MINH THỊ
DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI THẢM HẠI,ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎
◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙◙
◘ White House ◘ National Archives ◘ .
◘ Federal Register ◘ Associated Press
◘ Reuter News ◘ Real Clear Politics
◘ MediaMatters ◘ C-SPAN ◘ .
◘ Videos Library ◘ Judicial Watch ◘
◘ New World Order ◘ Illuminatti News
◘ New Max ◘ CNS ◘ Daily Storm ◘
◘ Observe ◘ American Progress ◘
◘ The Guardian ◘ Political Insider ◘
◘ Ramussen Report ◘ Wikileaks ◘
◘ National Review - Public Broacast ◘
◘ Federation of Anerican Scientist ◘
◘ Propublica ◘ Inter Investigate ◘
◘ ACLU Ten ◘ CNBC ◘ Fox News ◘
◘ CNN ◘ FoxAtlanta ◘
◘ Indonesian News ◘ ◘ Philippine News ◘
◘ Nghiên Cứu Quốc Tế ◘ Nghiên Cứu Biển Đông
◘ Thư Viện Quốc Gia 1 ◘ Thư Viện Quốc Gia
◘ Học Viện Ngoại Giao ◘ Tự Điển Bách Khoa VN
◘ Ca Dao Tục Ngữ ◘ Học Viện Công Dân
◘ Bảo Tàng Lịch Sử ◘ Nghiên Cứu Lịch Sử ◘
◘ Dấu Hiệu Thời Đại ◘ Viêt Nam Văn Hiến
◘ Thư Viện Hoa Sen ◘ Vatican? ◘ Roman Catholic
◘ Việt Báo ◘ Việt List ◘ Xây Dựng ◘
◘ Phi Dũng ◘ Việt Thức ◘ Hoa Vô Ưu
◘ Việt Tribune ◘ Saigon Times USA ◘
◘ Người Việt Seatle ◘ Cali Today ◘
◘ Dân Việt ◘ Việt Luận ◘ Thơ Trẻ ◘
◘ Tin Mới ◘Tiền Phong ◘ Xă Luận
◘ Dân Trí ◘ Tuổi Trẻ ◘ Express ◘
◘ Lao Động ◘Thanh Niên ◘Tiền Phong ◘ Tấm Gương
◘ Sài G̣n ◘ Sách Hiếm ◘ Thế Giới ◘ Đỉnh Sóng
◘ Chúng Ta ◘ Eurasia ◘ ĐCSVN ◘ Bắc Bộ Phủ
◘
Văn Học ◘
Điện Ảnh
◘
Cám Ơn Anh
◘
TPBVNCH
◘1GĐ/1TPB
◘
Bia Miệng
Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
Đinh Từ Thức
GHI CHÚ:
Cuốn sách NẾU ĐI HẾT BIỂN là tài liệu chính thức của chương tŕnh nghiên cứu về cộng đồng người Việt hải ngoại do WJC/UMB thực hiện, được phát hành năm 2004 tại Hoa Kỳ dưới danh xưng “Chương Tŕnh Nghiên Cứu của University of Massachusetts Boston”. Tác giả của cuốn sách này ông Trần Văn Thuỷ, nhà đạo diễn phim ảnh của chế độ Cộng Sản tại Việt Nam, là nghiên cứu viên của năm thứ ba - năm cuối cùng của chương tŕnh nghiên cứu.
* * *
Tôi được nghe nói tới tập sách nhỏ “Nếu Đi Hết Biển...”như một
công tŕnh đáng chê trách, với một dụng ư nào đó. Tôi đă tự đề pḥng, để khi đọc
nó, đừng để ác cảm chi phối. Thế rồi, sau khi đọc, cảm tưởng khi gấp sách lại,
là tập sách không đến nỗi như những ǵ tôi đă được nghe trước khi đọc.
Tên tác giả Trần Văn Thủy được tŕnh bầy lớn hơn tên tựa sách, như kiểu các đại
tác giả muốn cho người đọc chú ư v́ tên nguời viết, trước khi t́m hiểu nội dung
cuốn sách. Nhưng qua “Mấy Lời Rào Đón”, tác giả đă nói về ḿnh “tự biết đă là
hèn lắm rồi”.
Có lẽ tác giả phải rào đón kỹ, v́ Nếu Đi Hết Biển ...không phải là đứa con hoàn
toàn do ông sinh ra. Ông Trần Văn Thủy chỉ là người “đẻ mướn”, phương tiện do
Đại Học Massachusetts ở Boston cung cấp, mầm sống được cấy vào từ mấy nhà văn
Việt Nam đang sống ở Mỹ.
Nội dung tập sách đă bàng bạc, phảng phất một niềm ước muốn ḥa giải giữa những
nguời Việt ở ngoài và trong nước, và ngụ ư chê trách chủ trương tiếp tục tích
cực chống Cộng.
Ngoài bài giới thiệu bằng hai thứ tiếng Việt và Anh của ông Kevin Bowen, Giám
Đốc Trung Tâm William Joiner Nghiên Cứu Về Chiến Tranh và Hậu Quả Chiến Tranh,
thuộc Đại Học Massachusetts ở Boston, tập sách gồm bốn bài đầu của ông Trần Văn
Thủy, và bảy bài sau, mỗi bài ghi lại cuộc phỏng vấn một nhà văn (6 Việt, 1 Mỹ);
bài cuối cùng do một phụ nữ Việt Nam đă sống tại Mỹ từ năm 1968, ghi lại mảnh
đời của ḿnh bên lề cuộc chiến.
Chẳng hiểu có phải v́ “đẻ mướn”, tác giả đă có vẻ coi thường đứa con của ḿnh.
Trong bài đầu tiên “Mấy Lời Rào Đón”, ông viết “nếu ai muốn t́m kiếm những điều
cao siêu về tư tưởng, văn chương hoặc soi mói những điều kém cỏi về lập trường,
quan điểm xin hăy bỏ qua, đừng đọc tiếp”. Viết sách mà khuyên độc giả đừng đọc,
cũng là điều hiếm có. Nhưng rồi tác giả viết tiếp: “Ở đây tôi chỉ ghi chép lại
đôi điều tôi nghĩ, tôi thấy, tôi trải qua cùng việc tṛ chuyện với một số trí
thức, nhà văn hải ngoại”. Chính câu này khiến tôi không thể bỏ qua tập Nếu Đi
Hết Biển.... Tôi cũng cần ghi lại đôi điều tôi nghĩ, sau khi đă đọc những ǵ
người khác nghĩ về một môi trường sinh hoạt, trong đó có ḿnh.
Trong bài thứ hai, mang tiểu tựa cùng với tên sách Nếu Đi Hết Biển, tác giả
viết: “Giờ đây trên đất Mỹ, tiếp xúc với cộng đồng người Việt, tôi không khỏi
băn khoăn về cái điều tâm huyết tôi nói bên mộ thím tôi: ‘...Nếu đi hết biển,
qua các đại dương và các châu lục, đi măi, đi măi th́ cuối cùng lại trở về quê
ḿnh, làng ḿnh...’ Tôi không biết trong lịch sử thịnh suy của đất nước tôi có
thời điểm nào, hoàn cảnh nào dẫn đến sự ly tán ḷng người sâu thẳm, dẫn đến việc
hàng triệu người chạy ra biển ly hương bất cần mạng sống đến thế không. Nhưng
tôi biết rất rơ không ít người Việt xa xứ ‘qua các đại dương và các châu lục, đi
măi, đi măi’ mà cuối cùng không thể ‘trở về quê ḿnh, làng ḿnh’ được”.
Tác giả khôn lắm, thay v́ viết trong lịch sử chưa bao giờ xẩy ra chuyện hăi hùng
khiến hàng triệu người bất cần mạng sống bỏ nước ra đi, ông đă giả ngộ như một
người mù tịt về lịch sử, khiến điều ông tŕnh bầy nhẹ đi. Trách người biết, ai
trách người không biết. Rồi tác giả khẳng định ông biết rất rơ có không ít người
Việt xa xứ đă không thể trở về. Điều này đưa tới hai thắc mắc, là số người về,
và tại sao không về.
Theo thống kê, hàng năm có vào khoảng từ ba đến bốn trăm ngàn người Việt hải
ngoại tới Việt Nam. Rải rác trên thế giới, theo con số của nhà cầm quyền Việt
Nam đưa ra, có 2.7 triệu “Việt Kiều”. Như vậy, số người thăm Việt Nam mỗi năm
trên 10%, chỉ cần 10 năm để mọi người cùng đi Việt Nam, nếu đa số chỉ đi một vài
lần. Số người tới Việt Nam đông, nhưng tôi nghĩ ông Thủy đă nói đúng, không ít
người đă chưa thể trở về, và chỉ có rất ít người đă trở về. Những người kéo nhau
đi du lịch Việt Nam, như đi du lịch Âu Châu, Á Châu, rồi lại trở về nhà ḿnh ở
Mỹ, Pháp, Gia Nă Đại, hay Úc, là những người đi Việt Nam, không phải về Việt
Nam. “Đi” và “Về” là hai chuyện khác nhau, không nên lầm lẫn.
Hơn hai triệu người Việt đă rời Việt Nam, không phải để đi du lịch, nên họ không
dễ dàng trở về. Họ đă phải liều ḿnh lựa chọn giữa sống và chết, sẵn sàng chết
để hy vọng được sống. Khi lư do khiến họ phải ra đi vẫn c̣n đó, họ không thể trở
về. Hơn nữa, một người Việt ở Mỹ chẳng hạn, bất cứ lúc nào cũng có thể lên máy
bay du lịch nhiều nước trên thế giới, không cần xin chiếu khán. Trong khi ấy,
phải xin phép, có khi phải hối lộ để được tới Việt Nam. Và nhiều người có tên
trong sổ đen, chẳng những không được về, họ mất cả quyền đi Việt Nam. Có ai trên
thế giới phải xin phép mới được về nhà ḿnh? Không về là phải.
Từ chỗ xác định nhiều người Việt không thể trở về, ông trần Văn Thủy đă giúp
người đọc t́m ra nguyên nhân, qua bài thứ ba “Một Bức Thư”. Ông cho đăng lại lá
thư của người bạn hồi niên thiếu, đă xa ông đúng nửa thế kỷ. Một người bạn
“ngụy”, tuy chỉ là sĩ quan biệt phái cấp nhỏ, “chẳng đánh đấm ǵ cả”, cũng bị
“cải tạo” ba năm, hai lần định tự tử, cuối cùng phải đi đạp xích lô. “Ḿnh không
quên được những bữa cơm ở vỉa hè với một đĩa cơm và một con cá khô. Nước mưa
chảy từ cái mũ xuống ướt đẫm đĩa cơm như chan canh. Ḿnh cũng không quên được
những ngày đạp xích lô quần áo tả tơi. Khách hàng ḿnh chở đôi khi là bạn bè cũ,
đôi khi là học tṛ của ḿnh hoặc những người bạn gái của ḿnh”.
Người bạn của ông Thủy đă chia sẻ với ông những nỗi lầm than cơ cực của những
ngày làm Ngụy, nhưng “Những ǵ ở trong trại cải tạo ḿnh xin miễn kể ra đây”. Có
thể chia sẻ với bạn nỗi buồn, c̣n niềm đau, như vết thương đụng tới sẽ rướm máu,
xin miễn nhắc tới. Chính cái điều xin miễn kể này, cùng với mấy chữ b́nh thản
“Ông anh ruột của ḿnh th́ chết trong trại cải tạo” đă kể quá đủ.
Qua bài thứ bốn “Thầy Mù Xem Voi”, ông Trần Văn Thủy đă kể lại mấy cuộc phỏng
vấn bên trời Âu, như câu chuyện với ông già Nguyễn Văn Quư: “Câu hỏi thứ nhất,
tôi hỏi là lư do và hoàn cảnh nào đă dẫn đến việc bác và gia đ́nh sang định cư
tại Tây Đức. Th́ bác đă nói rất rơ bác là viên chức cao cấp của chế độ cũ, cho
nên bác phải đi cải tạo rất cực. Khi được về lại Sàig̣n, với tư cách là phó
thường dân, hàng tuần bác phải đi tŕnh diện, đấy là một điều rất đau khổ đối
với bác, v́ thế bác không ở lại được”.
Ông Trần Văn Thủy kể tiếp: “Đến câu hỏi thứ hai: ‘Nghe nói vào tháng 8, tháng 9
năm 1945 bác có mặt ở Hà Nội, bác có kỷ niệm ǵ đáng nhớ?’ Có lẽ tôi khó t́m gặp
được một người nào kể về Cách mạng tháng Tám, kể về ngày 2-9-1945 mà hào hứng,
t́nh cảm, sinh động và da diết như bác.... Vậy mà khi qua câu hỏi thứ ba, tôi
hỏi: ‘Bác có thể kể về những giấc mơ gần đây của bác được không?’....Cái quái ác
là ở chỗ tuy đă sống ở nước ngoài rồi, mà bây giờ, đêm đêm nằm mơ, bác chỉ mơ
thấy hàng chục lần phải trở lại trại cải tạo. Sợ hăi, ú ớ, la hét: ‘Ơ...ơ...Tôi
đă hết hạn cải tạo rồi cơ mà! Đây, giấy ra trại của tôi đây. Tại sao cán bộ lại
bắt tôi trở lại trại?’ ”
Vẫn lời kể của ông Trần Văn Thủy: “Thế rồi tiếp theo câu hỏi thứ tư: ‘Về những
người ham chống Cộng một cách cực đoan, bác nghĩ thế nào?’...bác Quư lại là
người có thái độ thẳng thắn đáng kính trọng: ‘Tôi không thích những chuyện bạo
lực, những chuyện chính trị một cách hồ đồ, viển vông. Người ta chống Cộng kiểu
sa lông, pḥng trà. Có kẻ c̣n tệ hại hơn là vận động, thu tiền bỏ túi ḿnh
để...chống Cộng...’”
Trong câu hỏi thứ tư trên đây của ông Trần Văn Thủy có điều không ổn, đó là mấy
chữ “Ham chống Cộng một cách cực đoan”. Theo sự tŕnh bầy của ông Trần Văn Thủy,
cái chế độ đă và đang tiếp tục cai trị ở Việt Nam, có những người từ trẻ đến
già, từ cấp nhỏ tới cấp lớn, đều phải đi cải tạo, và dù đă cải tạo xong, vẫn
không được yên thân, đến nỗi, sau nhiều năm sống ở ngoại quốc, vẫn nằm mơ thấy
nhũng chuyện hăi hùng của những ngày cải tạo. Một chế độ với những người dân từ
bé “đâu có được học nói thật bao giờ” (trả lời của bà Phùng Hồng Thúy, thuyền
nhân ra đi từ Hà Nội, định cư ở Đức). Chống một chế độ như vậy, là chuyện đương
nhiên, một bổn phận, một chuyện “chẳng đặng đừng”, đâu phải là thú vui. Chống
Cộng, đâu phải là hốp-bi, mà gọi là ham? C̣n chuyện bạo lực, hồ đồ, viển vông,
đâu phải ai chống Cộng cũng như vậy. Cũng như những kẻ dùng chiêu bài chống Cộng
để lấy tiền bỏ túi, đó là bọn lưu manh, đâu phải người chống Cộng.
Xin trích hai đoạn quan trọng trong bài “Thầy Mù Xem Voi” của ông Trần Văn Thủy:
“Tôi xin nói thật ḷng như thế này: Khi c̣n ở trong nước, tôi cứ nghĩ các khuyết
tật mà xă hội Việt Nam có, thí dụ quan liêu, cửa quyền, bắt người khác nghĩ
giống ḿnh, áp đặt ư kiến là do cơ chế của chế độ chính trị, của một thứ ‘chủ
nghĩa xă hội’. Bây giờ ra ngoài, đi nhiều, tiếp xúc nhiều, đọc nhiều, nhất là
những báo chí chống Cộng cực đoan, tôi thấy không ít chuyện kinh hoàng. Ai mà
không theo ḿnh th́ giằn mặt, đánh đấm hoặc bắn bỏ. Thế tôi mới ngờ rằng cái
bệnh hiếp đáp nhau, giẫm đạp lên nhau, bắt người khác phải phục tùng ḿnh phải
chăng đó là bệnh của dân tộc Việt? Nếu như đó là bệnh của một thể chế chính trị
th́ có thể sửa được, khi nó thay đổi tích cực lên th́ những điều xấu ấy mất đi.
Nhưng nếu đó là những khuyết tật của dân tộc th́ thật là đau đớn vô cùng. Đè
nặng lên trong tôi vẫn là cái cảm giác dân tộc ḿnh khó mà khá lên được, khó
ḷng đuổi kịp các nước, dù là những nước trung b́nh trên thế giới. Đó là sự
thật. Ai càng yêu nước nhiều càng buồn nhiều!”
“Hồi đó, phóng viên tờ Đức-Việt tại Franfurt/M đă hỏi tôi:’Thử nghĩ xa hơn một
chút. Hiện t́nh là vậy th́ lỗi lầm bắt nguồn từ đâu?’ Thay v́ trả lời, tôi kể
lại một lần đối thoại ngắn ngủi với một nhà báo Cộng sản Pháp. Trong một buổi
chiêu đăi báo chí tại Hà Nội cuối năm 1987, nhà báo nọ nâng ly chúc mừng hai bộ
phim của tôi (Hà Nội Trong Mắt Ai, Chuyện Tử Tế) được công chiếu. Rồi ông nhún
vai bảo rằng: ‘Nhưng công bằng mà nói, các ông đổ lỗi cho Chính phủ, cho Nhà
nước của các ông nhiều quá.’ Tôi hỏi: ‘Ông là người ngoại quốc, có thể ông có
cái nh́n tinh tế hơn?’ Ông ta lại nhún vai: ‘Cũng chẳng có ǵ đáng gọi là tinh
tế cả. Phương ngôn Pháp của chúng tôi có câu: ‘Nhân dân nào, Chính phủ ấy’. Các
ông rất xứng đáng với Chính phủ của các ông!’” (những chỗ in nghiêng và chữ đậm
là do tác giả TVT).
Cứ theo hai đoạn trên, tác giả cho thấy, không phải chỉ những tệ đoan trong
nước, mà chính thói chống Cộng cực đoan của người ngoài nước, cũng phải chia sẻ
trách nhiệm làm cho “dân tộc ḿnh khó mà khá lên được”. Rồi khi t́m nguyên nhân
của t́nh trạng chậm tiến, ông Trần Văn Thủy đă khôn khéo dùng lời một nhà báo
Cộng sản Pháp để bao che người cầm quyền, và buộc tội nhân dân: Các ông đă đổ
lỗi cho Chính phủ, cho Nhà nước của các ông nhiều quá. Nhân dân nào, Chính phủ
ấy, phải trách nhân dân trước khi trách Chính phủ mới đúng.
Nếu ông Trần Văn Thủy phải viết những điều ông đă viết, người ta có thể hiểu ông
chỉ làm nhiệm vụ. Nhưng nếu đó là những suy nghĩ thành thực, như lời ông, người
ta phải lấy làm tiếc, v́ ông đă phạm một lỗi lầm nghiêm trọng đối với dân tộc
ông. Việt Nam cũng có câu phương ngôn “rau nào sâu ấy” có thể thay thế cho câu
“Nhân dân nào, Chính phủ ấy”. Nhưng áp dụng câu này cho t́nh h́nh Việt Nam hiện
nay là sai. Từ nửa thế kỷ qua đối với người dân miền Bắc, và từ 1975 đối với cả
nướcViệt Nam, người dân không được tự do chọn lựa chính phủ của ḿnh, sao có thể
áp dụng câu Nhân dân nào, Chính phủ ấy? Hơn nữa, có thể nh́n vào chính quyền
Quốc Xă của Hitler tại Đức, và chính quyền Quân Phiệt của Nhật thời Đệ Nhị Thế
Chiến, phải chăng nhân dân Đức và nhân dân Nhật xứng đáng với những kẻ cầm quyền
tàn ác đó? Tôi đang dẫn ông Trần Văn Thủy tới một hệ luận có thể ông không muốn
nghe: Hai nước Đức và Nhật đă phát triển ra sao sau khi hai chính phủ độc tài bị
dẹp? C̣n Việt Nam? Ngoài ra, ông Trần Văn Thủy đi nhiều, chắc ông đă thấy, mấy
triệu người Việt xa xứ, chỉ cần thoát khỏi ṿng kiểm tỏa của những người đang đè
đầu đè cổ hơn 80 triệu dân trong nước, họ đă vươn lên mau chóng, chỉ trong vài
thập niên, họ đă đuổi kịp bất cứ ai. Vậy căn bệnh chậm tiến không phải bệnh dân
tộc đâu. Ông thừa biết căn nguyên của nó.
Có thể nhà báo Cộng sản Pháp và nhà làm phim Cộng sản Việt đă đi xa hơn, sâu sắc
hơn, khi áp dụng câu phương ngôn “Chính phủ nào, Nhân dân ấy”. Có thể các ông
muốn nói: Một Chính phủ xấu như vậy mà nhân dân các ông vẫn chịu khuất phục,
không đứng dâỵ loại bỏ nó đi, th́ các ông ráng chịu. Nhân dân nào, Chính phủ ấy.
Trong trường hợp này, có lẽ các ông có lư.
Ông Trần Văn Thủy nói rằng, nhờ đi nhiều, tiếp xúc nhiều, đọc nhiều, “nhất là
những báo chí chống Cộng cực đoan, tôi thấy không ít chuyện kinh hoàng”. Rất
tiếc, ông đă không gặp, t́m hiểu và ghi lại đối thoại với những người ông liệt
vào hạng chống Cộng cực đoan, nên không biết họ có bao nhiêu, và nguyên nhân nào
khiến họ làm như vậy. Chỉ trích những người cực đoan, nhưng gặp toàn người ôn
ḥa, khiến sự chỉ trích thiếu cụ thể, và công tŕnh t́m hiểu thiếu toàn diện.
Tuy nhiên, quan điểm của quư vị ôn ḥa mà ông Thủy đă gặp, cũng có nhiều điều
đáng nói.
Câu chuyện gia đ́nh của ông Cao Xuân Huy, đọc mà đau. Tuy bố ông đi kháng chiến,
nhưng ông ngoại bị đấu tố, chỉ v́ là thầy giáo giỏi tiếng Pháp. Bố về thành, v́
thuộc thành phần tư sản, không thể bảo đảm để mẹ ông ở lại Hà Nội. Gia đ́nh ly
tán, kẻ Bắc, người Nam. Sau 1975, con đi cải tạo. Rồi tới chuyện “một ngàn năm
đô hộ giặc Tầu”, Hoàng Sa c̣n. “Một trăm năm đô hộ giặc Tây”, Hoàng Sa c̣n.
Nhưng ba mươi năm “độc lập”, Hoàng Sa mất. “Tự do” bố không được gặp con. “Hạnh
phúc” quà gửi cho con bị cán bộ ăn cắp. Nếu cái xác khô ông Hồ c̣n chút liêm sỉ,
chắc cũng đă phải trở ḿnh nằm sấp, che mặt để đỡ xấu hổ.
*
Câu chuyện giữa ông Trần Văn Thủy với nhà văn Nhật Tiến, cho thấy bên cạnh một
số quan điểm rơ ràng, không hiểu v́ lư do ǵ, nhà văn này đă không nói rơ về một
vài điểm khác. Ông Nhật Tiến đă nói thẳng nhận xét của ḿnh khi có mặt tại Việt
Nam: “Cảm giác xa lạ, sự không thể ḥa
nhập được vào đám đông ở chung quanh ḿnh và cái bầu không khí sinh hoạt văn hóa
nói chung, văn học nghệ thuật cũng như báo chí nói riêng, vẫn bao trùm một niềm
kiêu hănh rằng ‘dân tộc ta anh hùng, đă đánh cho Mỹ cút, cho Ngụy nhào”. Là một
người xuất thân từ miền Nam trước đây, làm sao tôi có thể ḥa nhập được’”
Cái nh́n của nhà văn Nhật Tiến đối với binh sĩ Miền Nam cũng rất rơ ràng:
“Trong bao nhiêu năm khói lửa ṛng ră
ấy, chúng tôi biết chắc là đă có rất nhiều người gục ngă ngoài trận địa với lư
tưởng là bảo vệ xóm làng, bảo vệ hậu phương trước sự tiến công của bộ đội miền
Bắc. Nhân dân miền Nam biết ơn họ, đây là một thực tế trong đời sống có thể dễ
dàng kiểm chứng...”
Ông Nhật Tiến cũng không ngần ngại nh́n thẳng vào các nhà lănh đạo cả hai miền
Bắc, Nam: “Trong thời kỳ Cải cách ruộng
đất, cấp lănh đạo tiến hành những cuộc đấu tố, con tố cha, vợ tố chồng, cái đó
có phải là sản phẩm của những người có đầu óc dân tộc, có tinh thần dân tộc
không? Chủ trương dẫu có thiêu đốt cả dẫy Trường Sơn để hoàn thành việc thống
nhất đất nước với cả triệu sinh mạng dân chúng ở cả hai miền có phải xuất phát
từ một tấm ḷng yêu thương dân tộc không? Hay như lời lẽ của một vị Tổng Thống
nói công khai trên đài truyền h́nh là viện trợ 700 triệu th́ đánh theo kiểu 700
triệu, viện trợ 300 triệu th́ đánh theo kiểu 300 triệu, th́ đó có phải là lời lẽ
của một thứ tay sai hay một loại con bài của ngoại bang không?”
Tuy nhận ḿnh là người xuất thân từ miền Nam trước đây, nhà văn Nhật Tiến muốn
thoát khỏi vị trí bên này hay bên kia, đứng trên b́nh diện dân tộc để nh́n lại
cuộc chiến. Và từ vị trí này, ông cho rằng: “con đường ḥa hợp ḥa giải dân tộc
là sinh lộ duy nhất để đem quê hương ra khỏi t́nh trạng mất tự do dân chủ, nghèo
nàn, chậm tiến và tràn lan tệ nạn tham nhũng và bất công như hiện nay”. Ông Nhật
Tiến đă có can đảm, đề cập tới một đề tài cấm kỵ (ta-bu), điều mà nhiều người
thường tránh, v́ sợ bị hiểu lầm.
Tại sao “ḥa giải” vốn là chuyện tốt đẹp đă trở thành đề tài cấm kỵ? V́ không
phải một ḿnh ông Nhật Tiến cổ vơ ḥa giải. Cộng Sản Việt Nam cũng đă làm điều
này, khiến tiếng nói của ông Nhật Tiến như một tiếng vang từ Hà Nội. Do đó, dễ
bị hiểu lầm. Tất nhiên, một nhà văn chỉ sử dụng ngôn ngữ để diễn tả ư nghĩa thực
của nó. Nhưng với Cộng Sản, ngôn ngữ là một thứ cạm bẫy dùng để lừa lọc. Nhà văn
nói “một tháng” để chỉ 30 ngày. Nhưng trong ngôn ngữ của Cộng Sản, “một tháng”
có thể là trên dưới 10 năm, như trong vụ Cải Tạo.
Ông Nhật Tiến đă coi ḥa hợp ḥa giải như một phương thuốc chữa bách bệnh. Có
thể ông kỳ vọng hơi nhiều, nhưng đó là chuyện khác. Vấn đề đặt ra ở đây là, tại
sao phải ḥa giải dân tộc? Dân tộc ta có chia rẽ, có thù hận nhau tới mức phải
coi ḥa giải là điều kiện tiên quyết để giải quyết mọi vấn đề hay không? Ở đâu
cũng có chia rẽ: Những người trong cùng một gia đ́nh, cùng một tổ chức chống
nhau. Gia đ́nh này chống gia đ́nh kia, tổ chức này chống tổ chức khác. Ngay nội
bộ Đảng Cộng Sản cũng có phe này phe kia, như phe Lê Đức Anh dùng đ̣n độc để hạ
phe Vơ Nguyên Giáp... Nhưng trên b́nh diện lớn hơn, có thể nói, không có bằng
chứng nào cho thấy dân tộc Việt hận thù nhau tới mức sẵn sàng giết nhau.
Dù ngược ḍng mấy trăm năm lịch sử, thời Trịnh Nguyễn phân tranh, cũng là do hai
họ Trịnh và Nguyễn chống nhau để bảo vệ quyền lợi và địa vị, người dân Bắc và
Nam đâu có thù hận ǵ nhau. Đến thời Tây Sơn và nhà Nguyễn cũng vậy, chỉ những
người đứng đầu giết nhau, dân đâu có ai hận thù ǵ nhau. Rồi Thực Dân Pháp chia
nước ta thành ba miền, dân Bắc Trung Nam cũng đâu có thù hận ǵ nhau. Cùng lắm,
chỉ có chuyện người miền nọ trêu chọc những thói quen của miền kia. Đó không
phải thù hận, chỉ là chuyện thường t́nh, ở đâu cũng có. Sau Hiệp Định Genève năm
1954, gần một triệu dân miền Bắc, ḥa nhập với 14 triệu dân miền Nam vĩ tuyến
17, một tỷ lệ pha trộn khá cao, nhưng người dân vẫn sống thuận ḥa.
Rồi đến cuộc chiến Quốc Cộng, chính nhà văn Nhật Tiến cho rằng lănh đạo của cả
hai miền đều là tay sai ngoại bang. Vậy nếu ông Nhật Tiến đúng, chính những tay
sai này là vai chánh trong cuộc tương tàn ba mươi năm, người dân hai miền chỉ là
nạn nhân, đâu phải họ giết nhau v́ hận thù. Cái gốc của hận thù không bắt nguồn
từ dân, bởi đó, đặt vấn đề ḥa giải dân tộc, là sai. Muốn giải quyết vấn đề hận
thù, phải truy tận gốc. Nó bắt nguồn từ hai guồng máy cai trị tại Bắc và Nam.
Chính quyền miền Nam đă tan biến từ năm 1975. Chỉ c̣n lại chính quyền miền Bắc
hiện đang cai trị cả nước. Đây chính là nguồn gốc c̣n lại của hận thù.
Nguyên do của hận thù là bất công. Cá nhân hay tập thể tạo bất công, là gây bất
ḥa, đưa tới hận thù. Trên lư thuyết, Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang nắm quyền
cai trị phải chịu trách nhiệm về những bất công do ḿnh gây ra từ 60 năm qua.
Nhưng trên thực tế, hơn hai triệu đảng viên cũng chỉ là công cụ của một nhóm
thực sự nắm quyền hành, đó là Bộ Chính Trị. Dù núp dưới danh nghĩa ǵ, cái nhóm
này, thực sự chỉ là một băng đảng ăn cướp. Đừng ngần ngại gọi họ bằng tên thật
của họ.
Họ đă cướp công cách mạng của các đảng phái Quốc Gia. Họ đă cướp quyền cai trị
mà chính họ từng long trọng tuyên bố thuộc về toàn dân. Họ đă cướp của cải, vàng
bạc của dân để hối lộ cho tướng Tầu. Họ đă cướp mạng sống của người dân trong vụ
Cải Cách Ruộng Đất. Họ đă cướp tự do sáng tác của các văn nghệ sĩ trong vụ Nhân
Văn Giai Phẩm. Họ đă cướp cả Miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 đến Mũi Cà Mâu (họ
nói phải đánh Miền Nam để dành lại độc lập từ tay Đế Quốc Mỹ, nhưng do những tài
liệu đă được công bố, trước năm 1975, Bắc hay Nam Việt Nam đă lệ thuộc ngoại
bang nhiều hơn? Miền Nam đâu có nghe lệnh Mỹ giết dân như Miền Bắc tuân lệnh Tầu
trong vụ Cải Cách Ruộng Đất? Miền Nam đâu có nhượng một tấc đất nào cho Mỹ như
Miền Bắc đă nhượng cho Tầu?). Họ đă cướp mạng sống của hàng triệu binh sĩ Bắc
cũng như Nam v́ chủ xướng cuộc chiến mệnh danh giải phóng Miền Nam. Họ đă ăn
cướp hạnh phúc của hàng triệu gia đ́nh có thân nhân phải đi cải tạo. Họ đă ăn
cướp tài sản của những người phải đi Kinh Tế Mới. Và họ đă ăn cướp của cả dân
tộc Việt Nam nửa thế kỷ tiến bộ.
Tóm lại, dân tộc Việt Nam không có hận thù ǵ với nhau, nên không cần đặt vấn đề
ḥa giải dân tộc. Hiện tại, chỉ có hận thù giữa băng đảng ăn cướp đang nắm quyền
cai trị, và khối dân tộc bị trị. Kẻ nào, thành phần nào gây ra bất công, là
nguyên nhân của bất ḥa, phải đóng vai chủ động trong việc ḥa giải. Do đó,
không phải người dân ḥa giải với nhà cầm quyền, ngược lại, Bộ Chính Trị phải
ḥa giải với dân. Thay v́ thể hiện ḥa giải qua hành động, như nhận lỗi và sửa
lại những ǵ đă làm sai, đền bù những ǵ đă gây thiệt hại v.v...Họ kêu gọi người
dân, nhất là những nạn nhân của họ, hăy ḥa giải với họ. Nghĩa là chấm dứt chỉ
trích, chống đối, hăy tiếp tay họ, chấp nhận đề họ tiếp tục gây bất công, hận
thù. Đây là điều phi lư, ngược ngạo.
Đă có nhiều thí dụ ḥa giải trong lịch sử. Vào thời Trung Cổ, Ṭa Thánh La Mă đă
có những việc làm sai trái, điển h́nh là ṭa án Inquisition của Giáo Hội dưới
thời Giáo Hoàng Urban VIII, vào năm 1633 đă xử phạt nhà thiên văn học Galileo,
bắt ông phải từ bỏ khám phá cho rằng quả đất quay chung quanh mặt trời. Cách đây
mấy năm, chính Đức Giáo Hoàng Gio An Phao Lồ Đệ Nhị đă ḥa giải bằng cách nhân
danh Giáo Hội, xin lỗi về những việc làm sai lầm này.
Vào hồi Đệ Nhị Thế Chiến, những người gốc Nhật sống tại mấy tiểu bang bên bờ
Thái B́nh Dương đă bị chính quyền của Tổng Thống Roosevelt bắt phải bỏ nhà cửa,
sống tập trung tại mấy trại ở vùng sa mạc sâu trong lục địa, hầu tránh làm nội
ứng cho quân Nhật. Biện pháp cứng rắn này, tuy không đến nỗi khốn nạn như các
trại “Cải Tạo” tại Việt Nam sau 1975, nhưng đă gây buồn ḷng không ít, chẳng
những riêng với các nạn nhân, mà đối với cả những ai hằng quan tâm tới quyền
sống của con người. Thời Tổng Thống Reagan, nước Mỹ đă chính thức nhận lỗi về vụ
này, và chịu bồi thường cho gia đ́nh những người bị tập trung. Đó là ḥa giải.
Cũng vào hồi Đệ Nhị Thế Chiến, Quân Phiệt Nhật đă bắt nhiều phụ nữ Triều Tiên
xung vào đội “gái ủi an” (comfort girls) để phục vụ binh sĩ Thiên Hoàng. Nửa thế
kỷ sau, dân Đại Hàn vẫn không quên được mối hận này. Cuối cùng, Thủ Tướng Nhật
đă phải chính thức xin lỗi, và bồi thường cho nạn nhân. Đó cũng là ḥa giải.
Cho đến nay, Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đă làm ǵ để ḥa giải trước
những tội ác tầy trời của họ?
Nhà văn Nhật Tiến khẳng định: “Tôi chưa và cũng chẳng bao giờ lại chủ trương ḥa
giải, ḥa hợp với độc tài hay bạo lực”. Nhưng với những người có lập trường cứng
rắn đối với độc tài hay bạo lực, ông Nhật Tiến lại nói rằng “con đường cứu nước
của họ chỉ là một thứ đường ṃn vô dụng” chẳng những không có ích, c̣n cản bước
tiến của dân tộc. Ông chủ trương “Ổn định và phát triển”, nhưng lại nói thêm:
“Dĩ nhiên, ổn định không có nghĩa là cam chịu làm tôi tớ cho giai cấp cầm
quyền...” Nếu giai cấp cầm quyền cứ ngồi ĺ, tiếp tục độc tài, tham nhũng và coi
dân chúng như tôi tớ, có nên t́m cách loại bỏ chúng đi không? Và làm như vậy, có
phạm vào chủ trương “ổn định” không?
Qua cuộc nói chuyện với ông Trần Văn Thủy, nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc, ngoài
nhận xét về mấy “thói hư tật xấu” trong sinh hoạt cộng đồng, như “tố cáo, mạ lỵ,
chụp mũ tưng bừng lẫn nhau, người oan, kẻ ưng cá mè một lứa”, bà đă dùng một
cuốn sách về tập thể những người Tiệp tỵ nạn trước kia, để nói rằng tập thể
những người Việt tỵ nạn cũng có hành vi tương tự, như: “Lâu lâu lại phải đọc
tuyên cáo này, tuyên cáo nọ, lên án bọn cộng sản trong nước và tay sai ngoài
nước....lâu lâu lại có biểu t́nh lẹt đẹt vài người...” Bà c̣n không thích “những
người hô khẩu hiệu, ở trong nước hay ngoài nước”. Đâu phải ai cũng là nhà văn,
nhà báo, lúc nào cũng có khả năng và phương tiện phổ biến quan điểm của ḿnh,
nên chỉ c̣n cách ra tuyên cáo, đi biểu t́nh và hô khẩu hiệu. Ngoài ra, “biểu
t́nh lẹt đẹt vài người” là một sinh hoạt chỉ có được tại các nước thực sự tự do.
Rất đáng quư, và không nên chê trách. Về những người hô khẩu hiệu cũng vậy, nếu
thiếu họ, chắc chắn ngày nay Cộng Sản vẫn c̣n đang ngự trị tại Liên Xô và Đông
Âu.
Bà Hoàng Bắc đă căn cứ vào một cuốn sách khác, để nhân định về những người đàn
ông tỵ nạn, đến từ các quốc gia chậm tiến: “Để xây dựng bản thân trong xă hội
mới, thay v́ nỗ lực hội nhập và vươn lên trong từng bước với sự kiên nhẫn, nhiều
người lao vào và bỏ nhiều th́ giờ, sức lực và ngay cả tiền bạc để tạo nên những
địa vị giả....” (NĐHB, tr. 89). Nhưng chỉ 3 trang sau đó, bà Hoàng Bắc đă nhận
định “...Việt Nam được coi là cộng đồng tương đối có nhiều thành công trong việc
hội nhập xă hội mới” (sđd. tr. 92). Nếu cộng đồng Việt Nam chỉ toàn những người
chuyên chạy theo “địa vị giả”, làm sao có thể thành công thật được?
Bà Hoàng Bắc c̣n nói rằng, tại California, “hiện tượng chính phủ lưu vong mọc
lên như nấm”. Nhận xét này có vẻ xa sự thật, và khôi hài hóa những hoạt động hữu
ích của cộng đồng tỵ nạn nói chung. Bao nhiêu ngàn người đă thoát cảnh tù đầy để
tới Mỹ định cư theo diện HO. Chính phủ Mỹ và nhiều nước khác đă không tự ư mở
tay đón thêm người tỵ nạn, nếu không có sự vận động hữu hiệu của cộng đồng Việt.
Dầu sao, bà Hoàng Bắc cũng đă tỏ ra công bằng, khi chỉ trích cả cộng đồng tỵ nạn
lẫn sinh hoạt trong nước. Nhưng trong khi những khuyết điểm ở trong nước đă
khiến bà phải ra đi, rồi lại khinh rẻ cái cộng đồng ḿnh đă lựa chọn để sinh
sống ở hải ngoại, nếu phải làm như vậy để tỏ ra công bằng, chính điều này lại là
một bất công.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác đă nhận định về thế hệ những người tỵ nạn ra đi từ năm
1975: “Những người Việt thuộc thế hệ này cho đến nay vẫn c̣n mơ ước phục hồi lại
một nước VNCH cũ với đầy đủ các cơ chế nhà nước của nó, để họ trở lại vai tṛ
tướng lănh, dân biểu, nghị viên....” Người viết cũng là người ra đi từ năm 1975,
và có nhiều bạn bè “thuộc thế hệ này”, nhưng chẳng thấy ai mơ ước như vậy. Cho
nên, nếu quả thật có những người như thế, không phải họ chỉ mơ ước, họ đang sống
trong mơ. Không nên lấy giấc mơ triền miên của một vài người, nếu có, để giải
thích cuộc sống của cả một tập thể mấy trăm ngàn người.
Ông Nguyễn Mộng Giác phát biểu thêm: “Sinh hoạt chính trị mặt nổi của các cộng
đồng người Việt ở Hoa Kỳ, Canada, Úc đều có nét tương tự là tạo cái không khí
huyễn tưởng như ḿnh c̣n sống dưới thời VNCH, một thứ VNCH nối dài với nghi thức
chào cờ, hát quốc ca, mặc niệm, chào kính theo cấp bậc cũ....Thế hệ này không
muốn h́nh ảnh quê hương đó bị thay đổi theo thời gian. Họ sợ về lại Việt Nam v́
biết chắc đă về th́ thế nào h́nh ảnh ấy cũng bị h́nh ảnh khác thay thế, và họ
phải thích nghi với h́nh ảnh mới. Để biện minh cho quyết tâm nhất định không về
ấy, một quyết tâm thôi thúc về tâm lư hơn là do lập trường chính trị, thế hệ này
thường đưa ra một lối giải thích rất đúng lập trường: là họ chỉ trở lại quê
hương sau khi quê hương không c̣n bóng cộng sản nữa”.
Ông Nguyễn Mộng Giác không thuộc lớp người ra đi từ năm 1975, ông cũng không dựa
trên một chứng cớ hay tài liệu nghiên cứu giá trị nào, bỗng dưng ông làm công
việc phân tích tâm lư tập thể này, rồi gán cho người ta đủ thứ ư nghĩ kỳ quặc.
Đó là điều người thậnï trọng không nên làm. Chào cờ, hát quốc ca, là một nghi
thức thiêng liêng, được cử hành để biểu dương sự tôn kính đối với quốc gia,
không phải hành vi nứu kéo một chế độ không c̣n nữa. Cũng như việc cúng cơm hay
hoa quả trên bàn thờ người quá văng, không phải là “nối dài” mạng sống của người
chết. Việc chào nhau theo cấp bậc cũ, chẳng hiểu tại các nước khác ra sao, c̣n ở
Mỹ, cũng là chuyện thường t́nh đối với mọi người. Chỉ trên giấy tờ chính thức,
người ta mới thêm mấy chữ “cựu” vào trước các chức vụ cũ, như “cựu tổng thống,
cựu chủ tịch...” hay hai chữ “hưu trí” vào sau các cấp bậc trong quân đội, như
“Tướng X...., ht”. C̣n khi chào nhau, người ta vẫn dùng chức vụ hay cấp bậc cũ.
Ngoài ra, nếu ông Nguyễn Mộng Giác chịu bỏ chút th́ giờ, làm một cuộc thăm ḍ
chớp nhoáng, ông sẽ biết được có rất nhiều tướng tá ra đi từ năm 1975 đă đi du
lịch Việt Nam, chẳng phải một mà nhiều lần. C̣n với những người cho đến nay vẫn
nhất định không về, vẫn giữ vũng lập trường, chỉ về khi cộng sản không c̣n nữa,
đó là những người đáng kính phục, tại sao lại chê trách? Cộng Sản là lư do khiến
người ta phải ra đi, trong số này, có cả ông Nguyễn Mộng Giác. Nay, Cộng Sản,
cái lư do khiến người ta phải ra đi, vẫn c̣n đó. Ngay cả ông Nguyễn Mộng Giác
cũng chưa muốn về sống dưới ách cai trị của Cộng Sản. Nếu chưa thể trở về sống
tại Việt Nam, trừ những lư do đặc biệt như thăm viếng cha mẹ, vợ con, tại sao
lại về nh́n cái bản mặt dơ dáy của chúng?
Việc ông Nguyễn Mộng Giác gán cho lớp người ra đi từ năm 1975 những ư nghĩ và
hành động hầu như hoàn toàn do trí tưởng tượng của ông, có vẻ phù hợp với với
lời thú nhận của ông, liên quan tới địa hạt sách vở trước đây: “Những tiên đoán
lạc quan ấy, như thời gian đă chứng minh, đều sai. Đều lạc quan tếu. V́ nghĩ cho
cùng, cả tôi lẫn cô MN đều không dựa vào dữ kiện chính xác nào cả, chỉ mong ước
sao th́ đoán vậy.” Ít ra ông Nguyễn Mộng Giác cũng c̣n tỉnh táo đủ để nhận ra
những sai lầm của ḿnh. Hy vọng lần này, thời gian cũng sẽ chứng minh những suy
đoán của ông đều sai, v́ không dựa vào dữ kiện chính xác nào cả.
Ông Nguyễn Mộng Giác chê trách những người không chịu về, v́ t́nh h́nh Việt Nam
đă thay đổi rồi, không c̣n như trước nữa. Nhưng ông lại kể ra những điều xấu vẫn
c̣n nguyên, khiến chính ông cũng có cảm giác “không thoải mái”: “đọc một tờ báo
trong nước (nhất là vào những dịp lễ lạc kỷ niệm chiến thắng này chiến thắng
kia), tôi không có cảm giác thoải mái (y như một bạn trẻ lớn lên ở miền Bắc đang
ở Đông Âu đọc tời báo Việt ngữ xuất bản ở đây). Cách dùng chữ, nhất là khi đề
cập tới quân nhân chế độ VNCH là đối phương trong cuộc chiến tranh đă qua, vẫn
mang nặng tính miệt thị, hằn học đầy sắt màu không nên có nơi cửa miệng kẻ chiến
thắng. Truyện, hồi kư, bút kư, vẫn đầy dẫy những ‘thằng ngụy’này, ‘con ngụy’
kia”.
H́nh như dưới mắt ông Nguyễn Mộng Giác, chỉ có một thứ “kẻ chiến thắng”. Thật
ra, có nhiều kẻ chiến thắng khác nhau. Thắng trận trong một cuộc chiến có chính
nghĩa, như quân Đồng Minh thời Đệ Nhị Thế Chiến, là kẻ chiến thắng. Thắng trận
trong một cuộc chiến xâm lược, như quân Stalin cướp nước Ba Lan, Hung Gia Lợi và
Tiệp Khắc, cũng là kẻ chiến thắng. Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam là bọn
chiến thắng thuộc hàng con cháu Stalin và Mao Trạch Đông. Mong mỏi họ hành động
có tư cách như những kẻ chiến thắng có chính nghĩa, là điều không tưởng. Và càng
không tưởng hơn, khi tận mắt nh́n thấy họ không hề thay đổi, mà vẫn cứ dối ḷng
ḿnh rằng họ đă thay đổi.
Tiếp tực câu chuyện với ông Trần Văn Thủy, ông Nguyễn Mộng Giác đă nhắc lại sự
việc trên ở một đoạn sau: “Tôi cảm thấy bị xúc phạm khi đọc những hồi kư hay
truyện ngắn của những cây bút Miền Bắc. Trong say sưa của kẻ thắng, họ kể những
chiến công, thành tích của quá khứ, điều đó không có ǵ đáng bàn. Điều đáng bàn,
là khi nói tới đối phương (là quân đội Miền Nam, người dân Miền Nam), họ vẫn
dùng những nhân xưng miệt thị như “y”, “hắn”, “chúng”, “bọn ngụy”, “thằng ngụy”
y như trong thời chiến tranh”.
Phản ứng của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, cũng giống như nhận xét của nhà văn Nhật
Tiến về sách báo ở Việt Nam: “văn học nghệ thuật cũng như báo chí nói riêng, vẫn
bao trùm một niềm kiêu hănh rằng ‘dân tộc ta anh hùng, đă đánh cho Mỹ cút, đánh
cho ngụy nhào’”. Những thợ viết văn viết báo ở Việt Nam vẫn tiếp tục “miệt thị,
hằn học đầy sắt máu”, vẫn viết “thằng ngụy này”, “con ngụy kia”, không phải họ
là những nhà văn nhà báo tư nhân có tự do sáng tác. Họ là những cán bộ viết theo
đường lối của Đảng. Chừng nào Đảng không thay đổi, họ không thể viết khác. Điều
này chứng tỏ Bộ Chính Trị không thay đổi, không chủ trương ḥa giải. Những thay
đổi đang diễn ra ở Việt Nam chỉ là sự xáo trộn bên ngoài, khi giá trị tiền bạc
thay cho giá trị đạo đức. Về chủ trương đường lối Đảng CS vẫn giữ nguyên như cũ,
vẫn độc quyền cai trị, độc quyền ngôn luận; người chỉ trích chính quyền vẫn tiếp
tục đi tù.
Trong khi trả lời phỏng vấn của ông Trần Văn Thủy, ông Hoàng Khởi Phong có so
sánh cộng đồng Việt Nam với hai cộng đồng người Do Thái và người Hoa. Theo ông,
“Hai cộng đồng này mạnh vô cùng, nhưng trông bên ngoài họ không bao giờ ồn ào
như cộng đồng Việt Nam. Họ không có xuống đường hoan hô, đả đảo như cộng đồng
Việt, mà lặng lẽ đ̣i hỏi trong nghị trường hay tinh ma hơn nữa là có những đ̣n
phép trong bóng tối, để chi phối gián tiếp nền chính trị Mỹ”.
Sự so sánh trên đây khiến người đọc có cảm tưởng như xuống đường hoan hô đả đảo
là chuyện xấu, và cộng đồng Việt Nam không biết làm ǵ khác lơn là diễn đi diễn
lại cái chuyện nên tránh này. Chính ông Hoàng Khởi Phong cũng nói: “Theo tôi
nghĩ chúng ta chưa hề có kinh nghiệm lưu vong”. Câu này có thể hiểu như một lời
trách móc, cộng đồng Việt chưa biết sống một đời lưu vong cho đàng hoàng (ồn ào
quá, xuống đường nhiều quá), nhưng cũng có thể hiểu “chưa hề có kinh nghiệm” là
c̣n quá trẻ trung.
Quả thật, so sánh với các cộng đồng Do Thái và người Hoa, cộng đồng Việt c̣n quá
trẻ. Người Do Thái đă tới Mỹ từ khi t́m ra Mỹ Châu năm 1492. Trong đoàn thủy thủ
90 người trên ba chiếc tầu do Christopher Columbus chỉ huy, có 5 người Do Thái.
Người Hoa đă tới Mỹ nhiều từ thế kỷ thứ 19, để làm đường xe lửa, và kiếm vàng ở
California. Cộng đồng Việt mới ngót nghét ba thập niên. Hai cộng đồng Do Thái và
Hoa, v́ họ đă tới từ lâu, chính v́ họ mạnh, nên chẳng cần ồn ào. Ḿnh c̣n yếu,
nên phải ồn ào, để được chú ư. Người lớn, mỗi khi cần ǵ, chỉ cần bỏ tiền ra
mua. Nhưng đứa trẻ, không có phương tiện ǵ khác hơn là cái miệng để la, đôi tay
để vùng vẫy. Không nên trách đứa trẻ chỉ biết đ̣i hỏi như ...trẻ con.
Ngoài ra, khởi thủy, người Do Thái tới Mỹ v́ lư do chủng tộc, người Hoa tới v́
lư do kinh tế, trong khi người Việt tới v́ lư do tỵ nạn chính trị. Tại miền đất
mới, người bị kỳ thị chủng tộc mong được sống yên thân; người di cư v́ kinh tế
chỉ lo làm ăn, nhưng người tỵ nạn chính trị c̣n phải tranh đấu, nếu không, lư do
ra đi của ḿnh thành vô nghĩa. Đă tranh đấu chính trị, bắt buộc phải có những
màn xuống đường, hoan hô, đả đảo. Tranh đấu mà không xuống đường, hay không kiếm
nổi người xuống đường, sẽ bị mỉa mai là “chính trị sa-lông”!
Ông Hoàng Khởi Phong tiếp tục khen cách ứng xử của các cộng đồng di dân khác, và
chê cộng đồng Việt: “Tôi ghi nhận được một điều thích thú là tại chợ Tầu San
Francisco và chợ Tầu Los Angeles, có những cửa tiệm bán sách báo, tranh ảnh, kế
cận nhau, một bên trưng h́nh Mao Trạch Đông, một bên trưng h́nh Tưởng Giới
Thạch, song họ buôn bán ḥa thuận với nhau, không có vụ đánh nhau vỡ đầu hay
cạnh tranh bất chính. Tại các khu chợ Tầu, ngày 1-10 hàng năm là ngày kỷ niệm
của Hoa Lục, các cửa tiệm nghiêng về Hoa Lục tưng bừng treo đèn kết hoa, múa lân
đốt pháo, trong khi các tiệm khác mặn Đài Loan thản nhiên như không có ǵ. Chỉ
10 ngày sau vào ngày Song Thập 10-10, tới phiên Đài Loan tưng bừng làm lễ Quốc
Khánh, th́ các cửa tiệm gốc Đài Loan lại treo đèn kết hoa, múa lân đốt pháo
trong khi những tiệm khác lại b́nh thản đứng ngó. Họ cũng có hai tờ báo phản ảnh
đường lối hai chính phủ, họ có thể tranh căi, bút chiến nhưng ít khi nào họ xô
xát. Chúng ta chưa có kinh nghiệm sống lưu vong trên xứ sở khác.”
Chắc ông Trần Văn Thủy phải hài ḷng lắm, khi theo dơi khúc phim ḥa b́nh do ông
Hoàng Khởi Phong mô tả. Có thể thêm vào khúc phim này vài chi tiết hấp dẫn khác,
như cảnh sống ḥa b́nh giữ dân Pakistan, dân Bangladesh và dân Ấn tại hải ngoại,
và cảnh hai phái đoàn lực sĩ Bắc và Nam Hàn đi chung nhau tại Thế Vận Hội. Nhưng
người viết e rằng ông Hoàng Khởi Phong đă lầm, khi muốn so sánh mối liên hệ giữa
di dân Đài Loan với di dân Hoa Lục, và người Việt tỵ nạn với cán bộ Việt Cộng
tại hải ngoại.
Đă có những tranh chấp giữa Hoa Lục và Đài Loan từ trên nửa thế kỷ, nhưng trên
thực thể, đó là hai quốc gia riêng biệt, nên tại hải ngoại, di dân nước nọ tôn
trong quyền sinh hoạt của di dân nước kia, là điều tự nhiên. Giả tỉ Cộng Sản
Miền Bắc không cưỡng chiếm Miền Nam (như Hoa Lục không cưỡng chiếm Đài Loan), và
ngày nay có di dân từ cả hai Miền Nam và Bắc Việt Nam cùng sống tại một thành
phố ở Mỹ, chắc họ cũng đối xử với nhau như dân từ Hoa Lục và Đài Loan. Nhưng
Cộng Sản Miền Bắc đă cướp Miền Nam, đă và tiếp tục tàn ác với dân Miền Nam (điều
này ông Hoàng Khởi Phong và quư vị nhà văn trả lời ông Trần Văn Thủy biết rơ hơn
người viết bài này, nên xin miễn nhắc lại). Chẳng những thế, tuy đă phải bỏ lại
tất cả, liều mạng ra đi, Cộng Sản Việt Nam vẫn không để những người tị nạn yên
ổn với cuộc sống mới. Thí dụ cụ thể là qua Nghị Quyết 36, họ đă quyết định
thưởng công cho những người hoạt động cho họ, và dọa đối phó với những ai chống
không theo họ. Trong cộng đồng Việt Nam tị nạn hải ngoại, không có những người
liên hệ mật thiết tới hai cơ chế cai trị khác nhau, là Việt Nam Cộng Ḥa và Việt
Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, như Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), và Cộng Ḥa Nhân Dân
Trung Hoa (Hoa Lục), mà chỉ có những nạn nhân Cộng Sản, và bọn cán bộ hay tay
sai trà trộn hoạt động cho Cộng Sản. Do đó, tập thể người tị nạn Việt không thể
dùng cái lễ của người di dân nước này đối với người di dân của nước lân bang. Họ
phải dùng những biện pháp của nạn nhân, dành cho tay chân kẻ cướp. Ông Hoàng
Khởi Phong đă từng đề cao cách ứng xử của cộng đồng Do Thái. Nếu chịu chú ư một
chút, ông có thể thấy rơ họ đă đối xử thế nào với những người trước đây có dính
dáng tới chế độ Đức Quốc Xă, dù chuyện đă xẩy ra trên nửa thế kỷ trước. Và lại
giả tỉ, nếu bây giờ Trung Cộng cũng cướp Đài Loan, như Việt Cộng đă làm đối với
Nam Việt Nam, liệu sau đó ông Hoàng Khởi Phong c̣n cơ hội thích thú chứng kiến
cách đối xử ôn ḥa của dân gốc Đài Loan dành cho cán bộ Bắc Kinh không?
Người viết tưởng đă nhận xét đủ về về quan điểm của ông Trần Văn Thủy, qua bốn
bài của ông ở đầu sách, nhưng vẫn phải quay lại với ông, qua một câu hỏi ông
dành cho nhà văn Trương Vũ: “Trước khi sang đây, tôi cứ nghĩ rằng, khi sống trên
một đất nước có tự do dân chủ, với một đời sống vật chất cao, con người có thể
trở nên khoan dung với nhau hơn. Chạm với thực tế, tôi thấy không hoàn toàn đúng
như vậy. Tại sao lại có những hiện tượng một số người ở hải ngoại chống đối rất
dữ dằn bất cứ ca sĩ nào ở trong nước ra tŕnh diễn, dù là những ca sĩ rất trẻ
sinh ra sau 1975? Tôi cũng rất buồn khi đọc một số báo chí ở hải ngoại viết
thiếu chân thực cũng như rất thiếu t́nh người về những ǵ không may xẩy ra ở
Việt Nam. Như vụ hỏa hoạn xẩy ra ở khu Thương xá Tam Đa, người ta hân hoan đưa
những tin tang tóc, buộc tội chính quyền trong nước. Nhưng vừa xẩy ra một vụ hỏa
hoạn khủng khiếp không kém ở The Station Nightclub tại tiểu bang Rhode Island,
hàng trăm người chết, cháy rụi cả một khu vực, liên quan đến trách nhiệm của
nhiều quan chức, có thể phải bồi thường hàng tỷ Mỹ kim, không thấy báo Việt ngữ
nào săn đón tin này để lên án chính phủ Mỹ cả. Tôi thiết nghĩ người ta có thể
ghét một chế độ, không ưa một tập thể cầm quyền, nhưng làm sao lại có thể tàn
nhẫn với đồng bào ḿnh như vậy?” (NĐHB tr.138)
Trước đây, tôi cứ nghĩ rằng, khi sống trên một đất nước thiếu tự do dân chủ, với
một đời sống vật chất thấp, con người có thể trở thành lú lẫn, tối dạ đi. Chạm
thực tế, qua việc đọc câu hỏi trên đây của ông Trần Văn Thủy, tôi thấy hoàn toàn
đúng như vậy. Trước hết, sở dĩ có hiện tượng một số người ở hải ngoại chống đối
ca sĩ ở trong nước ra tŕnh diễn, dù là những ca sĩ rất trẻ sinh ra sau 1975, v́
không phải người ta chống cá nhân bất cứ ca sĩ nào, mà chỉ chống những ca sĩ
người ta tin rằng đă được nhà cầm quyền Cộng Sản tổ chức, đưa ra hải ngoại tŕnh
diễn với mục đích tuyên truyền. Một ca sĩ sinh ra trước, hay sau năm 1975, đâu
có khác ǵ, nếu người đó được dùng như một công cụ địch vận? Về vụ này, ông Trần
Văn Thủy đă theo dơi sinh hoạt báo chí Việt Nam tại hải ngoại, mà không để ư tới
lời phát biểu của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, tại Đại Hội Truyền Thông Việt Nam
Hải Ngoại, vào mùa Xuân năm 2003: “Chính v́ mục đích muốn làm tinh thần chống
Cộng này nguội bớt, xẹp bớt, Đảng tung ra các đoàn ca vũ nhạc, tuồng chèo, cải
lương, vọng cổ, ca trù, múa rối, triển lăm tranh ảnh nghệ thuật, có thể có cả
xiếc, nhằm tạo ra ảo giác về một chế độ hiền ḥa, tươi vui.”
Về tiêu chuẩn loan tin tai nạn, báo chí tự do và báo chí độc tài hoàn toàn khác
nhau. Tại một nước độc tài toàn trị, như Liên Xô trước đây, hay Cuba và Việt Nam
ngày nay, những tin tức thuộc loại “thắng lợi” mới đăng lớn, c̣n tin về tai nạn
thường bị ém nhẹm, hay chẳng đặng đừng, rút gọn tới mức tối đa, sợ nhà cầm quyền
bị mang tiếng. Ví dụ tai nạn khủng khiếp tại nhà máy điện nguyên tử ở Chernobyl
, Ukraine, Liên Xô vào năm 1986. Ngược lại, báo chí tự do, tai nạn càng lớn,
càng loan tin lớn, v́ liên hệ tới nhiều người, và để nạn nhân được chú ư nhiều,
được giúp đỡ hữu hiệu hơn. Có lẽ v́ vậy, khi thấy báo chí hải ngoại loan tin lớn
vụ cháy Thương xá Tam Đa, ông TVT đă cho là “người ta hân hoan đưa những tin
tang tóc, buộc tội chính quyền trong nước”. Ông TVT c̣n hạch hỏi tại sao báo
Việt ngữ không lên án chính phủ Mỹ trong vụ cháy Nightclub ở Rhode Island? Hỏi
như vậy, cũng tương tự như hỏi tại sao mỗi năm người Việt hải ngoại gửi về nước
mấy tỷ MK, mà sao không gửi về giúp dân Lào và Căm Bốt? Sau hết, loan tin lớn về
một tai nạn thảm khốc, và buộc tội giới hữu trách vô trách nhiệm trước tai nạn
đó, như vậy là “tàn nhẫn với đồng bào ḿnh”?
Câu hỏi dài thọng của ông Trần Văn Thủy đă được ông Trương Vũ trả lời cũng khá
dài, xin được ghi lại đây phần chót của câu trả lời: “Theo tôi, những hận thù,
mâu thuẫn giữa anh em lẽ ra đă phải được chấm dứt ngay sau khi chiến tranh kết
thúc vào 30 tháng Tư 1975. Thế nhưng, thay vào đó lại là những trại tù, mang tên
là trại cải tạo. Rồi đổi tiền, rồi ‘kinh tế mới’, rồi ăn cơm độn trên một đất
nước vốn xuất cảng lúa gạo, rồi những đối xử phân biệt, rồi cả triệu người đành
phải nhào xuống biển bất kể có phải làm mồi cho cá hay hải tặc. Tôi không thấy
có bao nhiêu giọt nước mắt dành cho họ. Tôi chỉ đọc được rất nhiều những trang
sách báo kết án ‘bọn phản quốc’, ‘bọn từ bỏ tổ quốc’. Sau bất cứ một cuộc chiến
nào, người thắng trận dễ ch́a bàn tay để ḥa giải hơn người bại trận. Người
thắng trận, tôi muốn nói người có quyền và thắng trận, đă không làm chuyện đó mà
c̣n làm ngược lại”.
Đọc xong câu nói trên đây của ông Trương Vũ, rồi đọc lại câu chót trong câu hỏi
của ông Trần Văn Thủy, sẽ thấy vô cùng thấm thía: “Tôi thiết nghĩ người ta có
thể ghét một chế dộ, không ưa một tập thể cầm quyền, nhưng làm sao lại có thể
tàn nhẫn với đồng bào ḿnh như vậy?” Bây giờ, chắc ông TVT đă vỡ lẽ ai là kẻ tàn
ác.
Ông Trương Vũ đă tả lại “ngày về” của ḿnh: “Cả một loạt bạn bè giáo chức của
tôi là những người đă được đào tạo rất kỹ ở trong Nam, nhiều người giỏi hơn tôi,
nhưng không một ai được lên đến chức hiệu trưởng một trường trung học, dù là một
trưởng trung học nhỏ, trừ một vài người, tuy không giỏi nhưng có thân nhân tập
kết. Lúc tôi trở về, chiến tranh chấm dứt đă 26 năm rồi. Lúc đó, vào dịp kỷ niệm
30 tháng Tư, đài truyền h́nh chiếu nhiều phim về ‘lính ngụy’, bọn ‘lính ngụy’
trông thật là ác ôn! Tôi, tên ‘lính ngụy’ 25 năm trở về, nh́n h́nh ảnh ‘ḿnh’
trên truyền h́nh, cười ra nước mắt. Nhưng nói chung, tôi rất mừng là tôi đă trở
về”. Thật ra, ông Trương Vũ đâu có thực sự trở về Việt Nam. Ông đă “đi Việt
Nam”, như nhiều khách du lịch khác, rồi lại “về Mỹ” với gia đ́nh. Ông đă vui
mừng được gặp lại người xưa cảnh cũ. Nhưng niềm vui không trọn vẹn, v́ lư do
khiến ông phải ra đi vẫn c̣n nguyên, “vẫn c̣n những cái không thay đổi chút
nào”. Dù vẫn tha thiết với t́nh nghĩa Việt Nam, 25 năm trước ông Trương Vũ “đi
Mỹ”, bây giờ ông “đi Việt Nam”, và “về Mỹ”.
Khi ông TVT hỏi về ḥa hợp ḥa giải, ông Trương Vũ trả lời: “Người Việt không
phải là loại người thù dai, không có một nền văn hóa hay những tôn giáo khích
động sự thù dai”. Ngay sau khi ghi nhận t́nh trạng hơn một phần tư thế kỷ sau
chiến tranh, người cầm quyền Cộng Sản Việt Nam vẫn đối xử với quân dân Miền Nam
cũ như một thứ công dân hạng nh́, hạng ba, thế mà ông Trương Vũ nói người Việt
không phải là loại người thù dai, không có văn hóa thù dai. Một là ông Trương Vũ
đă sai. Hai là tập đoàn đang cầm quyền không c̣n là người Việt Nam nữa.
Cũng giống như các ông Nhật Tiến và Nguyễn Mộng Giác, ông Trương Vũ đă cảm thấy
buồn ḷng khi gần ba thập niên sau cuộc chiến, các cán bộ thông tin văn hóa của
Cộng Sản Việt Nam vẫn tiếp tực dùng loại ngôn ngữ đầy miệt thị đối với quân dân
Miền Nam, trong khi nhà cầm quyền có thái độ thân thiện với Đại Hàn, và Mỹ:
“ngày nay lănh đạo Việt Nam không c̣n xem người Đại Hàn là ‘bọn lính đánh thuê
Phác Chính Hy’nữa mà là bạn tốt th́ cách ứng xử với nhau cũng thay đổi theo, và
sự thay đổi đó được chính thức công nhận và khuyến khích. Đối với người Mỹ cũng
vậy....Một điều khôi hài là báo chí Việt Nam có thể đăng h́nh một cựu chiến binh
Miền Bắc trong bộ quân phục của Quân Đội Nhân Dân ôm một anh cựu chiến binh Mỹ
trong bộ quân phục của Quân Đội Mỹ, nhưng không biết bao giờ chúng ta mới thấy
một h́nh ảnh như vậy giữa một anh cựu chiến binh Quân Đội Nhận Dân Việt Nam với
một anh cựu chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa?”
Nhận xét của ông Trương Vũ rất dễ hiểu. Bọn cầm quyền hiện nay ở Việt Nam chỉ
c̣n biết có quyền lợi. Mỹ và Đại Hàn vốn là kẻ tử thù, nhưng họ có nhiều tiền,
nên được o bế. Trong khi quân dân VNCH cũ, có đồng nào đă bị Đảng càn quét mấy
đợt hết sạch, c̣n ǵ đâu để được đối xử tử tế. Ông Trương Vũ c̣n nói thẳng:
“Lănh đạo trong nước th́ rơ ràng là chưa thực ḷng ḥa hợp ḥa giải. Nó chỉ nằm
trên khẩu hiệu và nghị quyết”. Ông đă nhận xét đúng, nhưng đặt vấn đề sai, khi
cho rằng: “Phần c̣n lại bây giờ chỉ là nỗ lực hàn gắn giữa những người Việt b́nh
thường với nhau”. Giữa người Việt b́nh thường, đâu có hận thù, đâu có đổ vỡ mà
cần hàn gắn? Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam, những kẻ gây ra hận thù, phải
đi bước đầu và thực tâm ḥa giải. Gần 30 năm rồi, họ vẫn ngoan cố không chịu làm
việc này, người dân b́nh thường chỉ c̣n cách đuổi họ đi.
Ngoài một số nhà văn gốc Việt, ông Trần Văn Thủy c̣n phỏng vấn một nhà văn Mỹ
gốc Do Thái, kiêm giáo sư văn chương tại một đại học Mỹ, đó là ông Wayne Karlin.
Ông này trước đây đă từng tham chiến ở Việt Nam, với nhiệm vụ một xạ thủ trên
trực thăng. Ông Wayne Karlin đă đề cao t́nh người, vô cùng tha thiết với vấn đề
ḥa hợp ḥa giải. Ông nói rất cảm động, như chính bản thân ông là người Việt
Nam: “...bất cứ ai, ở phe nào, cũng đă mất mát nhiều trong chiến tranh Việt Nam.
Cái đau khổ của chúng ta chỉ kéo dài mà thôi, nếu chúng ta tiếp tục đi t́m công
bằng tuyệt đỉnh. Chúng ta không thể chờ đợi công bằng trong lănh vực chính trị,
mà phải đi t́m t́nh yêu và thông cảm của con người. Tôi nhớ một câu tôi thường
nghe lúc dân chúng ở đây phản đối cách đối xử anh Rodney King: ‘Không có công
bằng th́ không thể nào có ḥa b́nh.’Nhưng nếu ai cũng muốn được công bằng tuyệt
đỉnh, th́ tôi nghĩ không bao giờ chúng ta có ḥa b́nh. Đau khổ đă lâu rồi, đây
chính là lúc chúng ta nên ḥa hợp ḥa giải”. (NĐHB tr.162)
Người viết đă có dịp đề cập tới trong phần nhận định về lời phát biểu của nhà
văn Nhật Tiến, rằng hận thù bắt nguồn từ bất công. Nay ong Wayne Karlin nói
rằng, chúng ta sẽ kéo dài sự đau khổ, nếu tiếp tục đi t́m công bằng tuyệt đỉnh.
Nếu bất công là nguồn gốc của hận thù, nguyên nhân của đau khổ, đi t́m công
bằng, là t́m thuốc chữa. Nhưng ông Wayne lại khuyên phải thôi t́m thuốc chữa, để
khỏi đau khổ. Lời khuyên khá lạ, nếu không coi như mâu thuẫn. Có lẽ ông không
chống lại việc đi t́m công bằng, nhưng chỉ t́m loại công bằng vừa phải thôi,
không nên đ̣i “công bằng tuyệt đỉnh”. Nhưng thế nào là công bằng tuyệt đỉnh? Một
là có công bằng, hai là không có công bằng, làm ǵ có thứ công bằng nửa vời?
Mong mỏi người bị xử tệ từ bỏ cơ hội đ̣i lại những ǵ ḿnh bị lấy mất, là điều
rất khó, và tạo thêm bất công. Xin lấy một thí dụ ngay trong Nếu Đi Hết Biển, và
người chủ động chẳng ai khác hơn là vai chính Trần Văn Thủy. Vào dịp Hà Nội cho
xuất bản bộ sách lớn ba cuốn về cố học giả Hoàng Xuân Hăn, ông Trần Văn Thủy,
người đă có dịp tiếp xúc với ông bà Hoàng Xuân Hăn, được đặt viết một bài, với
lời hứa “sẽ được đăng nguyên xi, không bị cắt xén”. Sách được hoàn thành, ban tổ
chức buổi ra mắt nhấn mạnh: “Cuốn sách đầu tiên của một trí thức không phải đảng
viên Đảng Cộng Sản mà được in trang trọng, nhiều tập, công phu như thế này”.
Cộng Sản thường rêu rao họ có đủ thứ tự do, kể cả tự do sáng tác và xuất bản.
Nhưng rồi chính họ xác nhận bộ sách về Hoàng Xuân Hăn là sách đầu tiên của một
trí thức không phải đảng viên được ấn hành trang trọng. Nhưng đó là chuyện phụ.
Chuyện chính là bài của ông Trần Văn Thủy đă bị cắt xén 267 chữ, mà không ai nói
cho ông biết, trước cũng như sau khi sách xuất bản. Tác giả cảm thấy đă bị đối
xử không đẹp, lời hứa không cắt xén dành cho ông đă không được tôn trọng.
Tuy là người tích cực cổ vơ chấm dứt bất ḥa để ḥa giải, ḥa hợp, ông Trần Văn
Thủy đă không thể bỏ qua chuyện nhỏ này. Ông không thể quên 267 chữ đă bị lấy
mất. Cuối cùng, ông đă t́m cơ hội tự đền bù sự mất mát này, bằng cách in lại cả
bài về học giả Hoàng Xuân Hăn, cả phần bị cắt, trong Nếu Đi Hết Biển. Xin cám ơn
ông Trần Văn Thủy, nhờ được đọc những chữ bị kiểm duyệt trong bài của ông, người
viết đă có cơ hội biết là ḿnh không lầm, khi đánh giá thấp bọn người đang cầm
quyền ở Việt Nam. Nhân tiện, cũng xin hỏi ông Wayne Karlin: Người được chế độ ưu
đăi như ông Trần Văn Thủy c̣n bị đối xử bất công, viết bài c̣n bị cắt xén thẳng
tay, liệu những nhà văn lưu vong một khi trở về sẽ được xử dụng ra sao? Và một
cán bộ văn hóa như ông Trần Văn Thủy, nếu không thể xí xóa một chuyện nhỏ như
chuyện bị cắt xén 267 chữ, làm sao những người bị mất cơ nghiệp, mất người thân,
mất tương lai, mất lẽ sống, có thể bỏ qua tội ác của những người đang cầm quyền?
Ông Wayne Karlin đă so sánh cộng đồng tỵ nạn Việt Nam cũng có những nét giống
như cộng đồng Do Thái. Là một người xuất thân từ cộng đồng tỵ nạn Do Thái, chắc
ông Wayne Karlin không thể bỏ qua sự kiện là, cho đến nay, Do Thái vẫn lùng kiếm
khắp thế giới, bắt những phần tử có dính dáng tới Đức Quốc Xă để đem ra trị tội.
Việc này là t́m kiếm công bằng tuyệt đỉnh, hay công bằng tương đối? Đau khổ đă
lâu rồi, người chết đă nhiều rồi, sao Do Thái chưa thể ḥa giải ḥa hợp với
những người anh em Ả-Rập? Dầu sao, ông Wayne cũng có lư, khi nói rằng “Chúng ta
không thể chờ đợi công bằng trong lănh vực chính trị”. Đúng! Chúng ta không thể
chờ đợi. Chúng ta phải thay đổi chính trị, để tạo công bằng.
Bài cuối cùng trong Nếu Đi Hết Biển là một câu chuyện t́nh Việt Mỹ, Tuyết và
Chris, do bà Tuyết viết. Mối t́nh thật đẹp, và nhiều gian nan. Bà Tuyết đă hoạt
động phản chiến từ thời c̣n đi học, đám cưới có cả cờ MTGPMN, nhưng khi ḥa
b́nh, lại có tên trong sổ đen của Cộng Sản, và bị Công An theo dơi sát. Sau ba
mươi năm gắn bó, ông Chris đă từ giă vợ con, ra đi v́ bạo bệnh. Người viết cảm
thấy không được quyền có lời bàn về mối t́nh lớn, đă trở thành thiêng liêng này.
Đoạn kết bài Lời Giới Thiệu của ông Kevin Bowen viết rằng: “Những đối thoại và
tham luận trong tập sách này là những dữ liệu cần đọc cho bất cứ ai muốn hiểu
sâu Việt Nam, hiểu được những cái giá phải trả cho cuộc xung đột ư thức hệ trong
thế kỷ qua”. Đọc xong Nếu Đi Hết Biển..., người ta thấy rơ ràng một cố gắng vận
động ḥa giải, và trở về hợp tác, nhưng chính nội dung tập sách cũng cho thấy cố
gắng này khó thành công.
Sau ba mươi năm kể từ khi chiến tranh chấm dứt, vẫn chỉ có người đi, và c̣n đang
đi, mà chưa có người về. Không phải người ta ra đi v́ chiến tranh, mà ra đi v́
những việc làm độc ác sau chiến tranh. Người ta chưa về, không phải v́ thù dai,
hay thiếu t́nh người, mà v́ những lư do khiến người ta ra đi vẫn c̣n đó. Đất
lành dân ở, đất dữ dân đi. Nguời đi chưa thể trở về, nếu đất vẫn c̣n dữ.
Các ông Nhật Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Trương Vũ đều mong muốn ḥa giải, nhưng ḥa
giải giữa ai với ai? Ḥa giải dân tộc, hay ḥa giải giữa người dân với nhau, là
đặt sai vấn đề. Không ông nào nêu được bằng chứng là các thành phần dân tộc
chống đối lẫn nhau. Dân trong nước không chống nhau, chẳng những không chống
những người đă ra đi, c̣n tỏ ra rất âu yếm. Những người ra đi không chống dân
trong nước. Gần ba triệu người, mỗi năm gửi về cỡ ba tỷ Đô La Mỹ, tính đổ đồng,
mỗi đầu người gửi về hơn một ngàn Đô La. Nếu chống nhau, đâu có gửi nhiều tiền
như vậy. Người ra đi, cũng như người trong nước, nếu có chống, là chống tập đoàn
cai trị.
Phải chăng quư vị chủ trương ḥa giải với nhà cầm quyền? Điều này cũng không ổn,
v́ hai lẽ: Trước hết, người dân trong nước, cũng như những người đă ra đi, đâu
có lầm lỗi điều chi mà phải ḥa giải với thủ phạm đă gây tội ác? Thứ đến, dù có
muốn ḥa giải với nhà cầm quyền, cũng không được. Họ đâu có muốn. Chính ông
Trương Vũ đă khẳng định: “Lănh đạo trong nước th́ rơ ràng là chưa thực ḷng ḥa
hợp, ḥa giải. Nó chỉ nằm trên khẩu hiệu và nghị quyết”. Các quư vị cổ vơ ḥa
giải đều ghi nhận báo chí, sách vở trong nước vẫn tiếp tục miệt thị quân dân chế
độ cũ. Báo chí, và các phương tiện truyền thông khác, đều phản ảnh đường lối của
nhà cầm quyền, không phải quan điểm của tư nhân.
Câu cuối cùng của Lời Giới Thiệu viết: “Những đối thoại của họ đă làm ngắn đi
nhịp cầu của con sông đă làm phân cách dân tộc Việt Nam, và khiến cho những sự
thật, dù nó không thể kém đi phần đau thương, trở nên dễ thấu hiểu và cảm nhận
hơn, từ cả hai phía”. Cần nhắc lại một lần nữa, không có con sông nào ngăn cách
dân tộc Việt Nam. Chỉ có sự ngăn cách giữa băng đảng cai trị, và khối dân tộc bị
trị.
Tiếng nói của quư vị trong tập sách này, chỉ có thể đóng vai nhịp cầu thông cảm,
nếu được nghe từ cả hai phía. Sách đă được xuất bản ở hải ngoại. Nếu nó không
được ra mắt ở trong nước, nhịp cầu qua sông sẽ biến thành một thứ nhịp cầu nửa
vời, một thứ cạm bẫy cho người bên này, v́ tưởng “ngụy kiều” là cầu thật. Ai
dùng nó, sẽ rớt xuống sông, trong khi phía bên kia không có ảnh hưởng ǵ cả. Quư
vị lên tiếng trong sách đă tỏ ra công bằng, chỉ trích cả hai phía. Nhưng nếu chỉ
có một phía được nghe, tiếng nói của quư vị đă bị xử dụng như một công cụ gây
bất ḥa với cộng đồng gần ḿnh, trong khi quư vị mong mỏi ḥa giải với những
người ở xa. Và sau hết, nếu tiếng nói của quư vị chỉ có một phía được nghe, làm
sao tạo được sự cảm nhận từ cả hai phía, như ông Bowen giới thiệu? Rút cục, cố
gắng ḥa giải của quư vị, đă gây thêm bất ḥa!
Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures