US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
THÁNG MƯỜI MỘT, CHỢT NHỚ
VÀI BÀI THƠ VỀ CHẾ ĐỘ DIỆM
Phùng Quân
Nhà chính trị Ngô Đ́nh Diệm đă chết gần nữa thế kỷ nhưng tương lai của con chiên Ngô Đ́nh Diệm th́ vẫn c̣n nhiều hứa hẹn. Thật vậy, thông qua những sinh hoạt chính trị và tôn giáo của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong và ngoài nước, cũng như những động thái tôn giáo và ngoại giao của Vatican, ta có thể thấy rằng:
Về mặt đạo, ông Diệm sẽ được nhào nặn vẽ vời để bôm lên thành một thánh tử đạo Công giáo Việt Nam như các “thánh” hợp tác với quân xâm lăng Pháp đă từng được Giáo hoàng Gioan Phaolồ II hối hả và ồ ạt, thâu ngắn mọi thủ tục, bất chấp sự thực lịch sử, bôm lên 117 con chiên Tây Ta chỉ trong một năm 1988. Nhớ lại những năm cuối của thập niên 1980’ của thế kỷ trước, hành động gấp rút nầy rơ rang là để cứu nguy và hà hơi tiếp sức cho Giáo hội Việt Nam, lúc đó, đang bị tơi tả trong nước và tan tác ngoài nước. C̣n trường hợp “thánh tử đạo” Diệm tương lai, là để tô son trét phấn cho cái tội gần 400 năm theo Tây phản quốc của lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Về mặt đời, ông Diệm sẽ được rửa mặt và đánh bóng để làm một biểu tượng chính trị hầu xây dựng lực lượng Công giáo và tập họp các lực lượng chính trị vệ tinh (loại “đối kháng” trong nước hay “liên tôn chống Cọng” ngoài nước) để bây giờ th́ t́m cách thanh toán thế lực đương quyền tại Hà Nội, và tương lai th́ lại thiết lập một chế độ “Diệm không Diệm” để Công giáo hóa nhân dân Việt Nam.
“Tương lai” hai vế đạo - đời đó phù hợp hoàn toàn với sách lược bành trướng đạo Công giáo tại Á châu đă được huấn thị trong Tông huấn “Giáo hội tại Á châu” (Ecclesia in Asia – John Paul 2, New Delhi, 1999). Đồng thời, h́nh ảnh tương lai đó cũng sẽ nuôi dưỡng và khích động được lực lượng giáo dân Việt Nam ở hải ngoại đang chao đảo trước t́nh trạng mục ră và thoái trào của Giáo hội Công giáo trên toàn thế giới mà cao điểm là đại biến cố hơn 5000 Linh mục sách nhiễu t́nh dục gần 10.000 nạn nhân ấu dâm trên 26 quốc gia kéo dài trên nữa thế kỹ !
1
Đó là ư đồ tôn giáo và thế cờ chính trị của Vatican mà ai tinh mắt một chút th́ đều biết.
V́ thế nên từ gần 10 năm nay, tại hải ngoại, ta thấy một phong trào “tâm lư chiến” mà các Linh mục th́ xảo ngôn về văn hóa (như “ông Trời” trong tín ngưỡng và phong tục Việt Nam vốn là h́nh ảnh … Chúa Trời trong Cựu Ước!; hay Nguyễn Du được gợi hứng từ Kinh Thánh để sáng tác Truyện Kiều, …); c̣n các con chiên loại Lâm Lễ Trinh, Nguyễn Văn Lục, Tú Gàn Lữ Giang, Cao Thế Dung, Tôn Thất Thiện, và đám lau nhau mới nổi như Chu Tất Tiến, Minh Vơ, Nguyễn Lư Tưởng, …th́ pha chế tài liệu, ngụy trang nhân chứng để xuyên tạc và viết lại lịch sử thời đệ nhất Cọng ḥa. Phong trào nầy, dĩ nhiên, chỉ huy động được các con chiên múa may ng̣i viết mà thôi, c̣n những thành phần khác của dân tộc th́ tuyệt đại đa số chẳng ai thèm tham dự vào cái màn phịa sử bất lương nầy cả.
Hai luận điệu của đám “sử gia” hoài Ngô nầy thường dùng là:
1- Phong trào Phật giáo chống Diệm là do Cộng sản lănh đạo, c̣n tướng lănh lật đổ Diệm là tay sai của CIA, cả hai phối hợp với nhau để giết ông Diệm v́ ông Diệm bào vệ quyền tự quyết chống lại Mỹ. Đây là một luận điệu vừa phi lịch sử vừa … ngu ! Ông Diệm đă được Mỹ “bồng” về, kinh viện quân viện đổ vào miền Nam như thác cho Diệm làm con cờ xây dựng tiền đồn chống Cọng (Đầu năm 1963, đă công khai có 16,000 Cố vấn Mỹ tại miền Nam Việt Nam). Đến lúc v́ độc tài thối nát nên bất lực không đóng nỗi vai tṛ con cờ nữa, lại phản chủ bắt tay với kẻ thù Cọng sản nên bị chủ dẹp đi, th́ đó là thân phận đương nhiên của kẻ, từ đầu, đă chịu nhận làm con cờ cho ngoại bang. “Tự quyết” chổ nào, càng nói càng thêm nhục !
Thật ra th́ Mỹ không dẹp cũng không được v́ nhân dân miền Nam chống Cọng, trong đó có Phật giáo, muốn như thế. Đó là tất cả cái dynamique của chính trị miền Nam trong 4 năm 1960, 1961, 1962 và 1963. Không có ḷng công phẩn cuồn cuộn của toàn quân toàn dân miền Nam, th́ chẳng CIA nào, chẳng Cọng sản nào, chẳng Phật giáo nào một ḿnh lật đổ được triều đ́nh Diệm-Nhu-Cẩn với 1 đảng Cần Lao sắt đá, 5 cơ quan công an mật vụ tàn bạo, 4 đoàn thể quần chúng, và 1 Giáo hội Công giáo thiên la địa vơng cả. Chỉ trong 8 năm cầm quyền (1955-1963) mà đă 7 lần bị phe cùng chiến tuyến chống đối 2 , nghĩa là hầu như năm nào cũng có chống đối, th́ đủ biết dù có Mỹ và Vatican sau lưng, Diệm đă chết trong ḷng quân dân miền Nam từ lâu rồi. Nói như nhà văn Doăn Quốc Sỹ: Mỹ chỉ đến để lượm cái xác của Diệm3 mà thôi.
… dù có Vatican và Mỹ sau lưng,
Diệm đă chết trong ḷng quân dân miền Nam từ lâu rồi
2- V́ lật đổ ông Diệm cho nên …..mất nước vào tay Cọng sản ! Làm như ông Diệm bị đổ năm 1963 th́ đến năm 1965 đă phải “tháng tư găy súng” rồi. Tương quan nhân-quả dĩ nhiên là có nhưng sự kiện lật đổ Diệm, sau 12 năm dài và phức tạp (1963 đến 1975), không phải là cái “nhân” chính yếu và duy nhất dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam vào năm 1975. Ta biết rằng đệ nhị Cọng ḥa kéo dài được những 12 năm thăng trầm, vậy th́ “mất nước” chủ yếu là tại v́ những yếu tố ǵ khác trong 12 năm dài đó chứ không thể giản lược quy về chỉ một nguyên nhân “lật đổ ông Diệm” từ hơn một thập kỷ trước như nhóm hoài Ngô gian xảo ngụy biện. Ngược lại là khác, nếu ông Diệm c̣n tại vị th́ miền Nam đă tiêu tùng ngay sau khi Ngô Đ́nh Nhu lén lút quân dân miền Nam (và đạp lên Hiến Pháp nhân vị chống Cọng 1956) để đi đêm với “đồng chí” Phạm Hùng từ năm 1963 rồi !
Nhưng khổ một nỗi là hai điều ngụy biện đó vẫn có người nghe v́ ở hải ngoại không phải ai cũng chịu khó nghiên cứu, biết cách t́m ṭi và xử lư tài liệu, và nhất là chịu suy nghĩ. Đă thế, tuyệt đại đa số các cơ sở truyền thông đều do Công giáo không chế, tạo thành một bệ phóng để tung hỏa mù lịch sử đầu độc người đọc. Ngoài ra, những cái gọi là “nghiên cứu lịch sử” nầy bao giờ cũng được bảo chứng bằng những con dấu “chống Cọng” to tổ bố và vài cái nón cối phât phơ trên đầu để uy hiếp những ai “dám” phản biện lại họ.
Tuy nhiên, nỗ lực bất lương chính trị và mạo hóa lịch sử đó của các con chiên Vatican dù có thuyết phục được một số người nào đó trong một khoảng thời gian nào đó, th́ cũng không thay đổi được lịch sử, và nhất là không thay đổi được bản án mà dân tộc đă dành cho chế độ Diệm. Nhân chứng lịch sử và vong linh những nạn nhân của chế độ Diệm, cả Quốc gia lẫn Cọng sản, c̣n nằm trên bàn thờ hương khói hầu như khắp miền Nam (cũ). Số lượng tài liệu cả bằng Việt ngữ và ngoại ngữ, trong cũng như ngoài nước, c̣n tràn đầy ra đấy…
Đặc biệt, có một mảng tài liệu mà người viết cho rằng có giá trị trung thực và lâu bền nhất, đó là thơ văn và phong dao truyền tụng trong dân chúng vào thời gian đó. Những tài liệu nầy th́ trung thực v́ mô tả sự kiện có thực ngay thời điểm vừa xảy ra, và lâu bền v́ được nhân dân chấp nhận có đăi lọc, rồi học thuộc ḷng mà truyền khẩu vượt thời gian từ thế hệ nầy sang thế hệ khác.
Người viết bài viết nầy đă gần 70 tuổi, hiện ở Mỹ, chỉ căn cứ trên trí nhớ của ḿnh và vài người bạn cùng trang lứa, cọng thêm cái tủ sách Việt ngữ của người con rễ, mà hôm nay cũng có thể ghi lại được một số bài thơ và câu vè “không bao giờ quên” về chế độ Diệm, để gửi đến Vatican với lời khuyên đừng “xía” vô chuyện của dân tộc Việt Nam nữa. Gần 400 năm đào tạo con chiên Việt Nam cúi đầu làm đạo quân thứ Năm cho giặc ngoại xâm chưa đủ sao ?
* * *
Văn hóa nào đă tạo nên con người chính trị Ngô Đ́nh Diệm.
Con người ông Diệm là tổng hợp của ba chiều kích văn hóa: Văn hóa phong kiến Tống nho, văn hóa Công giáo thời Trung cổ, và văn hóa Tây thuộc địa, trong đó ứng xử chính trị của “ông quan” Ngô Đ́nh Diệm là phần thể hiện rơ nét nhất ba thuộc tính nầy. V́ vậy mà khi nói đến chế độ Ngô Đ́nh Diệm th́ người Việt Nam gọi ngay bằng hai chử “Ngô Triều”.
Ông Diệm lớn lên và được đào tạo bởi những quan lại già nua lạc hậu không theo kịp với dân trí mỗi ngày một tiến bộ, và đa số những vị quan này là những nịnh thần tham nhũng, làm tay sai cho Pháp. Bài thơ của Cụ Nghè Ngô Đức Kế dưới đây đủ nói lên cái tư cách “cu li” của lớp quan lại áo măo xênh xang nầy:
Cu li đành phận chớ ra oai,
Chuyên chế ăn quen thói cũ hoài.
Quân chủ cờ bay vui trước mắt,
Dân quyền trống đánh chán bên tai.
Bài, Liêm giảo hiểm khoe tài trí
Huề, Thụ thông minh gọi bất tài.
Cấm hết công môn tiền hối lộ,
Ngoài ra Tiềm Để mặc ḷng ai. 4
“Bài, Liêm, Huề, Thụ” là tên bốn vị Thượng thư mà Bài là ông Nguyễn Hữu Bài, người đỡ đầu cho ông Diệm; và Huề là ông Thân Trọng Huề, ông ngoại của bà Ngô Đ́nh Nhu.
Trong cái môi trường “giảo hiểm”, “bất tài”, “công môn tiền hối lộ” đó mà anh em gịng họ Ngô Đ́nh lại thăng quan tiến chức vượt bực (Trong chế độ phẩm trật phong kiến phức tạp và nặng nề đó mà ông Diệm mới 33 tuổi đă làm Thượng thư đầu triều, tương đương với Thủ tướng) th́ hẵn phải nhờ một lư do đặc biệt nào đó. Lư do đặc biệt đó đă được giới quan trường đương thời thú vị làm thơ chế giễu “vây cánh Ngô Đ́nh” như sau:
LÀM QUAN NAM TRIỀU
Lênh đênh chiếc bách buổi ba đào,
Chèo lái xem chừng khó biết bao.
Tôi tớ mấy người dâng lễ hậu,
Quan thầy mấy kẻ nặng hầu bao.
Chật trong bể hoạn thêm ḿnh nữa,
Theo hết rừng “Hàn” biết kiếp nao.
Vây cánh Ngô Đ́nh ghê gớm thật,
Mềm lưng dẻo gối chóng lên cao. 5
“Vây cánh Ngô Đ́nh” chủ yếu gồm những ai? Gồm Ngô Đ́nh Khả, Nguyễn Hữu Bài, Thân Trọng Huề … mà con đường hoạn lộ là những bước làm tay sai đắc lực cho hai thế lực là Bộ máy Thực dân đô hộ Pháp và Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris (MEP: Société des Missions Etrangères de Paris).
Bản chất chế độ Diệm
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, đường Công Lư th́ đi một chiều, đường Tự Do th́ cấm xe xích lô, xe đạp, c̣n cổng chính của Ṭa án th́ bị đóng kín, thường dân phải đi cổng bên, nên thời đó có câu truyền tụng lúc đầu c̣n ở Sài G̣n nhưng sau lan ra khắp nước, rằng:
Công Lư một chiều
Tự Do hạn chế
Ṭa án đi cổng hậu
để mô tả nền độc tài và xă hội bất công của chế độ lúc đó 6, một chế độ tuy gọi là “Cọng ḥa” với tam quyền phân lập, nhưng thực tế là do một gia đ́nh phong kiến và cuồng tín thao túng mọi định chế và sinh hoạt của quốc gia. V́ thế mà từ đầu năm 1961, dân chúng miền Trung đă âm thầm viết thành bản án lịch sử để lại cho hậu thế đời đời qua hai câu ca dao truyền miệng về bốn nhân vật trụ cột của gia đ́nh đó:
Nhà Ngô có bốn gian hùng
Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục điên
Bản chất của chế độ và chân tướng của cấp lănh đạo lại càng hiện rơ hơn vào tháng 2 năm 1962 trong và sau khi dinh Độc Lập của anh em Ngô Đ́nh Diệm bị 2 phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử oanh tạc. Ông Nguyễn Đôn Dư, bút hiệu Quỳ Ưu, ở Thừa Thiên đă ví sự kiện nầy như t́nh trạng “cháy nhà ra mặt chuột” và đă bí mật phổ biến bài thơ sau đây trong ṿng bạn bè:
CHÁY NHÀ RA MẶT CHUỘT
Đục khoét xưa rày núp ở đâu?
Cháy nhà thấy chuột chạy lao nhao
Dương oai bà Hỏa vừa lên mái
Khiếp vía ông Thiên vội ló đầu
Rường cột ră rời phơi mặt địa
Cống chù quay quắt chổng hàm râu
Tai bay vạ gió đà ra rứa
Chĩnh nếp ḍm vô đă sạch làu 7 .
Rồi đến mùa Hè năm 1963, sau 9 năm kềm kẹp nhân dân miền Nam và đẩy đại bộ phận quần chúng vào ṿng tay “Mặt trận Giải phóng”, đồng thời làm tiêu hao sinh lực quốc gia, gia đ́nh Ngô Đ́nh phóng tay đàn áp Phật giáo và định dứt điểm tôn giáo nầy, ít nhất là trên nước Việt Nam, với kế hoạch Nước Lũ đêm 20 tháng 8. Ngày 22 tháng 8, với tư cách là Ngoại trưởng của chính phủ Diệm, ông Vũ Văn Mẫu cạo trọc đầu và sau đó từ chức Ngoại trưởng để phản đối nhà Ngô.
“Cảm phục khí phách và phong độ kẻ sĩ Vũ Văn Mẫu, ông Hoàng Đại Sâm (tức thi sĩ Hoàng Hoa Trang), một nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao, bèn nhờ bạn là ông Vơ Khắc Văn viết cho mấy chữ Hán để khắc vào bức hoành phi tặng cho vị chỉ huy khả kính của ḿnh. Ông Văn bèn viết bốn chữ: “Ngoại Vật Hoàn Giao”, vừa có chữ của nhà Phật, vừa có chữ “ngoại giao”, vừa nói lên được ư nghĩa thâm thúy của một hành động đầy triết lư sâu sắc.
Sau khi viết cho bạn bốn chữ để tặng vị Bộ trưởng v́ chính nghĩa mà “cạo đầu từ quan”, Vơ Khắc Văn cảm xúc trước một biến cố vừa đau thương vừa chua chát bèn làm một bài thơ, ghi lại một sự kiện lịch sử có tính cách “Giai thoại Làng Nho” hầu lên án Ngô triều để làm gương cho hậu thế. Bài thơ này may mắn được một bạn thân của ông Vơ Khắc Văn hiện ở Hải ngoại c̣n nhớ, viết lại rồi gởi cho tôi để hiện diện trọng tập hồi kư này:
TRANH THỜI SỰ 1963
Chín năm bốn bận tráo quân bài,
Lừa lọc toàn tay dễ khiến sai,
Hót Cụ: Thuần Lương mồm bép xép,
Ôm Bà: Hiếu Nghĩa miệng lai rai,
Vỹ đem hiến Cố màu xanh trẻ,
Khương ước dâng Cha áo đỏ dài,
Riêng Mẫu cạo đầu, Tâm bị bắt,
Hỏi hàng khanh tướng đến phiên ai?
Bài thơ nhằm mô tả và đánh giá bản chất của chế độ qua những nhân sự tay sai mà trong chín năm cầm quyền, nào là cụ Diệm, nào là bà Nhu, nào là Cố vấn Nhu, nào là cha Thục, dù có muốn tráo trở quân bài th́ cũng chỉ dùng toàn những tay “dễ khiến sai” như các Bộ trưởng Nguyễn Đ́nh Thuần, Bùi Văn Lương, Ngô Trọng Hiếu, Huỳnh Hữu Nghĩa. Cũng bị liệt vào “hạng lừa lọc” là Cao Xuân Vỹ, Tổng Giám đốc Thanh niên Cộng ḥa áo xanh, và Nguyễn Xuân Khương, Đại biểu Chính phủ Trung Việt đă quyết liệt đàn áp Phật giáo để Cha Thục được mặc áo Hồng Y màu đỏ. Trong hàng khanh tướng sạch dơ lẫn lộn đó chỉ c̣n ôngVũ Văn Mẫu là khí tiết từ chức và Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, Khoa trưởng Đại học Y khoa Sài G̣n, công phẫn chống đối nên bị Mật vụ nhà Ngô bắt.” 8
Tội ác của chế độ công an trị Ngô Đ́nh Diệm
Nói đến chế độ Ngô Đ́nh Diệm là nói đến chế độ gia đ́nh trị, chế độ Công giáo trị. Và dĩ nhiên, Công an trị. Ở ngoài Trung, Ngô Đ́nh Cẩn có cho tân trang chín cái hầm chứa vũ khí của quân đội Nhật dưới đất ở ngoại ô thành phố Huế để nhốt tù chính trị, nhốt Phật tử và những kẻ mà Cẩn định làm tiền. Ái Huyên, một nữ sinh trường Đồng Khánh ở Huế, nạn nhân của Cẩn, trong khi bị giam ở Chín Hầm đă sáng tác bài thơ:
Trước phong cảnh hữu t́nh ai có biết,
Rằng nơi đây địa ngục trần gian,
Nơi chứa chấp một chế độ bạo tàn,
Và cạnh đấy là cung vàng điện ngọc.
Du khách hỡi! Dừng lại đây nghe tiếng khóc,
Của oan hồn tử sĩ chết đau thương,
Những nấm mồ vô chủ suốt đêm trường,
Như quằn quại theo từng cơn gió buốt!
Trên nệm ấm kẻ bạo tàn đâu có biết,
Bao thân người chui rúc dưới tanh hôi,
Và nghe hồn khóc kể măi không thôi! 9
Nhà Biệt giam P42 của Ngô Đ́nh Nhu gần Sở thú ở Sài G̣n và Di tích Hầm số 2 (nơi giam tù chính trị đối lập) trong hệ thống Chín Hầm của Ngô Đ́nh Cẩn tại Huế
Nhà ngục Chín Hầm đó của Ngô Đ́nh Cẩn ghê rợn đến nỗi trong bài thơ Vịnh Chuồng Cọp, một ẩn sĩ ở Huế đă tặng cho ông Cẩn một hỗn danh để lưu truyền lại cho hậu thế:
Một kiếp tàn hung Hùm Xám đó,
Muôn dân ghê rợn ác ôn này! 10
Trong khi đó th́ tại Sài G̣n, gần sở thú đô thành, Ngô Đ́nh Nhu cho xây trại giam P-42 để tra khảo những thành phần quốc gia đối lập với chế độ. Một trong những người đó là cụ Trần Văn Hương, một trí thức “uy vũ bất năng khuất” của miền Nam, và sau nầy là Tổng thống một tuần (từ 21 đến 28-4-1975), đă từng cùng với 17 nhân sĩ khác kư bản Tuyên bố “Caravelle” để phản đối chế độ Diệm..
Ngồi trong tù, mỗi lần hồi phục được một chút tàn lực sau những lần thẩm vấn và tra tấn, cụ Hương thường làm thơ để giết th́ giờ.
NGỒI TÙ MỘT LŨ
Này anh, này cụ, này là chú,
Lóc cóc vào đây ngồi một lũ,
Những tưởng buồn như chó mất nhà,
Nào ngờ vui quá bàn xôm tụ,
Thân này dẫu vướng chốn lao lung,
Nỗi ấy vẫn ghi trong phế phủ,
Xuống chó lên voi lắm chuyện đời,
Xưa nay diễn biết bao nhiệm vụ. 11
Và hăy nghe cụ Hương tả cảnh nhà ngục P.42 để thấy chế độ Diệm đă đày đọa người quốc gia như thế nào:
P.42 – SỞ THÚ
Danh đồn khét tiếng đă từng nghe,
P.42 đúng thiệt nè!
Điện tụ, b́nh quay kêu ới ới,
Xà bông nước đổ, nuốt the the,
Tra đi tra lại kinh chưa hả?
Khai tới khai lui mệt quá hè.
Cụ, Cố, Cậu trù, Ma trổ ngón,
Thân tù dưới búa lại trên đe. 12
(Ghi chú: Cụ là ông Diệm, Cố là ông Nhu, Cậu là ông Cẩn, trù là trù yểm, Ma trổ ngón là bọn mật vụ Cần Lao trổ tài tra tấn)
Bài hịch hài tội chế độ
Năm 1960, khi binh chủng Nhăy Dù tiến hành cuộc binh biến tại Sài G̣n để định lật đổ chế độ Diệm th́ trong hàng ngũ của họ có sự tham gia của một số đảng viên của các đảng phái quốc gia yêu nước, nhất là các đảng có gốc gác tại miền Trung..
“Tại Quảng Nam, Một cán bộ cấp cao của Việt Quốc là ông Duy Nghĩa đă làm sẵn bài Hịch để khi cướp được Chính quyền th́ sẽ tung ra kêu gọi toàn dân đứng lên cứu nước, nhưng chẳng may cuộc đảo chánh bất thành, bài Hịch bị chôn vùi trong bóng tối của bí mật cho măi đến sau ngày 1-11-1963, bài Hịch mới được phổ biến. Tôi được một đồng chí của ông Duy Nghĩa là ông Lê Nguyên Long (hiện sống tại tỉnh Fresno, Hoa Kỳ) trao lại cho một bản sao của bài hịch này, xin ghi lại đây như một sử liệu để lưu truyền:
Hăy đứng lên, đứng lên như vũ băo,
Răng nghiến răng, tay nắm chặt, vung tràn,
Mắt long lên, hùng khí ngập không gian,
Cho điếng lạnh thứ tham tàn Cẩn, Diệm.
Vạn cánh tay giờ đây cùng tuốt kiếm,
Để ḷe lên Chính nghĩa của non sông,
Để ḷe lên t́nh đoàn kết nhiệt nồng,
Muôn màu sắc quốc gia non nước Việt.
Hỡi những ai, những con người khí tiết,
Đang trong tù hay đau khổ trùm chăn,
Hay khuất thân sống tạm bợ nhục nhằn,
Hăy đứng dậy giờ vinh quang lâm trận!
Như thác đổ, mưa nguồn, chớp sấm,
Như đảo điên một vũ trụ hôm nay,
Hớp men nồng cách mạng máu cuồng say:
Xưa “Sát đát” ngày nay ta “Sát địch”.
Hỡi muôn tim lặng nghe lời truyền hịch:
Nước diệt vong v́ Cộng Sản bạo tàn,
Nước nguy vong v́ lũ Diệm tham gian,
Gây nghiêng ngửa cơ đồ tuy nửa mảnh.
Muôn tim, muôn tim cùng nhau sát cánh,
Đạp phăng phăng chướng ngại lũ sài lang,
Để cùng nhau trong cách mạng huy hoàng,
Cùng xây dựng một chánh quyền “V́ Dân tộc”,
Một “Chính quyền Công bộc”
Với “Tự do, Dân chủ” được nêu cao. ” 13
Nhiệm ư Thiên Chúa
Ông Diệm và những người đồng đạo của ông tin rằng mọi sự trên đời đều do Chúa định đoạt. Nhưng khi gặp những sự kiện cực kỳ vô lư không thể giải thích được (như v́ sao Chúa ḷng lành mà lại tạo ra dịch hạch giết hàng vạn người, hoặc tại sao Giáo hoàng có Chúa Thánh Thần che chở mà vẫn phải di hành bằng xe Pop Moble bọc thép chống đạn, …) th́ họ cho rằng đó là Ư muốn mầu nhiệm của Thiên Chúa, loài người kh6ng thể hiểu được. V́ vậy mà cuối những bài diễn văn chính thức gửi quốc dân đồng bào, bất chấp 93% dân chúng không tin vào Chúa, ông Diệm vẫn luôn luôn kết thúc bằng câu “Xin Thượng Đế ban phước lành cho chúng ta”. Nhưng mặc bao nhiêu cầu xin của chính ông và đồng đạo, cuối cùng ông vẫn chết thê thảm đúng luật Nhân-Quả. Biết sẽ chết như thế là “Nhiệm ư của Thiên Chúa” nhưng trước đó ông vẫn căi lời Chúa của ông với lời trối trăn cho tàn dư của ông rằng “nếu tôi chết th́ trả thù cho tôi”.
Một “nhiệm ư Thiên Chúa” khác là sau ngày cách mạng 1-11-1963, một trong các biểu tượng của chế độ là tượng Hai Bà Trưng ở bến Bạch Đằng tại Sài G̣n đă bị sinh viên và dân chúng kép đổ sập. Đây là bức tượng tạc Hai Bà nhưng từ khuôn mặt cho đến vóc dáng th́ lại giống như Bà Nhu và con gái Ngô Đ́nh Lệ Thủy. Bà Nhu là Đệ Nhất Phu nhân, là Thủ lănh Lực lượng Phụ nữ Bán Quân sự, là Chủ tịch Phong trào Phụ nữ Liên đới, và nhất là vợ ông Cố vấn thét ra lữa trong dinh Độc Lập… nên bà nghĩ bà và con gái nếu không hơn th́ cũng bằng hai bà Trưng Trắc Trưng Nhị khởi nghĩa chống quân Hán và dẹp yên 65 thành ở đất Lĩnh Nam, nên bà đáng được dựng tượng cho nhân dân miền Nam tôn thờ..
Tượng “Hai Bà Trưng” tạc theo khuôn mặt và vóc dáng hai mẹ con Bà Nhu nên bị sinh viên kéo sập và phần cái đầu bị dân chúng chở đi bêu xấu trên đường phố Sài G̣n
Trước hành động kiêu căng vô văn hóa đó của bà Nhu, nhà thơ Đông Hồ đă có bài thơ “Tượng Ai Đâu Phải Tượng Bà Trưng” 14 như sau:
Tượng ai đâu phải tượng bà Trưng
Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả,
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngă nặng
Có ngày găy cổ đứt ngang lưng.
Đây một h́nh xưa nhục nước non
Thay hai h́nh mới đứng thon von
Ḿnh ni lông xát lưng eo thắt
Ngực xú chiêng nâng vú nở tṛn.
Tưởng đứng hiên ngang em với chị
Hóa ra d́u dắt mẹ cùng con
Ḍng sông Bến Nghé, ḍng sông Hát
Lưu xú lưu phương tiếng để c̣n.
Ngoài ra, khi nh́n gia đ́nh họ Ngô tán gia bại sản để tiếng xấu muôn đời (không biết có do ư Chúa không), nhà văn lăo thành Lăng Nhân Phùng Tất Đắc đă ví von anh em ông Diệm, từ em ruột đến em dâu, như giặc “Hoàng Sào”, một đám giặc cỏ ở tỉnh Sơn Đông cuối đời nhà Đường bên Tàu.:
NGÔ TRÀO
Trải qua một cuộc bể dâu,
Trông vời cố quận biết đâu là nhà?
Khéo oan gia, của phá gia,
Này là em ruột này là em dâu!
Cửa nhà dù tính về sau,
Ngh́n năm ai có khen đâu Hoàng Sào! 15
V́ là một loại Hoàng Sào nên dù ông Diệm không chết trong ngày chế độ ông bị lật đổ th́ ông cũng đă chết trong ḷng dân tộc từ lâu rồi. Cái chết của ông Diệm là một sự sụp đổ thê thảm của danh phận phẩm giá. Thê thảm đến độ học giả Lăng Nhân Phùng Tất Đắc và nhân sĩ Hoàng Trọng Thược đă phải ghi vào sách sử lời lên án năm anh em nhà Ngô bằng những câu thơ “ngh́n năm bia miệng” để lại muôn đời 16
Vùi nông đôi nấm giữa đêm sâu,
Mười thước sau chùa đủ bể dâu.
Ba cỗ quan tài bốn lỗ huyệt,
Năm thằng Trời đánh một con Mầu.
Mới vừa Hăm Sáu c̣n nguyên thủ,
Mà đến Mồng Hai đă vỡ đầu.
Bảy Tám thu trường Ngô với Đĩ,
Ngô th́ chín rụng Đĩ chơi đâu?
[Ghi chú : “Năm thằng” là các ông Thục, Diệm, Nhu, Cẩn, và Luyện. Và “con Mầu” là Trần thị Lệ Xuân, tức bà Nhu]
* * *
Chép và đọc lại mấy bài thơ trên để thấy một khi dân tộc đă lên tiếng, rằng :
Nhà Ngô có bốn gian hùng
Diệm ngu, Nhu ác, Cẩn khùng, Thục điên
Và:
Nước nguy vong v́ lũ Diệm tham gian,
Gây nghiêng ngửa cơ đồ tuy nửa mảnh.
th́ nỗ lực của đám tàn dư hoài-Ngô tại hải ngoại, càng theo lệnh Vatican đánh tráo lịch sử th́ càng làm rơ thêm căn tính nô lệ phi dân tộc của họ mà thôi. Thật tội nghiệp !
Phùng Quân
Long Beach, cuối tháng 10/2010
Người Việt đáng yêu (Doăn Quốc Sỹ), Chơi Chữ ( Phùng Tất Đắc); Cười, Nguyên Nhân và Thực Chất (Bs. Dương Tấn Tươi)
Biến cố 11-11-60 (Trần Tương)và Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi ( Hoành Linh Đỗ Mậu
CƯỚC CHÚ :
[1] http://en.wikipedia.org/wiki/Roman_Catholic_sex_abuse_cases_by_country
2 7 lần: (i) Vụ mưu sát ông Diệm của tín đồ Cao Đài Hà Minh Trí tại Ban Mê Thuột, (ii) Vụ nỗi loạn có vơ trang của Quốc Dân đảng tại chiến khu Ba Ḷng, (iii) Vụ 18 nhân sĩ và cựu cọng tác viên ra tuyên ngôn tại khách sạn Caravelle tố cáo và đ̣i cải cách chế độ, (iv) Vụ binh chủng Nhảy Dù và đảng phái chính trị làm binh biến, (v) Vụ hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom dinh Độc Lập, (vi) Vụ Phật giáo đấu tranh đ̣i b́nh đẳng tôn giáo và công bằng xă hội, và cuối cùng (vii) Cách mạng của quân đội vào tháng 11 năm 1963.
3 Doăn Quốc Sỹ , Người Việt đáng yêu, Sáng Tạo, Sài G̣n, 1965
4 Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, Sài G̣n 1973, tr. 317.
5 Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, Sài G̣n 1973, tr. 273.
6 Tôn Nữ K.C., Bây Giờ Tháng Mấy, bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại (số 23 ngày 1-5 1978), tr. 43.
7 Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 272.
8 Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, Văn Nghệ, 1993, Chương 15, trang 511
9 Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 275.
10 Hoàng Trọng Thược, Tinh Thần Trào Phúng trong Thi Ca Xứ Huế, tr. 274
11Trần Tương, Biến cố 11-11-60, tr. 82. Sài G̣n: Đức Phổ, 1971
12 Trần Tương, Biến cố 11-11-60, tr. 58. Sài G̣n: Đức Phổ, 1971.
13 Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, Văn Nghệ, 1993, Chương 11, trang 344
14 Nguyễn Hiến Lê , Tạp chí Bút Hoa ngày 1-4-1964. Trích lại từ Đời Viết Văn Của Tôi” (trang 200, 201).
15 Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, Chơi Chữ, tr.73, Texas: Zielekz, 1979.
16 Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, Chơi Chữ, tr.186, Texas: Zielekz, 1979. Và Dương Tấn Tươi, Cười - Nguyên Nhân và ThựcChất, Sài G̣n: Phạm Quang Khai 1986, tr.170.
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures