truocconcuchinagiaithoa

 

 

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

NT Kiên, Kim Âu, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan, NT Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Ư Nghĩa Của Đời Sống Loài Người

 

Tuệ Uyển dịch

 

 

 

 

SỰ THẢO LUẬN của chúng ta về thiền tập cho thấy rằng phân tích là thiết yếu đối với tiến tŕnh chuyển hóa tinh thần. Tuệ trí của học hỏi (văn) và tuệ trí của quán chiếu (tư) nổi bật lên từ sự thực hành tùy thuộc trên việc sử dụng một cách thích đáng trí thông minh. V́ con người được trang bị với một loại thông minh tốt nhất, cho nên đối với một hành giả Phật Pháp có sự hiện hữu như con người là cực kỳ quan trọng.

 

Đă thiết lập một mối quan hệ với một vị thầy tâm linh, th́ chúng ta phải thực hành như thế nào? Tŕnh bày những giai tầng mà qua đấy hành giả tự rèn luyện tâm thức, Tông Khách Ba (1:117-175) bắt đầu với việc quan tâm đến động cơ. Một điểm thiết yếu mà ngài thực hiện là tầm quan trọng của việc nhận ra sự quư giá của việc được sinh ra như một con người, đặc biệt như một con người có sự thư thái và cơ hội để thực hành giáo pháp. Loại tái sanh hiếm hoi này phải được sử dụng cho một mục tiêu to lớn. Chúng ta không thể cho là đương nhiên hay cho rằng chúng ta sẽ dễ dàng có sự tái sanh như một con người trong tương lai. Thế nên câu hỏi là: Chúng ta có thể làm cho sự hiện hữu như những con người của chúng ta đầy đủ ư nghĩa như thế nào?

 

Để giải thích điều này, Tông Khách Ba (1:129-141) sử dụng khái niệm rằng con người có ba năng lực: nhỏ, trung b́nh, và lớn hay siêu việt. Để định nghĩa con người với năng lực nhỏ, ngài (1:130) trích trong Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ – hay Bồ Đề Đạo Đăng Luận – của Atisha rằng:

 

Hăy biết như những con người thấp nhất là những kẻ cần cù cố gắng duy nhất để đạt đến những niềm an lạc trong cơi luân hồi, bằng bất cứ phương tiện nào, chỉ cho lợi ích của chính họ mà thôi.

 

Mục tiêu chính của họ là hạnh phúc trần gian, sự tiếp cận của họ đến mọi thứ được h́nh thành bằng động cơ ấy.

 

Tác phẩm của Atisha (trích 1:130-131) sau đó định nghĩa con người với năng lực trung b́nh:

 

Những người được gọi là “trung b́nh” là những kẻ chấm dứt những hành vi tội lỗi, quay lưng lại với những niềm vui của cơi luân hồi, và cố gắng một cách cần mẫn chỉ v́ sự ḥa b́nh tĩnh lặng của chính họ mà thôi.

 

Động cơ chính của những con người này là để đạt đến tự do khỏi cơi luân hồi; họ được tẩy hết ảo tưởng đối với tất cả niềm vui hiển nhiên trong cơi luân hồi một cách sâu sắc. Ở đây, “tội lỗi” liên hệ đến những phiền năo; “hành vi tội lỗi” có nghĩa là những việc làm đưa đến tái sanh trong cơi luân hồi. Những hành giả với năng lực trung b́nh quay lưng lại với những hành vi như vậy và cố gắng một cách cần mẫn cho sự an b́nh và tự do của chính họ, giải thoát khỏi cơi luân hồi. Những sự thực tập chính yếu của họ là ba rèn luyện cao cấp trong đạo đức, thiền định và tuệ trí (giới, định, tuệ). Trong phạm vi của việc rèn luyện trong tuệ trí, họ tập trung trên 37 phẩm trợ đạo bồ đề (pali).

 

Sau đó Tông Khách Ba (1:131) trích dẫn sự định nghĩa của Atisha về những con người với năng lực lớn:

 

Những người được gọi là “siêu việt” là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ năo của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.

 

Những hành giả này nội quán vào trong khổ đau của chính họ và sau đó mở rộng cùng sự thấu hiểu ấy đến tất cả những chúng sanh khác. Họ được động viên để chấm dứt khổ đau của tất cả chúng sanh và chính trên căn bản ấy mà họ ngưỡng vọng đạt đến Quả Phật v́ lợi ích của tất cả chúng sanh. Họ thực hành tâm bồ đề cả những h́nh thức cứu kính lẫn quy ước cũng như sáu ba la mật[1]. Những sự thực tập này là đặc biệt cho những hành giả với năng lực siêu việt.

 

Do bởi những mục tiêu khác nhau của họ, cho nên có những sự thực hành khác nhau thích ứng đặc biệt cho mỗi người trong ba hạng người trên. Đối với hành giả có năng lực nhỏ bé, mục tiêu của họ là đạt đến sự tái sanh may mắn. Những người với năng lực trung b́nh thực hiện những sự tu tập hướng đến việc đem tới sự giải thoát khỏi ṿng luân hồi. Những người với năng lực siêu việt muốn những sự thực hành và giáo huấn hướng đến việc đạt được thể trạng toàn giác của một Đức Phật.

 

Nếu chúng ta hỏi những ǵ phân biệt Phật Giáo, những ǵ là bản chất của giáo Pháp, thế th́ chúng ta phải trả lời trong dạng thức của những ǵ góp phần cho việc đạt đến giải thoát. Tuy nhiên, trong sự thực hành thật sự, quư vị phải tiến hành theo phương thức từng bước một. Ngay cả nếu mục tiêu của quư vị là để đạt đến giải thoát, trong sự bắt đầu của con đường tiệm tiến – như Thánh Thiên đă chỉ ra trong Bốn Trăm Kệ Tụng – quư vị phải chấm dứt những hành vi bất thiện. Trước khi quư vị có thể phản ứng lại những phiền năo tiềm tàng, th́ quư vị cần đối phó với những biểu hiện hay biểu lộ liên quan tới hành vi của những phiền năo này. Đây là những hành vi tiêu cực và tàn phá của thân thể, lời nói và tâm ư. V́ thế thật quan trọng để kiêng tránh khỏi mười hành vi bất thiện[2]. Trong tŕnh bày của Đức Phật về mười thiện giới, nguyên tắc chính là để đối phó với những hậu quả của sân hận và thù oán v́ thế là tránh làm tổn hại người khác. Hành giả với năng lực nhỏ bé không cố gắng để đối đầu với chính những phiền năo, nhưng đối phó với những biểu hiện hay biểu lộ liên quan tới hành vi của những phiền năo này.

 

Rồi th́, như Thánh Thiên đă chỉ ra trong Bốn Trăm Kệ Tụng, trong đoạn giữa của con đường tiệm tiến hành giả cần chấm dứt chấp ngă[3]. Hành giả với năng lực trung b́nh tập trung và hành động để tẩy trừ chính những phiền năo.

 

Sau đó, ở tŕnh độ thứ ba, Thánh Thiên nói rằng chúng ta phải đem đến một sự chấm dứt của tất cả những quan điểm vọng tưởng. Điều này cho thấy rằng con người với năng lực siêu việt đang vượt thắng không chỉ những phiền năo, nhưng cũng là vượt thắng những xu hướng c̣n sót lại căn cứ trên những phiền năo đă hiện diện trước đây trong tâm thức họ. Trong cách này, quư vị có thể nối kết ba giai tầng thực tập của Thánh Thiên với ba hạng hành giả của Atisha.

 

Tŕnh Tự Thực Tập

 

Có một chuỗi thứ tự rơ ràng đối với giáo huấn và thực tập cho những con người của ba năng lực. Quư vị không thể nhảy tới những sự thực tập liên quan với năng lực trung b́nh hay năng lực siêu việt mà không xếp đặt một nền tảng bằng việc thực hiện những sự thực tập phù hợp với người có năng lực nhỏ. Dấn thân trong một sự thực tập như vậy, quư vị bỏ đi những quan tâm ám ảnh về kiếp sống này và hướng tới quan tâm cho những kiếp sống tương lai.

 

Rồi th́ trong tŕnh độ tiếp theo, việc phản chiếu một cách sâu sắc trên bản chất khổ đau trong ṿng luân hồi, quư vị cũng có thể quay lưng khỏi sự dính mắc cũng như bận tâm với những kiếp sống tương lai. Buông bỏ sự bận tâm ám ảnh với kiếp sống này và với những kiếp sống tương lai, th́ quư vị có một cảm nhận sâu xa của việc tỉnh mộng đối với ṿng luân hồi như một khát vọng toàn bộ và chân thành hay nguyện vọng để đạt đến tự do.

 

Sau đó quư vị hướng tập trung, mở rộng cùng sự thấu hiểu đến những chúng sanh khác. Khi quư vị động ḷng trắc ẩn, ḷng bi mẫn đối với họ, quư vị làm sâu sắc thêm và mở rộng ḷng trắc ẩn ấy đến toàn thể chúng sanh, th́ thực tập như một hành giả với năng lực siêu việt. Thế nên chuỗi thực hành được quyết định bởi những giai tầng qua những ǵ mà tâm thức chúng ta tiến bộ khi nó được chuyển hóa.

 

Giáo huấn những giai tầng của con đường tiệm tiến làm lợi lạc mọi hành giả ở bất cứ tŕnh độ năng lực nào. Trong giáo huấn này, quư vị t́m thấy những sự thực hành thích ứng với xu hướng tinh thần và động cơ tâm linh đặc thù. Nếu là một người với năng lực nhỏ, chủ yếu muốn tránh khổ đau trong một sự tái sanh bất hạnh, thế th́ có một cách thực tập giáo pháp trong khuôn mẫu của Bốn Chân Lư Cao Quư. Trong trường hợp đó, chân lư khổ đau liên hệ đến chứng cứ khổ đau, tính đặc thù của một h́nh thức dữ dội, như được t́m thấy trong những cảnh giới luân hồi bất hạnh. Nguồn gốc của nổi khổ đau như vậy bao gồm những hành vi bất thiện liên hệ đến việc làm tổn hại người khác. Những phiền năo phía sau những hành vi này là những h́nh thức đặc thù của ba loại độc hại phối hợp với những hành vi bất thiện: tham lam, sân hận và tà kiến[4]. Những con đường tu tập chân thật tương đương sẽ là việc tiếp nhận mười thiện giới để tránh khỏi mười điều ác. Sự ngừng dứt chân thật tương đương sẽ là sự tự do tạm thời khỏi phải có một sự tái sanh bất hạnh.

 

Do vậy, đối với người có năng lực nhỏ, có một nguyện vọng để t́m tự do – tự do khỏi sự tái sanh bất hạnh. Và có những sự tŕnh bày hoàn toàn về tất cả những sự thực tập mà quư vị cần để thực chứng mục tiêu ấy. V́ vậy, trong những giai tầng của con đường tiệm tiến tiếp cận, những khổ đau của các cảnh giới thấp của cơi luân hồi được giải thích, tiếp theo bởi sự thực tập quy y tam bảo qua những ǵ quư vị t́m cầu nơi nương náo khỏi những sự tái sanh bất hạnh, và rồi tiếp theo bằng những sự diễn giải về các hoạt động của nghiệp chướng và những sự thực hành kiêng tránh khỏi những hành vi bất thiện.

 

Ở một chỗ khác, những yếu tố thực tập được phân chia và được sắp xếp theo tŕnh tự trong những cung cách hơi khác nhau. Thí dụ, Tông Khách Ba trong Ba Phương Diện Chính Của Con Đường Giác Ngộ bao gồm trong những sự hành thiền của người có năng lực nhỏ trên sự quư giá của kiếp sống con người và phản chiếu trên bản chất tạm thời của nó[5]. Sau đó, quán chiếu trên nghiệp báo nhân quả và phản chiếu trên những khổ đau của những cơi luân hồi bất hạnh bao gồm trong những sự thực hành của người có năng lực trung b́nh. Những thứ này hoạt động như một căn bản cho việc phát triển một cảm nhận sâu sắc của sự vở mộng về cơi luân hồi và trau dồi sự viễn ly. V́ vậy, trong những sự tiếp cận khác nhau phân chia những yếu tố của những giáo huấn hơi khác nhau, truyền thống những giai tầng của con đường tiệm tiến đem tất cả những sự thực tập của ba hạng người lại với nhau[6]. Mọi thứ là ở đây.

 

Bắt Đầu Sự Thực Hành

 

Để tận dụng kiếp sống của một con người với sự thư thái và cơ hội, chúng ta phải bắt đầu việc rèn luyện tâm thức chúng ta trong những giai tầng của con đường tiệm tiến mà tất cả ba hạng người cùng chia sẻ với hạng người có năng lực nhỏ. Điều thứ nhất trong những sự thực tập này là phát triển một nguyện vọng và hồi hướng để cải thiện những kiếp sống tương lai của chúng ta; để được kết quả như vậy, chúng ta phải hành thiền trên tính vô thường và sự chết. Vô thường là cực kỳ quan trọng trong giáo huấn của Đạo Phật. Thí dụ, nếu quư vị nh́n vào sự tŕnh bày của Bốn Chân Lư Cao Quư, nơi mà mỗi chân lư có bốn đặc trưng, vô thường là một trong những đặc trưng của chân lư về khổ đau, khổ đế. Chúng ta cũng nói về bốn dấu ấn trong giáo lư nhà Phật:

 

* Tất cả mọi hiện tượng duyên sanh là vô thường (chư hành vô thường).

* Tất cả mọi hiện tượng nhiễm ô là khổ (nhất thiết hành khổ).

* Tất cả mọi hiện tượng là trống rỗng và vô ngă (chư pháp vô ngă).

* Niết bàn là ḥa b́nh chân thật (niết bàn tịch tĩnh).

 

Ở đây một lần nữa, vô thường của mọi hiện tượng duyên sanh là thứ nhất. Khi Đức Phật dạy vô thường trong phạm vi của Bốn Chân Lư Cao Quư và bốn pháp ấn, vấn đề chính yếu để thấu hiểu là tính vô thường vi tế, điều này có nghĩa là là sự thay đổi từng thời khắc. Tuy nhiên, đối với người có năng lực nhỏ, sự thấu hiểu về vô thường không luôn luôn vi tế; nó ở tŕnh độ thô, nơi mà chúng ta xem vô thường như sự chết. Trong những dạng thức này, khi sự tương tục của đời sống con người đặc thù đi đến chấm dứt, điều này cho thấy sự vô thường của kiếp sống ấy. Tỉnh thức về sự chết là thiết yếu bởi v́ việc nhớ đến sự chết và tính vô thường làm trái ngược lại khuynh hướng thói quen của chúng ta là chấp trước vào tính thường hằng trong sự hiện hữu của chúng ta – và tất cả mọi h́nh thức rắc rối sinh khởi từ việc chấp trước vào tính thường hằng.

 

Quy Y Tam Bảo

 

Đă trau dồi sự tỉnh thức về sự chết và vô thường, rồi th́ quư vị phản chiếu trên sự khổ đau của các cơi thấp (địa ngục, ngă quỷ, súc sanh). Nhưng những ǵ chúng ta thực tập để có thể tránh khỏi tái sanh vào cơi bất hạnh? Quư vị có thể quy y tam bảo và sau đó, trên căn bản ấy, hăy nghiên cứu để sống trong một cung cách đưa vào nghiệp báo nhân quả một cách lợi lạc. Quy y là quan trọng bởi v́ giới luật tránh hành vi phi đạo đức tự nó không đặc trưng là Phật Giáo; nó chỉ trở thành sự thực tập Phật Giáo khi nó đi cùng với sự quy y tam bảo. Ở sự bắt đầu, và ngay cả sau này trong giới hạn của một vài trường hợp đặc thù, đức tin đóng một vai tṛ trong việc phát triển niềm tin vững chắc trong nghiệp báo nhân quả.

 

Tông Khách Ba (1:178) giải thích quy y tam bảo bằng việc nhận biết những điều kiện cho người t́m cầu sự quy y, bậc nào hay điều ǵ xứng đáng là đối tượng để quy y, phương cách của việc t́m cầu quy y, những giới điều mà quư vị phải quán chiếu khi quy y, và lợi lạc của việc quy y. Thật vậy, ngài dường như cho là đương nhiên rằng hành giả đă là một Phật tử. Quy y luôn luôn được tŕnh bày trong cách này trong giáo huấn Những Giai Tầng Của Con Đường Tiệm Tiến Lamrim.

 

Tuy nhiên, có những cách tiếp cận khác. Chương thứ hai của Luận Giải Nhận Thức Luận của Pháp Xứng đưa ra những tranh luận để thiết lập khả năng đạt đến giải thoát[7]. Khả năng giải thoát cũng được nêu trong Minh Cú Luận của Nguyệt Xứng như nó b́nh luận trong 24 chương của Căn Bản Trí Tuệ Trung Đạo của Long Thọ[8]. Long Thọ đă tŕnh bày một phản bác từ một Phật tử duy thực, người ấy cảm thấy rằng nếu mọi thứ là trống rỗng sự tồn tại cố hữu, thế th́ mối quan hệ nhân quả là không thể hiện hữu. Điều này làm giáo Pháp không vững, và không có giáo Pháp th́ không thể có cộng đồng tâm linh và không có Phật. Người Phật tử duy thực nghĩ rằng nếu mọi thứ là trống không, tam bảo sẽ không đứng vững bởi v́ mọi thứ liên hệ đến những mối quan hệ nhân quả sẽ tan vở.

 

Để đáp lại, Long Thọ xoay những chiếc bàn, tranh luận rằng nếu mọi thứ là sự tồn tại cố hữu, nếu mọi thứ là không trống rỗng, thế th́ đúng là t́nh trạng ấy sẽ làm cho mối quan hệ nhân quả không biện hộ được. Nếu tánh không là không đứng vững, rồi th́ lư duyên sanh trở thành không bảo vệ được, và nếu lư duyên sanh trở thành không đứng vững, thế th́ sự chấm dứt (diệt đế) và con đường đưa đến sự chấm dứt ấy sẽ trở thành không biện hộ được. Đây là bởi v́ tánh không không chỉ đơn thuần là không có ǵ cả hay không tồn tại, mà đúng hơn là việc vắng mặt của sự tồn tại cố hữu, việc thiếu vắng sự tồn tại bởi cung cách của một đặc trưng thực chất nào đó. Không có tánh không, mọi thứ sẽ chỉ là tự cấu thành; sẽ không có khả năng của những mối quan hệ hổ tương. Những sự nối kết như vậy giữa sự thực hành con đường tu tập và việc đạt đến sự chấm dứt khổ đau sẽ không hoạt động. Nguyệt Xứng trong Minh Cú Luận tŕnh bày những sự tranh luận này một cách sáng chói. Đối với ai t́m cầu sự quy y, tôi nghĩ có thể sẽ rất hữu ích để thấu hiểu tối thiểu một số khía cạnh nào đó của việc này.

 

Vô Ngă Và Giải Thoát

 

Một câu hỏi thông thường là: nếu không có tự ngă tồn tại cố hữu, th́ điều ǵ luân hồi? Một phần của vấn nạn này đến từ sự thấu hiểu phiến diện về giáo lư vô ngă. Đức Phật không phủ nhận sự tồn tại của bản ngă con người. Có một người hành động, tích lũy nghiệp. Có một người trải nghiệm những hậu quả của những hành động ấy. Đức Phật yêu cầu chúng ta phân tích bản chất tự ngă của chúng ta. Tự ngă, hay con người, tồn tại trong sự phụ thuộc vào những yếu tố tinh thần và vật lư nào đó. Tuy nhiên, trong nhận thức ngu ngơ của chúng ta về chính chúng ta, chúng ta có khuynh hướng cho rằng tự ngă là điều ǵ đó giống như một kẻ quản lư chế ngự thân thể và tâm thức chúng ta, rằng nó là một loại thực chất thế nào đó độc lập với thân thể và tâm thức. Nó là loại tự ngă ấy, một thứ mà chúng ta thừa nhận một cách sai lầm là tồn tại, mà Đức Phật phủ nhận. Điều mà những người Phật tử phản đối không phải là con người, nhưng là một nhận thức sai lầm về tự ngă.

 

Khi những người Phật tử chúng ta tŕnh bày giáo lư tánh không, chúng ta dùng cơ sở lập luận rằng mọi thứ sinh khởi trong sự lệ thuộc trên những nhân tố khác, rằng mọi thứ được gọi tên một cách lệ thuộc, như chứng cứ rằng mọi thứ là trống rỗng sự tồn tại cố hữu của chính chúng. Chính sự kiện rằng chúng ta sử dụng lư duyên sanh để chứng minh tánh không cho thấy rằng chúng ta thật sự chấp nhận một loại tồn tại nào đấy.

 

Quy y tam bảo v́ vậy đ̣i hỏi một sự thấu hiểu nào đó về khả năng của diệt đế – sự chấm dứt khổ đau chân thật – một cách tổng quát, và đặc thù cho tự chính một người. Có thể có khả năng cho những nhiễm ô tinh thần, những phiền năo liên hợp với tâm thức chúng ta, được tan biến và được tẩy sạch trong chính bản chất của tự tâm thức không? Nhằm để thấu hiểu vấn đề này có thể xảy ra như thế nào, th́ rất cần thiết để có một sự thấu hiểu nào đấy về tánh không.

 

Hơn thế nữa, phiền năo là nguồn gốc của khổ đau, nhưng nếu sự thấu hiểu của chúng ta là sâu sắc, thế th́ chúng ta biết rằng có một căn bản si mê tại gốc rể của phiền năo. Và như tôi đă đề cập trước đây, quan điểm của quư vị về thực tại cứu kính quyết định vấn đề quư vị định nghĩa đặc điểm của tính si mê căn bản này như thế nào. Để có một sự thấu hiểu sâu hơn về phiền năo, đến tŕnh độ vi tế của si mê, đ̣i hỏi một sự thấu hiểu nào đó về cung cách mà mọi thứ thật sự tồn tại, bản chất của thực tại. Tương tự thế, khổ đau chân thật (khổ đế) có thể được thấu hiểu tại tŕnh độ vi tế chỉ với một sự thấu hiểu nào đó về tánh không[9].

 

Tánh Không Và Quy Y

 

Một cách lư tưởng, thế th́ một sự thấu hiểu về tánh không là quan trọng khi quy y tam bảo. Thí dụ, khi chúng ta nói, “Tôi quy y Phật”, thuật ngữ Phật (Buddha) trong Phạn ngữ có hai ư nghĩa khác biệt. Nó có thể có nghĩa là tẩy sạch những sai lầm hay nhiễm ô, nhưng nó cũng gợi ư sự nẩy nở, phát triển như những cánh hoa sen nở ra. Trong Tạng ngữ, hai khía cạnh này được phối hợp, và thuật ngữ kết hợp được đọc là sang gyay (sangs rgyas). Sang (sangs) có nghĩa là “tỉnh thức” hay “được tẩy sạch”, trong khi gyay (rgyas) có nghĩa là ”nở ra” hay “phát triển”. Giống như thế, Phạn ngữ cho Giác Ngộ, bodhi hay bồ đề, được dịch sang Tạng ngữ như jang chup (byang chub), một lần nữa lại có cả nghĩa của thuật ngữ được h́nh thành như một đơn ngữ kết hợp[10].

 

Ở tŕnh độ của Quả Phật sự tẩy sạch hoàn toàn tất cả những nhiễm ô và sự toàn hảo tất cả những phẩm chất Giác Ngộ là đồng thời, nhưng cùng với cung cách, nó là một tiến tŕnh của việc tẩy trừ những chướng ngại. Đây là bởi v́ phẩm chất tinh thần Giác Ngộ của Đức Phật, cung cách lĩnh hội của Đức Phật về thế gian, là – trong một ư nghĩa – được tŕnh bày một cách tự nhiên trong tâm thức chúng ta. Nó không phải là điều ǵ mới mà chúng ta cần tạo lại lần nữa. Sự thực hành con đường tu tập liên hệ việc tẩy trừ những chướng ngại làm mờ mịt sự biểu hiện năng lực tự nhiên của chúng ta để biết mọi thứ như chúng là. Cho đến khi mà những chướng ngại vẫn c̣n, chúng làm vẫn đục tâm thức và ngăn ngừa sự nhận thức phẩm chất tự nhiên của nó. Do thế, trong sang gyay, Tạng ngữ cho Phật đà (Buddha), âm sang – “tẩy sạch” – được đặt trước và gyay – “phát triển” – đến tiếp thứ hai.

 

Vấn đề là để thật sự biết quy y có ư nghĩa ǵ, quư vị cần thấu hiểu đối tượng của quy y; điều xét cho cùng đ̣i hỏi sự thấu hiểu giáo lư tánh không. Quư vị phải thấu hiểu Quả Phật thật sự có ư nghĩa là ǵ và vấn đề nó được định nghĩa trong dạng thức tan biến tất cả nhiễm ô trong tự bản chất của tâm thức là thế nào. Không có điều này, quư vị sẽ không thấu hiểu Giác Ngộ và sự vắng mặt của niết bàn và luân hồi, liên quan đến căn bản tự nhiên của chính tâm thức là như thế nào. V́ thế sự thấu hiểu tánh không là thiết yếu.

 

Giống như thế, khi chúng ta nói, “Tôi quy y Pháp”, Phạn ngữ Pháp (dharma) có nghĩa là điều ǵ đấy thủ hộ hay bảo hộ quư vị. Để thấu hiểu điều này một cách trọn vẹn, quư vị phải thấu hiểu tánh không. Và khi quư vị quy Tăng, cộng đồng tâm linh (sangha), Tạng ngữ của sangha có nghĩa là những ai hướng tới tinh hoa. V́ tinh hoa ở đây có nghĩa là sự ngừng dứt chân thật (diệt đế), cho nên quư vị phải thấu hiểu sự ngừng dứt chân thật và tánh không nhằm để lănh hội trân bảo thứ ba như một đối tượng để quy y.

 

Trước khi quư vị thật sự quy y tam bảo, quư vị cũng phải thấu hiểu nghiệp chướng, mối quan hệ của hành động và hiệu quả. V́ mục đích này, quư vị phải thấu hiểu nhân quả bởi v́ những hoạt động của nghiệp chướng là một thí dụ của nhân quả; nghiệp là bộ phận của một loại rất đặc thù của mối quan hệ nhân quả. Nghiệp theo nghĩa nghĩa đen là “hành động”, nhưng khi thuật ngữ được sử dụng trong Phật Giáo, hành động nghiệp phải là tác nhân với một khuynh hướng. Nhân quả nghiệp báo là một tiến tŕnh mà trong ấy những hành vi được định trước sẽ tạo ra một chuỗi hiệu quả. Một cách chính yếu, ở đây chúng ta được liên kết với những hành vi làm sinh khởi những trải nghiệm của đau đớn và vui sướng, hạnh phúc và khổ năo. Những trải nghiệm này là những hiện tượng tinh thần, thế nên những nguyên nhân chính của chúng cũng phải là tinh thần. Thuật ngữ “nghiệp” (karma), thế th́, một cách đặc thù liên hệ đến một nhân tố phối hợp với thể trạng tinh thần của một người đang hành động. Trong các trường phái Phật Giáo, Tỳ Bà Sa và Cụ Duyên Tông đôi khi cũng xem chính những hành vi thân thể như nghiệp, nhưng những trường phái khác xem nghiệp một cách chính yếu như một nhân tố tinh thần.

 

Trích từ quyển “From Here to Enlightenment”

 

 

 

 

http://www.kimau.com/

http://www.chinhnghia.com/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

NT Kiên, Kim Âu, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan, NT Sám