Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

PHÁP NGỮ TRONG SÁCH “CON GÁI CỦA SÔNG HƯƠNG”

CỦA DƯƠNG NHƯ NGUYỆN

 

Kim Thanh

 

Bài này tôi đă không tính viết, v́ thấy không đáng để bỏ nhiều th́ giờ. Nhưng một người bạn đă hỏi tôi về những lỗi Pháp văn “quả tang” mà anh bắt gặp trong Cô Gái Của Sông Hương1. Tôi đă trả lời riêng cho anh, và v́ những lỗi ấy khá nhiều, anh đề nghị và cố gắng thuyết phục tôi viết thành một bài để đăng báo. Trước là, anh nói, để góp thêm tài liệu, trên lănh vực chuyên môn, về giá trị của quyển sách, sau là để những độc giả trẻ tuổi được hiểu rằng Pháp ngữ chính thống không phải như thế, nghĩa là như nhân vật Simone đă nói, đă viết. Một lư do nữa, theo anh: nhân vật –hay tác giả cũng vậy– đă tỏ ra khoe khoang về cá nhân, gia đ́nh, và cái nền văn học thu nhặt được của Pháp (ví dụ, đă học trường Marie Curie Sài G̣n, trong gia đ́nh nói tiếng Pháp với cha mẹ, ngụ tại Saint-Germain-des-Prés lúc mười bốn tuổi trong nhà của một cậu tây Paris, lúc nhỏ nghe lóm người lớn nói chuyện bằng ba ngôn ngữ Pháp, Anh, Việt, lớn lên làm thơ, vẽ tranh, hát nhạc opéra, thích la haute couture và qua suốt tác phẩm ưa xổ tiếng Pháp một cách không cần thiết) làm người đọc nhíu mày, nhưng ông văn sĩ Nguyễn Xuân Hoàng, bạn và đồng hương Nha Trang của tôi, và nhà xuất bản Ravensyard không thấy nên nhắm mắt ca tác phẩm và tác giả không tiếc lời. Đó là chưa nói đến những sai trái linh tinh đầy dẫy khác2.

 

Thực ra, anh bạn ưa thắc mắc của tôi, tuy không chủ tâm phê b́nh tŕnh độ Pháp văn trong nguyên tác Anh ngữ, Daughters of the River Huong, và một tác phẩm khác của tác giả Dương Như Nguyện, Chín Chữ Của Nàng –cả hai tôi đều không được đọc– cũng đă nêu lên, và sửa lại vài lỗi sơ đẳng mà tác giả nếu không v́ cẩu thả hoặc khinh thường độc giả đă có thể dễ dàng tránh khỏi. Trong CGCSH, hầu như chữ hoặc câu Pháp văn nào của Simone cũng đều sai hay không chuẩn, hoặc về chính tả, ngữ vựng, văn phạm, hoặc dịch thuật, v.v… một cách không thể ngờ đối với một nhân vật luôn tự hào là trong gia đ́nh “không ai [...] phủ nhận là Paris và ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp có giá trị giáo dục rất cao.” (CGCSH, 225).

 

1. Chính tả (Orthographe):

 

- Escapin (159, 249): tức escarpin, giày hở cổ chân, đế mỏng.

 

- Au claire de La Lune (161, 175, 183): clair nếu là danh từ (= ánh sáng) không có e, La Lune viết chữ thường và tùy trường hợp có hay không article la. Sửa cho đúng: Au clair de (la) lune (tiếng Anh moonlight). Về nhạc, có Clair de lune của Debussy, và Moonlight,Sonata, OP27của Beethoven. Trong các bài hát dân gian Pháp, có Au clair de la lune… mon ami Pierrot3.

 

- La Valse de Venice (161), Carnivale de Venice (183): Venice, tiếng Anh, Venise mới là chữ Pháp. Pháp không có carnivale, mà chỉ carnaval, Anh ngữ cũng không có carnivale, mà carnival.

 

- Jeanne D’Arc (161): D’ phải viết chữ thường: Jeanne d’Arc.

 

- Flanc (164): Nhân vật muốn nói bánh flan, không phải xương sườn (flanc).

 

- Gateaux au rum (171), petit beurre (171, 231, 284): Rượu rum là tiếng Anh, tiếng Pháp phải là rhum. Bánh gâteaux có dấu mũ (accent circonflexe).Bánh petit-beurre có gạch nối (trait d’union).

 

- Resemble (174): động từ ressembler (giống) có hai s.

 

- Nouveau riche (179): trong mạch văn (contexte) phải ở pluriel (số nhiều): les nouveaux riches (những kẻ mới giàu).

 

- Qu’est ce que (181): Phải có gạch nối: Qu’est-ce que…

 

- Pole Nord (194): tên một tiệm kem ở Sài G̣n trước kia. Pôle có dấu mũ.

 

- Champs Elysées (195, 258), Champs Elyseés (229), Champs d’Elysée (308): bốn lần đều viết sai để chỉ nói một chữ: Champs-Élysées4 (duy nhất đúng).

 

- Rimbaux, Appollinaire (207): Hai thi sĩ Rimbaud và Apollinaire sắp kiện tác giả về tội dám sửa tên của họ.

 

- Antibe (228): Phải thêm s. Antibes.

 

- Sacré Coeur (228): Basilique du Sacré-Cœur (có gạch nối).

 

- Citroen (229): Xe Citroën. ë tréma chỉ cách đọc (ë đọc tách khỏi o, như No-ël).

 

- (à la) peine (242): “Chàng đọc mấy câu thơ đương đại của Jacques Prevert. Les feuilles mortes qui se ramassent à la peine… Toi, qui m’aimais… Moi, qui t’amais.” Chỉ viết một câu mà đă phạm đến bốn lỗi: a) đọc sai thơ. b) không có thi sĩ “đương đại” nào tên Prevert, mà chỉ Prévert.c) peine là h́nh phạt hay đau khổ; à peine: vừa mới; avec peine, à grand-peine: một cách vất vả; mourir à la peine: chết v́ làm việc. C̣n người ta xúc (hốt) những lá chết “à la peine” th́ tôi chịu thua. Câu thơ chính xác là: les feuilles mortes [dư pronom relatif

qui] se ramassent à la pelle, tức là bằng cái xẻng. d) Moi [không

phẩy] qui t’aimais, chứ không phải t’amais (vô nghĩa)5.

 

- T’en souviens tu (243): T’en souviens-tu.

 

- Receuillement (268): Không có bài thơ nào với tựa đề như thế trong thi phẩm của Baudelaire, chỉ có Recueillement (mặc niệm). Tôi sẽ trở lại với bài thơ này v́ một lỗi khác (dịch sai).

 

- Allo (283): đúng âm, phải viết allô.

 

- S’il vous plait (283): phải viết s’il vous plaît (î với dấu mũ).

 

- Crie (de ma conscience) (294): “tiếng than của lương tâm”, tác giả dịch (sai). Cri không có -e, và có nghĩa là “tiếng kêu”.

 

2. Từ ngữ (Vocabulaire):

 

- Si (171): Nhân vật viết: “Si. Si. Si. Như tên Pháp của một nốt nhạc trên phím dương cầm.” Không. Tên những nốt nhạc, trong đó có Si, bắt nguồn từ câu đầu tiên của bài thánh thi bằng tiếng Latin tôn vinh thánh Jean-Baptiste6.

 

- Ma chérie (171, 174): Cậu Tây André gọi Simone như thế. Chữ này, cũng như darling trong Anh ngữ, chỉ dùng cho người thân thiết (vợ chồng, con cái).

 

- Grandfils (176): Lỗi này chứng tỏ nhân vật không làm chủ ngôn ngữ cả Anh lẫn Pháp. Cháu nội, cháu ngoại trai, Anh ngữ là “grandson”, tiếng Pháp không phải là grandfils mà petit-fils (grand trở thành petit)7.

 

- Bis, bis (184): “Khách khứa nhao nhao kêu bằng tiếng Pháp ‘bis, bis’, muốn tôi đàn thêm nữa”. Bis không phải tiếng Pháp, mà Latin (có nghĩa “hai lần”, “lần thứ hai”, “trùng số”), đă trở thành trạng từ quốc tế, kể cả trong tiếng Việt8.

 

- Fleurs de lys (196): lys, lis là hoa huệ, không cần thêm fleurs (hoa). Fleurs de lys là nhóm chữ dùng để chỉ h́nh hoa huệ trên huy hiệu hoàng gia Pháp xưa kia.

 

- Manteau (240): André “khoác chiếc áo manteau của ḿnh…” Cùng có nghĩa áo choàng ngoài như pardessus, nhưng manteau thường (không bắt buộc) dành cho phụ nữ, đàn ông th́ khoác pardessus.

 

- Putains, putains (244, 250): Simone khi đến khách sạn bán ḿnh cho một ông Mỹ để thoát khỏi Việt Nam: “Tôi cũng c̣n nghe thấy tiếng người quản lư Pháp của khách sạn Continental tại Sài G̣n kêu ‘putains, putains’ (gái điếm, gái điếm) với những cô gái Việt Nam (…)”. Làm ǵ c̣n anh Tây nào, dù là Tây đen, quản lư khách sạn Sài G̣n vào tháng 4/1975? Và nếu có, Tây không chửi phụ nữ, càng không mắng ai là putain (v́ đó là một nghề không xấu đối với họ). Có lẽ nhân vật chưa nghe Tây mắng đuổi ai bao giờ, đâu phải ngắn gọn, đơn giản như vậy!9

 

- Bébé (254, 257, 268): André tŕu mến gọi Simone như thế, dù cô đă lớn. Gọi ai bébé không thấy trong văn chương Pháp cũng như ngoài đời. Có lẽ nhân vật dịch (đại) chữ baby, babe của Mỹ?

 

- Salaud (283): Nhân vật gọi điện thoại cho Dominique, nhưng không lên tiếng, làm bà nổi nóng: “- Allo, allo, qui est là? [...] -Parlez, s’il vous plait [sai chính tả]. Qui est là? [...] Tôi không nói nên lời. -Ecoute, toi, salaud.” Chưa nghe ai lên tiếng, chưa biết ai gọi mà dám chửi là salaud (salope, nếu giống cái, “khốn kiếp”) th́ điều này chỉ có trong trí tưởng tượng của nhân vật hoặc bà Dominique quả là một mụ đầm điên khùng, vô học. Lại nữa: “Ecoute, toi, salaud” là tiếng Tây… ba-lô, nghĩa là chắp chữ từ tiếng Mỹ10.

 

3. Văn phạm (Grammaire):

 

- Il te resemble [sai

chính tả], un garçon (174): Ở câu trước, hai nhân vật đang nói chuyện, dĩ nhiên bằng tiếng Pháp, về những con búp bê, và “con búp bê trai là búp bê ưa chuộng nhất của tôi.” Poupée, dù là trai hay gái, phải ở giống cái (féminin), cho nên il dùng sai, phải là elle. Nếu muốn cho André và độc giả hiểu đó là “con búp bê trai” giống như André cũng là một anh con trai, tác giả phải viết kiểu khác. Lại nữa, un garçon trong câu có vẻ gượng ép trên, về văn phạm, là một tiếng đồng cách (mis en apposition), nhưng chỉ ai, con búp bê, hay André?11

 

- avec les cheveux (175): Simone nói: “Et moi, je suis une fille, avec les cheveux longues”: cheveux (tóc)thuộc giống đực (masculin) nên longues (dài) phải là longs: “longs cheveux”chứ. Pháp không nói: une fille, avec les cheveux longs, mà une fille aux longs12cheveux.

 

- Il est très chaud (186): Trong buổi tiếp tân tại nhà Simone sau buổi tŕnh diễn nhạc,Dominique than ở đây trời rất nóng: “Il est très chaud ici”.Sai. Khi muốn nói “trời nóng, trời lạnh”, Tây có động từ il fait chaud, froid –điều ai cũng biết qua bài học Pháp văn sơ đẳng13.

 

- La Seconde (207): “và khi tôi lên lớp Đệ tam, La Seconde”. Phải là (entrer) enseconde (không viết hoa). Đệ tam hay đệ nhị?

 

- Poseur (284): người kiểu cách, giả tạo. “Dominique đang gọi tôi là poseur”: Tôi, Simone, một cô gái, th́ phải gọi là poseuse chứ!

 

4. Ngữ pháp (locution, expression):

 

- Je m’appelle Si (171): nhân vật tự giới thiệu. Si gọi tắt, thân mật cho Simone là điều lạ và hiếm, hoặc không có trong tên Pháp14.

 

- Il te resemble, un garçon [đă sửa] -Oui, moi, je suis un garçon -Et moi, je suis une fille, avec les cheveux longues [đă sửa] -Et toi, une fille très jolie (174-175). Đó là mẩu đối thoại giữa một anh Tây Paris và một chị Việt ở Huế. Nghe như hai người đang học tiếng Pháp lớp vỡ ḷng (dịch từng chữ từ tiếng Việt15). Rơ khổ, ai bắt viết tiếng Pháp?

 

- Je suis une jeune fille, aussi (181): Phải là Je suis une jeune fille, moi aussi (me too),hay Mais moi aussi, je suis une jeune fille!

 

- Un gros baiser (185): Thường người ta nói: une grosse bise hoặc un gros bisou (thân ái hơn).

 

- Très bien (185): Very well. Très bien về cái ǵ? Muốn khen tài đánh đàn, có thiếu ǵ cách khác16?

 

- (Mon) professeur(206, 210): Học sinh hay sinh viên Pháp ít (hay không) gọi thầy cô giáo như thế. Chỉ Monsieur, Madame, Mademoiselle là đủ. Nhân vật dịch từ tiếng Việt (“thưa thầy”)?

 

- Je veux emprunter ton âme (216): Nên viết rơ: Je veux t’emprunter ton âme.

 

- Nous ne sommes pas amoureux, c’est impossible, c’est formidable (232): như tĩnh từ, amoureux phải có túc từ (de qui, de quoi, ai, cái ǵ?). Ở câu này, nó là danh từ (những kẻ yêu nhau, amants). Nên thêm article: Nous ne sommes pas des amoureux. Rồi c’est ở hai vế sau: đó là điều không thể xảy ra, là điều (nếu xảy ra) sẽ rất tuyệt, cần viết lại: Nous ne sommes pas des amoureux, ce quiest impossible, ce qui serait formidable.

 

- Je t’adore éternellement (236): “Anh tôn thờ em đời đời”, André nói với Simone. Cậu này thậm xưng và hơi “cải lương” đấy. Dùng chữ à jamais, hay toujours, pour toujours đủ rồi.

 

- déjà vu (279): Tiếng Pháp, phải có gạch nối, déjà-vu,danh từ không thay đổi (invariable), chỉ một sự tầm thường, không ǵ độc đáo. Tiếng Anh có nghĩa khác. Nhân vật chọn nghĩa nào?17

 

5. Dịch thuật(Traduction):

 

-Bài thơ “Recueillement”: Ma douleur, donne-moi la main… Et, comme un long linceul trainant à l’Orient, ma chère, entends la douce nuit qui marche… (168). Không trích thơ th́ thôi, mà đă trích là phải hết câu, hết đoạn, chưa nói việc trích sai và sai chính tả (trainant, và hai chữ viết hoa trong nguyên bản: Douleur, Nuit). Rồi tán nhảm, tự tiện giảng nghĩa, ví dụ: l’Orient (phía đông), cô ta hiểu là “quê nhà”, v.v…18

 

-Bài “L’invitation au voyage” cũng có những câu bị trích thiếu và dịch ẩu (209): Sa douce langue natale (“Tiếng mẹ đẻ thốt lên ngọt ngào”)… Aimer à loisir (“Yêu trong thư thái”)… Au pays qui te ressemble (“Trong quê hương mang sắc thái của em”)… Ở trang 276, câu chót lại bị dịch sai lần nữa: “Trong quê hương mang h́nh dáng của em”19.

 

- “C’est l’heure, Poète, de decliner [sai chính tả] ton nom, et ta race. Thi sĩ ơi, đă đến lúc phải từ bỏ tên tuổi ḍng giống của ḿnh. –Leger” (216): Bốn cái sai: vừa trích sai câu thơ, vừa chép sai chính tả, vừa dịch sai, vừa ghi sai tên tác giả. Không có thi sĩ Pháp nào tên Leger, mà chỉ Saint-John Perse, tên thật là Alexis Saint-Léger Léger20. Câu này trích từ bài Exil (Lưu đày, VII), nguyên văn là: “Et c’est l’heure, ô Poète, de décliner ton nom, ta naissance, et ta race…” Theo mạch thơ và ngữ học, động từ décliner ở đây có nghĩa là “khai rơ”, trái ngược với “từ khước” như nghĩa thường của nó vàcủa tiếng Anh (to decline).

 

- Je veux emprunter ton âme (216): Nhân vật dịch ton âme thành “trái tim nồng nhiệt của anh”, thay v́ “mượn hồn anh”. Chữ “nồng nhiệt” ở đâu ra?

 

- Tes pas enfants de mon silence. T’en [?] souviens tu [sai chính tả] de mes pieds nus? (243) bị Simone dịch ẩu: “Những bước chân trẻ con của em… Sự im lặng của ḿnh… Có nhớ gót chân không giầy của em không?” Hai câu này bị trích sai từ bài thơ “Les Pas” của Paul Valéry (nhưng Simone cứ tưởng là của cậu Tây André làm, mà cậu này hoặc lờ không nói hoặc không biết là thơ của Valéry)21.

 

- Les yeux battus la mine triste et les joues blêmes (285-286): Bài “Bambino” (nhân vật quên tựa đề?) do Dalida hát. Ít ra phải có dấu phẩy sau battus. Joues blêmes không có nghĩa “má hỏm sâu” như nhân vật dịch, mà là tái nhợt.

 

- Mon amour [...], ma tendresse (294): bị dịch là “Người yêu của tôi, mối t́nh êm dịu của tôi”. Amour, t́nh yêu, tendresse, sự tŕu mến. Thế thôi!

 

6. Hiểu biết hạn chế về văn chương, văn hóa Pháp:

 

– Baudelaire: Qua suốt CGCSH, cậu Tây Paris chỉ biết, và truyền cho cô gái Huế về văn chương Pháp, có mỗi thi sĩ Baudelaire và tập Fleurs du Mal [sic], ngoài Saint-John Perse và Valéry (mà tôi đă mách tên cho). Lúc nào cũng “ngâm” thơ Baudelaire, có trang nhắc đến hai lần: 167, 168×2, 169×2, 170, 209, 210×2, 213×2, 233, 268, 274, 276, 277, 296, 360, 361. Cô cậu không nói tại sao lại mê Baudelaire đến thế. Chỉ biết cả hai trích sai nhan đề thi phẩm của ông (tự động bỏ article Les): Phải là Les Fleurs du Mal, và dịch thiếu: theo nội dung tập thơ, Mal, ngoài nghĩa “đau thương” (169), c̣n là “sự ác” –điều mà cô cậu không thấy22.

 

- Alphonse Daudet, Anatole France (198, 199): Simone kể: “[Ở Sài G̣n] mắt tôi vẫn c̣n nh́n những h́nh ảnh của miền đồng quê Pháp, và trí óc tôi vẫn c̣n đầy những chi tiết về cuộc sống hàng ngày của trẻ con Pháp, do những ng̣i bút tuyệt diệu như Alphonse Daudet và Anatole France diễn tả.” Không đúng. Thực ra hai văn sĩ này sống và viết tại Paris, hoạt động chính trị, có tác phẩm tự truyện kể lại thời niên thiếu của ḿnh, không hẳn ở đồng quê. Làm ǵ có “những chi tiết về cuộc sống hàng ngày của trẻ con [đồng quê] Pháp”? Nhân vật cho hai ông là “những ng̣i bút tuyệt diệu”, nhưng văn học sử Pháp lại không nghĩ như thế23.

 

- Paris Match (157×2, 160, 171×2, 180, 185, 226×2, 230): báo Pháp có rất nhiều, nhưng nhân vật chỉ biết Paris Match, tạp chí phát hành rộng răi tại Việt Nam vào thời ấy, mà người ta thích v́ những bức ảnh thông tin, thời sự sốt dẻo, chứ chẳng bởi giá trị văn học, văn chương cao. Tại Paris, Simone nói thấy có tờ Le Monde trong tay André (239).

 

- Indochine (tức Đông Dương,thay v́ Việt Nam Cộng Ḥa lúc ấy). Cậu bị ám ảnh bởi Indochine, xem như hiện thân của nhân vật (169, 172, 177×3, 178×3, 189, 210, 211, 212, 247, 274×3, 275, 283, 307, 309×2, 362), cái tên sặc mùi (hậu) thực dân, khiến ta nhớ đến sách của Marguerite Duras và phim Indochine do Catherine Deneuve thủ vai chính24.

 

7. Những vấn đề liên quan tới Pháp:

 

 

- Chuyện đi Pháp ngụ tại nhà “tonton” André và “tata” Dominique, năm 1970, lúc mới mười lăm tuổi (224): cha mẹ nào dám cho con gái c̣n nhỏ, không thân nhân tại Pháp, đi xa như thế, để sống với vợ chồng một cậu Tây mới quen, cháu nội của một viên cựu Khâm sứ loại đại thực dân (84)? Thời ấy đi Pháp du học không dễ, kể cả nữ sinh viên ban Pháp văn. Rồi ai đài thọ tiền (cha, một giáo sư đại học, phải đi dạy thêm trường tư để kiếm tiền cho con học trường tây tại Sài G̣n, 198)? Tŕnh độ Pháp ngữ của cô như thế làm sao trường nào dám nhận “ngang xương” và cho “học cho hết năm” (222)? Nhân vật không nói tên trường ḿnh theo học ở Paris! Rồi lại “thường cúp cua đi lang thang trong khu Quartier Latin” (231), cứ làm như ḿnh là một sinh viên Sorbonne không bằng (học sinh thường cúp cua đi chơi mà không bị trường trung học Pháp vốn rất khó, cũng như trường Mỹ, trước kia và bây giờ, phạt, cũng lạ!).

 

- Khu Saint-Germain-des-Prés (231, 238, 351, 352): Nhân vật đă ở khu này thật không? Không thấy viết đến những đặc điểm của khu: di tích lịch sử, như những nhà thờ, tu viện cổ nổi tiếng, bảo tàng viện (Rodin), tháp (tour) Montparnasse, nhà hàng, Quai Voltaire mà Baudelaire, thi sĩ cưng của André, đă ở, Boul’Mich’, rue des Grands-Augustins –nơi Picasso đă vẽ tuyệt phẩm Guernica, 1937, v.v… Nhân vật thấy bảng hiệu “tên con đường là St. Germain des Prés”(238). Có con đường ấy thật không, hay là Boulevard Saint-Germain? Ở khu đó, sao không nhắc đến gare Montparnasse, mà lại “ga Lyon [xa hơn] có ánh đèn vàng vọt tỏa vào đêm tuyết” (230, lại bắt chước ông Cung Trầm Tưởng rồi! Không có ga nào của Pháp có đèn vàng, toàn là đèn sáng trưng).Những ǵ được Simone tả về khu Saint-Germain-des-Prés đều mang tính cách chung cho Tout-Paris, ví dụ “những ṿm cây trụi lá” (231) vào mùa thu, mùa đông, hoặc “những trẻ đồi trụy” (227), th́ nơi nào chả có?

 

- La Cité (228): Nhân vật nói đi chơi trong La Cité, cái nôi của Paris,mà không nhắc hai nhà thờ Notre-Dame, Sainte-Chapelle, và Palais de Justice, nhưng lại nói có khu Montmartre và nhà thờ Sacré-Cœur, là những địa điểm, về “kỹ thuật”, không thuộc về La Cité.

 

- Học hát opéra tại Roma (229): Ở Pháp không có nhạc viện nào sao mà phải sang tận Roma? Nhạc viện nào bên đó (La Scala th́ở Milan)? Ai trả học phí? Học hát mà chỉ biết có mỗi một bài tiếng Latin Salve Regina được nhắc đi nhắc lại măi? Không có một câu nào về thành phố Roma và đặc điểm của nó để ít ra chứng minh ḿnh đă ở đó thật dù là một thời gian ngắn?

 

- Bị tonton André chiếm đoạt trinh tiết với sự đồng lơa của cô –đứa cháu hờ khác chủng tộc, kém tiếng Pháp nhưng thạo nghề quá sớm, trong “một phút thoát hồn [...] lặp lại tṛ chơi cưỡi ngựa của thời thơ ấu” (241). Rồi “chàng nằm lặng yên, hơi thở rồn rập, rồi bật khóc.” Tại sao “chàng” khóc? Bắt chước anh Tàu Chợ Lớn của Marguerite Duras25? Hối hận, hay lo sợ bị kết tội dụ dỗ gái vị thành niên?

 

- Học Lycée Marie Curie (205, 219, 234, 325, 329, 330, 359): Các trường Pháp ở Việt Nam vào, hoặc trước, thập niên 60 hoàn toàn dạy theo chương tŕnh Pháp và các đề thi được gửi từ Paris sang. Nhưng từ 1970 (?) hoặc sớm hơn, đă bị chính phủ Việt Nam tịch thu để dạy theo chương tŕnh Việt26. Simone nói đă xong trung học tại Marie Curie, đậu Tú Tài sau 1971 (234), nhưng không cho biết theo chương tŕnh nào.

 

8. Những ngoại ngữ khác:

 

 

Simone trích dịch luôn tiếng Ư, Latin và Đức (mà trong sách tác giả không nói đă học ở đâu):

 

- Tiếng Ư:

a) “Lacrimosa son io, perduto bo l’idol moi. Tôi sầu muộn. Tôi đă đánh mất thần tượng của tôi rồi” (234)27. Son io (I am) phải là sono io, hoặc son’ io (v́ âm điệu). Perdere (to lose, mất), động từ bất qui tắc, có participo passato là perso. Ho (I have, tôi đă, chứ không bo). Idolo (idol, thần tượng, không phải l’idol). Mio (my, của tôi, không moi). Câu hát đúng phải là: Lacrimosa io sono, (io) ho perso il mio idolo.

 

b) Bravo, brava: “Bravo là tiếng khen cho nam ca sĩ. Brava cho nữ ca sĩ, chàng bảo tôi ngày nào đó ở Rome” (236): Thực ra, bravo, bravissimo là tán thán từ khen ngợi bởi tiếng Ư (well, giỏi), trở thành quốc tế, không thay đổi. Dùng như tĩnh từ (good) nó đổi thành brava, dĩ nhiên, nhưng không áp dụng cho trường hợp vỗ tay khen trên.

 

- Tiếng Latin:

 

a) Bài Salve Regina, kinh cầu Đức Mẹ Maria của người Công giáo,là một trong hai bài hát mà nhân vật đă học ở Roma (bài kia là Lacrimosa bằng tiếng Ư vừa nói trên). Được nhắc đến bảy lần (229×3, 230, 235, 236, 243) mà lần nào cũng sai những lỗi khác nhau, chưa kể dịch sai28.

 

b) Lại nữa, trong thư cậu Tây André gửi cho Simone có một câu Latin mà cậu không cho biết đă chế ra hoặc trích từ đâu: “Nec amor, nec tussi [sai chính tả, phải là tussis) celatur” được cô trích và dịch sai:

“T́nh yêu như một cơn ho. Không thể dấu giếm được” (260). Ở đoạn sau,

được nhắc lại dưới dạng khác và lời dịch khác: “Nec amo [viết sai,

amor), nec tussis

celatur. T́nh yêu như một cơn ho. Không che giấu được” (360, 361). Cả ba lần

đều sai một chút ǵ. Câu này, thực ra, là Amor tussisque non celatur

(t́nh yêu và cơn ho không giấu được), một trong những câu cách ngôn Latin mà tác

giả Wilhelm Binder đă thu thập được29.

 

- Tiếng

Đức:

 

a) Nhân vật nhắc đến bài Elegischer

Gesang, op 118, Sanft wie du lebtest hast du vollendet của Beethoven

(170, 296, 363). Quả thật, Beethoven có viết bài đó cho bốn giọng hoặc bốn đàn

giây thuộc gia đ́nh vĩ cầm (string quartet / quatuor à cordes). V́ không có

trong tay nguyên bản bài hát, tôi không thể so sánh với câu mà nhân vật đă trích

và dịch30.

 

b) Ngoài ra, một điều chắc chắn: nhân vật

đă hai lần viết sai (chính tả) đầu đề bản Traumerei của Schumann (235x2)

(đúng ra phải là Träumerie).

 

Công bằng mà nói, nhân vật trong vài trường hợp cũng đă tỏ ra lương thiện khi tự đánh giá tŕnh độ về Pháp văn và văn hóa Pháp mà cô hàm ư cho là yếu kém của ḿnh. Ví dụ: tại Paris, cô “nói một thứ tiếng ngoại quốc [tức tiếng Pháp không chuẩn] trong khi bị người ta chế riễu khi nói” (228). Hay: hai vợ chồng André căi vă nhau “nói nhanh như chớp làm tôi không hiểu ǵ cả” (230). Hay: “tôi không biết đồ ăn Pháp” (226), “tập ăn phô-mát, kể cả ca-măm-be, và thấy cũng thích” (231). Hay: “Học bạ của tôi th́ thật là tai hại, tuy về Pháp văn th́ có tiến bộ” (232). Hay: khi từ Mỹ gọi điện thoại cho vợ cũ của André: “Tôi ấp úng mấy câu chào hỏi ngắn bằng tiếng Pháp không dùng lâu ngày đă rỉ”(283). Cả hai nói bằng tiếng Anh về André –điều mà nhân vật không muốn nghe: “Tôi ước là bà trở lại với tiếng Pháp; tôi không muốn hiểu rơ” (285) [có lẽ v́ kém tiếng Pháp]. Về tiếng Latin trong bài Salve Regina, nhân vật thú nhận hát “mà không cần hiểu rơ và dịch nghĩa” (229, nhưng cô vẫn cứ dịch, và dịch sai).

 

Kết luận:

 

Kém sinh ngữ, nhất là tiếng Pháp, không sao hết. Nhưng cứ khoe mẽ băng cách trích ra, dịch ra một cách không cần thiết và không đúng những câu ngoại ngữ, hănh diện cho ḿnh và gia đ́nh thấm nhuần văn hóa Pháp, thuộc đẳng cấp xă hội cao trọng, văn minh hơn người (124, 219, 220, 225, 232, 252-254), đó mới là điều bắt độc giả phải lên tiếng phê b́nh, chỉ trích31.

 

CHÚ THÍCH

 

1. Con Gái Của Sông Hương, CGCSH, 2005, không đề tên nhà xuất bản, được dịch bởi Linh Chân Brown từ nguyên tác Daughters of the River Huong của Dương Như Nguyện.

 

2. Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng “ca” tác giả Dương Như Nguyện, cf. nguyệt san Khởi Hành số 108 (được trích lại vài đoạn bởi tác giả Nguyễn Tà Cúc); bài phỏng vấn của nhà xuất bản RavensYard (Ravensyard?) tháng 7/2005, được in trong CGCSH, tr. 373-390.

 

3. Nguyên văn bài hát: Au clair de la lune / Mon ami Pierrot / Prête-moi ta plume / Pour écrire un mot / Ma chandelle est morte / Je n’ai plus de feu / Ouvre-moi la porte / Pour l’amour de Dieu, v.v… Chắc nhân vật tập đánh đàn bài này trong “Méthode Rose”.

 

4. champs Élysées (c viết thường): theo thần thoại là nơi trú ngụ dưới âm phủ cho linh hồn của các bậc anh hùng và người đạo đức. Champs-Élysées: tên một đại lộ và một hí viện (théâtre) ở Paris. Palais de l’Élysée: dinh tổng thống Pháp.

 

5. Bài thơ này được Joseph Kosma phổ nhạc và Cora Vaucaire, Yves Montand, Juliette Greco hát. Tôi đoán nhân vật trích lại từ bài hát, nên mới nghe sai như vậy.

 

6. Bài thánh thi : UT queant laxis REsonare fibris MIra gestorum FAmuli tuorum SOLve polluti LAbii reatum, Sancte Johannes (SI). Cũng sai tương tự, trong một bài trên mạng, “Chiếc phong cầm của bố tôi” (được một tờ báo địa phương Oregon, Oregon Thời Báo, đăng lại, sô 207, 24/3/2006) tác giả Dương Như Nguyện bảo rằng đàn accordéon là“xuất thân từ nước Ư” (t.26), mà thực ra do tiếng Đức Akkordion được đặt bởi người sáng chế Damian (1829, cf. Dictionnaire Étymologique et Historique, Larousse, 1964).

 

7. Tĩnh từ grand khi dùng với một danh từ không viết dính chung như grandfils (dù không có chữ này), nhưng cách bởi một gạch nối, ví dụ: grand-père. Biết sai mà André vẫn trả lời tỉnh bơ: “Oui, Madame, le plus jeune” (176). Nếu có óc hài hước, cậu ta đă phải nói: oui, le plus petit.

 

8. Ví dụ: số 35bis đường Nguyễn Trăi. Khán giả Việt cũng la bis để yêu cầu ca sĩ hát lại.

 

9. Trong tiếng Pháp thông tục (vulgaire), dùng như tán thán từ (exclamation) putain! c̣n biểu lộ sự ngạc nhiên, giống như merde alors! vừa ngạc nhiên, vừa thán phục. Anh quản lư Tây này, ít ra, cũng phải nói một câu để đuổi họ đi chứ, lẽ nào cứ luôn mồm mắng putains! putains!, đố ai biết anh ta muốn ǵ? Một trong rất nhiều ví dụ: Allez au diable! Hoặc thô lỗ hơn, Foutez-moi la paix. Chắc nhân vật đă bịa chi tiết này, một cách không hợp lư.

 

10. “Listen, you bitch” hay “son of a bitch”, chẳng hạn. Qui est là? nghe bất lịch sự rồi, nên hỏi: Qui est à l’appareil? (ai ở đầu dây?). Trong trường hợp này, để bộc lộ sự bực tức, không ai cấm Dominique xài chữ merde (shit) mà bất cứ người Pháp, nam nữ, từ anh nhà quê đến tổng thống, cũng phải nói một lần trong đời, đến độ nó mất đi nghĩa đen nguyên thủy (xem Merde, 1986, và Merde encore, 1987, của Geneviève Edis). Ở đâu cũng vậy, khi điện thoại reo mà không ai lên tiếng th́ chỉ có việc đặt, hoặc đập, nó xuống, rồi văng tục merde!, là quá lắm, sao lại chửi kẻ vô h́nh nặng nề như vậy (salaud)?

 

11. Đề nghị viết lại: Elle [hay

cette poupée-garçon] te ressemble, à toi qui es un garçon.

 

12. V́ là tĩnh từ ngắn, longs phải đứng trước danh từ (cheveux) dài hơn.

 

13. C̣n cái ǵ nóng, lạnh, ví dụ cái bếp, ḷ sưởi, th́ dùng il / elle est. Đă thế, mẹ của nhân vật lại nói lái très chaud thành trop cher một cách vô duyên và gượng ép (très không đọc như cher).

 

14. Khác với, chẳng hạn, Elisabeth: Elise, Lisette, Lizette, Babette. Simone không có diminutif (“súc nghĩa từ” cf. Thanh Nghị), ví dụ, nữ tài tử Simone Signoret.

 

15. Xem sách giáo khoa Cours de Langue et de Civilisation Françaises của G. Mauger, Hachette, Paris, 1967, rất quen thuộc tại Việt Nam thời ấy.

 

16. Ví dụ: Tu l’as très bien fait hay t’en as très bien joué [du piano], ma petite. Hoặc Super! Fantastique! Extraordinaire! Félicitations!

 

17. Déjà vu, trong Anh ngữ, có nghĩa là ảo tưởng đă thấy rồi một điều ḿnh thực ra chỉ mới thấy lần đầu.

 

18. Nhân vật trích thiếu sót câu thơ trong “Recueillement”, nguyên văn: Ma Douleur, donne-moi la main; viens par ici [...] / Et, comme un linceul traînant à l’Orient / Entends, ma chère, entends la douce Nuit qui marche. Nhân vật, v́ ḷng nhớ André, nên giảng giải ẩu: “Douleur là nỗi đau đớn, L’Orient là quê nhà, La Douce Nuit là bóng đêm của tôi, Linceul là chiếc khăn để tang vị thiên thần đă găy cánh [...].Và dịch ẩu: Niềm đau ơi, hăy đưa ta bàn tay [nên dịch:

hăy đưa tay cho tôi]. Và, như giải khăn tang trườn ḿnh [nên dịch: kéo

lê] về phương [nên dịch: phía, hướng] Đông, em hăy lắng nghe [écoute?] tiếng chân [ở đâu ra?] của Nàng Đêm [nên dịch: em

hăy nghe Đêm dịu dàng bước đi]” (168).

 

19. Bài “L’invitation au voyage” cũng bị cắt xén, đảo lộn: Mon enfant, ma sœur / Songe à la douceur / D’aller là-bas vivre ensemble!/ Aimer à loisir/ Aimer et mourir/ Au pays qui te ressemble [...] / Tout y parlerait / À l’âme en secret / Sa douce langue natale [...]. Dịch đúng phải là: A loisir: tùy thích. Au pays qui te ressemble: ở xứ sở giống em. Sa douce langue natale: tiếng mẹ êm dịu.

 

20. Saint-John Perse đoạt giải Nobel Văn Chương, 1960. Lưu vong tại Hoa Kỳ. Câu thơ của ông, giống của Claudel, thường khó, dài, dựa trên nhịp điệu và h́nh ảnh. Trong Exil (1941) thi sĩ hănh diện về sự lưu đày của ḿnh, chẳng hạn: Le vent nous conte sa vieillesse, le vent nous conte sa jeunesse… Honore, ô Prince, ton exil! (III) [Gió kể chuyện tuổi già của nó, gió kể chuyện tuổi trẻ của nó... hỡi Hoàng tử, hăy vinh danh sự lưu đày của Người] th́ câu sau cùng (VII) kêu gọi “Và đây là giờ, hỡi Thi Sĩ, phải khai rơ tên tuổi, ḍng dơi, và ṇi giống của người” –là điều hợp lư thôi.

 

21. Trong thi tập Charmes (1922). Bài thơ mười hai câu có vẻ trữ t́nh này được các học giả xem như biểu tượng của sự chờ đợi thi hứng, tức bước chân của Nàng Thơ. Nếu trích đúng câu này phải là: Tes pas, enfants de mon silence, [Những bước chân em, con cái (kết quả)

của sự im lặng (đợi chờ) của tôi] / Saintement, lentement placés / Vers le lit de ma vigilance / Procèdent muets et glacés [...]. C̣n câu “T’en souviens tu [sai chánh tả] de mes pieds nus” là hoàn toàn bịa, từ nguyên văn: Qu’ils sont doux, tes pas retenus! / Dieux!… tous les dons que je devine / Viennent à moi sur ces pieds nus! Simone tưởng tượng quá nhiều, nên làm các độc giả trẻ tuổi bối rối không ít, hiểu sai hết!

 

22. Các nhà b́nh luận (không riêng Simone) đều hiểu chỉ một nghĩa của chữ Mal. Người th́ dịch Hoa Đau Khổ, kẻ th́ Ác Hoa. Làm sao kết hợp hai nghĩa khác nhau trong một tựa đề? Hoa Ác Khổ?

 

23. Ngoài những tác phẩm khác, A. Daudet viết Le Petit Chose (1868), kể những kỷ niệm đắng cay của thời niên thiếu, và tập truyện Lettres de mon Moulin (1869) lấy khung cảnh Provence, nguyên quán của văn sĩ. Trong bài “Chiếc phong cầm của bố tôi”, bđd, chú thích 6, tác giả kể rằng ông bố, một giáo sư đại học tốt nghiệp ở Pháp, đă lấy một truyện ngắn của Daudet [trong Lettres de mon Moulin] để dạy con: Le [hai lần, không thể gọi là lỗi đánh máy được] chèvre de M. Seguin. Chết rồi, chèvre là dê cái, sao lại le? C̣n Anatole France có Le Livre de mon Ami (1885) kể những kỷ niệm ấu thơ, trong đó có đoạn văn bất hủ về “La rentrée” (Ngày tựu trường) mà học sinh nào cũng biết: mùa thu trong vườn Luxembourg có lá vàng rơi từng chiếc trên vai các pho tượng trắng và có chú bé học sinh đeo cặp sau lưng tung tăng đi ngang, “en sautillant comme un moineau” (vừa nhảy như một con chim sẻ) –được Thanh Tịnh phỏng ư viết lại. Tuy nhiên, mặc dù có tài như vậy (A. France được giải Nobel Văn Chương 1921) hai văn sĩ này, không hiểu sao, lại được những nhà viết văn học sử Pháp cho ngồi chiếu phụ (mỗi ông được giới thiệu trung b́nh không quá một trang sách giáo khoa) sau những cây đại thụ như Hugo, Balzac, Stendhal, Zola, Gide, Proust, v.v… Về những chuyện thuần túy đồng quê, sao nhân vật không nhắc George Sand, Henri Bosco, hay Jean Giono, v.v…?

 

24. M. Duras: L’Amant (1984), Un Barrage contre Le Pacifique (1958). Duras nhớ tiếc Đông Dương, đặc biệt Căm Bốt, Annam (miền Trung) và Cochinchine (miền Nam thuộc Pháp). Ngoài phim Indochine, 1970 (kể về Saigon, năm 1930), c̣n có phim Dien Bien Phu của Pierre Schoendoerffer (1992). Tất cả coi Việt Nam như một cựu thuộc địa.

 

25. Trong L’Amant, anh Tàu, sau khi phá trinh Marguerite, quay mặt chỗ khác, khóc sướt mướt. Trong CGCSH, André cũng “bật khóc”. Tại sao? tôi chịu, không hiểu nổi.

 

26. Hỏi các cựu học sinh Marie Curie và Jean-Jacques Rousseau của thập niên 60, không ai nhớ chính xác năm nào những trường Pháp này bị tịch thu.

 

27. Simone không nói câu hát tiếng Ư này là của ai.

 

28. Kinh cầu này được cho là của nhiều tác giả vô danh vào thế kỷ XI, hiện nay vẫn được giáo dân Việt Nam đọc (bản tiếng Việt) tại nhà thờ và trong gia đ́nh. Nhân vật nói là của Haydn (235). Có thể Haydn đă phổ nhạc thôi. Nguyên văn Latin, để so sánh với những câu trích và dịch (sai) bởi Simone: Salve, regina, mater misericordiae, Vita, dulcedo et spes nostra, salve! Ad te clamamus exsules filii Evae, Ad te suspiramus gementes et flentes In hac lacrimarum valle. Eia ergo, advocata nostra, Illos tuos misericordes oculos ad nos converte. Et Iesum, benedictum fructum ventris tui, Nobis post hoc exsilium ostende, O clemens, o pia, O dulcis virgo Maria.

 

29. Trong cuốn Novus Thesaurus Adagiorum Latinorum (Stuttgart, 1861) gồm trên ba ngàn câu.

 

30. Cho nên tôi hy vọng và cầu mong nhân vật đă trích và dịch đúng. Elegischer Gesang là một trong những tác phẩm của Beethoven được biết và tŕnh bày, thâu băng ít nhất. Viết năm 1814, để tưởng niệm Eleanore von Pasqualati, vợ một người quen thân.

 

31. Mai Ninh, một tác giả du học Pháp từ 1968, có bằng cấp Pháp và hiện sống tại Pháp, đă viết những truyện như Hợp Âm Trong Vùng Sân Khuất (2000), Ảo Đăng 2003), Cá Voi Trầm Sát (2004), rất hay, với câu văn thuần túy Việt Nam, trong đó người ta ít, hay không, gặp những chữ, những câu Pháp văn không cần thiết và đầy lỗi như trong tác phẩm của Dương Như Nguyện.

 

 

Portland,12/5/2009

 

Kim Thanh

 

 

 

 

Bài trả lời Ts Nguyễn Kim Quư của ThaiQuangAnh

 

Trong bài phê phán “Pháp ngữ trong sách con gái của sông Hương” đăng trong báo [DELETE BY RECIPIENT FOR WANT OF VERFICATION], ông Kim Thanh Nguyễn Kim Quư chủ tâm làm một việc và muốn tỏ một thái độ.

 

1) Việc ông Kim Thanh làm, và làm rất tỉ mỉ, là liệt kê những lỗi tiếng Pháp về chính tả, ngữ vựng, văn phạm, dịch thuật v.v. trong bản dịch « Con gái của Sông Hương. » Tôi đồng ư phần nào với bản liệt kê đó, và đồng ư dễ dàng v́ đă có dịp đề cập với tác giả Dương Như Nguyện về những lỗi tiếng Pháp đó, qua email khi tôi đọc qua tác phẩm « Sông Hương » cách đây nhiều năm.

 

Những lỗi ấy, một phần hiển nhiên là lỗi đánh máy, rất phổ biến trong việc viết lách và ấn loát, nhất là với bàn chữ Mỹ không có dấu của tiếng Pháp, một phần là lỗi ngữ vựng và cú pháp rất b́nh thường và dễ thông cảm đối với một nhà xuất bản ở bên Mỹ.??!!! Chính tác giả Dương Như Nguyện cũng đă trung thực công nhận trước quần chúng là bà đă không thực hành tiếng Pháp trong mấy mươi năm, và nhà xuất bản của bà là một nhà xuất bản tự lực không có cơ sở vững chăi như các công ty khổng lồ của giới xuất bản Hoa Kỳ. Tờ báo nào đó đứng đằng sau ông Kim Thành lai bóp méo lời lẽ khiêm tốn của bà cho rằng bà tự thú nhận đă đánh lừa nhà xuất bản (???). Kết tội một luật sư là lừa đảo? Đối với tôi, đây quả thực là phỉ báng và công kích thiếu lương thiện. Lư do v́ sao mà tờ báo nầy thu` ghet ba Duong Như Nguyên như vậy, khi bà không đi vào cộng đồng người Việt để hành nghề hay viết tiếng Việt? Đây là một bản dịch.

 

Và tôi cũng đă gợi ư là khi tái bản quyển sách chỉ nên chửa những lỗi đánh máy và chính tả mà thôi. Cứ giữ nguyên những «lỗi» khác v́ đó là một phần của cấu trúc nhân vật phản ánh một cách sinh động không khí văn hóa của một giai đoạn lịch sử, và những nét tâm lư đặc thù của nhân vật chính. Nếu sửa đổi th́ đă vi phạm vào các cấu trúc và nguyên tắc căn bản của nghệ thuật viết tiểu thuyết, v́ như thế tức là sửa đổi luôn tâm lư của hành động cũng như lời nói đặc thù của nhân vật. Phải để nguyên để giữ cái duyên dáng của văn chương và nhân vật, không khác chi khi người Mỹ hay người Anh nói tiếng Pháp bằng giọng Mỹ hay giọng Anh.

 

Thật ra ông Kim Thanh đă làm cái việc mà một chuyên viên duyệt bản thảo của một nhà xuất bản đă phải làm. Các nhà xuất bản đều có một nhiệm sở chuyên làm chuyện đó. Tất cả các bản thảo va cac sach in không ít th́ nhiều đều có lỗi chính tả, ngữ vựng, trích dẫn, tư liệu v.v, cho dù tác giả là một viện sĩ. Ở thời đại của máy vi tính có chức năng điều chỉnh bản văn, vấn đề trở thành hoàn toàn thứ yếu. Ở Pháp chẳng hạn, các NXB có chút tầm vóc thường thuê sinh viên của 3 trường Cao Đẳng Sư Phạm (gọi là Ulm, Sèvres, Fontenay) để làm « lecteur » chuyên duyệt lại bản thảo và nhuận chính các nguồn tư liệu của các tác phẩm về văn chương hay về khoa học nhân văn. Nếu không quá kén chọn th́ họ thuê tiến sĩ hoặc sinh viên đang soạn luận án. Ở Pháp vẫn luôn có sự phân biệt giữa hệ thống « trường lớn » dành cho sinh viên ưu tú đă vượt qua những cuộc thi tuyển gắt gao, và hệ thống Đại Học sản xuất ra tiến sĩ, bị coi thường là ngă cụt v́ bất cứ sinh viên nào có tú tài cũng có thể ghi tên vào học . V́ thế từ 50 năm qua hệ thống Đại Học Pháp bị khủng hoảng kinh niên …

 

Thật ra liệt kê các lỗi tiếng Pháp trong sách « Con gái của Sông Hương » như ông Kim Thanh đă làm, ở cái thời buổi của máy vi tính và Internet, chỉ cần một học sinh ở tŕnh độ luyện thi tú tài Pháp biết sử dụng chức năng chữa lỗi chính tả, lỗi ngữ vựng, văn phạm và luôn cả cú Pháp của Microsoft Word. Các tư liệu mà ông Kim Thanh viện dẫn đều có thể t́m thấy trên Internet một cách dễ dàng và cấp tốc.

 

V́ thế liệt kê lỗi tiếng Pháp để đánh giá học thức và khả năng và lương tâm của tác giả để cáo buộc bà có ư khinh thường độc giả như ông Kim Thanh đă làm, chẳng những là một bắt bẻ nhỏ mọn mà c̣n là một điều bất xứng đầy ác ư, nhất là khi ông thú nhận không hề đọc nguyên tác tiếng Anh. Người ta có thể hiểu và kính nể ông Kim Thanh hơn nếu ông lưu ư về cái thiếu sót bất thường của nhà xuất bản. Thay v́ quay mũi dùi đến tác giả.

 

2) Kỳ thực chủ ư của ông Kim Thanh là đứng ra hài tội tác giả DNN. Thế mà, ông ta lại tự cho ḿnh là một công tố viên nhân danh tri thuc và đạo đức. Tội ǵ ? Tri thức ǵ và đạo đức ǵ ?

 

Tội là đă « tỏ ra khoe khoang về cá nhân và gia đ́nh và nền văn học thu thập được của Pháp ». Chứng tích trưng bày là … trong tác phẩm nhân vật chính « đi học trường Marie Curie Saigon, trong gia đ́nh nói tiếng Pháp với cha mẹ, ngụ tại Saint Germain des Près lúc 14 tuổi v.v.). Trong khi tiểu sử của tác giả có ghi rỏ bà là nữ sinh trường Trưng Vương đă đoạt giải thường văn chương phụ nữ toàn quốc, hai Bà Trưnng năm 1975.

 

Lập luận, hay đúng hơn sự đánh lận phi lư và thô tục như thế, một anh gánh nước cũng không làm. Thật có khác chi đi cáo buộc tác giả Kim Dung là một ngụy quân tử, hay một tên tiểu xảo hư đốn bởi v́ ông đă nắn ra một cách tuyệt diệu nhân vật Nhạc Bất Quần trong pho « Tiếu Ngạo Giang Hồ » hay đă dựng ra một cách tài t́nh nhân vật Vi Tiểu Bảo trong bộ Lộc Đỉnh Kư ! Ông Kim Thanh nghĩ thế nào nếu một ngựi nào đó, mặc dù không đọc luận án « La prison chez Stendhal » của ông (chi tiết về luận án nầy do chính ông Kim Thanh tự quảng bá), nhưng áp dụng thủ thuật mà ông đă sử dụng đối với DNN, để quả quyết rằng ông là một kẻ vô luân, đầy tham vọng nho nhen, háo danh, gian dối từng mắc phải tù tội bởi v́ đó là đặc tính của Julien Sorel, nhân vật tiêu biểu trong sự nghiệp văn chương của Stendhal !

 

Ông Kim Thanh c̣n biện minh rằng sở dĩ ông cần phải ra tay viết bài phê phán như thế là « để giới trẻ tuổi hiểu là Pháp văn chính thống không phải như thế ». Ông ta làm như thể là giới trẻ chỉ cần đọc một quyển tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh được dịch qua tiếng Việt, và bài b́nh luận của ông Kim Thanh là đủ biết thế nào là Pháp Văn chính thống!

 

Ông cũng khẳng định muốn đem tri thức chuyên môn của ḿnh để góp tài liệu cho việc đánh giá quyển sách. Và cái chuyên môn đó nó chuyên môn đến độ biến ông thành một con người nhỏ nhen, vô cùng khắc nghiệt đối với những cảm nhận hay những nhận thức có sắc thái hơi khác biệt với ư của ông, y như những đầu óc giáo điều chuyên chế đối với những người không cùng quan điểm giống bè lũ nào đó đă làm điều dùng cả một dân tộc?

 

Chẳng hạn ông phê phán gắt gao tác giả của quyển tiểu thuyết khi nói về khu Saint Germain des Près, sao không nói đến Tháp(Tour) Montparnasse (kỳ thực Tháp nầy chỉ được xây dựng từ 1969 và đến 1972 mới hoàn thành, và thuộc về quận 15 của Paris chứ không thuộc khu Saint Gremain), không nói đến Hôtel Voltaire nơi Baudelaire đă từng cư ngụ ( thế sao ông Kim Thanh có thể quên đi tượng của Baudelaire nằm ngay cổng vào vườn Luxembourg, đối diện với Lycée Montaigne, ở ranh giới của khu Saint Germain, có khắc 4 câu thơ bất hủ của bài « Les phares »

 

Car c’est vraiment Seigneur, le meilleur témoignage

 

Que nous puissions donner de notre dignité

 

Que cet ardent sanglot qui roule d’âge en âge

 

Et vient mourir au bord de votre éternité !

 

Nói một cách nôm na b́nh dân học vụ, th́ đọc giả ai cũng biết rằng cuốn tiểu thuyết Song Hương của Bà Dương Như Nguyện không phải là sách hướng dẫn du lịch cho những người cần đến Paris, mà phải tả hết tất cả danh lam thắng cảnh của thủ đô ánh sáng! Cuốn sách của bà cũng không phải sách du lịch cho người Mỹ đến thăm sông Hương ở xứ Huế!

 

Tóm lại tôi không biết phải bất b́nh, phẩn nộ trưóc những bắt bẽ phi lư, thô tục, và đầy ác ư của ông Kim Thanh hay phải ph́ cười. Ít ra bài viết của ông cũng có một công dụng là giúp giới trẻ hiểu thế nào là sự « phản bội của thức giả » mà Julien Benda đă phân tích một cách sâu sắc trong tác phẩm trứ danh « La trahison des clercs » ( Sự phản bội của thức giả ). Benda tố cáo phong cách của các thức giả đă chối bỏ quyền tự do phê phán của ḿnh khi họ phục vụ cho một quyền lợi hay một phe phái. Và khi họ quan niệm rằng ưu tiên trên hết là phải làm cho phe ḿnh thắng cuộc cho dù phải ếm nhẹm đi những sai lầm và gian dối của phe ấy th́ họ đă phản bội lại cái thiên chức của bậc thức giả.

 

Tôi đă nói ở trên về cuộc khủng hoảng triền miên của hệ thống Đại Học Pháp và giá trị rất tương đối của bằng tiến sĩ Pháp, nhưng dù cho là tiến sĩ của đại học Sorbonne, Trouville, Brives la Gaillarde hay của đại học Yale, Sioux-City hay Oglalala ở Nebraska, có một điều tối thiểu mà một người mang danh tiến sĩ phải tôn trọng, đó là khi đề cập đến một vấn đề phải tiên quyết truy t́m và đối chiếu các nguồn tư liệu và không được bóp méo những tư liệu đó.

 

Đại Học Oregon ở Hoa Kỳ phải chăng là một trường hợp ngoại lệ ? Và khi ông Kim Thanh chỉ trích thái độ khoe khoang, tự phụ và cái thứ tri thức dỏm, tôi chỉ có thể đồng ư mà thôi. Nhưng về tác giả của « Con gái của Sông Hương, » tôi có cảm tưởng là ông Kim Thanh ở trong t́nh trạng của một ông cụ ṃ mẩm t́m cái ch́a khóa của ḿnh ở chổ nó không rớt xuống với lư lẽ là chỉ có nơi đó có ánh sáng.

 

TQA

Thông Báo về giải thưởng International Book Awards dựa tr ên tin của Amazon

Posted on October 28, 2012

THÔNG BÁO DỰA TRÊN TIN CỦA AMAZON

 

Cuốn tiểu thuyết Mimi and Her Mirror (Mimi và Tấm Gương Soi) của Uyên Nicole Dương (Dương Như Nguyện) viết bằng tiếng Anh, do AmazonEncore, thuộc công ty Amazon Corporation, xuất bản, vừa đoạt giải nhất trong cuộc thi giải thưởng sách quốc tế 2012 (International Book Awards 2012), dạng tiểu thuyết đa văn hóa (category: multicultural fiction), được tổ chức bởi JPX Media Group của Los Angeles, tiểu bang California, Hoa Kỳ.

 

Hàng chục ngàn tác phẩm Anh ngữ, đủ loại, từ khắp nơi trên thế giới, tiểu thuyết cũng như nghị luận, đă dự thi giải thưởng này. Một số các tác phẩm đoạt giải được xuất bản bởi các nhà xuất bản truyền thống hoặc kỳ cựu của Mỹ như Turner Publishing, Harper-Collins, Penguin Portfolio, AmazonEncore.

 

Cuốn truyện Postcards From Nam cũng của tác giả Uyên Nicole Dương, do AmazonEncore xuất bản (Lưu ư: Ấn bản tiếng Việt « Bưu Thiếp Của Nam » do giáo sư Đoàn Khoách Thanh Tâm dịch và Văn Mới xuất bản năm 2009), chiếm hạng nh́ (finalist), trong cùng phân loại tiểu thuyết đa văn hoá. Vậy là một nhà văn Việt Nam đă chiếm hai giải trong giải thưởng International Book Awards năm 2012.

 

Hai tác phẩm được chọn cho giải thưởng này nằm trong bộ ba tiểu thuyết (trilogy) của Dương Như Nguyện (bút hiệu Uyen Nicole Dương cho các tác phẩm tiếng Anh) do AmazonEncore xuất bản. Bộ ba tiểu thuyết này mô tả thảm cảnh cũng như đời sống của người di dân gốc Việt sau 1975, trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam chấm dứt với sự sụp đổ của Sàig̣n.

 

Amazon Corporation đă quyết định đem 2 cuốn sách của Dương Như Nguyện vào dự thi giải thưởng này. Việc AmazonEncore tham gia dự thi xảy ra trong thời gian tác giả đang phục vụ chương tŕnh Học Giả Fulbright ở ngọai quốc qua sự bảo trợ của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, v́ thế chính tác giả cũng không biết là tác phẩm của ḿnh đă đoạt giải, cho đến nhiều tháng sau, khi bà đă kết thúc chương tŕnh Fulbright và quay trở lại Mỹ.

 

Độc giả có thể t́m bản dịch bằng cách liên lạc với :

 

Hương Thanh riverhuong2005

 

 

award 1

 

award 2

 

LỜI B̀NH

 

« ‘Mimi và Tấm Gương Soi’ là một cuốn tiểu thuyết trường thiên táo bạo và vô cùng mạnh mẽ, viết bởi một nhà văn có tài, đem đến tiếng nói cho một trong những cộng đồng di dân thành công nhất trong lịch sử nước Mỹ. Đây là một cuốn sách nên đọc. Tôi thán phục kiến thức rất rộng của bà Dương, ḷng can đảm, tri thức và khả năng của bà khi bà kết nạp hai bộ môn khác hẳn nhau : đó là văn chương và luật hoc… » Giáo sư đại học FloridaState và nhà văn đoạt giải Pulitzer Robert Olen Butler (2010).

 

« Ba` Wendy Dương viết văn với sự gợi cảm mong manh, làm cho độc giả phải sống dưới da các nhân vật. Truye^.n ba` viết làm chúng ta phải suy nghĩ lại về những thế lực muo`ng tượng đă tạo ne^n lịch sử giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. » Nhà văn và Ky’ gia ? June Cross, Giáo Sư Thực thụ Nga`nh Ba’o Chi’ Dai Học Columbia, Chu Nhie^.m Truyền H́nh đuo.c Gia ?i Emmy, và tác giả cuốn Secret Daughter (Nhà Xuất Ban Penguin).

 

«‘Postcards from Nam’ là một cuốn tiểu thuyết ngắn đúng nghĩa khi chúng ta đếm chữ. Tuy thế, tác phẩm này kể lại những mẩu chuyện trường thiên về kinh nghiệm Việt Nam…những kinh nghiệm phức tạp nhất của con người, trải dài cả một thế kỷ » Trích Postcards from Nam, lời bàn của một độc giả, G.B.A. Nash 2009 (AmazonEncore 2011).

 

« Trong một tập thể như tập thể người Việt hải ngoại, ngày nào c̣n có một người – dù chỉ một người thôi – vẫn cưu mang và bảo tŕ một số giá trị, th́ nguồn mạch tinh thần và di sản văn hóa vẫn c̣n có hy vọng vươn lên.

 

Nếu tôi nhớ không lầm th́ nhà văn lớn Pháp, Chateaubriand, đâu đó, có nói đến quá tŕnh sáng tạo trong hoàn cảnh như thế qua h́nh ảnh những miểng vụn của một lọ hoa bị bể nát. Theo ông, chỉ cần một bụm đất và một luồng ánh sáng là đủ làm cho những mảnh vụn đâm chồi. Nhà văn Albert Camus th́ nói đến mạch sống của những hạt giống bị vùi dưới băng tuyết suốt cả mùa Đông ở một vùng Bắc Phi hẻo lánh. Chỉ một đêm thôi, khi đất trời trở ḿnh, sáng ra, xuất hiện cả một thung lũng đầy hoa nở rộ. Quá tŕnh sáng tác và dịch thuật tác phẩm «Bưu Thiếp của Nam» hiển nhiên là một cống hiến cho tương lai trong cái nghĩa đó. »

 

Trích Trần Văn Ṭng, Vài cảm nghĩ về Bưu Thiếp Của Nam” (Văn Mới 2009).

 

« Tôi có con gái sống ở Bangkok trong 5 năm và làm việc với người ty ̣ nạn. Tôi thấy kiến thức về người tỵ nạn Việt Nam trong cuốn sách này thật soi sáng và hữu ích. Văn phong biến ảo của Uyên Nicole Duong biến tất cả những kinh nghiệm này trở thành thực tế cho độc giả, trở thành chiếc cầu gắn liền hai thế hệ.…»Một độc giả của Amazon.com online (July 2012)

 

Literary R&R

 

“Any book that helps a child to form a habit of reading, to make reading one of his deep and continuing needs, is good for him.” – Maya Angelou

 

WEDNESDAY, OCTOBER 5, 2011

 

Review: Postcards from Nam by Uyen Nicole Duong

 

 

 

 

ISBN #:978-1612180182

 

Page Count:114

 

Copyright:2011

 

Book Summary:

 

(Taken from Amazon)

 

Mimi is a successful young Vietnamese immigrant practicing law in Washington, D.C. when the postcards begin to arrive. Postmarked from Thailand, each hand-drawn card is beautifully rendered and signed simply “Nam.” Mimi doesn’t recognize the name, but Nam obviously knows her well, spurring her to launch what will become a decade-long quest to find him. As her search progresses, long-repressed memories begin to bubble to the surface: her childhood in 1970s Vietnam in a small alley in pre-Communist Saigon. Back then, Nam was her best friend, a gifted artist who dreamed of someday sending his work around the globe. But when the children were separated by war, their lives diverged onto different paths: one to freedom and opportunity, the other to tragedy and pain. Now Mimi must uncover Nam’s story from the ensuing years, including his harrowing escape by boat from his ravaged homeland. Throughout her search, she clings to the hope that, despite the distance between them, the friends can share solace in the artwork that has reunited them.

 

Charlene’s Review:

 

As an introduction/dedication, Uyen Nicole Duong begins Postcards from Nam with these words:

 

Although this novella is fictitious, the idea that started this novella comes from a real-life story. Dead at sea or living outside of Vietnam in memory of their past, those Vietnamese Boat People who once knew me as a young girl in Vietnam will always remain the impetus for my writing.

 

A third in a series of stories, it stands well on its own. So begins the story of Mimi, a refugee of the American airlift during the fall of Saigon. Now a successful lawyer, Mimi has moved on from that part of her life, but as her theory states, ‘We never completely forget. We just bandage ourselves.‘ A series of postcards from the mysterious “Nam” starts to uncover all those old memories. At first, with the bandage firmly in place, Mimi cannot recall who this mysterious writer could be, but after several postcards show up with personal comments to the girl she used to be, Mimi recalls her childhood neighbor, the “pretty boy,” and the memories associated that begged her to forget. Eventually, Mimi embarks on a mission to find the man who pens such beautiful words and disturbing pictures.

 

In the journey, she encounters some ugly truths about what the Boat People had to endure, and what the always-loyal Nam has become. This may well have been the hardest review I have had to do. A child during the fall of Saigon, I do not remember much and as an American, always believed I was immune to that tragedy. Reading Postcards from Nam was haunting. I truly struggle to give this book its justice. There is a lyrical quality to the writing that belies the horror of the Vietnamese refugees. Uyen Nicole Duong writes a chilling story of past injustice, and the continuing healing of a people who fought to retain dignity in an abominable reality. It is also a love story, of sorts, but not in a traditional sense. Nam’s devotion to Mimi (Mi Chau) is not lustful or simple, but a loyalty to what could have been, and the duty he felt, as a child, to protect her from what was happening around them.

 

Extremely powerful and achingly beautiful, Postcards from Nam is a testament to the human spirit’s ability to survive and its need to persevere.

 

Posted by Avid Book Reader at 12:50 PM

 

About these ads

 

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Like

Be the first to like this.

This entry was posted in Uncategorized. Bookmark the permalink.

← Ts Nguyễn Kim Quư chỉ trích tác phẩm ” Con gái của Sông Hương” của Dương Như Nguyện và bài trả lời của ThaiQuangAnh

 

 

 

 

 


 


 

 

 

 

 

http://www.youtube.com/user/khieuvusaigon#g/u

http://www.youtube.com/user/vgdoanchinhthuan?feature=watch

 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: