LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU
THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU
THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ
KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA
NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email:
kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
Ngày 4 tháng 6
năm 1911. khi xuống tàu Amiral Latouche-Tréville tại bến Nhà Rồng
Saigon để làm nghề phụ bếp, cậu thanh niên 21 tuổi tên Nguyễn Tất
Thành, lấy tên trên tàu là Nguyễn Văn Ba muốn sang Pháp để t́m kế
sinh nhai chớ chẳng phải đi t́m đường cứu nước như bọn công Sản Đệ
Tam quốc tế và Cộng sản VN bịa đặt dựng lên h́nh tượng để tôn thờ.
Không phải chỉ có Nguyễn Tất Thành mới đi tha phương cầu thực, mà
trước đó, người cha của ông là phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, sau khi bị
cách chức tri huyện B́nh Khê (Qui Nhơn) v́ tội giết người khi say
rượu cũng đă lưu lạc vào Nam hành nghề bốc thuốc, được ông cử Hoành
(cha của Lê Quang Uyển, thống đốc Ngân hàng thời VNCH) cưu mang cho
đến khi mất năm 1929 ở vùng Cao Lănh (mộ của Nguyễn Sinh Sắc sau nầy
được CS trùng tu vĩ đại ở tỉnh Đồng Tháp).
Ngày 15 tháng 9
năm 1911, sau khi vừa đến nước Pháp, cậu Nguyễn Tất Thành đă gởi thơ
cho Tổng Thống Pháp và Tổng Trưởng Bộ thuộc địa để xin vào học
Trường Thuộc địa (École Coloniale) nhưng Pháp từ chối v́ Thành chưa
học hết bậc Tiểu học và muốn vào học trường nầy phải được Toàn quyền
tuyển chọn tại Đông Dương. Ngoài bức thư xin nhập học với lời lẽ như
: «Tôi muốn trở thành người có ích cho nước Pháp…», Nguyễn Tất Thành
c̣n gởi sau đó một bức thư cho Khâm sứ Pháp tại Huế nhờ chuyển 15
đồng bạc Đông Dương cho cha với « giọng điệu hạ ḿnh đối với người
Pháp» (Sophie Quinn-Judge, dịch giả Diên Vỹ & Hoài An, tr. 39) và
nhờ người anh tên là Nguyễn Sinh Khâm đang làm việc vặt ở Ṭa khâm
sứ nhờ xin một lần nữa với Khâm sứ.
Từ 1912 đến
1914, Nguyễn Văn Ba phiêu lưu trên những chuyến tàu viễn duyên với
nghề phụ bếp và khuân vác trên tàu, khi th́ dừng chân ở New York
(1912) đi ở mướn, khi đến Boston làm bánh ngọt cho khách sạn Parker
House.Từ 1914 đến 1919, trở lại tên Nguyễn Tất Thành, ông sống ở
Luân Đôn, ban ngày làm phu hốt tuyết, ban đêm làm phụ bếp ở khách
sạn Carlton. Khi trở lại Paris tháng 6 năm năm 1919, Nguyễn Tất
Thành làm quen với các nhà tranh đấu nhân quyền là Phan Châu Trinh,
Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền trong nhóm Người Annam yêu nước
(Association des Patriotes annamites). Thành được nhóm Yêu nước giao
nhiệm vụ đến Versailles để trao Bản th́nh nguyện của dân tộc Annam
(Revendications du peuple annamite). Lợi dụng dịp nầy, Nguyễn tất
Thành lấy tên của nhóm đổi tên của ḿnh là Nguyễn Ái Quốc và từ đó
cái tên nầy đă được sử dụng suốt 30 năm. Sau khi có Nguyễn An Ninh
và Nguyễn Tất Thành gia nhập, nhóm người Annam yêu nước đổi tên là
nhóm Ngũ Long th́ Phan Chu Trinh là người lănh đạo tinh thần, Phan
Văn Trường là người lănh đạo đích thực, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn
An Ninh viết bài, Nguyễn Tất Thành cổ động bán báo, in truyền đơn.
LS, Nguyễn Văn
Chức kể lại lời nói của ông Nguyễn Thế Truyền : Năm 1960, cụ Nguyễn
Thế Truyền ra tranh cử tổng thống tại miền Nam Việt Nam. Tôi có đi
theo anh em báo chí đến nghe Cụ nói chuyện.
Khi đuợc hỏi
về những tài liệu viết bằng tiếng Pháp tại Paris kư tên Nguyễn Ái
Quốc, nhất là bản Mémorandum gửi Hội Nghị Hoà B́nh Versailles 1919,
cụ Truyền nói : Nguyễn Tất Thành chưa học hết tiểu học Pháp. Lúc đó
ở Paris, nhóm chúng tôi mướn anh ta đi phân phát những tài liệu đấu
tranh bằng tiếng Pháp do chúng tôi viết. Anh ta đă nhận xằng ḿnh là
Nguyễn Le Patriot và nhận xằng ḿnh là tác giả những tài liệu
đó.(HCM, CXXXII).
Năm 1948, lợi
dụng khi Nguyễn Thế Truyền bị đày ra Côn Đảo và các thành viên khác
của nhóm đă chết, Nguyễn Ái Quốc đă gom tất cả các bài viết của nhóm
để in thành «Hồ Chí Minh toàn tập» xem như tất cả bài viết của nhóm
là bài viết của ḿnh và 12 «toàn tập» nầy tái bản nhiều lần được xem
như những tác phẩm vĩ đại mả sinh viên học sinh VN bao thế hệ phải
đọc và học. Gian manh, lừa bịp, ăn cắp là bản chất của Hồ Chí Minh
và đồng bọn..
Chính với cái
bản chất gian dối nầy mà Hồ chí Minh là nhân vật duy nhất trên thế
giới có đến 5 năm sinh khác nhau và 180 tên và biệt hiệu. Trang mạng
Báo Điện Tử Đại Biểu Nhân Dân, trong bài «Tên gọi HCM có tự bao giờ
» đă tự hào viết : «HCM đă dùng trên 180 bút danh, bí danh và mật
danh khác nhau. Bí danh HCM xuất hiện từ năm 1940 dần trở thành
chính danh luôn đi liền với tên nước VNDCCH » Trong số các bí danh
trên, HCM đă sử dụng tên Trần Dân Tiên để viết tự truyện đánh bóng
ḿnh (Những chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch) và dùng tên T.
Lan (là Thái Lan, bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai) để viết Vừa đi
vừa kể chuyện. Hai quyển sách nầy được xem như hai quyển thánh kinh,
mà các nhà viết sử trong nước và ngoài nước thường dùng để viết về
HCM.
Tiến sĩ Sophie
Quinn-Judge trong Ho Chi Minh ; the missing years 1919- 1949 đă nhận
định là những tự truyện nầy gian trá, bịa đặt « tập hợp những khắc
họa mờ ảo với những ngày tháng lộn xộn, thiếu hụt thông tin, xây
dựng những huyền thoại về HCM chứ không phải là cuốn sách có giá trị
lịch sử » (bản dịch, tr.20). Từ nhận định của học giả Sophie
Quinn-Judge, chúng tôi nghĩ rằng người đọc các quyển tài liệu về HCM
và đảng Cộng Sản VN viết bởi đa số các nhà nghiên cứu Tây Phương
phải thật dè dặt v́ những người nầy thường dựa vào tài liệu cấp hai
cung cấp bởi tài liệu CS hay thiếu trung thực v́ thiên Cộng hay ngây
thơ trước những huyễn hoặc tài t́nh của CS. Chúng tôi cần nêu tên
vài tác giả thuộc loại nầy : Jean Lacouture, Bernard Fall, Pierre
Brocheux, Daniel Hémery, William J.Duiker…
Từ khi gia nhập
đảng Cộng Sản Pháp năm 1920 cho đến tháng 3 năm 1946 trở thành Chủ
tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, cuộc đời Hồ Chí Minh chỉ là
những năm tháng học tập, cải tạo tư tưởng dưới sự chỉ đạo của Đệ Tam
Quốc Tế Cộng Sản Liên Sô và Trung Quốc. Với sự nhuộm đỏ chủ nghĩa
Mát-Lê, Hồ Chí Minh đă đem về VN áp dụng những bài học sắt máu bạo
tàn đă được nhồi nhét qua 25 năm trong các trung tâm huấn luyện. Bởi
lẽ Staline là thần tượng của HCM mà Staline là người vô cùng tàn
ác, đặc biệt rất thù ghét cha mẹ, do đó không lạ ǵ khi cầm quyền,
HCM và đồng bọn đă tàn sát hơn 200 000 người trong cuôc cải cách
ruộng đất (theo Nguyễn Văn Canh. Nông dân Bắc Việt những năm
1945-1970 ; tr.202), tàn phá hệ thống đạo lư gia đ́nh, triệt tiêu
trí thức và gây ra cuộc chiến Nam – Bắc giết hại hàng triệu người.
Giải thích v́
sao cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Văn Ba khi
xuống tàu sang Pháp để t́m kế sinh nhai rồi lại theo Cộng Sản và khi
cầm quyền thích được xưng tụng là «Bác Hồ», bà Thụy Khuê đă viết : «
Phần lớn những người tham gia chống Pháp, từ Nho học đến Tây học,
đều học giỏi, nổi tiếng, nhưng đă gạt bỏ văn bằng sang một bên để
dấn thân. HCM là một trường hợp đặc biệt, dù con quan nhưng sớm bỏ
học, tŕnh độ quốc ngữ kém, tiếng Pháp sơ sài, ông đă sống cực khổ,
làm bồi bếp suốt quăng đời thanh niên từ 1911 đến 1919 trước khi tới
Pháp. Tại Pháp cũng chỉ có 2 năm ở nhà Phan Văn Trường là khá, sau
này khi ra Compoint, một khu nghèo thợ thuyền sống rất cơ cực, có
mặc cảm sâu xa đối với bạn đồng hành, trí thức. Đó là lư do khiến
Nguyễn Tất Thành theo CS, mặc dù ông chưa biết lư thuyết CS như thế
nào. Sau nầy, khi lên cầm quyền, việc đầu tiên ông bắt mọi người
phải kính nể gọi ông bằng bác. Đối với trí thức, ông dành cho họ mọi
sự nhục nhằn mà ông đă gánh chịu trong suốt cuộc đời thanh niên »
(Thụy Khuê. Nhân văn giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, tr.501).
Mặc dù được CS
lừa bịp tôn vinh là cha già dân tộc, không vợ không con để làm cách
mạng, nhưng thực tế Hồ Chí Minh là người vô đạo đức. Hồ Chí Minh
sống chung ít nhất với 7 người đàn bà, không kể những thiếu nữ hộ
lư. Khi ở Paris, lúc Nguyễn Tất Thành làm nghề rửa ảnh, ông sống với
một đảng viên đảng CS Pháp tên là Marie Brière (1921) ; lúc ở Quảng
Châu với tên Lư Thụy, ông kết hôn với Tăng Tuyết Minh (1926) ; lúc ở
Hongkong và Moscou (1930-33), ông sống với Nguyễn thị Minh Khai (sau
đó, năm 1935, Minh Khai kết hôn chính thức với Lê Hồng Phong). Ngoài
ra lúc ở Moscou, ông cũng có liên hệ t́nh cảm với Vera Vasilieva,
cán bộ Nga đặc trách tổ chức Cộng Sản Quốc Tế. Cuối năm 1940, Nguyễn
Tất Thành đổi tên là Hồ Chí Minh về nước lần đầu tiên (1941) đóng ở
Pắc Pó (Cao Bằng), ông sống với 2 nữ cán bộ trẻ là Đỗ thị Lạc, có
một đứa con gái, và Nùng thị Ngác (sau ông cho đổi tên là Nùng thị
Trưng, cử làm chánh án Ṭa án Nhân dân tỉnh Cao Bằng). Theo nhiều
nguồn tin, Nông Đức Mạnh là con của HCM với bà Ngác. Năm 1955 khi
về Hanội, ông sống chung với Nông Thị Xuân có một con trai là
Nguyễn Tất Trung, rồi âm mưu với Bộ Trưởng Công An Trần Quốc Hoàn
giết Nông thị Xuân v́ bà Xuân đ̣i có đám cưới.
Blogger Huỳnh
Tâm đă viềt về đời sống t́nh dục của ông như sau : «…Ông là người
say mê mỹ nữ. Mỗi lần si t́nh một mỹ nữ, ông sáng tạo một bút hiệu
và danh sách bút hiệu cứ thế tăng dần. Danh sách nầy là để giúp ông
tưởng nhớ lại mỗi hương vị ân ái động đào ( Bên trong xác ướp HCM.
Anle20’s blog). Th́ ra, số tên và bút hiệu của ông lên đến con số
180 không phải chỉ liên quan đến hoạt động chính trị mà c̣n liên
quan đến đời sống t́nh dục của ông.
Chính v́ đời
sống t́nh dục và những cuộc t́nh của ông có nhiều «vấn đề» khiến ông
trở nên yếu hèn trước các đồng chí, nhất là với Lê Duẩn, làm ngơ cho
các đồng chí lộng hành.
Theo Bill
Hayton, phóng viên BBC ở VN, tác giả quyển Viet Nam : Rising
Dragon th́ : quyền lực thực sự nằm trong tay Lê Duẩn, Tổng bí thư
đảng Cộng sản, một người theo chủ nghĩa Staline thật tàn bạo Lê
Duẩn đă dùng lực lượng an ninh để kiểm soát hoạt động của các nhà
lănh đạo khác và thi hành chiến lược chiến tranh toàn diện chống lại
Việt Nam Cộng ḥa ở miền Nam Việt Nam.Thắng lợi vào năm 1975 đă đưa
ông Lê Duẩn nắm quyền nhưng với những hậu quả khủng khiếp. Trả thù
và quản lư kinh tế yếu kém đă khiến đất nước bị cô lập và nghèo khó.
Cái chết của ông vào năm 1986 đă mở đường cho một nước Việt Nam mở
cửa. (BBC ngày 29/8/2013).
Chú Ba Tàu Hồ
Tập Chương
Những tưởng
«bác» được yên thân trong cái quan tài pha lê chờ ngày tan rữa, nào
ngờ năm 2008, Hồ Tuấn Hùng, Giáo sư Đại học Đài Loan, trong quyển
sách của ông tựa là Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo đă công bố những tin
tức «động trời ».Theo ông Hùng, Nguyễn Ái Quốc đă chết năm 1932 ở
Liên Sô v́ bịnh lao phổi và cái xác nằm trong lăng Ba Đ́nh là của
một người Trung Quốc tên Hồ Tập Chương. Ông giải thích là sau khi
Nguyễn Ái Quốc chết, bà Vera Vasilieva người phụ trách bộ phận Việt
Nam Quốc tế Cộng Sản đă đặt kế hoạch 5 năm cho Hồ Tập Chương, một
người Tàu đến từ Đài Loan học tập cải tạo để biến thành Nguyễn Ái
Quốc thay thế Quốc tiếp tục công cuộc xây dựng đảng Cộng Sản Việt
Nam và cầm quyền cho đến khi chết. Trong 342 trang sách, Hồ Tuấn
Hùng đă chứng minh bằng nhiều dữ kiện để phân biệt hai giai đoạn của
cuộc đời Hồ Chí Minh :
1- Hồ Chí
Minh thời kỳ 1890-1932 là Nguyễn Ái Quốc người Việt Nam
2- Hồ Chí
Minh thời kỳ 1933-1969 là Hồ Tập Chương người Đài Loan.
Nói cách khác,
Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh gồm 2 người nhân thân khác nhau :
nửa đời trước là lănh tụ cộng sản Việt Nam tên Nguyễn Ái Quốc, nửa
đời sau là nhân sĩ Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan.
Ngoài tập tài
liệu của Hồ tuấn Hùng, một bài viết khá dài kư tên Huỳnh Tâm phổ
biến trên Internet (Anle20’s blog) tŕnh bày một cách chi tiết những
ngày cuối cùng của Hồ Chí Minh để hỗ trợ cho luận cứ HCM là một
người Trung Quốc..
Theo Huỳnh Tâm,
khi HCM trở bịnh nặng, trong tuần lễ cuối tháng 8/1969, Thủ Tướng
Chu Ân Lai đă lần lượt gởi đến Hà Nội 4 phái đoàn y tế trong đó có
nhiều danh y như Ngô Gia B́nh (Wu Jiaping), Giám đốc Trung Quốc Học
Viện Y khoa, để cứu chửa HCM . Ngoài ra, c̣n có một phái đoàn nhân
viên t́nh báo để cướp xác HCM nếu cần hầu bảo vệ tông tích của HCM
và một phái đoàn chuyên viên ướp xác. Đến khi HCM chết ngày 2
/9/1969, Trung Quốc gởi qua Hà Nội một phái đoàn hùng hậu chưa từng
thấy để dự tang lễ gồm Thủ Tướng Chu Ân Lai, Phó TT Lư Tiên Niệm và
nhiều ủy viên cao cấp trong Quân Ủy Trung Ương.
Bởi lẽ khi Hồ
Chí Minh chết th́ phi cơ Mỹ đang dội bom ác liệt Bắc Việt, xác Hồ
Chí Minh phải được di chuyển nhiều lần và chôn sâu trong các hang
động để tránh bom đạn, do đó khi lăng Ba Đ́nh được xây xong năm
1975, cái xác nằm trong cái quan tài pha lê được đặt trong lăng
không phải là cái xác của HCM đă bị chôn đi chôn lại.
Huỳnh Tâm đă
viết : « Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà lănh đạo đảng CSVN biết rơ
cái xác ướp nầy là ai, tuy nhiên họ phải tạo ra một biểu tượng nên
họ phải trả giá cao. Họ sẵn sàng chi một ngân khoản lớn để bảo vệ
uy tín của đảng cho dù người trong quan tài pha lê là một tên vô
danh t́nh cờ được nằm vào đó để cho dân tộc VN tung hô muôn năm.
Muốn bảo quản tốt, họ phải trả một chi phí vô cùng đắt giá, để rồi
sau đó họ phải chống đỡ những khó khăn cùng lúc phải khéo lường gạt
».
Nhận định về
tập tài liệu của Hồ Tuấn Hùng
Bài viết nầy
không có mục đích tŕnh bày những luận cứ của tác giả Hồ Tuấn Hùng
khẳng định Nguyễn Ái Quốc đă chết và Hồ Tập Chương đă đóng vai Hồ
Chí Minh từ năm 1933 đến 1969, cũng như không lập lại những phản
biện của môt vài tác giả (thí dụ như của ông Phạm Đ́nh Lân rất
thuyết phục) về sự phi lư của xác quyết nầy. Bài viết muốn đặt vài
giả thuyết về sự xuất hiện của tập tài liệu và sự im lặng đáng ngạc
nhiên của đảng Cộng Sản Việt Nam từ lúc xuất hiện tập tài liệu cho
đến nay.
– Thâm
ư của tập tài liệu
Hồ Tuấn Hùng và
bác của ông là Hồ Tập Chương là những công dân của nước Đài Loan,
hiểu theo nghĩa chính trị, nhưng là người Hán tộc (người Hakkan,
tiếng Việt thường gọi là người Hẹ) hiểu theo nghĩa chủng tộc. Người
Trung Quốc ở bất cứ nơi đâu, nói bất cứ ngôn ngữ nào, họ vẫn là
người Trung Quốc, trung thành với Trung Quốc. Vào thời điểm người
Việt trong nước và ngoài nước chống đối kịch liệt Trung Quốc xâm
chiếm lănh thổ lănh hải và khai thác tài nguyên VN, quyển sách được
tung ra là để nói lên một cách ngạo mạn cho dân VN biết rằng tứ
1933 đến 1969, người thành lâp đảng CSVN, người lănh tụ cai trị VN
là một người Trung Quốc.
– Sự im
lặng của đảng CSVN
Từ khi quyển
sách được tung ra bằng Hán Văn năm 2008 và bản dịch Việt ngữ hồi đầu
năm 2013, đảng CS hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Về việc HCM giả hay
thật, chắc chắn có một số đảng viên cùng thời với HCM nhận biết
được qua nhân dạng, nhất là chỉ cần căn cứ vào một yếu tố đơn giản
là giọng nói Nghệ An của HCM, một chú ba Tàu không thế nào giả giọng
được. Số đồng chí nầy đa số đă chết và nếu có ai đó may mắn c̣n sống
sót và nhận biết được sự giả mạo nầy, có can đảm ghi lại sự giả mạo
nầy th́ lịch sử sẽ phải được viết lại khi những tài liệu nầy được
tiết lộ và kiểm chứng. Đám hậu duệ của HCM đang ngự trị trong bộ
Chính trị hiện nay đa số không biết HCM và nếu có biết những chuyện
bí ẩn lạ kỳ, th́ v́ quyền lợi và rung sợ trước đàn anh Trung Quốc
chắc chắn không ai dám hé môi. Việc im lặng của đảng Cộng Sản trong
trạng huống như vậy có thể hiểu được. Nhưng sự im lặng trở nên có
vấn đề khi bản dịch tiếng Việt của Thái Văn đă được phổ biến rộng
răi trên Internet từ nhiều tháng qua khiến dư luận có nhiều cách
giải thích khác nhau.
Trước tiên là
bức thơ ngày 25 tháng 8 năm 2013 của ông Phạm Quế Dương, phổ biến
trên blog danlambao ở trong nước, trang mạng có nhiền blogger bị CS
xem là phản động. Sau khi tóm lược ư chính của tập tài liệu của Hồ
Tuấn Hùng, ông Dương viết :
…Thời đại
Internet hiện đại, nên sách được loan tải trên mạng rất rộng răi.
Nhiều người đến trao đổi với tôi, hầu hết là những người từng trực
tiếp tham gia kháng chiến, là bộ đội, là cán bộ tuyên huấn… Một số
người phản đối, cho cuốn sách là bịa đặt, đổi trắng, thay đen. Một
số người th́ bảo chuyện này cũng đă được nghe từ lâu và tin lời ông
tác giả. Họ dẫn chứng: năm 1957, cụ Hồ Chí Minh về thăm quê ở xă Kim
Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không ra thắp hương mộ thân mẫu
là cụ Hoàng Thị Loan. Năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà
chị là Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, cụ Hồ tránh mặt, không dám
gặp, chỉ cử 2 cán bộ cao cấp tiếp.
Bản thân tôi
rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự hào đă 45 năm là Lính Bác
Hồ, Bộ đội Bác Hồ. Khi làm Tổng biên tập báo Pḥng Không-Không Quân,
ba lần được tiếp xúc với Chủ Tịch khi Chủ Tịch thăm Quân chủng và
trận địa tên lửa, viết bài về Chủ Tịch. Nhiều lần về thăm quê Chủ
Tịch và thắp hương lễ mộ cụ Hoàng Thị Loan, vào Sài G̣n đến Cảng Nhà
Rồng thăm nơi «Bác Hồ đi t́m đường cứu nước », nhiều lần vào lăng
viếng Bác.
Kính mong nhà
cầm quyền, Đảng và Nhà nước Việt Nam cử giới khoa học lịch sử làm rơ
sự thật vụ việc này. Nếu tác giả bịa đặt th́ đưa ra ṭa án quốc tế
xét xử, làm rơ sự thật.
Ông Phạm Quế
Dương năm nay 90 tuổi, đă tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, được
phong chức đại tá. Ông c̣n là nhà sử học, nguyên Tổng biện tập tạp
chí Lịch sử Quân đội. Ông bị cầm tù, bị khai trừ ra khỏi đảng v́
chống đường lối của đảng và đă được cơ quan Human Rights Watch trao
giải thưởng Hellman-Hammett dành cho các nhà tranh đấu nhân quyền.
Sự lên tiếng của ông Phạm Quế Dương khiến dư luận đặt nhiều câu hỏi.
Như bức thơ ông
viết, ông đă có tiếp xúc với ông Hồ 3 lần, như vậy ông có thể nghe
ông Hồ nói giọng Nghệ An, nhận biết nhân dạng v́ ông đă sống trong
chế độ «bác» đến 45 năm, cớ sao ông c̣n nói trong thơ một cách ỡm ờ
như có nghi vấn . Phải chăng Hồ Chí Minh thực sự là chú ba Tàu như
tài liệu của Hồ Tấn Hùng, nhưng v́ sợ nên ông không dám nói, hay Hồ
Chí Minh thực sự là bác Hồ dân Nghệ An, mà v́ ông muốn «quấy rầy»
nhà nước nên chẳng những ông không xác nhận mà c̣n nói bóng gió tạo
hoài nghi trong dân chúng bởi lẽ hôm nay ông là kẻ thù của chế độ.
Ông Phạm Quế Dương là một trong những người đương thời với Hồ Chí
Minh c̣n sống và đủ tư cách để xác nhận hay phủ nhận luận cứ của Hồ
Tấn Hùng. Chờ xem màn kịch nầy.
Về phía người
dân, người giàu th́ bận lo chuyện bốc hốt, người nghèo th́ bận lo
bửa đói bửa no, họ không cần biết « Hồ Tàu Khựa» hay «Hồ xứ Nghệ »
bởi Hồ nào th́ cũng là hồ ly tinh. Đối với người dân, Trung Quốc là
kẻ thù và chính phủ cũng giống như kẽ thù, do đó người dân đặt câu
hỏi phải chăng chính phủ đă tung ra bản dịch tiếng Việt mà không
cần phải lên tiếng là để ngầm thông báo cho dân chúng biết sự ngạo
mạn hung hăn của Trung Quốc và phải chăng, trước phản ứng chống đối
của người dân với chánh phủ càng lúc càng nhiều, chính phủ muốn
cho người dân chửi rủa «bác» Hồ, không cần biết là Hồ Tàu hay Hồ
Việt để cho đảng và chính phủ yên tâm tiếp tục công tŕnh tham
nhũng. Đếm bạc sướng hơn chửi bác, đó là sách lược mới của đảng.
Kết luận
Kể chuyện cậu
Ba Nguyễn Tất Thành và chú Ba Hồ Tập Chương, chúng tôi muốn nêu lên
một thảm kịch của nước Việt Nam đă không may có một Hồ Chí Minh ít
học, thiếu tài, kém đức đă làm cho đất nước VN trở nên điêu linh
lại c̣n dắt đến VN một chú Ba Tàu thô bạo. Cậu Ba Nguyễn Tất Thành
đă chết nhưng Việt Nam hôm nay lại nổi lên thêm nhiều cậu Ba khác
trong bộ Chính trị mà cậu Ba nguy hiểm nhất, tham nhũng nhất đă và
đang hợp tác với chú Ba Tàu để đưa đất nước đến chỗ diệt vong là cậu
Ba Dũng.
Lâm Văn Bé
20/09/2013
nguồn:
http://khoahocnet.com
2. Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan?
Viết bởi Phạm
Quế Dương.
Đề nghị làm
sáng tỏ vụ việc: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan
– Gần đây, dư
luận sôi động về việc Đài Loan xuất bản cuốn sách “T́m hiểu về cuộc
đời Hồ Chí Minh” (Hồ Chí Minh sinh b́nh khảo), do nhà xuất bản Bạch
Tượng Văn Hóa ấn hành ngày 01-11-2008. Tác giả là Hồ Tuấn Hùng, giáo
sư đă từng dạy học hơn 30 năm, tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Lập
Đài Loan, khoa lịch sử. Người dịch ra tiếng Việt Nam là Thái Văn
(không biết là người Việt Nam hay Trung Quốc).
Sách chủ yếu
nói về Nguyễn Ái Quốc. Sau vụ án Hương Cảng, 1931 cụ sang Liên xô
nhưng bị lao phổi và chết ở Liên xô từ năm 1932. Sau đó, Quốc tế
Cộng sản phân công Hồ Tập Chương, người Đài Loan cùng hoạt động với
cụ Nguyễn Ái Quốc thay cụ Nguyễn Ái Quốc làm cách mạng ở Việt Nam.
Ông Hồ Tập Chương lấy tên là Hồ Chí Minh. Tác giả Hồ Tuấn Hùng là
người Đài Loan và là cháu ruột của Hồ Tập Chương. Sách gồm 6 chương,
dày 342 trang khổ 15×21 cm.
Nguyên văn lời
tựa như sau:
“Thay lời tựa
Màn đầu bóc gỡ
tấm mạng che huyền bí
Tấm mạng huyền
bí che mặt Hồ Chí Minh”.
Các nhà lănh
đạo nổi tiếng trong lịch sử hiện đại, ít nhiều đều có những bí mật
riêng giống như tấm mạng che mặt. Những bí mật này rất ít khi được
công khai minh bạch, trong đó, Hồ Chí Minh, lănh tụ vĩ đại của Việt
Nam là một trường hợp điển h́nh. Cho dù hiện giờ đă là thiên niên kỷ
thứ hai, kỹ thuật truyền thông hiện đại có mặt khắp nơi, Hồ Chí Minh
yên nghỉ trong quan tài thủy tinh tại lăng Ba Đ́nh Hà Nội đă bốn
mươi năm, nhưng hoàn cảnh gia đ́nh, lịch tŕnh học tập, khả năng
ngôn ngữ, lư tưởng động cơ cách mạng, thực trạng hôn nhân, quá tŕnh
hoạt động tại Quốc tế cộng sản, thậm chỉ ngày sinh và ngày mất cũng
vẫn c̣n tồn tại rất nhiều nghi vấn. Mặc cho các tác giả viết truyện
kư t́m mọi cách lắp ghép tư liệu, cuối cùng, vẫn không thể nào dựng
lại được và tŕnh bày một cách thuyết phục chân dung lịch sử Hồ Chí
Minh.
Hai người này
là một?
Nhà sử học Việt
Nam, giáo sư Nguyễn Thế Anh, tiến sĩ văn học và nhân văn Đại học
Sorbonne, Paris, Pháp, từng là giám đốc Đại học Thuận Hóa, chủ nhiệm
khoa Văn Sử Đại học Sài G̣n, giáo sư thỉnh giảng Đại học Harvard Hoa
Kỳ, chủ nhiệm khoa Lịch sử văn hóa Đông Dương, Đại học Sorbonne, đă
dày công nghiên cứu về Hồ Chí Minh và có những kiến giải độc đáo.
Trong tác phẩm “Con đường chính trị của Hồ Chí Minh”, Nguyễn giáo sư
từng nói:
“Cho dù không thiếu những tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, cho dù ông
đă mất từ lâu, nhưng vẫn c̣n tồn tại khá nhiều nghi vấn và mâu thuẫn
trong cuộc đời nhân vật chính trị này. Do ông có thói quen che giấu
quá khứ và những hoạt động của ḿnh, cố ư xóa sạch các dấu vết, v́
thế, mọi cố gắng t́m hiểu những chi tiết chân thực trong cuộc đời
hoạt động của ông chẳng khác ǵ đứng trong đám mây mù vần vụ mà
thưởng hoa vậy. V́ thế, ta chỉ có thể suy đoán mà thôi. Hồ Chí Minh
có đến 3 cái tên giả, tự ḿnh kể chuyện về ḿnh đầy tràn sắc thái
thần bí với nhiều sự hàm hồ, vô vàn t́nh tiết nghi hoặc, chẳng những
không thể phân tích rơ ràng, mà c̣n bỗng nhiên tự tâng bốc ḿnh với
mục đích tuyên truyền cho sự nghiệp chính trị hoặc là một thánh
nhân. Tuy vậy, các nhà sử học đă trường kỳ nghiên cứu, nỗ lực bóc gỡ
dần lớp màn che phủ vốn làm chân dung Hồ Chí Minh bị biến dạng hoặc
bị tô vẽ thái quá qua các tác phẩm truyện kư, chỉ có điều là vẫn
chưa t́m ra điểm mấu chốt.”
Nhà sử học Hoa
Kỳ, giáo sư William J. Duiker, là một học giả trác việt chuyên
nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam, William J.
Duiker làm việc ở Đại sứ quán Hoa Kỳ, trước sau có gần ba mươi năm
nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đă được một số Quỹ và Hội học thuật Hoa
Kỳ tài trợ. William J. Duiker cũng thông thạo các tiếng Anh, Pháp,
Nga và Việt, đă vào đọc hầu hết các thư viện lớn nhỏ châu Á, châu Âu
và châu Mỹ, trong đó có nhiều lần cùng đi với các quan chức chính
quyền Việt Nam sưu tầm tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh, và đă
t́m được những tài liệu quư hiếm.
Vào năm 2000,
William J. Duiker hoàn thành tác phẩm“Truyện Hồ Chí Minh”, xuất bản
bằng tiếng Anh, dày 700 trang, tuy nhiên chính ông cũng phải thừa
nhận, không thể nào t́m được những tài liệu ở cơ quan đầu năo, bởi
luôn có sự ngăn cản việc t́m ra sự thật. William J. Duiker nói:
“Những tài liệu
nằm ở Trung tâm Lưu trữ Hà Nội đều không cho người Việt Nam và người
nước ngoài thâm nhập t́m hiểu, nghiên cứu. Cũng như vậy, ta không
thể t́m những tài liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh và
Mạc Tư Khoa. Nhà cầm quyền Trung Quốc và Liên Xô hầu như ít khi để
lộ những thông tin thuộc loại này.”
Học giả Anh
Quốc Sophie Quinn- Judge cũng là một chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí
Minh, từng được Quỹ Mike và Viện nghiên cứu Trung ương Đại học
London tài trợ. Bà đă đến Việt Nam, các nước Đông Nam Á và Nga Xô,
t́m được những chứng cứ mới nhất trong hồ sơ của Quốc tế cộng sản và
t́nh báo Pháp làm cơ sở cho công tŕnh nghiên cứu về Hồ Chí Minh.
Năm 2002, Sophie Quinn – Judge đă xuất bản tại London cuốn sách
“Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941”. Trong lời
đầu, tác giả nói rơ, lấy “truyền kỳ về con người hai mặt” làm tiêu
đề, bởi v́, đối với Hồ Chí Minh c̣n rất nhiều điều nghi vấn, đặc
biệt tiêu đề chương sáu, dùng sự kiện “Chết ở Hương Cảng, mai táng ở
Mạc Tư Khoa”, coi đó là câu đố về chuyện sinh tử của Hồ Chí Minh,
đồng thời đặt dấu hỏi nghi ngờ.
V́ ông Hồ Chí
Minh cố t́nh che giấy tung tích của ḿnh đă đưa đến nghi vấn
ông có phải Hồ
Tập Chương người Đài Loan hay không?
Trong phần giới
thiệu tóm tắt ở trang 6, Sophie Quinn-Judge viết:
“Hồ Chí Minh
t́m mọi cách để giấu đi quá khứ của ḿnh. Nhiều năm qua, những thứ
mà ông đă cung cấp toàn là loại “dật sự”, thường là mâu thuẫn nhau,
không mấy liên quan đến cuộc đời thực. Đầu tiên là tập tự truyện
xuất bản vào năm 1949 tại Trung Quốc, năm 1950, được xuất bản bằng
tiếng Pháp tại Paris, mấy năm sau lại xuất bản tại Việt Nam với nhan
đề “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”.
Qua cuốn sách,
người đọc biết rất rơ là, tất cả cái gọi là sự thật ấy đều do Hồ Chí
Minh bịa đặt. (Tác giả nhận xét, “Truyện Hồ Chí Minh”, bút danh Trần
Dân Tiên, bản Trung văn, “Ba Nguyên thư ốc” Thượng Hải xuất bản năm
1949. Năm 1958, cuốn sách đổi tên là “Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ Tịch”, xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội).
Năm 1962, nhà
Việt Nam học Bernard Fall phỏng vấn Hồ Chí Minh, có hỏi đến những
chi tiết mập mờ trong cuộc đời của ông, Hồ Chí Minh trả lời: “Các
ông già khi vui vẻ thường tự tạo ra cho ḿnh một chút thần bí. Tôi
cũng bắt chước người xưa làm ra vẻ thần bí một chút, chắc ngài có
thể hiểu được”. Việc này chẳng biết Bernard Fall có hiểu được hay
không, nhưng William J. Duiker trong cuốn sách nổi tiếng “Truyện Hồ
Chí Minh” đă viết: “Không khí thần bí bao bọc xung quanh Hồ Chí Minh
luôn luôn được duy tŕ, chí ít ra là trong các tác phẩm tự truyện
như thế này”.
Hồ Chí Minh có
phải đến từ Đài Loan?
V́ sao cho đến
lúc qua đời Hồ Chí Minh vẫn không tự nói ra những bí mật của ḿnh?
Chấp nhận nằm trong quan tài thủy tinh để lại cho người đời biết bao
câu hỏi nghi ngờ? V́ sao các tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh
trong hồ sơ lưu trữ tại các nước Pháp, Anh Quốc (bao gồm cả Hương
Cảng), Mỹ… đến nay từng bước đă được giải mật, vậy mà nhà nước Việt
Nam, Trung Quốc và Nga vẫn xếp vào loại tuyệt mật, cất giữ trong ḥm
kín? Các chuyên gia, học giả nghiên cứu về Hồ Chí Minh nhận thấy rất
rơ, trong hồ sơ giản lược về cuộc đời ông, trước sau đều phát sinh
mâu thuẫn, nhưng không biết làm cách nào t́m được cách giải thích
hợp lư. Hàng loạt những sự kiện nghi vấn trên dường như tạo hứng thú
cho người ta bỏ nhiều thời gian, công sức t́m ṭi tư liệu để viết về
thân thế Hồ Chí Minh. Việc này cũng giải thích v́ sao, giới lănh đạo
cao cấp Việt cộng, Trung cộng và Quốc tế cộng sản, phàm là các sử
liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh, đều nhất loạt được che giấu, tô
vẽ hoặc ngụy tạo.
Nhiều năm
trước, một người bạn thương gia Đài Loan đă nói với tôi: “Hồ Chí
Minh là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La, ông có biết không?”. Tin
đồn về Hồ Chí Minh thuộc Hồ tộc ở Miêu Lật, Đồng La đă hai lần tôi
trực tiếp nghe được. Thông tin này làm tôi vừa nghi ngờ vừa phấn
khởi. Đây phải chăng là dự báo về thân phận Hồ Chí Minh sắp được
giải mật? Có một người họ Hồ, nhân viên Đảng vụ Quốc dân đảng, thuộc
dân tộc Khách Gia Quảng Đông, sinh vào năm Dân Quốc thứ năm mươi,
trong dịp về tế tổ họ Hồ ở Miêu Lật có hỏi thân phụ tôi: “Hồ Chí
Minh với ông là như thế nào mà có tin đồn ông ta cũng là người Miêu
Lật?” Một người nữa là thày thuốc họ Hà kể lại, năm 1945, ông đă
theo quân đội Quốc dân đảng đến Hà Nội có nghe một người Hoa làm
nghề buôn thịt lợn nói rằng, Hồ Chí Minh là người đến từ Miêu Lật,
Đồng La, Đài Loan. Người anh họ của tôi cũng bảo: “Năm Dân Quốc thứ
sáu mươi, anh cùng ông chú đến Bộ Ngoại giao Đài Bắc hỏi thăm tung
tích Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) cùng những vấn đề liên quan đến
thân phận ông, nhưng không có được câu trả lời cụ thể”. Thời gian
gần đây tôi đă hai lần được nghe từ miệng một thương nhân Đài Loan ở
Việt Nam nói rơ, Hồ Chí Minh là người Miêu Lật, Đồng La, nhưng không
thể kiểm chứng được nguồn gốc thông tin, bởi không một lănh đạo chóp
bu nào của Việt Nam chịu tiết lộ bí mật.
Từ Việt Nam,
tin đồn Hồ Chí Minh là người thuộc họ Hồ sinh quán ở Miêu Lật, Đồng
La truyền về Đài Loan, khiến tâm trạng tôi vốn dĩ trầm lặng bỗng
nhiên như cháy bùng lên. Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam là
người Đài Loan! Như vậy, lời khẩu truyền được lưu trong kư ức gia
tộc họ Hồ ở Miêu lật, Đồng La thực ra chẳng phải là bí mật của Ông
Trời, vấn đề là, chưa t́m được chứng cứ đủ sức thuyết phục mà thôi.
Trước đây ít năm, gia tộc có phát hành nội bộ cuốn sách “Giải nghĩa
‘Nhật kư trong tù’ của Hồ Chí Minh”. Qua sơ bộ nghiên cứu tư liệu
th́ Hồ Chí Minh đúng là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La. Đại thể là,
không có lửa làm sao có khói, chỉ tiếc sức lực có hạn, không t́m
được chứng cứ để liên kết các sự kiện. Mấy năm nay, các loại sách
báo, tranh ảnh lưu hành rất tiện lợi. Mạng Internet phát triển nhanh
chưa từng thấy. Các sử liệu liên quan đến Hồ Chí Minh lần lượt xuất
hiện. Tin đồn Hồ Chí Minh là người Đài Loan từng bước được lịch sử
xác nhận qua các phương pháp giám định khoa học. V́ thế, để t́m hiểu
xem Hồ Chí Minh có phải là người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan hay
không, cần phải khẳng định hai sự kiện sau:
1 – Hồ Chí Minh
thời kỳ (1890 – 1932) là Nguyễn Ái Quốc của Việt Nam.
2 – Hồ Chí Minh
thời kỳ (1933 – 1969) là Hồ Tập Chương của Đài Loan.
Nói cách khác,
truyền kỳ về Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh, nửa đời trước là
lănh tụ cộng sản Việt Nam Nguyễn Ái Quốc, nửa đời sau là nhân sĩ
Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan. Hai người cùng có
quá tŕnh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng đạt được những thành
tựu trong cuộc đời hoạt động.
Nguyễn Ái Quốc
là lănh tụ sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là đại biểu Quốc tế
cộng sản. Do đảng viên cộng sản Pháp Joseph Ducroix, bí thư Công hội
Thái B́nh Dương, Quốc tế cộng sản bị bắt tại Singapore, sau khi truy
vấn, cảnh sát đă bắt được hai phái viên của Cục Viễn Đông Quốc tế
cộng sản là Hilaire Noulens ở Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc ở Hương
Cảng. Không may, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc trên đường
trốn chạy từ Hương Cảng đến Thượng Hải bị mắc bệnh lao phổi qua đời.
Mùa hè năm
1929, Hồ Tập Chương từ Đài Loan đến Thượng Hải, được Cục Viễn Đông
phái đến làm việc tại “Liên minh mậu dịch Thái B́nh Dương”. Cũng bởi
có liên quan đến vụ án Hilaire Noulens, ông phải trốn đến Quảng Châu
rồi lại chạy sang Quảng Tây, Xiêm La, cuối cùng về Hạ Môn. Đầu năm
1933, Hồ Tập Chương từ Hạ Môn đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Lúc
này, chủ quản bộ phận Việt Nam Quốc tế cộng sản là Vera Vasilieva
đặt kế hoạch cho Hồ Tập Chương 5 năm học tập cải tạo để biến thành
Nguyễn Ái Quốc, nhằm phủ định sự thật Nguyễn Ái Quốc đă chết, thay
thế ông này, bước lên vũ đài lịch sử, diễn vở kịch truyền kỳ Hồ Chí
Minh “thật giả kiếp người”.
Ông này là ai?
Hồ Chí Minh hay Hồ Tập Chương người Đài Loan?
Hồ Chí Minh nửa
đời về sau (1933 – 1969) là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. Tuy
nhiên, sự kiện động trời này chưa từng được lịch sử biết đến, khiến
các cho các chuyên gia nghiên cứu hoặc độc giả có hứng thú với nhân
vật Hồ Chí Minh vừa sửng sờ vừa nghi vấn. Các chứng cứ của luận điểm
này? Độ tin cậy của thông tin như thế nào? Nguồn gốc của tư liệu ở
đâu? Mối quan hệ nhân quả về thời gian, không gian và tính logic của
vấn đề?
Về tŕnh tự làm
cuốn sách, trước hết là tŕnh bày việc lănh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng
lập Đảng Cộng sản Việt Nam và chết bởi bệnh lao phổi vào mùa thu năm
1932. Phần tiếp theo sẽ chỉ ra, Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không
phải là một người, cuối cùng nói đến nửa phần đời sau của Hồ Chí
Minh chính là Hồ Tập Chương đến Từ Đài Loan. Nội dung cuốn sách này
hoàn toàn đảm bảo tính khách quan và tính hợp lư với mục đích chỉ để
làm rơ một tiên đề giả thiết Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không
phải là một người. Trong quá tŕnh khảo cứu, tôi đă t́m hiểu, so
sánh, đối chiếu cẩn trọng các tư liệu liên quan đến cuộc đời Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh, muốn làm một việc công bằng là trả lại sự
thực vốn có cho lịch sử, đồng thời để t́m ra lời giải câu đố “Sự bí
ẩn trong chuyện sinh tử của Nguyễn Ái Quốc”. Từ sự bí ẩn về thân
phận Hồ Chí Minh, tôi đề xuất 5 luận chứng đồng thời cũng là nhan đề
của 5 thiên trong “T́m hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh” như sau:
1 – “Hài kịch
tráo rồng đổi phượng” (Nguyễn Ái Quốc chết mà sống lại).
2 – “Ve sầu
thoát xác, thật giả kiếp người” (Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng
lên vũ đài lịch sử).
3 – “Cuộc sống
lưu vong phiêu bạt” (Hồ Chí Minh ở Liên Xô và Trung Quốc).
4 – “Khúc bi ca
về t́nh yêu và hôn nhân” (Sự thật về t́nh yêu, hôn nhân của Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh).
5 – “Nhật kư
trong tù và Di chúc” (Làm rơ khả năng Hán văn của Nguyễn Ái Quốc và
Hồ Chí Minh).
Từ cách nh́n
lịch sử ở những góc độ khác nhau, lật lại sự kiện Nguyễn Ái Quốc
chết bệnh vào năm 1932, và Hồ Chí Minh của năm 1933 là Hồ Tập Chương
đến từ Đài Loan tiếp tục tiếp tục đăng đài thực hiện nhiệm vụ Quốc
tế cộng sản giao phó, rất mong được các chuyên gia học giả cùng bạn
đọc chỉ giáo.
Thời đại
internet hiện đại, nên sách được loan tải trên mạng rất rộng răi.
Nhiều người đến trao đổi với tôi, hầu hết là những người từng trực
tiếp tham gia kháng chiến, là bộ đội, là cán bộ tuyên huấn… Một số
người phản đối, cho cuốn sách là bịa đặt, “đổi trắng, thay đen”. Một
số người th́ bảo chuyện này cũng đă được nghe từ lâu. Và tin lời tác
giả. Họ dẫn chứng: năm 1957, cụ Hồ Chí Minh về thăm quê ở xă Kim
Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không ra thắp hương mộ thân mẫu
là cụ Hoàng Thị Loan. Năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà
chị là Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, cụ Hồ tránh mặt, không dám
gặp, chỉ cử 2 cán bộ cao cấp tiếp.
Bản thân tôi
rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự hào đă 45 năm là “Lính Bác
Hồ”, “Bộ đội Bác Hồ.” Khi làm Tổng biên tập báo Pḥng Không-Không
Quân, ba lần được tiếp xúc với Chủ Tịch khi Chủ Tịch thăm Quân chủng
và trận địa tên lửa, viết bài về Chủ Tịch. Nhiều lần về thăm quê Chủ
Tịch và thắp hương lễ mộ cụ Hoàng Thị Loan, vào Sài G̣n đến Cảng Nhà
Rồng thăm nơi “Bác Hồ đi t́m đường cứu nước.” Nhiều lần vào lăng
viếng Bác.
Kính mong nhà
cầm quyền, Đảng và Nhà nước Việt Nam cử giới khoa học lịch sử làm rơ
sự thật vụ việc này. Nếu tác giả bịa đặt th́ đưa ra ṭa án quốc tế
xét xử, làm rơ sự thật.