US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Lời thú tội của một Sát thủ Kinh tế
"Confessions of an Economic Hit Man"
Tác giả: John Perkins
Chương 5
Bán linh hồn cho quỷ
Nhóm mười một người chúng tôi ở lại Jakarta sáu ngày, đến đăng ký với Sứ quán Mỹ, gặp gỡ các quan chức, sắp xếp công việc và thư giãn bên bể bơi. Tôi ngạc nhiên khi thấy có rất nhiều người Mỹ sống tại khách sạn Inter Continental. Tôi thích thú ngắm nhìn những phụ nữ trẻ đẹp- vợ của những tay giám đốc công ty dầu lửa và công ty xây dựng- ngày ngày ở bên bể bơi và tối lang thang khắp nửa tá quán ăn sang trọng trong và ngoài khách sạn.
Sau đó Charlie chuyển nhóm chúng tôi đến Bandung, một thành phố miền núi. Nơi đây khí hậu ôn hòa hơn, người ta ít nhìn thấy cảnh nghèo khổ hơn song cũng ít thú tiêu khiển hơn. Chúng tôi ở lại một khách sạn của Chính phủ tên là Wisma, với một người quản lý, một đầu bếp, một người làm vườn và một đội ngũ nhân viên phục vụ. Được xây dựng từ thời thuộc địa Hà Lan, Wisma vốn là một bến cảng. Đứng trên hiên nhà khách có thể nhìn ra những vườn chè trải dài, qua những quả đồi nhấp nhô, lên tới tận những sườn núi lửa của Java. Ngoài nhà ở, chúng tôi còn được cấp mười một chiếc Toyota, mỗi chiếc xe lại có một lái xe và một phiên dịch riêng. Cuối cùng, chúng tôi được mời làm thành viên của hai nơi sang trọng bậc nhất là Câu lạc bộ Golf và Quần vợt Bandung, và được đặt văn phòng trong khuôn viên của chi nhánh Perusahaan Umum Listrik Negara (PLN), công ty điện lực nhà nước.
Đối với tôi, những ngày đầu ở Bandung là hàng loạt những cuộc gặp gỡ với Charlie và Howard Parker. Howard hơn 70 tuổi và từng là chuyên gia dự báo chính về tải điện cho Hệ thống Điện của New England. Lúc này ông ta đảm trách công việc dự báo về nguồn năng lượng và khả năng sản xuất điện của toàn bộ đảo Java trong vòng hai lăm năm tới, cũng như dự báo riêng cho từng thành phố và các vùng. Vì nhu cầu về điện liên quan chặt chẽ tới tăng trưởng kinh tế nên những dự báo của ông ta cần dựa vào những dự báo kinh tế của tôi. Sau đó, những người còn lại trong nhóm chúng tôi sẽ xây dựng bản qui hoạch tổng thể dựa trên những dự báo này, xác định địa điểm đặt các nhà máy điện, thiết kế các nhà máy, các đường dây tải điện và phân phối điện, các hệ thống cung cấp nhiên liệu làm sao để đáp ứng hiệu quả nhất các dự án của chúng tôi. Trong các buổi gặp gỡ, Charlie bao giờ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của công việc mà tôi làm. Ông ta nhắc đi nhắc lại là tôi phải rất lạc quan khi đưa ra dự báo.
Claudine đã nói đúng. Tôi chính là yếu tố then chốt trong toàn bộ qui hoạch tổng thể.
“Những tuần đầu tiên ở đây”, Charlie giải thích, “là để thu thập số liệu”. Charlie, Howard và tôi ngồi trên những chiếc ghế mây to trong phòng làm việc sang trọng của Charlie. Những bức tường được trang trí bằng những tấm thảm thêu theo kiểu baltic mô tả câu chuyện sử thi Ramayana bằng văn tự Hindu cổ. Charlie hút một điếu xì gà to. “Các kỹ sư sẽ đưa ra một bức tranh chi tiết về hệ thống điện, năng lực cầu cảng, đường sá, đường ray xe lửa, tất cả mọi thứ đại loại như thế trong hiện tại”.
Ông ta chĩa điếu xì gà về phía tôi. “Anh phải nhanh lên. Đến cuối tháng thứ nhất, Howard phải có được một cách tương đối chính xác con số dự báo sơ bộ về mức độ tăng trưởng kinh tế thần kỳ sẽ xảy ra khi chúng ta có mạng lưới điện. Cuối tháng thứ hai, anh ta sẽ cần nhiều thông tin chi tiết hơn, tức là phải có được dự báo cho từng vùng. Tháng cuối cùng sẽ là lúc làm nốt những gì còn thiếu. Đó là điều then chốt. Tất cả chúng ta sẽ phải cùng bàn bạc với nhau. Vậy là, trước khi rời khỏi đây chúng ta phải hoàn toàn chắc rằng chúng ta đã có đầy đủ tất cả các thông tin cần thiết. Chúng ta sẽ được về nhà để nghỉ lễ Tạ ơn, đó là phương châm của tôi. Không quay lại nữa đâu”.
Thoạt nhìn, Howard có vẻ là một ông già tốt bụng, nhưng thực sự ông là một người đàn ông lúc nào cũng có vẻ cay đắng vì bị đời lừa dối. Ông ta chưa bao giờ đạt được vị trí cao nhất ở Hệ thống điện New England và vô cùng phẫn nộ về điều đó. “Tôi luôn bị bỏ qua”, ông ta lặp đi lặp lại với tôi, “bởi vì tôi đã không để bị mua chuộc”. Ông ta bị buộc phải nghỉ hưu, để rồi không thể chịu đựng được việc ngày ngày phải ở nhà với vợ, ông ta nhận làm tư vấn cho MAIN. Đây là nhiệm vụ thứ hai của ông ta. Cả Einar và Charlie đều cảnh báo tôi phải dè chừng ông ta. Họ mô tả ông ta như một kẻ ngoan cố, bần tiện, và đầy thù hận.
Nhưng hóa ra Howard lại là một trong những người thầy giàu kinh nghiệm nhất mà tôi có được, mặc dù lúc đó tôi khó lòng chấp nhận điều này. Ông ta chưa bao giờ được đào tạo như Claudine đã đào tạo tôi. Tôi đoán họ cho rằng ông ta đã quá già hoặc có lẽ quá ngoan cố. Cũng có thể họ tính ông ta chỉ có thể làm dự án này trong một thời gian ngắn cho đến khi họ lôi kéo thêm được những người làm việc lâu dài và dễ bảo như tôi. Bất luận thế nào đi nữa thì xét từ quan điểm của họ, ông ta rồi cũng trở thành một chướng ngại. Rõ ràng là Howard hiểu rõ tình huống cũng như vai trò mà họ muốn ông ta nắm giữ, và ông ta quyết tâm không trở thành quân cờ trong tay họ. Tất cả những từ mà Einar và Charlie gán cho ông ta là rất thích đáng, nhưng sự ngoan cố của ông ta một phần nào đó bắt nguồn từ sự cam kết của chính bản thân ông ta là không trở thành tay sai cho họ. Tôi ngờ rằng ông ta chưa bao giờ nghe thấy thuật ngữ "sát thủ kinh tế", nhưng ông ta biết họ có ý dùng ông ta để xây dựng nên một thứ chủ nghĩa đế quốc mà ông ta không thể chấp nhận được.
Một lần, sau cuộc họp với Charlie, ông ta kéo riêng tôi ra một chỗ. Ông ta đeo một cái máy trợ thính và vân vê chiếc hộp nhỏ đặt trong áo sơ mi để điều chỉnh âm lượng. “Đây chỉ là chuyện giữa hai chúng ta”. Howard nói với giọng bí mật.
Chúng tôi đứng cạnh cửa sổ trong văn phòng, nhìn ra con mương đầy nước tù đọng dẫn ra tòa nhà PLN. Một người đàn bà trẻ đang tắm trong dòng nước hôi hám đó, che mình bằng chiếc sarong quấn quanh người. “Họ cố gắng thuyết phục anh rằng nền kinh tế này sẽ tăng trưởng thần tốc”, ông ta nói. “Charlie rất tàn nhẫn. Đừng chọc giận ông ta.” Những lời nói của ông ta khiến tôi có linh cảm về một điềm chẳng lành nhưng cũng làm tôi muốn thuyết phục ông ta rằng Charlie đã đúng. Dù gì, sự nghiệp của tôi cũng phụ thuộc vào việc làm hài lòng các ông chủ ở MAIN. “Chắc chắn nền kinh tế này sẽ phát triển rất nhanh”, tôi nói, mắt vẫn hướng về phía người phụ nữ dưới con mương. “Cứ nhìn vào những gì đang xảy ra thì thấy”.
“Ra là vậy”, ông ta lẩm bẩm, rõ ràng chẳng để ý gì đến cảnh tượng đang diễn ra trước mắt chúng tôi. “Anh đã bị họ mua chuộc rồi, phải không?” Một việc xảy ra ở bờ mương khiến tôi chú ý. Một người đàn ông lớn tuổi đi xuống phía bờ mương, tụt quần và ngồi xổm bên mép nước để đáp lại tiếng gọi của tự nhiên. Người phụ nữ trẻ nhìn thấy ông ta nhưng cũng chẳng ngăn cản; cô ta vẫn tiếp tục tắm. Tôi xoay lưng lại phía cửa sổ và nhìn thẳng vào Howard.
“Tôi đã đi nhiều nơi”, tôi nói, “có thể tôi ít tuổi nhưng tôi vừa trở về sau ba năm sống tại Nam Mỹ. Tôi đã thấy những gì có thể xảy ra khi dầu mỏ được tìm thấy. Mọi thứ thay đổi rất nhanh”.
“Ồ, tôi cũng đã đi rất nhiều nơi”, ông ta nói một cách chế giễu. “Rất nhiều năm. Để tôi nói cho anh biết điều này, anh bạn trẻ. Tôi chẳng quan tâm đến mấy vụ tìm ra dầu mỏ của anh và tất cả những thứ khác. Tôi đã dự báo về tải trọng điện cả đời rồi- suốt từ thời Đại khủng hoảng Kinh tế, Thế chiến thứ II, qua các chu kỳ suy thoái và tăng trưởng. Tôi đã từng thấy những gì mà Tuyến đường 128 hay còn gọi là Sự thần kỳ Massachusetts đã đem lại cho Boston. Và tôi có thể cam đoan là không có nơi nào tốc độ tăng trưởng tải điện có thể duy trì ở mức bẩy đến chín phần trăm một năm liên tục trong một thời gian dài. Và đó là vào những thời kỳ tốt nhất. Sáu phần trăm thì hợp lý hơn.”
Tôi nhìn ông ta chằm chằm. Một phần nào đó trong tôi ngờ rằng ông ta đúng, nhưng tôi vẫn cảm thấy phải tự vệ. Tôi biết tôi cần phải thuyết phục ông ta vì tôi thấy lương tâm mình cần được bào chữa.
“Howard, đây không phải là Boston. Đây là đất nước mà cho đến giờ người ta vẫn chưa có điện để dùng. Mọi thứ ở đây khác hẳn.” Ông ta quay ngoắt đi và phẩy tay như thể muốn xua tôi đi. “Cứ tự nhiên”, ông ta gầm gừ. “Cứ bán tất đi. Tôi chẳng cần biết anh sẽ nghĩ ra cái gì.” Ông ta kéo mạnh các ghế phía sau bàn làm việc và buông mình xuống. “Tôi sẽ đưa ra dự báo về lượng tải điện dựa trên những điều tôi tin tưởng chứ không phải những nghiên cứu kinh tế theo kiểu bánh vẽ”. Ông ta nhặt chiếc bút chì lên và bắt đầu vẽ nguệch ngoạch lên một tập giấy.
Đây quả là một sự thách thức mà tôi không thể làm ngơ. Tôi đi tới và đứng trước bàn làm việc của ông ta. “Người ta sẽ coi ông là thằng ngu nếu tôi chứng minh được những gì mọi người đang trông chờ- một sự phát triển rực rỡ sánh ngang với thời kỳ sốt vàng ở California- trong khi ông ta đưa ra dự báo mức tăng trưởng của ngành điện chỉ ở mức ngang với ở Boston vào những năm 60.”
Ông ta ném chiếc bút chì xuống bàn và nhìn tôi trừng trừng. “Vô lương tâm! Đúng vậy. Anh- và tất cả các người.” Ông ta chỉ tay về phía dãy văn phòng bên ngoài, “anh đã bán linh hồn mình cho quỉ dữ. Anh tham gia vụ này cũng chỉ vì tiền thôi”. Bây giờ, ông ta nhếch mép và cho tay vào trong áo, “tôi sẽ tắt máy trợ thính và trở lại làm việc.”
Chuyện này làm tôi choáng váng đến tận tâm can. Tôi lao ra khỏi phòng và đi về phía phòng làm việc của Charlie. Được nửa đường, tôi dừng lại, tôi không chắc mình định làm gì. Thay vì đi tiếp, tôi quay lại và đi xuống cầu thang, ra khỏi cửa, hòa mình vào ánh nắng chiều. Người phụ nữ trẻ đang leo lên bờ mương, chiếc sarong quấn chặt lấy thân hình. Người đàn ông lớn tuổi đã biến mất. Có vài thằng bé đang chơi dưới mương, té nước và la hét với nhau. Một cụ bà đang đứng dưới mương, nước ngập đến đầu gối để đánh răng; một người khác đang giặt quần áo.
Tôi cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại. Tôi ngồi xuống một phiến bêtông bị vỡ, cố không để ý đến mùi hôi hám từ phía con mương. Phải cố gắng lắm tôi mới ngăn được nước mắt; tôi phải hiểu được tại sao mình lại cảm thấy đau khổ đến vậy? Anh tham gia vụ này chỉ vì tiền thôi. Những lời nói của Howard cứ văng vẳng bên tai. Ông ta đã chạm vào nỗi đau của tôi. Mấy thằng bé vẫn tiếp tục trò té nước, tiếng la hét vui sướng vang vọng cả không gian. Tôi tự hỏi mình phải làm gì. Làm gì để được vô tư như bọn chúng?
Câu hỏi cứ dày vò khi tôi ngồi đó nhìn bọn trẻ chơi đùa một cách ngây thơ đầy hạnh phúc, chúng rõ ràng không nhận thức được những nguy cơ có thể gặp phải khi chơi đùa dưới dòng nước hôi hám đó. Một người đàn ông lưng gù chống gậy xù xì vặn vẹo đang đi khập khiễng dọc theo bờ mương. Ông ta dừng lại nhìn bọn trẻ và trên khuôn mặt già nua nở nụ cười móm mém.
Có lẽ tôi nên giãi bày tâm sự với Howard và có thể, chúng tôi sẽ cùng nhau tìm ra một giải pháp gì đó. Tôi bỗng cảm thấy nhẹ cả người. Tôi nhặt một hòn đá nhỏ lên và ném nó xuống con mương. Khi mặt nước phẳng lặng trở lại thì sự phấn khích trong tôi cũng tiêu tan. Tôi biết tôi không thể làm điều đó. Howard đã già và đầy cay đắng. Ông ta đã bỏ qua những cơ hội thăng tiến. Chắc chắn là bây giờ ông ta sẽ không tiếp tục phấn đấu nữa. Tôi còn trẻ, vừa mới vào đời và chẳng hề muốn kết thúc như ông ta.
Nhìn chăm chăm vào dòng nước dưới con kênh hôi hám đó, tôi thấy lại hình ảnh của ngôi trường nội trú dành cho nam sinh New Hamsphire trên quả đồi, nơi tôi đã phải trải qua những tháng ngày cô độc trong khi những đứa trẻ khác đi đến những vũ hội đầu tiên trong đời. Sự thật đáng thương đó cứ chầm chậm hiện về. Lại một lần nữa, chẳng có ai để tôi có thể dốc bầu tâm sự.
Tối hôm đó nằm trên giường, tôi suy nghĩ rất lâu về những người tôi đã gặp trong đời- Howard, Charlie, Claudine, Ann, Einar, chú Frank- tự hỏi cuộc đời tôi sẽ ra sao nếu tôi không bao giờ gặp họ. Tôi sẽ sống ở đâu? Không thể là Inđônêxia, điều đó là chắc chán. Tôi cũng băn khoăn về tương lai của mình, về nơi mà tôi sẽ tới. Tôi suy nghĩ về quyết định mà mình đang phải đương đầu. Charlie đã nói rõ ràng ông ta muốn Howard và tôi đưa ra con số tăng trưởng ít nhất là 17%/năm. Tôi phải đưa ra dự bảo kiểu gì đây?
Một ý nghĩ chợt đến xoa dịu tâm hồn tôi. Tại sao tôi không nghĩ ra điều đó sớm hơn nhỉ? Đó hoàn toàn không phải là quyết định của tôi. Howard đã từng nói ông ta sẽ chỉ làm những điều ông ta cho là đúng, bất chấp kết luận của tôi. Tôi sẽ làm hài lòng các ông chủ của mình bằng cách đưa ra mức dự báo kinh tế cao và ông ta sẽ đưa ra quyết định riêng của mình; công việc của tôi sẽ không ảnh hưởng gì đến bản qui hoạch tổng thể. Mọi người cứ nhấn mạnh tầm quan trọng của tôi, nhưng họ đã nhầm. Gánh nặng lớn đã được rũ bỏ. Tôi chìm vào giấc ngủ sâu.
Vài ngày sau, Howard bị ốm nặng do nhiễm amíp. Chúng tôi đưa ông ta vào Bệnh viện Công giáo. Các bác sĩ kê đơn thuốc và khuyên ông ta nên trở về Mỹ. Howard cam đoan rằng ông ta đã có tất cả dữ liệu cần thiết và có thể dễ dàng hoàn tất phần dự báo về lượng tải điện từ Boston. Khi chia tay, ông ta lại lặp lại lời cảnh báo của mình trước đó. “Không cần phải làm giả số liệu”, ông ta nói, “tôi sẽ không tham gia vào mưu đồ đó, bất luận anh dự báo gì về sự kỳ diệu của tăng trưởng kinh tế!”
PHẦN II: 1971-1975
Chương 6
Vai trò điều tra của tôi
Theo những hợp đồng chúng tôi ký với chính phủ Inđônêxia, Ngân hàng Phát triển châu Á và USAID, phải có một người trong nhóm chúng tôi đi thực địa đến tất cả các địa bàn dân cư quan trọng nhất nằm trong qui hoạch tổng thể. Tôi được chỉ định đứng ra làm nhiệm vụ này. Như Charlie nói, “anh đã sống được ở Amazon; anh biết cách giải quyết lũ bọ, rắn và nước bẩn”. Cùng với một lái xe và một phiên dịch, tôi đã đi thăm rất nhiều cảnh đẹp cũng như ở trong một số phòng trọ khá tồi tàn. Tôi gặp gỡ các doanh nhân và chính trị gia ở địa phương và lắng nghe ý kiến của họ về triển vọng tăng trưởng kinh tế.
Song tôi thấy phần lớn họ đều rất miễn cưỡng khi chia sẻ thông tin với tôi. Hình như họ cảm thấy bị đe dọa bởi sự hiện diện của tôi. Cụ thể là họ thường nói với tôi rằng tôi phải soát lại thông tin với cấp trên của họ, với các cơ quan chính phủ hay với các trụ sở công ty ở Jakarta. Đôi lúc tôi ngờ rằng đang có một âm mưu nào đó nhằm vào tôi.
Những chuyến công tác thường xuyên là ngắn hạn, chỉ khoảng hai đến ba ngày. Giữa các chuyến đi, tôi trở lại Wisma ở Bandung. Bà quản lý ở đó có một cậu con trai kém tôi vài tuổi. Tên cậu ta là Rasmon, nhưng tất cả mọi người trừ mẹ cậu ta đều gọi cậu ta là Rasy. Là một sinh viên kinh tế tại trường đại học địa phương, cậu ta ngay lập tức quan tâm đến công việc của tôi. Thật ra, tôi nghĩ sẽ có lúc cậu ta nhờ tôi kiếm việc. Cậu ta bắt đầu dạy tôi tiếng Bahasa Inđônêxia.
Sáng tạo ra một loại ngôn ngữ dễ học vốn là ưu tiên hàng đầu của Tổng thống Sukarno sau khi Inđônêxia giành được độc lập từ tay người Hà Lan. Trên quần đảo này có đến hơn ba trăm năm mươi ngôn ngữ và tiếng địa phương được sử dụng, và Sukarno nhận thấy, đất nước ông cần một ngôn ngữ chung để đoàn kết người dân từ nhiều hòn đảo, thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau. Ông đã tuyển một đội ngũ các nhà ngôn ngữ học quốc tế, và sự ra đời của tiếng Bahasa Inđônêxia là một thành công đánh kể. Dựa vào tiếng Mã Lai, Bahasa đã tránh được rất nhiều cách chia động từ, những động từ bất quy tắc, và các phép biến đổi khác mà hầu hết các ngôn ngữ thường đòi hỏi. Vào đầu thập kỷ 70, đa số người Inđônêxia đã sử dụng tiếng Bahasa, mặc dù họ vẫn tiếp tục dùng tiếng Java và các thổ ngữ khác trong cộng đồng riêng của mình. Rasy là một giáo viên giỏi với một khiếu hài hước tuyệt vời, và so với việc học tiếng Shuar hay thậm chí tiếng Tây Ban Nha, học tiếng Bahasa dễ hơn nhiều.
Rasy có một chiếc xe gắn máy và dùng nó chở tôi đi khắp nơi để giới thiệu về thành phố và con người ở đây. “Tôi sẽ chỉ cho anh một Inđônêxia mà anh chưa từng biết đến,” một tối cậu ta hứa với tôi và giục tôi leo lên sau xe.
Chúng tôi đi ngang qua những đám múa rối, các nhạc công chơi nhạc cụ dân tộc, những người diễn trò thổi lửa, các nghệ sĩ làm xiếc tung hứng và những người bán hàng rong với tất cả các loại mặt hàng, từ những băng cát xét lậu của Mỹ đến những món đồ cổ bản xứ. Cuối cùng, chúng tôi dừng lại ở một quán cà phê. Ở đây, những người trẻ tuổi mặc quần áo, đội mũ và để tóc giống hệt như trong một buổi hòa nhạc của Beatles vào những năm 60; duy chỉ khác là họ là người Inđônêxia. Rasy giới thiệu tôi với một nhóm người ngồi quanh một chiếc bàn và chúng tôi cùng ngồi trò chuyện.
Họ đều nói tiếng Anh, với mức độ lưu loát khác nhau, nhưng họ đánh giá cao và khuyến khích tôi nói tiếng Bahasa. Họ nói về điều này rất cởi mở và hỏi tôi tại sao người Mỹ lại không bao giờ học ngôn ngữ của họ. Tôi không có câu trả lời. Cũng như tôi không thể giải thích tại sao tôi là người Mỹ hay người Châu Âu duy nhất đến khu này của thành phố, mặc dù người ta có thể thấy rất nhiều người như tôi tại câu lạc bộ golf và quần vợt, trong các nhà hàng sang trong, các rạp chiếu phim và những siêu thị đắt tiền.
Đó là một buổi tối mà tôi sẽ nhớ mãi. Rasy và những người bạn của cậu ta đối với tôi thật thân tình. Ở đó, tôi cảm thấy thật hạnh phúc, trong cùng một thành phố với họ, cùng thưởng thức đồ ăn và âm nhạc, ngửi mùi hương của những điếu thuốc làm từ nụ hoa đinh hương và những hương vị khác vốn là một phần cuộc sống của họ, cười đùa vui vẻ với họ. Tôi như được sống lại những ngày ở Quân đoàn Hòa bình. Và bỗng nhiên, tôi tự hỏi tại sao tôi lại nghĩ là mình muốn đi vé hạng nhất và tách khỏi những người như họ. Họ rất muốn biết tôi nghĩ gì về đất nước của họ và về cuộc chiến tranh mà đất nước tôi đã khởi xướng ở Việt Nam. Tất cả họ đều cảm thấy khiếp sợ cái mà họ nói đến như một “sự xâm lược bất hợp pháp”, và họ cảm thấy yên tâm khi biết rằng tôi cũng có chung một cảm giác như vậy. Khi tôi và Rasy quay trở lại nhà nghỉ thì đã rất khuya và xung quanh rất tối. Tôi cảm ơn cậu ta vì đã đón nhận tôi vào thế giới của cậu; cậu ta cảm ơn tôi vì tôi đã cởi mở với những bạn bè của cậu ta. Chúng tôi hứa sẽ còn có những chuyến đi như vậy, chúng tôi ôm nhau, chào tạm biệt và đi về phòng mình.
Những lần đi với Rasy càng khiến tôi muốn có thời gian riêng tách khỏi nhóm. Sáng hôm sau, tôi gặp Charlie và nói với ông ta rằng tôi đã quá chán nản khi cứ phải tìm cách thu thập thông tin từ phía người dân địa phương. Hơn nữa, hầu hết những số liệu thống kê mà tôi cần cho dự báo phát triển kinh tế chỉ có thể được tại các văn phòng chính phủ ở Jakarta. Charlie và tôi nhất trí là tôi phải ở lại Jakarta thêm một đến hai tuần nữa.
Ông ta tỏ ra rất ái ngại vì tôi phải rời khỏi Bandung để đến thủ đô nóng như thiêu như đốt, và tôi nói là tôi cũng chẳng thích thú gì. Nhưng thực ra, tôi rất phấn khởi khi có cơ hội dành chút thời gian cho riêng mình để khám phá Jakarta và để lại được ở tại khách sạn thanh lịch Inter Continental Inđônêxia. Tuy nhiên, khi ở Jakarta, tôi phát hiện ra giờ đây mình đã nhìn cuộc sống từ một khía cạnh khác. Buổi tối với Rasy và những người Inđônêxia trẻ tuổi cũng như những chuyến đi khắp đất nước này đã làm tôi thay đổi. Tôi thấy mình đã nhìn những người đồng hương bằng cái nhìn khác. Những cô vợ trẻ dường như không còn quá đẹp. Cái hàng rào xung quanh bể bơi và những chấn song sắt ngoài cửa sổ dưới tầng trệt, những thứ mà trước đây tôi gần như không để ý thấy, giờ trông thật bất ổn. Thức ăn tại những nhà hàng thanh lịch của khách sạn cũng trở nên vô vị.
Tôi cũng còn nhận thấy vài điều khác nữa. Trong những cuộc họp với các doanh nghiệp và quan chức cấp cao, tôi thấy cái cách mà họ đối xử với tôi thật xảo quyệt. Trước đây tôi không nhận ra điều này, nhưng giờ tôi thấy rõ những người trong số họ không hài lòng với sự có mặt của tôi. Ví dụ khi họ giới thiệu tôi với những người khác, họ thường dùng những cụm từ mà theo như từ điển Bahasa của tôi có nghĩa là người điều tra, và người thẩm vấn. Tôi cố tình giấu việc tôi hiểu tiếng nói của họ - ngay cả người phiên dịch cho tôi cũng chỉ biết là tôi có thể nói vài câu giao tiếp đơn giản - và tôi đã mua một cuốn từ điển Bahasa-Anh khá tốt để dùng sau mỗi lần gặp họ.
Những lời ám chỉ đó có phải chỉ là sự trùng hợp về mặt ngôn ngữ? Hay từ điển của tôi dịch sai? Tôi cố thuyết phục bản thân rằng đúng là như vậy. Nhưng càng tiếp xúc với những người đó, tôi càng thấy rằng tôi chính là kẻ không mời mà đến, rằng họ được lệnh của một ai đó ở trên bắt họ phải hợp tác với tôi, và họ chẳng có sự lựa chọn nào ngoài việc phải tuân theo. Tôi không biết người đưa ra lệnh đó là ai: một quan chức chính phủ, một chủ nhà băng, một sĩ quan cao cấp trong quân đội hay là Sứ quán Mỹ. Tất cả những gì tôi biết là cho dù họ mời tôi đến văn phòng, mời tôi uống trả, trả lời các câu hỏi của tôi một cách lịch sự, và tỏ vẻ như rất hoan nghênh sự có mặt của tôi, nhưng thực chất đằng sau đó là bóng đen của sự cam chịu và lòng thù oán.
Điều đó cũng khiến tôi nghi ngờ cả những câu trả lời của họ cũng như tính chính xác của những số liệu mà họ cung cấp cho tôi. Ví dụ như, tôi không bao giờ có thể đi thẳng đến một văn phòng, cùng với người phiên dịch, gặp mặt một ai đó. Bao giờ chúng tôi cũng phải hẹn trước. Bản thân điều này không có gì khác thường, trừ việc chúng tôi phải tốn quá nhiều thời gian. Vì hiếm khi liên lạc được bằng điện thoại nên chúng tôi phải đi xe qua những con phố ngoằn nghèo tắc nghẽn đến mức phải mất cả tiếng đồng hồ mới đến được tòa nhà chỉ cách đấy vài cao ốc. Đến nơi, người ta bắt chúng tôi điền vào rất nhiều tờ khai.
Cuối cùng, một nam thư ký cũng xuất hiện. Rất lịch sự - luôn kèm theo nụ cười nhã nhặn điển hình của người Java - anh ta sẽ hỏi tôi về những thông tin mà tôi cần và sau đó anh ta sẽ hẹn ngày gặp.
Bao giờ cũng vậy, để có được buổi hẹn trước phải mất đến vài ngày, và khi buổi gặp mặt diễn ra, họ trao cho tôi một tập tài liệu đã chuẩn bị sẵn. Các nhà tư bản công nghiệp đưa cho tôi bản kế hoạch 5 năm và 10 năm, các ông chủ nhà băng thì có những bảng biểu và đồ thị, và các quan chức chính phủ thì cung cấp danh sách các dự án đang sắp biến thành động lực tăng trưởng kinh tế. Mọi thứ do các chủ doanh nghiệp và chính phủ cung cấp và tất cả những gì họ nói trong mỗi lần tôi gặp họ đều cho thấy Java đã sẵn sàng cho một sự bùng nổ kinh tế mạnh mẽ nhất mà chưa từng có nền kinh tế nào đạt được. Chưa có ai- dù chỉ là một người - đặt câu hỏi nghi vấn về giả thuyết này cũng như cung cấp cho tôi những thông tin trái chiều.
Vì thế mỗi lần về lại Bandung, tôi lại thấy băn khoăn về tất cả những gì tôi thấy ở Jakarta; có điều gì đó làm tôi lo lắng. Tôi thấy mọi thứ đang làm ở Inđônêxia giống như một trò chơi hơn là thực tế. Cứ như là chúng tôi đang chơi poker. Chúng tôi giữ kín những quân bài của mình. Chúng tôi không thể tin tưởng lẫn nhau hay tin vào những thông tin mà chúng tôi chia sẽ. Thế nhưng trò chơi này lại hết sức nghiêm túc và nó sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người trong nhiều thập niên tới.
Chương 7
Nền văn minh trước vành móng ngựa
“Tôi sẽ đưa anh đi xem một dalang”, Rasy cười nói. “Anh biết đấy, những nghệ nhân múa rối nổi tiếng của Inđônêxia”. Rõ ràng là anh ta rất vui khi thấy tôi quay lại Bandung. “Tối nay ở đây có một dalang rất quan trọng”.
Anh đưa tôi đi qua nhiều nơi trong thành phố trên chiếc xe máy của mình, những nơi mà tôi chưa từng nghĩ là có trên đời, qua những khu nhà "kampong" truyền thống của những người nghèo Java, trông giống như những ngôi nhà đền nhỏ lợp mái ngói. Ở đấy không có những ngôi biệt thự từ thời thuộc địa Hà Lan và những cao ốc văn phòng sang trọng. Người dân nơi đây rõ ràng là rất nghèo nhưng họ mang trong mình sự kiêu hãnh. Họ mặc "sarong batik" tuy đã cũ nhưng sạch sẽ, áo sơmi sáng màu, và đội những chiếc mũ rơm rộng vành. Đến bất cứ đâu chúng tôi cũng đều được chào đón bằng những nụ cười. Khi chúng tôi dừng xe, lũ trẻ lao tới để chạm vào tôi và sờ vào lớp vải của chiếc quần bò tôi đang mặc. Một cô bé gài bông hoa đại thơm ngát lên tóc tôi.
Chúng tôi dựng xe gần một rạp hát vỉa hè, nơi có tới vài trăm người đang tụ tập, một số người đang đứng, số khác thì ngồi trên những chiếc ghế xếp. Một buổi tối thật đẹp và bầu trời thật quang đãng. Mặc dù chúng tôi đang đứng lại trung tâm của khu phố cổ Bandung, nhưng không hề có đèn đường, chỉ có những ngôi sao sáng lấp lánh trên đầu. Không khí tràn ngập mùi thơm của những thanh củi đang cháy, của những cây lạc và cây đinh hương.
Rasy biến mất trong đám đông và nhanh chóng quay trở lại với đám bạn mà trước đó tôi đã gặp ở quán cà phê. Họ mời tôi thưởng thức trà nóng, những chiếc bánh nhỏ, và sate, những miếng thịt nhỏ tẩm dầu lạc. Hẳn là trông tôi khá do dự khi ăn thử một miếng sate, vì một trong số những người phụ nữ chỉ vào đám lửa nhỏ và nói với tôi: “Thịt tươi đấy”, cô ta cười, “vừa mới nướng xong”.
Và sau đó tiếng nhạc bắt đầu vang lên những âm thanh văng vẳng bí ẩn của "gamalong", một loại nhạc cụ làm người ta liên tưởng tới những tiếng chuông ở đền thờ. “Dalang tự mình chơi tất cả các nhạc cụ”, Rasy thì thầm. “Ông ta cũng điều khiển tất cả các con rối và lồng tiếng cho chúng bằng nhiều ngôn ngữ. Chúng tôi sẽ dịch cho anh”. Đó là một buổi biểu diễn rất xuất sắc, kết hợp các câu truyện truyền thuyết với các sự kiện đương đại. Về sau, tôi được biết, dalang là một pháp sư và biểu diễn trong trạng thái bị thôi miên. Ông ta có hơn một trăm con rối và lồng tiếng cho mỗi con rối bằng một giọng khác nhau.
Đó là một buổi tối mà tôi sẽ không bao giờ quên, và nó còn ảnh hưởng sâu sắc tới suốt phần đời còn lại của tôi. Sau khi biểu diễn xong một tác phẩm kinh điển trong sử thi Ramayana bằng ngôn ngữ cổ, dalang đem ra một con rối có hình Richard Nixon, đầy đủ cả cái mũi dài và cái cằm sệ đặc trưng. Tổng thống Mỹ mặc trang phục của Chú Sam, áo đuôi tôm cùng cái mũ cao có sao và vạch. Theo sau là một con rối khác mặc bộ vét kẻ sọc có áo gi lê. Con rối thứ hai xách một cái xô có vẽ ký hiệu đồng đôla. Nó dùng tay kia để vẫy một lá cờ Mỹ trên đầu Nixon theo kiểu nô lệ quạt mát cho ông chủ.
Bản đồ Trung Đông và Viễn Đông xuất hiện đằng sau hai con rối, tên rất nhiều quốc gia được treo trên những cái móc theo đúng vị trí của chúng. Nixong ngay lập tức tiến lại gần tấm bản đồ, nhấc Việt Nam ra khỏi móc treo, và nhét vào mồm. Ông ta hét lên một câu được dịch ra là: “Thật nhục nhã! Đồ rác rưởi. Thế này là quá đủ rồi!” Sau đó ông ta ném nó vào xô và tiếp tục làm như thế với các nước khác.
Tuy vậy, tôi rất ngạc nhiên khi thấy những lựa chọn tiếp theo của ông ta không phải là những quốc gia Đông Nam Á nằm trong vòng ảnh hưởng của hiệu ứng domino. Thay vào đó, tất cả đều là các nước Trung Đông - Palestin, Kuwait, Saudi Arabia, Iraq, Siri và Iran. Sau đó, ông ta chuyển sang Pakistan và Afghanistan. Mỗi lần như thế, con rối Nixon lại hét lên một bí danh nào đó trước khi ném nước đó vào trong xô, và mỗi lần như vậy lời lẽ chửi rủa của ông ta đều nhằm chống lại đạo Hồi: “Bọn chó Hồi giáo”, “những con quái vật của Mohammed”, và “những con quỷ đạo Hồi”.
Đám đông trở nên kích động, mức độ căng thẳng tăng lên mỗi khi có thêm một nước bị ném vào xô. Họ như bị giằng xé giữa những trận cười, sự căm phẫn và giận dữ. Mỗi lần như thế, tôi cảm thấy họ hết sức khó chịu vì những ngôn ngữ của người điều khiển con rối. Tôi cũng cảm thấy bị đe dọa, và tôi sợ họ sẽ chĩa sự giận dữ về phía tôi. Rồi con rối Nixon nói vài điều khiến tôi tóat cả mồ hôi khi Rasy dịch ra.
“Hãy đưa cái này cho Ngân hàng Thế giới. Xem xem nó có thể làm gì giúp chúng ta moi tiền của Inđônêxia.” Ông ta nhấc Inđônêxia ra khỏi bản đồ và ném nó vào xô, nhưng đúng lúc đó một con rối khác bước ra từ bóng tối. Con rối này đại diện cho một người đàn ông Inđônêxia, mặc áo sơmi batik và quần kaki, ông ta đeo một tấm bảng có in tên của mình trên đó. “Một chính trị gia nổi tiếng ở Bandung”, Rasy giải thích. Con rối này gần như bay đến giữa Nixon và người đàn ông xách cái xô và giơ tay lên. “Dừng lại!”, ông ta hét lên. “Inđônêxia là một nước có chủ quyền”.
Đám đông vỗ tay rào rào. Người đàn ông xách xô nâng lá cờ lên và phóng nó đi như một ngọn giáo, đâm vào nhà chính trị Inđônêxia, làm ông này lảo đảo và chết một cách rất bi thương. Khán giả la ó, huýt gió, gào thét, và vung nắm đấm lên.
Nixon và người đàn ông xách xô đứng đó, nhìn xuống chúng tôi. Tất cả cúi chào rồi rời khỏi sân khấu. “Tôi nghĩ tôi nên rời khỏi đây”, tôi nói với Rasy. Anh ta quàng tay qua vai tôi như để bảo vệ. “Sẽ ổn cả thôi”, anh ta nói. “Họ chẳng có ý phản đối cá nhân anh đâu.” Tôi thì không dám chắc. Sau đó tất cả chúng tôi đi về quán cà phê. Rasy và những người khác bảo đảm với tôi rằng họ không được thông báo trước về vở kịch Nixon- Ngân hàng Thế giới. “Anh không bao giờ biết được nghệ sĩ múa rối đó sẽ chuẩn bị diễn vở gì”, một trong những người trẻ tuổi nhận xét.
Tôi nói với họ không biết có phải vở kịch đó được công diễn là do sự có mặt của tôi hay không. Ai đó cười và nói quả là cái Tôi trong tôi quá lớn. “Đó là tính cách điển hình của dân Mỹ các anh”, anh ta nói thêm và vỗ vai tôi một cách thông cảm.
“Người Inđônêxia ý thức rất rõ về chính trị”, người đàn ông ngồi trên chiếc ghế bên cạnh tôi nói. “Người Mỹ không đi xem những buổi biểu diễn như thế này sao?”
Một cô gái xinh đẹp là sinh viên khoa Anh ngữ tại trường đại học ngồi đối diện với tôi hỏi: “Nhưng có đúng là anh đang làm việc cho Ngân hàng Thế giới không?” Tôi nói với cô ta là nhiệm vụ hiện tại của tôi là làm cho một dự án Ngân hàng phát triển châu Á và Cơ quan Phát triển Quốc tế của Mỹ (USAID). “Chẳng phải cũng như nhau cả sao?” Cô ta không thèm đợi câu trả lời của tôi. “Nó không giống những gì trong vở kịch tối nay hay sao? Chính phủ của anh lại chẳng xem Inđônêxia và các nước khác giống như một chùm...”
Cô ta tìm từ cho phù hợp. “Nho”, một người bạn của cô ta nhắc. “Chính xác. Một chùm nho. Anh có thể chọn lựa kỹ càng. Giữ nước Anh lại. Ăn Trung Quốc và quẳng Inđônêxia đi.” “Sau khi các anh đã vét cạn kho dầu của chúng tôi”, một người phụ nữ khác thêm vào. Tôi cố bênh vực mình nhưng không thể được. Tôi muốn lấy làm tự hào vì tôi đã đến khu này của thành phố và đã ở lại xem một buổi biểu diễn hoàn toàn chống lại nước Mỹ mà tôi đã nhìn nhận như một sự tấn công cá nhân tôi. Tôi muốn họ nhìn nhận lòng can đảm của tôi, biết rằng tôi là thành viên duy nhất trong nhóm nhân viên của MAIN muốn học tiếng Bahasa hay có ý định đón nhận nền văn hóa của họ, và chỉ ra rằng tôi là người nước ngoài duy nhất tham gia vào buổi biểu diễn này. Nhưng rồi tôi quyết định tốt hơn là nên thận trọng không đề cập đến bất cứ điều gì về buổi biểu diễn này. Thay vào đó, tôi cố gắng tập trung vào cuộc nói chuyện. Tôi hỏi họ rằng tại sao ngoại trừ Việt Nam, tất cả những nước mà dalang chọn đều là các nước đạo Hồi.
Cô sinh viên Anh ngữ xinh đẹp bật cười vì câu hỏi đó. “Bởi vì đó chính là kế hoạch.” “Việt Nam chỉ là khởi đầu”, một người đàn ông xen vào, “như Hà Lan đối với phát xít Đức. Một bàn đạp.” “Mục tiêu thực sự”, cô sinh viên tiếp tục “là nhằm vào thế giới Hồi giáo”.
Tôi không thể làm ngơ trước nhận xét này. Tôi phản đối: “Chắc cô không tin rằng nước Mỹ chống lại đạo Hồi chứ?” “Không à?”, cô ta hỏi lại. “Từ bao giờ thế? Anh phải đọc những gì mà một trong số những nhà sử học của các anh đã viết - một người Anh tên là Toynbee. Vào những năm 50 ông ta đã dự đóan rằng cuộc chiến thực sự trong thế kỷ tiếp theo sẽ không phải là giữa những người cộng sản và những nhà tư bản mà là giữa những người Thiên chúa giáo và những người Hồi giáo.” “Arnold Toynbee đã nói như thế sao?” tôi thực sự sửng sốt. “Đúng thế. Hãy đọc cuốn Nền văn minh bị lên án và Thế giới và phương Tây.” “Nhưng tại sao lại có sự thù hận như thế giữa những người theo đạo Hồi và những người theo đạo Thiên chúa?”, tôi hỏi
Những người ngồi xung quanh nhìn nhau. Họ dường như không thể tin nổi là tôi lại hỏi một câu ngu xuẩn đến thế. “Bởi vì” cô ta nói một cách chậm rãi, như thể đang nói với người chậm hiểu hoặc bị lãng tai, “phương Tây - đặc biệt là nước đứng đầu, nước Mỹ - muốn thống trị thế giới, để trở thành đế quốc hùng mạnh nhất trong lịch sử. Nó cũng đã đến gần sự thành công. Liên bang Xô Viết sẽ không tồn tại lâu. Toynbee đã nhìn thấy điều đó. Họ không có tôn giáo, không có đức tin, không có căn bản vững chắc đằng sau hệ tư tưởng của ho. Lịch sử chứng minh rằng đức tin - linh hồn, một niềm tin vào những quyền năng cao cả - là điều cần thiết. Những người Hồi giáo chúng tôi có nó. Chúng tôi có đức tin mạnh hơn bất cứ ai trên thế giới, mạnh hơn cả những người Thiên chúa giáo. Vì thế chúng tôi chờ đợi. Chúng tôi sẽ ngày càng lớn mạnh.”
“Chúng tôi cứ thong thả” một trong số những người đàn ông ngắt lời, “và rồi như một con rắn, chúng tôi sẽ tấn công.” “Thật là một ý nghĩ kinh khủng!” Tôi không thể kiềm chế bản thân. “Chúng ta có thể làm gì để thay đổi điều này?” Cô sinh viên Anh ngữ nhìn thẳng vào mắt tôi. “Đừng quá tham lam”, cô ta nói, “và quá ích kỷ như thế. Hãy nhìn nhận là còn có rất nhiều điều khác trên thế giới ngòai những ngôi nhà lớn và những cửa hàng sang trọng của các ngài. Có những con người đang chết đói và các ngài thì lại lo lắng về dầu cho những chiếc xe hơi của mình. Trẻ em đang chết khát và các ngài thì lại đang ngắm những mẫu mới nhất trong các tạp chí thời trang. Những quốc gia như chúng tôi đang đắm chìm trong nghèo đói, nhưng người dân ở nước này thậm chí không thèm nghe tiếng kêu cứu của chúng tôi. Các ngài thậm chí không thèm để ý đến những tiếng nói của những người đang cố kể cho các ngài biết về những điều này. Các ngài gán cho họ là những người cực đoan hoặc những người cộng sản. Các ngài nên mở rộng tấm lòng với những người nghèo đói và nô lệ. Chẳng còn nhiều thời gian nữa. Nếu các ngài không thay đổi, các ngài sẽ bị hủy diệt.”
Vài ngày sau, chính trị gia nổi tiếng ở Bandung, người mà trong vở rối đã dũng cảm đương đầu với Nixon và bị người đàn ông xách cái xô đâm chết, đã bị một tên lái xe đâm chết rồi bỏ chạy.
Chương 8
Jesus, một cách nhìn khác
Ký ức về dalang đó luôn ám ảnh tôi. Những lời nói của cô gái sinh viên Anh ngữ xinh đẹp cũng vậy. Cái đêm đó ở Bandung đã buộc tôi phải suy nghĩ và cho tôi cách nhìn khác. Mặc dù không hẳn là tôi lờ đi những lý do thật cho những việc làm của mình ở Inđônêxia, và thường bị tình cảm chi phối, song tôi luôn kiềm chế được những cảm giác của mình bằng cách viện dẫn đến lẽ phải, đến ví dụ trong lịch sử, cũng như đến những đòi hỏi tự nhiên của con người. Tôi biện minh rằng, sự dính líu của chúng tôi cũng là do hoàn cảnh bình thường, và tự thuyết phục bản thân mình là: Einar, Charlie, và những người còn lại trong nhóm chúng tôi cũng hành động như bao người khác vẫn làm, đó là chăm sóc cho bản thân và gia đình của chúng tôi.
Song, những thanh niên Inđônêxia mà tôi nói chuyện hôm đó đã khiến tôi nhìn vấn đề ở một góc độ khác. Qua đôi mắt họ, tôi thấy những chính sách ngoại giao ích kỷ chẳng phục vụ hay bảo vệ cho thế hệ tương lai ở bất kỳ nơi nào. Nó cũng thiển cận như những báo cáo thường niên của các công ty hay những chiến lược vận động bầu cử của các nhà chính trị, những người dựng lên cái chính sách ngoại giao ấy.
Cuối cùng thì những số liệu mà tôi cần để làm dự báo kinh tế cũng khiến tôi thường xuyên ở đây để suy ngẫm về những điều này và viết chúng vào một quyển nhật ký. Tôi lang thang khắp thành phố, cho những người ăn xin tiền, và bắt chuyện với những người bị bệnh phong, gái điếm, và những đứa trẻ bụi đời. Cùng lúc đó, tôi nghĩ về bản chất của viện trợ nước ngoài, về vai trò hợp pháp mà các nước phát triển (DCs, theo thuật ngữ của Ngân hàng Thế giới) khi giúp đỡ các nước kém phát triển (LCDs) xóa đói giảm nghèo.
Tôi bắt đầu tự hỏi, khi nào nó chỉ là để phục vụ cho lòng tham và sự ích kỷ. Thật sự, tôi bắt đầu nghi ngờ liệu có khi nào sự giúp đỡ này bắt nguồn từ lòng nhân hậu thật không, và nếu không thì liệu có cách nào thay đổi được điều này. Tôi tin rằng những nước như chính đất nước tôi phải kiên quyết đứng lên giúp đỡ những người bệnh tật và nghèo đói trên thế giới, song tôi cũng tin chắc rằng hiếm khi nào đó lại là động lực chính cho sự can thiệp của chúng tôi. Một câu hỏi lớn cứ lởn vởn trong đầu tôi: Có sai trái quá không nếu mục tiêu của viện trợ nước ngoài là xây dựng chủ nghĩa đế quốc?
Tôi thường cảm thấy ghen tỵ với những người như Charlie, những người tin tưởng vào chế độ của chúng ta đến mức họ muốn áp đặt chế độ đó cho tất cả các nước khác trên thế giới. Tôi cũng ngờ rằng những nguồn lực có hạn khó mà cho phép cả thế giới sống một cuộc sống giàu sang như nước Mỹ, bởi ngay cả nước Mỹ cũng có hàng triệu người đang sống trong nghèo đói. Hơn nữa, tôi cũng không rõ là có thật người dân ở nước khác muốn có một cuộc sống như chúng tôi hay không. Những con số thống kê của chính nước Mỹ về bạo lực, tình trạng suy sụp, nghiện hút, ly hôn, và tội phạm đã cho thấy mặc dù xã hội của chúng tôi là một trong những xã hội thịnh vượng nhất trong lịch sử, nhưng đó cũng có thể là một trong những xã hội bất hạnh nhất. Tại sao chúng tôi lại muốn các nước khác phải giống mình?
Có thể Claudine đã cảnh bảo cho tôi về tất cả những điều này. Tôi chẳng còn chắc cô ấy đã cố nói với tôi điều gì. Dù sao đi nữa, gạt lý trí sang một bên, sự thật đau lòng là tôi đã mất đi sự vô tội. Tôi viết trong nhật ký. Liệu có ai ở Mỹ là vô tội không? Mặc dù những người giàu có và đầy quyền lực là những người được lợi nhiều nhất, thì hàng triệu người chúng ta, gián tiếp hay trực tiếp, đều đang sống nhờ vào sự bóc lột các nước kém phát triển. Hầu hết các nguồn lực và nhân công rẻ phục vụ cho hoạt động kinh doanh mà chúng ta có đều từ những nơi như Inđônêxia, và hiếm khi quay trở lại. Những khoản nợ dưới dạng viện trợ nước ngoài đảm bảo rằng con cái, rồi cháu chắt của những người lao động này sẽ còn phải tiếp tục trả nợ thay cho cha mẹ họ. Họ buộc phải đồng ý để cho các công ty của chúng ta tàn phá tài nguyên thiên nhiên của họ, và phải từ bỏ giáo dục, y tế, và các dịch vụ xã hội khác chỉ để trả nợ cho chúng ta.
Việc các công ty của chúng ta nhận hầu hết số tiền này để xây dựng các nhà máy điện, sân bay, và các khu công nghiệp chẳng đóng góp được gì trong việc này. Liệu lời bào chữa là phần lớn người Mỹ không ý thức được điều này có giúp họ trở nên vô tội không? Đúng là họ không có thông tin hoặc bị cung cấp những thông tin sai lệch, nhưng vô tội ư?
Tất nhiên, tôi cũng phải đối diện với sự thật là hiện giờ chính tôi cũng đang ở trong số những người chủ động đưa ra những thông tin sai lệch.
Khái niệm về một cuộc chiến tranh tôn giáo trên toàn thế giới là một khái niệm gây nhiều tranh cãi, nhưng càng suy nghĩ về điều này, thì tôi càng tin rằng rất có khả năng nó sẽ xảy ra. Song theo tôi, nếu cuộc chiến tranh này có xảy ra, thì đó sẽ không phải là cuộc chiến giữa người Hồi giáo với Thiên chúa giáo, mà là giữa những nước kém phát triển với nước phát triển, mà có thể người Hồi giáo sẽ đi tiên phong. Chúng tôi, người dân những nước phát triển là những nhà cung cấp. Một lần nữa, đây lại vẫn là hệ thống buôn bán thuộc địa, được dựng lên để giúp những nước mà tài nguyên thiên nhiên hạn chế song có quyền lực dễ bóc lột hơn những nước giàu tài nguyên nhưng không có sức mạnh.
Tôi không có cuốn sách của Tonybee, nhưng tôi biết lịch sử đủ để hiểu rằng khi những nhà cung cấp bị bóc lột quá lâu, họ sẽ nổi dậy. Tôi phải nhắc lại hình mẫu về cuộc cách mạng Mỹ và Tom Paine. Tôi nhớ rằng nước Anh đã thanh minh cho việc thu thuế của mình bằng cách quả quyết rằng nước Anh đang viện trợ cho các nước thuộc địa dưới hình thức cho quân đội bảo vệ những nước này khỏi người Pháp và người da đỏ. Song những người định cư lại giải thích hoàn toàn khác. Những gì mà Paine để lại cho đồng hương của mình trong cuốn Lẽ phải nổi tiếng chính là tâm hồn mà những người bạn trẻ Inđônêxia đã từng nói tới- một ý tưởng, một niền tin vào công lý của một sức mạnh lớn hơn, và một tôn giáo của tự do và công bằng, hoàn toàn đối lập với nền quân chủ Anh và các chế độ giai cấp thượng lưu của nó.
Những điều người Hồi giáo đưa ra cũng tương tự: lòng tin vào một sức mạnh lớn hơn, và niềm tin rằng các nước phát triển không có quyền nô dịch và bóc lột các nước khác trên thế giới. Giống như những người Mỹ trước đây đã từng vùng lên chống lại thuộc địa Anh, những người Hồi giáo cũng đang đe dọa sẽ đấu tranh vì quyền lợi của họ, và cũng chẳng khác gì những người Anh vào những năm 1770, chúng tôi quy những hành động này là khủng bố. Lịch sử dường như đang lặp lại.
Tôi tự hỏi thế giới sẽ ra sao nếu nước Mỹ và đồng minh của họ thay vì dùng tiền để tiến hành những cuộc chiến tranh - như cuộc chiến ở Việt Nam - để xóa đi nạn đói trên thế giới hoặc đưa giáo dục và chăm sóc y tế cơ bản tới tất cả mọi người, kể cả đồng bào tôi. Tôi tự hỏi những thế hệ tương lai sẽ thế nào nếu chúng ta cam kết xóa bỏ sự nghèo khổ và quyết tâm bảo vệ nguồn nước, rừng, và các tài nguyên thiên nhiên, những thứ đảm bảo cho chúng ta có được nguồn nước sạch, không khí trong lành và tất cả những gì đang nuôi sống tinh thần cũng như thể xác chúng ta. Tôi không thể tin rằng, cha ông tôi, những người lập nước lại hình dung quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc lại chỉ để dành riêng cho người Mỹ. Và vì thế, tại sao giờ đây chúng tôi lại đang thực hiện những chiến lược nhằm củng cố các giá trị của chủ nghĩa đế quốc mà cha ông chúng tôi đã từng đấu tranh chống lại?
Đêm cuối cùng ở Inđônêxia, tôi bừng tỉnh bởi một giấc mơ, ngồi dậy và bật đèn. Tôi cảm giác như có ai đó đang ở trong phòng. Tôi nhìn quanh những đồ đạc quen thuộc của khách sạn InterContinental, những tấm thảm được thêu kiểu batik, và bóng những con rối trong khung treo trên tường. Và giấc mơ quay trở lại.
Tôi thấy Chúa đứng trước mặt mình. Người không khác với Chúa Giêsu mà tôi vẫn hằng đêm cùng nói chuyện và chia sẻ suy nghĩ sau khi cầu nguyện ngày tôi còn bé. Ngoại trừ một điều, Chúa Giêsu trong ký ức thời thơ ấu của tôi da trắng và tóc vàng, trong khi người đứng trước mặt tôi lại có mái tóc xoăn đen và nước da ngăm. Người cúi xuống và nâng một vật gì đó lên vai. Tôi nghĩ đó là cây thánh giá. Nhưng không phải, tôi nhìn thấy trục xe ô tô cùng với vành bánh xe hiện lên trên đâu của người tạo ra một vầng hào quang bằng kim loại. Dầu mở chảy xuống như máu trên trán của người. Người đứng thẳng, nhìn vào mắt tôi và nói: “Nếu bây giờ ta giáng thế, con sẽ thấy ta khác”. Tôi hỏi người tại sao. “Tại thế giới đã thay đổi”, người trả lời.
Kim đồng hồ chỉ trời đã gần sáng. Tôi biết tôi không thể ngủ tiếp, tôi dậy mặc đồ, đi thang máy xuống tiền sảnh vắng vẻ và tha thẩn trong khu vườn bao quanh bể bơi. Trăng hôm nay thật sáng và mùi hương ngọt ngào của hoa lan phảng phất trong không khí. Tôi ngồi xuống chiếc ghế dài và tự hỏi mình đang làm gì ở đây, tại sao những biến cố của cuộc sống lại đưa tôi đi theo con đường này, tại sao lại là Inđônêxia. Tôi biết cuộc sống của tôi đã thay đổi, nhưng tôi không biết nó sẽ thay đổi nhanh đến mức nào.
Tôi và Ann gặp nhau ở Paris trên đường về nhà và cố gắng hòa giải. Nhưng ngay cả trong kỳ nghỉ ở Pháp này chúng tôi vẫn tiếp tục tranh luận. Mặc dù có rất nhiều những khoảng khắc đặc biệt và tuyệt vời, song tôi nghĩ chúng tôi đều nhận ra rằng nỗi giận và sự bực tức trong cả một thời gian dài đã biến thành trở ngại quá lớn. Vả lại, có rất nhiều điều tôi đã không thể nói với cô ấy. Người duy nhất tôi có thể chia sẽ là Claudine, và tôi liên tục nghĩ về cô ấy. Ann và tôi đáp xuống sân bay Logan ở Boston, mỗi người đi tới căn hộ của riêng mình ở vịnh Back.
Chương 9
Cơ hội ngàn năm có một
Thử thách thực sự về Inđônêxia đang chờ tôi tại MAIN. Buổi sáng, việc trước tiên mà tôi làm là đến trụ sở của MAIN tại Trung tâm Prudential. Khi đi thang máy cùng hàng chục đồng nghiệp khác, tôi được biết Mac Hall, vị Chủ tịch và Tổng giám đốc đầy bí ẩn ngoại bát tuần của MAIN đã tiến cử Einar làm Chủ tịch văn phòng Oregon tại Portland. Thế là từ giờ tôi sẽ chính thức dưới quyền Bruno Zambotti.
Được mệnh danh là “con cáo bạc” vì mái tóc và khả năng kỳ lạ luôn vượt trội mọi đối thủ muốn thách thức ông ta, Bruno có dáng vẻ bảnh bao của Cary Grant. Ông ta có khả năng hùng biện, và có cả bằng kỹ thuật lẫn bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh. Ông ta thành thạo kinh tế lượng và là Phó giám đốc phụ trách bộ phận điện năng và hầu hết các dự án quốc tế ở MAIN. Ông ta chắc chắn sẽ kế vị người thầy của ông ta, Jake Dauber lên làm Chủ tịch Tập đoàn khi ông này đến tuổi về hưu. Cũng như hầu hết các đồng nghiệp tại MAIN, tôi rất kính nể và sợ Bruno Zambotti.
Ngay trước bữa ăn, Bruno cho gọi tôi đến văn phòng của ông ta. Sau khi hỏi han rất thân về Inđônêxia, ông ta nói một số câu khiến tôi đứng ngồi không yên. “Tôi sẽ sa thải Howard Paker, chúng ta không cần đi vào chi tiết, trừ một điều là ông ta đã quá xa rời thực tế.” Nụ cười thân thiện của ông ta khiến tôi bối rối. Ông ta lấy ngón tay khẽ gõ lên tập giấy ở trên bàn: “Tám phần trăm một năm. Đó là dự báo lượng điện của ông ta. Anh có tin được không? Ở đâu đất nước đầy tiềm năng như Inđônêxia!” Nụ cười của ông ta tắt ngấm và ông ta nhin thẳng vào mắt tôi. “Charlie Illingworth nói với tôi rằng dự báo kinh tế của anh bám sát mục tiêu đề ra và sẽ cần lượng điện tăng vào khoảng 17 đến 20 phần trăm. Đúng thế không?”
Tôi bảo đảm với ông ta là đúng. Ông ta đứng dậy bắt tay tôi. “Xin chúc mừng. Anh vừa được thăng chức.”
Lẽ ra, tôi nên cùng các đồng nghiệp tại MAIN đi ăn mừng ở một khách sạn sang trọng- hay thậm chí chỉ riêng mình tôi. Tuy nhiên, tâm trí tôi chỉ hướng về Claudine. Tôi rất nóng lòng muốn báo cho cô ta biết về sự thăng tiến của mình và những gì tôi đã trải qua ở Inđônêxia. Cô ta đã bảo tôi không được gọi cho cô ta từ nước ngoài, và tôi đã không gọi. Bây giờ tôi thất vọng khi điện thoại của cô ta không thể liên lạc được và cũng không có số chuyển tiếp. Tôi quyết định đi tìm cô ta.
Một cặp vợ chồng trẻ đã chuyển đến sống trong căn hộ của cô ta. Lúc ấy là giờ ăn trưa nhưng chắc chắn là tôi vừa đánh thức họ; rất khó chịu, họ tuyên bố là không hề biết gì về Claudine. Tôi đến cả văn phòng cho thuê nhà, vờ là anh họ của Claudine. Trong hồ sơ của họ chưa từng có ai thuê nhà với cái tên như vậy; người thuê nhà trước đây là một người đàn ông yêu cầu được giấu tên. Quay lại Trung tâm Prudential, phòng nhân sự của MAIN cũng khẳng định không có hồ sơ nào của cô ta. Họ xác nhận chỉ có hồ sơ của một “cố vấn đặc biệt” nhưng tôi không được phép xem.
Đến cuối buổi chiều, tôi thấy mệt mỏi rã rời, cả thể xác lẫn tinh thần. Thêm vào đó, sự mệt mỏi sau một chuyến bay dài cũng bắt đầu hành hạ tôi. Trở lại căn hộ trống trải, tôi cảm thấy cô đơn khủng khiếp và bị bỏ rơi. Sự thăng tiến trở nên vô nghĩa, thậm chí còn tệ hơn, nó trở thành dấu hiệu là tôi đã bán rẻ bản thân. Tôi quăng mình xuống giường, quay cuồng với nỗi tuyệt vọng. Claudine đã lợi dụng tôi và sau đó vứt đi. Quyết không để nỗi đau chi phối, tôi gạt bỏ mọi cảm xúc của mình. Tôi lên giường, nhìn chằm chằm vào những bức tường trống hàng tiếng đồng hồ.
Cuối cùng, tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh. Tôi ngồi dậy, uống hết một chai bia và đập mạnh chai xuống bàn. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Nhìn xuống con phố phía đằng xa, tôi tưởng như nhìn thấy cô ta đang đi về phía tôi. Tôi chạy vội ra phía cửa nhưng rồi lại quay trở về phía cửa sổ để nhìn kỹ lại. Người phụ nữ đang tiến lại gần hơn. Cô ta rất hấp dẫn, và dáng đi của cô ta rất giống Claudine, nhưng cô ta không phải là Claudine. Tim tôi như thắt lại, và cảm xúc của tôi chuyển từ giận dữ và căm ghét sang sợ hãi. Trong đầu tôi bỗng lóe lên hình ảnh Claudine quằn quại và ngã xuống dưới làn đạn vì bị ám sát. Tôi cố rũ bỏ hình ảnh ấy bằng một vài viên Valium và uống cho đến khi say mềm và ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau, cú điện thoại từ phòng nhân sự đã đánh thức tôi khỏi cơn say. Trưởng phòng nhân sự, Paul Mormino, cam đoan là ông ta hiểu tôi cần được nghỉ ngơi, nhưng ông nài nỉ tôi ghé đến văn phòng vào buổi chiều.
“Có tin tốt”, ông ta nói. “Tin này sẽ làm anh hết mệt đấy.” Tôi tuân lệnh triệu tập và được biết rằng Bruno đã giữ lời, và còn hơn thế nữa. Không những tôi có được vị trí của Howard mà còn được thêm chức danh Kinh tế trưởng và được tăng lương. Điều đó khiến tôi phấn chấn hơn một chút.
Chiều hôm đó tôi xin nghỉ và lang thang dọc bờ sông Charles với một chai bia. Khi tôi ngồi nhìn những chiếc thuyền buồm và lấy lại sức sau chuyến bay dài mệt mỏi va sau cơn say, tôi tự thuyết phục bản thân rằng Claudine đã làm xong công việc của mình và đã chuyển sang một nhiệm vụ mới. Cô ta luôn nhấn mạnh phải giữ bí mật. Cô ấy sẽ gọi. Mormino đã đúng. Sự mệt mỏi và nỗi lo âu tiêu tan.
Trong suốt nhiều tuần sau đó, tôi đã cố gạt mọi suy nghĩ về Claudine sang một bên. Tôi tập trung viết báo kinh tế của Inđônêxia và sửa lại phần dự báo lượng tải điện của Howard. Tôi đã đưa ra nghiên cứu theo đúng ý muốn của các sếp: nhu cầu điện tăng trung bình khoảng 19% một năm trong vòng mười hai năm đầu sau khi hệ thống được hoàn thiện, sau đó giảm xuống 17% trong tám năm tiếp theo và duy trì ở mức 15% trong những năm còn lại của hai mươi lăm năm tới.
Tôi đã trình bày kết luận của mình tại những buổi họp chính thức với các tổ chức tài trợ quốc tế. Nhóm chuyên gia của các tổ chức này liên tục hỏi tôi nhiều câu rất tàn nhẫn. Nhưng khi đó, cảm xúc của tôi đã chuyển thành sự quyết tâm không gì lay chuyển được, chẳng khác gì sự quyết tâm đã thôi thúc tôi phấn đấu để vượt trội thay vì nổi loạn trong thời gian ở trường nội trú nam sinh. Tuy nhiên, ký ức về Claudine vẫn luôn ám ảnh tôi. Khi một nhà kinh tế trẻ ăn mặc bảnh bao muốn ra vẻ ta đây của Ngân hàng Phát triển châu Á hỏi tôi dồn đập suốt cả buổi chiều, tôi chợt nhớ lại lời khuyên của Claudine lúc chúng tôi gặp nhau tại căn hộ của cô ta trên phố Beacon nhiều tháng trước.
“Ai có thể thấy trước được tương lai của hai mươi lăm năm tới cơ chứ?” cô ta hỏi tôi. “Những dự báo của anh cũng tốt chẳng kém gì của họ. Chỉ cần anh tự tin.” Tôi tự nhủ mình là một chuyên gia, có nhiều kinh nghiêm sống ở các nước đang phát triển hơn những người- kể cả nhiều người trong đó còn gấp đôi tuối tôi- đang ngồi phán xét công việc của tôi. Tôi đã từng sống ở Amazon và đã đến rất nhiều nơi của đảo Java, những nơi mà không ai muốn đặt chân đến. Tôi đã tham gia một số khóa đào tạo chuyên môn, được thiết kế để dạy cho các nhà quản lý những điều tinh túy nhất của kinh tế lượng.
Tôi tự nhủ rằng mình là một trong số những con người của thế hệ mới, những người trẻ tuổi, ưu tú, sùng bái kinh tế lượng và những số liệu thống kê rất hợp gu với Robert McNamara - Chủ tịch đương nhiệm của Ngân hàng Thế giới, Giám đốc tiền nhiệm Ford Motor và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Tổng thống Kenedy. Ông ta là người đã tạo dựng danh tiếng cho mình dựa trên những con số thống kê, lý thuyết xác suất, các mô hình toán học và - tôi cho là - dựa trên sự táo bạo hão huyền xuất phát từ lòng vị kỷ khủng khiếp.
Tôi cố gắng bắt chước cả McNamara và Bruno. Tôi học cách diễn thuyết của McNamara và dáng đi đầy tự tin của Bruno, cái cặp da luôn kè kè bên mình. Nhìn lại, tôi cũng phải kinh ngạc bởi sự trơ trẽn của chính mình. Thực ra, chuyên môn của tôi rất hạn chế, song những kiến thức tôi thiếu hay không qua đào tạo đã được bổ sung bằng sự táo bạo của tôi.
Và tôi đã thành công. Cuối cùng thì nhóm các chuyên gia cũng chấp nhận những bản báo cáo của tôi. Trong những tháng tiếp theo, tôi tham dự nhiều cuộc họp ở Teheran, Caracas, Guatemala, London, Vienna và Washington DC. Tôi gặp gỡ nhiều nhân vật nổi tiếng, trong đó có cả Quốc vương Iran, những người đã từng là tổng thống của nhiều nước, và cả Robert McMamara. Cũng giống như trường nội trú dành cho nam sinh, đó là một thế giới đàn ông. Tôi kinh ngạc nhận thấy chức danh của mình và những thành công vừa đạt được trong các buổi họp với các tổ chức tài trợ quốc tế đã làm thay đổi thái độ của mọi người với tôi.
Ban đầu, tất cả những điều này khiến tôi choáng ngợp. Tôi bắt đầu nghĩ mình như một vị phù thủy với cây đũa thần, chỉ cần dùng cây đũa chỉ vào một đất nước, phút chốc đất nước này sẽ bừng sáng, và các ngành công nghiệp thăng hoa. Nhưng rồi tôi vỡ mộng. Tôi nghi ngờ động cơ của bản thân và của các đồng nghiệp. Dường như một chức vị danh giá hay một tấm bằng tiến sĩ không làm cho người ta hiểu cảnh thống khổ của một người bị bệnh phong phải sống bên lề xã hội ở Jakarta, và tôi ngờ rằng việc hiểu rõ các số liệu thống kê chẳng thể mang lại cho người ta khả năng nhìn trước được tương lai. Càng biết rõ về những người nắm quyền quyết định vận mệnh thế giới, tôi càng nghi ngờ khả năng và mục đích của họ. Nhìn vào những người đang ngồi quanh bàn họp, tôi thấy khó mà kiềm chế được cơn giận dữ của mình.
Tuy nhiên, cuối cùng cách nhìn này của tôi cũng thay đổi. Tôi chợt hiểu ra rằng hầu hết những người này đều tin tưởng rằng họ đang làm những việc đúng đắn. Cũng giống như Claudine, họ tin chắc rằng chủ nghĩa khủng bố là xấu xa- chứ không phải là cách người ta phản ứng lại những quyết định mà bản thân họ và những người tiền nhiệm đã đưa ra- và rằng trách nhiệm của họ đối với đất nước, với con cái và với Chúa là phải đưa thế giới trở lại với chủ nghĩa tư bản. Họ cũng trung thành với quy luật chỉ những kẻ mạnh nhất mới có thể tồn tại; nếu họ tình cờ có được số phận may mắn là sinh ra trong một tầng lớp có đặc quyền chứ không phải trong những căn lều làm bằng bìa các tông thì nghiễm nhiên việc đảm bảo cho con cháu họ được hưởng những đặc quyền tương tự là một nghĩa vụ mà họ phải hoàn thành.
Tôi không biết phải nhìn nhận những người này như những kẻ thật sự có mưu đồ hay chỉ đơn giản là một nhóm những người có chung đặc quyền đặc lợi đang có khuynh hướng chiếm lĩnh thế giới. Song, càng ngày tôi càng thấy họ giống với những tay chủ đồn điền vào thời kỳ trước cuộc Nội chiến miền Nam. Họ là những người trong cùng một hội với những niềm tin vào lợi ích chung, chứ không phải là một hội kín bí mật với mục đích nham hiểm. Những tay chủ đồn điền lớn lên có người hầu và nô lệ, được nuôi dạy để tin rằng họ có quyền và thậm chí có nghĩa vụ bảo vệ “những kẻ ngoại đạo dốt nát” và dạy cho họ sống theo tôn giáo và cách sống của các ông chủ. Kể cả khi về đạo lý họ phản đối chế độ nô lệ, họ vẫn có thể, giống như Thomas Jefferson, bào chữa rằng chế độ nô lệ là cần thiết để duy trì trật tự xã hội. Những kẻ nắm quyền của những chính thể đầu sỏ ngày nay, mà tôi thường coi là thể chế tập đoàn trị, dường như cũng cùng một giuộc.
Tôi bắt đầu tự hỏi: không biết ai là người được lợi từ chiến tranh từ việc sản xuất vũ khí hàng loạt, từ việc xây đập thủy điện trên những con sông và phá hủy môi trường và văn hóa dân tộc. Tôi cũng bắt đầu để ý ai là người được hưởng lợi khi hàng trăm nghìn người khác chết vì đói, vì nước ô nhiễm và vì những căn bệnh có thể chữa được. Dần dần, tôi nhận ra rằng rốt cuộc chẳng ai được lợi, nhưng trong tương lai gần thì những kẻ ăn trên ngồi trốc - như những ông chủ của tôi và tôi - dường như là có lợi, ít nhất là về mặt vật chất.
Điều này cũng đặt ra nhiều câu hỏi: tại sao tình trạng này tồn tại? Tại sao nó kéo dài lâu như vậy? Liệu câu trả lời có đơn giản như trong câu châm ngôn cổ “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh”, rằng những kẻ nắm quyền lực trong tay sẽ duy trì hệ thống hay không?
Có lẽ là chưa đủ khi nó rằng chỉ có quyền lực gây nên tình trạng kéo dài này. Tuy lời nhận xét “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh” đã giải thích được phần lớn, nhưng tôi vẫn cảm thấy chắc hẳn phải có một động cơ nào đó mạnh hơn rất nhiều. Tôi nhớ lại những ngày còn học ở đại học, một vị giáo sư kinh tế của tôi, một người Bắc Ấn, đã giảng về những nguồn lực có hạn, về nhu cầu không ngừng phát triển của con người, và về nguồn gốc của nô lệ. Theo vị giáo sư này, mọi hệ thống tư bản chủ nghĩa thành công bao giờ cũng có hệ thống cấp bậc với những chuỗi mệnh lệnh khắt khe, và chỉ có một số ít người ở vị trí cao nhất có quyền kiểm soát cấp dưới và một đội quân khổng lồ những người lao động ở dưới đáy xã hội mà theo thuật ngữ kinh tế có thể được xếp vào hàng nô lệ. Cuối cùng thì tôi tin chắc rằng chúng tôi khuyến khích hệ thống này vì chế độ tập đoàn trị đã thuyết phục chúng tôi rằng Chúa đã trao cho chúng tôi quyền đặt một số người lên trên đỉnh của cái kim tự tháp tư bản này và chúng tôi có sứ mệnh truyền bá hệ thống đó trên khắp thế giới.
Tất nhiên, chúng tôi không phải là những người đầu tiên làm như vậy. Danh sách những người đã làm điều đó có từ thời những đế quốc cổ đại ở Bắc Phi, Trung Đông, và châu Á, rồi tiến dần lên phía vịnh Ba tư, Hy Lạp, Roma, cuộc Thập tự chinh của Thiên chúa giáo, và tất cả những người dựng nên đế chế Châu Âu vào thời đại sau Columbus. Tiến trình phát triển của chủ nghĩa đế quốc đã và sẽ là nguyên nhân của hầu hết các cuộc chiến tranh, sự ô nhiễm, nạn đói, sự tuyệt chủng của các loài, và nạn diệt chủng. Và nó luôn luôn đưa đến sự hủy hoại nghiêm trọng cả tinh thần và hạnh phúc của những công dân thuộc các đế quốc đó, gây bất ổn xã hội. Cuối cùng, những nền văn hóa thịnh vượng nhất trong lịch sử nhân loại cũng đều bị hủy hoại vì sự lan tràn của tình trạng tự sát, tệ lạm dụng ma túy và bạo lực.
Tôi nghĩ rất nhiều về những câu hỏi này, nhưng tôi tránh nghĩ về vai trò của mình trong tất cả những vụ việc này. Tôi cố nghĩ rằng bản thân mình không phải là một EHM mà là một Kinh tế trưởng. Điều đó nghe có vẻ hợp pháp, và nếu tôi cần bất cứ sự xác nhận nào, tôi có thể nhìn vào cuốn biên lai tiền lương của tôi: tất cả đều từ MAIN, một công ty tư nhân. Tôi không kiếm được dù chỉ một xu từ phía NSA hay bất kỳ một cơ quan chính phủ nào. Tôi gần như chắc chắn. Gần như vậy.
Vào một buổi chiều, Bruno gọi tôi vào phòng làm việc của ông ta. Ông ta vòng ra sau ghế ngồi và đặt tay lên vai tôi: “Anh đã hoàn thành công việc xuất sắc. Để chứng tỏ chúng tôi đánh giá điều đó cao thế nào, chúng tôi sẽ cho anh một cơ hội ngàn năm có một, một lời đề nghị mà rất ít người, kể cả khi đã gấp đôi tuổi anh có được”.
http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/
http://nguoidalat.informe.com/forum/
http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/