Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ:

TỪ HUYỀN THOẠI ĐẾN THỰC CHẤT:

 

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ CON NGƯỜI VÀ SỰ THẬT

 

 

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

TRONG CHIÊU BÀI CANH TÂN

Bùi Kha

 

PHẦN BA -

 

Chúng ta sẽ phân tích thêm một số bản Điều Trần quan trọng khác của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề tôn giáo, để thấy rơ thêm bản chất. Nhà Canh Tân Vĩ Đại Của Dân Tộc như thế nào?

 

Thế kỷ 19, vấn đề truyền đạo luôn luôn song hành với phong trào đi chiếm thuộc địa. Nhiều lúc truyền giáo là một cái cớ và tự do tôn giáo là một khí cụ lợi hại cho chủ nghĩa thực dân. Ông Nguyễn Trường Tộ hay tự khoe là người thông thái nhưng ông đă không biết hay cố t́nh làm hại cho đất nước ông qua một bản điều trần về tôn giáo mà chúng ta sẽ thấy sau đây.

 

Chương 1

TỰ DO TÔN GIÁO

Qua bản di thảo số 2 , chúng ta sẽ thấy những nhận xét sai lầm của NTT về tôn giáo.

 

Trong phần đầu của bài viết nầy tôi đă cố tránh vấn đề Gia Tô giáo. V́ không phải mục đích của bài viết nầy là để bàn về cái đó. Nhưng xét thấy, lúc Bàn Về Tự Do Tôn Giáo (Giáo Môn Luận) và các bản Điều Trần có tính tôn giáo cũng là những bài quan trọng của Nguyễn Trường Tộ, nên tôi phải thảo luận thêm vài điểm chính của Gia Tô giáo. Để từ đó, chúng ta sẽ thấy cái oái oăm đau thương của vận mạng dân tộc, đồng thời cũng để thấy được cái đúng cái sai của tư tưởng Nguyễn Trường Tộ về vấn đề tôn giáo nói chung.

 

Sơ Lược Về Thuyết Thượng Đế, Thánh Kinh Và Hành Động Của Gia Tô Giáo.

 

Ki Tô giáo (gồm cả đạo Gia Tô La Mă và Tin Lành) khởi đi từ ư niệm tin rằng Thượng đế sinh ra vạn vật, và tổ tông của loài người là ông Adam và bà Eva. Hai người nầy bị rắn dụ dỗ ăn trái táo Thượng đế cấm v́ thế mà mang tội, con cháu của hai ông bà về sau, tức là cả nhân loại, bị tội tổ tông từ ông Adam và bà Eva mà ra. Do đó, mới có thuyết Chúa Ki Tô giáng trần để chuộc tội cho nhân loại.

 

Câu chuyện về Thượng Đế (God) được tŕnh bày rơ ràng tỉ mỉ trong cuốn sách có tựa đề How The Great Religions Began (Các Tôn Giáo Lớn Được Bắt Đầu Như Thế Nào), tác giả là giáo sư Joseph Gear, dạy khoa Tôn Giáo Đối Chiếu (Comparative Religions).

 

Giáo sư Gear khám phá ra rằng cách đây trên 4000 (bốn ngàn năm) tại tỉnh UR, địa phận Chaldae, nằm giữa sông Euphrates và Tigris vùng Trung Đông (Do Thái, Ai Cập...) có ông thợ làm đồ gốm (đất sét) tên Terah. Ông nặn tượng đủ các loại thần như thần cây, thần sông, thần núi, thần lửa (giống như thần b́nh vôi ông táo ở VN). Thiên hạ trong vùng mua về thờ. Họ tin rằng các vị thần nầy sẽ phù hộ cho họ trong cuộc sống.

 

Một hôm ông Terah sai đứa con lớn tên là Abraham vào dọn dẹp xưởng nặn tượng. Abraham đập bể tất cả các tượng đă nắn xong sẵn sàng để bán. Sáng hôm sau ông bố vào xưởng thấy tượng bể ngổn ngang thành những mảnh đất sét vụn. Bị bố vặn hỏi lư do, người con trả lời rằng các ông thần nầy căi lộn, đánh nhau vỡ tan tành chỉ c̣n một ông sống sót đang cầm cái búa trong tay. Dĩ nhiên là bố không tin lời giải thích hoang đường ấy, cuối cùng người con thú nhận đă đập vỡ các pho tượng.

 

V́ sợ dân trong vùng biết chuyện tượng thần mà họ hằng tin tưởng nay bị đập vỡ, nên bốn bố con ông Terah dời nhà về vùng Canaan tức là nước Palestine bây giờ. Abraham c̣n có tên là Ibri (Hebrews tiếng cổ của Do Thái). Ông lập nghiệp tại đây và sinh được một người con tên là Isaac.

 

Issac sinh Jacob. Jacob có tên là Israel, con cháu của Israel gọi là Israelites. Ḍng họ nầy sinh nhiều tạo thành một bộ lạc, sống nghề chăn chiên. Con thứ 11 của Jacob (Israel) là Joseph đă dẫn cả bộ lạc của ḿnh qua Ai Cập để sống v́ nạn đói tại địa phương.

 

Dân Ai Cập rất ghét dân Israel v́ người Ai Cập thờ đủ loại thần như thần chó, mèo, trâu, ḅ, cá sấu... mà dân Israel th́ không. Vua Ai Cập bắt dân Israel làm nô lệ để họ phải thờ thần như người chủ của họ, nhưng họ vẫn hờ hững. Vua Ai cập ghét, ra lệnh giết tất cả các trẻ sơ sinh của dân Israel bằng cách nhận xuống nước.

 

Có một em bé tên Moses (Môi Se), bị thả trôi sông trên một cái giỏ. Công chúa vua Ai Cập tắm sông, vớt được đem về nuôi. Lúc lớn lên Moses thấy người Ai Cập hành hạ người nô lệ Israelites (cũng gọi là Hebrews) Moses bèn giết người lính Ai Cập rồi ít lâu sau ông dẫn cả đoàn người Hebrews ra khỏi căn nhà nô lệ. Moses cùng em là Aaron tới gặp Vua Ai Cập và nói rằng Thượng Đế sai tôi tới đây để đ̣i cho dân Hebrews được tự do. Vua Ai Cập (Pharaoh) mở sách có liệt kê Thượng Đế của dân các bộ lạc Edom, Moab v.v... nhưng không thấy tên Thượng Đế của Moses đâu cả, nên không trả tự do cho dân Hebrews, Moses đưa cho Pharaoh xem cây gậy thần có chữ D viết tắt chữ Daan có nghĩa là máu. Moses nói sẽ làm cho dân Ai Cập đổ máu và sẽ giết tất cả những ai là con sinh đầu ḷng. Vua Pharaoh sợ v́ ông là con đầu ḷng. Câu chuyện thần thoại cho rằng, Moses có tài biến hóa, tạo ra ếch nhái xuất hiện khắp xứ Ai Cập và nhiều phép lạ khác. V́ thế Pharaoh cho Moses dẫn đoàn người Do Thái (Israelites) ra khỏi ngục tù nô lệ và về trú tại Vùng Đất Hứa (Promised Land, hay vùng Canaan) tức là xứ Palestine bây giờ.

 

Đoàn người Do Thái nầy tin rằng Vùng Đất Hứa là đất mà Thượng Đế dành cho một giống dân được Thượng Đế chọn lựa (Chosen People).

 

Trước lúc tới Vùng Đất Hứa, Moses dẫn đoàn người qua núi Sinai, ông để họ nghỉ tại chân núi, c̣n ông lên trên đỉnh núi. Sau 40 ngày ông xuống và cầm theo một tấm đá có khắc 10 điều răn (Ten Commandments) và nói là của Thần (God). Hai trong 10 điều giáo lệnh đó là cấm dân Hebrews không được thờ bất cứ một loại thần nào ngoại trừ thần Jehovah cũng gọi là Yahweh và cấm không được giết người. Nhưng chính Moses giết người lính Ai Cập và giết những người thờ ḅ vàng (Golden calfs) dưới chân núi.

 

Từ hơn 3000 năm nay tín đồ Do Thái làm lễ Vượt Qua (Passover) vào ngày thứ Bảy, để tưởng nhớ ngày Moses dẫn họ vượt ra khỏi Ai Cập sau hơn 400 năm làm nô lệ.

 

Đó là tóm lược sự tích về thần hay cũng gọi là Thượng Đế (God) trong cuốn sách kể trên (tóm lược và dẫn theo Hoàng Hà Thanh trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại. Văn hóa California xuất bản, Hoa Kỳ 1996, trang 15-19).

 

Chữ God (tiếng Anh) dịch đúng nghĩa là thần. Do đó, mới có môn Thần học (Theology). Nhưng để tăng vẻ quan trọng và thần thánh hóa, người Gia Tô Việt Nam dịch là Thượng Đế cũng c̣n được gọi là Chúa trời (Lord).

 

Đoạn tóm lược về sự tích Thượng Đế nêu trên cho chúng ta biết sự xuất xứ gốc tích của Thượng Đế qua nhiều thế hệ để phát triển bộ lạc, để giữ đất, người ta đă phủ lên danh từ God, một màu sắc thần bí và gán cho nó một nhiệm vụ là tạo ra trời đất muôn loài. Nhất là thời hoàng đế Constantine thế kỷ thứ tư. Theo ông Geoffrey Post báo Register, chủ nhật 25, 9-1988, Cali, Hoa Kỳ. Hoàng đế Constantine đă đốt tất cả kinh sách của Ki Tô giáo, và thuê người viết lại theo quan điểm và chính sách của thời đại ông, để giữ thuộc địa và bành trướng thế lực.

 

Qua nhiều lần sửa đổi bởi nhiều người phàm trần viết, nhưng sợ thiên hạ không tin. V́ thế, lại phủ lên những màu sắc thần bí khác rồi gọi đó là Thánh Kinh chứ không phải Phàm Kinh.

 

Bởi v́ không đọc Thánh Kinh, không biết sách lược của thực dân nên Nguyễn Trường Tộ, cuồng tín đi theo họ, rồi đưa ra những nhận định sai lầm về Thượng Đế (Tạo vật, Chúa trời) như sau:

 

1.- Không thấy Thượng Đế là Chúa tể cai trị các nước cũng như vua là chúa tể trị v́ một nước đó sao? Các nước khác nhau rất xa về ngôn ngữ... nhưng Thượng đế cũng lấy một lẽ mà đối chung cả vạn vật khiến tất cả đều thỏa ư nguyện... có thế mới sáng tỏ cái tài năng lớn...và cái độ lượng rộng răi...Vua đảm đang công việc giúp Thượng Đế không phải là vua có thể biệt lập một trời đất mà một ḿnh cầm quyền được, chẳng qua chỉ là nhân các dân vật đă được Thượng Đế tạo thành an bài đó mà thương yêu làm cho an ổn...(Giáo Môn Luận, TBC, sách đă dẫn trang 116 & 117).

 

So sánh đoạn văn trên của Nguyễn Trường Tộ với sắc lệnh của Giáo Hoàng Martin V (1417-1431), sau đây chúng ta thấy có những ư tứ trùng hợp:

 

Sắc lệnh phát xuất từ nguyên lư là tất cả đất đai đều thuộc về Chúa Ki Tô và người đại diện Chúa Ki Tô (tức là Giáo Hoàng, BK) có quyền xử dụng tất cả các đất đai của người không theo đạo Gia Tô, những kẻ ngoại đạo không có quyền sở hữu một mảnh đất nào. Nếu những người phi Gia Tô được cấp phát đất đai th́ họ phải theo đạo Gia Tô dù tự ư hay bị cưỡng bách.

 

Năm 1493 Giáo Hoàng Alexandre VI cũng kư sắc lệnh chia thế giới cho Bồ Đào Nha và Tây Ba Nha, và buộc họ phải truyền đạo để giải thích lư do việc chiếm thuộc địa.

 

Nguyên văn tiếng Pháp:

 

La bulle, écrit Henri Martin, partait du principe que la terre appartient au Christ et que le vicaire du Christ a droit de disposer de tout ce qui n'est point occupé par des chrétiens, les infidèles ne pouvant être légitimes possesseurs d'aucune portion de la terre. Le don des terres détenues par les infidèles entrainait implicitement l'assujettissement des habitants pour leur plus grand bien, pour leur conversion volontaire ou forcée à la loi chrétienne”. Plus tard le Page Alexandre VI, de par la bulle de 1493, partageait le monde entre le Portugal et l'Espagne en leur imposant l'obligation de propager la foi du Christ en tant que justification de toute occupation. La bulle pose formellement comme conditon de toute mise en possession le devoir de catéchiser tous les indigèles. (Henri Martin, Histoire de France, Paris, Furme... T. VII p. 293), CHT, SĐD, trang 7).

 

Đối với tín hữu đạo Gia Tô, th́ Giáo Hoàng là người đại diện duy nhất cho Chúa. Từ đó, chúng ta mới thấy cái thâm ư của Nguyễn Trường Tộ: Không thấy Thượng Đế là Chúa tể cai trị các nước... mà Giáo Hoàng là đại diện cho Thượng Đế. Vậy Giáo Hoàng có quyền cai trị các nước! Và Vua đảm đang công việc giúp Thượng Đế... mà Giáo Hoàng là đại diện cho Thượng Đế. Như vậy, vua chỉ là người giúp việc cho Giáo Hoàng mà thôi! Thế th́ Giáo Hoàng có thể cách chức vua bất cứ lúc nào! Con người "thông thái" như Nguyễn Trường Tộ tŕnh bày có khác!

 

Đoạn văn trên Nguyễn Trường Tộ cũng rập khuôn theo mấy cố đạo người Tây để nói rằng Thượng đế độ lượng. Trong Di Thảo Lục Lợi Từ ở phần trước mục số 5 (tr. 72-73) Nguyễn Trường Tộ cũng nói rằng Tạo Vật yêu người, Tạo Vật quí trọng sự sống, Tạo Vật nhân ái... nhưng thực tế đó là một ông thần (God) rất dă man qua đoạn trích trong Thánh Kinh dưới đây:

 

Dân Số Kư (Numbers) là một trong năm cuốn Kinh Cựu Ước của Gia Tô Giáo, Chương 31, đoạn 1 đến đoạn 46 cho ta những chi tiết như sau:

 

Đức Chúa Trời bảo ông Môi-Se rằng Hăy báo thù dân Do Thái, thuộc giống Mi-đi-an rồi người sẽ được về làm dân nước Chúa (31:1-2). V́ vậy ông Môi-Se truyền cho dân rằng: Các ngươi hăy sắm sửa binh khí mà ra trận hăm đánh dân Mi-đi-an để báo thù cho đức Chúa Trời (31:3). Vậy, chúng giao chiến cùng dân Mi-đi-an, như đức Chúa Trời đă bảo ông Môi-se và giết hết thảy đàn ông (31:7). Dân Y-sơ-ra-ên bắt đàn bà và con nít Mi-đi-an dẫn theo. Cướp hết thảy súc vật, bầy chiên và của cải họ (31:9), đốt hết thành, nhà ở, và quê hương chúng nó (31:9) cũng lấy đem theo hết thảy của đoạt được, bất kỳ người hay vật (31:11). Bây giờ hăy giết hết thảy các người đàn ông trong đám trẻ con và giết những người đàn bà nào mất trinh (31:17), nhưng các cô gái c̣n trinh th́ để lại làm quà cho các giáo sĩ và binh lính (31:18).

 

Ông Môi-se và E-lê-a-sa, thầy ḍng, làm y như lời đức Chúa Trời dạy bảo (31:31). Tài sản cướp được là 675 ngàn con chiên cái, 72 ngàn con ḅ, 61 ngàn con lừa đực (31:34) và 32 ngàn cô gái c̣n trinh (31:35). Số 675 ngàn con chiên cái nói trên chia cho các binh lính 50% c̣n đức Chúa Trời 50% (31:35-36)...16 ngàn cô gái c̣n trinh chia cho binh lính, 32 cô dâng cho đức Chúa Trời (31:40). Môi-se và E-lê-a-ra lấy vật cướp được và cô gái c̣n trinh bắt được dâng cho đức Chúa Trời, y như đức Chúa Trời đă phán dặn cùng Môi-se. (31:41).

 

Chính Chúa Trời chứ không phải ai khác đă trực tiếp ra lệnh phải cướp của, giết người, cưỡng dâm. Rồi chính đức Chúa Trời cũng đ̣i thụ hưởng gái trinh nữa! Thế mà Nguyễn Trường Tộ nói Chúa Tạo Vật, Thượng đế độ lượng, thương yêu, nhân ái...

 

Sau đây là nguyên văn Anh ngữ để quí độc giả đối chiếu:

 

(Kinh Cựu Ước, cuốn Numbers, chapter 31, từ đoạn 2, 3, 7 - 41):

 

And the Lord spake unto Moses, saying, 2 Avenge the children of Israel of the Mid'i-an-ites: afterward shalt thou be gathered unto the people.

 

3 And Moses spake unto the people, saying, Arm some of yourselves unto the war, and let them go against the Mid'i-an-ites, and avenge the Lord of Mid'i-an.

 

................

 

7 And they warred against the Midi-an-ites, as the Lord commanded Moses; and they slew all the males.

 

................

 

9 And the children of Israel took all the women of Mid'i-an captives, and their little ones, and took the spoil of all their cattle, and all their flocks, and all their good.

 

10 And they burnt all their cities wherein they dwelt, and all their goodly castles, with fire.

 

11 And they took all the spoil, and all the prey, both of men and of beasts.

 

..............

 

17 Now therefore kill every male among the little ones, and kill every woman that hath known man by lying with him.

 

18 But all the women children, that have not known a man by lying with him, keep alive for yourselves.

 

.................

 

31 And Moses and E-le-a'zar the priest did as the Lord commanded Moses.

 

32 And the booty, being the rest of the prey which the men of war had caught, was six hundred thousand and seventy thousand and five thousand sheep.

 

33 And threescore and twelve thousand beeves.

 

34 And threescore and one thousand asses.

 

35 And thirty and two thousand persons in all, of women that had not known man by lying with him.

 

36 And the half, which was the portion of them that went out to was, was in number tree hundred thousand and seven and thirty thousand and five hundred sheep:

 

..................

 

40 And the persons were sixteen thousand; of which Lord's tribute was thirty and two persons.

 

41 And Moses gave the tribute, which was the Lord's heave offering, unto E-le-a'zar the priest, as the Lord commanded Moses.

 

Chúng ta có thể thông cảm ông Nguyễn Trường Tộ về thuyết vũ trụ và sinh vật mà khoa học mới khám phá sau nầy. Nhưng ở thời đại của ông (1830-1871) ít nhất là đă có ba cuốn sách nổi tiếng viết về vũ trụ, về Thượng Đế và Kinh Thánh, và về sự tiến hóa của sinh vật. Đó là cuốn Dictionnaire Philosophique (1764) của Voltaire; cuốn The Age of Reason của Thomas Paine (1737-1809) và cuốn The Origin of Species (1859) của Darwin.

 

Nguyễn Trường Tộ tự khoe: Về việc học cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lư, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ? không môn nào tôi không khảo cứu (Di Thảo số 3. TBC, SĐD, trang 120). Nếu việc học quả t́nh được như vậy, th́ ông Nguyễn Trường Tộ nên đọc Kinh Thánh và đọc ba cuốn sách vừa kể trên để khỏi bị mấy giáo sĩ Pháp lừa gạt và không nên tin những điều sai lầm.

 

Với những lư sự cuồng tín về tôn giáo, hiểu sai vai tṛ và sự có thật của tạo vật, của Thượng Đế, Nguyễn Trường Tộ lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài Trần T́nh về Giáo Môn Luận nầy và rải rác hầu hết 58 bài Trần T́nh của ông, đă làm cho ông có một cái nh́n sai lầm về lịch sử và cổ xúy cho việc hợp tác với thực dân Pháp và Vatican mà tôi đă chứng minh và sẽ chứng minh đó là giải pháp rất tai hại.

 

Trong Giáo Môn Luận, Nguyễn Trường Tộ viết tiếp:

 

2.- Xét ra đạo Công Giáo vào nước ta từ thời Lê. Trước tiên các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lăo, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đăi nhau, năng lui tới với nhau không có ǵ hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm th́ mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào ṿng h́nh phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục nếu ngừng th́ chốc lát sẽ trong trở lại". Bản Điều Trần số 2 Giáo Môn Luận. ( TBC, SĐD, trang 116).

 

Đoạn trên Nguyễn Trường Tộ cho rằng v́ lệnh cấm đạo nên mới sinh ra ghen ghét, kỳ thị, tội lệ, giáo dân bị lưu đày và bị h́nh phạt, là những ư tưởng rất sai lầm và chắc chắn nếu ai có ḷng yêu Tổ Quốc th́ cũng không thể chịu được các kế hoạch thực dân xâm lược của các ông cố đạo sau đây:

 

2.1.- Linh mục Legrand De La Liraye viết:

 

Theo thần, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh tại nước đó. Cần phải chấp nhận chiến tranh như là cách tốt nhất, phải đánh gấp ở Bắc Kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng lúc, nếu được th́ lật đổ chính phủ, bàn chuyện giải phóng cho hai dân tộc thua trận ở Cochinchine và đặt lên ngôi ở Bắc bộ một kẻ giả danh là con cháu nhà Lê.

 

Nguyên văn tiếng Pháp:

 

La guerre suivant moi est le seul moyen d'arriver avec ce pays à un résultat serieux. Il faut l'accepter comme ce qu'il y a de mieux, la faire avec promptitude au Tonkin, à Huế et Tourane à la fois, renverser s'il y a moyen le gouvernement, parler de l'emancipation des deux peuples vaincus en Cochinchine et du placement sur les trône d'un pretendant de la famille des Lê au Tonkin. (CHT, SĐD, trang 72).

 

2.2.- Giám mục Retort (viết thư cho M. Kleckowski):

 

Nước Pháp cần phải làm cái ǵ lớn lao quan trọng lâu dài, xứng với nó và Hoàng Đế của nó. Nếu nước Pháp chinh phục xứ nầy (có lẽ việc nầy không khó) và cai trị trực tiếp, người dân Bắc Kỳ sẽ bằng ḷng, nhưng họ thích sống dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của Pháp với một ông vua riêng. (Đưa ra ảo tưởng để thuyết phục triều đ́nh Pháp, BK).

 

Nguyên văn tiếng Pháp:

 

La pensée de Mgr. Retort était plus nette encore; Il faut, déclarait-il, que la France fasse quelque chose de grand, d'important, de durable et digne d'elle et de son Empereur. Si la France faisait la conquête de ce pays (et cela ne lui serait pas difficile) et le gouvernait directement, les Tonkinois en seraient assez contents, mais ils aimeraient mieux être sous la protection et l'influence de la France avec un roi particulier de leur nation. (Lettre de Mgr. Retord à M. Kleckowski précitée: Thư giám mục Retord gởi Kleckowsky trong công văn 12-10-1857 của Đô đốc Rigault de Genouilly. Thư khố quốc gia, tài sản Hải Quân BB4 752, CHT, SĐD, trang 80).

 

2.3.- Linh Mục Huc: Nên chiếm cả nước Việt Nam. Ông tŕnh bày trước Ủy ban Nam Kỳ:

 

Có một gia đ́nh cho rằng ḿnh thuộc ḍng vua chính thống và có lẽ chúng ta có thể xử dụng nó để lật đổ triều đ́nh hiện nay... Ngay từ đầu, nên lập chế độ bảo hộ mà giữ nước của vua nầy lại nghiên cứu tổ chức trong nước giống với tổ chức của chúng ta và cuối cùng sẽ tuyên bố chúng ta là chủ của xứ đó".

 

Nguyên văn tiếng Pháp:

 

Une famille qui prétend être la branche royale légitime et qu'on pourrait peut-être s'en servir pour renverser la dynastie actuelle...; il faudrait dès le principe établir le Protectorat en gardant la personne du Roi, étudier l'organisation du pays qui ressemble beaucoup à la nôtre et arriver enfin à nous déclarer maitres du pays. (Réponse du Père Huc, Procès-verbal, 5è séance, commission de Cochinchine, CHT, SĐD, trang 81, Linh mục Huc trả lời, biên bản phiên họp thứ 5, Ủy ban Nam Kỳ).

 

2.4.- Giám mục Pellerin:

 

Việc lập một hiệp ước có chữ kư của vua, việc có mặt của một lănh sự, việc mở các cảng, việc xuất hiện của Hải quân bảo đảm được trong một thời gian mọi quyền lợi của chúng ta, nhưng một sự chiếm đóng hay một nền bảo hộ th́ tốt hơn nhiều.

 

Nguyên văn tiếng Pháp:

 

La conclusion d'un traité signé par le roi, la présence d'un consul, l'ouverture des ports, l'apparition des forces navales garantiraient pour un temps tous nos intérêts mais une occupation ou un protectorat serait de beaucoup préférable. (Géséance, Commission de Cochinchine, CHT. SĐD, trang 81).

 

Những trích dẫn trên cho chúng ta thấy từ thời chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, giáo sĩ Ḍng Tên A. de Rhodes đă vận động chính phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam. Về sau nầy, trước lúc Pháp đánh chiếm Đà Nẵng 1858, các Giám mục, Linh mục Pháp như Pellerin, Legrand, Retort, Huc đă tŕnh bày với triều đ́nh Pháp và với Ủy Ban Nam Kỳ (Commission de Cochinchine) để chiếm Việt Nam. Vậy mà nhà "thông thái" Nguyễn Trường Tộ lại nhận định quá sai lầm trong bài Giáo Môn Luận.

 

Để cho vấn đề được vô tư, rơ ràng và chính xác hơn, tại sao triều đ́nh nhà Nguyễn cấm đạo Gia Tô La Mă, tôi xin trích dẫn ư kiến của Đô đốc Page trong văn thư đề ngày 14-12-1859 và 25-12-1859 sau đây:

 

Sau khi đi khắp nước thấy nhiều, nghe nhiều cuối cùng Đô đốc Page công nhận lư lẽ vững chắc của triều đ́nh Huế, chính ông cũng bực ḿnh về thái độ của các nhà truyền đạo và con chiên của họ:

 

Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân th́ 3000 tín đồ Gia Tô đi theo Pháp và xin được đưa vô Saig̣n là nơi mà Page đă dựng lên một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao? khi hôm sau các nhà truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Sao! Họ cũng không muốn có cảnh sát để chận đứng trộm cướp du đảng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Hội Gia Tô tại An Nam đă ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lư đó: Ngoài ra không người Việt Nam theo Gia Tô nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài đă hiểu tại sao vua, quan đă coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?.

 

Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng, cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ chứ trách ǵ các vua quan triều Nguyễn.

 

Nguyên Văn tiếng Pháp:

 

Après avoir beaucoup parcouru le pays, beacoup regardé, beaucoup écouté, l'amiral Page finit par reconnaitre le bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été choqué par l'attitude des missionnaires et de leurs chrétiens.

 

En effet, tandis que la population fuyait avec épouvante à l'approche des troupes francaises et que des milices armées s'organisaient là où il y avait un centre de population, 3.000 catholiques se rallièrent aux Francais et demandèrent à être ramenés à Saigon où Page avait crée une municipalité. “Quelle a été ma surprise? Lorsque le lendemain les missionnaires sont venus me déclarer que les chrétiens annamites ne pouvaient pas obéir à une autorité payenne, c'est leur mot. Quoi! Pas même pour la police municipale? Pour empêcher les voleur, les vagabonds de mettre la ville au pillage? Et je suis confus d'avouer à Votre Excellence que ces principes sont professés hautement par les associations annamites catholiques... “Du reste, pas un Vietnamien catholique n'hésita à demander à s'enriler comme soldat sous le draupeau francais. Le roi payen du Vietnam n'était point leur roi. “Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis? (Dépêche de l'amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds, Marine BB4 777. CHT, trang 128 & 129).

 

Tôi dẫn chứng hơi dài ḍng về các hành động t́nh báo và chính trị mà các linh mục, giám mục ngay cả và các Giáo Hoàng La Mă, để thấy rơ sự sai lầm và nguy hiểm của Nguyễn Trường Tộ lúc Bàn Về Tự Do Tôn Giáo, và khuyên triều đ́nh nên "Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân" cũng như bài "Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp".

 

Dưới đây là sẽ tŕnh bày một bản Điều Trần khác cũng thuộc về lănh vực tôn giáo.

 

 

 

Chương 2

DÙNG GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀO VIỆC CANH TÂN,

viết vào tháng 8-1866.

 

Trong bản Di Thảo số 17 nêu trên, Nguyễn Trường Tộ lại c̣n táo bạo hơn lúc đề nghị nên dùng giám mục linh mục vào việc canh tân, và qua đề nghị nầy, chúng ta càng thấy rơ hơn cái tư tưởng trọng đạo hơn quê hương của ông.

 

Nguyễn Trường Tộ viết:

 

Nay giám mục lên Kinh đô, những điều trước đây tôi đă bẩm điều ǵ hoăn điều ǵ gấp giám mục có thể tŕnh bày rơ được. C̣n việc sắp đặt và sai phái như thế nào sẽ do triều đ́nh quyết định.

 

Trước đây giám mục đă từng bàn bạc với tôi rằng nếu triều đ́nh muốn lần lượt canh cải để làm theo các phương pháp mới th́ người rất vui mừng ủng hộ. Chỉ v́ nay ta chưa có người. Nếu thật tâm tin nhau khẩn khoản yêu cầu, giám mục sẽ đưa các linh mục và đạo đồ, một số có khả năng am hiểu tiếng Tây, học qua một vài phương pháp của phương Tây như Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu chẳng hạn sang Tây trước, học gấp các kỹ thuật mới mỗi thứ một năm rồi về sớm giúp vào việc áp dụng thi hành. Bởi v́ bọn họ học sơ qua gấp rút trong một năm vẫn c̣n kết quả hơn là triều đ́nh mở trường mời người Tây đến dạy học trong mười năm. Đó là những điều giám mục nói riêng với tôi như vậy. Về phần tôi, tôi chỉ dùng lời khéo léo dẫn dụ giám mục và các người ấy để họ vui vẻ cầu tiến mà thôi, chứ tôi không có quyền sai sử. Nếu triều đ́nh muốn gấp rút thực hành để tạm thời ứng dụng th́ chỉ nên bắt đầu một hai người và trong khi thương nghị cùng giám mục nên nêu rơ tên những người triều đ́nh muốn khẩn phái sang Tây học tập giám mục sẽ không từ chối được. Nhưng không nên nói cho giám mục biết đó là những điều tôi đă góp ư trước với triều đ́nh. (Dẫn theo TBC, SĐD trang 188).

 

Một cách tổng quát, qua các sử liệu đă dẫn ở trên, chúng ta thấy từ con chiên đến Linh mục, Giám mục như Pellerin, Retort, Gauthier, Húc... và ngay cả các Giáo Hoàng là những người rất nguy hiểm cho vận mạng quốc gia Việt Nam, nên không thể nhờ và dùng vào việc canh tân được. Tuy vậy để được công bằng, chúng ta nên t́m hiểu lư lịch các linh mục mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị trong đoạn văn nói trên.

 

a. Sơ lược về các Linh mục và Giám mục mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị vào việc canh tân.

 

Chúng ta có các chi tiết sau đây:

 

1.- Theo bài viết Nguyễn Trường Tộ Học Ở Đâu của nhà học giả Đào Duy Anh trong tạp chí Tri Tân, số 7 năm 1941, trang 167 cho chúng ta biết chi tiết về Nguyễn Trường Tộ và Linh mục Nguyễn Hoằng như sau:

 

Nguyễn Trường Tộ học rộng nhưng viết và nói tiếng Pháp không thạo lắm, v́ ông không chuyên học chữ Pháp ở Pê Năng (Trường huấn luyện thông ngôn ở Mă Lai, BK) như các ông Trương Vĩnh Kư và Nguyễn Hoằng. Bởi thế ông không khi nào làm thông ngôn. Mà khi giúp việc cho súy-phủ th́ chỉ làm việc từ-hàn (Lettré) cũng như Tôn Thọ Tường. Mỗi khi triều đ́nh cần dùng người thông ngôn th́ Nguyễn Trường Tộ cứ giới thiệu Nguyễn Hoằng (Linh mục Hoằng) chứ tự ḿnh không khi nào đương việc ấy.

 

2.- Về những người làm thông ngôn như Nguyễn Hoằng, những viên thư kư, như Nguyễn Trường Tộ, nhà sử học Cultru đánh giá họ như thế nào? Xin xem lại phần 2. Dưới đây tôi chỉ tóm lược:

 

Về sau, Đề đốc Rieunier nói: "Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thủ du thực.

 

Đại tá Bernard cũng viết bọn lang bạt bị trục xuất khỏi làng v́ đói rét, hoặc v́ tội phạm xô về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ ham sống sợ chết, họ hoàn toàn hờ hững với cuộc đấu tranh của dân tộc họ, phụng sự bất cứ những ông chủ nào...

 

Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân viên hành chánh cần thiết cho địa phương hoặc những người giúp việc gia đ́nh: làm đày tớ, khuân vác, chạy giấy, và có những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép, được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của hội Truyền giáo, chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn nầy mà quân đội thực dân mới đổ bộ lên làm quen với người Việt Nam.

 

Qua ba sử liệu vừa trích dẫn trên cho thấy chính Đề đốc và đại tá người Pháp cũng đánh giá người Việt Nam theo Gia Tô lúc bấy giờ, những người thông ngôn, phiên dịch, ghi chép là những kẻ khốn nạn...; "Lưng mềm, dễ uốn, ham sống, sợ chết, phụng sự bất cứ những ông chủ nào....

 

3.- C̣n Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều là những tên gián điệp mà tôi đă đưa ra nhiều dẫn chứng ở phần trước nhất là từ các trang 118 đến 135. Sau đây là một số dẫn chứng khác cho thấy cả thầy lẫn tṛ của Gauthier nói trên là những thành phần nào?

 

3.1.- Theo Sự Tích Ông Nguyễn Trường Tộ th́ năm 1858, Giám mục Gauthier có đem theo vào Đà Nẵng cụ Khang, cụ Điều (người An Phú), cụ Huấn (người Trung Hậu), khi ấy cả ba ông chưa thụ chức thầy cả. (TBC, SĐD, phần chú thích, trang 190).

 

Sau nầy chúng ta chỉ thấy Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Joannes. Vị cùng đi Pháp với Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ (1867-1868). (TBC, SĐD, trang, 90).

 

Gauthier dẫn mấy ông nầy vào để đón giặc Pháp chiếm Đà nẵng năm 1858 mà chúng ta được biết rơ thêm như sau:

 

3.2.- "Theo lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại th́ ngày 10 tháng 9 (tức 16-10-1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhăn Sơn, trước cửa Mành Sơn, để đón "Đức Thầy Huy và Cố Lư" (tức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và Ḥa) nhưng "hôm qua hai vị đă lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi". Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà nẵng, th́ thấy thuyền Nhà Chung đă ở đó rồi." (Xem Châu bản Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám mục Pellerin, đă cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài G̣n. Do đó, trước khi đem quân vào Sài G̣n, Đô đốc Rigault de Genouilly đă t́m cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đă đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859" (TBC, SĐD, trang 22).

 

Qua hai đoạn văn trên mà tôi đă trích lại của Linh mục Trương Bá Cần, Tiến Sĩ Sử Học Pháp, chúng ta thấy Giám mục Gauthier, Giám mục Croc, Linh mục Nguyễn Hoằng, Linh mục Nguyễn Điều và Nguyễn Trường Tộ... tổng cọng là 8 người đă có mặt tại Đà nẵng để chào mừng quân viễn chinh xâm lăng Pháp chứ không thể có hành động nào khác như đi truyền đạo hay du lịch! Đoạn văn thứ hai trên c̣n cho biết các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà nẵng, đứng đầu là Giám mục Pellerin (là người được Giáo Hoàng Pie IX tán thành cuộc vận động để Pháp chiếm Việt Nam, BK, xin xem phần trước), đă cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm..". Đô Đốc R. de Genouilly không đồng ư v́ thấy đó là vấn đề nguy hiểm nên đă t́m cách bắt buộc các giáo sĩ, Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đă đi sang Hồng Kông... đầu năm 1859.

 

3.3.- Linh mục Trương Bá Cần cho biết thêm:

 

"Hơn nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp th́ sớm nhất là giữa năm 1859 (14) mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng Kông đầu năm 1861 để cùng với Giám Mục Gauthier trở về Sài G̣n, theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài g̣n. (TBC, SĐD, trang 22).

 

Nối kết ba đoạn vừa dẫn trên, theo thứ tự thời gian chúng ta thấy, hai Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đ́nh dùng vào việc canh tân th́ tất cả hai ông đều đă có mặt trong đám linh mục Pháp mà đứng đầu là Giám mục Pellerin áp lực để quân Pháp đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. C̣n Nguyễn Trường Tộ th́ có mặt trong đám giáo sĩ gián điệp và thực dân hai lần. Lần đầu là tại Đà Nẵng 1858, bị Đô Đốc Genouilly bắt buộc đi Hồng Kông cùng với thầy ḿnh là Gauthier. Lần thứ hai, 1861 cùng với Giám mục t́nh báo Gauthier trở về Sài G̣n theo yêu cầu của Đô Đốc Charner...để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài G̣n...

 

Qua đó chúng ta đă thấy rơ, Nguyễn Trường Tộ có mặt giữa đoàn quân xâm lăng Pháp trong hai biến cố trọng đại: chiếm Đà nẵng năm 1858 và mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài G̣n năm 1861. Lịch sử đă không cho thấy Linh mục Hoằng, Linh mục Điều và Nguyễn Trường Tộ có một lời phản đối nào trước hai cuộc xâm lăng của thực dân Pháp nói trên mà chỉ cho thấy họ có mặt trong đoàn quân chiếm đánh nước ta.

 

Để làm sáng rơ thêm các chi tiết như số lính, ngày tháng và kết quả của đoàn quân Charner, trong đó có cả Nguyễn Trường Tộ và Gauthier mà Linh mục Trương Bá Cần nêu trên, sử liệu cho thấy rằng: Lúc kư xong ḥa ước với Trung Quốc ngày 25-10-1860, Phó Đô Đốc Charner lên đường đi Sài G̣n để tăng cường việc chiếm đóng. Ông ta đến đây vào tháng 2-1861 cùng với ba tiểu đoàn bộ binh, 1.200 lính thủy đánh bộ và gần cả một hạm đội mang theo vật dụng cần thiết.

 

Liên tiếp các ngày 25, 26, 27 tháng 2, lực lượng Pháp chiếm Kỳ Ḥa... (CHT, SĐD, bản luận án in bằng Rônéo, trang 133).

 

Nguyên văn tiếng Pháp:

 

La paix signée avec la Chine (25 Octobre 1860), le vice-amiral Charner se mit en route vers Saigon pour renforcer l'occupation. Il arriva en février 1861, suivi de 3 bataillons des troupes de la guerre, douze cents hommes d'infanterie de marine et presque toute l'escadre apportant le matériel nécessaire. Les 25 - 26 - 27 fevrier, les forces Francaises s'emparèrent de Kỳ Ḥa..." (CHT, SĐD,trang 133).

 

(Ghi chú: Charner lúc đó chỉ là phó Đô đốc, Vice-admiral, chứ chưa phải Đô đốc. Có lẽ Linh mục Trương Bá Cần nhầm lẫn).

 

Nếu các vị linh mục nêu trên không thuộc loại người Khốn nạn, cong lưng, chạy theo chủ mới như đại tá Bernard người Pháp nhận định th́ cũng không thể dùng mấy vị nầy vào việc canh tân đất nước được. Không phải ai nói được tiếng Pháp, làm được thông ngôn th́ có thể học được các kỹ thuật mới?. Nghề linh mục th́ có thể canh tân giáo hội, c̣n canh tân đất nước th́ cần đặt lại vấn đề. Hơn nữa bốn vị Linh mục trên được vị Giám mục t́nh báo Gauthier dẫn dắt, cũng làm chúng ta vô cùng lo âu cho cuộc canh tân nếu triều đ́nh dùng đến họ. Ngay cả Nguyễn Trường Tộ đi sát với một vị giám mục t́nh báo trong một bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, và có mặt ít nhất là hai lần trong đoàn quân xâm lăng nước ta, và theo đám giáo sĩ gián điệp nước ngoài có cho phép chúng ta nghi ngờ Nguyễn Trường Tộ là một người Việt gian hay không? Và Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều đă đến Đà Nẵng đón rước quân xâm lược Pháp. Vậy họ chỉ được dùng vào việc canh tân cho sách lược của Pháp để dễ đồng hóa dân tộc Việt Nam ta mà thôi.

 

Sử liệu cũng cho thấy, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, năm 1871, ư kiến đề nghị "Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân" đă có phần "kết quả" như sau:

 

"...Sau khi Hàm Nghi lên ngôi đi kháng chiến, Chánh Mông sang ṭa khâm sứ Pháp xin De Courcy để tên đại tướng giặc thương t́nh cho hai đội lính Pháp hộ tống sang thành nội làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế, đặt ra niên hiệu Đồng Khánh th́ ông vua bù nh́n nầy được sự cố vấn của Trương Vĩnh Kư và Linh mục Nguyễn Hoằøng (Chức Ngự Tiền Hành Nhân) hợp cùng tay sai đắc lực Pháp như Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm... ra sức dùng mồi danh lợi kêu gọi nghĩa quân..."(Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam , trang 340). Cùng trang 340 sách nầy, tác giả Nguyễn Sinh Duy, chú thích thêm:

 

"C̣n Nguyễn Hoàng (có chỗ chép Hoằng), sinh 1839, người Hà Tĩnh, theo đạo Thiên Chúa, từng du học ở chủng viện Pénang, Mă Lai. Năm 1876, được cử làm Tham Biện Thương Chính ở Hải Pḥng và Hải Dương, năm 1885, hàm Hường lô tự Khanh kiêm Tham Biện việân Cơ Mật, năm 1886, giữ chức Phụ tế đại thần và Ngự Tiền triều vua Đồng Khánh."

 

Thật là đại họa, triều vua nhà Nguyễn nuôi ong tay áo, nhận giặc làm con. Đến lúc Đồng Khánh được De Courcy cho lên làm vua bù nh́n để dễ sai bảo. Thực dân Pháp đă đưa được ít nhất là hai tên Việt gian là Linh mục Nguyễn Hoằng và Trương Vĩnh Kư giữ chức quan trọng trong triều vua tay sai Đồng Khánh. Trương Vĩnh Kư là một giáo sĩ Gia Tô tu xuất và đă viết thư tay yêu cầu chính phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam. Xin xem cuốn "Ki Tô Giáo, Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại" như đă dẫn chứng ở đoạn truớc. Nguyễn Trường Tộ đề nghị dùng giám mục linh mục "canh tân" kiểu nầy th́ thật là hoàn toàn đúng ư và đúng kế hoạch của Giám mục Puginier và Gauthier: nhanh chóng biến "Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ" dĩ nhiên, sau đó là đến lượt Trung Kỳ và Nam Kỳ.

 

Muốn rơ thêm một linh mục, giám mục có thể dùng để canh tân xứ sở hay không, chúng ta nên biết qua cái bổn phận mà họ được đào tạo từ xưa đến nay.

 

b. Nhiệm vụ của một linh mục giám mục:

 

Để vấn đề được chính xác hơn, chúng ta nên nghe lời phát biểu của Linh mục Trịnh Văn Phát: "Giúp quê hương không phải là bổn phận trực tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với giáo hội v́ tôi là người của giáo hội và được đào tạo để sau nầy, phục vụ cho giáo hội. Có nhiều anh em yêu cầu tôi giúp địa phận, tôi thẳng thắn trả lời là tôi không có tự do lựa chọn, tôi đă được huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu của giáo hội (Tập san Giáo Hoàng Học Viện PIO X Đà Lạt - Liên Lạc, số 2 tháng 7 năm 1995 trang 72. Nhóm Úc Châu thực hiện, dẫn theo Lê Trọng Văn trong tác phẩm Việt Nam những sự kiện lịch sử trong thế kỷ 20", Hoa Kỳ, 1997, trang VIII).

 

Mục đích huấn luyện linh mục là để phục vụ cho giáo hội mà các giáo hội Gia Tô trên toàn cầu lại phải trực tiếp lệ thuộc Vatican, giám mục linh mục không có quyền thoát khỏi sự đặt để và chỉ thị trực tiếp của Giáo Hoàng La Mă. V́ thế, chúng ta không ngạc nhiên lúc Vatican bật đèn th́ các cố đạo ngoại quốc hướng dẫn hoặc toa rập với các phong trào chiếm thuộc địa như chúng ta đă thấy trong bài nầy. Cũng v́ vậy mà ngay cả 70 năm, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, Giám mục Nguyễn Bá Ṭng năm 1940, tại nhà thờ Phát Diệm đă nhận lănh Ngũ Hạng Bắc Đẩu Bội Tinh, do thống tướng Pétain, quốc trưởng Pháp tặng. Trong phần đáp lễ, Giám mục Nguyễn Bá Ṭng nói Tỏ ḷng cảm ơn chính phủ, tỏ ḷng trung thành con dân Việt Nam đối với Mẫu quốc Pháp. (xin xem cuốn Hội Hè Đ́nh Đám của Toan Ánh). Với bổn phận của một giám mục linh mục như thế, nên trong thư viết tay ngày 21-8-1944 Giám mục Ngô Đ́nh Thục (anh của TT. Ngô Đ́nh Diệm) từ ṭa truyền giáo Vĩnh Long gởi cho Đô đốc Jean Decoux chúng ta thấy có đoạn:

 

Với tư cách của một Giám mục, của một người Annam và với tư cách là người con của một gia đ́nh mà thân phụ tôi (tức là Ngô Đ́nh Khả, BK) được phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An Nam, và đă nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đ́nh Phùng chỉ huy tại Nghệ An và Hà Tịnh".

 

Nguyên văn tiếng Pháp:

 

Je la désapprouve au font du coeur, comme évêque, comme Annamite, et comme membre d'une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions menées, comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đ́nh Phùng au (à) Nghệ An et Hà Tịnh. (Xin xem thêm cuốn Hồi Kư "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi". Hoành Linh Đỗ Mậu, Hoa Kỳ 1995, phần phụ lục).

 

Linh mục Hoàng Quỳnh cũng đă từng tuyên bố Thà mất nước không thà mất Chúa.

 

Linh mục giám mục được đào tạo với mục đích để phục vụ Giáo hội (hay phục vụ Vatican cũng thế, BK). C̣n Nguyễn Hoàng và Nguyễn Điều th́ đă cong lưng theo Pháp. Vậy mà Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị triều đ́nh Tự Đức nên dùng giám mục linh mục vào việc canh tân là một hậu ư hết đường phê phán!

 

Đoạn kế tiếp của bản Điều Trần nầy, Nguyễn Trường Tộ viết:

 

Xin giám mục giúp đỡ... nói rơ rằng triều đ́nh muốn giám mục (tức Giám mục gián điệp Gauthier, BK) đến La Mă đạo đạt lên Giáo Hoàng về ư muốn giao hảo. Tôi quả thật bị choáng váng với cái đề nghị tai hại nầy nên không dám bàn thêm sợ thiếu ái ngữ.

 

Cũng như hầu hết những người Việt Nam khác, ḷng tự ái dân tộc, t́nh yêu quê hương nồng nàn, nhưng lúc thấy Giám mục Gauthier, Giám mục Sohier, Giám mục Croc, Linh mục Nguyễn Hoằng, Linh mục Nguyễn Điều và Nguyễn Trường Tộ là những người hoặc có tham dự ít nhiều vào việc mở trường tại Huế, hoặc Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đ́nh nên dùng vào việc canh tân đất nước, th́ chính những người nầy lại có những hành động đón rước, hợp tác, hỗ trợ cho thực dân Pháp xâm lăng quê hương trong bước đầu chiếm Đà nẵng và mở rộng vùng bị chiếm đóng tại Sài G̣n. Nghĩ lại cái cảnh toa rập, "áp lực" và cong lưng ấy, ḷng tôi bị quặn đau, bị se lại và buồn thương cho đất nước, cho triều đ́nh vua Tự Đức không hề biết ǵ về hành động nguy hiểm của các người đó.

 

V́ thế, để tránh thiếu ái ngữ, tôi không dám nhận định thêm một số bài Di Thảo có tính tôn giáo như Di Thảo số 13 Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp, Di Thảo số 48 Thương lượng với Giám Mục Croc.

 

Nhưng đất nước Việt Nam vẫn c̣n có phước, triều đ́nh nhà Nguyễn v́ Ngu muội không chịu áp dụng những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ, c̣n không th́ những con vi trùng trong thịt sư tử đă ăn hết cả thịt lẫn xương của con sư tử từ lâu rồi!

 

Trước khi qua phần tổng luận tôi có một ư kiến nhỏ với Linh mục Trương Bá Cần về danh từ giáo sĩ. Tôi chưa hề nghe ai nói giáo sĩ là nhân sĩ tôn giáo bao giờ. Chỉ được biết danh từ giáo sĩ là chỉ các vị đi tu bên đạo Gia Tô. Và theo Tờ Tŕnh Của Tỉnh Nghệ An ngày 26-4-1870 của Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đản và Trần Nhượng th́ Nguyễn Trường Tọa trước là linh mục (TBC, SĐD, trang 478). Có lẽ, v́ thế mà nhiều người gọi Nguyễn Trường Tộ là giáo sĩ, chứ không phải giáo sĩ là nhân sĩ tôn giáo?

 

Alexandre de Rhodes

 

Linh Mục Alexandre de Rhodes,

 

người đầu tiên vận động Pháp đánh Việt Nam

 

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

TRONG CHIÊU BÀI CANH TÂN

Bùi Kha

http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha01d_NTT.php

 

            bản in           ¿   toàn bộ NTT         10 tháng 1, 2008

PHẦN BỐN -

 

TỔNG LUẬN

Nhận định một số bài Di Thảo quan trọng nhất của Nguyễn Trường Tộ, bằng cách lồng chúng vào trong bối cảnh lịch sử của nước nhà và t́nh h́nh tôn giáo chính trị, kinh tế của thế giới lúc bấy giờ, cho phép chúng ta có được một bức tranh khá chính xác về Nguyễn Trường Tộ:

 

1.- Về Kiến thức và tâm huyết

 

Nguyễn Trường Tộ tự tŕnh bày về kiến thức của ḿnh như sau:

 

“Về việc học không môn nào tôi không để ư tới, cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lư, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là để nghiên cứu về sự thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ” (Di thảo số 3).

 

Nhưng thực tế, tất cả 58 bài Di Thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta hiện có được, Nguyễn Trường Tộ dẫn chứng điển tích hầu như hoàn toàn là của Trung Hoa. Không có bao nhiêu điển tích về Tây Âu, ngoại trừ về “Tân Thế Giới” (Hoa Kỳ), "Năm xứ Ấn Độ", và t́nh h́nh giữa Anh và Pháp..., nhưng lại dẫn sai sự kiện lịch sử có hậu ư mà tôi đă chứng minh trong phần nhận định về bản Di Thảo Lục Lợi Từ. Về Thánh Kinh và sách lược của đạo Gia Tô La Mă th́ Nguyễn Trường Tộ hầu như sai lầm hoàn toàn v́ cuồng tín thiếu trí tuệ, yêu La Mă và làm lợi cho Pháp chứ không phải cho quê hương Việt Nam. Đă thế Nguyễn Trường Tộ c̣n có những câu đả kích nặng nề những người dùng điển cố Trung Hoa như sau:

 

”...Ngày đêm luôn miệng kêu réo những người từ bên Tàu, chết đă mấy ngàn năm, như Tiêu Hà, Hàn Tín! Phải chăng chúng ta ngày nay c̣n mang ơn họ? Phải chăng người thời nay không b́ kịp người thời xưa? Hay muốn kêu cho họ sống lại? Như vậy mà cứ học cho đến bạc tóc, thật là quái gở, không thể nào hiểu nổi!” (Di Thảo số 27, “Tế Cấp Bát Điều”. Nhưng hầu hết trong 58 bản Điều Trần, Nguyễn Trường Tộ lại dùng rất nhiều điển cố Trung Hoa!

 

Ngay cả về vơ bị Nguyễn Trường Tộ cũng không có những sáng kiến nào về cách bày binh bố trận theo lối hiện đại của phương Tây thời bấy giờ, mà toàn là lặp lại những mưu lược trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp, là một cuốn về sách lược binh bị của Trung Hoa cổ, mà hầu như các người cầm quân ai ai cũng đều có đọc qua, ngay cả các học sinh trung học như tôi lúc trước.

 

Sở dĩ Nguyễn Trường Tộ không thể xử dụng một số điển tích Tây Âu v́ tiếng Pháp của Nguyễn Trường Tộ chỉ đủ để làm “từ hàn” tức là thư kư - phiên dịch. Hơn mười năm khắng khít với thầy của ḿnh là Giám mục t́nh báo Gauthier, không biết Nguyễn Trường Tộ có biết thầy ḿnh là t́nh báo hay không? Nếu không th́ Nguyễn Trường Tộ là một người quá ngây thơ thiếu trí tuệ. Nếu biết mà vẫn theo không chịu tố cáo th́ Nguyễn Trường Tộ là người đồng lơa và có tội với đất nước. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai rằng, Nguyễn Trường Tộ biết rất rơ kế hoạch và âm mưu đồng hóa dân tộc Việt Nam của thầy ḿnh (Giám mục Gauthier) v́, hai người khắng khít với nhau, không phải một thời gian ngắn mà suốt hơn 10 năm, ít nhất là từ 1858 đến lúc Nguyễn Trường Tộ chết năm 1871. Đó là chưa nói đến các nghi vấn khác là, Nguyễn Trường Tộ chỉ dạy chữ Hán một thời gian ngắn ở Xă Đoài và được triều đ́nh vua Tự Đức cung cấp tiền bạc lúc nào triều đ́nh sai phái công việc. Các khoản chi tiêu đắt đỏ c̣n lại, như sống ở Hồng Kông, ở Pháp, đi các nước, tiền trị bệnh và nuôi mẹ già... lấy đâu ra? Dĩ nhiên là Giám mục Gauthier giúp, nhưng giúp nhiều như vậy chẳng lẽ không có lợi ích ǵ cho công tác làm gián điệp và chương tŕnh Pháp hóa và Gia Tô hóa nước ta của vị giám mục nầy?

 

Do đó, nếu lời nói đầu của cuốn "Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước" viết rằng: "... một con người, một trí thức đầy tâm huyết đối với dân tộc và đất nước", th́ phải hiểu đây là dân tộc Pháp, nước Pháp và nước La Mă, chứ có lẽ không phải là dân tộc Việt và nước Việt? C̣n đề nghị "mời ông làm thủ tướng hay cố vấn" như nhà văn Thế Uyên th́ kế hoạch đồng hóa của Pháp, của Giám mục Puginier và Gauthier chắc chắn đỡ tốn kém và thành công nhanh chóng!

 

2.- Về sự nghiệp:

 

Nguyễn Trường Tộ xây được hai cái nhà thờ để làm chỗ trú ẩn cho các giáo sĩ t́nh báo, đồng lơa lừa dối triều đ́nh vua Tự Đức trong việc mua máy, mời thầy giáo để mở trường kỹ thuật ở Huế, không có mặt trong hàng ngũ nhân dân Việt Nam để kháng Pháp tại Đà Nẵng, trái lại cùng đi với Giám mục t́nh báo Gauthier với Linh mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và 4 người khác đến Đà nẵng trước giờ Pháp đánh chiếm để chào mừng, và có mặt trong đám giáo sĩ người Pháp mà những người nầy đă “làm áp lực quân đội Pháp đánh Huế cho chóng dứt điểm”. Nhưng bị Đô đốc Genouilly đuổi đi Hồng Kông, v́ Genouilly không đồng ư đánh Huế do áp lực của các giáo sĩ nầy. Trong đám giám mục, linh mục bị đuổi có Nguyễn Trường Tộ.

 

Năm 1861, vâng lời của phó Đô đốc Charner để cùng với Giám mục t́nh báo Gauthier về lại Việt Nam “để mở rộng vùng chiếm đóng tại Sài G̣n”. Nguyễn Trường Tộ được giao phó công việc từ hàn (phiên dịch) cho tổng hành dinh Pháp.

 

Sau khi thôi làm việc thư kư nầy, Nguyễn Trường Tộ làm một công việc trọng đại hơn là tùy theo t́nh h́nh xâm lược của Pháp để viết các bản Điều Trần, lộng giả thành chân, lúc th́ hăm dọa quân dân Việt Nam “ở đâu thuận với họ th́ phúc, chỗ nào trái với họ th́ họa”, lúc th́ đưa ra những đề nghị canh tân không tưởng, hoặc những đề nghị vô cùng tai họa cho quốc gia để có lợi cho Pháp và Vatican, lúc th́ nịnh bợ triều đ́nh để dễ bề "làm việc" như bài "Ngôi Vua Là Quí, Chức Quan Là Trọng", lúc th́ làm như có vẻ yêu tổ quốc và chống Pháp như bài "Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định" viết năm 1871.

 

Thực ra, viết bài nầy là để tránh sự bại lộ và che đậy âm mưu của ḿnh, hoặc để thử ḷng triều đ́nh rồi sau đó thông báo cho Pháp. Chứ nếu Nguyễn Trường Tộ thực ḷng muốn đánh úp Gia Định tại sao không bàn với triều đ́nh vận động và hỗ trợ phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đánh, v́ lúc đó Phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ rất hùng hậu dưới sự thống lănh của Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Trương Công Định v.v... Hơn nữa chúng ta nên nhớ rằng Pháp đă chiếm thêm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ vào năm 1867, và lúc Nguyễn Trường Tộ đề nghị đánh úp Gia Định là 1871, nghĩa là Pháp đă củng cố và tổ chức chặt chẽ bộ máy cai trị của họ toàn bộ sáu tỉnh Nam Kỳ, để chuẩn bị chiếm Bắc Kỳ năm 1873. V́ thế, nếu giả sử việc đánh úp Gia Định được thực hiện th́ phải có một kế hoạch qui mô: dương Đông, kích Tây, dữ đàng trước, đánh úp đằng sau, chận địch viện trợ, cắt đường tiếp tế, cân nhắc lực lượng giữa ta và địch... chứ không thể làm khơi khơi như trẻ em chơi tṛ "trốn t́m": tuyển chọn một nhóm người từ Bắc và Trung vào, lương thực, khí giới và tinh thần không có th́ đánh được ai! Do đó, trong Châu Bản Triều Nguyễn, chúng ta cũng thấy triều đ́nh vua Tự Đức đă nghi ngờ kế hoạch nầy của Nguyễn Trường Tộ, tức là triều đ́nh đă thấy được ông ta một phần nào.

 

3.- Hô hào “canh tân": như chúng ta đă thấy có nhiều đề nghị của Nguyễn Trường Tộ không thế áp dụng được, v́:

 

Thứ nhất, xa vời với thực tế, sai sử liệu và nguy hiểm như trong bài Thiên Hạ Đại Thế Luận, Lục Lợi Từ, Tế Cấp Bát Điều v.v...

 

Thứ hai, hoàn cảnh đất nước không cho phép, quốc gia không có chủ quyền, như vụ mua tàu London bị lừa gạt, vụ tên lái buôn Dupuis ở Bắc Kỳ. Do đó, lúc đề nghị dùng “Hội nước ngoài” để khai thác tài nguyên, chúng ta phải thận trọng, mà bằng chứng hùng hồn là tổ quốc Việt Nam có nhờ Giáo Hoàng La Mă, có nhờ mấy ông cố đạo đem “văn minh” Kitô vào đất nước Việt Nam đâu? Và triều đ́nh Việt Nam đâu có nhờ thực dân Pháp “khai hóa” và đồng hóa dân tộc Việt đâu? Mà họ cũng ngang nhiên xâm lược. Nhiệm vụ hàng đầu của Việt Nam trong giai đoạn Pháp xâm lăng là đánh giặc cứu nước, thiết lập lại chủ quyền là công việc ưu tiên. Nhà cháy không bàn tính phương pháp cứu chữa, mà đi lo kêu người khác đến bàn chuyện “đi buôn”! Đó là chưa nói đến việc dồn hết tâm lực vào việc phụ để quên việc chính là đánh đuổi quân xâm lăng. Do đó, tôi đồng ư với giáo sư Văn Tân lúc nhận định rằng "Nhưng giả sử các đề nghị cải cách (giả sử có giá trị) của Nguyễn Trường Tộ được thi hành, th́ việc đó không những không cứu được nước Việt Nam, mà trái lại chỉ tạo điều kiện làm cho nước Việt Nam chóng mất". (Trích trong bài Nguyễn Trường Tộ Và Những Đề Nghị Cải Cách Của Ông, Văn Tân, Tập San Nghiên Cứu Lịch Sử Hà Nội số 23, tháng 2, 1961, trang 26).

 

Thứ ba, thực ra, Nguyễn Trường Tộ viết những bản Điều Trần theo sách lược “củ cà rốt” và “cục xương” và NÚP BÓNG (dưới chiêu bài) CANH TÂN để làm lợi cho Pháp và Vatican. Mặc dầu một vài bản Điều Trần trông có vẻ thành khẩn và thực tế như "Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh", "không nên cho giám mục biết tôi nói...” nhưng hậu ư của Nguyễn Trường Tộ là cái khác chứ không phải cái đó.

 

Thứ tư, một số đề nghị khác của Nguyễn Trường Tộ, nếu triều đ́nh Tự Đức áp dụng th́ Việt Nam trở thành một cổ ba tṛng:

 

Tṛng thứ nhất, là thỏa hiệp với thực dân Pháp mà tôi đă chứng minh là hoàn toàn sai lầm: mục đích của Nguyễn Trường Tộ là để cho Pháp có th́ giờ “Dưỡng binh súc nhuệ” (chữ của Nguyễn Trường Tộ) để thực hiện kế hoạch tằm ăn dâu.

 

Tṛng thứ hai, là giao hiếu với Giáo Hoàng để cho các Giáo sĩ thực dân như Legrand, Pellerin, Retort, Huc... và các linh mục Việt Nam bản xứ được có đầy đủ “Trị ngoại pháp quyền” để dễ đồng hóa và Gia Tô hóa dân tộc ta, đem tổ quốc dâng hiến cho Pháp và La Mă.

 

Tṛng thứ ba, là đề nghị một số giám mục linh mục t́nh báo và Việt gian vào trong triều đ́nh để dễ dàng đồng hóa biến người Việt Nam trở thành người Pháp và nước Việt Nam trở thành một nước Pháp ở Á Châu.

 

Một con người như thế, tại sao có nhiều người nhầm lẫn? để ca tụng ông bằng những danh từ cao quí như “Nguyễn Trường Tộ nhà cải cách lớn của dân tộc...”

 

Theo tôi, sở dĩ có t́nh trạng đó v́ mấy lư do:

 

Một, thiếu sử liệu để đối chiếu những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ vào t́nh h́nh quốc nội và thế giới lúc bấy giờ.

 

Hai, vài tác giả trích dẫn một số đoạn trong các bài Trần T́nh mà không đọc kỹ toàn bộ bài đó và lồng nó vào trong cái khung của t́nh h́nh thời đại lúc bấy giờ, để biết cái hậu ư của Nguyễn Trường Tộ, nhất là trong bài “Thiên Hạ Đại Thế Luận” , "Lục Lợi Từ" và "Tế Cấp Bát Điều" mà tôi đă phân tích.

 

Ba, bị ám ảnh, v́ từ trước đến giờ ai ai cũng ca tụng cả, “ḿnh” đâu có đủ hoặc có một số sử liệu để tŕnh bày dưới cái nh́n từ những góc độ khác của lịch sử.

 

Bốn, bị thu hồn vào lối hành văn tài t́nh điêu luyện của Nguyễn Trường Tộ như:

 

“Cái ǵ không chứa đựng được hết gọi là lớn, chồng chất thành đống nhiều lớp mà không chống chọi nhau gọi là khéo, nhiều thế lực khác nhau, nhiều tính t́nh khác nhau mà hợp được làm một gọi là giỏi”. (Giáo Môn Luận). TBC, SĐD, trang 116 & 117).

 

Năm, phát xuất từ ḷng yêu Tổ Quốc muốn cho dân giàu nước mạnh và thoát khỏi cái nhục bị đô hộ, nên các tác giả đă không tiếc lời ca ngợi những ai có tinh thần và có chương tŕnh canh tân xứ sở. Thúc đẩy bởi tâm t́nh yêu nước đáng quí đó, nhưng lúc ca tụng Nguyễn Trường Tộ lại thiếu đối chiếu những đề nghị của ông ta với bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, nhất là không phân tích cẩn thận để xem những hư thực và hậu ư của Nguyễn Trường Tộ thập tḥ sau bức màn canh tân là ǵ? V́ thế, việc ca tụng ông ta không những sai lầm từ những cá nhân, mà sai lầm trên tầm cỡ quốc gia qua nhiều thế hệ, trong suốt hơn một trăm ba mươi năm qua. Rất đáng tiếc!. C̣n những người như Linh mục Trương Bá Cần, tôi nghĩ là ông biết rất nhiều về Nguyễn Trường Tộ, v́ thấy có trích dẫn một số tài liệu mật của phái bộ Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp (Missions Etrangères de Paris), nhưng có lẽ v́ t́nh tôn giáo nặng hơn yêu tổ quốc, nên linh mục h́nh như chỉ v́ vô t́nh và sơ hở lúc viết, nên để lộ ra cho chúng ta biết một vài chi tiết nhỏ về Giám mục t́nh báo Gauthier, thực chất ông thầy giáo “trường Kỷ thuật” , các Linh mục Việt gian Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Nguyễn Trường Tộ, mà tôi đă trích dẫn một phần trong đoạn viết về “Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân”.

 

Hy vọng bài viết của tôi đă mở một lối đánh giá khá chính xác về Nguyễn Trường Tộ, lúc đứng trên các góc độ lịch sử thời bấy giờ và căn cứ trên các sử liệu mà hầu hết là các văn thư mật được trao gởi giữa các viên chức Pháp trong các bộ Hải Quân, Bộ Thuộc Địa, Bộ Ngoại Giao và các nhà truyền giáo.

 

Ở dưới cơi âm, ông Nguyễn Trường Tộ có nhận ra rằng thầy ḿnh và các linh mục giám mục người Pháp đều phục vụ cho Tổ Quốc của họ. Họ có thể bị trách và bị lên án về hành động đó nhưng không thể bị khinh. C̣n ông, là người Việt tại sao lại thuộc loại "lưng mềm dễ uốn, chạy theo chủ mới" để bị muôn đời nguyền rủa.

 

Tuy nhiên chúng ta cũng nên hiểu rằng Nguyễn Trường Tộ chỉ là một con lừa giữa rừng beo. Thế lực của "kẻ mạnh" lúc nào cũng muốn đồng hóa các nước yếu. Không phải chỉ có Giám mục Puginier và Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ mà khi thực dân Pháp sắp bại trận tại Điện Biên Phủ th́ Giáo hoàng Pious XII, vận động và đề nghị Hoa Kỳ thả từ 1 đến 6 quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt để tiêu diệt dân tộc ta. Sau đó, tại miền Nam, ngoại bang và Vatican đă bồng Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, hai người theo đạo Gia Tô, lên làm tổng thống của một quốc gia mà tín đồ đạo nầy chỉ chiếm chưa đến 10% dân số.

 

Ngày nay ư đồ đồng hóa ấy vẫn c̣n tiếp tục dưới những h́nh thức tinh vi hơn. Để thấy rơ điều đó, tôi xin trích dẫn sáu kế hoạch mà tác giả Hồng Ngọc đă tế nhị khéo léo tŕnh bày một cách bóng bẩy nhưng đúng đắn về sách lược của tôn giáo Tây Phương tại Việt Nam như sau:

 

a.- Ném đá dấu tay, xúi dục kẻ khác chống Cọng để tạo mâu thuẫn, mà tiếc thay nhiều người bị trúng kế, dọn cỗ cho họ xơi.

 

b.- Dùng phương tiện ngoại giao cấp cao làm giảm thiểu căng thẳng giữa đôi bên để bành trướng.

 

c.- Đút lót, hối lộ các cơ quan công quyền để phát triển.

 

d.- Đưa một số khoa bảng giúp việc cho các cơ quan nhưng thực chất là để lấy tin và làm nội gián.

 

e.- Tạo điều kiện, giúp phương tiện du học cho một số thành phần trẻ "Con ông cháu cha" để trồng người, đợi chờ cơ hội chính trị lúc thời cơ đến.

 

g. Thay đổi niềm tin người sắc tộc để lập các quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn.

 

(Hồng Ngọc "Những Đại Pháp Nạn Của Phật Giáo Việt Nam" trong cuốn "Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới" tập I. Giao Điểm, 1996, trang 113, 114).

 

Do đó, nghiên cứu để đánh giá các biến cố và sự kiện lịch sử, sẽ giúp chúng ta và các thế hệ mai sau học được bài học "Ôn Cố Tri Tân".

 

Mong ước cuối của tôi, nhân viết về Nguyễn Trường Tộ là, đề nghị các sử gia chuyên về lịch sử Việt Nam, trong thời Pháp thuộc và Viện Sử Học Việt Nam, nên có một chương tŕnh và kế hoạch sưu tầm các tài liệu mật tại các Thư Khố Pháp và tại Bộ Truyền Giáo Hải Ngoại Paris, để có một sự đánh giá xác đáng về các nhân vật lịch sử thời bấy giờ trong đó có Nguyễn Trường Tộ. C̣n bài viết của tôi cũng c̣n hạn hẹp cần bổ túc rất nhiều, ước mong được các bậc cao minh chỉ giáo.

 

California, ngày 1-30-1998

 

Bùi Kha

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Bảo Tàng Lịch Sử

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten