gọi hắn đến đương trường tỷ thí chứ không thèm đánh lén lút". Bèn t́m đến Thạch-thất, vào một hang đá ngồi xếp bằng tu luyện theo lối trường định. Theo như lời dặn, hàng ngày chàng niệm chú Đà-la-ni một vạn tám ngh́n lần.

 

Sau ba tháng mười ngày khổ luyện, tự nhiên một hôm chàng vừa đọc câu chú, bỗng có một vị thần mặt xanh mỏ đỏ hiện ra trước mắt rồi nói: - "Từ Đạo Hạnh, anh cần sai bảo ǵ, tôi xin tuân lệnh". Từ biết là đạo pháp của ḿnh đă đến ngày thông được với thần, mừng quá vội nói: - "Ta cần trả thù cha. Lập tức đưa ngay ta về kinh thành". Thốt nhiên chỉ trong nháy mắt, Từ Đạo Hạnh đă xuất hiện ở phía Bắc hoàng cung. Chàng bước lần đến ngă ba sông Cót ném xích trượng xuống nước. Giữa ḍng nước chảy xuôi, gậy cứ lừ lừ trôi ngược. Chàng đuổi theo cây gậy bấy giờ đă lướt sóng như một con rồng cho đến cầu Tây-dương th́ dừng lại. Chàng vội tàng h́nh bước vào nhà Đại Điên. Bấy giờ Đại Điên đang ngồi nói chuyện trước một số đông quan khách. Chàng tiến đến trước mặt, hiện lại nguyên h́nh và bảo Đại Điên:

 

- Đại Điên! Mày có biết tao là ai không? Tao là Từ Đạo Hạnh con Từ Vinh. Ác giả ác báo. Mày giết chết cha tao, tao phải giết lại mày! Thôi cho mày sửa soạn đi!

 

Biết là gặp phải đối thủ không vừa, Đại Điên khởi thế công ngay. Nhưng phép thuật của hắn không thể nào đương nổi chiếc gậy thần của Từ Đạo Hạnh. V́ thế, cuộc chiến diễn ra không lâu. Chỉ một gậy của Từ Đạo Hạnh giáng xuống, hắn ngă vật chết ngay, chỉ kịp nói được mấy tiếng:

 

- Hỡi Từ Đạo Hạnh, tao sẽ diệt mày!

 

*

 

Nói chuyện vua nhà Lư, hồi ấy tuổi đă già mà không có con. Bao nhiêu hoàng hậu và phi tần trong hậu cung chưa từng có một người nào chửa đẻ. Nhà vua hết cầu Trời khấn Phật đến t́m thầy chạy thuốc, nhưng chẳng ích ǵ. Những phép bùa thuốc men của các pháp sư, các lang y chả có thứ nào ra hồn. Người ta đều nói, v́ mẹ vua ác nghiệt nên bị Trời phạt như thế, mà Trời đă phạt th́ đừng ḥng cưỡng lại.

 

Thất vọng, nhà vua dự định nuôi con nuôi. Một hôm, viên chuyển vận sứ Thanh-hoa về kinh chầu vua có báo một tin rất lạ: một nhà dân chài ở miền biển có sinh được một đứa bé thần dị. Lên ba tuổi, nó đă biết nói và tự xưng là Giác Hoàng. Nó biết tất cả các việc trên trời dưới đất và tất cả mọi việc trong triều, ngoài nội. Và điều này mới đáng để ư, là hoàng thượng làm ǵ nó cũng biết cả. Nó c̣n tự xưng là con của hoàng thượng. Nghe nói thế, vua liền cho đưa đứa bé về cung. Thấy mặt mũi nó sáng sủa, hỏi đâu biết đấy, nhà vua đem ḷng yêu dấu, muốn nuôi làm con để một ngày kia trăm tuổi sẽ truyền cho ngôi báu. Có mấy vị đại thần khi nghe vua ḍ ư tứ th́ vội can ngăn:

 

- Tâu bệ hạ, bệ hạ làm thế sợ ḷng dân không phục. Nếu nó linh dị như thế, sao không thác sinh vào cung để mang lấy ḍng máu của hoàng đế, lại đi làm kiếp con nhà bần tiện.

 

Nhà vua mang lời tâu ấy kể cho đứa bé nghe. Giác Hoàng xin vua dựng cho một cái đàn tràng, mời thầy làm lễ trong bảy đêm ngày, nó sẽ có cách đầu thai được. Vua mừng lắm, vội sai các quan làm y như lời nó dặn.

 

Tin ấy truyền đi khắp nơi và đến tai Từ Đạo Hạnh. Biết ngay đó là kẻ thù của ḿnh, chàng bèn t́m đến nhà chị ruột đưa cho chị bốn lá bùa, nhờ về kinh t́m tới đàn tràng giắt lên mái; mỗi lá giắt về một phương. Quả nhiên sau đó ba ngày, Giác Hoàng bỗng bị bệnh nguy kịch. Găp vua, hắn tâu:

 

- Tâu bệ hạ, bây giờ th́ khắp mọi nơi đâu đâu cũng có lưới sắt vây kín, không thể nào thác sinh được. Hạ thần chỉ c̣n chờ chết. Mong bệ hạ trị tội Từ Đạo Hạnh, v́ chính hắn đă âm mưu giết hạ thần và phá hoại cơ nghiệp lâu dài của bệ hạ.

 

Nói xong th́ chết.

 

Thấy Giác Hoàng chết, vua nổi cơn thịnh nộ, lập tức sai người đi tra xét, quả bắt được mấy lá bùa có pháp ấn Từ Đạo Hạnh. Vua vội sai mấy đội vệ sĩ đi bắt Từ về kinh trảm quyết. Bị quân lính giải đi, Từ Đạo Hạnh không dám trái mệnh. Qua phủ đệ Sùng Hiền hầu ở phía Tây kinh thành, chàng cố nài bọn họ cho ḿnh vào yết kiến. Sùng Hiền hầu nguyên là em ruột vua. Và cũng như vua, hầu không có con trai.Từ Đạo Hạnh chợt nghĩ ra được một kế cho nên khi gặp hầu, chàng cố nài nhờ tâu giúp để vua tha tội cho ḿnh. Đổi lại, chàng sẽ t́m cách đầu thai làm con hầu và chắc chắn thế nào cũng phải được. Sùng Hiền hầu nghe bùi tai, liền đi vào hoàng cung bênh vực cho Từ:

 

- Tâu bệ hạ, không nên nghe lời một đứa bé để giết hại một nhà tu hành. Nếu Từ Đạo Hạnh mà diệt được Giác Hoàng th́ phép thuật của Giác Hoàng sao ví được với Từ Đạo Hạnh. Bệ hạ nên lưu ư lại để dùng khi quốc gia hữu sự...

 

Nhân đấy, Từ Đạo Hạnh cũng tâu thêm:

 

- Tâu bệ hạ, nó là tà ma ngoại đạo hiện ra để hăm hại mọi người. Bần tăng không thể ngồi yên mà nh́n để cho tà ma làm loạn cả chính pháp, nên vượt phép bệ hạ trừ bỏ nó đi. Nay việc đă xong, bần tăng xin cúi đầu chịu tội.

 

Nghe mấy lời nói có lư, nhà vua dần dần nguôi giận, tha bổng cho Từ.

 

Hôm đó về đến nhà Sùng Hiền hầu, Từ Đạo Hạnh xin phép vào gặp vợ hắn. Người nhà cho biết là phu nhân đang bận tắm. Từ bảo:

 

- Thế th́ lại càng hay. Xin cho đưa vào ngay!

 

Bấy giờ người vợ Sùng Hiền hầu đang giội nước trong buồng tắm, bỗng thấy có một vị ḥa thượng xô cửa bước vào. Trong lúc hoảng hốt chưa kịp kêu la th́ ḥa thượng đă biến đi đâu mất, mà lại thoáng thấy ở trong bồn nước có bóng một đứa trẻ. Người đàn bà ấy chưa hiểu ra thế nào cả th́ đứa trẻ cũng đến lượt biến đi. Từ Đạo Hạnh đă bước ra khỏi nhà tắm. Gặp lại Sùng Hiền hầu, Từ dặn: - "Bao giờ phu nhân sắp sửa ở cữ, xin cho người hỏa tốc báo tin cho biết ngay".

 

Dặn đoạn, trở về Thạch-thất.

 

Từ hôm ấy, Sùng Hiền hầu trông trông mừng mừng khi thấy vợ có chửa, bụng ngày một lớn. Một đêm nọ thấy vợ chuyển bụng, theo đúng lời dặn, ông vội sai gia nhân phi ngựa lên Thạch-thất báo tin. Hôm đó, Từ Đạo Hạnh đang ngồi trước hang đá thuyết pháp, học tṛ có đến hàng ngàn người vây quanh cửa hàng. Bỗng có tin người nhà Sùng Hiền hầu xin ra mắt ḥa thượng, Từ Đạo Hạnh bảo các môn đồ:

 

- Thời đă đến rồi vậy! Ta sắp sửa đi đây!

 

Nói xong đọc mấy câu kệ dặn ḍ, rồi xếp bằng lại mà hóa.

 

*

 

Giữa lúc Từ Đạo Hạnh chết th́ ở Thăng-long người vợ Sùng Hiền hầu sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Dương Hoán. Năm mười lăm tuổi, Dương Hoán được vua nuôi là con và sau đó lấy làm đẹp ḷng v́ tính nết chàng có thể giữ được ngôi báu ḍng họ Lư, nhà vua phong cho làm Hoàng thái tử. Năm hai mươi tuổi, Dương Hoán lên ngai vàng kế vị cha nuôi, trị v́ thiên hạ tức là Lư Thần Tông.

 

Nhưng sau khi lên ngôi báu được ba năm th́ Lư Thần Tông bỗng bị một bệnh lạ lùng. Thoạt tiên, nhà vua thấy ngứa ngáy khắp cả ḿnh mẩy. Càng găi bao nhiêu th́ lông càng mọc bấy nhiêu. Măi về sau toàn thân mọc thứ lông màu vàng có vằn đen như da hổ, miệng thỉnh thoảng lại gầm lên những tiếng dễ sợ. Nhà vua suốt ngày ngồi lù lù trong một góc buồng, áo quần mặc vào bao nhiêu xé rách bấy nhiêu. Trước tin này, mọi thần dân đều ngơ ngác. Tất cả các viên ngự y đều lắc đầu bó tay, không biết bệnh ǵ mà chữa. Bọn nội thị kháo nhau: - "Có lẽ hoàng đế hóa làm chúa sơn lâm th́ phải".

 

Triều đ́nh và nội cung v́ có việc vua đau cuống quưt cả lên. Ngoài những vị lương y c̣n có những pháp sư phù thủy được triệu đến làm phù phép, nhưng luôn trong năm tháng, bệnh của vua chỉ ngày một tăng chứ không có giảm. Hoàng thái hậu lo sợ quá, sai yết bảng rao: nếu ai chữa được vua lành sẽ chia cho nửa nước.

 

Th́ bỗng nhiên, một hôm có vị đại thần đi ra ngoài cửa ô, nghe đám trẻ chăn trâu hát lên mấy câu:

 

Tập tầm vông!

 

Có ông Nguyễn Minh Không,

 

Chữa cho vua khỏi hóa.

 

Tập tầm vá!

 

Muốn chữa vua khỏi hóa,

 

Phải đón Nguyễn Minh Không.

 

Viên đại thần vừa ngạc nhiên vừa mừng, vội về triều báo tin cho hoàng gia biết. Lập tức triều đ́nh phái một viên vơ tướng mang năm trăm quân sĩ xuống mười chiếc thuyền lớn, xuôi sông đi về biển triệu Nguyễn Minh Không.

 

Lại nói chuyện từ khi chia tay hai bạn, Nguyễn Minh Không vào Ninh-b́nh trụ tŕ ở một ngôi chùa nhỏ, lấy hiệu là Giác Hải. trong những cuộc đi chơi, chàng đă dùng đúng pháp thuật của ḿnh giúp đỡ mọi người. Một lần đi qua xă An-vệ thấy người dân ở đây đang khổ v́ đại hạn: lúa héo khắp cả cánh đồng, chàng bảo người làng đan gấp cho ḿnh một cái giỏ bằng tre thật lớn, ngoài phết giấy. Đoạn, đưa ra sông cả múc nước, một ḿnh đội về giội xuống ruộng, nước chảy lênh láng khắp cả cánh đồng; chỗ nước giội xuống nay hóa thành cừ. Nhờ thế mà lúa lại mọc khỏe, dân làng lại được mùa[2].

 

Khi quân sĩ t́m được đến chùa th́ Nguyễn Minh Không đang tụng kinh buổi trưa. Viên vơ tướng mang quốc thư lên tŕnh. Chàng đọc xong, quay lại nói với bọn họ:

 

- Bây giờ đă quá trưa, các vị đi đường chắc là đói bụng. Nhà chùa thanh đạm chẳng có ǵ nhưng cũng mời tất cả các vị dùng cơm chay một bữa rồi hẵng nhổ sào cũng chưa muộn.

 

Mời đoạn, chàng giục một chú tiểu bắc nồi thổi cơm và làm thức ăn. Nh́n thấy chú tiểu bắc một chiếc nồi tư tẹo lên bếp, lại thấy ḥa thượng giết thịt một con chim sẻ th́ viên tướng không nhịn được cười:

 

- Bạch ḥa thượng, chúng tôi đi đây có đến năm trăm quân sĩ. Nay ḥa thượng cho ăn như thế chỉ sợ một người vẫn chưa thể nào tḥm thèm, huống hồ là năm trăm người. Hiện nay lương thực c̣n ở dưới thuyền, xin để chúng tôi tự lo lấy cái ăn, khỏi phải làm phiền đến cửa Phật.

 

Nguyễn Minh Không đáp:

 

- Các vị chớ ngại, nhà chùa tuy nghèo nhưng không để các vị phải đói đâu.

 

Nói xong, quay ra đun nấu một tư rồi bảo quân sĩ sắp hàng theo từng đội ngũ, lần lượt vào nhận phần cơm. Quân sĩ lũ lượt từng người đến trước hai cái nồi đất tư hon xới cơm và gắp thịt chim sẻ vào bát. Không ai không ngạc nhiên v́ từ hai cái nồi mầu nhiệm ấy bới hết bao nhiêu lại đầy ùn lên bấy nhiêu. Nguyễn Minh Không luôn luôn giục họ bới cho thật đầy để an cho rơ no. Và rồi chỉ trong một lúc, năm trăm quân sĩ dự xong bữa tiệc của nhà chùa thết.

 

Ăn xong, chàng bảo họ ai về thuyền nấy nghỉ ngơi trước khi nhổ sào tiến kinh. Cả tướng lẫn quân quay ra làm một giấc ngon làng. Nhưng khi tỉnh dậy họ đều hết sức sửng sốt v́ thấy ḿnh đă đến bến Ngự từ lúc nào rồi. Nguyễn Minh Không theo viên tướng vào hoàng cung. Bấy giờ các pháp sư ngồi đầy cả điện Thái-ḥa. Họ đang tụm năm tụm ba vẽ bùa thử phép ŕ rầm khắp nơi. Thấy một nhà sư có vẻ quê mùa bước vào, họ liền bĩu môi:

 

Chuông khánh c̣n chả ăn ai,

 

Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre.

 

Chàng không nói ǵ cả, cúi đầu chào mọi người rồi rút trong áo lấy ra một chiếc đinh dài đóng sâu vào cột chừng một tấc, đoạn ngoảnh lại nói to lên, bảo rằng:

 

- Ai tay không nhổ được cái đinh này th́ người ấy sẽ chữa lành bệnh cho thiên tử.

 

Nghe nói thế, các pháp sư đều chạy lại thử rút cây đinh nhưng chả một ai lắc nổi. Cuối cùng, Nguyễn Minh Không bước lại dùng hai ngón tay khẽ rút ra như bỡn trước con mắt kính phục của mọi người. Thế rồi chàng đi thẳng vào nội điện, đến trước long sàng. Lư Thần Tông bấy giờ đang nằm ngửa, xung quanh có đến hàng chục nội thị đang giữ lấy tay chân. Thỉnh thoảng, bệnh nhân lại gầm lên và cố sức giăy giụa. Nguyễn Minh Không nh́n trừng trừng vào mắt bệnh nhân và nói lớn:

 

- C̣n nhớ cố nhân nữa không? Được làm con Trời giàu có bốn biển mà cũng không thoát khỏi nghiệp báo ư?

 

Nghe nói, nhà vua bắt đầu có vẻ sợ, nằm im thin thít. Chàng sai đặt trước điện một cái vạc lớn đổ thuốc và dầu vào, bắt đầu nấu sôi lên sùng sục. Đoạn chàng xắn tay áo, tḥ tay vào vạc khuấy đều lên. Chàng ra lệnh vực vua lại gần rồi tự tay cầm gáo múc dầu trong vạc ra tắm cho vua. Dầu chảy đến đâu lông lá trôi đến đấy, da thịt nhà vua lại trắng trẻo như xưa.

 

Sau khi nhà vua lành bệnh, triều đ́nh không ngớt lời khen ngợi phép thần diệu của Nguyễn Minh Không. Họ y ước cắt đất phong thưởng nhưng chàng không nhận, nói:

 

- Bần tăng v́ một lời hứa với người bạn cũ chứ không phải v́ phú quư[3].

 

Đoạn bỏ về chùa cũ.

 

KHẢO DỊ

 

Truyện này đă được nhà chùa uốn nắn lại với dụng ư đề cao Phật giáo, lại cắt xén đi nhiều chỗ, như những đoạn về Từ Vinh, về Từ Đạo Hạnh làm phép đầu thai, v.v... Mặt khác, câu chuyện c̣n bị nhập cục với truyện sư Khổng Lồ. Ở đây, chúng tôi dựa vào lời kể của nhân dân, khôi phục lại các đoạn bị cắt, tách riêng truyện Khổng Lồ đúc chuông (số 67) ra, v́ nhận thấy nó có một kết cấu độc lập. Nhưng chúng tôi vẫn không làm sai nguyên ư của truyện thường kể.

Người Cham-pa có truyện Pô Ta-bai, đoạn đầu phần nào giống với đoạn đầu của truyện Từ Đạo Hạnh.

 

Vua Ta-bai đi săn. Vua nhặt được một cái ngà thần trong một cái ao. Chỉ trừ vua ra, không một sức mạnh nào có thể mang lên nổi. Trong ngà có một người đàn bà đẹp (nai ba-lá) bí mật trú ngụ. Thường ngày, vua đi săn vắng, người đàn bà hiện ra dọn các thức ăn, rồi lại chui vào ngà, như vậy đă gần một năm. Người đàn bà ở với vua như vợ chồng.

 

Rắc Bin-xvơ nghe tin này, một hôm chờ vua đi săn vắng, biến thành một con mối nấp ở cánh cửa. Khi người đàn bà ở trong ngà hiện ra, hắn mê hồn về sắc đẹp, cũng làm phép biến thành một người giống với vua, trừ hai cái răng nanh tḥ ra ngoài mồm là không giấu được. Người đàn bà hỏi tại sao đang đi săn lại về. Hắn lấy lời vua trả lời rằng v́ đi dọc đường tự nhiên mọc ra hai cái răng nanh.

 

Khi vua về. người đàn bà hỏi: - "Bệ hạ mới về lúc trưa, sao bây giờ lại lộn lại?". Vua hỏi h́nh dạng người về cung trước ḿnh. Đáp: - "Giống bệ hạ hết cả, chỉ trừ hai cái răng nanh tḥ ra ngoài". Vua biết là Rắc Bin-xvơ nên hôm sau, lúc đi săn, sai dán bùa vào cánh cửa. Khi Rắc Bin-xvơ đến thấy cửa đóng kín, nhưng hắn cũng hóa phép thành một con vật nhỏ ḅ vào. Người đàn bà hỏi th́ hắn nói những câu nói quen thuộc của vua nên nàng tin là thật, ăn ở với hắn như vợ chồng.

 

Vua nửa đường lộn về, nhưng thấy cửa đóng kín và bùa c̣n dán kín nên lại tiếp tục đi săn. Khi Rắc ra đi, người đàn bà lưu lại, xin vẽ một bức chân dung để khi xa nh́n cho đỡ nhớ. Vẽ xong, nàng bỏ chân dung dưới nệm giường. Sau đó ít lâu vua đến với người đàn bà. Nằm trằn trọc măi không ngủ được, vua thăm ḍ các nơi, cuối cùng t́m ra được bức chân dung. Hỏi th́ người đàn bà nói thật. Vua ghen, giận đuổi ra khỏi cửa...

 

Đoạn sau truyện c̣n dài nhưng t́nh tiết phát triển khác truyện của ta nên không kể ở đây.

 

Truyện Ra-ma-ya-na của người Khơ-me (Khmer):

 

Để giấu các người vợ của ḿnh khỏi con mắt của thần Ra-va-na, thần Đế Thích (In-đơ-ra) bèn bỏ họ vào một cái hang, hàng tuần ông đến với họ một lần. Rồi thần đóng kín cửa hang bằng một câu thần chú.

 

Thần Ra-va-na t́m đến cửa hang cầy cục không mở được cửa, bèn hóa thân làm một con mối nấp ở trên cửa hang để nghe trộm câu thần chú của thần Đế Thích.

 

Khi nghe được rồi, hôm sau thần bèn hóa làm thần Đế Thích đọc câu thần chú mở cửa hang vào ân ái với vợ cả của Đế Thích là Xu-xi-tra...[4]

 

Theo Truyện cổ Ca-tu th́ dân tộc Ca-tu có truyện con khỉ: Có một ông vua độc ác nuôi một con khỉ nhưng không biết nó có phép lạ. Thường những lúc vua đi vắng, nó hóa thành người y hệt như vua, vào với vợ vua. Khi vua về lại biến trở lại thành khỉ. Về sau truyện tiến triển có khác: khỉ bày mưu cho dân làng đánh lại vua. Một hôm vua đi vắng, khỉ biến thành vua. Khi vua thật về, một mặt dân chúng kéo đến vây, một mặt khỉ xúi vợ vua đem quân bắt vua thật, bảo đó là kẻ thù. Sau đó, khỉ c̣n dùng mưu bắt cả rể của vua, đem giết cả hai, rồi tôn một người gia lên làm vua.

 

Thần thoại Hy-lạp (Grèce) có truyện kể rằng thần Dớt (Zeux) thấy nàng An-xmen (Alcmène) đẹp, nhân chồng nàng là Ăm-phi-tri-ông (Amphitryon) c̣n bận cầm quân đánh giặc, thần bèn hóa làm chồng nàng để vào với nàng. Đi theo thần c̣n có thần Méc-quya (Meccure) cũng biến thành Xô-si (Sosie), thủ hạ của Ăm-phi-tri-ông để cho nàng khỏi nghỉ. Cuộc t́nh duyên này đă làm nàng sinh ra thần Héc-quyn (Hercule).

 

Về chỗ nồi cơm thần diệu ăn măi không hết, chúng ta c̣n có truyện Sự tích Bồ tát Chân Nhân. Bồ tát ở làng Bối-khê, huyện Thanh-oai (Hà-đông), cũng có những phép gần như phép Nguyễn Minh Không đăi khách. Bồ tát Chân Nhân thuê một trăm người thợ dựng ngôi chùa lớn ở núi Tiên-lữ. Mỗi bữa chỉ thổi một niêu con cơm. Lúc đầu đám thợ trông thấy đều bật cười. Bồ tát bảo: - "Khi cơm chín cứ bới ra rá để tôi c̣n về quê lấy tương cà làm thức ăn". Thợ lại càng cười cho là nhà sư chỉ nói bỡn, v́ quê của Bồ tát cách đấy gần một ngày đường. Nhưng chỉ trong nháy mắt, Bồ tát Chân Nhân từ chùa núi Tiên-lữ sang chợ Bảo-đà làng Đan-vị lấy hai lọ tương, một lọ muối, rồi từ chợ lại trở về chùa. Lúc về cơm vừa chín tới. Bồ tát gọi thợ lại ăn, nhưng họ ăn không hết một niêu cơm con, v́ hễ bới lưng lại đầy[5].

 

Người Ba-na (Bahnar) cũng có truyện Y rít nói tới người con gái nuôi của Y rít có phép thổi cơm cho bọn lính nhà vua ăn bằng chiếc nồi bé tư, nhưng họ ăn đến tức cả bụng mà nồi cơm vẫn đầy.

 

Người Ê-đê cũng có truyện một em bé tên là Nồi (Gơ-la) v́ da đen như nhọ nồi. Em vốn do một bà lăo ăn một quả xoài trong rừng nên mang thai và đẻ ra. Lọt ḷng, em đă nói được, gọi bà lăo là "bà nội". Em có nhiều phép lạ, lúc đói đ̣i cơm, cơm tự động chạy vào miệng. Lúc làm tiệc đăi làng, em chỉ đưa ra một bát cá mà khách ăn măi không hết.

 

Trung-quốc có truyện Tả Từ, là người Lư-giang thời Đông Hán, có phép thuật. Một lần gặp Lưu Biểu ở Kinh-châu đang diễu binh. Tả Từ nói: - "Tôi có lễ mọn khao ba quân". Hỏi: - "Khao những ǵ" - "Một bữa no say". Lưu Biểu nhận lời. Đến khi gặp th́ thấy Tả Từ cầm một đấu rượu và một cái nem. Lưu Biểu bĩu môi, nhưng Tả Từ trao cho lính, họ chia nhau ăn uống no say mà vẫn không hết[6].

 

Trong Kinh Thánh cũng có truyện chúa Jê-su mấy lần chỉ có trong tay dăm cái bánh và hai con cá mà phân phát cho trên trăm ngàn dân chúng, ai nấy đều ăn no; bánh thừa c̣n lại hàng giỏ đầy.

 

Cổ tích và Phật thoại Ấn-độ cũng có truyện Du-đích-thi-ra nhận được của Mặt trời một nồi đồng lấy ra rau, thịt, cá vô tận; và Má-nu-da vâng lệnh Phật sai đi quyên giáo không được ǵ, bỗng chốc thấy xuất hiện năm trăm bát đầy thức ăn; lại nhờ phép Phật mà hiện ra trước một ngh́n vị tỳ-khưu, mỗi người một bát đầy thức ăn, v.v...[7]

 

Về chỗ Từ Đạo Hạnh học phép và kiếp sau của ông hóa hổ, sách Lĩnh ngoại u linh lục chép: lúc bấy giờ có Phật bà giáng xuống chùa Tây-phương ở Sơn-tây dạy đạo. Từ cùng hai ông bạn rủ nhau lên đó học phép của Phật bà. Hai ông kia sáng dạ nên buổi nào cũng được về trước, c̣n Từ tối dạ cứ phải ở lại sau. Một hôm, thấy Từ ngồi khóc, Phật bà hỏi duyên cớ, ông nói v́ ở lại sau nên sinh xấu hổ. Phật bà thương hại, cho một cái gậy để có thể theo kịp hai ông bạn. Nhờ đó ông vượt trước họ một đoạn đường. Đến cửa chùa làng La-cà, ông ẩn vào một bụi rậm. Đợi hai bạn đến, Từ giả làm hổ gầm lên một tiếng để ḷe chơi. Không ngờ, một trong hai ông biết Từ bỡn cợt, bèn đọc câu "phát nguyện" rằng:

 

Phật cho như ư sở cầu

 

Muốn làm loài ấy, kiếp sau được làm.

 

Kiếp thứ hai, Từ được giáng sinh cửa đế vương, tức là vua Lư Thần Tông, đang làm vua tự nhiên hóa hổ.

 

Đến kiếp thứ ba, Từ lại được giáng sinh vào cửa đế vương, tức là vua Lê Thần Tông, cũng đang làm vua tự nhiên hóa hổ. Triều đ́nh nhờ đức thượng sư nội đạo tràng ở Thanh-hóa về chữa. Lúc ấy dân có dịch tễ, thượng sư bận bèn sai môn đồ ḿnh đi thay với phép "trịch hùng tŕ chú". Sau khi thiết lập đàn tràng, môn đồ ra phép "hai tay đấm vào ngực, hai chân giẫm xuống đất, đọc chú ba lần". Tự nhiên vua thấy nhẹ nhơm, lông lá rụng hết; diện mạo lại đẹp đẽ như xưa[8].

 

[1] Dựa vào câu: Tăng hận bất cách túc,

 

Sinh tử nhất mộng trường.

 

Ư muốn nói: Thôi! Ghét ai giận ai qua một đêm thời thôi mới là quân tử; sống chết cũng chỉ là một giấc chiêm bao (Đoạn này theo Thiền uyển tập anh).

 

[2] Đoạn này theo tạp chí Nam phong (1929).

 

[3] Theo Lĩnh-nam chính quái, đă dẫn; Nước non tuần báo; và theo lời kể của người miền Bắc.

 

[4] Đều theo BEFEO (1931)

 

[5] Theo Vũ Phương Đề, Công dư tiệp kư.

 

[6] Theo Thần tiên truyện.

 

[7] Van Ghen-nép (Van Gennep). Tôn giáo, phong tục và truyền thuyết.

 

[8] Theo Lăng Tuyết, Sùng-sơn đại chiến sử. Hai vị thiền sư theo sứ giả vào cung vua. Khi ấy các bậc danh sư trong thiên hạ ngồi la liệt, thấy Minh Không hèn mọn quê mùa th́ xem thường không thèm đứng lên chào

Ghi chép về sự tích thiền sư Từ Đạo Hạnh đă được các nhà nghiên cứu thống kê khá đầy đủ trong các tư liệu và thư tịch cổ như Việt Điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục, Thiền uyển tập anh ngữ lục, Đại Việt sử lược, An Nam chí lược, An Nam chí nguyên, Việt sử tiêu án, Đại Việt sử kư toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, Hưng Yên tỉnh Văn Lâm huyện Nghĩa Trai tổng Đ́nh Loan xă B́nh Lương thôn thần tích, Thánh tổ đại pháp thiền sư, Hoàng Việt thông chí thiên tiên Phật Thánh lục... Tuy nhiên giữa các bản có những xuất nhập cần được xác định về mặt văn bản học. An Lăng Từ Thánh Phụ sự tích lược kư, Phụ biên Đạo Hạnh lai lịch: Ghi chép về sự tích Thánh Phụ Từ Vinh ở An Lăng, phụ chép lai lịch Từ Đạo Hạnh (dưới đây gọi tắt là Sự tích Thánh Phụ) có thể xem là một tư liệu xác thực bổ sung cho việc nghiên cứu những truyền thuyết sông Tô; sự tích thiền sư Từ Đạo Hạnh với lễ hội chùa Láng, chùa Thầy và Phật giáo Mật tông… trong ḍng chảy văn hóa Thăng Long Hà Hội.[1]

 

Về tác giả và niên đại văn bản

 

Văn bản chép tay chữ Hán thể chân, gồm 19 trang, trang 8 ḍng, ḍng 7-9 chữ, lưỡng cước chú, không có tựa bạt. Ở trang cuối văn bản ghi: “Chư tế văn tịnh hồ sơ linh toái sự tích cụ hữu biệt bản phụng thủ tại Long Quang tự. Bính Tuất niên thu cửu nguyệt nhị thập ngũ nhật hạch chính. Nguyễn triều Quang lộc tự khanh (Măo khoa Tú tài) Nguyễn An Lan, tự Hải Văn bái soạn tịnh thư” (Các bản văn tế và các sự tích tản mạn trước đây đều được lưu giữ đầy đủ tại chùa Long Quang. Đối chiếu với chính bản ngày 25 tháng 9 mùa thu năm Bính Tuất. Quang lộc tự khanh triều Nguyễn, Tú tài Măo khoa Nguyễn An Lan, tự Hải Văn bái soạn và viết). Ở dưới nhan đề văn bản trang đầu tiên và ở dưới ḍng ghi niên hiệu văn bản, ḍng ghi tên tác giả ở trang cuối cùng đều có dấu khắc 4 chữ triện:

 

Tô Lịch Hải Văn

 

 

 

 

 

 

 

Hơn nữa, trong văn bản tuân thủ nghiêm ngặt việc kiêng húy chữ (th́) đổi viết thành chữ (th́n) đời vua Thành Thái (1889-1907)[2]; hoặc như chữ (Ba) trong tên chùa (Ba Lăng) ở xă Thượng An Quyết, huyện Từ Liêm xưa là do kiêng húy chữ (Hoa) trong tên chùa là (Hoa Lăng) đổi viết thành (Ba)[3] ... Từ những cứ liệu trên có thể xác định, tác giả Sự tích Thánh Phụ là quan Quang lộc tự khanh triều Nguyễn - Tú tài Măo khoa Nguyễn An Lan, tự là Hải Văn[4]. Niên đại văn bản vào khoảng đời vua Thành Thái (1889-1907) trở về sau, và ḍng niên hiệu ở cuối văn bản ghi là “Đối chiếu với chính bản ngày 25 tháng 9 mùa thu năm Bính Tuất”, nên văn bản được hoàn thành chính xác vào ngày 25/9/năm Bính Tuất 1946.

 

Nội dung thần tích gồm hai phần. Phần một về sự tích Thánh Phụ Từ Vinh ở An Lăng và Phần hai về lai lịch thiền sư Từ Đạo Hạnh. Dưới đây chúng tôi dịch theo nguyên bản Sự tích Thánh Phụ:

Đại vương họ Từ, tên húy là Huệ, tên lúc nhỏ là Đăng Vinh, người trại An Lăng huyện Vĩnh Thuận (tức nay là huyện Hoàn Long)[5], làm quan Chánh Đô sát viện[6] triều Lư. Lúc trẻ theo học thầy Đôn Minh (ở núi Câu Lậu huyện Thạch Thất). Vương bẩm tính thông tuệ dị thường nên được thầy dạy cho các phép thuật bí truyền kỳ lạ, tất cả đều thông hiểu, chuyên tâm nghiên cứu, ngày càng tinh vi, biến ảo khôn lường, phàm có thi đấu không ǵ là không hiệu nghiệm. Sau đó vương cáo biệt trở về nhà cũ (tức nay là chùa Nền là nơi sinh của Thánh)[7], truyền dạy riêng cho con trai là Đạo Hạnh.

 

Thời ấy vua triều Lư tôn sùng Phật giáo, vương bèn dự thi đỗ đầu, được tuyển chọn hậu bổ Chương Đài đạo pháp, hưởng ân sủng của vua ban cho ngày càng nhiều. Thời ấy các nhà vương công, thế tộc, b́nh dân ai có việc cầu đảo th́ vương giúp lập đàn tràng, niệm chú bắt quyết, đều rất ứng nghiệm. Vương vốn có phép ảo hóa nên thường đem ra thí nghiệm, ngẫu nhiên thử cho nhà Diên Thành hầu xem, chẳng ngờ bị Lê Đại Điên ở xă An Quyết[8] cũng là tay kiệt xuất về phù chú, truyền phép thuật cho Diên Thành hầu giết chết vương (ngày mồng 10 tháng Giêng) rồi ném xác xuống sông Tô Lịch. Xác trôi đến bến Hồng Diên thôn Thượng Đ́nh, xă Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Tŕ (tức nay là xứ Hàm Long)[9], khi ấy người làng trông thấy, bèn đón xác lên chôn ở bên sông (tức nay là Thánh lăng). Sau khi chôn cất xong, ban đêm thấy thần linh báo mộng, người làng bèn dựng miếu phụng thờ làm Bản cảnh Thành hoàng.

 

Năm Tân Mùi triều Lư[10], thần được sắc phong làm Bảo quốc Anh liệt Diệu cảm Chiêu ứng Thông huyền Hiển thánh Đại vương; lại cấp ruộng là 10 mẫu để cung cấp việc cúng tế giỗ chạp (mỗi giáp canh tác trồng trọt 6 sào ruộng. Ngày giỗ mồng 10 tháng Giêng hàng năm kính lễ mâm xôi, chuối tiêu). Mỗi dịp lễ tết được ân điển của triều đ́nh phong tặng sắc văn, nhưng lâu ngày giấy cũ mất mát không thể ghi chép hết được. Một đạo sắc văn của triều Nguyễn phong làm Dực phù Trung hưng chi thần được cất giữ cẩn thận trong ḥm vẽ rồng sơn son. Hàng năm khi gặp hạn hán, kính rước thánh giá cầu đảo thật là linh ứng. Trải mấy ngàn năm linh thần hiển hách như vẫn c̣n đây!

Vương phu nhân họ Tăng, tên húy là Loan. Chùa Ba Lăng ở xă An Quyết Thượng, huyện Từ Liêm[11]cúng tế bà, hàng năm ngày giỗ là mồng 10 tháng Tư.

 

 

 

 

                             Tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh

Con trai của vương tên húy là Lộ, tự là Đạo Hạnh, có tiên phong đạo cốt. Thuở niên thiếu thích giao du, hào hiệp phóng khoáng, chí lớn phi phàm, hành động cử chỉ không ai có thể lường được. Đêm th́ mải miết đọc sách, ngày th́ đá cầu thổi sáo đánh bạc, ham sự chơi bời. Cha thường trách con là lười nhác không nghiêm túc. Một đêm bí mật ḍm qua khe cửa, thấy trong pḥng ánh đèn rực rỡ, sách vở chồng chất, Đạo Hạnh th́ gục xuống án mà ngủ nhưng tay vẫn không rời sách, cha ông v́ thế không c̣n lo lắng nữa.

 

Năm sau Đạo Hạnh dự thi khoa Bạch Liên, đỗ Đệ nhất danh (triều Lư có kỳ thi riêng cho tăng đồ tức là khoa này). Nhưng sau đó cha gặp nạn bị giết chết, ông ngày đêm đau đớn xót thương, nung nấu mối thù không đội trời chung, chỉ lo tính việc báo thù cho cha mà chưa có cách nào. Một hôm ŕnh lúc Đại Điên đi ra ngoài, Đạo Hạnh định lấy cây pháp trượng đánh theo cái bóng của y th́ bỗng nghe trên trời có tiếng thét ngăn lại, thế là ông quăng gậy trở về, ḷng càng thêm căm phẫn. Ông bèn rủ bạn là Minh Không và Giác Hải cùng đến Tây Thiên Ấn Độ để cầu phép lạ. Đường đi qua đất rợ Kim Sỉ[12] hiểm trở, muốn quay về th́ bỗng thấy một cụ già chèo chiếc thuyền nhỏ nhàn du trên sông, ba người vái chào cụ già và hỏi đường đi đến Tây Thiên c̣n bao xa? Cụ già đáp rằng: “Đường núi cao hiểm trở không thể đi được, lăo đây có một chiếc thuyền nhỏ có thể giúp đưa qua sông”, bèn lấy cây tiểu trượng chỉ thẳng về Tây quốc[13], trong chốc lát đă đến bờ, Minh Không và Giác Hải theo cụ già lên bờ, c̣n ḿnh Đạo Hạnh ở lại giữ thuyền đến 3 ngày mà không thấy hai bạn trở lại, không biết tin tức ra sao. Bỗng nhiên thấy một bà lăo, Đạo Hạnh hỏi rằng: “Cụ có nh́n thấy hai người đi cầu đạo pháp qua đây không?”. Bà lăo đáp: “Hai người đă thụ phép lạ của ta và quay trở về rồi”. Ông bèn nói: “Đệ tử chúng con nghe tiếng tôn sư linh dị, phép thuật biến hóa ứng nghiệm vô cùng, v́ thế từ nơi xa đến đây mong được thu nhận dạy bảo, xin muôn phần cảm tạ!”. Bà lăo bèn dạy cho tất cả các phép thuật linh dị, Đạo Hạnh đều lĩnh hội sâu sắc, tự cảm thấy lục trí viên thông, đạo pháp đă thành, bèn cáo từ trở về nhà cũ ở An Lăng, ngày đêm tu luyện t́m cách báo thù. Một hôm tự ḿnh đến cầu An Quyết sông Tô Lịch phóng cây trượng sắt ngược ḍng nước chảy như tên bay, đến cầu Tây Dương[14] th́ dừng lại. Mọi người nh́n thấy đều kinh ngạc báo cho Đại Điên biết. Đại Điên bèn đến bên sông đứng xem, cây trượng lập tức nảy lên đánh vào trán, Đại Điên chết ngay và rơi xuống nước, ông liền dùng phép niệm chú khiến cho xác Điên phóng theo sông Tô Lịch mà trôi đi.

 

Việc báo thù đă xong, oán thù xưa đă hết và ḷng trần đă nguội, Đạo Hạnh bèn đến chùa Thiên Phúc ở núi Sài Sơn để tu luyện đạo pháp như trước kia. Từ đó pháp lực càng tăng, ḷng thiền càng chín, có thể khiến cho các giống sơn cầm dă thú đều đến vây quanh hiền lành thuần phục, bấm đốt ngón tay cầu đảo mưa rơi, phun nước trị bệnh, không lúc nào không hiệu hiệm, nhân dân một vùng ngưỡng trông thần hiển linh phù trợ!

 

Ngày trước phóng xác Đại Điên thuận trôi theo ḍng nước đến phủ Thanh Hoa Tràng An (tức nay là tỉnh Ninh B́nh) có một khúc cong như h́nh cái mũ trang sức ở đầu ngựa, hồn của xác ấy liền nhập vào đứa trẻ 3 tuổi tự xưng tên là Giác Hoàng là con của vua. Khi ấy vua Lư Nhân Tông không có con nối ngôi, làm lễ cầu đảo nhưng không hiệu quả. Tháng 3 năm Ất Mùi[15] người ở phủ Thanh Hoa tâu tŕnh lên rằng, ở băi “mũ ngựa” bên bờ biển có một đứa trẻ 3 tuổi linh dị tự xưng là con vua, dung mạo thanh tú đẹp đẽ, thông hiểu mọi sự lư, phàm những việc trong cung vua không ǵ là không biết. Vua Nhân Tông bèn sai sứ giả tới xem quả đúng như lời nói, bèn đón về kinh sư, cho ở tại chùa Báo Thiên. Nhà vua thấy đứa trẻ thông minh nên rất mực yêu quư, muốn lập làm Hoàng Thái tử.

 

Triều thần ra sức khuyên can cho là không thể được và tâu vua rằng: “nếu đứa trẻ kia quả thực là linh dị, tất phải thác sinh ở nơi cung cấm th́ sau mới lập được”. Nhà vua nghe theo, bèn mở đại hội 7 ngày đêm để làm phép thác thai tại chùa Báo Thiên. Từ Đạo Hạnh nghe tin bèn nói rằng: “Đứa trẻ kia là yêu ma quái dị, mê hoặc nhân tâm quá lắm! Huống hồ nó mà thác thai làm con vua th́ nhà ta sao có thể bảo toàn?”. Nhân có chị gái là Từ nương làm thị nữ trong triều, cũng là người túc trực ở thai đàn, ông bèn bí mật đưa cho Từ nương mấy viên ấn phù và tấm bùa chú bảo đặt ở trên rèm. Hội đă qua 3 ngày đêm nhưng Giác Hoàng không thể đầu thai được và lại bị đau lưng, bèn tâu lên rằng: “Khắp biên giới trong nước đều có lưới sắt vây che, cửa khóa mấy tầng, cẩn mật kiên cố, mọi lối đi đều bị chẹn kín, tuy muốn thác thai mà sợ không được vậy”. Lời tâu chưa hết th́ bỗng nhiên ngă lăn ra chết. Vua Nhân Tông rơi lệ thương tiếc, sai người kiểm soát trong ngoài đạo tràng tất cả mọi nơi, quả nhiên t́m được một dải mấy viên ấn phù ở trên rèm. Tra hỏi những người túc trực th́ Từ nương tự nói rằng, có em trai là Từ mỗ bảo đặt lên, c̣n ḿnh không hề biết ǵ về việc ấy. Nhà vua bèn cho gọi Đạo Hạnh đến lầu Hưng Thánh, hội họp các bá quan văn vơ cùng bàn bạc.

 

Triều thần tâu rằng: “Bệ hạ đă không có con nối ngôi nên lập đàn cầu đứa trẻ ấy thác thai, thế mà dám càn rỡ tự ư giải chú, đáng phải luận trọng tội để tạ lỗi với thiên hạ”. Chỉ có hoàng thân Sùng Hiền hầu vốn biết ông là người đắc đạo chân nhân, bèn tâu rằng: “Đạo Hạnh lục trí thần thông, thiên hạ đă biết từ lâu.

 

Thiết nghĩ Giác Hoàng nếu có thần lực th́ Đạo Hạnh làm sao có thể tiêu trừ được. Nay v́ Giác Hoàng mà luận tội Đạo Hạnh th́ có ích ǵ với quốc gia? Huống hồ Đạo Hạnh có thể bay trên không, đi qua biển, niệm chú làm cầu qua sông, dù là hoàn cảnh gian nan nguy hiểm thế nào cũng không hề ǵ. Vả lại bút lực của triều đ́nh, chẳng ǵ bằng sự bao dung để mở rộng ân điển. Hoặc như những lúc cần hô phong hoán vũ gọi gió cầu mưa th́ biết đâu chẳng giúp ích ǵ cho tương lai? Thần cúi xin được khoan xá!”. Nhà vua bằng ḷng và Đạo Hạnh được tha về. Sùng Hiền hầu bèn mời ông về nhà ḿnh để chúc mừng, ông nói rằng : “May được quan nhân cứu giúp mà mỗ tôi được bảo toàn. Một tấm chân tâm ngang tàng, thân này không biết lấy ǵ để báo đáp, nguyện xin được thác thai cung để cảm tạ ân đức lớn”, hầu nghe lời nói hợp ư liền gật đầu đồng ư.

 

Chỉ trong phút chốc, phu nhân của Sùng Hiền hầu ở trong buồng tự nhiên cảm thấy thân ḿnh động đậy như có thai, bèn báo sự việc cho hầu. Hầu đă biết trước điều ấy nên bí mật nói với phu nhân rằng: “Nếu soi trong nước thấy h́nh th́ chân nhân đă nhập vào thai cung của ta rồi, hăy thận trọng đừng sợ hăi nghi ngờ ǵ”. Đạo Hạnh lại nói với hầu rằng: “Nhân duyên kiếp trước được làm nghĩa cha con, nay đă đầu thai làm con nối dơi của hầu, xin từ biệt trở về”, và c̣n dặn thêm rằng: “Đến kỳ sinh nở tất phải đến báo cho biết trước!”. Đến tháng, phu nhân động sản khó sinh, gia nhân báo với hầu, hầu nói rằng: “Cần phải báo gấp cho tôn sư để biết điều tốt xấu”, bèn ruổi xe đến báo cho Đạo Hạnh.

 

Ông được tin liền nói với môn đồ rằng: “Nhân duyên kiếp trước chưa hết, c̣n phải thác sinh làm vua. Nếu thấy thân thể ta bị tổn hoại là thai cung của ta đă thâm nhập vào bùn đất (tức là niết bàn vậy)”. Các môn đồ nghe thế, ai cũng cảm động mà khóc. Ông đọc kệ xong bèn leo lên động, đập đầu vào tường đá, rồi dậm chân lên bàn đá nghiễm nhiên mà hóa (tức nay là động Thánh Hóa trên núi Sài Sơn, dấu vết vẫn c̣n), lúc ấy là giờ Ngọ ngày mồng bảy tháng ba năm Bính Thân đời Lư Đại Khánh năm thứ bảy[16]. Đạo Hạnh nhập vào cơi niết bàn và hóa, ra đời làm con của Sùng Hiền hầu, không dưỡng dục mà ngày càng lớn; không giáo huấn mà thông minh, dung nhan tuấn tú đẹp đẽ, tài hùng biện không ai sánh bằng.

 

Tháng Giêng năm Đinh Dậu[17] vua Lư Nhân Tông mộng thấy thần nhân đọc thơ rằng: “Dục tri vị lai quả, Vu kim kiến thánh hiền. Bất cầu nhi tự hoạch, Chỉ thị đăi tam niên” (Muốn biết kết quả tương lai, Đă thấy thánh hiền trước mắt. Không cầu mà tự có, Chỉ phải đợi ba năm). Trước đó nhà vua chưa có con nối ngôi, việc ban chiếu thư để cầu t́m con đồng tông thừa kế c̣n chưa quyết định. Đến năm Mậu Tuất[18] nhà vua tuổi tác đă hơi cao, bèn ban chiếu thư xuống cho con trai của các em ruột nhà vua là Sùng Hiền hầu, Thành Khánh hầu, Thành Chiêu hầu, Thành Quảng hầu và Thành Hưng hầu vào cung để giáo dục chọn người tài giỏi lập làm Hoàng Thái tử, ông[19] là người được lựa chọn vậy. Khi ấy ông mới lên ba tuổi, thông tuệ minh mẫn, nghe một biết mười, ứng đối tiến thoái không ǵ không hợp ḷng thánh thượng. Vua Nhân Tông vô cùng yêu quư, đặt tên là Dương Hoán và lập làm Hoàng Thái tử, sai Thần Anh nguyên phi làm mẹ nuôi dưỡng. Năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên Phù nguyên niên[20] vua Nhân Tông băng hà, ông lên ngôi (13 tuổi), đổi niên hiệu là Thiên Thuận nguyên niên[21]. Đến năm Bính Th́n[22], thân ḿnh ông tự nhiên mọc nanh vuốt rồi không lâu sau biến h́nh thành hổ, danh y khắp nơi đến chữa bệnh đều không khỏi. Minh Không và Giác Hải nghe tin ông mắc bệnh “kim sang”[23] th́ thấy quả nhiên nghiệm với lời nói trước đây (ngày trước ông cùng với Minh Không và Giác Hải đi học tiên thuật đắc đạo, lúc trở về ông đi lên trước biến thành h́nh hổ để đùa bạn), bèn làm bài ca dao dạy cho trẻ nhỏ hát rằng: “Dục an thiên tử tật, Tu đắc Nguyễn Minh Không” (Muốn chữa bệnh nhà vua, phải t́m Nguyễn Minh Không). Triều thần bèn theo lời trẻ nhỏ hát, sai sứ giả đi t́m. Nghe nói hai vị sư Minh Không và Giác Hải trụ tŕ ở chùa Liêu Thủy, sứ giả cùng binh lính 16 người chèo thuyền đến chùa bái kiến, thiền sư bèn lấy một cái nồi nhỏ nấu cơm và bảo họ rằng: “Bần tăng có ít cơm ăn tạm!”. Quân lính ăn đều no bụng nhưng không thể hết được. Ăn xong th́ hai vị thiền sư theo sứ giả xuống thuyền, Minh Không nói với họ rằng: “Mọi người hăy tạm đi ngủ và nghỉ ngơi, đợi nước triều dâng th́ khởi hành lên kinh”. Thế là mọi người đều xuống thuyền ngủ, thuyền đi như bay, ngày hôm sau đă đến bến Đông, thiền sư bèn gọi mọi người dậy, đă nh́n thấy chùa Báo Thiên, ai nấy đều kinh phục. Hai vị thiền sư theo sứ giả vào cung vua. Khi ấy các bậc danh sư trong thiên hạ ngồi la liệt, thấy Minh Không hèn mọn quê mùa th́ xem thường không thèm đứng lên chào. Minh Không bèn lấy ở trong túi ra một chiếc đinh sắt dài năm tấc rồi dùng tay đóng vào cột điện, đinh ngập sâu vào quá nửa, ông nói với mọi người rằng: “Ai có thể nhổ được chiếc đinh này th́ chữa được bệnh cho vua”. Nói như vậy mấy lần, không có ai dám nhổ. Minh Không bèn dùng hai ngón tay phải mà nhổ, đinh theo tay bật ra, bèn bảo lấy cái vạc lớn, 12 hũ dầu, 100 cái kim và 1 cành ḥe, đốt lửa nấu, rồi sai khiêng ngọc giá đến đàn. Minh Không bảo Giác Hải đốt lửa suốt mấy ngày liền, bèn tḥ tay vào trong vạc dầu đang sôi sùng sục lấy ra đủ 100 cái kim. Giác Hải lại bảo Minh Không làm phép, lấy cành ḥe nhúng vào vạc dầu rồi rắc vảy lên ngọc thể nhà vua, quát to rằng: “Bậc thiên tử tôn quư cớ sao mà lo buồn phát bệnh như vậy?”. Thế là tất cả lông lá, nanh vuốt đều rụng hết, nhà vua lại ở ngôi đế vị như xưa. Khi đó Minh Không có bài kệ rằng: “Kỳ lân đồ hậu mạt, Nguyệt vọng đáo trung thiên” (Kỳ lân dự liệu về hậu thế, Mặt trăng và mặt trời gặp nhau ở giữa trời)[24]. Mọi người không ai hiểu lời nói đó. Đến ngày 26 tháng 9 năm Canh Thân[25] nhà vua thăng hà, miếu hiệu Thần Tông tức là hậu thân của Đạo Hạnh vậy. Ngày ông thăng hà th́ nhà cũ ở chùa Sài Sơn linh khí chấn động[26], dân làng thấy thế kinh sợ lạ lùng đem việc tâu lên, vua nối ngôi liền sai triều quan đến tế lễ, trùng tu miếu vũ, ban phong miếu hiệu, bốn mùa cúng tế. Hàng năm mồng 7 tháng 3 là ngày sinh nhật tiền thân[27], có lệ phụng nghênh thánh giá đến xứ Hương Sơn quán để lạy chầu Thánh tổ. Cũng như chùa Chiêu Thiền ở xă An Lăng huyện Từ Liêm phụng nghênh thánh giá đến lạy chầu Thánh tổ ở Thánh am xứ Hàm Long, thôn Thượng Đ́nh (nếu gặp năm hạn hán th́ rước thánh giá đến chầu lạy Thánh tổ cầu đảo vô cùng linh ứng). Trai gái bốn phương cùng hân hoan dự hội, đây là lễ hội lớn của một vùng vậy! [28]

 

 

 

Tác giả: Nguyễn Thị Ngân và Nguyễn Thiên Lư

Bài đă đăng trên: Tạp chí Văn hóa Nghệ An

 

 

[1] Nguyên bản 記,附 (An Lăng Từ Thánh Phụ sự tích lược kư, Phụ biên Đạo Hạnh lai lịch) hiện được lưu giữ trong ḍng họ nhà văn Nguyễn Tuân (1910-1987). Qua PGS. Phạm Tú Châu (Viện Văn học) giới thiệu và xin ư kiến đồng ư của con cháu ḍng họ nhà văn, chúng tôi gửi bản thần tích này tới Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 2012. Nhân đây chúng tôi xin bày tỏ ḷng cảm ơn sâu sắc.

 

[2] Xem Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ Húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb Văn Hóa, 1997.

[3] Chùa Hoa Lăng ở xă Thượng An Quyết sau đổi là xă An Ḥa thuộc quận Cầu Giấy, huyện Từ Liêm, TP. Hà Nội.

[4] Cụ Tú Nguyễn An Lan, tự Hải Văn là phụ thân của nhà văn Nguyễn Tuân (1910-1987). Quang lộc tự khanh là chức trưởng quan của Quang lộc tự chuyên lo việc cỗ bàn, cung cấp lễ phẩm cho các ngày tế lễ, yến ẩm của triều đ́nh. Sự tích Thánh Phụ (Sự tích về Thánh Phụ Từ Vinh ở An Lăng) do cụ Tú Nguyễn An Lan biên soạn ghi chép về sự tích vị Bản cảnh Thành hoàng thôn Thượng Đ́nh, xă Nhân Mục Cựu (tên Nôm là làng Mọc), huyện Thanh Tŕ xưa, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội.

[5] Phần trong ngoặc đơn trong bản dịch này đều là nguyên chú của tác giả. Trại An Lăng huyện Vĩnh Thuận, nay là làng Láng, phường Láng Thượng, quận Ba Đ́nh, TP. Hà Nội.

[6] Đô sát viện là cơ quan tối cao giữ việc giám sát trăm quan, biện minh oan khuất, phàm có án kiện quan trọng th́ cùng với H́nh bộ và Đại lư tự hội thẩm.

[7] Chùa Nền ở số 1160 Đường Láng Hà Nội.

[8] Nay là thôn Tiền, phường Dịch Vọng, đường Nguyễn Khánh Toàn, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội.

[9] Nay là phường Thượng Đ́nh quận Thanh Xuân, T.P. Hà Nội.

[10] Tức năm 1211 đời Lư Huệ Tông (1211-1224).

[11] Nay thuộc quận Cầu Giấy, T.P. Hà Nội.

[12] Theo Từ nguyên (Dân Quốc nhị thập bát niên 1939), tục của tộc người cổ dùng vàng để trang sức răng gọi là man Kim Sỉ, nay là huyện lị Vĩnh Xương Vân Nam Trung Quốc.

[13] Tây quốc là chỉ đất phát nguyên của Phật giáo.

[14] Nay là khu vực Cầu Giấy Hà Nội.

[15] Tức năm 1115 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1128).

[16] Tức là năm 1116 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1127).

[17] Tức năm 1117 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1128).

[18] Tức năm 1118 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1128).

[19] Tức chỉ Đạo Hạnh lúc này đă đầu thai làm con của Sùng Hiền hầu.

[20] Niên hiệu Thiên Phù Khánh Thọ là năm 1127 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1128).

[21] Niên hiệu Thiên Thuận đời vua Lư Thần Tông (1128-1132).

[22] Tức năm 1136 đời vua Lư Thần Tông (1128-1138).

[23] “Kim sang” theo cách gọi của đông y là vết thương do dao kiếm.

[24] Kỳ và lân là hai loại thú thần trong truyền thuyết được coi là điềm lành.

[25] Tức năm 1140 đời vua Lư Anh Tông (1138-1175).

[26] Chùa Thầy ở chân núi Sài Sơn huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây (cũ), nay là xă Sài Sơn huyện Quốc Oai Hà Nội là nơi tu hành của thiền sư Từ Đạo Hạnh, và nơi ngài hóa gọi là động Thánh Hóa trên núi Sài Sơn.

[27] Tiền thân là thuật ngữ Phật giáo, chỉ thân thế kiếp trước.

[28] Chùa Láng ở phố Chùa Láng phường Láng Thượng quận Đống Đa, T.P. Hà Nội. Chùa Láng c̣n gọi là chùa Cả, tên chữ là Chiêu Thiền tự, do vua Lư Anh Tông là con của Lư Thần Tông xây dựng để thờ vua cha và tiền thân của người là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lễ hội chùa Láng được tổ chức vào ngày mồng 7 tháng 3 là ngày hóa và ngày sinh của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày: Ngày mồng 5 tháng 3 rước thánh đến chùa Nền để Thánh thăm lại nơi sinh; ngày mồng 6 rước kiệu đến chùa Tam Huyền ở làng Mọc để Thánh thăm cha; tối mồng 6 rước kiệu Thánh trong chùa Cả ra nhà Bát giác ở sân để Thánh xem lễ; sáng mồng 7 rước kiệu ra cửa Tam quan để chờ các làng như Nhược Công, Mọc nhập cuộc rước Thánh “Đấu thần” với sư Đại Điên ở chùa Duệ Tú; sau đó tới chùa Hoa Lăng ở Cầu Giấy để Thánh thăm mẹ, rồi hoàn cung.

 

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of American Scientist

Thư Viện Quốc Gia

Tự Điển Bách Khoa VN

Bảo Tàng Lịch Sử

QLVNCH

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Vatican?

RomanCatholic

Khoa HọcTV

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten