MINH THỊ

 

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Diễn Đàn ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎ Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports ֎ Video/TV ֎ Lottery ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa ֎ Đà Lạt

 

Vấn đề biên giới Việt-Trung

thời Hậu Lê - Mạc

 

 

Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê sơ phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê sơ ở Việt Nam với các triều đại nhà Minh của Trung Quốc xung quanh vấn đề biên giới phía bắc Đại Việt. Mặc dù từ sau khởi nghĩa Lam Sơn (1427) đến trước trận Ngọc Hồi-Đống Đa (1789), Việt Nam và Trung Quốc không có cuộc chiến tranh lớn nào nhưng biên giới phía bắc thường có tranh chấp. Trong một số trường hợp, việc tranh chấp bắt nguồn từ cuộc nổi dậy của các thổ quan địa phương hai bên tự ý cướp phá bên kia; trong một số trường hợp khác do sự tác động chủ ý của chính quyền trung ương cả hai bên.

Vùng hay xảy ra tranh chấp là địa phận Khâm châu cũ, tức phía tây Quảng Đông giáp huyện Hải Ninh của tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam hiện nay. Trên dọc tuyến biên giới đông bắc, địa điểm quan trọng nhất về quân sự là Như Tích, các triều đại Trung Quốc từ nhà Tống, nhà Nguyên và nhà Minh đều đặt doanh luỹ phòng thủ.

 

Ngay từ cuối năm 1427, khi khởi nghĩa Lam Sơn sắp kết thúc, thổ quan Hoàng Kim Quảng đã mang 19 thôn và 4 động Tư Lẫm, La Phù, Cổ Sâm, Cát Nguyên thuộc Khâm châu theo Lê Lợi. Lê Lợi cho nhập 4 động đó vào châu Vạn Ninh và phong Hoàng Kim Quảng làm Kinh lược sứ.

 

Năm 1428, Hoàng Lộc Thụ ở đô Như Tích mang quân về theo Đại Việt. Năm 1434, Hoàng Khoan ở phương bắc liên lạc với Đại Việt, đánh cướp biên giới Trung Quốc ở đô Chiêm Lãng[1].

 

Nhà Minh cho chiêu hồi Lộc Thụ và Khoan về, hứa sẽ miễn toàn bộ thuế thóc nhưng không thành công. Các quan lại ở Quảng Đông cùng kiến nghị vua Minh sai sứ mang sắc dụ sang đề nghị nhà Lê trả lại các thôn, động. Năm 1442, nhà Minh sai sứ sang, đúng lúc Lê Thái Tông vừa mất, vua nhỏ Lê Nhân Tông lên thay, Tuyên Từ thái hậu chấp chính. Thái hậu Đại Việt không đáp ứng việc này[2]. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, nhà Lê cử các đoàn sứ bộ sang nhà Minh các năm 1442, 1444 và 1447 bàn "việc địa phương châu Khâm". Năm 1447, khi đoàn sứ Đại Việt của Hà Phủ về nước, nhà Minh trao cho sắc dụ hẹn sẽ cử sứ đến điều tra để thương lượng phân định lại biên giới.

 

Năm 1448, nghe tin nhà Minh cử tổng binh Quảng Đông mang quân đến hội khám ở biên giới, Lê Nhân Tông cử Lê Khắc Phục[3], Bùi Cầm Hổ, Đào Công Soạn và Lê Thiệt mang 12000 quân lên biên giới, hợp với quân ở trấn An Bang dàn trận phòng thủ, chuẩn bị giao tranh. Nhưng cuối cùng quân nhà Minh không tới.

 

Sau năm 1448, tình hình dịu xuống nhưng cả hai bên đều tăng cường phòng thủ.

 

Châu An Bình, Tư Lang

Vụ tranh lấn biên giới đầu tiên xảy ra năm 1438 tại châu An Bình, Tư Lang[4] và châu Tư Lang Hạ[5]. Cả hai bên đều có những hành động vượt biên giới xâm chiếm lẫn nhau. Theo Minh sử và Minh thực lục, vùng châu An Bình, huyện Long Châu, phủ Thái Bình (Quảng Tây) và châu Tư Lăng bị thổ quan châu Tư Lang của Đại Việt là Nông Nguyên Hồng xâm lấn, chiếm 2 động và 21 thôn, bắt người và đoạt gia súc. Nhà Minh cử Cao Dần và Thang Đỉnh sang Đại Việt. Lê Thái Tông sai sứ sang xin lỗi, nhưng tố cáo trở lại rằng do chính thổ quan châu An Bình và châu Tư Lăng bên Trung Quốc đánh lấn châu Tư Lang của Đại Việt trước. Sách Bang giao chí của Phan Huy Chú ghi lại nội dung thư của Lê Thái Tông gửi Tu Bố chính Quảng Tây tố cáo trở lại như sau:

 

"...Gần đây căn cứ vào báo cáo của bọn Nông Kính, Nông Phúc là thổ quan châu Tư Lang Hạ, xét nước tôi đã nhiều lần nghe theo sắc dụ của triều đình, giữ đất yên dân… Phiền quý Ty sức cho bọn thổ quan Triệu Nhân Chính ở An Bình dưới quyền quý Ty, sai đem đất của các thôn, động đã chiếm, số dân đã bắt trả lại nước tôi và nghiêm cấm không được xâm chiếm cướp bóc…[6].

Minh Anh Tông yêu cầu Tổng binh Quảng Tây điều tra việc tranh chấp và đề nghị Đại Việt hội khám vào năm 1442. Phía Đại Việt cử Đào Công Soạn dẫn đầu đoàn tham gia hội khám, nhưng không kết quả. Thổ quan hai bên tiếp tục có những hành động lấn chiếm: Cha Nông Kính là Nông Nguyên Hồng bên Đại Việt vào cướp châu An Bình, thổ quan Long châu bên Trung Quốc là Triệu Nhân Chính tiếp tục sai Lã Thông mang hơn 1000 quân đánh phá hai thôn Hạ Tư, Quế Cảnh, động Yên Hoa, bắt người và trâu. Trong công văn gửi nhà Minh năm 1444, triều đình Đại Việt do Tuyên Từ thái hậu lãnh đạo (nhiếp chính thay vua Lê Nhân Tông 3 tuổi) tiếp tục tố cáo việc này[7].

 

Do việc hai bên tố cáo lẫn nhau, nhà Minh lại hẹn hội khám ở vùng tranh chấp để xác minh phải trái và phân định lại vùng biên giới vốn trong tình trạng thường không rõ ràng. Do phía Trung Quốc hẹn nhưng nhiều lần không đến đúng thời gian, mãi tới năm 1447 hội khám mới diễn ra, sau đó thống nhất 11 thôn thuộc về Long châu của nhà Minh, 6 thôn thuộc về Hạ Tư Lang của Đại Việt[8].

 

Sang thời Lê Thánh Tông, nước Đại Việt cường thịnh. Vua Thánh Tông đổi gọi châu Hạ Tư Lang là Hạ Lang.

 

Năm 1467, thổ quan Trấn Yên thuộc Quảng Tây là Sầm Tổ Đức mang 1000 quân đóng ở Am Động, tung tin đuổi bắt "giặc Sầm Vọng" thừa cơ tràn sâu vào châu Thông Nông[9] của Đại Việt, bắt người và trâu bò, sau đó lại tấn công Bảo Lạc. Lê Thánh Tông một mặt sai trị tội quan trấn thủ Bắc Bình để Tổ Đức vào cướp, mặt khác gửi công văn đến Ty Bố chính Quảng Tây đòi lại người và súc vật. Theo Minh Thực lục, sau một thời gian vượt biên giới, Tổ Đức bị quân Đại Việt đánh lui.

 

Tháng 4 năm đó, Sầm Tổ Đức lại sai Tống Thiệu mang quân lấn ải Toả Thoát[10], cướp hoa màu và súc vật. Lê Thánh Tông bèn cử sứ bộ sang Bắc Kinh năm 1468 tố cáo việc này với Minh Hiến Tông. Hiến Tông sai Bộ Binh lệnh cho các quan chức ở Quảng Tây điều tra vụ việc. Sau đó không thấy sử sách nhắc tới kết quả vụ việc này.

 

Tháng 10 năm 1467, viên quan châu An Bình của Trung Quốc là Lý Lân lại mang 8000 quân đánh lấn châu Hạ Lang, bị quân Đại Việt đánh chặn, thua chạy về. Trấn thủ Thái Nguyên theo lệnh của triều đình bèn gửi thư chất vấn việc xâm lấn. Việc giằng co ở vùng biên của đôi bên kéo dài tới năm 1470 mới tạm ngừng.

 

Năm 1480, Tổng binh Bắc Bình của Đại Việt là Trần Ao sai Đào Phu Hoán mang 600 quân tới Cảm Quả, mở cửa ải thông sang Ôn châu, tiếp giáp châu Tư Lăng của Trung Quốc, lấn đất và dựng gióng chắn rào ngang. Đầu mục nhà Minh là La Truyền mang quân tới phá rào đi.

 

Cùng năm 1480, dân châu Tư Lăng của Trung Quốc tràn sang châu Lộc Bình[11] của Đại Việt cướp của, bắt gia súc. Nhà Lê làm công văn trách châu Tư Lăng và đòi lại của cải, đồng thời lại làm công văn chất vấn Tổng đốc Lưỡng Quảng về việc này.

 

Phía Tây bắc

 

Ngoài các vị trí quân sự, ở đây còn những mỏ vàng, bạc, thiếc, đồng, sắt… Tranh chấp vùng này xảy ra chủ yếu thời Lê Thánh Tông. 

Năm 1464, đầu mục ở Mạnh Thích thuộc châu Ninh Viễn[12] của Đại Việt chỉ huy người Thái sang xâm nhập các thôn thuộc phủ Lâm An, Vân Nam. Tri phủ Lâm An giấu không dám tâu lên triều đình, sau nhà Minh mới phát hiện ra[13].

 

Tháng chạp năm 1473, một số người Trung Quốc ở Long châu la Quang Ngọc, Tô Bí, Tô Trân, Đằng Tiêm lẻn vào châu Văn Uyên[14], đổi hàng hoá với dân địa phương rồi đánh nhau, bị quân Đại Việt bắt giữ cả người và hàng. Năm 1475, trấn thủ Vân Nam là Tiền Năng sai Quách Cảnh mang thư sang Đại Việt và nhận quà biếu của nhà Lê. Lê Thánh Tông sai Lê Hoằng Dục đi sứ, Quách Cảnh về nước, giải bọn Quang Ngọc qua đường Vân Nam tới Bắc Kinh. Theo Minh sử, việc đi sứ lẽ ra theo đường Quảng Tây, nhưng Quách Cảnh nhận hối lộ của Đại Việt, cho đoàn sứ đi đường Vân Nam. Đại Việt cho hơn 600 phu đi trước, quân Đại Việt theo sau, gây rối loạn cho Vân Nam. Vân Nam mấy lần cáo cấp, nhà Minh mấy lần ra sức dụ, "lời lẽ mềm dịu" nhưng Lê Thánh Tông "vẫn ngang ngạnh không sợ"[15].

 

Năm 1474, châu Bảo Lạc thuộc Tuyên Quang có Hoàng Chương Mã nổi dậy cướp phá. Quân Đại Việt đi dẹp, trong lúc đánh đuổi lại vượt biên giới vào sâu lãnh thổ Vân Nam. Nhà Minh lại gửi thư trách, Lê Thánh Tông bèn gửi thư xin lỗi. Để giữ yên mặt nam, trấn thủ Vân Nam của nhà Minh là Vương Thứ đề nghị tạm ngừng thu thuế cho dân phủ Lâm An (Vân Nam) và điều 4000 quân thay nhau canh phòng. Vua Minh Hiến Tông cho rằng nếu tăng quân sẽ khiến Đại Việt "nảy sinh hiềm khích" nên chỉ hạ lệnh tạm ngừng thu thuế cho dân vùng biên[16].

 

Năm 1479, lại xảy ra vụ việc Lê Thánh Tông sai 800 quân lấy cớ đuổi giặc cướp rồi lấn sang huyện Mông Tự (Vân Nam) dựng doanh trại ở đó. Sau một thời gian bị quân Minh địa phương ráng sức ngăn cản, quân Đại Việt mới rút về. Đây chính là thời điểm Lê Thánh Tông tiến đánh Ai Lao, gần biên giới Vân Nam. Chiến tranh ở Ai Lao khiến nhà Minh lo ngại, tăng cường thêm quân bố phòng[17]. Năm 1480, khi Đại Việt đánh Lão Qua, nhà Minh ra lệnh cho các quan trấn thủ phải tăng cường phòng bị và quân lính ở biên giới Vân Nam "không được giao thiệp với người Di".

 

Không lâu sau, người Thái đen ở châu Ninh Viễn của Đại Việt lại xâm lấn sang thôn Xạ Lý thuộc Vân Nam. Trấn thủ Ngô Thành tâu báo về, nhà Minh theo đề nghị bèn gửi sắc dụ trách Lê Thánh Tông và lập Ty tuần kiểm ở nút địa giới giữa châu Ninh Viễn của Đại Việt và châu Kiến Thuỷ của Trung Quốc để phòng quân cướp. Nhà Lê sai Nguyễn Văn Chất đi sứ gửi thư phân trần việc này như sau:

 

Vì có 13 người ở Đông Quan[18] trốn sang biên giới nước Lão Qua nên sai bọn Nguyễn Bảo tới địa giới để đòi lại, chỉ bắt được xe buôn bán chở về, không liên quan gì đến việc đánh nước Lão Qua và việc muốn đánh nước Bát Bách Tức Phụ. Điều ấy là nói bịa.

Kể từ năm 1480 trở về sau, vùng biên giới Tây bắc yên ổn.

 

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim lập Lê Trang Tông lên ngôi, tái lập nhà Lê. Lê Trang Tông sai Trịnh Duy Liêu vượt biển sang Trung Quốc xin cầu viện nhà Minh đánh nhà Mạc. Chúa Bầu Vũ Văn Uyên ở Tuyên Quang cũng sai người sang tố cáo việc nhà Mạc cướp ngôi.

Sau một thời gian bàn bạc và trù tính, năm 1537, Minh Thế Tông giao quân cho Mao Bá Ôn chuẩn bị tiến xuống phía nam.

Nhà Mạc ở vào tình thế "lưỡng đầu thọ địch": nhà Minh uy hiếp ở phía bắc, nhà Hậu Lê uy hiếp ở phía nam.

 

Các nhà sử học đánh giá rằng: trên thực tế, Minh Thế Tông không hoàn toàn có ý định dụng binh đánh Đại Việt vì ở Trung Quốc khi đó cũng gặp những khó khăn[1]: một số khởi nghĩa nông dân nổ ra ở Hoa Bắc, "nuỵ khấu" người Nhật gây rối dọc vùng ven biển Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, được sự thông đồng của các phú thương người Hoa vừa buôn bán vừa cướp bóc; người Bồ Đào Nha bắt đầu nhòm ngó Áo Môn.

Chính vì vậy, vua Minh theo tờ tấu của Ngự sử Dư Quang đang giữ chức Tuần phủ Quảng Đông, lệnh cho Bộ Binh:

Phô trương lực lượng không sơ suất, hành động không được khinh suất, nếu không sẽ bị trọng tội

Năm 1538, nhà Minh dứt khoát đi đến chủ trương phô trương thanh thế bên ngoài, kích động cuộc nội chiến giữa nhà Hậu Lê và nhà Mạc và ép nhà Mạc hàng phục:

 

Tạm dừng việc chinh phạt An Nam. Hạ chiếu cho các viên đốc phủ Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây phải thăm dò đích xác nội tình nước Nam rồi tuỳ nghi phủ dụ hoặc đánh dẹp… Lại dụ Mạc Đăng Dung, khéo bó thân tự hàng, dâng sổ sách, bản đồ thì sẽ không chết...[2]

Mao Bá Ôn và Cừu Loan theo lệnh, huy động binh lính ở Quảng Tây, Phúc Kiến, Hồ Quảng, tiến về phía biên giới Đại Việt, phao tin sẽ tiến đánh.

Nghe tin quân Minh sắp tiến vào cõi, thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung và Mạc Thái Tông rất lo lắng. Ý định chống cự quân Minh của nhà Mạc sớm tiêu tan vì không hề nắm bắt được những khó khăn mà nhà Minh đang phải đương đầu[2]. Tháng 2 năm 1539, nhà Mạc dâng biểu sang nhà Minh xin hàng.

Nhà Minh tiếp tục dùng chính sách hư trương thanh thế, sai Mao Bá Ôn và Cừu Loan tiến áp sát biên giới, lấy danh nghĩa chỉ nhằm trừng phạt cha con Mạc Đăng Dung, rao lên rằng ai bắt chém được cha con vua Mạc sẽ được phong thưởng. Mặt khác, Bá Ôn và Cừu Loan cũng gửi hịch văn cho nhà Mạc, tuyên bố nếu tự trói nhận tội, dâng sổ sách dân số và dâng đất thì sẽ được tha chết.

Để tránh đổ máu, Mạc Đăng Dung chấp nhận đầu hàng. Ông sai người lên biên giới xin hàng quân Minh. Mao Bá Ôn hẹn đến ngày 3 tháng 11 năm 1540 thì vua Mạc phải đến hàng.

Khi đó Mạc Thái Tông lại vừa mất, thượng hoàng Đăng Dung lập cháu là Mạc Phúc Hải lên ngôi, tức là Mạc Hiến Tông. Đúng hẹn, ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1540, Mạc Đăng Dung cùng các bầy tôi Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị lên cửa ải. Ông tự trói mình đến dâng biểu xin hàng quân Minh.

Trong biểu xin hàng, Mạc Đăng Dung nhấn mạnh 3 vấn đề[3]:

Thoái thác việc họ Mạc sang Yên Kinh (Bắc Kinh)

Giao nộp đất, gồm 2 đô Như Tích, Chiêm Lãng và 4 động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát

Xin ấn tín để được thừa nhận sự cai trị ở An Nam.

Mao Bá Ôn và Cừu Loan nhận biểu của Mạc Đăng Dung bèn lui binh, tâu lên Minh Thế Tông. Vua Minh hạ lệnh:

Lệnh cho Phiên ty Quảng Tây hằng năm cấp lịch Đại Thống cho nhà Mạc, quy định lệ 3 năm cống 1 lần

Nhận và nhập 2 đô Như Tích, Chiêm Lãng và 4 động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát vào Khâm châu của Trung Quốc

Hạ An Nam quốc xuống An Nam Đô thống sứ ty, đúc ấn và ban cho nhà Mạc.

Từ đó tình hình biên giới phía bắc Đại Việt khá yên ổn, nhà Mạc không còn gặp phải sự uy hiếp của nhà Minh. Sự kiện đầu hàng cắt đất của Mạc Đăng Dung cũng là sự kiện duy nhất xảy ra trong vấn đề biên giới phía bắc giữa nhà Mạc và nhà Minh trong suốt 65 năm tồn tại của nhà Mạc.

 

Về vùng đất cắt cho nhà Minh

 

Trong những nội dung đầu hàng của Mạc Đăng Dung, việc cắt đất bị nhiều sử gia về sau lên án gay gắt[4].

 

Tuy nhiên, đến thế kỷ 19, học giả Nguyễn Văn Siêu, tác giả sách Phương Đình Dư Địa chí, đã thay đổi cách nhìn nhận về vấn đề này. Sau khi khảo cứu các sách địa lý Trung Quốc và Việt Nam, Nguyễn Văn Siêu viết[5]:

… Xem sách Dư địa kỳ thắng, trị Như Tích ở phía tây Khâm châu cách 160 dặm, cách châu Vĩnh An của Giao Chỉ 20 dặm. Sách Thống chí chép: Phía tây châu có Như Tích, Liễu Cát, Chiêm Lãng, Tư Lẫm, Cổ Sâm, Thời La 7 động; đầu thời nhà Tống đều đặt động trưởng; niên hiệu Hồng Vũ nhà Minh mới đặt chức Tuần ty ở Như Tích để thống hạt cả. Đất ấy… phía nam giáp Giao Chỉ. Năm Gia Tĩnh thứ 19 (1540), Mạc Đăng Dung cầu hoà, trả lại cho nhà Minh… Quốc sử[6] chép: Thời Lê Đại Hành, người đất Triều Dương là Văn Dũng làm loạn, trốn sang trấn Như Tích thuộc châu Khâm nhà Tống…

Nguyễn Văn Siêu kết luận:

Như vậy thì mấy động Như Tích thuộc châu Vĩnh An mới có từ niên hiệu Thuận Thiên. Nhà Mạc trả lại cho nhà Minh đất cũ đã lấn, không phải là cắt đất để đút lót vậy.

Các sử gia hiện đại đối chiếu các nguồn tài liệu cho rằng: Qua các sử sách Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề chủ quyền đầu tiên với cũng như sự thay đổi địa lý hành chính của vùng đất này là rất phức tạp, hiện tại rất khó xác định rõ ràng[7].

 

Khi Mạc Mậu Hợp lên ngôi, nhà Mạc đã suy yếu, thường thất thế trước quân Nam triều nhà Lê. Nhà Mạc dùng chính sách tăng cường ngoại giao, cống nạp cho nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ khi bị thất thế[8]. Năm 1592, quân Nam triều do Trịnh Tùng chỉ huy chiếm được Thăng Long, bắt giết Mạc Mậu Hợp. Họ Mạc rút chạy lên Cao Bằng.

 

Sau khi chiếm được Thăng Long, nhà Hậu Lê xin cầu phong của nhà Minh. Sau lần hội khám năm 1597, nhà Minh vẫn chỉ phong cho Lê Thế Tông làm An Nam đô thống sứ ty như phong cho nhà Mạc trước đây. Đồng thời, nhà Minh dùng uy thế "thiên triều" ép họ Trịnh cắt đất Cao Bằng cho họ Mạc cát cứ trong nhiều năm, tới năm 1677 mới chấm dứt.

 

 

 

Mạc Đăng Dung có dâng đất cho nhà Minh hay không?

 

Xưa nay sử chép rằng Thái Tổ nhà Mạc là Mạc Đăng Dung đã cắt đất Đại Việt dâng cho nhà Minh để bảo vệ ngôi báu, lưu lại tiếng xấu muôn đời. Sự thật có phải hoàn toàn đúng như thế không và nếu không thì điều ngoa truyền này bắt đầu từ đâu và với ai?

 

 

 

Thành nhà Mạc ở Lạng Sơn.

 

Chúng tôi cho rằng nó bắt đầu với Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) bản khắc in năm Chính Hoàn thứ 18 (1697) đời Lê Hi Tông với Phạm Công Trứ (1600-1675) là người chủ biên Kỷ nhà Lê, trong đó nhà Mạc được ghi chép như là một kỷ phụ.

 

Đại Việt sử ký toàn thư (chúng tôi sử dụng bản dịch của Cao Huy Du, do Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 1 (in lần thứ nhất) 1967 và tập IV (in thứ hai) 1973, là một bộ sử mà nội dung là kết quả sưu tầm, chỉnh lý và biên soạn gián tiếp hoặc trực tiếp của nhiều người qua nhiều giai đoạn khác nhau. Cái nền tảng ban đầu của nó là Sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên (-?-?) soạn xong năm 1479 cũng đã có phần đóng góp gián tiếp của Lê Văn Hưu (1230-1322) tác giả Đại Việt sử ký và Pham Phu Tiên (?-?) tác giả của sử ký tục biên (1455) rồi. Ngô Sĩ Liên chỉ ghi chép từ đời Hồng Bàng cho đến đời Thái tổ Cao hoàng Đế nhà Lê, tức Lê Lợi (1428-1433) mà thôi. Đến năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) đời Lê Huyền Tông, Trịnh Tạc (-?-1682) mới sai Phạm Công Trứ tổ chức chỉnh lý công trình của Ngô Sỹ Liên và viết tiếp phần bản kỷ của nó. Sau khi chỉnh lý, Sử ký toàn thư trở thành toàn bộ phần ngoại kỷ gồm 5 quyển và phần bản kỷ từ quyển 1 đến quyển 10 của Đại Việt sử ký toàn thư. Riêng quyển 10 lại có cả phần đóng góp gián tiếp của Vũ Quỳnh (1450-1497- Tác giả của Đại Việt thông giám (1511) nữa. Phạm Công Trứ và các cộng sự biên soạn của ông đã viết thêm cho Đại Việt sử ký toàn thư phần bản kỷ thực lục từ quyển 11 đến quyển 15 chép từ đời Lê Thái Tông (1433-1458) đến hết đời Lê Thiền Tông (1619-1643) sau đó làm Thái thượng hoàng (1649-1662). Công trình của nhóm Phạm Công Trứ mười phần mới cho khắc in được năm, sáu phần và hãy còn lưu giữ ở bí các. Đến năm Chính Hoà thứ 18 (1697) đời Lê Hi Tông, Trịnh Căn (1633-1709) lại sai Lê Hi (1646-1702) tổ chức hiệu đính công trình của nhóm Phạm Công Trứ và chép thêm phần bản kỷ tục biên từ đời Lê Huyền Tông (1662-1671) đến hết đời Lê Gia Tông (1671-1675) để đưa khắc ván in mà “ban bố cho thiên hạ”. Phần chép thêm của Đại Việt sử ký toàn thư gồm 24 quyển. Đây chính là bộ Đại Việt toàn thư mà chúng ta đang sử dụng hiện nay.

 

Xét theo quá trình biên soạn như đã trình bày sơ lược ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, những người đã ghi chép những phần của ĐVSKTT từ đầu cho đến hết thế kỷ XV đương nhiên là những người thực sự vô can đối với việc “dâng đất” của Mạc Đăng Dung là việc xảy ra ở thế kỷ XVI. Chỉ có những người biên soạn hoặc chỉnh lý phần cuối của bản kỷ thực lục (quyển 15) và phần đầu của bản kỷ tục biện (quyển 16) mới là những người thực sự có liên quan đến việc ghi chép về hành trang của Mạc Đăng Dung từ khi ông xuất hiện trong chốn quan trường năm 1508 với chức Đô chỉ huy sứ cho đến năm 541 là năm ông qua đời trong cương vị Thái thượng hoàng. Đó chính là những người đã biên soạn hoặc chỉnh lý phần bản kỷ thực lục từ quyển 11 đến quyển 15 và phần bản kỷ tục biên từ quyển 16 đến quyển 19-tức biên soạn năm 1665 do Phạm Công Trứ đứng đầu và gồm các cộng sự: Dương Hạo, Hồ Sỹ Dương, Nguyễn Quốc Khôi, Đặng Công Chất, Nguyễn Công Bích, Bùi Đình Viên. Tiếp sau, ban biên soạn năm 1697 do Lê Hi đứng đầu gồm có Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Công Đồng, Vũ Thành, Hà Tông Mục, Nguyễn Diễn, Nguyễn Trí Trung, Nguyễn Đương Bạo…không những làm thêm quyển 19, mà theo chỉ dụ của Trịnh Căn còn có nhiệm vụ sửa chữa cả những phần do nhóm biên soạn Phạm Công Trứ đã làm trước đó. Dù họ có thể đã không sửa chữa hoặc sửa chữa rất ít trong phần này nhưng cũng đã có danh nghĩa đó. Bởi vậy, chúng tôi thấy không thể không nhắc đến họ. Trong thực tế thì có lẽ Ban biên soạn năm 1665 mới là những người đã hạ bút chính thức ghi chép về việc “dâng đất” cũng như mọi chi tiết khác trong hành trang của Mạc Đăng Dung và trong công việc này người chịu trách nhiệm chính đương nhiên là Phạm Công Trứ-bấy giờ là tham tụng kiêm thượng thư bộ Lại kiêm Đại học sĩ Đông các.

 

Bằng quan điểm chính thống đến mức cực đoan, Phạm Công Trứ không những đã kiệt liệt lên án hành động “tiếm ngôi” của Mạc Đăng Dung mà còn không ngần ngại dùng cả thủ đoạn xuyên tạc sự thật để bôi nhọ nhân vật đã sáng lâp ra nhà Mạc nữa. Chứng cứ về sự xuyên tạc đó là đã hai lần ĐVSKTT chép việc Mạc Đăng Dung dâng đất cho nhà Minh.

 

Lần đầu tiên bộ sử này ghi: “Năm Mậu Tí (1528) Mạc tiếm hiệu Minh Đức thứ 2 (…) Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với nhà Minh rằng là họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng. Nhà Minh không tin (…) Đăng Dung sợ nhà Minh đem quân sang hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai hình người bằng vàng bạc cũng là châu báu của lạ, vật lạ, nhà Minh thu nhận. Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ đi lại” (ĐVSKTT, Tập IV –trang 121- 122).

 

Việc ghi chép này hoàn toàn sai sự thật. Quy, Thuận chính là Châu Quy Hoá và Châu Thuận An. Hai châu này thuộc về Trung Hoa vào thời nhà Tống từ những năm 60 của thế kỷ XI. Vấn đề này có thể lược thuật như sau: Quy Hoá và Thuận An là hai châu nằm trong vùng cư trú của các bộ lạc mà bên Trung Hoa gọi là Nàng, còn bên Đại Việt ta gọi là Thổ (ngày nay gọi là Tày) sát ngay ở biên giới của hai nước. Trong một thời kỳ dài, vùng này đã được nhà Tống lẫn nhà Lý coi là đất phên dậu chứ không chính thức sát nhập hẳn vào lãnh thổ của bên nào. Dân các bộ lạc này thường oán ghét các quan lại miền xuôi của cả nhà Tống cũng như nhà Lý vì thường tìm đến các nơi cư trú của họ để sách nhiễu phú cống. Còn các thủ lĩnh của cư dân vùng này khi thì thần phục Tống, lúc lại quy thuận nhà Lý, tuỳ theo áp lực và thế lực từng lúc của mỗi bên. Như vậy là tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể trong từng thời kỳ mà thủ lĩnh của các bộ lạc vùng này có thể là phiên thần nà Tống hoặc nhà Lý mà không có sự dứt khoát nhất định. Cụ thể hơn, Nùng Tôn Đán là tù trưởng của động Lôi Hoả vẫn được nhà Lý xem là phiên thần nối dõi của Nùng Trí Cao sau khi Nùng Trí Cao phát binh đánh Tống bị thất bại và chết ở Đại Lý. Năm 1057, Nùng Tôn Đán lại muốn phát binh đánh Tống nhưng quan nhà Tống là Tiêu Cố biết trước được chuyện này nên đã dụ Tôn Đán quy hàng. Sau khi Đán quy phục, được vua Tống cho chức Trung Vũ tướng quân và cho trông coi châu Ôn Nhuận của Tống. Năm 1062, Đán và con trai lại đem các động của mình là Lôi Hoả và Kế Thành-vốn bấy giờ đang là đất phên dậu của Đại Việt đem dâng nhà Tống liền được Tống cho nhập vào Châu Thuận An và giao cho Đán trông coi luôn cả. Nhưng Đán nguyên là phiên thần nhà Lý, bấy giờ lại cai quản vùng đất vốn một phần là đất phên dậu cũ của Đại Việt nên y rất không yên tâm. Do đó, năm 1064, theo lời dụ dỗ của viên quan Tống là Lục Sẵn, Tôn Đán chính thức xin cho châu Thuận An thuộc hẳn vào nội địa Trung Hoa và đã được lĩnh chức Hữu Thiên ngự vệ tướng quân. Sau đó không bao lâu, theo gương Tôn Đán và cũng theo kế dụ dỗ của Lục Sẵn, Nùng Trí Hội cũng đã quy phục nhà Tống với việc đem nộp vùng đất Vật Dương cho Tống vốn là đất phên dậu của nhà Lý mà Hội được cất cử làm phiên thần trông giữ. Sau khi có được vùng đất này, nhà Tống liền cải nhập vào Châu Quy Hoá là một châu đã có sẵn trị sở tại địa bàn của huyện Nghị Dương tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) ngày nay. Sau hành động nêu trên của Nùng Tôn Đán và Nùng Trí Hội, suốt gần 20 năm từ 1082 đến 1102 triều Lý đã năm lần cử sứ giả sang Tống để đòi lại những phần đất phên dậu cũ mà Đán và Hội tự động nộp cho Tống nhưng đã không kết quả. Như vậy, việc xảy ra đã hơn 450 trước khi Mạc Đăng Dung lên ngôi (1527) nên rõ ràng là ông hoàn toàn vô can đối với sự thể các vùng đất Lôi Hoả, Kế Thành và Vật Dương đã mất về tay nhà Tống.

 

Lần thứ hai mà ĐVSKTT ghi chép về việc “dâng đất” của Mạc Đăng Dung là như sau: “Canh Tí (1540) Mạc Đại Chính năm thứ 11 (…) mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung (…) dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai, quân dân quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động Tê Phù, Lim Lạc, Cổ Sâm, Liêu Cát, An Lương, La Phù của Châu Vĩnh An trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc, lệ vào Khâm Châu…”( ĐVSKTT, tập IV, trang 131-132). Đây là tư liệu chính mà các sách lịch sử về sau của ta luôn nhắc đến để kết tội Mạc Đăng Dung. Trước hết cần nói rõ là số lượng và tên gọi các động ghi trong các sách có chỗ đại đồng tiểu dị. Chẳng hạn Lê Thành Khôi thì căn cứ vào ĐVSKTT mà chép là 6 động, nhưng lại ghi Cổ Sâm thành Cổ Xung (Le Viet Nam Histore etcin lisation, Leseditions deminuít, Paris, 1955, P.263); Trần Trọng Kim chỉ chép 5 động-không có An Lương (Việt Nam), Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Phan Quang và Nguyễn Cảnh Minh thì ghi 5 động là: Tư Lẫm, Kim Lạc, Cổ Sâm, Liêu Cát và La Phù (sđd-92, tập 1, Hà Nội, 1971, trang 75). Thực ra, sự việc chỉ liên quan đến 4 động là Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù và có chăng thì chỉ việc Mạc Đăng Dung trả đất chứ không hề có việc Mạc Đăng Dung dâng đất của Đại Việt cho nhà Minh.

 

Sự thực bốn động nêu trên đều thuộc trấn Như Tích vốn là đất Trung Hoa ít nhất từ đời Tống. Trấn này nằm cách Khâm Châu (Quảng Đông) 160 dặm về phía Tây và cách Châu Vĩnh An của Đại Việt 20 dặm. Đây là một vùng núi cao, địa thế hiểm trở. Đầu đời Tống các động này dã đặt các chức động trưởng để trông coi và sang đời Minh, niên hiệu Hồng Vũ năm đầu (1368), vua Minh lại đặt chức Tuần Ti ở Như Tích để thống lĩnh các động này một cách chặt chẽ hơn. Như đã trình bày về hai châu Quy, Thuận, các động trưởng dọc biên giới Việt –Trung thường tuỳ theo tình hình thực tế mà thay đổi thái độ thần phục đối với Trung Hoa hoặc Đại Việt. Thí dụ năm Tuyên Đức thứ 2 (1427) đời Minh, trước khi cuộc kháng chiến của Lê Lợi lãnh đạo thành công non một năm, các động Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát và La Phù thuộc vào Đại Việt bấy giờ chưa hoàn toàn độc lập do chưa đánh đuổi hết giặc Minh. Về việc này, cho đến bây giờ chúng ta vẫn không có tư liệu lịch sử nào cho biết nhà Lê đã chính thức chấp nhận hay khước từ lời thỉnh cầu thần phục của các động vừa nêu. Chỉ có thể đoán định rằng hành động của các tù trưởng ở các động ấy như đã nêu không ngoài mục đích nhằm tạo ra một tình trạng mập mờ để thuận lợi cho sự tự trị của họ mà thôi. Chính vì thế mà mãi đến năm 1540, nhân cớ nhà Mạc muốn sớm được chính thức công nhận về mặt ngoại giao nên nhà Minh mới đặt điều kiện đòi hỏi Mạc Đăng Dung phải cam kết chính thức trao trả quyền thống quản 4 động đó cho họ và có được như vậy thì “thiên triều” mới “cho trông coi đất An Nam”! Bằng dẫn giải này,một lần nữa chứng minh rằng Mạc Đăng Dung chưa bao giờ cắt đất Tổ quốc dâng cho ngoại bang…

 

Chính ĐVSKTT cũng đã vô tình thừa nhận việc làm này của Mạc Đăng Dung là trả đất qua đoạn ghi chép: “Tháng 10 ngày 20 (năm 1541, tức là năm Quảng Hoà nguyên niên đời Mạc Phúc Hải-HT). Bọn Mao Bá Ôn (Mao Bá Ôn là thượng thư nhà Minh, được cử “làm tham tán quân vụ cùng Cừu Loan là Tổng đốc quân vụ đem quân sang đánh nhà Mạc-HT) về Yên Kinh tâu nói Mạc Đăng Dung tự trói mình dâng lễ hàng ở cửa aei, xin tuân theo chính sóc, tước bỏ tiếm hiệu, TRẢ LẠI ĐẤT 4 ĐỘNG ĐÃ XÂM CHIẾM (chúng tôi nhấn mạnh-HT), xin nội ứng xưng thần (…) cúi mình kính thuận” (ĐVSKTT, tập IV, tr 132). Rõ ràng, chính ĐVSKTT cũng hoàn toàn xác nhận rằng đây là việc trả đất. Và cũng chính ĐVSKTT đã thừa nhận rằng trấn Như Tích (nơi có 4 động hữu quan) đã là đất của Trung Hoa từ thời nhà Tống trong đoạn chép sau đây: “Trước đây dân của trấn Triều Dương của ta là bọn Văn Dũng làm loạn, giết người trốn sang Như Tích thuộc Khâm Châu nước Tống, trấn tướng là Hoàng Lệnh tức giấu bọn Văn Dũng. Vua sai trấn tướng Triều Dương là Hoàng Thành Nhã đuổi bắt, lệnh tức không chịu trả về. Nay Nghiêu Tẩu (là Quảng Tây vận sứ-HT) đến Như Tích, ta ra được chuyện chứa dấu ấy, đem hết bọn trai gái, già trẻ đã chứa giấu cộng 113 người, gọi Thành Nhã sang giao cho nhận về” (ĐVSKTT, tập I, tr 176).

 

Vậy là ngay một số ghi chép trong ĐVSKTT như đã trích dẫn trên cũng đủ cho thấy hoàn toàn không có chuyện Mạc Đăng Dung cắt đất của Đại Việt để dâng cho nhà Minh. Có chăng chỉ là các sử thần Lê-Trịnh vì mục đích chính trị đã xuyên tạc sự thật lịch sử để hạ nhục nhà Mạc mà thôi. Ngoài vấn đề này ra thì chung quanh việc bang giao giữa nhà Mạc với nà Minh cũng còn có nhiều điều khác nữa cần được soi xét lại, dù đó là đại sự hay tiểu tiết. Mà có khi chính tiểu tiết lại rất lợi hại. Chẳng hạn như những điều ghi chép nói rằng Mạc Đăng Dung cùng đoàn tuỳ tùng đã “qua trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở Mạc phủ nước Minh; quỳ gối cúi đầu dâng tờ biểu xin hàng(…)”(ĐVSKTT, tập IV, tr 131). Với ghi chép này, cá nhân chúng tôi hoàn toàn không tin ở những chi tiết như “cầm thước’, “buộc dây vào cổ”, “đi chân không”..v.v.. không khỏi cho rằng đây chỉ là những chuyện thêu dệt để bôi nhọ người sáng lập ra Vương triều Mạc mà thôi.

 

Đặt lại vấn đề với nội dung nêu trên, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến LƯƠNG TÂM và trách nhiệm của các sử gia cũng như các nhà nghiên cứu về lịch sử trong việc ghi chép và bình phẩm hành trạng của các nhân vât lịch sử. Nhân đây muốn được dựa vào chiết tự để lưu ý chữ SỬ có tự dạng Hán nguyên gốc là trên chữ TRUNG nghĩa là ngay thẳng, trung thực và dưới là chữ HỰU tức là lại nữa… (biểu thị sự trùng lặp). Như vậy khi nhìn đến chữ SỬ đã gợi trong ta sự trung thực không chỉ một lần mà đã luôn luôn phải trung thực. Nhân 450 năm ngày băng hà của Mạc Thái tổ Đăng Dung (1541-1991) dám mong các vị sử gia và các nhà nghiên cứu lịch sử hãy vì chữ Trung trong chữ SỬ mà định lại công và / hoặc tội của nhân vật lịch sử này để cho những tranh sử về nhà Mạc được đích thực là những trang sử khách quan.

 

Chót hết, xin lưu ý thêm là các tác giả Phương Đình dư địa chí và Đại Nam nhất thống chí cũng đã cho rằng hành động của Mạc Đăng Dung không phải là dâng đất mà rằng đó là việc trả đất mà thôi.

 

Theo HUỆ THIÊN