|
|||||||
|
P R A V D A (SỰ THẬT)
Tôi về đến nhà, đă thấy chiếc xe môtô mầu đen của trung sĩ Ấn đỗ trong sân. ẤỊn giơ tay chào, đưa cho tôi một phong b́ mầu vàng của ṭa án Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay. Phong thư đóng dấu “tối mật”. Tôi xé ra. Bức thư bên trong chỉ vỏn vẹn mấy ḍng chữ đánh máy. Nhưng tôi đọc rất lâu. Tôi kư vào sổ biên nhận, rồi bước vào trong nhà. Ấn có chào tôi hay không, và chiếc môtô rồ máy bỏ đi lúc nào, tôi cũng không để ư. Tôi đang bận nghĩ đến hắn.à.. ***
Cách đây khoảng 3 tháng, luật sư đoàn Saigon chỉ định tôi biện hộ cho hắn trước ṭa án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật. Hắn là tên đặc công đă bị bắt trong khi đặt chất nổ trên đường Tự Do. Hắn bị truy tố về tợi phản nghịch và mưu sát. Hắn có thể bị tử h́nh. Sau khi xem xong hồ sơ, tôi vào nhà lao để gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp, và cũng là một đa mê nghề nghiệp. Nói truyện với tử tù, thường phạm hay chính trị phạm, đôi khi hấp dẫn hơn là đọc một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất. Tôi ngồi trong pḥng đợi, nh́ợn ra vạt sân nắng bên kia chấn song sất, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trỗi (2). Trước đây. Trỗi cũng đă ngồi nói truyện với tôi trong căn pḥng này. Trỗi khóc như một đứa con nít, thỉnh thoảng đưa hai tay lên vắt nước mũi rồi quệt xuống gầm bàn. Trỗi c̣n trẻ, mới 25 tuổi, nhưng trông già như người 40. Hắn trẻ hơi Trỗi. Khi nhân viên nhà lao dẫn hắn đến gặp tôi, miệng hắn đang c̣n nhai nhóp nhép, h́nh như là khô mực. Người hắn sặc mùi dầu khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế trước mặt, rồi chăm chú nh́n tôi. Lúc đó tôi mới để ư đến cái đầu húi cua và khuôn mặt non nớt của hắn. Khác hẳn với tấm h́nh đăng trên các báo: tóc dài bù xù, và mặt nhăn nheo như mang đầy thẹo. Tôi mỉn cười hỏi: “Em vừa húi tóc?”. Hắn gật. Tôi lại hỏi: “Em là Trần Văn Đang?”. Hắn gật.
- Em có bí danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm Lựu Đạn, có phải vậy không? Hắn gật. - Em bị bắt khi đặt chất nổ trên đường Tự Do, có phải vậy không? Hắn gật. Tôi nói cho hắn biết: tôi là luật sư sẽ căi cho hắn trước ṭa, và hôm nay tôi vào nhà lao gặp hắn để t́m hiểu thêm về tội trạng của hắn. Tôi yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc từ đầu đến cuối, để giúp tôi phối kiểm lại hồ sơ. Hắn nh́n tập hồ sơ trên bàn, rồi nh́n ra ngoài sân rất lâu, như đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng nh́n hắn, và chợt thấy hắn dễ thương. Hắn vẫn ngồi im. Tôi hỏi: “Khi lấy cung, người ta có tra tấn và hăm dọa em không?”. Hắn mở to mắt nh́n tôi. Tôi lại giục: “Em nên kể lại tất cả sự việc, từ lúc được móc nối cho đến khi bị bắt, bị hỏi cung. Em kể lại hay không, đó là quyền của em. Em cũng có thể từ chối không nhận tôi là luật sư của em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em”. H́nh như tôi c̣n nói nhiều nữa. Tôi muốn đến gần hắn, tôi muốn được “hân hạnh” nói chuyện với hắn. Hắn nh́n tôi, tỏ vẻ dè dặt. Tôi đợi một lúc khá lâu, rồi lại hỏi: “Tất cả những điều em khai trong hồ sơ đều là sự thật, có phải vậy không?” Hắn gật đầu một cách thản nhiên. Bên ngoài, vạt nắng đă thu hẹp lại ở góc tường bao quanh cái sân nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng quát tháo, tiếng chửi thề, đă bắt đầu thưa thớt. Tôi không đeo đồng hồ, và trong pḥng cũng không có đồng hồ, nhưng tôi đoán lúc đó khoảng 4 giờ chiều, nghĩa là gần hết giờ thăm nuôi phạm nhân. Riêng tôi, v́ là luật sư, tôi có thể nói chuyện với thân chủ cho đến 5 giờ chiều. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với luật sư. Tôi đành phải làm cái công việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm tắt hồ sơ và đọc những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân chủ hoặc xác nhận, hoặc phủ nhận. Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm phúc tŕnh của Công An và An Ninh Quân Đội. Cô thư kư của tôi đă chép độ 20 trang quan trọng nhất. Riêng tôi đă lận đận trọn một ngày ở ṭa án Mặt Trận để đọc lại toàn bộ hồ sơ và ghi chú thêm. Lận đận như vậy, v́ lương tâm nghề nghiệp, và cũng v́ ṭ ṃ nghề nghiệp. Trong những vụ án chính trị tại miền Nam, tôi đă tiêu hoang cả tháng trời tại ṭa án, để đọc và suy nghĩ về những lời khai của các bị can. Nhờ đó, tôi đă hiểu được phần nào cái uyên thuyên đă khiến văn hào Nhất Linh Nguyễn Trường Tam uống thuốc độc tự vận, một ngày trước khi ṭa xử (3). Tôi giở hồ sơ hắn ra và bắt đầu đọc: Hắn sinh tại G̣ Dầu Hạ, bố vô danh. Mười lăm tuổi, hắn mồ côi mẹ và được người chú mang lên làm công cho một tiệm sửa xe Vespa tại đường Trương Minh Giảng, Saigon. Trong thời gian sống ở Saigon, hắn làm quen với một tên Tư. Tên này “xây dựỳng” hắn, và gửi hắn vào bưng học tập. Bốn tháng sau, hắn trở về Saigon hoạt động trong tổ đặc công của tên Tư. Một ngày trước khi bị bắt, hắn được tên Tư cho đi ăn uống tại một quán ăn hẻm đường Nguyễn Huệ. Sau bữa ăn, cả hai thả bộ ra đường Tự Do để quan sát địa điểm hành động. Đó là một cái “bar” Mỹ mà hắn đă từng đi ngang qua nhiều lần. Chiều hôm sau, một buổi chiều thứ Bảy, tên Tư đem về hai cái bọc, mỗi cái đựng 10 kư lô thuốc nổ và một bộ phận nổ chậm. Tên Tư gài bổ phận nổ chậm, rồi đặt cái bọc thứ nhất trong thùng một chiếc Vespa mầu xanh. Cái bọc thứ hai được đặt trong thùng một chiếc Vespa mầu trắng. Rồi cả hai cùng đi tới địa điểm hành động. Lúc đó, đồng hồ nhà tên Tư chỉ đúng 5 giờ 15 phút. Hắn cỡi chiếc Vespa mầu xanh, tên Tư cỡi chiếc xe mầu trắng, hai xe cách nhau khoảng 200 thước. Hắn có nhiệm vụ phá cái bar Mỹ đă quan sát chiều hôm trước. C̣n tên Tư có nhiệm vụ phá cái bar Mỹ khác gần khách sạn Eden Rock ở cuối đường Tự Do. Khoảng 15 phút sau, hắn tới cái bar Mỹ. Hắn ngừng xe lại, c̣n tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường Tự Do. Hắn xuống xe, nhấc chiếc Vespa lên lề đường, rồi giắt chiếc xe về phía cái bar Mỹ. Theo chỉ thị của tên Tư, hắn có nhiệm vụ đỗ chiếc xe Vespa trước cửa cái bar Mỹ rồi bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn biết: quả ḿn sẽ nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng hồ. Hắn biết chắc hắn c̣n nhiều th́ giờ, ít nhất là 20 phút để thi hành phận sự. Hắn lấy chân đạp vào chiếc cần sắt của chiếc Vespa, kéo ngược chiếc xe Vespa lên và dựng chiếc Vespa ngay trước cửa bar. Hắn chưa kịp bỏ đi, th́ người cảnh sát đứng bên kia đường thổi c̣i và ngoắc tay làm hiệu cho hắn phải giắt chiếc xe đi chỗ khác. Hắn đâm ra lúng túng, và trong lúc hạ cần xe xuống, hắn làm đổ chiếc xe Vespa. Hắn h́ hục dựng chiếc xe Vespa lên. Người cảnh sát bên kia đường lại thổi c̣i. Hắn đâm ra hốt hoảng. Chiếc Vespa trở nên quá nặng đối với hắn. Hắn sẽ phải dựng chiếc xe lên. Hắn sẽ phải dắt chiếc xe đi chỗ khác, và... hắn chợt nhớ tới quả ḿn. Quả ḿn sẽ nổ banh xác hắn. Hắn không kịp nghĩ thêm ǵ nữa. Hắn rầm chạy. Hắn chạy ngược về phía tiệm sơn mài Thành Lễ. Mấy người cảnh sát bên kia đường rút súng, huưt c̣i đuổi theo. Và hắn đă bị bắt. Khoảng 20 phút sau, nhân viên cảnh sát lục soát chiếc xe Vespa và đă t́m thấy quả ḿn. Theo phúc tŕnh của cảnh sát, th́ bộ phận nổ chậm bị hư, nếu không, quả ḿn đă nổ vào lúc 5 giờ 50 phút, nghĩa là lúc hắn đang lúng túng với chiếc xe Vespa. Theo hồ sơ, hắn nhận hết tội, tại Công An cũng như tại An Ninh Quân Đội, và không một lần nào phản cung. Hắn có vợ và một đức con trai 10 tháng. Tôi đọc hồ sơ thật chậm, thỉnh thoảng ngước mắt lên nh́n hắn, chờ đợi ở hắn một phản ứng, một cử chỉ, một lời nói. Nhưng tôi đă đọc hết ḍng chót, mà hắn vẫn ngồi im, mặt cúi gầm xuống đất. Có lẽ hắn không nghe tôi đọc. Tôi muốn hỏi hắn về những điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư nào đó. Nhưng nhân viên nhà lao đă bước vào cho biết tôi chỉ c̣n đúng 5 phút với hắn. Tôi nh́n ra ngoài, thở dài. Vạt sân đă hết nắng. Khi xốc hồ sơ bỏ vào cặp, tôi vô ư làm rớt tấm ảnh của thằng con trai tôi mới được 8 tháng. Tôi chợt nhớ ra: hắn cũng có một đứa con trai trạc tuổi đó. Tôi hỏi: “Từ ngày em bị bắt, em đă gặp con chưa?” Hắn nh́n tôi rất nhanh, đôi mắt vụt trở nên khẩn thiết. Tôi lại hỏi: “Em có muốn gặp vợ con em không?” Hắn túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực, rồi nói vội vàng: “Ông có giúp tôi được không?” Tôi gật. Lúc đó hắn mới cho tôi biết: theo lời khuyên của tên Tư, một tuần trước khi đặt chất nổ, hắn đă cho vợ con về sống với quê ngoại ở Mỏ Cầy. Hắn hy vọng vợ hắn đọc báo đă biết tin hắn bị bắt và đă đem con lên Saigon ở với người chú. Hắn cho tôi hai địa chỉ ở miệt Cầu Ông Lănh, và xin tôi làm mọi cách để vợ con hắn vào thăm hắn trong tù. H́nh như hắn muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao đă bước vào đem hắn đi. Hắn bỗng nắm chặt bàn tay tôi, cánh tay run run. Hắn nh́n tôi, và tôi thay mắt hắn ướt. Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái xe thẳng đến khuôn viên nhà thờ Đức Bà, gởi xe cho một đứa bé, rồi thuê xích lô đạp về chợ Cầu Ông Lănh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi không t́m thấy vợ con hắn. Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thư,một cho người chú, một cho vợ hắn, báo tin ngày ṭa xử và nhắn vợ hắn đến văn pḥng tôi để làm thủ tục xin giấy đi thăm nuôi chồng. Kư xong bức thư, tôi vào nhà lao báo cho hắn biết về cuộc t́m kiếm của tôi. Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đă bị trả về An Ninh Quân Đội để bổ túc hồ sơ. Từ hôm đó đến ngày xử, tôi không có dịp gặp hắn nữa. Hôm ṭa xử, tôi đi rất sớm. Mới 8 giờ sáng tôi đă có mặt ở bến Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng ṭa án Mặt Trận, tôi thấy một thiếu phụ ôm con ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái lẵng mây. Không hiểu sao tôi nghĩ đó là vợ hắn. Tôi đỗ xe trong sân ṭa án, rồi đi bộ ra cổng gặp người thiếu phụ. Tôi hỏi ngay: “Chị là vợ anh Đang?” Thiếu phụ gật. Tôi hỏi: “Chị được tin hôm nào?” Thiếu phụ cho biết: khi đọc báo biết tin chồng bị bắt, chị muốn lên Saigon ngay, nhưng v́ đứa con đau nặng, nên ông bà già không cho đi. Cách đây bốn hôm, chị nhận được thư của người chú báo tin ngày ṭa xử, vả lại đứa con cũng đă gần hết bịnh, nên ông bà già cho đi. Tôi nh́n đứa bé nằm ngủ trong ḷng mẹ. Da nó xanh mét. Thỉnh thoảng nó cựa ḿnh rên khe khẽ, người mẹ lại vỗ nhẹ lên ḿnh nó để ru. Chị ta hỏi tôi: “Thưa ông, liệu ảnh có việc ǵ không?” Tôi không t́m được câu trả lời. Tôi nh́n đúa bé rồi hỏi: “Cháu được mấy tháng?” Chị ta trả lời: “Con sanh cháu được 10 tháng th́ ảnh bị bắt”. Bỗng có tiếng c̣i hụ và tiếng người nhốn nháo. Tôi nh́n về phía đường Bạch Đằng. Một chiếc xe nhà binh đang trờ tới. Đó là xe chở tội nhân. Những người đứng dưới đường vội vàng giạt ra hai bên để cho xe quẹo vào cổng ṭa án. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nh́n thấy hắn, và người vợ cũng nh́n thấy chồng. Chị ta vội vă đứng lên, một tay xách chiếc lẵng mây, một tay ôm con, lễ mễ chạy vào trong sân ṭa. Đoàn tội nhân đă xuống khỏi xe, đứng xếp hàng giữa sân ṭa. Hắn đứng ở hàng chót, ngơ ngác nh́n quanh như t́m kiếm. Vợ hắn gọi lớn:” Anh hai, em và con đây nè”. Hắn quay mặt về phía tiếng gọi, và khi trông thấy vợ hắn, hắn giơ hai tay bị c̣ng lên như muốn ôm gh́ một h́nh bóng. Vợ hắn đứÔng cách xa hắn chỉ một khoảng sân nhỏ. Chị ta bỏ chiếc lẵng mây xuống đất, ôm con xăm xăm chạy về phía hắn. Nhưng người lính đă ngăn chị ta lại, rồi ra lệnh cho đoàn tội nhân đi vào hành lang. Đây là một lối đi lộ thiên, nằm giữa hai bức tường của hai rẫy nhà quay lưng vào nhau. Người ta dùng chỗ đó để tạm giữ tội nhân, trong khi chờ ṭa gọi tội nhân ra trước vành móng ngựa. Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường. Tay hắn đă được mở c̣ng. Vợ hắn lễ mễ ôm con lại gần. Người lính định cản lại, nhưng thấy tội nghiệp, nên đă để cho đi qua. Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi thụp xuống đất bên cạnh người chồng, rồi khóc nức nở. Hắn không khóc, mở to mắt nh́n về trước mặt, một tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc con. Lúc sau, người vợ lấy vạt áo lau nước mắt, rồi lấy ở trong lẵng ra một xị nước ngọt đựng trong túi ni lông đưa cho chồng: “Anh uống đi cho đă khát, em có mua cho anh ổ bánh ḿ thịt để ở trong lẵng”. Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước ngọt đưa lên môi, nhưng tay kia vẫn sờ trên ḿnh đứa con, đôi mắt dịu hẳn xuống. Trong một lúc t́nh cờ, hắn ngửng đầu lên. Hắn nh́n thấy tôi đứng bên kia tường. Tôi giơ tay làm hiệu chào hắn. Chỉ c̣n độ một hai giờ nữa, ṭa sẽ kêu đến vụ hắn. Tôi muốn nói chuyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn cuộc xum họp mà tôi linh cảm là cuộc xum họp lần chót. Tôi thở dài ái ngại, rồi bỏ đi ra phía sân ṭa. Thời gian như chậm lại. Hắn, con hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu tôi. Làm thế nào để cứu hắn khỏi chết? Làm thế nào để ṭa án hiểu rằng: hắn, cũng như Nguyễờn Văn Trỗi, cũng như bao thanh thiếu niên khác, chỉ là nạn nhân đáng thương của một hệ thống đểu cáng và vô nhân đạo nhất lịch sử loài người. Hệ thống đó , là đảng CSVN cuả tên Hồ Chí Minh làm nghiă vụ quốc tế. Măi mười một giờ trưa, ṭa mới kêu đến tên hắn. Hắn từ hành lang đi ra, bên cạnh hai người lính. Vợ hắn lễ mễ ôm con theo đằng xa, rồi ngồi xuống một chiếc ghế cuối pḥng xử. Pḥng xử hôm đó đông nghẹt dân chúng. Bên ngoài, trời oi ả như sắp có cơn giông. Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non nớt hơn cái hôm tôi gặp hắn trong nhà lao. Da hắn xanh méÔt, và nét mặt thản nhiên. Tôi đến bên hắn, hắn quay lại nh́n tôi một thoáng rồi lại nh́n thẳng đằng trước mặt. Không khí nặng nề. Cả pḥng xử im lặng. Đại tá chánh thẩm hỏi lư lịch, rồi truyền cho hắn trở về ghế bị can để nghe bản cáo trạng. Tôi cũng từ vành móng ngựa đi theo xuống ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như để tỏ ḷng biết ơn. Viên lục sự bắt đầu đọc bản cáo trạng, tiếng ông ta vang lên đều đều. Cả ṭa, từ ông chánh thẩm, ủy viên chính phủ, đến công chúng ngồi dưới, đều lắng tai nghe. Chỉ có hắn là không. Hắn nh́n đăm đăm đàng trước mặt, như đang suy nghĩ. Có lẽ hắn nghĩ tới vợ con hắn. Một lần, tôi chợt thấy hắn quay đầu lại nh́n xuống cuối pḥng xử, như muốn t́m xem vợ con hắn ngồi ở đâu. Bỗng nhiên, mặt hắn biến sắc, tay hắn run run, đầu cúi gầm xuống. Viên lục sự đă đọc xong bản cáo trạng. Hắn rời chiếc ghế bị can, rồi cùng tôi bước lên vành móng ngựa. Ông chánh thẩm hỏi: “Anh đă nghe bản cáo trạng. Anh bị cáo về tội phản nghịch và mưu sát. Anh có nhận tội không?” Hắn gật đầu. - “Anh có thể kể lại cho ṭa nghe tất cả sự việc từ đầu đến cuối không?” Hắn nh́n ông chánh thẩm, nh́n bồi thẩm đoàn, nh́n ủy viên chánh phủ, nh́n tôi, rồi lắc đầu. Ông chánh thẩm lại hỏi: “Có phải anh đă đỗ chiếc Vespa trước cái bar Mỹ?” hắn gật. - Anh có biết chiếc Vespa có chất nổ không?” H ắn gật - Anh đỗ chiếc Vespa trước cửa Bar, để phá cái ba đó, có phải không?” Hắn gật. Tên Tư bao nhiêu tuổi? Hắn nh́n ông chánh thẩm, không trả lời Ông chánh thẩm nh́n tôi, tôi nh́n ông ta. Một bên ở vào cái thế khó xử, một bên ở vào cái thế khó căi. Đại Tá UƯy Viên Chánh Phủ bỗng hỏi lớn: “Tại sao bị can không trả lời?” Hắn ngước mặt nh́n ủy viên chánh phủ, rồi đứng im như pho tượng. Khi ṭa trao lời cho ỦƯy Viên Chánh Phủ chính thức đặt câu hỏi, th́ ỦƯy Viên Chính Phủ nhún vai, như muốn nói với ṭa rằng ông không có ǵ để hỏi một bị can chỉ biết gật đầu với lắc đầu. Nhưng chỉ một vài giây sau, ông cất tiếng như hét: “Thằng Tư, tên thật nó là ǵ. Địa chỉ nó ở đâu?” Hắn lại nh́n ủƯy viên chính phủ rồi im lặng. Một lần nữa, ủy viên chính phủ lại nhún vai và làm cái cử chỉ quen thuộc để ṭa hiểu rằng ông ta không c̣n ǵ để hỏi nữa. Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi hắn: “Khi bị lấy cung tại Công An và An Ninh Quân Đội, em có bị tra tấn, hoặc bị hăm dọa không?” Hắn lắc đầu. Tôi lại hỏi: “Em có hối hận v́ đă trót nghe lời dụ dỗ của tên Tư không? Hắn cúi gằm mặt xuống lắc đầu. Tôi đă đưa ra hai cây sào để cứu hắn. Không ngờ hắn đă từ chối không nắm lấy, và h́nh như c̣n thích thú để cho nước cuốn trôi đi. Nước mắt người vợ và t́nh thương con đă không làm hắn thay đổi. Một đời luật sư ngang dọc trong nhiều vụ án cuả thế kỷ, tôi đă gặp nhiều bất trắc, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy ḿnh bất lực như hôm đó. ỦƯy Viên Chánh Phủ đứng lên buộc tội. Trong 20 phút hùng biện, ông gay gắt lên án bị can. Ông nhấn mạnh đến trường hợp quả tang phạm pháp, đến bản chất của tội trạng (phản nghịch và mưu sát) và sự ngoan cố của bị can. Ông kết luận: “Trong cuộc đấu tranh chống lại bọn cộng sản “kẻ thù của dân tộc” chúng ta cần phải nghiêm trị những bọn phá hoại, những tên cán bộ nằm vùng, những tên đặc công khủng bố giết người không gớm tay. Nếu hôm đó quả ḿn nổ, bao nhiêu dân chúng qua đường đă bị chết thảm, bao nhiêu người dân vô tội đă bị què cụt đui mù...” Ông yêu cầu ṭa lên án tử h́nh. Ṭa trao lời cho tôi. Trách nhiệm của tôi quá lớn, và nhiệm vụ của tôi quá khó khăn. Tôi biện hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và mưu sát với trường hợp gia trọng. Bị can ấy đă nhận tội tại Công An, tại An Ninh Quân Đội, và trước ṭa án. Bị can ấy từ đầu đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối không trả lời ṭa án, không trả lời Ủy Viên Chánh Phủ, không trả lời luật sư. Bị can ấy im lặng tuyệt đối, như để bảo mật cái tổ đặc công giết người của hắn, theo một mệnh lệnh.à.. Giọng tôi trầm trầm. Tôi nói, h́nh như không phải cho ṭa nghe, mà cho chính tôi nghe. Tôi nói, để cố trả lời cho những câu hỏi mà chính tôi đang thắc mắc. Tại sao hắn không có một lời để tự bào chữa? Tại sao hắn đă nhận tội một cách thản nhiên, và không một lần nào phản cung, trong hồ sơ cũng như trước ṭa án? Hắn là một tên đặc công bị bắt quả tang trong khi đặt chất nổ, chắc chắn hắn đă bị Công An tra tấn khi lấy cung. Tại sao hắn không nói điều ấy ra trước ṭa? Và trên Tư? Tên Tư là ai? Tại sao hắn lại im lặng không chịu cung khai về tên Tư? Tại sao hắn lại từ chối không trả lời những câu hỏi có lợi cho hắn? Không ai muốn chết. Không ai muốn bị hành quyết. Không ai muốn bị đánh chết như một con chó ở góc tường. Không ai muốn bị bắn gục như những nhân vật trong tiểu thuyết Kafka. Huống chi, hắn mới hai mươi mốt tuổi, có vợ, có con, và thương vợ thương con. Thế th́ tại sao hắn lại phải im lặng? Chỉ có một câu trả lời. Hắn bị cưỡng ép phạm tội ác, và sau khi nội vụ đổ bể, hắn vẫn bị theo dơi. Hắn sợ vợ con hắn bị trả thù, hắn đă phải im lặng, tuyệt đối im lặng. Biết đâu trong pḥng xử hôm nay, lại không có tên Tư nào đó đang ngồi theo dơi hắn. Hướng về phía ông ỦƯy Viên Chánh Phủ, tôi nói như tâm sự: “Tôi đồng ư với ông là chúng ta, những người quốc gia, phải thẳng tay trừng trị, nếu cần, phải giết những tên đặc công Việt Cộng gian manh, những tên cán bộ khát máu, những tên đặc công giết người không gớm tay. Nhưng trong hiện vụ, tôi không nghĩ rằng bị can là một tên Việt cộng gian manh, một tên cán bộ khát máu, một tên giết người không gớm tay. Và đây là điểm cực kỳ quan trọng: quả ḿn hôm ấy đă không nổ”. Kết luận, tôi yêu cầu ṭa khoan hồng. Bị can mới hai mươi mốt tuổi, chưa hề can án, có vợ c̣n trẻ và con c̣n nhỏ, v́ vậy đáng được hưởng sự khoan hồng của luật pháp. Sau lời biện hộ của tôi, ṭa hỏi hắn: “Luật sư đă biện hộ cho anh rồi. Anh có quyền nói lời chót. Anh muốn nói ǵ không?” Hắn lắc đầu. Ṭa ngưng xử, bước vào pḥng để nghị án. Khoảng một giờ sau, ṭa trở ra tuyên án: tử h́nh. Lập tức, hắn bị c̣ng tay mang đi. Lúc đó đă quá trưa, những đám mây đen từ đâu kéo về bao kín cả một góc trời đă mất ánh sáng. Dân chúng kéo nhau ra về. Tôi xách cặp đi ra xe như người mất hồn. Khi lái xe qua cổng ṭa án, tôi thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc. Tôi về văn pḥng, viết đơn xin ân xá cho hắn. Đây chỉ là một thủ tục ṭa án, nhưng tôi đă làm với tất cả sự cẩn trọng của một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. V́ nhân đạo. V́ nghề nghiệp. Và cũng v́ trường hợp cá biệt của hắn. Hắn khác Nguyễờn Văn Trỗi. Nguyễn Văn Trỗi khóc lóc van xin trước ṭa, và sau khi bị ṭa lên án tử h́nh, Trỗi đă hô lớn “Hồ Chí Minh muôn năm”. Hô xong lại khóc, lại van xin. C̣n hắn, hắn nín thinh. Không khóc lóc, không van xin, không hô khẩu hiệu. Hắn khác Nguyễờn Hữu Thọ. Nguyễn Hữu Thọ (4) huênh hoang và cao ngạo trước ṭa. Hắn chịu đựng, nhẫn nhục, đến độ gần như khác kỷ (stoique). Tôi nghĩ đến con chó sói cuả thi hào Vigny.
***
Ba tháng đă trôi qua. Bức thư của ṭa án Mặt Trận mà trung sĩ Ân đưa cho tôi chiều hôm nay chỉ vỏn vẹn mấy ḍng chữ đánh máy: “Trân trọng báo để luật sư tường: đơn xin ân xá của Trần Văn Đang đă bị bác. Ngày mai, hồi 5 giờ sáng, bản án tử h́nh sẽ được thi hành. Nếu luật sư muốn hiện diện nơi hành quyết, th́ xin có mặt tại khám Chí Ḥa vào lúc 4 giờ sáng. Trân trọng” Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ, đầu óc lởn vởn khuôn mặt của hắn, và h́nh ảnh hắn ngồi trong hành lang ṭa án, một tay để lên vai vợ, một tay sờ lên ḿnh đứa con. Chưa đầy 3 giờ sáng, tôi đă thức dậy, đi vào khám Chí Ḥa. Tôi bước vào pḥng đợi, đă thấy một nhà sư gầy g̣ mặc nâu ṣng đang ngồi lần chuỗi hột. Viên quản đốc nhà lao cho tôi biết: nhà sư đă đến trước tôi cả nửa giờ. Lát sau, một linh mục (tên là Thông) béo tốt bước vào, trong bộ quân phục thiếu tá tuyên úy. Bốn giờ ba mươi phút, ỦƯy Viên Chính Phủ đến. Rồi đoàn người, gồm viên quản đốc nhà lao, ủy viên chính phủ, luật sư, và hai vị tuyên úy, lặng lẽ đi vào một căn pḥng rộng. Thường nhật, đây là chỗ điểm danh tội nhân. Hắn đă ngồi ở đó tự bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo. AÔnh sáng vàng bệch của ngọn đèn cáu bụi trên trần nhà phả xuống bốn bức tường trắng xóa. Tôi chợt có ư nghĩ kỳ lạ là đang bước vào căn nhà xác của bệnh viện. Đoàn người tiến lại gần hắn. Hắn đứng dậy, đôi mắt như ḍ hỏi. Một phút im lặng, dài như một ngày. Đại tá ủy viên chánh phủ trịnh trọng nói với hắn: “Anh hăy can đảm lên, và nghe tôi đọc”. Rồi ông lớn tiếng đọc bản án tử h́nh và bản quyết định bác đơn xin ân xá của hắn. Hắn cúi đầu nh́n xuống sàn nhà, đôi mắt mở to. Người hắn run lên. Nhưng chỉ giây lát, hắn lấy lại b́nh tĩnh. Hắn hỏi: “Bao giờ người ta xử tôi?” Viên quản đốc để tay lên vai hắn; “Ngay sáng hôm nay, trước khi mặt trời mọc”. Rồi ông thân mật nói với hắn: “Bây giờ em muốn ăn uống ǵ không, khám đường sẽ chu tất cho em?” Hắn lắc đầu. Lúc đó, không ai bảo ai, mỗi người nói với hắn một vài câu an ủi. Không khí trở nên thân mật như trong một cuộc tiễn đưa. Riêng tôi chỉ nh́n hắn, tôi muốn nói chuyện riêng với hắn; đó là quyền của tôi, quyền của luật sư biện hộ. ỦƯy viên chánh phủ đồng ư, và cho tôi biết: tôi có 5 phút. Rồi đoàn người bước ra khỏi pḥng, để một ḿnh tôi với hắn. Người cuối cùng đă bước ra khỏi pḥng. Hắn nắm lấy tay tôi, và nh́n tôi rất lâu, đôi mắt ướt sủng. Tôi hỏi: “Em có muốn nói nhắn vợ em điều ǵ không?” Hắn suy nghĩ giây lát, rồi nói: “Em đă bị chúng nó lưà. Luật sư có gặp vợ em, th́ bảo đừng ở dưới vườn nữa, và cố nuôi lấy con”. Tôi hỏi:”Em chết, có điều ǵ oán hận không?” Hắn không trả lời. Tôi an ủi hắn: “Người ta, ai cũng phải chết một lần, đời sau mới là quan hệ. Em theo đạo nào?” Tôi là người Công Giáo. Tôi ước ao hắn dành một vài phút để nghĩ đếnThượng Đế và t́nh thương bao la của Thượng Đế. Nhưng ủy viên chính phủ đă bước vào nói nhỏ: “Luật sư hết giờ rồi”. Rồi ông thân mật hỏi hắn: “Ở đây có hai vị tuyên úy em muốn nói chuyện với ai? Hắn nh́n nhà sư gầy g̣ mặc áo tu hành, hắn nh́n vị linh mục béo tốt mặc quân phục thiếu tá, rồi xin được nói chuyện với nhà sư. Tôi cúi đầu đi theo ủy viên chính phủ và vị linh mục đi ra một góc pḥng. Nh́n về phía hắn, tôi thấy nhà sư cúi đầu tụng kinh, và hắn cũng cúi đầu, như lắng tai nghe kinh. Khoảnh khắc, nhà sư ngẩng đầu lên, đặt tay lên vai hắn, trong một cử chỉ vỗ về bao dung. Lúc đó, đồng hồ trên tường chỉ đúng 5 giờ sáng, giờ khởi hành. Người ta xúm lại chung quanh hắn, mỗi người nói với hắn một câu chân t́nh. Hắn như chợt nhớ ra, xin phép được thay quần áo. Một cảnh sát viên chạy lại cầm cái bọc quần áo đưa cho hắn. Hắn mở bọc, lấy ra một chiếc sơ-mi cụt màu xám, và một chiếc quần draron đen đă bạc màu. Khi hắn quay mặt vào tường để thay quần áo, tôi nh́n thấy những lằn roi trên da thịt xanh xao của hắn. Thay xong quần áo, hắn xin một điếu thuốc. Viên quản đốc nhà lao mỉn cười, rút trong túi ra một bao thuốc lá Ách Chuồn. Ông ta trịnh trọng lấy một điếu, dộng dộng trên ngón tay cái, rồi đưa cho hắn. Hắn ngậm điếu thuốc, và được viên quản đốc châm lửa. Lúc đó, nhân viên an ninh đến. Hắn ngoan ngoăn đưa hai tay chụm ra đằng trước để người ta c̣ng. Rồi đoàn người lặng lẽ đi ra. Hắn đi đầu, thản nhiên bước qua từng đợt cửa, thỉnh thoảng dùng hai tay c̣ng đưa điếu thuốc lên môi. Khi đoàn người ra tới sân nhà lao, điếu thuốc gần lụi, và hắn buông rơi xuống đất. Hắn bước lên chiếc xe bít bùng, đầu hơi cúi xuống. Cửa xe đóng sập lại. Tôi lên xe riêng, lái thật nhanh ra khỏi nhà lao. Chiếc xe của tôi lầm lũi đi trong đêm, ánh đèn pha chiếu dài cả con đường Ḥa Hưng, rồi đường Lê Văn Duyệt. Thành phố Saigon đang trở ḿnh thức giấc. Một vài gánh hàng rong hem hễ đi nép bên lề đường. Và đóÔ đây, có tiếng động cơ quen thuộc của những chiếc xe Lam dậy sớm. Tới bùng binh chợ Bến Thành, tôi đă thấy một đám đông bu quanh vùng ánh sánh của pháp trường cát. Những phóng viên ngoại quốc chạy nhốn nháo, với máy ảnh và quay phim. Cảnh sát chận xe tôi lại. Nhưng khi nh́n thấy chiếc áo đen của tôi, họ dẹp đám đông cho xe tôi tiến vào. Tôi đỗ xe ngay sát chân tường nha Hỏa Xa, cách pháp trường cát độ 30 thước. Những ngọn đèn pha cực mạnh đă được đặt tại đó chiều hôm trước. Tất cả đều chiếu vào pháp trường, tạo nên một vùng ánh sáng rợn người và ma quái. Một chiếc cọc đen đứng cô đơn, đằng sau là nhũng bao cát chất thành ṿng cung. Cách đó ba thước, là chiếc quan tài đậy nắp, trên nắp có một tấm vải trắng. Xa nữa là chiếc xe chữa lửa. Tôi đứng trong ṿng ánh sáng chưa được 10 phút th́ nghe tiếng c̣i hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi háy mắt nh́n về phía tiếng c̣i hụ, th́ thấy đoàn xe chở tội nhân đang tiến tới. Chiếc xe bít bùng đỗ lại bên lề đường. Lát sau hắn bước xuống khỏi xe. Tôi vội choàng chiếc áo đen, chạy ra với hắn, rồi cùng hắn bước vào pháp trường. Hắn và tôi đi đầu, theo sau là đoàn áp giải. Hắn bước đều đều, mặt cúi xuống đất. Dân chúng bu nghẹt chung quanh, chỉ chừa một lối đi được hăn ngữ bằng hàng rào an ninh. Bây giờ chúng tôi đă bước vào vùng ánh sáng. Hắn bỗng ngửng đầu lên, và đứng khựng lại. Người lính đằng sau lấy tay dẩy nhẹ vào lưng hắn, hắn lại tiếp tục bước đi. Tôi đoán, chiếc quan tài và chiếc khăn liệm đă làm hắn khựng lại. H́nh ảnh trung thực của chiến tranh không được t́m thấy ở chiến trường “da ngựa bọc thây”, mà được t́m thấy trong các bệnh viện, nơi đó có những h́nh hài cụt chân cụt tay, những đống thịt bầy nhầy, nhũng hố mắt sâu thẳm, những cuốn băng bê bết máu, và những tiếng rên rỉ. Và h́nh ảnh trung thực của cái chết vẫn là chiếc quan tài, tấm khăn liệm và những người thân yêu tiễn đưa. Bây giờ, hắn và tôi đă bước vào trong ṿng bao cát. Người ta mở c̣ng, rồi giữ gh́ lấy hai cánh tay hắn, đẩy hắn dựa lưng vào chiếc cọc sắt. Hai cổ chân hắn bị cột chặt vào thân cọc, hai cánh tay hắn bị kéo ngược ra đằng sau, cột ngược vào một cái cọc ngang. Chiếc cọc ngang này hơi cao, hắn phải kiễng chân lên. Hắn nhăn mặt kêu đau. Tôi nói với viên sĩ quan: “Đằng nào tội nhân cũng sắp chết, ông nên cho hạ thấp chiếc cọc ngang xuống, kẻo máu bị ngừng ở nơi nách, tội nghiệp”. Viên sĩ quan gật đầu, hạ thấp chiếc cọc ngang xuống. Hắn nh́n tôi, và lần đầu tiên hắn nói: “Cám ơn luật sư” Lúc đó, đội hành quyết đă sắp hàng chỉnh tề, chỉ c̣n đợi sĩ quan Quân Trấn Trưởng của quân khu Saigon đến là khởi sự. Một phút, hai phút, rồi ba phút... Cả pháp trường im lặng. Trong đợi chờ và trong ánh sáng chói chang. Lúc đó chỉ c̣n ḿnh tôi đứng bên cạnh hắn. Hắn bỗng trăn trối: “Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và cố nuôi lấy con”. Tôi gật đầu. Hắn nấc lên: “Con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi”. Tiếng nấc của hắn làm tôi mủi ḷng. Tôi để tay lên vai hắn, định an ủi, nhưng cổ họng bị tắc nghẽn. Tôi chợt nghĩ đến linh hồn hắn. Tôi th́ thầm bên tai hắn” “Xin Thượng Đế giúp em chết lành. Em chết, nhớ phù hộ cho vợ con em.” Hắn lại nấc lên: “Con ơi, con ơn, Cảnh ơi, Cảnh ơi”. Lúc đó, có tiếng c̣i hụ. Quân trấn trưởng đến. Đội hành quyết đứng nghiêm. Người ta bịt mắt hắn. Hắn vẫn nấc, vẫn gọi tên con. Có tiếng lên đạn đàng sau lưng tôi. Ủy Viên Chánh Phủ nói lớn: “Xin luật sư đứÔng tránh xa ra một bên”. Tôi đi giật lùi ngang về phía bên trái, mắt không rời hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi tên con. Một tiếng hô. Một loạt đạn nổ. Đầu hắn ngoẹo xuống, gục về bên trái. Máu từ trong người hắn chảy róc xuống đùi, xuống chân, rồi ḅ ngoằn ngoèo trên lề đường. Viên đội trưởng đội hành quyết tiến lại, nắm tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí khẩu súng lục vào màng tang bên trái của hắn, và bắn phát súng ân huệ. Một tiếng “đẹt” khô khan. Người ta vội vàng liệm xác hắn, và chiếc ṿi nước của chiếc xe chữa lửa vội vă rửa sạch những vết máu trên lề đường. Phương Đông, chân trời bắt đầu hửng đỏ.
***
Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm hắn, hết lời ca tụng cái chết anh hùng của hắn. Đài phát thanh Hà Nội nói rơ rằng: từ lúc bị trói vào cọc cho đến lúc bị hành quyết, hắn đă noi gương anh hùng Nguyễờn Văn Trỗi, không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy và hô to khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm”.
Baton Rouge, Louisiana 1981
Chú thích(1) Pravda, tiếng Nga là: Sự Thật. Năm 1912,Pravda là tên của một tờ báo ra hằng ngày của bọn Bôn Sơ Vích Tờ Pravda trở thành cơ quan ngôn luận chính thức của Trung Ương Đảng CS Liên Sô từ 1912 đến 1991, (2) Nguyễn Văn Trỗi bị bắt ngày 9/5/64, trong lúc ôm bom ở gầm cầu Công Lư, chờ ám sát phái đoàn Mc Namara. Y bị ṭa án Vùng 3 Chiến Thuật xử tử h́nh. Trước ṭa, y khóc, chửi bọn VC xúi y đi ôm bom là bọn “chó đẻ”, và xin ṭa tha tội. Khi ṭa tuyên án tử h́nh, y hô to Hồ Chí Minh muôn năm. Hô xong y lại khóc và xin ṭa tha. Hiện nay tại thành phố mang tên Hồ Chí Minh, có đường mang tên Nguyễn Văn Trỗi. (3) Văn hào Nhất Linh Nguyễn Trường Tam bị chính quyền Ngô Đ́nh Diệm bắt năm 1963, và bị truy tố về tội phản nghịch. Ông uống thuốc độc quên sinh đêm mùng 7/7/ 1963, 6 tiếng đồng hồ trước ngày ṭa sử. (4) Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, ủy viên Phong Trào Ḥa B́nh, bị bắt và bị truy tố về tội hiếp dâm, tại Tuy Ḥa năm 1957. Thọ bị mang ra xét xử trước ṭa Sơ Thẩm Đại H́nh Nha Trang. Luật sư đoàn Saigon cử một phái đoàn hùng hậu ra Nha Trang để hổ trợ cho Thọ. Thủ lănh Vương Quang Nhường, và các luật sư Bùi Tường Chiểu, Dương Đ́nh Dzu, Vũ Văn Hiến, Nguyễn Lâm Sanh, Lâm Văn Phát, Couget đă có mặt tại ṭa. Tôi đi theo thầy tôi là luật sư Bùi Tường Chiểu. Nguyễn Hữu Thọ được ṭa Nha Trang “tha bổng v́ nghi vấn”. Sau đó Thọ được Việt cộng bí mật đưa ra bưng. Ngày 20/12/60, chiếu nghị quyết của đại hội đáng CSViệt Nam kỳ 3. Việt cộng thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (gọi tắt là: Mặt Trận), chính thức phát động cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam. Thọ được Mặt Trận cho làm chủ tịch Mặt Trận. Sau năm 1975, Thọ được đem ra Bắc, được bầu vào Quốc Hội Việt cộng, và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chế độ. Đối với nhân dân miền Nam, cũng như đối với anh em trong Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, Thọ là một tên hèn, và một tên phản bội. |
||||||