Viết nhân ngày của mẹ.
Đối với dân tộc Việt Nam, chữ Hiếu rất quan trọng nên có rất nhiều
tác phẩm văn học và nghệ thuật xoay quanh chủ đề Mẹ. Đó là một đề
tài thực là rôïng lớn và hàm chứa nhiều đặc tính của văn hóa Việt
nam.
Nhân ngày lễ Mother' Day, tôi có một chút tản mạn về văn học như một
sự tưởng nhớ đến các bà mẹ Việt Nam , mà chữ hy sinh đă được nạm
vàng trong một cuộc sống đầy bất trắc sóng gió của Việt Nam chiến
tranh và Việt Nam hậu chiến.Biết bao nhiêu bà mẹ Việt Nam, âm thầm
lo lắng cho chồng cho con, vun xới gia đ́nh đến quên ḿnh, lấy niềm
vui của chồng con làm niềm vui của ḿnh. Bao nhiêu bà mẹ Việt Nam ,
trong những ngày sau 1975 , nặng vai gia đ́nh con cái , mà vẫn gom
góp đi thăm nuôi chồng bị tù cải tạo ở những xó rừng heo hút.Và cũng
biết bao nhiêu bà mẹ ở xứ người, làm lại cuộc đời với bàn tay trắng
để phụ giúp chồng nuôi dưỡng con bảo bọc gia đ́nh trong truyền thống
Việt Nam đă có tự ngàn xưa..
Từ cổ đại đă có ngày vinh danh Mẹ, như thời đại Cổ Hy Lạp, là ngày
lễ kỷ niệm của bà Cybele, mẹ vĩ đại của ḍng tộc Geek hay thời đế
quốc La Mă cũng có ngày Matronalia, ngày mà các bà mẹ được gửi quà
tặng. Hay về sau ngày ngày Phụ Nữ Quốc Tế 8 tháng 3 cũng được nhiều
dân tộc chọn là ngày của mẹ.
Riêng ở Hoa kỳ , măm 1912 , bà Anna Jarvis đă chọn ra ngày " chủ
nhật thứ hai của tháng năm" để làm ngày của Mẹ và bà đă sáng lập ra
The Mother's Day International Association. Và sau những cuộc vận
động , tổng thống Woodrow Wilson đă tao thành sắc luật với sự đồng
thuận của quốc hôi chọn ngày 10 tháng 5 mỗi năm là ngày Mother's
Day.
Ơû trên thế giới có nhiều quốc gia chọn ngày của mẹ ở những thời
điểm khác nhau. Ở Việt Nam, ngay lễ Vu Lan được coi như ngày vinh
danh mẹ.
Ngày The Mother's Day là một ngày lễ quan trọng đối với dân chúng
Hoa Kỳ. Họ biểu lộ sự biết ơn các bà mẹ và đă tổ chức những bữa ăn
sum họp gia đ́nh và các con gửi tặng bà mẹ những món quà biểu lộ
t́nh thương và sự biết ơn của ḿnh.Càng ngày người dân Hoa kỳ càng
tiêu xài cho ngày lễ này càng nhiều và thương mại nhờ đó cũng thành
thông lệ tốt để phát triển.
Theo tổ chức IBIS World khảo sát và công bố kết quả th́ năm 2008 dân
chúng Hoa kỳ đă tiêu tốn tới 2 tỉ 6oo triệu dollars tiền hoa, 1 tỉ
530 triệu tiền quà tặng , 600 triệu tiền thiệp chúc mừng. Cũng như
trong ngày này đă tiêu thụ 7.8 phần trăm tổng sản lượng của kỹ nghệ
nữ trang toàn quốc cho những đồ vàng bạc nhẫn xoàn làm quà tặng cho
mẹ.
Có nhiều người phản đối sự lạm dụng ngày lễ như một dịp để buôn bán.
Như bà Anna Jarvis người đă phê b́nh nặng nề thói tục xử dụng thiệp
chúc mừng mẹ và cho rằng đó là một việc làm lười biếng không có t́nh
cảm thay v́ viết một lá thư th́ biểu lộ được ḷng biết ơn nhiều
hơn.Bà đă bị bắt giam năm 1948 v́ đă gây xáo trôn trong cuộc biểu
t́nh chống lại sự thương mại hóa ngày lễ của Mẹ.Bà tuyên bố rằng
cuối cùng bà muốn sẽ chẳng bao giờ cử hành ngày lễ này v́ nó đă bị
lạm dụng đến nỗi không thể kiểm soát được.
Với người Việt Nam ngày của Mẹ là ngày rằm tháng bảy, lễ Vu lan,
dịch từ tiếng Phạn là Vu lan Bồn , từ chuyện tích của Ngài Mục Kiền
Liên cầu nguyện cho Mẹ là bà Thanh Đề bị làm ngạ quỉ đọa vào địa
ngục. Từ đó các Phật tử theo gương ngài để nhớ ơn và đền ơn sanh
thành dưỡng dục của mẹ cha.
Từ thời tiền chiến đến bây giờ, có rất nhiều tác phẩm viết về t́nh
mẹ. Trong nhất thời không thể nào đề cập đến hết được tôi chỉ nhắc
đến những ǵ tôi nhớ hoặc đă gây cho tôi xúc cảm . Thí dụ tiêu biểu
như truyện ngắn Anh Phải Sống của nhà văn Khái Hưng tả lại sự hy
sinh của người mẹ tự buông tay chịu chết để người cha sống sót và
nuôi mấy đứa thơ .Mùa lụt hai vợ chồng v́ nghèo khổ nên chèo thuyền
ra giữa sông để vớt củi từ trên ngược chảy về. Sóng to gió lớn nên
thuyền bị ch́m và hai vợ chồng cùng bơi để vào bờ. Nhưng sức đă yếu
nên người vợ buông tay để chồng có thể được cứu sống để nuôi nấng
mấy đứa con. Trước khi buông tay giă biệt, người mẹ đă kêu lên
"thằng Ḅ, cái Lớn, cái Bé! Không.. Anh phải sống". Một truyện
ngắn thật cảm động đă làm nhiều người cảm xúc đến rưng lệ.
Hoặc tiểu thuyết Chồng Con của Trần Tiêu, chuyện một bà mẹ
suốt đời hy sinh cho chồng cho con… Khi c̣n trẻ , phải gánh vác việc
nhà gặp phải anh chồng lười biếng ham chơi , lại phải nợ nần để mua
nhiêu mua lư cho chồng. Đến khi có con th́ lại khổ về đường con, cho
đến khi bệnh nặng gần chết mà vẫn c̣n phải cố sống để làm tṛn bổn
phận người vợ người mẹ và bảo vệ cái thanh danh của gia đ́nh. Tiểu
thuyết này mô tả lại sinh hoạt của dân quê thuở trước với những hủ
tục đă làm người nghèo càng nghèo hơn…Chân dung bà mẹ là một biểu
hiện hy sinh thật rơ ràng của thời đại đă qua trong đời sống dân tộc
Việt Nam.
Về thi ca th́ cũng có rất nhiều , thí dụ như bài Nắng Mới của
Lưu Trọng Lư:
Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy năo nùng
Ḷng rượi buồn theo thời dĩ văng
Chập chờn sống lại những ngày không
Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc người c̣n sống tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Aùo đỏ người phơi trước dậu phơi
H́nh dáng mẹ tôi chửa xóa mờ
Hăy c̣n mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước dậu thưa
Hoặc bài Lời Ru Của Mẹ của Hồ Dzếnh:
Khi con c̣n ngủ trong thai
Cuống nhau mẹ chắt đêm ngày thức ăn
Nôi êm nâng giấc con nằm
Sữa thơm mẹ lại vắt phần nuôi con
Bùn màu thắm nước nâu non
Biết bao nghỉa cả t́nh son với đời
Kiếp sau xin lại làm người
Để nghe non nước vọng lời mẹ ru
Đó là chỉ một vài tiêu biểu chứ trong văn học Việt Nam c̣n rất nhiều
tác phẩm viết về Mẹ rất cảm động .
Nhưng âm nhạc đă tạo cho tôi thật nhiều xúc động khi nghe những bản
nhạc như Ơn Nghĩa Sinh Thành của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Ḷng Mẹ
của nhạc sĩ Y Vân, Bông Hồng Cài Aùo của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ…
Bản Ḷng Mẹ tôi đă nghe đi nghe lại ở một băng ghi âm c̣n sót lại
sau những ngày ở Sài G̣n tháng 5 năm 75. Lúc ấy , gia đ́nh tôi đă di
tản nhưng chưa biết tin tức thế nào và tôi đă nghe bản nhạc có những
câu như "Ḷng mẹ bao la như biển Thái B́nh dạt dào.T́nh mẹ tha thiết
như gịng suối hiền ngọt ngào. Lời mẹ êm ái như đồng lúa chiều ŕ
rào. Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng mẹ yêu.." đă làm ḷng tôi
như mềm đi trong nỗi bồi hồi khôn xiết.Tôi nghe măi đến nỗi băng ghi
âm bị ṃn đi thành những tiếng rè rè. Và tôi vẫn nghe, tưởng âm
thanh rè rè đó là tiếng động của chuyến tàu đă đưa những người thân
đi xa mất biệt…
Bản nhạc Ơn Nghĩa Sinh Thành làm tôi nhớ đến những ngày của biến cố
Tết Mậu Thân. Lúc ấy cha tôi vừa mất ở nhà ông anh cả của tôi và đêm
tôi ngồi canh bên quan tài của ông mà nghe bản nhạc ấy một ḿnh với
tâm tư rối bời và buồn thảm. Lạ một điều , nghe bản nhạc của Nhạc sĩ
Dương Thiệu Tước tôi lại nghe như có một chút ǵ như muốn chia sẻ
nỗi ngậm ngùi của riêng tôi. Từ câu học thuộc ḷng thời nhỏ: Công
cha như núi Thái Sơn . Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, để
thành một ḍng nhạc nhắc nhở đạo làm con . Mà tôi th́ tự nhận xét
ḿnh là đứa con làm phiền ḷng cha mẹ nhiều nhất…
Ca khúc "Bông Hồng Cài Áo" của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ lấy ư và gợi cảm
hứng từ một bài đoản văn cùng tên.
Bông Hồng Cài Aùo là một đoản văn của Ḥa thượng Nhất Hạnh viết năm
1962 ở một trại hè Camp Ockanikon tiểu bang New Jersey Hoa Kỳ và phổ
biến trong nội bộ đoàn sinh viên Phật tử Sài G̣n bằng cách chép tay
thành 300 bản làm quà tặng cho banï bè. Mỗi bản chép tay đều gắn
thêm một chiếc hoa màu hồng cho người c̣n mẹ hoặc màu trắng cho
người mẹ đă qua đời. Rằm tháng bảy năm 1962 tức lễ Vu Lan các sinh
viên Phật tử tụ họp tại chùa Xá Lợi và cử hành Lễ Bông Hồng Cài Aùo
đầu tiên. Năm 1964 , nhà xuất bản Lá Bối của thầy Từ Mẫn in quyển
Bông Hồng Cài Áo đầu tiên khổ nhỏ và dài có thể bỏ vào b́ thư để gửi
tặng bạn bè trong ngày lễ Vu Lan.
Bài viết gửi cả tấm ḷng của một người đă xuất gia tặng Mẹ. Giọng
văn thật thiết tha, ư nghĩa thật sâu sắc, biểu hiện của một phong
thái rất Việt Nam, cô đọng trong từ ngữ nhưng lại mở ra nhiều ư
tưởng độc đáo.
Mở đầu với một bài thơ mà ông nhớ từ thuở nhỏ v́ nỗi đau mất mẹ:
"năm xưa tôi c̣n bé
mẹ tôi đă qua đời
lần đầu tiên tôi hiểu
thân phận trẻ mồ côi
quanh tôi ai cũng khóc
im lặng tôi sầu thôi
để ḍng nước mắt chảy
là bớt khổ đi rồi
hoàng hôn phủ trên mộ
chuông chùa nhẹ rơi rơi
tôi thấy tôi mất mẹ
mất cả một bầu trời"
Ai đă từng làm cha mẹ mà không phải se ḷng với những câu văn thiết
tha, với những suy tư rất thực tế mà lại đầy triết lư . Nhất là đoạn
cuối có lời nhẹ nhàng hướng dẫn , có ư sâu sắc ngỏ t́nh , đă mở ra
những khung trời yêu thương.
Đoạn văn ấy đă làm rường cột cho bản nhạc của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ
khi ông làm bản Bông Hồng Cài Aùo:
"Nếu có khuyên, th́ tôi sẽ khuyên anh như thế này. Chiều nay, khi
đi học hoặc khi đi làm về, anh hăy vào pḥng mẹ với một nụ cười thật
trầm lặng và bền. Anh sẽ ngồi xuống bên Mẹ. Sẽ bắt Mẹ dừng kim chỉ
mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ nh́n mẹ thật lâu thật kỹ để trông
thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên anh. Cầm tay
mẹ anh sẽ hỏi một câu làm mẹ chú ư. Anh hỏi "mẹ ơi, mẹ có biết
không? Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ nh́n anh vừa cười vừa hỏi" Biết
ǵ? Vẫn nh́n vào mắt mẹ, giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi
tiếp" Mẹ có biết là con thương mẹ không?
Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi,
chị lớn ba bốn mươi tuổi, th́ anh cũng sẽ hỏi một câu ấy. Bởi v́
anh. Bởi v́ chị, bởi v́ em là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng,
sẽ sống trong t́nh thương bất diệt. Và ngày mai mất mẹ, anh sẽ không
hối hận đau ḷng, tiếc rằng anh không có mẹ .Đó là điệp khúc tôi
muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hăy ca, chị hăy ca cho cuộc
đời đừng ch́m vào trong vô tâm quên lăng. Đóa hoa màu hồng tôi cài
trên áo anh rồi đó. Anh hăy sung sướng đi."
Nghe bản nhạc của Phạm Thế Mỹ, h́nh như tất cả những điều tuyệt diệu
của bài đoản văn đă được lột tả trong âm nhạc. Những thông điệp t́nh
thương được gửi đi không những nguyên vẹn mà làm vỗ cánh bay đi xa
hơn , làm xao động cao rộng hơn. Ḥa thượng Nhất Hạnh đă nhận xét về
bản nhạc như sau:"Phạm Thế Mỹ làm bài Bông Hồng Cài Áo rất dễ dàng
như thở vào thở ra, tự nhiên như bước chân đi dạo, tự nhiên như khi
nâng chén trà lên uống. Tôi không thấy tôi và nhạc sĩ là hai người
khác nhau khi nghe ca khúc Bông Hồng Cài Áo, trước kia cũng vậy và
bây giờ cũng vậy.."
Với riêng tôi, ca khúc Bông Hồng Cài Aùo nhắc nhở ngày mẹ tôi từ
trần. Bà mất vào ngày 3 tháng 5 năm 2003 trước Mother's Day một tuần
và đến lễ Vu Lan là ngày cúng 49 ngày của mẹ tôi. Hôm ấy, có một cô
bé trong đoàn phật tử trong buổi lễ hỏi tôi. Chú cài bông hồng mầu
ǵ ? Và tôi trả lời.Mầu trắng. Và cô bé nói con sẽ hát bài Bông Hồng
Cài Áo để tặng chú . Khi trả lới cô bé, tôi nhớ lại như một cách
phản xạ. Nhớ lại vành khăn trắng, mùi nhang khói, đôi mắt nhắm lại
của mẹ ngày nào, tất cả làm tôi như hụt hẫng. Đọc những câu kinh,
nh́n lên bàn thờ Phật, để trấn tĩnh lại. Đôi mắt Đức Phật, như có
chút ǵ xẻ chia, như có chút ǵ an ủi. Mẹ tôi đă đi xa. Bây giờ, hết
rồi, không c̣n nụ cười móm mém mắt cũng cười theo khi nh́n con cháu.
Bây giờ hết rồi không c̣n những chuyện kể ngày xưa lúc ở phố Lạng
Sơn hay ở làng Phù Lưu. Bây giờ, mẹ đang nằm trong ḷng đất xứ
người. Và biết đâu, ở cơi âm phần đó mẹ trở về lại quê hương, để ghé
thăm ngôi nhà cũ, ngơ làng xưa. Biết đâu…Và bản nhạc Bông Hồng Cài
Áo có khi là một hối tiếc muộn màng của một đứa con nhiều lần làm mẹ
buồn như tôi…
Cuộc đời mẹ tôi, trải qua nhiều khó khăn nhiều lo toan khổ cực và
với đàn con như một con gà mẹ luôn x̣e cánh ra che chở và chống đỡ
lại những nghiệt ngă của cuộc đời.
Mẹ hay kể lại những năm đói hay những cuộc chạy loạn trong cuộc đời
ḿnh. Bà vẫn nhớ những người đă cưu mang giúp đỡ đến nỗi mấy đứa con
khi nghe một câu đầu đă tiếp theo ngay câu thứ hai, và bà cười nhưng
vẫn tiếp tục cái câu chuyện đă quá quen thuộc ấy. Bà nhắc đến khi
chạy loạn, ghé vào chùa của sư cô Khoa có cây khế đă thành thức ăn
thanh đạm trong nhiều ngày cho cả gia đ́nh hay những khi bố tôi phải
vào rừng kiếm gỗ đẽo guốc để bán những lúc khó khăn. Thời gian lúc
đó, với bà vẫn gần gũi quen thuộc như lúc hiện giờ , sáng sớm ra chợ
mở cửa hàng buôn bán như một công việc đă kéo dài năm này qua tháng
khác.
Năm 1975 , những phi đoàn F5 dời về phi trường Tân Sơn Nhất lúc đầu
tháng tư. Và tháng chót trong đời quân ngũ của tôi là thời gian ở
đây.ø T́nh h́nh lúc này nặng nề với bao nhiêu biến chuyển của đất
nước. Trong đơn vị, câu chuyện hàng ngày vẫn bao quanh câu hỏi đi
hay ở. C̣n ở gia đ́nh, cũng câu hỏi tương tự. Mẹ tôi vẫn một câu
nói. Đứa nào đi được th́ cứ đi , đừng có lo cho người khác, nhất là
những đứa có thể có những phương tiện. Bà nói, mẹ đă có nhiều thời
gian sống với bọn "họ" rồi. Khổ sở lắm … Khi sửa soạn những túi xách
để ra đi , bà cứ chép miệng . Qua Mỹ rồi, làm ǵ có trầu mà ăn !
.Những miếng trầu, là cái thú vui của bà cũng như xem và nghe các
tuồng cải lương. Những miếng trầu, suốt mấy chục năm, đă thành một
thói quen thân yêu không thể nào bỏ. Thế mà, v́ nghĩ đến mấy đứa
con, bà quên đi cái tập quán ấy, chấp nhận ra đi…
Rốt cuộc, gần như cả gia đ́nh tôi di tản được năm 1975. Riêng tôi,
c̣n nặng nợ nên kẹt lại , dù đă đi xuống phi trường B́nh Thủy nhưng
không thoát được phải trở về nhà. Cái giây phút phải leo vào nhà sao
thê thảm. Cửa dưới bị niêm phong, nên phải leo lên lầu để vào nhà.
Khi nh́n thấy vât dụng của những người thân trong nhà tôi thấy nghẹn
ngào. Vật th́ c̣n đây nhưng người th́ đă đi xa. Tôi nh́n giường ngủ
của mẹ, nh́n đôi dép nhung dưới sàn , nh́n ô trầu, nh́n cái áo vắt
trên thành giường, tự nhiên tôi muốn ̣a khóc. Những lá trầu đă héo
vàng, những miếng cau đă quăn queo, những vệt vôi têm đă khô bong
ra, như biểu tỏ của nỗi niềm chia ly vĩnh viễn. Lúc đó tôi nghĩ
chẳng bao giờ gặp lại được những người thân. Cái cảm giác tuyệt vọng
làm tôi như muốn ngạt thở. Nhưng rồi vẫn phải nén cảm xúc và vẫn
phải sống và thoát đi cái địa ngục đang dần hiện đến của số phần
những người thua trận.
Đi tù rồi trở về Sài G̣n, chờ đợi những chuyến vượt biên , thỉnh
thoảng tôi lại đi qua để nh́n vào căn nhà thời xưa của ḿnh cũng như
sạp bán vải trong chợ B́nh Tiên của mẹ ngày xưa . Cảnh vật cũng thê
lương ảm đạm như người lúc đó. Buôn bán khó khăn , phiên chợ mất đi
cái náo nhiệt thời xưa và người mua kẻ bán tràn ùa ra lề đường với
kiểu buôn bán tạm bợ chỉ biết ngày nay mà không thể mường tượng được
sinh kế của ngaỳ mai. Từ những người đàn bà buôn gánh bán bưng trên
hè phố tôi lại nhớ đến mẹ tôi. Không biết bây giờ bà ra sao và đời
sống thế nào?
Sau này, khi nghe kể lại, khi tạm cư ở
đảo Wake, mẹ tôi thường xuyên ra cầu tàu nh́n mông về phía biển và
đợi một chuyến tàu ghé bến có đứa con của ḿnh. Bà chờ đợi và chờ
đợi…
Tôi vượt biển tới đảo Kuku rồi Galang năm 1980. Trong vài tháng chờ
định cư, tôi đă sống những ngày tự do thật vui vẻ. Mấy đứa em gửi
thư qua nói anh hăy xem thời gian hiện tại như là đi nghỉ hè, qua
đây sẽ làm việc học hành đến không kịp thở.
Đến Mỹ, sau một thời gian ngắn tôi lao vào cuộc sống mới. Vừa học
vừa làm, với cái tâm tư cố gắng bây giờ cho ngày mai. Mẹ tôi hàng
ngày thúc đẩy ; Ráng học cho có một cái nghề. Ở đây mà lông bông
không nghề nghiệp không bằng cấp th́ khổ lắm. Không phải với riêng
tôi mà cả với mấy đứa cháu nội, cháu ngoại bà cũng khuyên nhủ như
thế . Gia đ́nh ḿnh không có gia tài cha ông để lại, th́ phải gắng
học để có của cải cho riêng ḿnh. Có lúc có mấy người bạn rủ tôi mở
tiệm furniture, lúc ấy làm ăn rất dễ dàng mà vốn liếng chẳng bao
nhiêu. Nhưng mẹ tôi cản, nói học phải là công việc chính để chừng
nào xong sẽ tính sau.
Mỗi buổi sáng sớm mẹ tôi dậy sớm sửa soạn bữa ăn sáng cho tôi và mấy
đứa cháu cũng như bới cơm mang đến trường. Trên bàn ăn là một dăy
năm cạp lồng cơm để thứ tự và món ăn thay đổi ngon lành . Kết quả là
bây giờ, mấy chú cháu, cậu cháu đều tốt nghiệp hậu đại học và đều có
công ăn việc làm tốt. Và, như thế mẹ tôi hài ḷng lắm.
Bây giờ mẹ tôi đă yên nghỉ ở nghĩa trang Peek Family.
Có một lúc nào như khi trong trại cải tạo nghe bài "Ḷng mẹ" tưởng
không bao giờ gặp lại khi mẹ tôi đă di tản vào những ngày tháng tư
năm 1975. Hay như bây giờ nghe bài "Bông hồng cài áo" để thấy trong
dạ thổn thức.
Lúc ở nghĩa trang, nh́n những con chim sáo đen mổ những hạt cơm cúng, tự nhiên tưởng tượng đến những ngă đường nào mù mịt trong cơi âm phần. Ra đi hay trở về, hiện tại không xác định được.
Nhưng chỉ mường tượng một điều cuộc sống sẽ c̣n dài.Chẳng phải ngày một ngày hai mà chấm dứt…
Trang Chủ . Kim Âu . Lưu Trữ. Báo Chí . RFI . RFA . Tác Giả . Chính Trị . Văn Nghệ . Khoa Học . Mục Lục . Quảng Cáo . Photo . Photo 1. Tinh Hoa . Liên lạc
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
MINH THỊ
Bài trong trang này nhằm cung cấp thông tin phục vụ yêu cầu tham khảo, điều nghiên của Người Việt Quốc Gia trong tinh thần "tri kỷ, tri bỉ", " biết ta, biết địch" để nhận rơ những âm mưu, quỷ kế, ngôn từ và hành động của kẻ thù và có phản ứng, đối sách kịp thời. V́ mục đích chiến đấu chống kẻ thù chung là Cộng Sản nên nhận được bài cùng lập trường là chúng tôi tiếp sức phổ biến. V́ thế có những tác gỉa chúng tôi đăng bài nhưng chưa liên lạc được. Nếu tác gỉa nào cảm thấy không hài ḷng xin liên lạc qua email, chúng tôi sẽ lấy bài của quư vị xuống trong ṿng 48 tiếng.