Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

Real Clear Politics

MediaMatters

C-SPAN. Videos Library

New World Order

New Max

Daily Storm

Observe

Political Insider

Ramussen Report

Illuminatti News

Wikileaks

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Indonesian Newspapers

Philippine Newspapers

Thư Viện Quốc Gia 1

Thư Viện Quốc Gia

Tự Điển Bách Khoa VN

Ca Dao Tục Ngữ

Bảo Tàng Lịch Sử

QLVNCH

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Vatican?

RomanCatholic

Khoa HọcTV

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SOUNDBITE:

 

"Right now I fight not only for my honour, not only for money but also for the future of America that is exactly what I want to see in the United States of America because I think this nation is the best nation of humans."

 

Ha Van Son, Former South Vietnamese Commando. June 19/1996

 

 

 

 Song Hong Bin

 

Chiến Tranh Tiền Tệ

 

Dịch giả: Hồ Ngọc Minh

Hiệu đính: Nguyễn Giang Chi

 

 

 

 

Phần II

 

CUỘC CHIẾN TRĂM NĂM GIỮA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ VÀ TỔNG THỐNG HOA KỲ

 

 

 

Tôi có hai kẻ thù chính: quân đội miền nam trước mặt và cơ cấu tiền tệ sau lưng. Trong hai thế lực này, sự đe doạ của kẻ đứng sau lưng mới là nguy hiểm nhất. Tôi nh́n thấy một nguy cơ trong tương lai đang đến gần chúng ta, khiến chúng ta lo sợ cho sự an nguy của đất nước. Sức mạnh của đồng tiền sẽ tiếp tục thống trị và làm tổn thương đến người dân, và đến khi những đồng tiền cuối cùng tích tụ lại trong tay một số kẻ th́ đất nước của chúng ta sẽ bị phá huỷ. Hiện giờ tôi lo lắng cho tương lai của đất nước hơn bất cứ lúc nào, thậm chí c̣n hơn cả trong t́nh huống chiến tranh(1).

 

Lincoln, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ 

 

Nếu nói lịch sử Trung Quốc được xoay quanh bởi những cuộc đấu tranh quyền lực chính trị, và nếu không hiểu được những mưu tính trong đầu các bậc đế vương th́ chúng ta không thể hiểu thấu được cái tinh thần cốt lơi của lịch sử Trung Quốc. Tương tự, lịch sử phương Tây phát triền từng bước theo sự tiến hoá của đồng tiền, nếu không hiếu được cơ mưu của đồng tiền th́ không thể nắm được nguồn mạch của lịch sử phương Tây. 

Lịch sử nước Mỹ gắn liền với sự can thiệp và âm mưu của các thế lực quốc tế, trong đó, điều khiến người ta sợ nhất chính là sự thâm nhập và âm mưu lật đổ của các thế lực tài chính quốc tế đối với nước Mỹ, nhưng đây cũng là điều chẳng mấy ai biết đến. 

Việc thiết kế và xây dựng chế độ dân chủ được coi là hành động nhằm ngăn cản sự đe doạ của các thế lực phong kiến chuyên chế. Ở phương diện này, nó đă thu được hiệu quả khả quan, tuy nhiên, bản thân chế độ dân chủ lại không có được sức miễn dịch đáng tin cậy đối với những mầm bệnh chết người mới được sinh ra từ quyền lực của đồng tiền. 

Chế độ dân chủ mới bộc lộ khả năng yếu kém trong việc phán đoán và pḥng ngự hướng tấn công chủ yếu của các ngân hàng quốc tế đối với việc khống chế quyền phát hành tiền tệ nhằm chi phối toàn bộ quốc gia. “Tập đoàn lợi nhuận đặc thù siêu tiền tệ” và chính phủ do dân Mỹ chọn ra trong thời gian hơn một trăm năm trước cũng như sau cuộc nội chiến Bắc- Nam đă tiến hành những cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm xây dựng một định chế tài chính của hệ thống ngân hàng trung ương tư hữu Mỹ. Tổng cộng đă có tất cả 7 tổng thống Mỹ, nhiều uỷ viên quốc hội khác đă bỏ mạng v́ cuộc chiến giữa hai thế lực này. Các nhà sử học Mỹ đă chỉ ra rằng, tỉ lệ thương vong của các tổng thống Mỹ so với thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai c̣n cao hơn nhiều so với tỉ lệ thương vong b́nh quân của một đoàn thuỷ quân lục chiến! 

Cùng với việc mở cửa toàn diện nền tài chính của Trung Quốc, các ngân hàng quốc tế sẽ thâm nhập sâu vào hệ thống tài chính của Trung Quốc, và câu chuyện đă xảy ra cho nước Mỹ hôm qua, liệu có tiếp tục tái diễn ở Trung Quốc hôm nay? 

 

1. Vụ ám sát tổng thống Lincoln

 

Tối thứ sáu ngày 14 tháng 4 năm 1865, tổng thống Lincoln đă có thể thở phào nhẹ nhơm kể tử khi diễn ra cuộc nội chiến kéo dài bốn năm đầy tang tóc với muôn vàn nguy cơ và gian khổ. Cuối cùng, năm ngày trước khi nhận được tin thắng lợi - tướng Robert Lee thống lĩnh quân đội miền nam đă đầu hàng tướng Grant của quân đội miền bắc - vị tổng thống đă cảm thấy đỡ căng thẳng hơn. Và trong lúc hứng chí, ông đă đến nhà hát Ford ở Washington để xem buổi biểu diễn. Vào lúc 10 giờ 15 phút, lợi dụng lúc không có cận vệ bên cạnh, một kẻ sát thủ đă lẻn tới cạnh tổng thống, dùng một khẩu súng cỡ lớn nhằm thẳng vào đầu ông mà bóp c̣. Lincoln bị trúng đạn đổ vật về phía trước. Sáng sớm hôm sau, tổng thống qua đời. 

Hung thủ là John Wilkes Booth - một diễn viên có chút tiếng tăm khi đó. Sau khi ám sát xong Lincoln, tay này hoảng sợ bỏ trốn. Ngày 26 tháng 4, hung thủ bị bắn chết trên đường bỏ trốn. Trong xe ngựa của hung thủ, người ta đă phát hiện thấy rất nhiều thư từ viết bằng mật mă và một số vật dụng cá nhân của Benjamin - Bộ trưởng Bộ chiến tranh của chính phủ miền nam và sau này là Bộ trưởng ngoại giao, một người có thực quyền về mặt tài chính ở miền nam đồng thời có mối quan hệ rất thân mật với các đại gia ngân hàng ở châu Âu. 

Sau đó, người này đă đào tẩu sang Anh. Sự kiện Lincoln bị ám sát về sau đă được lan truyền rộng ra và nhiều người cho rằng đây là một âm mưu có quy mô lớn. Những người tham gia trong âm mưa này có thể là các thành viên nội các của Lincoln, các ngân hàng ở New York và Philadenphia, quan chức cao cấp của chính phủ miền nam, giới quyền lực trong ngành xuất bản báo chí và các phần tử nổi loạn ở miền bấc. 

Thời đó có một giả thuyết lan truyền rộng răi rằng, Booth không hề bị giết chết, mà là được phóng thích, c̣n thi thể được mai táng sau này là người đồng mưu của anh ta. Edwin Stanton - Bộ trưởng chiến tranh nắm giữ trọng quyền khi đó đă che giấu chân tướng sự việc. Thoạt nghe th́ đây có vẻ là một giả thuyết hoang đường. Thế nhưng, sau khi một loạt các văn kiện bí mật của Bộ trưởng chiến tranh được giải mă vào những năm 30 của thế kỷ 20 th́ các nhà sử học đă phát hiện ra một sự thật đầy kinh ngạc về cái chết của tổng thống Lincoln, trên thực tế chẳng khác ǵ lời đồn thổi của thiên hạ. 

 

Trong bài viết “Tại sao Lincoln bị ám sát?”, Otto Eisenschiml - nhà sử học đầu tiên chuyên nghiên cứu về đề tài này đă gây chấn động cho các đồng nghiệp trên thế giới bằng những phát hiện đầy bất ngờ. Sau đó, Theodore Roscoe đă cho công bố kết quả nghiên cứu có sức ảnh hưởng rộng răi hơn nữa bằng cách chỉ ra rằng: 

“Phần lớn các nghiên cứu lịch sử của thế kỷ 19 liên quan đến việc tổng thống Lincoln bị ám sát đều miêu tả sự việc giống như một vở bi kịch điển h́nh của nhà hát Ford vậy… Chỉ có một số ít nh́n nhận sự việc như là một cuộc mưu sát: Lincoln chết trong tay một tên tội phạm thô bỉ… tội phạm phải bị trừng phạt theo pháp luật; thuyết âm mưu đă bị bóp chết; cuối cùng Đức và Mỹ đă giành được thắng lợi Lincoln cũng đă thuộc về quá khứ”. 

 

Thế nhưng, việc giải thích sự kiện ám sát tổng thống vừa không khiến cho người ta hài ḷng vừa khó khiến cho người ta khâm phục. Thực tế cho thấy, tên tội phạm liên quan đến cái chết của Lincoln vẫn đang nhởn nhơ ngoài ṿng pháp luật(2). Trong bài viết “Hành động ngu xuẩn“ (This One Mad Act) thuộc cuốn hồi kư của ḿnh, Izola Forrester - cháu gái của tên hung thủ - đă nói rằng, bà phát hiện thấy ghi chép bí mật “Kỵ sĩ rạp xiếc” (Knights of the Golden Circle) đă bị chính phủ cố ư cất vào trong kho văn kiện, đồng thời bị Edwin Stanton xếp vào loại tài liệu tuyệt mật. Sau khi Lincoln bị ám sát, bất cứ ai cũng không được tiếp cận với những tài liệu này. Do mối quan hệ huyết thống giữa Izola và Booth, hơn nữa, với tư cách là một nhà văn chuyên nghiệp, cuối cùng bà đă trở thành là người đầu tiên được phép đọc những tài liệu này. Trong cuốn sách của ḿnh, bà đă viết rằng: 

Những bao tài liệu cũ kỹ thần bí này được cất giữ trong một két bảo hiểm nằm trong góc khuất giữa nơi đặt di tích của “âm mưu thẩm phán” và căn pḥng trưng bày. Nếu không phải là năm năm trước khi đọc những tư liệu (ở căn pḥng đó) mà tôi đă t́nh cờ nh́n thấy cạnh chiếc tủ, th́ có thể chẳng bao giờ tôi biết chúng (tài liệu bí mật) tồn tại. Những tài liệu ở đây có liên quan đến ông nội tôi. Tôi biết ông từng là thành viên của một tổ chức bí mật. Tổ chức này chính là “Kỵ sĩ rạp xiếc” do Bickley sáng lập nên. Tôi có giữ một tấm ảnh của ông - bức ảnh ông chụp chung với họ - tất cả họ dầu ăn mặc chỉnh tề. 

Bức ảnh này được phát hiện trong quyển “kinh thánh” của bà nội tôi tôi c̣n nhớ bà từng nói rằng chồng bà (Booth) là “công cụ của người khác(3). “Kỵ sĩ rạp xiếc” và các thế lực tài chính New York rốt cuộc có mối quan hệ như thế nào? Có bao nhiêu người trong chính phủ của Lincoln đă tham gia vào âm mưu ám sát Lincoln? Tại sao các nghiên cứu về cái chết của Lincoln trong suốt thời gian dài luôn lạc hướng như vậy? Cái chết của Lincoln cũng giống với cái chết của Kennedy 100 năm sau đó, đều là sự phối hợp mang tính tổ chức trên quy mô lớn, mọi chứng cứ đều bị bịt đầu mối, mọi sự điều tra đều bị đánh lạc hướng một cách hệ thống, chân tướng của sự việc luôn được che đậy bởi một màn sương lịch sử dày đặc Muốn hiểu được động cơ và mưu đồ thực sự đằng sau việc Lincoln bị sát hại, chúng ta cần phải t́m hiểu sâu hơn những cuộc đối đầu trong nỗ lực khống chế quyền phát hành tiền tệ của quốc gia này suốt quá tŕnh lập quốc của Mỹ. 

 

2. Quyền phát hành tiền tệ và chiến tranh độc lập của nước Mỹ

 

Trong các cuốn sách giáo khoa lịch sử viết về nguyên do của cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ có rất nhiều điều giá trị vừa toàn diện lại vừa trừu tượng được đem ra phân tích và tŕnh bày. Nhưng ở đây, chúng ta sẽ nh́n từ một góc độ khác để t́m hiểu sâu hơn bối cảnh tài chính cũng như vai tṛ hạt nhân của nó trong cuộc cách mạng này. 

Đa số những người đến Mỹ mưu sinh sớm nhất chính là những cùng dân hết sức nghèo khổ. Trong cuộc hành tŕnh của ḿnh đến vùng đất mới, ngoài những hành lư đơn giản đem theo, hầu như họ chẳng có tài sản đáng giá hay tiền bạc ǵ. Thời đó, ở miền bắc Mỹ người ta vẫn chưa khám phá ra những mỏ vàng bạc lớn như sau này, cho nên nguồn tiền tệ lưu thông trên thị trường cực kỳ thiếu hụt. Thêm vào đó là tỉ lệ nhập siêu của Anh quốc đă khiến cho một lượng lớn tiền vàng bạc chảy về quốc gia của xứ sở sương mù này, và điều đó càng làm tăng thêm t́nh trạng thâm hụt lượng tiền lưu thông(4). Phần lớn hàng hoá và dịch vụ do những người dân di cư mới của miền Bắc Mỹ làm ra từ sự lao động khổ nhọc đă không thể được trao đổi hiệu quả do thâm hụt lượng tiền lưu thông, từ đó đă gây cản trở nghiêm trọng đến bước phát triển của nền kinh tế. Để ứng phó với vấn đề nan giải này, người ta buộc phải sử dụng các loại tiền tệ thay thế khác để tiến hành mua bán hàng hoá. Chẳng hạn, các hàng hoá được chấp nhận với mức độ cao như da và lông động vật, vỏ ốc, thuốc lá, gạo, lúa mạch, ngô được sử dụng như một loại tiền. Chỉ riêng ở miền Bắc Carolina, từ năm 1715 đă có hơn 17 loại hàng hoá được dùng như tiền tệ chính thức (Legal Tender), chính phủ và người dân có thể dùng những hàng hoá này để tiến hành các hoạt động giao dịch như đóng thuế, trả nợ, mua bán hàng hoá. Khi đó tất cả những loại tiền tệ thay thế này đều lấy đồng bảng Anh làm tiêu chuẩn tính toán. Trong hoạt động thực tế, do giá thành, quy cách, mức độ chấp nhận và tính chất có thể lưu giữ lâu của các loại hàng hoá này khác nhau, nên việc đo lường theo tiêu chuẩn cũng trở nên khó khăn. Ở mức độ nào đó, chúng đă cứu văn được t́nh trạng thâm hụt tiền lưu thông đang cấp bách, nhưng nó cũng đă tạo nên t́nh trạng “thắt cổ chai” cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá(5). 

Sự thiếu hụt tiền kim loại trong thời gian dài và sự bất tiện trong việc sử dụng các loại tiền hiện vật thay thế đă thúc đẩy chính phủ thoát ra khỏi lối tư duy truyền thống để bắt đầu một thử nghiệm hoàn toàn mới: dùng loại tiền giấy có tên là Colonial Scrip để in tiền - loại tiền chuẩn được pháp luật quy định thống nhất. Sự khác biệt lớn nhất giữa loại tiền giấy này so với chi phiếu ngân hàng đang lưa hành ở châu Âu chính là nó không có bất cứ khoản hiện vật vàng hay bạc nào bảo đảm mà chỉ là một loại tiền tín dụng chính phủ. Mọi người trong xă hội đều cần phải đóng thuế cho chính phủ, mà chỉ cần tiếp nhận loại tiền giấy này như bằng chứng của việc nộp thuế th́ chính phủ đă có đầy đủ các yếu tố cơ bản để đưa loại tiền giấy này vào lưu thông trên thị trường. 

Loại tiền mới này quả nhiên đă thúc đẩy sự phát tiền nhanh chóng của nền kinh tế xă hội, các giao dịch hàng hoá cũng ngày càng trở nên nhộn nhịp. 

Lúc này, Adam Smith của nước Anh cũng đă chú ư đến sự thể nghiệm tiền tệ mới này của chính phủ thuộc địa ở Bấc Mỹ, và ông hiểu khá rơ vai tṛ kích thích to lớn đối với thương mại của loại tiền giấy này, đặc biệt là đối với khu vực bắc Mỹ đang thiếu hụt tiền kim loại. Ông cho rằng: “Việc mua bán trên cơ sở tín dụng khiến cho các thương gia có thể định kỳ kết toán số dư tín dụng giữa các bên theo mỗi tháng hoặc mỗi năm, và điều này đă giảm thiểu sự bất tiện trong giao dịch. Một hệ thống tiền giấy được quản lư tốt không những tạo ra sự thuận tiện trong sử dụng mà c̣n có thể có rất nhiều ưu thế trong một số t́nh huống nào đó”(6). 

Nhưng một loại tiền tệ không có thế chấp là kẻ thù tự nhiên của các ngân hàng, bởi v́ nếu không có các khoản vay của chính phủ làm thế chấp th́ chính phủ cũng không cần phải vay các khoản tiền kim loại vốn rất thiếu hụt thời bấy giờ, và như vậy, quả cân lớn nhất trên tay của các ngân hàng trong chốc lát cũng mất đi uy lực. 

Năm 1763, Benjamin Franklin vi hành đến nước Anh. Khi được vị chủ tịch của Ngân hàng Anh hỏi về nguyên nhân phát triển thịnh vượng của thuộc địa ở châu lục mới, Franklin đă trả lời rằng: “Điều này rất đơn giản. Ở đất thuộc địa, chúng tôi phát hành tiền tệ của riêng ḿnh, gọi là “chứng chỉ thuộc địa”. Chúng tôi căn cứ vào nhu cầu của thương nghiệp và công nghiệp để phát hành một lượng tiền tệ cân đối, như vậy, sản phẩm rất dễ dàng chuyển từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng. Dùng phương thức này, chúng tôi tạo ra loại tiền giấy của riêng ḿnh, đồng thời bảo đảm sức mua của nó, và chính phủ của chúng tôi không cần phải trả lợi tức cho bất kỳ ai”(7)

Loại tiền mới này tất nhiên sẽ giúp cho thuộc địa châu Mỹ thoát ly khỏi sự khống chế của Ngân hàng Anh.

Các ngân hàng Anh tỏ ra phẫn nộ và bắt tay nhau hành động. Dưới sự khống chế của các nhà tài phiệt ngân hàng, vào năm 1764, Nghị viện Anh đă thông qua “Đạo luật tiền tệ” (Currency Act), theo đó, Nghị viện nghiêm cấm các bang trong thuộc địa châu Mỹ in ấn và phát hành tiền giấy của riêng ḿnh, đồng thời yêu cầu chính phủ các nơi này phải sử dụng toàn bộ vàng và bạc để đóng những khoản thuế cho chính phủ Anh. Franklin đă nhận xét một cách đau đớn về hậu quả kinh tế nghiêm trọng do đạo luật này mang lại cho các bang ở xứ thuộc địa như sau: 

“Chỉ trong một năm, t́nh h́nh (thuộc địa) đă hoàn toàn đảo ngược, thời kỳ phồn thịnh đă kết thúc, kinh tế suy thoái nghiêm trọng đến mức từ đường phố cho đến bến cảng đều tràn ngập những đám người thất nghiệp”

 

“Nếu như Ngân hàng Anh không tước đoạt quyền phát hành tiền tệ của xứ thuộc địa th́ người dân của xứ này sẽ vui vẻ đóng các khoản thuế trà và các sản phẩm khác. Đạo luật này đă gây nên t́nh trạng thất nghiệp và sự bất măn. Xứ thuộc địa không thể phát hành được tiền tệ của ḿnh, từ đó sẽ không thể thoát khỏi sự khống chế của Vua George III và Ngân hàng thế giới một cách vĩnh viễn. Và nó trở thành nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ”(9).

Những người đặt nền móng xây dựng nên Hợp chủng quốc Hoa Kỳ nhận thức được sự khống chế của Ngân hàng Anh đối với nền chính trị Anh cũng như sự bất công đối với người dân. Người hoàn thành bản “Tuyên ngôn Độc lập” Mỹ nổi tiếng khi chỉ mới 33 tuổi chính là Thomas Jefferson - tổng thống thứ ba của nước Mỹ - với một câu cảnh báo người đời rằng: 

Nếu cuối cùng người dân Mỹ để cho ngân hàng tư nhân khống chế được sự phát hành tiền tệ của quốc gia th́ những ngân hàng này trước hết sẽ thông qua việc tăng lạm phát tiền tệ, sau đó thông qua việc thắt chặt tiền tệ để tước đoạt tài sản của người dân, cho đến một ngày, khi con cái của họ thức tỉnh, th́ họ đă mất đi nhà cửa vườn tược của ḿnh và miền đất mà cha ông họ đă từng khẩn hoang khai phá(10. 

 

Sau hơn 200 năm khi lắng nghe câu nói này của Jefferson được phát ngôn vào năm 1791, người ta vẫn không khỏi kinh ngạc trước sự chính xác đến kinh người trong những lời nói đó. Ngày nay, các ngân hàng tư nhân quả nhiên đă phát hành hơn 97% lượng tiền của Mỹ, người dân Mỹ quả nhiên cũng mắc nợ ngân hàng với khoản tiền lên đến con số 44.000 tỉ đô-la Mỹ. Và có lẽ, một ngày nào đó khi tỉnh dậy, họ sẽ thấy rằng ḿnh đă mất đi nhà cửa vườn tược và tài sản, giống như những ǵ đă từng xảy ra vào năm 1929.

 

Khi xem xét kỹ lịch sử và tương lai, những người dẫn đường vĩ đại của Hoa Kỳ đă viết ra một cách rơ ràng trong mục 8 chương 1 Hiến pháp của nước Mỹ rằng: “Quốc hội có quyền in và quy định giá trị của đồng tiền quốc gia”(11).

 

3. Chiến dịch thứ nhất của Ngân hàng quốc tế: Ngân hàng đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1791 - 1811)

 Tôi tin chắc rằng, sự de doạ của tổ chức ngân hàng đối với tự do của chúng ta c̣n nghiêm trọng hơn uy lực quân sự của kẻ thù. Họ đă tạo ra một tầng lớp quư tộc rủng rỉnh tiền bạc và coi thường chính phủ. Quyền phát hành tiền tệ phải được đoạt lại từ tay ngân hàng, nó phải thuộc về những người chủ thực sự của nó - nhân dân(12). 

Thomas Jefferson 1802.

 

Alexander Hamilton là một nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng trong mối quan hệ mật thiết. với gia tộc Rothschild. Sinh ra ở quần đảo Tây Ấn Độ thuộc Anh, Hamilton đến Mỹ với tên tuổi, danh tính và nơi xuất thân được giấu kín, sau đó kết hôn với con gái một gia đ́nh giàu có ở New York. 

Và theo những biên lai chuyển khoản c̣n lưu trữ ở Bảo tàng Anh, chúng ta có thể thấy rằng, Hamilton đă từng tiếp nhận sự trợ giúp của ḍng họ Rothschild(13). Năm 1789, Hamilton đă được tổng thống Washington bổ nhiệm làm Bộ trưởng thứ nhất Bộ tài chính, chịu trách nhiệm về hệ thống ngân hàng trung ương Mỹ. Năm 1790, đối mặt với những khó khăn kinh tế và khủng hoảng nợ nần sau cuộc chiến tranh độc lập, Hamilton kiên quyết đề nghị Quốc hội thành lập một ngân hàng trung ương tư nhân kiểu như Ngân hàng Anh để phụ trách hoàn toàn việc phát hành tiền tệ. Theo lập luận của ông ta, với trụ sở đặt tại Philadelphia, Ngân hàng trung ương tư nhân sẽ cho xây dựng chi nhánh của ḿnh tại các nơi, tiền và nguồn thuế của chính phủ cần phải đặt trong hệ thống của ngân hàng này, ngân hàng này phụ trách việc phát hành tiền tệ quốc gia để thoả măn nhu cầu phát triển kinh tế, cho vay và thu lợi nhuận từ chính phủ Mỹ. Giá trị của ngân hàng này là 10 triệu đô-la Mỹ, trong đó tư nhân nầm giữ 80% cổ phần, 20% c̣n lại thuộc về chính phủ Mỹ. Cổ đông bầu ra 20 người trong số 25 người của hội đồng quản trị, 5 người c̣n lại do chính phủ bổ nhiệm. 

Hamilton đại diện cho lợi ích của giai cấp thống trị tinh anh Hoa Kỳ. Ông ta từng chỉ ra rằng, mọi xă hội đều phân chia thành đa số và thiểu số. Thiểu số xuất thân tử các gia đ́nh danh gia vọng tộc, c̣n đa số chính là dân đen. Trước những rối loạn và biến động, nhóm đa số thường rất ít khả năng đưa ra được sự phán đoán và quyết định chính xác”.

 

Jefferson đại diện cho lợi ích của nhân dân. Đối với quan điểm của Hamilton, câu trả lời của ông là chúng tôi cho rằng chân lư sau đây là không cần phải chứng minh: 

“Mọi người sinh ra đều có quyền b́nh đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể tước đoạt được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Liên quan đến vấn đề chế độ ngân hàng trung ương tư nhân, cả hai bên đều chĩa mũi nhọn công kích vào nhau. 

Hamilton cho rằng “nếu như không đem lợi ích và của cải của những cá nhân có tiền trong xă hội tập hợp lại với nhau th́ xă hội này không thể thành công”(14). Công trái quốc gia, nếu không phải là quá nhiều, th́ cũng phải là hạnh phúc của quốc gia chúng ta”(15)

Jefferson phản pháo rằng “Sự đe doạ của một tổ chức ngân hàng đối với tự do của chúng ta c̣n nghiêm trọng hơn uy lực quân sự của kẻ thù”(16). “Chúng ta vĩnh viễn không thể chấp nhận việc cho phép giai cấp cầm quyền tăng thêm nợ trên đầu trên cổ nhân dân”(17).

 

Tháng 12 năm 1791, khi được giao cho Quốc hội thảo luận, ngay lập tức phương án của Hamilton đă dẫn đến sự tranh luận gay gắt chưa từng có. Cuối cùng, phương án này đă được thượng nghị viện đă thông qua với đa số phiếu thuận, và nó cũng vượt qua ải hạ nghị viện với số phiếu 39/20. Lúc này, tổng thống Washington đang trong t́nh trạng phải xử lư khủng hoảng nợ nghiêm trọng và đă bị đẩy vào thế phân vân cực độ. Ông đă hỏi ư kiến Jefferson và Madison - Bộ trưởng ngoại giao của Hoa Kỳ thời đó. Những người này đă chỉ rơ ràng rằng, đề án này xung đột với hiến pháp. Hiến pháp trao quyền cho Quốc hội phát hành tiền tệ, nhưng Quốc hội không được quyền phát hành tiền tệ cho bất cứ ngân hàng tư nhân nào. Hiển nhiên, những phân tích này đă tác động mạnh tới tổng thống đến nỗi ông ta đă quyết tâm phủ nhận pháp lệnh này đến cùng. 

Sau khi biết được tin tức này, với cương vị Bộ trưởng tài chính, Hamilton lập tức thuyết phục Washington rằng, nếu không thành lập ngân hàng trung ương để nhận sự đầu tư của nước ngoài đổ vào th́ chính phủ sẽ sụp đổ rất nhanh.

Cuối cùng, những nguy cơ trước mắt đă áp đảo những suy nghĩ lâu dài cho tương lai. Ngày 25 tháng 2 năm 1792, tổng thống Washington đă đặt bút kư trao quyền thành lập Ngân hàng trung ương thứ nhất của Mỹ với thời gian hiệu lực trong 20 năm(18).

 

Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế cuối cùng đă giành được thắng lợi quan trọng. Đến năm 1811, tư bản ngoại quốc đă chiếm được 7 triệu trong tổng số 10 triệu cổ phần gốc, Ngân hàng Anh và Nathan Rothschild trở thành cổ đông chủ yếu của Ngân hàng trung ương Mỹ - Ngân hàng thứ nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (The First Bank of the United States)(19). 

Hamilton cuối cùng trở nên vô cùng giàu có. Sau này, Ngân hàng thứ nhất sáp nhập vào công ty Manhattan New York do Lan Bow thành lập để trở thành Ngân hàng thứ nhất của phố Wall. Năm 1955, nó được sáp nhập với Chase Bank của Rockefeller và trở thành ngân hàng Chase Manhattan Bank. 

Việc chính phủ tỏ rơ khát vọng cực độ đối với tiền tài hoàn toàn phù hợp với mong đợi của ngân hàng trung ương tư nhân - ngân hàng đang nóng ḷng trông chờ chính phủ vay nợ. Chỉ trong ṿng năm năm ngắn ngủi kể từ khi ngân hàng trung ương thành lập (1791 - 1796), số nợ vay của chính phủ Mỹ đă tăng thêm 8,2 triệu đô-la.

 

Năm 1798, Jetferson đă nói một cách đầy hối tiếc rằng: 

“Tôi thật sự hy vọng chúng ta có thể sửa chữa, chỉnh sửa thêm cho bản hiến pháp, loại bỏ quyền vay nợ của chính phủ”(20).

 

Sau khi trúng cử tổng thống khoá thứ ba (1801 - 1809), Jefferson đă nỗ lực không ngừng ḥng phế bỏ Ngân hàng thứ nhất của Mỹ, và đến khi hoạt động của ngân hàng sắp măn hạn vào năm 1811 th́ mâu thuẫn giữa thượng nghị viện và hạ nghị viện cũng đă lên đến mức cực điểm. Hạ nghị viện đă phủ quyết đề án kéo dài thời hạn kinh doanh của ngân hàng với 65 phiếu thuận và 64 phiếu chống, c̣n thượng nghị viện th́ ở thế giằng co 17/17. Lần này, phó tổng thống đă phá vỡ thế bế tắc bằng một phiếu phủ quyết quan trọng và một quyết định được thông qua ngày 3 tháng 3 năm 1811, theo đó, Ngân hàng thứ nhất của Mỹ phải đóng cửa(21). Lúc này, Nathan Rothschild đang trấn giữ ở London, khi hay tin đă nổi trận lôi đ́nh. Ông ta đe doạ rằng: “Hoặc là ngân hàng (ngân hàng thứ nhất Mỹ) được quyền kéo dài thời hạn kinh doanh, hoặc là nước Mỹ sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh tai hoạ nhất”. Nhưng đáp lại lời thách thức ấy của Nathan, chính phủ Mỹ vẫn không hề đưa ra bất cứ hành động nào. Nathan lập tức đáp trả: “Hăy dạy cho những người Mỹ vô lư này một bài học, hăy đưa chúng trở về thời kỳ thuộc địa”. 

 

Kết quả là mấy tháng sau, cuộc chiến tranh năm 1812 giữa Anh và Mỹ đă nổ ra. Cuộc chiến đă kéo dài suốt ba năm, và mục đích của Rothschild là hết sức rơ ràng. Ḍng họ này phải đánh cho đến khi những khoản nợ của chính phủ Mỹ chất cao như núi, và chính phủ Mỹ rốt cuộc không thể không đầu hàng, phải nhượng bộ để gia tộc này được tiếp tục chi phối ngân hàng trung ương. Kết quả là khoản nợ của chính phủ Mỹ đă tăng vọt từ 45 triệu đô-la lên đến 127 triệu đô-la, để rồi cuối cùng, vào năm 1815, chính phủ Mỹ cũng đă phải chịu khuất phục. Ngày 5 tháng 12 năm 1815, tổng thống Madison đă đề xuất việc thành lập Ngân hàng trung ương thứ hai. Kết quả là Ngân hàng Hoa Kỳ (The Bank of the United States) đă được khai sinh vào năm 1816 (1816 - 1832). 

 

4. Sự trở lại của Ngân hàng quốc tế (1816 - 1832) 

 

Sự chi phối của các cơ cấu ngân hàng đối với ư thức nhân dân tất yếu sẽ bị phá vỡ, nếu không th́ sự chi phối này sẽ phá vỡ đất nước chúng ta(22). 

Thư của Jefferson gửi cho Monroe (Tổng thống thứ 5 của Hoa Kỳ) năm 1815.

 

Ngân hàng thứ hai của Mỹ được cấp phép kinh doanh từ những năm 20 với tổng số vốn lên đến 35 triệu đô-la Mỹ, trong đó 80% vốn do tư nhân chiếm giữ, 20% vốn c̣n lại thuộc về chính phủ(23). và cũng giống như cơ cấu Ngân hàng thứ nhất, Rothschild là người nắm giữ quyền lực của Ngân hàng thứ hai.

 

Năm 1828, Andrew Jackson tham gia tranh cử tổng thống. Trong một lần phát biểu trước các ngân hàng, ông đă không ngần ngại mà nói rằng: 

“Các ngài là một lũ rắn độc. Nhân danh Chúa, nhất định tôi sẽ quét sạch các ngài. Nếu như người dân biết được sự khuất tất trong hệ thống liền tệ và hệ thống ngân hàng của chúng tôi th́ ngay trước sáng ngày mai sẽ nổ ra cuộc cách mạng”.

 

Khi được bầu làm tổng thống năm 1828, Andrew Jackson quyết tâm phế bỏ Ngân hàng thứ hai. Ông chỉ ra rằng:

 

“Nếu Quốc hội được hiến pháp trao quyền phát hành tiền tệ, hăy để cho Quốc hội thực thi quyền của ḿnh và không được để quyền đó rơi vào tay bất cứ cá nhân hay công ty nào”.

 

Trong tổng số 11.000 nhân viên đang làm việc cho chính phủ liên bang, ông đă cho sa thải hơn 2.000 nhân viên có liên quan đến ngân hàng. 

Năm 1832, Jackson tham gia tranh cử nhiệm kỳ thứ hai. Nếu ông thắng cử, th́ thời gian hoạt động của ngân hàng thứ hai sẽ kết thúc trong nhiệm kỳ tiếp theo của ông vào năm 1836. Mọi người đều biết cảm tưởng của tổng thống đối với ngân hàng thứ hai. Và để tránh t́nh trạng “đêm dài lắm mộng”, ngân hàng đă nghĩ cách để có được giấy phép kinh doanh đặc biệt kéo dài thêm 20 năm nữa trước khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống. Đồng thời với việc này, các ngân hàng cũng đă không tiếc chi ra khoản tiền 3 triệu đô-la để ủng hộ cho quỹ tranh cử của Henry Clay - đối thủ của tổng thống Jackson - trong khi khẩu hiệu tranh cử của Jackson là “Có Jackson th́ không có ngân hàng”. Cuối cùng, Jackson đă giành thắng lợi với số phiếu áp đảo. 

 

Đề án kéo dài thời hạn giấy phép kinh doanh ngân hàng đă được thông qua tại thượng nghị viện với số phiếu 28/20, và vượt qua cửa hạ nghị viện với số phiếu 167/85(24). Ỷ vào sự hậu thuẫn của đế quốc tài chính Rothschild hùng mạnh ở châu Âu, Biddle - Chủ tịch Ngân hàng thứ hai - chẳng coi tổng thống ra ǵ. Trong khi thiên hạ bàn tán xôn xao rằng đề án kéo dài thời hạn kinh doanh của ngân hàng sẽ bị Jackson phủ quyết, Biddle đă lên giọng tuyên bố “Nếu ông ta phủ quyết đề án, th́ tôi sẽ phủ quyết ông ta”. 

 

Rốt cục, Jackson đă phủ quyết không chút do dự đối với đề án kéo dài thời hạn kinh doanh của Ngân hàng thứ hai. Ông c̣n lệnh cho Bộ trưởng tài chính lập tức yêu cầu các cơ quan dự trữ của chính phủ rút ngay các khoản tiền tiết kiệm từ tài khoản của ngân hàng thứ hai, chuyển vào các tài khoản của ngân hàng ở các bang. Ngày 8 tháng 1 năm 1835, tổng thống Jackson đă trả xong khoản nợ cuối cùng của đất nước. Đây là lần duy nhất trong lịch sử nước Mỹ, chính phủ đă giảm khoản nợ quốc gia xuống mức 0, đồng thời c̣n tạo ra một khoản thặng dư trị giá 35 triệu đô-la Mỹ.

 

Nhận xét về thành tựu vĩ đại này, các nhà sử học cho rằng “đây là thành công xán lạn nhất đồng thời cũng là sự cống hiến quan trọng nhất mà tổng thống đă làm cho đất nước này”.

 

Tờ Boston Post đă ví việc này với sự kiện Chúa đuổi người cho vay tiền ra khỏi thánh đường vậy. 

 

5. “Ngân hàng muốn giết chết tôi, nhưng tôi sẽ giết chết ngân hàng”

 

Ngày 30 tháng 1 năm 1835, tổng thống Andrew Jackson đến Capital Hill tham dự tang lễ của một nghị sĩ Quốc hội. Với hai khẩu súng đă được nạp đầy đạn giấu trong túi áo khoác, Richard Laurence - một tay thợ sơn thất nghiệp đến từ Anh - đă lẻn theo tổng thống Andrew Jackson. Khi tổng thống tiến vào pḥng nghi thức tang lễ, Laurence vẫn c̣n cách tổng thống một khoảng khá xa. Hắn nhẫn nại chờ thời cơ tốt hơn để hành động. Sau khi nghi thức kết thúc, hắn nấp vào giữa hai hàng cột, nơi mà hắn biết chắc chắn tổng thống phải đi qua. Vừa đúng lúc tổng thống bước đến, Laurence từ phía sau cột xông ra, chĩa súng vào tổng thống và bóp c̣. Nhưng rất may, viên đạn bị lép, v́ thế Laurence đă không thể hạ sát được tổng thống. Khi đó, mọi người xung quanh đều hết sức hoảng hốt. Nhưng vị tổng thống 67 tuổi này vẫn tỏ ra b́nh tĩnh đối mặt với tên sát thủ, và theo bản năng, ông đưa cây gậy lên để tự vệ. Liền đó, tên sát thủ lại tiếp tục móc khẩu súng thứ hai ra và bóp c̣, nhưng đạn vẫn bị lép. Đây là tổng thống đầu tiên của Mỹ bị ám sát, và thật may mắn là ông đă thoát chết. Thông thường, tỉ lệ cả hai khẩu súng lép đạn chỉ là 1/125.000 mà thôi.

 

Tên sát nhân 32 tuổi này tự xưng là người thừa kế hợp pháp của quốc vương Anh, và hắn cho rằng, tổng thống Mỹ đă giết chết cha hắn, lại c̣n cự tuyệt để hấn có được một khoản tiền lớn. Sau đó, tại toà án, chỉ sau năm phút thẩm tra, toà đă phán quyết là tên sát nhân này mắc bệnh tâm thần, nên không truy cứu trách nhiệm h́nh sự đối với hắn.

 

Từ đó về sau, bệnh tâm thần trở thành cái cớ thích hợp nhất để các sát thủ chạy tội.

 

Ngày 8 tháng 1 năm 1835, tổng thống Jackson đă trả xong khoản nợ cuối cùng của đất nước. Cuối tháng Giêng, tức là ngày 30 tháng 1, vụ ám sát tổng thống đă xảy ra. Liên quan đến tên hung thủ Richard Laurence, trong cuốn sách của ḿnh, Griffin đă viết rằng: “Tên sát thủ này hoặc là bị bệnh tâm thần thật, hoặc là giả bệnh để ḥng thoát khỏi sự trừng trị nghiêm minh của pháp luật. Sau này, hắn đă khua môi múa mép nói với người khác rằng hắn có mối quan hệ mật thiết với những người có quyền thế ở châu Âu, và hắn đă được hứa là nếu có bị bắt th́ sẽ được bảo vệ”(25)

 

Ngày 8 tháng 6 năm 1845, tổng thống Jackson qua đời. Trên bia mộ của ông chỉ lưu lại một câu nói duy nhất, “Ta đă giết được ngân hàng”.

 

Ngân hàng Trung ương Mỹ lại một lần nữa bị vô hiệu hoá, dẫn đến sự trả đũa nghiêm khắc của phía Anh. Nước Anh lập tức đ́nh chỉ các khoản cho vay đối với Mỹ, trong đó có chiêu tận thu lượng cung ứng tiền vàng của nước Mỹ.

 

Dưới sự vận hành và điều khiển của gia tộc Rothschild, nền tài chính của Anh khi đó đă có được lượng lưu thông tiền vàng với quy mô lớn nhất. Thông qua các khoản tiền cho vay và sự vận hành của Ngân hàng trung ương Mỹ, nền tài chính Anh đă khống chế hoàn toàn việc cung ứng tiền tệ của Mỹ. 

Sau khi đơn xin kéo dài thời hạn của Ngân hàng thứ hai bị tổng thống phủ quyết, Chủ tịch Ngân hàng thứ hai đă khởi động việc “phủ quyết” đối với tổng thống. Ngân hàng thứ hai tuyên bố lập tức thu hồi các khoản đă cho vay, đ́nh chỉ tất cả các khoản vay mới. Các ngân hàng chủ yếu ở châu Âu do ḍng họ Rothschild thao túng cũng đồng thời khống chế ṿng quay lưu chuyển tiền tệ của nước Mỹ, đẩy nước này rơi vào t́nh thế sụt giảm lượng lưu thông tiền tệ “do con người gây ra” một cách nghiêm trọng, cuối cùng dẫn đến “cuộc khủng hoảng năm 1837”, kinh tế Mỹ rơi vào t́nh trạng suy thoái nghiêm trọng trong suốt hơn 5 năm với sức phá hoại lớn chưa từng thấy, gây nên một thời kỳ điêu tàn và kéo dài măi đến năm 1929.

 

“Cuộc khủng hoảng năm 1857” tiếp sau “cuộc khủng khoảng năm 1837”, rồi cuộc khủng hoảng năm 1907 một lần nữa đă xác nhận câu nói của Rothschild: “Chỉ cần khống chế việc phát hành tiền tệ của một quốc gia th́ tôi không cần phải quan tâm rằng ai là kẻ đă đặt ra pháp luật”. 

 

6. Chiến tuyến mới: “Hệ thống tài chính độc lập”

 

Năm 1837, Martin Van Buren - người kế nhiệm được tổng thống Jackson ủng hộ - tiếp quản Nhà trắng. Thách thức lớn nhất của Buren là làm thế nào để khắc phục nguy cơ khủng hoảng nghiêm trọng do nguồn cung ứng tiền bị Ngân hàng quốc tế thắt chặt. Sách lược tiên phong của ông là xây dựng “hệ thống tài chính độc lập” (Independent Treasury System), rút toàn bộ tiền tệ do Bộ tài chính kiểm soát khỏi hệ thống ngân hàng tư nhân, rồi gửi vào hệ thống của ḿnh ở Bộ tài chính. Các nhà sử học gọi hành động này là “cuộc ly hôn giữa tài chính và ngân hàng”.

 

Khởi nguồn của “hệ thống tài chính độc lập” là khi tổng thống Jackson phủ quyết việc kéo dài thời hạn kinh doanh của Ngân hàng thứ hai, đồng thời ra lệnh rút toàn bộ các khoản tiền của chính phủ khỏi hệ thống ngân hàng này, chuyển đến gửi ở ngân hàng của các bang. Ai ngờ, các nhà ngân hàng dùng tiền của chính phủ làm dự trữ, sau đó phát hành tín dụng với số lượng lớn để đầu cơ. Đây là một nguyên nhân khác dẫn đến “cuộc khủng hoảng năm 1837”. Nguồn tiền của chính phủ do Martin Van Buren đề xuất phải làm sao được giải phóng khỏi hệ thống tài chính nhằm bảo vệ tiền vốn của chính phủ đồng thời cân nhắc khả năng ngân hàng dùng tiền thuế của người dân để phát hành tín dụng với số lượng lớn tạo nên sự mất cân bằng trong nền kinh tế.

 

Một đặc điểm khác của “hệ thống tài chính độc lập “là tất cả các khoản tiền nhập vào hệ thống tài chính cần phải được thể hiện dưới dạng vàng bạc”.

 

Như vậy, chính phủ đă có được một điểm tựa để điều tiết khống chế đối với lượng cung ứng tiền vàng của quốc gia nhằm khống chế cuộc xung đột giữa ngân hàng châu Âu đối với việc phát hành tiền tệ của Mỹ. Cách suy nghĩ này có thể nói là một điệu kế nếu nh́n từ góc độ lâu dài, nhưng nếu xét về ngắn hạn th́ lại có thể châm ng̣i nổ cho quả bom rủi ro tín dụng của rất nhiều các ngân hàng, chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa trong cuộc xung đột với ngân hàng thứ hai của Mỹ, và khủng hoảng sẽ xảy ra đến mức không thể khống chế được.

 

Trong quá tŕnh này, Henry Clay là một nhân vật hết sức quan trọng. Ông là người kế thừa quan trọng ư tưởng thành lập Ngân hàng trung ương tư nhân của Hamilton và là nhân vật được các nhà ngân hàng mến mộ. Ông là người có tài ăn nói, lối suy nghĩ chặt chẽ và có sức lôi cuốn. Ông đă tụ hội được bên ḿnh một nhóm các nghị sĩ ủng hộ ngân hàng và được các ngân hàng ủng hộ. Ông đă thành lập đảng Whig (tiền thân của đảng tự do Anh) - một đảng kiên quyết phản đối chính sách ngân hàng của tổng thống Jackson - và đă dồn sức vào việc khôi phục lại chế độ Ngân hàng trung ương tư hữu.

 

Trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1840, đảng Whig đă đề cử vị anh hùng chiến tranh William Henry Harrison, và do trong suy nghĩ của người dân có sự thay đổi về nguy cơ kinh tế, nên Harrison đă dễ dàng giành thắng lợi và trở thành tổng thống thứ 9 của nước Mỹ.

 

Với vai tṛ thủ lĩnh của đảng Whig, Henry Clay đă nhiều lần “chỉ đạo” Harrison phải điều hành nền chính trị như thế nào. Sau khi Harrison trớ thành tổng thống, mâu thuẫn giữa hai người ngày càng trở nên gay gắt.

 

Henry Clay đă triệu kiến “tổng thống sắp nhậm chức” đến nhà ḿnh ở Lexington. V́ nghĩ đến đại cuộc nên Harrison đă nhẫn nhịn đến nhà Henry Clay, nhưng v́ vấn đề ngân hàng quốc gia, chế độ tài chính độc lập và nhiều vấn đề khác nữa mà hai người đă gây gổ với nhau. Nguyên nhân là v́ Henry Clay cho rằng ông ta có thể lấy thân phận “thái thượng hoàng” của ḿnh để ra lệnh. Dù chưa được sự đồng ư của Harrison nhưng ông ta đă cho người chấp bút viết bài diễn văn nhậm chức thay tổng thống và đă bị Harrison từ chối, sau đó, Harrison c̣n đích thân viết một vài diễn văn nhậm chức dài hơn 8.000 từ. Văn kiện tóm lược lại đường lối tư tưởng trị nước của Harrison đă phản bác lại luận điệu ngân hàng trung ương tư nhân và phế bỏ đường lối chính sách tài chính độc lập do Henry Clay chủ trương, tạo nên một cú đánh thấu xương đối với lợi ích của ngân hàng(26).

 

Ngày 4 tháng 3 năm 1841 là một ngày rét mướt. Tổng thống Harrison đă đọc bài diễn văn nhậm chức của ḿnh trong gió rét, và sau đó đă bị cảm lạnh. Đối với tổng thống Harrison, người một đời xông pha nơi trận mạc th́ chuyện này cũng chẳng có ǵ lớn lao, nào ngờ bệnh t́nh của ông lại ngày càng trở nên trầm trọng khác thường, và đến ngày 4 tháng 4 th́ tổng thống đă từ trần. Vị tổng thống minh mẫn hoạt bát vừa mới lên nhậm chức và đang chuẩn bị triển khai rất nhiều dự định lớn lao th́ bỗng nhiên “đột tử”. Dù thế nào th́ đó cũng là một việc hết sức đáng ngờ. Một số nhà sử học cho rằng tổng thống đă bị đầu độc, có thể thời gian hạ độc là vào ngày 30 tháng 3, và sau 6 ngày th́ tổng thống Harrison từ trần.

 

Mâu thuẫn giữa Ngân hàng trung ương tư nhân và hệ thống tài chính độc lập càng trở nên căng thẳng hơn kể từ sau cái chết của tổng thống Harrison. Trong năm 1841, Đảng Whig do Henry Clay chủ tŕ đă hai lần đề xuất phải khôi phục lại Ngân hàng trung ương tư nhân và phế bỏ chế độ tài chính độc lập. Kết quả cả hai lần đều bị người kế nhiệm của tổng thống Harrison là Phó tổng thống John Tyler phủ quyết. Henry Clay tức giận và xấu hổ đă ra lệnh khai trừ John Tyler ra khỏi Đảng Whig, kết quả là tổng thống John Tyler “may mắn” trở thành vị tổng thống “mồ côi“ duy nhất trong lịch sử nước Mỹ bị khai trừ ra khỏi Đảng.

 

Đến năm 1849, sau khi trúng cử tổng thống, Zachary Tayler - một nhân vật khác của Đảng Whig - đă khôi phục lại hy vọng của Ngân hàng trung ương. Việc xây dựng một ngân hàng trung ương tư nhân theo mô h́nh của Ngân hàng Anh là mơ ước cao nhất của các ngân hàng, và nó có nghĩa rằng, cuối cùng th́ ngân hàng cũng quyết định được số phận của quốc gia và nhân dân. Nh́n vào vết xe đổ trước đó của tổng thống Harrison, Tayler luôn tỏ ra hững hờ đối với vấn đề ngân hàng trung ương hết sức quan trọng này, tuy nhiên, ông cũng không cam tâm trở thành con rối trong tay Henry Clay. Nhà sử học Michael Holt đă cho rằng, tổng thống Tayler đă từng ngầm bày tỏ như thế này “Chủ ư xây dựng Ngân hàng trung ương đă được định đoạt, và đó không phải là vấn đề cần được tôi xem xét trong nhiệm kỳ của ḿnh(27). Kết quả là, “cái đă được định đoạt” ở đây không phải là sự chú ư của Ngân hàng trung ương mà nhẩm vào bản thân tổng thống Taylor. 

 

Ngày 4 tháng 7 năm 1850, tổng thống Tayler tham dự lễ quốc khánh được cử hành trước đài tưởng niệm Washington. Thời tiết hôm đó hết sức oi bức, Tayler đă uống một chút sữa đá và ăn thêm mấy quả anh đào, kết quả là ông bị đau bụng. Đến ngày 9 tháng 7 th́ vị tổng thống khôi ngô vạm vỡ này cũng ra đi một cách thần bí. 

 

Sự kiện đột tử thần bí v́ những căn bệnh chẳng đâu vào đâu của cả hai vị tổng thống có xuất thân từ quân nhân này đương nhiên đă gây xôn xao dư luận. C̣n giới sử học th́ tranh luận về đề tài này trong hàng thế kỷ. Năm 1991, sau khi được sự đồng ư của người nhà tổng thống Tayler, thi thể của ông đă được khai quật lên. Người ta lấy mẫu móng tay và tóc của tổng thống đi xét nghiệm. Kết quả cho thấy, ông chết v́ bị đầu độc. Đương nhiên, cơ quan điều tra đă nhanh chóng lấp liếm rằng, lượng đầu độc rất nhỏ không đủ để gây chết người, sau đó vội vàng kết thúc vụ điều tra. Cho đến ngày nay, chẳng ai biết được tại sao cơ thể tổng thống lại có những thứ độc tố đó. 

 

7. Ngân hàng quốc tế ra tay tạo nên cuộc “khủng hoảng năm 1857”

 

Do Ngân hàng thứ hai của Mỹ đóng cửa năm 1836 nên các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đă đột ngột ra tay rút sạch toàn bộ lượng tiền tệ kim loại đang lưu thông ở nước Mỹ, tạo nên cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng diễn ra liên tục trong 5 năm ở quốc gia này. Mặc dù vào năm 1841, đại diện của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đă từng hai lần thử khôi phục lại hệ thống ngân hàng trung ương tư nhân, nhưng cả hai lần đều thất bại, mối quan hệ giữa hai bên rơi vào trạng thái đóng băng, t́nh trạng siết chặt tiền tệ của Mỹ kéo dài măi đến năm 1848 mới bất đầu được giải toả. 

Nguyên nhân khiến cho t́nh h́nh chuyển biến tích cực tất nhiên không phải do các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế quá nhẹ tay mà là do vào năm 1848, nước Mỹ đă phát hiện mỏ vàng rất lớn: mỏ vàng San Francisco. 

Lượng cung ứng vàng của Mỹ liên tục trong 9 năm kể từ năm 1848 đă tăng vọt chưa từng thấy. Chỉ riêng California đă sản xuất ra một lượng tiền vàng trị giá đến 5 tỉ đô-la Mỹ. Năm 1851, một mỏ vàng có trữ lượng lớn cũng được phát hiện ở Úc. Lượng cung ứng vàng trên phạm vi thế giới từ 144 triệu si-ling vào năm 1851 tăng vọt lên 376 triệu si-ling trong năm 1861. Và lưu lượng tiền thuộc kim nội địa của Mỹ từ 83 triệu đô-la trong năm 1840 tăng vọt lên 253 triệu đô-la trong năm 1860(28). 

Việc phát hiện những mỏ vàng lớn ở Mỹ và Úc đă phá vỡ sự khống chế tuyệt đối của các nhà tài chính châu Âu đối với lượng cung ứng vàng thế giới. Chính phủ Mỹ thở phào nhẹ nhơm v́ đă thoát được cảnh phải bị siết chặt về tiền tệ. Việc cung ứng tiền tệ với chất lượng tốt và số lượng nhiều đă làm tăng niềm tin cho thị trường, các ngân hàng bắt đầu bành trướng hoạt động tín dụng trên quy mô lớn. Cơ sở quan trọng nhất trong tài sản của nước Mỹ là rất nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Mỹ như công nghiệp, khoáng sản, giao thông, cơ giới đều được khôi phục nhanh chóng trong giai đoạn hoàng kim này. 

 

Thấy việc khống chế tài chính tỏ ra không c̣n hiệu quả, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đă tung ra đối sách mới. Đó chính là chính sách khống chế tài chính và phân hoá chính trị. 

 

Trước khi cuộc khủng hoảng kết thúc, các nhà tài phiệt ngân hàng đă bắt đầu ra tay thu mua của cải quư giá của dân chúng với giá rẻ mạt. Đến năm 1853, khi nền kinh tế Mỹ phất như diều gặp gió th́ tư bản nước ngoài, đặc biệt là tư bản Anh đă sở hữu 46% trong tổng số công trái liên bang, 58% tổng công trái các bang, 26% tổng công trái ngành đường sắt Mỹ(29). Như vậy, một khi chế độ ngân hàng trung ương được yên vị th́ nền kinh tế Mỹ cũng sẽ bị các nhà tài phiệt ngân hàng khống chế giống như các quốc gia châu Âu khác.

 

Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế mở rộng hoạt động tín dụng, khiến nền kinh tế phát triển với tốc độ như bơm bong bóng để người dân và các doanh nghiệp khác ra sức tạo ra của cải, sau đó đạp gấp phanh tín dụng, khiến cho hầu hết các doanh nghiệp và người dân lâm vào cảnh phá sản, c̣n các ngân hàng lại được một phen bội thu. Quả nhiên, trong khi thấy mùa thu hoạch đă đến, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế và các đại diện của họ ở Mỹ đă quơ tay siết chặt tín dụng, gây nên cuộc khủng hoảng năm 1857. Nhưng điều vượt ra ngoài dự kiến của họ là, thực lực của nền kinh tế Mỹ lúc này đă không c̣n như 20 năm trước nữa, cuộc khủng hoảng năm 1857 không thể làm chấn thương trầm trọng nền kinh tế Mỹ một lần nữa, mà nó chỉ kéo dài trong một năm th́ nước Mỹ đă dập tắt được khủng hoảng. 

Khi thấy thực lực của nước Mỹ ngày càng mạnh, tài chính ngày càng khó bị khống chế, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đặt ra nhiệm vụ trọng tâm cho ḿnh: kích động nội chiến và chia cắt nước Mỹ.

 

8. Khởi nguồn cuộc nội chiến Mỹ: Thế lực tài chính quốc tế châu Âu

 

Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, cuộc nội chiến chia tách nước Mỹ làm hai nửa liên bang có thực lực tương đối yếu đă được các thực tài chính châu Âu hoạch định từ rất sớm.

 

Bismarck - Thủ tướng Đức.

 

Lịch sử phát triển của nước Mỹ gắn liền với sự can thiệp và âm mưu của các thế lực quốc tế. Điều khiến người ta kinh ngạc nhất chính là sự thâm nhập và lật đổ của các thế lực tài chính quốc tế đối với nước Mỹ. Tuy nhiên, đây cũng chính là những điều ít được biết đến nhất.

 

Cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất xảy ra trên chính lănh thổ của ḿnh trong lịch sử của nước Mỹ chắc chắn thuộc về cuộc nội chiến Nam - Bắc. Cuộc chiến đổ máu kéo dài suốt bốn năm này đă lôi kéo 3 triệu người tham gia, chiếm 10% nhân khẩu của nước Mỹ, 600 ngh́n người tử trận, vô số người tàn phế, một lượng của cải khổng lồ bị huỷ hoại trong ngọn lửa chiến tranh, và vết thương mà cuộc chiến này để lại cho người dân đến nay sau hơn 140 năm vẫn chưa được hoàn toàn khôi phục.

 

Ngày nay, những tranh luận liên quan đến nguyên nhân cuộc nội chiến Nam - Bắc phần lớn xoay quanh vấn đề đạo lư của cuộc chiến, tức là loại bỏ sự hiện hữu của chế độ nô lệ, đúng như Sydney E. Ahlstrom đă nói (nếu không có chế độ nô lệ th́ sẽ không có chiến tranh. Nếu không có sự lên án đạo đức đối với chế độ nô lệ th́ sẽ không có chiến tranh”(30).

 

Nhưng thực tế, liên quan đến chế độ nô lệ tại Mỹ trong thế kỷ 19, lợi ích kinh tế được xếp hàng thứ nhất, trong khi vấn đề đạo đức lại đứng hàng thứ hai. Trụ cột kinh tế miền Nam thời đó chính là nền sản xuất bông dệt vải và chế độ nô lệ, và nếu như phế bỏ chế độ nô lệ th́ các chủ trang trại buộc phải trả công cho những người nô lệ ban đầu theo giá trị trường công lao động của người da trắng, và như vậy, toàn bộ sản nghiệp sẽ chịu hao tổn, kết cấu kinh tế xă hội sẽ sụp đổ. Nếu nói chiến tranh là sự kế tục của đấu tranh chính trị th́ phía sau xung đột lợi ích chính trị chính là sự tính toán lợi ích kinh tế. Trên bề mặt của sự tính toán lợi ích kinh tế này nổi lên sự khác biệt về lợi ích kinh tế giữa hai miền Nam Bắc, nhưng bản chất của nó vẫn là sách lược chơi tṛ “chia để trị” của các thế lực tài chính quốc tế.

 

Bismarck - Thủ tướng Đức, người có dây mơ rễ má với ḍng họ Rothschild - đă nói rất chính xác rằng “Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, cuộc nội chiến chia tách nước Mỹ làm hai nửa liên bang có thực lực tương đối yếu đă được các thế lực tài chính châu Âu hoạch định từ rất sớm”. 

Thực chất, chính các nhà ngân hàng trục “London - Paris - Frankfurt” là những kẻ ném đá giấu tay sau cuộc chiến Nam - Bắc của Mỹ. 

Để kích động cuộc nội chiến tại Mỹ, các nhà ngân hàng quốc tế đă tiến hành việc hoạch định lâu dài, cẩn trọng và chu toàn. Sau chiến tranh độc lập của Mỹ, nền công nghiệp dệt của nước Anh và các tầng lớp chủ nô ở miền Nam nước Mỹ dần dần xây dựng được mối quan hệ làm ăn mật thiết với nhau. Các nhà tài chính ở châu Âu đă nắm ngay lấy cơ hội này, thừa cơ bí mật phát triển một mạng lưới các nhân vật chủ chốt có thể kích động được cuộc xung đột Nam - Bắc trong tương lai. Ở miền nam thời đó, các đại diện đủ kiểu của các nhà tài chính Anh hiện diện khắp nơi, và cùng với các thế lực chính trị bản địa, họ tham gia hoạch địch các âm mưu, tạo ra đủ mọi loại tin tức cũng như dư luận ḥng tách khỏi liên bang. Họ đă khéo léo lợi dụng sự xung đột lợi ích kinh tế về vấn đề chế độ nô lệ ở hai miền Nam - Bắc, không ngừng tạo ra căng thẳng, xung đột và làm cho vấn đề thêm trầm trọng so với bản chất, và cuối cùng đă thành công trong việc đẩy vấn đề chế độ nô lệ thành mâu thuẫn gay gắt không thể dung hoà như nước với lửa giữa hai miền. 

 

Các ngân hàng quốc tế đă chuẩn bị sẵn sàng, chỉ c̣n chờ chiến tranh nổ ra là có thể vơ vét được những món lợi lớn. Trong quá tŕnh kích động chiến tranh, chiêu thức mà họ quen dùng là “bắt cá hai tay”, bất kể ai là kẻ chiến thắng

Những khoản nợ kếch xù của chính phủ phải chi cho chiến tranh đều là bữa tiệc thịnh soạn nhất của các ngân hàng.

 

Mùa thu năm 1859, trong vai một người du lịch, nhà tài phiệt ngân hàng nổi tiếng nước Pháp Salomon de Rothschild từ Paris đến Mỹ. Ông là người điều phối chung mọi kế hoạch vốn có, đi lại giữa hai miền nam - bắc, tiếp xúc với các nhân vật quan trọng trong giới chính trị và giới tài chính Mỹ, đem mọi thông tin t́nh báo thu thập được chuyển về cho Nathaniel de Rothschild đang trấn giữ ở London. Trong cuộc hội đàm với các giới chức miền nam, ông đă công khai tuyên bố sẽ nỗ lực chi viện cho miền nam về mặt tài chính, đồng thời bày tỏ sẽ tận lực giúp miền nam độc lập nhằm có được sự thừa nhận của các quốc gia lớn ở châu Âu(31).

 

Đại diện ở miền bắc của ngân hàng quốc tế là August Belmont - một nhân vật hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng gốc Do Thái được mệnh danh là “vua của Đại lộ thứ năm” ở New York. Ông là đại diện của Ngân hàng Rothschild Frankfurt, cũng là người có quan hệ thân thích với ḍng họ này. 

 

Năm 1829, khi mới 15 tuổi, August đă bắt đầu kiếm sống trong lĩnh vực ngân hàng. Ông cũng đă bắt đầu làm việc cho Ngân hàng Rothschild ở Frankfurt đồng thời sớm bộc lộ được khả năng tài chính thiên phú của ḿnh. Ông tinh thông các ngoại ngữ Đức, Anh, Pháp, Ư. Năm 1837, ông được phái đến New York. Nhờ mua vào một lượng lớn trái phiếu chính phủ, nên Belmont nhanh chóng trở thành nhân vật cấp cao của giới tài chính New York, và được tổng thống tín nhiệm bổ nhiệm vào vị trí cố vấn tài chính. Ông đại diện cho ngân hàng Rothschild ở Anh và Frankfurt đồng thời bày tỏ ư muốn ủng hộ tài chính cho tổng thống Lincoln ở miền bắc.

 

Để tăng áp lực lớn hơn về mặt quân sự đối với quân miền bắc, cuối năm 1861, nước Anh đă tăng thêm 8.000 binh lính đến Canada, sẵn sàng chuẩn bị ứng phó với sự tấn công của quân miền nam đồng thời uy hiếp chính phủ Lincoln ở biên giới phía Bắc. Năm 1862, liên quân Anh, Pháp và Tây Ban Nha đă đổ bộ vào cảng Mexico, hoàn thành đợt tập kết ở biên giới phía nam của nước Mỹ, khi cần thiết sẽ xâm nhập vào miền nam nước Mỹ và trực tiếp khai chiến với quân miền Bắc. Ngày 3 tháng 10 năm 1863, Yelet - vị tướng Pháp lại tăng thêm 30.000 quân, và chiếm lĩnh thành phố Mehico.

 

Khi chiến tranh mới nổ ra, đội quân miền nam đánh đâu thắng đó, các cánh quân của châu Âu như quân Pháp đă mạnh lại càng mạnh hơn, Lincoln đă rơi vào t́nh thế cực kỳ khó khăn. Các ngân hàng đă tính toán chính xác sự trống rỗng trong quốc khố của tổng thống Lincoln khi đó, và chẳng c̣n cơ hội nào tốt hơn để kiếm một khoản lợi kếch xù từ cuộc chiến tranh này. Kể từ khi cuộc chiến tranh với Anh kết thúc năm 1812, thu nhập quốc khố của nước Mỹ thâm hụt nhiều năm liền, và đến trước khi Lincoln lên nắm quyền, mọi khoản thâm hụt của chính phủ Mỹ đều được đem bán cho ngân hàng dưới h́nh thức công trái, rồi ngân hàng lại chuyển tiếp cho Ngân hàng Rothschild ở Anh và ngân hàng Paris (đây là một h́nh thức mua bán nợ chính phủ). Như vậy, chính phủ Mỹ phải chi trả lợi tức khá cao, và những khoản nợ tích luỹ nhiều năm như thế này đă tạo ra gánh nặng nợ nần cho chính phủ. 

 

Các ngân hàng đă đề xuất ra một kế hoạch tài chính trọn gói và đưa ra điều kiện của ḿnh. Khi nghe đến khoản lăi yêu cầu từ 24% đến 36% của các ngân hàng, tổng thống Lincoln đă mời ngay các ngân hàng ra khỏi cửa trong cơn tức giận bầm gan tím mật. Đây là một chiêu độc nhằm đẩy chính phủ Mỹ rơi vào cảnh phá sản hoàn toàn, và Lincoln biết rằng người dân Mỹ măi măi không thể trả hết khoản nợ hàng ngh́n tỉ này. 

 

 

9. Chính sách mới về tiền tệ của Lincoln 

 

Không có tiền th́ không thể tiến hành chiến tranh, mà nếu vay của ngân hàng quốc tế th́ chẳng khác nào tự treo tḥng lọng vào cổ ḿnh. Lincoln nghĩ trăm phương ngàn kế để t́m phương án giải quyết. Lúc đó, Dick Taylor - một người bạn cũ của ông ở Chicago - đă đề xuất với Lincoln một ư tưởng: chính phủ tự phát hành tiền tệ!

 

“Việc yêu cầu Quốc hội thông qua đề án này cũng như vấn đề trao quyền cho Bộ tài chính ấn hành tiền tệ sẽ có đầy đủ hiệu lực pháp luật nhằm giúp chi trả lương bổng cho binh sĩ sau đó sẽ giúp ông giành được thắng lợi trong cuộc chiến mà ông tiến hành”.

 

Trả lời câu hỏi của Lincoln về việc liệu người dân Mỹ cố tiếp nhận đồng tiền mới này hay không, Dick nói rằng “tất cả mọi người đều sẽ không có sự lựa chọn nào khác trong vấn đề này, chỉ cần ông tạo nên hiệu lực pháp lư đầy đủ cho loại tiền tệ mới này, chính phủ sẽ hoàn toàn ủng hộ, và chúng sẽ thông dụng giống như một loại tiền đích thực, bởi v́ hiến pháp trao cho Quốc hội quyền phát hành và quyền quy định giá trị tiền tệ”.

 

Sau khi nghe xong đề nghị này, Lincoln tỏ ra quá đỗi vui mừng, lập tức đề nghị Dick lập kế hoạch cho việc này.

 

Biện pháp hết sức mới lạ này đă phá vỡ cách làm thường lệ của chính phủ là cần phải vay tiền và chịu lăi suất cao của ngân hàng tư nhân. Loại tiền mới này sử dụng hoa văn màu xanh lục để phân biệt với tiền của các ngân hàng khác và được lịch sử gọi là “tiền xanh”. Chỗ mới lạ đặc biệt của loại tiền mới này nằm ở chỗ nó hoàn toàn không được bảo đảm bằng vàng hay bạc, và lợi tức là 5% cho 20 năm.

 

Trong thời kỳ nội chiến, nhờ có sự phát hành của loại tiền này mà Mỹ đă khắc phục được t́nh trạng thiếu hụt tiền tệ nghiêm trọng của chính phủ ngay trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Điều này đă huy động một cách hiệu quả nhất tất cả các nguồn vốn của miền bắc nước Mỹ, tạo nên một cơ sở kinh tế vững chắc cho chiến thắng cuối cùng trước quân miền nam. Đồng thời, nhờ có giá thành thấp nên loại tiền này đă trở thành nguồn tích luỹ của ngân hàng miền Bắc, tín dụng ngân hàng của miền Bắc cũng nhờ đó mà được mở rộng, các ngành công nghiệp quốc pḥng, xây dựng đường sắt sản xuất nông nghiệp và mậu dịch thương nghiệp đều nhận được sự chi viện tài chính lớn chưa từng có so với trước đó. 

Việc phát hiện những mỏ vàng lớn những năm 1848 đă khiến cho nền tài chính Mỹ dần dần thoát khỏi cục diện bất lợi và cực đoan do các ngân hàng châu Âu khống chế, và cũng chính nhờ vào sản lượng lớn những mỏ vàng này nên loại tiền mới của Lincoln mới có thể được người dân tiếp nhận rộng răi, đặt cơ sở tài chính đáng tin cậy cho việc giành thắng lợi trong cuộc chiến Nam - Bắc. Một điều nữa khiến người ta càng thêm kinh ngạc hơn là, loại tiền mới do Lincoln phát hành không hề gây ra lạm phát tiền tệ nghiêm trọng kiểu như trong thời kỳ diễn ra chiến tranh độc lập. Từ khi cuộc nội chiến nổ ra vào năm 1861 đến khi kết thúc vào năm 1865, chỉ số vật giá của toàn miền bắc Mỹ chỉ tăng một cách nhẹ nhàng từ 100 lên 216. Xem xét quy mô và sự nghiêm trọng về mức độ phá hoại của cuộc nội chiến so với những cuộc chiến có quy mô tương tự khác trên thế giới, chúng ta không thể không nói rằng đây là một kỳ tích tài chính. Ngược lại, miền nam cũng dùng phương thức lưu thông tiền giấy, nhưng hiệu quả th́ khác xa một trời một vực, chỉ số vật giá của miền nam trong cùng một thời kỳ đă tăng từ 100 lên đến 2776(32). 

 

Trong suốt thời kỳ nội chiến Nam - Bắc, chính quyền Lincoln đă phát hành số tiền mới 450 triệu đô-la Mỹ. Nhờ. cơ chế vận hành đồng tiền mới này tốt như vậy cho nên tổng thống Lincoln đă xem xét một cách nghiêm túc việc pháp chế hoá vấn đề phát hành loại tiền tệ không thế chấp này (Debt Free Money). Nhưng chính điều này đă như một đ̣n đau đánh vào lợi ích căn bản của các nhà tài phiệt quốc tế. 

 

Nếu như mọi chính phủ đều không cần phải vay tiền của ngân hàng mà “thản nhiên” tự ḿnh phát hành tiền tệ, th́ sự lũng đoạn của các ngân hàng đối với việc phát hành tiền tệ sẽ không c̣n tồn tại nữa, như vậy không phải là ngân hàng đă trơ mỏ rồi sao? 

 

Cũng v́ thế mà ngay sau khi nghe được tin tức này, tờ London Times đại diện cho ngân hàng Anh đă lập tức dăng tải tuyên bố:

 

“Nếu như chính sách tài chính mới của Mỹ (tiền xanh Lincoln) khiến người ta chán ghét được thực thi vĩnh viễn, chính phủ có thể phát hành khống nguồn tiền tệ của ḿnh. Chính phủ có thể hoàn trả hết mọi khoản nợ đồng thời sẽ thu được những khoản tiền cần thiết để phát triển thương nghiệp, sẽ biến thành một quốc gia phồn vinh chưa từng có trên thế giới. Nguồn nhân tài ưu tú và mọi tài nguyên vốn có trên thế giới này sẽ chảy dồn về Bắc Mỹ. Quốc gia này cần phải bị phá huỷ, nếu không nó sẽ phá huỷ từng quốc gia theo chế độ quân chủ trên thế giới”.

 

Chính phủ Anh và Hiệp hội Ngân hàng New York đă bày tỏ sự phẫn nộ đ̣i hỏi phải thực hiện các hành động đáp trả. Ngày 28 tháng 12 năm 1861, họ tuyên bố đ́nh chỉ chi trả bằng tiền kim loại cho chính phủ Lincoln. Một số ngân hàng ở New York c̣n đ́nh chỉ việc rút vàng của những người gửi tiết kiệm bằng vàng, đồng thời tuyên bố huỷ bỏ việc chấp nhận dùng vàng mua công trái của chính phủ. Các ngân hàng ở nhiều nơi trên nước Mỹ cũng rầm rộ hưởng ứng. Họ đến Washington để đề xuất những phương án thay đổi vô nguyên tắc đối với tổng thống Lincoln, đ̣i thực hiện lại những cách làm trong quá khứ, đem những công trái có lợi tức cao bán cho các ngân hàng châu Âu; đem vàng của chính phủ Mỹ gửi vào các ngân hàng tư nhân để dự trữ phát hành tín dụng, các ngân hàng phát tài lớn; chính phủ Mỹ trưng thu thuế của các ngành công nghiệp và người dân để chi trả cho chiến tranh.

 

Đương nhiên, tổng thống Lincoln đă cự tuyệt yêu cầu hoàn toàn vô lư này của các ngân hàng. Chính sách của ông rất được ḷng dân, người dân Mỹ đă nô nức mua hết toàn bộ công trái, và căn cứ vào pháp luật, các công trái này được sử dụng như là hiện kim.

 

Các nhà tài phiệt ngân hàng thấy kế sách bất thành bèn nghĩ ra kế khác. Họ phát hiện thấy rằng trong luật phát hành tiền xanh Lincoln của Quốc hội hoàn toàn không đề cập đến việc có nên dùng vàng để chi trả lăi tức công trái hay không. V́ vậy, họ cho phép dùng loại tiền mới của Lincoln để mua công trái, nhưng phần lợi tức phải được chi trả bằng tiền kim loại. Đây là một bước trong kế hoạch hoàn chỉnh nhằm gắn kết đồng tiền mới của Lincoln tại Mỹ với giá trị của vàng. Trong khi đó, các ngân hàng châu Âu tích luỹ đồng bảng Anh nhiều hơn bất cứ đồng tiền nào thời đó và nhiều hơn so với tiền vàng của Mỹ. Sự thoả hiệp giữa ngân hàng và Quốc hội Mỹ đă khiến cho thế lực tài chính quốc tế lợi dụng việc khống chế tổng lượng xuất nhập khẩu vàng đối với nước này để gián tiếp thao túng giá trị tiền tệ của Mỹ. 

 

10. Đồng minh Nga của Lincoln 

 

Khi các quốc vương ở châu Âu đă chuẩn bị sẵn sàng để đem quân sang chia cắt nước Mỹ, Lincoln lập tức nhớ đến kẻ thù truyền kiếp của các quốc vương châu Âu - nước Nga. Lincoln đă phái đặc sứ cầu cứu Sa hoàng Alexardre Đệ nhị. Khi nhận được thư của Lincoln, Sa hoàng không mở ra ngay mà nâng nâng trên tay, rồi nói rằng: “Trước khi mở bức thư này hoặc biết được nội dung của nó, chúng ta sẽ đồng ư trước với bất cứ yêu cầu nào mà bức thư đề xuất(33). 

 

Nguyên nhân Sa hoàng chuẩn bị tham gia quân sự vào cuộc nội chiến Mỹ có mấy mặt sau đây. Thứ nhất, đó là sự lo lắng “môi hở răng lạnh”, v́ trong thời kỳ Alexardre đại đế trị v́, các thế lực tài chính quốc tế từng quét sạch châu Âu đă gơ cửa điện Kremli. Học theo kinh nghiệm của các quốc gia tài chính “tiên tiến” ở châu Âu, các ngân hàng cương quyết yêu cầu thành lập ngân hàng trung ương tư hữu, và Sa Hoàng đă sớm nhận ra chiêu độc trong việc này nên đă kiên quyết từ chối yêu cầu này. Khi nh́n thấy tổng thống Lincoln - một nhân vật phản đối các thế lực tài chính quốc tế - rơi vào t́nh cảnh nguy hiểm, Alexardre đệ nhị lo rằng, nếu không ra tay tương trợ, chẳng mấy chốc mối nguy ấy sẽ ập đến với chính ḿnh. Một nguyên nhân khác là ngày 3 tháng 3 năm 1861 trước khi nổ ra cuộc nội chiến Nam - Bắc ở Mỹ, Alechxandre Đệ nhị đă tuyên bố pháp lệnh giải phóng nông nô, và về vấn đề này, cả Alexardre Đệ nhị lẫn Lincoln đều có những quan điểm chung. Và c̣n một điều nữa là cuộc chiến tranh Crimean của nước Nga vừa mới kết thúc năm 1856 đă đại bại dưới tay của liên quân Anh - Pháp, v́ thế nên Alechxandre Đệ nhị chưa nguôi chuyện rửa hận.

 

 

Chưa tuyên chiến, vào ngày 24 tháng 9 năm 1863, dưới sự chỉ huy của tướng Liviski, hạm đội của Nga đă tiến vào cảng New York. Ngày 12 tháng 10, dưới sự chỉ huy của tướng Popov, hạm đội Thái B́nh Dương của Nga đă đến San Francisco. Đối với hành động của nước Nga, Wales đă b́nh luận rằng: “Họ đă đến khi miền nam đang ở vào lúc triều lên c̣n miền bắc ở vào thế triều xuống. Sự xuất hiện của họ đă tạo nên sự do dự của Anh và Pháp, cuối cùng đă cho Lincohn thời gian để xoay chuyển được cục diện”.

Sau khi nội chiến kết thúc, để chi trả khoản phí tổng cộng 7,2 triệu đô-la Mỹ cho hạm đội nước Nga, chính phủ Mỹ đă chần chừ kéo dài thời gian. V́ hiến pháp không trao cho tổng thống quyền chi trả chiến phí cho chính phủ nước ngoài nên tổng thống Johanson khi đó đă đạt được thoả thuận dùng chính vùng đất Alaska mua của nước Nga để chi trả khoản chi phí chiến tranh. Trong lịch sử, vụ việc này được gọi là “Sự điên rồ của Seward”. Seward là Bộ trưởng ngoại giao thời đó của Hoa Kỳ và đă bị dân chúng kịch liệt chỉ trích khi bỏ ra 7,2 triệu đô-la để đi mua lại một vùng đất hoang hoá không đáng một xu của Nga.

Cũng v́ một nguyên nhân tương tự mà Alexardre Đệ nhị đă bị hành thích vào năm 1867, nhưng vụ hành thích đă không thành công. Ngày 1 tháng 3 năm 1881, Alexardre cuối cùng cũng chết vào tay một thích khách.

 

11. Ai là hung thủ thật sự ám sát Lincoln?

 

Bismarck - vị Thủ tướng kiên cường và giàu ḷng hy sinh của nước Đức đă từng nhận xét một cách sắc bén rằng:

“Ông ấy (Lincoln) được quốc hội trao quyền vay tiền thông qua việc bán khoản công trái cho người dân, như vậy th́ chính phủ và quốc gia sẽ thoát được khỏi cái bẫy cài sẵn của các nhà tài chính nước ngoài. Trong khi họ (các nhà tài chính quốc tế) hiểu rơ được rằng nước Mỹ sẽ thoát khỏi ṿng khống chế của họ, th́ ngày chết của Lincoln chằng c̣n mấy xa xôi”.

 

Sau khi ra sắc lệnh giải phóng nô lệ da đen và thống nhất miền nam, ngay lập tức Lincoln đă tuyên bố xoá toàn bộ các khoản nợ chiến tranh mà miền nam đă phải gánh chịu.

Các ngân hàng quốc tế - đơn vị chu cấp phần lớn tài chính cho miền nam trong suốt cuộc chiến - đă bị tổn thất nghiêm trọng v́ quyết định này. Để trả thù Lincoln, đặc biệt là để xoá bỏ chính sách mới về tiền tệ của Lincoln, họ đă tập hợp các thế lực bất măn đối với vị tổng thống này, bí mật lên kế hoạch ám sát tổng thống. Với họ, chuyện chỉ đạo đám côn đồ ám sát tổng thống thực tế không phải là một việc khó khăn.

Sau khi Lincoln bị ám sát, dưới sự thao túng của các thế lực tài chính quốc tế, Quốc hội tuyên bố phế bỏ chính sách tiền tệ mới của Lincoln, việc phát hành tiền tệ mới của Lincoln không được vượt quá giới hạn 400 triệu đô-la.

Năm 1972, có người hỏi Bộ tài chính Mỹ rằng, với số tiền mới 450 triệu đô-la Mỹ của Lincoln phát hành, chính phủ rốt cuộc đă tiết kiệm được bao nhiêu tiền lăi. Sau mấy tuần tính toán kỹ lưỡng, câu trả lời của Bộ tài chính là: nhờ tổng số tiền Lincoln tự phát hành cho chính phủ Mỹ mà quốc gia này đă tiết kiệm được 4 tỉ đô-la lợi nhuận(34).

 

Cuộc nội chiến Nam - Bắc về căn bản là một cuộc tranh giành lợi ích kịch liệt giữa các thế lực tài chính quốc tế cũng như những người đại diện cho các thế lực đó và chính phủ Mỹ trong việc khống chế quyền phát hành tiền tệ quốc gia cũng như chính sách tài chính tiền tệ của Mỹ. Trong thời gian hơn một trăm năm sau cuộc nội chiến Nam-Bắc, đôi bên đă tiến hành những cuộc chiến tàn khốc. Tổng cộng đă có 7 tổng thống Mỹ v́ cuộc chiến này mà bị ám sát, nhiều nghị sĩ bị thủ tiêu. Măi đến năm 1913, việc thành lập hệ thống ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ đă đánh dấu cho thắng lợi mang tính quyết định của ngân hàng quốc tế.

 

Thật đúng như Bismarck đă nói:

“Cái chết của Lincoln là sự tổn thất nghiêm trọng của thế giới Cơ đốc giáo. Nước Mỹ có thể không c̣n ai có thể đi lại con đường vĩ đại của ông, c̣n các ngân hàng sẽ lại một lần nữa khống chế những ai giàu có. Tôi lo rằng các ngân hàng nước ngoài với những thủ đoạn cao siêu và tàn bạo sẽ giành được sự giàu có của nước Mỹ, sau đó dùng nó để huỷ hoại nền văn minh hiện đại một cách có hệ thống”. 

 

12. Sự thoả hiệp chí mạng: “Pháp lệnh ngân hàng quốc gia” năm 1863

 

“Vai tṛ mà tôi đă đóng góp trong việc cho ra đời pháp lệnh ngân hàng quốc gia là sai lầm tài chính nghiêm trọng nhất trong cuộc đời. Sự lũng đoạn (cung ứng tiền tệ) mà nó (pháp lệnh ngân hàng quốc gia) sản sinh ra sẽ ảnh hưởng đến tất cả các phương diện của đất nước này. Nó cần phải bị phế bỏ, nhưng trước khi điều này xảy ra, đất nước này sẽ chia thành hai phía, một bên là người dân, c̣n bên kia là ngân hàng, và t́nh huống này vẫn chưa từng xuất hiện trong lịch sử của đất nước này”.

Bộ trưởng tài chính Mỹ Salomon (1861-1864)

 

Sau khi cuộc nội chiến Nam - Bắc bùng nổ, Lincoln đă cự tuyệt khoản lợi tức cắt cổ từ 24% đến 36% của Rothschild và các đại diện khác của họ ở Mỹ, chuyển sang trao quyền cho Bộ tài chính phát hành “tiền giấy quốc gia” (United States Notes) của riêng ḿnh, hay c̣n được gọi là bạc xanh.

 

Pháp lệnh tiền tệ chính thức (Legal Tender Act) được thông qua tháng 2 năm 1862. Pháp lệnh này trao quyền cho Bộ tài chính phát hành 150 triệu đồng tiền xanh, liền sau đó vào tháng 7 năm 1862 và tháng 3 năm 1863, lại trao quyền cho Bộ tài chính phát hành thêm 150 triệu tiền xanh nữa. Nói chung, trong thời kỳ nội chiến, tổng số tiền xanh được phát hành đă lên đến 450 triệu.

 

Việc phát hành tiền xanh của Lincoln chẳng khác nào chọc vào tổ ong ṿ vẽ của ngân hàng quốc tế. Trước hành động này của tổng thống, các ngân hàng được một vố đau như ḅ đá, nhưng ngược lại, tầng lớp nhân dân và các ngành công nghiệp khác th́ lại tỏ thái độ hết sức hoan nghênh đối với loại tiền xanh này. Đồng tiền xanh của Lincoln được lưu hành măi đến năm 1994 trong hệ thống tiền tệ của Mỹ.

 

Năm 1863, khi cuộc chiến đă bước đến hồi quyết định nhất, Lincoln cần nhiều tiền xanh hơn nữa để giành được thắng lợi. Để được trao quyền phát hành tiền xanh lần thứ ba, ông buộc phải cúi đầu trước các thế lực ngân hàng trong Quốc hội để đưa ra một thoả hiệp quan trọng: kư vào pháp lệnh “ngân hàng quốc gia” năm 1863. Pháp lệnh này trao cho chính phủ quyền phê chuẩn việc cho Ngân hàng quốc gia (National Bank) phát hành tiền giấy với tiêu chuẩn thống nhất. Những ngân hàng này trên thực tế sẽ phát hành tiền tệ quốc gia của Mỹ. Một điểm hết sức quan trọng chính là những ngân hàng này dùng trái phiếu chính phủ Mỹ làm nguồn dự trữ cho việc phát hành tiền giấy, và như vậy, sẽ khống chế việc phát hành tiền tệ của Mỹ với các khoản vay của chính phủ, c̣n chính phủ sẽ măi không thể hoàn trả hết các khoản nợ này.

 

John Kenneth Galbraith - nhà kinh tế học lừng danh người Mỹ - đă từng chỉ ra một cách sắc bén rằng: “Rất nhiều năm sau khi cuộc nội chiến kết thúc, hàng năm, chính phủ lại không thể hoàn trả hết những khoản nợ đă vay, cũng không thể bồi hoàn những khoản nợ đă phát hành ra, bởi việc này có nghĩa rằng chẳng c̣n khoản nợ nào để làm thế chấp cho quỹ tiền tệ quốc gia. Việc hoàn trả hết các khoản nợ cũng đồng nghĩa là đă phá huỷ toàn bộ sự lưu thông tiền tệ, âm mưu của các ngân hàng quốc tế trong việc thiết lập một mô h́nh ngân hàng ở Mỹ theo kiểu Ngân hàng Anh cuối cùng đă trở thành hiện thực. Từ đây, lợi tức lâu dài từ các khoản nợ của chính phủ Mỹ sẽ chảy vào túi các ngân hàng, và nó chẳng khác nào một sợi tḥng lọng ngày càng siết chặt vào cổ nhân dân Mỹ. Đến năm 2006, tổng vay của chính phủ Mỹ đă lên đến con số khổng lồ 860.000 tỉ đô-la, b́nh quân mỗi nhà có bốn người phải gánh chịu một khoản nợ quốc gia lên đến 112.000 đô-la, và tốc độ tăng trưởng tổng nợ cả đất nước Mỹ trong mỗi giây là 20.000 đô-la! Khoản chi trả lợi tức của chính phủ liên bang Mỹ đối với nợ quốc gia chỉ đứng sau ngân sách dành cho y tế và quốc pḥng, và đến năm 2006 sẽ đạt đến con số khổng lồ 400 tỉ đô-la Mỹ.

 

Bắt đầu từ năm 1864, các ngân hàng có thể đời đời kiếp kiếp hưởng thụ bữa đại tiệc lợi tức từ khoản nợ quốc gia này của Mỹ. Chỉ v́ xem nhẹ sự khác biệt giữa việc chính phủ trực tiếp phát hành tiền tệ với việc chính phủ phát hành công trái c̣n ngân hàng phát hành tiền, mà các nhà ngân hàng đă tạo nên một sự bất công lớn nhất trong lịch sử loài người. Người dân bị ép phải nộp thuế gián tiếp qua các ngân hàng, mà những khoản thuế này chính là tài sản và tiền bạc do mồ hôi nước mắt của họ làm nên!

 

Măi đến ngày nay, Trung Quốc là một trong số ít quốc gia trên thế giới có chính sách phát hành tiền tệ do chính phủ trực tiếp điều hành. Nhờ đó khoản lợi tức phải chi trả mà chính phủ và người dân đă tiết kiệm được trở thành nhân tố quan trọng không thể thiếu khiến Trung Quốc có thể phát triển nhanh và bền vững như vậy. Nếu có ai đó đưa ra đề xuất phải học hỏi “kinh nghiệm tiến bộ” của nước ngoài, ngân hàng nhân dân cần phải dùng nợ quốc gia của chính phủ làm thế chấp để phát hành đồng nhân dân tệ, th́ người dân Trung Quốc cần phải coi chừng.

 

Lincoln không phải là không biết đến nguy cơ đe doạ vĩnh cửu này và dự tính rằng, sau khi thắng cử ở nhiệm kỳ kế tiếp vào năm 1865, ông sẽ phế bỏ pháp lệnh này, nhưng chỉ 42 ngày sau khi trúng cử, Lincoln đă bị ám sát. Các thế lực ngân hàng quốc tế trong Quốc hội thửa thắng xông lên. Họ cho rằng, cần phải loại bỏ đồng tiền xanh của Lincoln th́ mới có thể kê cao gối mà ngủ được. Ngày 12 tháng 4 năm 1866, Quốc hội đă thông qua “Pháp lệnh thu hồi” (Contraction Act), ḥng thu hồi tất cả các đồng tiền xanh hiện đang lưu thông, và đổi lại thành tiền kim loại, sau đó gạt bỏ tiền xanh ra khỏi hệ thống lưu thông, khôi phục chế độ bản vị vàng.

 

Ở một đất nước vừa thoát khỏi cuộc chiến điêu tàn cần khôi phục, chẳng có ǵ hoang đường hơn là một chính sách kiểm soát gắt gao tiền tệ. Lượng tiền tệ lưu thông 1,8 tỉ đô-la Mỹ từ năm 1866 (tức khoảng 50,46 đô-la Mỹ mỗi người), đă sụt giảm xuống c̣n 1,3 tỉ đô-la Mỹ năm 1867 (tức 44 đô-la Mỹ mỗi người), 600 triệu đô-la Mỹ năm 1876 (mỗi người 14,6 đô-la), cuối cùng là giảm xuống c̣n 400 triệu đô-la Mỹ (mỗi người 6,67 đô-la) năm 1886. Trong bối cảnh một nước Mỹ với nhiều vết thương chiến tranh cần chữa trị, một nền kinh tế cần được phục hồi và phát triển, đồng thời t́nh h́nh dân số tăng nhanh, nhưng lượng cung ứng tiền tệ lại thiếu hụt, đa số người dân đều cho rằng sự thịnh suy là quy luật của phát triển kinh tế. Nhưng trên thực tế, việc thao túng nguồn cung ứng tiền tệ theo kiểu khi buông khi siết của các ngân hàng quốc tế mới là nguồn cơn thực sự của vấn đề.

 

Mùa đông năm 1872, các ngân hàng quốc tế đă phái Ernest Seyd đem theo một khoản tiền lớn từ Anh vào Mỹ.

 

Bằng việc hối lộ các quan chức, Ernest Seyd đă đạt được mục đích của ḿnh: thông qua “pháp lệnh tiền đúc năm 1873” (Coinage Act) mà lịch sử gọi là “pháp lệnh ngu xuẩn 1873”.

 

Đích thân Ernest Seyd đă soạn thảo pháp lệnh này, và nó đă gạt bỏ tiền bằng bạc ra khỏi hệ thống lưu thông tiền tệ, và như vậy, tiền vàng trở thành thứ tiền tệ duy nhất. Pháp lệnh này được ví như hiện tượng phủ sương lên tuyết cho ḍng lưu thông tiền tệ vốn đă thiếu hụt trầm trọng. Sau khi xong việc, Ernest Seyd vênh váo tự đắc nói rằng: “Mùa đông năm 1872, ta đă làm một chuyến đến Mỹ, ta đă đảm bảo chắc chắn việc thông qua pháp lệnh tiền đúc để phế bỏ tiền bạc. Cái mà ta đại diện là lợi ích của các vị chủ tịch Ngân hàng Anh quốc. Đến năm 1873, tiền vàng đă trở thành loại tiền kim loại duy nhất”.

 

Nhưng sự thật, tác dụng của việc loại trừ tiền bạc ra khỏi lĩnh vực lưu thông tiền tệ quốc tế là nhằm để đảm bảo chắc chắn sức khống chế tuyệt đối của các ngân hàng quốc tế đối với lượng cung ứng tiền tệ thế giới, đồng thời đối phó với việc tăng cường khai thác các mỏ bạc trong khi sản lượng các mỏ vàng ngày càng ít đi. Sau khi đă nắm giữ được việc khai thác các mỏ vàng thế giới, đương nhiên ngân hàng quốc tế không muốn lưu lượng tiền bạc mà họ khó khống chế được lại can dự vào địa vị bá quyền tài chính thế giới của ḿnh. V́ thế, kể từ năm 1871, bạc trắng đă được loại trừ đồng loạt ở các quốc gia Đức, Anh, Hà Lan, Áo, Scandinavi, khiến lượng lưu thông tiền tệ của mỗi quốc gia bị co rút lại, từ đó đă dẫn đến cuộc đại suy thoái kinh tế nghiêm trọng kéo dài 20 năm ở châu Âu (Long Depression, 1873 - 1896).

 

Ở Mỹ, “pháp lệnh thu hồi” và “pháp lệnh tiền đúc” đă trực tiếp gây nên cuộc đại suy thoái kinh tế từ năm 1873 đến năm 1879. Trong khoảng thời gian ba năm này, tỉ lệ thất nghiệp của Mỹ đă lên đến mức 30%, người dân Mỹ đă cương quyết yêu cầu phải khôi phục lại thời kỳ lưu hành song song tiền bạc và tiền xanh Lincoln. Dân chúng Mỹ đă thành lập các tổ chức tự phát như hội bạc trắng (US Silver Commission), hội tiền xanh (Greenback Party), thúc đẩy cả nước khôi phục lại chế độ lưu hành song song tiền vàng và tiền bạc, phát hành lại tiền xanh Lincoln vốn được người dân rất hoan nghênh.

 

Báo cáo của hội bạc trắng ở Mỹ đă chỉ ra: “Sự điêu tàn trong thời kỳ trung cổ là do nạn thiếu hụt tiền tệ và sự sụt giá gây nên. Không có tiền tệ th́ không có văn minh, c̣n nếu lượng cung ứng tiền tệ giảm, văn minh tất nhiên sẽ tiêu vong. Lượng lưu thông tiền tệ kim loại của đế quốc La Mă tương đương với 1,8 tỉ đô-la Mỹ, đến cuối thế kỷ 15, lượng lưu thông tiền tệ kim loại của châu Âu chỉ c̣n lại 200 triệu đô-la Mỹ. Lịch sử đă chứng minh rằng, không có bất cứ tai hoạ nào sánh bằng việc đế quốc La Mă trờ về thời kỳ trung cổ”.

 

Nhưng trước những đ̣i hỏi của dân chúng Mỹ, Hiệp hội các nhà ngân hàng Mỹ (The American Bankers Association) tỏ thái độ dứt khoát lạnh lùng. Trong thư gửi cho các hội viên, các nhà ngân hàng đă nêu rơ rằng:

“Cùng với sự hỗ trợ của các tờ báo danh tiếng, đặc biệt là sự hỗ trợ của các tổ chức nông nghiệp và tôn giáo, chúng tôi đề nghị quư vị hăy dốc sức để kiên quyết phản đối việc chính phủ phát hành tiền xanh. Quư vị phải chấm dứt trợ giúp những ai tỏ ư ủng hộ chính phủ trong việc phát hành tiền xanh. Hành động của chính phủ sẽ làm phương hại nghiêm trọng đến lợi nhuận của ngân hàng cũng như lợi ích của những người cho vay như chúng ta. Ngay lập tức, quư vị phải gặp gỡ với các đại biểu quốc hội trong khu vực của ḿnh và yêu cầu họ bảo vệ lợi ích của chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể khống chế được luật pháp”(35).

Năm 1881, trong cảnh kinh tế tiêu điều, tổng thống thứ 20 của Mỹ là James Garfield bước lên đài chính trị và đă nắm bắt được điểm cốt yếu của vấn đề. Ông nói rằng:

“Ở bất cứ quốc gia nào, ai khống chế được việc cung ứng tiền tệ th́ người đó trở thành người chủ tuyệt đối của các ngành công, thương nghiệp hiện có. Nếu hiểu rơ được rằng, hệ thống tiền tệ được kiểm soát và khống chế một cách dễ dàng bởi một nhóm người, bạn sẽ hiểu rơ nguồn gốc của nạn lạm phát và chính sách siết chặt tiền tệ”.

 

Chỉ mấy tuần sau bài phát biểu của ḿnh, tổng thống James đă bị Charles Guiteau - một tên “mắc bệnh tâm thần” ám sát vào ngày 2 tháng 7 năm 1881. tổng thống bị bắn hai phát và cuối cùng qua đời ngày 19 tháng 9.

 

Trong suốt thế kỷ 19, các ngân hàng quốc tế đă thành công với sách lược “dùng quyền lực của đồng tiền thần thánh để thu được vương quyền thần thánh”. Tại Mỹ, “quyền lực thần thánh của đồng tiền cũng dần làm tan ră dân quyền thiêng liêng”. Sau những cuộc đối đầu kịch liệt kéo dài hàng trăm năm với chính phủ dân cử của nước Mỹ, các ngân hàng quốc tế đă chiếm thế thượng phong. Các nhà sử học Mỹ đă chỉ ra rằng, tỉ lệ tử vong của các đời tổng thống Mỹ c̣n cao hơn nhiều so với tỉ lệ tử trận của thuỷ quân lục chiến Mỹ trong chiến dịch Normadie.

 

Khi các ngân hàng nghênh ngang đắc ư tự cho ḿnh là kẻ nắm được pháp lệnh ngân hàng quốc gia năm 1863 trong tay th́ mục tiêu thành lập một ngân hàng tại Mỹ theo mô h́nh Ngân hàng Anh chỉ c̣n là việc trong tầm tay. Như vậy, h́nh hài một ngân hàng trung ương tư nhân hoàn toàn khống chế quyền phát hành tiền tệ của Mỹ - ngân hàng của các nhà tài phiệt - đă bắt đầu h́nh thành.

 

 

CHÚ THÍCH

 

(1) Abraham Lincoln, Thư gửi Wilham Elkins, 21-11-1864.

G. Edward Griffm, Những kẻ đến từ đảo Jekyll (The Creature from Jekyll Island) - American Media, Westlake Village, CA 2002, tr. 393.

(3) Izola Forrester, Đạo luật ngu xuẩn (This One Mad Act” - Boston: Hale, Cushman & Flint, 1937, tr. 359.

(4) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales Press, 2002, tr. 458.

(5) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales Press, 2002, tr. 459

(6) Adam Smith, Của cải của các quốc gia (Wealth of Nation 1776, cuốn IV, Chương Một.

(7) Charles G. Binderup, Benjamin Franklin đă biến nước Anh thành một quốc gia phồn thịnh như thế nào? (How Benjamin Franklin Made New England Prosperous), 1941.

(8) Charles G. Binderup, Benjamin Franklin đă biến nước Anh thành một quốc gia phồn thịnh như thế nào? (How Benjamin Franklin Made New England Prosperous), 1941.

(9) Charles G. Binderup, Benjamin Franklin đă biến nước Anh thành một quốc gia phồn thịnh như thế nào? (How Benjamin Franklin Made New England Prosperous), 1941.

(10) Năm 1787, quốc hội Hoa Kỳ họp để thông qua việc thay thế Điều khoản Liên bang bằng Hiến pháp.

(11) Hiến pháp Mỹ, điều 1, khoản 8.

(12) Thư gửi Bộ trưởng tài chính Albert Gallatin (1802).

(13) Allan Hamilton, Cuộc đời của Alexander Hamilton (The Intimate Life of Alexander Hamilton) - Charles Scribner s Song 1910.

(14) Arthur Schlesinger con, Thời đại của Jackson (The Age of Jackson) - New York: Mentor Books, 1945, tr.6-7.

(15) Được viết cho Robert Morris vào 30/4/1781.

(16) Tuyển tập tác phẩm của Thomas Jefferson (New York& Sons 1899), tập X, tr. 31.

(17) Tác phẩm của Thomas Jefferson (Willey Book Company. 1944), tr. 749.

(18) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales Press, 2002, tr. 474.

(19) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales Press, 2002, tr. 475.

(20) Thomas Jefferson, Thư gửi John Taylor, 26-11-1798; in lại trong Tuyển tập tác phẩm của Thomas Jefferson, tập 10.

(21) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales Press, 2002, tr. 476.

(22) Thomas Jeffcrson. Thư gửi Jamcs Monroe, 1/1/1815.

(23) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales Press, 2002, tr. 476.

(24) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales Press, 2002, tr. 479.

(25) G. Edward Griffm, Những kẻ đến từ đảo Jekyll (The Creature from Jekyll Island) - American Media, Westlake Village, CA 2002, tr.224

(26) Diễn văn khai mạc của tổng thống William Henry Harrison, 4/3/1841.

(27) Michael F. Holt; Sự lên ngôi và sụp đổ cúa Đáng Whig (The Rise and Fall of the American Whig Party) Jacksonian Politics and the Onset of the Cilvil War) - 1999; tr. 292.

(28) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales Press, 2002, tr. 486.

(30) Sydney E. Ablstrom, Lịch sử tôn giáo của người Mỹ (A Religious History of the American People) - Yale University Press, 1972, tr. 649.

(31) Lịch sử người Do Thái trong cuộc nội chiến (Jewish History in Civil War), Jewish -American History Documentation Foundation, Inc. 2006.

(32) Glyn Davis, Lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại đến nay (History of Money From Ancient Times to The Present Day) - University of Wales Press, 2002, tr. 479.

(33) Des Griffm, Trở về thời nô lệ (Descent into Slavery) - Emissary Publications, 1980, Chương 5.

(34) Abraham Lincoln and John F. Kennedy by Melvin Sickler.

(35) Từ thông tư được hiệp hội các nhà ngân hàng New York, Philadelphia và Boston ban hành, do James Buel kư và gửi từ địa chỉ 247 Broadway, New York vào năm 1877 cho các nhà ngân hàng trên toàn nước Mỹ. 

 

  

 

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: