Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
Duyên Anh
Sàig̣n ngày dài nhất
Saigon Trường Ca
Sàig̣n trường ca
1.-
Em thuở ấy c̣n hoa phong nhụy
Trên bản đồ địa lư giáo khoa thư
Rất thật thà và cũng rất ngu ngơ
Anh mực tím vẽ giấc mơ viễn xứ
Giấy trắng học tṛ viết tên em đầy vở
Viết đầy hồn tuổi nhỏ của anh xưa
Chuyến tầu vô Nam c̣i thét trong mơ
Nên ga bến chỉ đợi chờ tưởng tượng
Thế đă đủ làm anh sung sướng
Đủ làm anh chiêm ngưỡng em rồi
Hỡi Sài g̣n xa lạ của anh ơi
Anh thầm gọi khi đất trời hiu quạnh
Nuốt miếng nắng vàng ḷng thôi mưa lạnh
Và thèm bay như đôi cánh hạc hồng
Đêm sách đèn chữ nghĩa chạy lung tung
Ngày trường lớp cũng uổng công thầy dậy
Cái bảng đen mịt mù sao anh thấy
Xa nơi anh lộng lẫy một Sài g̣n
Một Sài g̣n tươi mát ngọt ngon
Đang vẫy gọi lời mật ong say đắm
Bước chân đời hiền ngoan nhưng chậm lắm
Anh theo nhanh mà vẫn cứ dại khờ
Sài g̣n ơi, biết đến bao giờ
Anh khôn lớn để ước mơ đầy tuổi
2.-
Năm anh mười chín
Đường hoa xưa lầy lội
Quê nhà anh cằn cỗi thê lương
Như chim hạc hồng anh vội trốn mùa đông
Đôi cánh mỏng trĩu cong tâm sự
Tổ quốc ḿnh c̣n ho lao quá khứ
Đă ung thư một hiện tại qua phân
Anh đến cùng em, anh đến thật gần
Với ḷng anh bản đời ngµy xưa vẽ dở
Em nắng vàng xoài, mưa xanh vú sữa
Nỗi sầu riêng hồn anh lịm cơn mê
Sông miền Nam chẳng ai thích ngăn đê
Nên t́nh cảm mênh mông biển nước
Sài g̣n em là mộng ước
Em áo bà ba đơn sơ và em giọng nói thiệt mùi
Em chân t́nh và em tha thiết quá em ơi
Xao xuyến ù ơ, bồi hồi vọng cổ
Em cho anh hơi thở
Cho anh niềm tin xây dựng tương lai
Em cho anh cả đất lẫn trời
Cả nắng thi ca, cả mưa tiểu thuyết
Em cho anh đếm làm sao hết
Đời yên vui nhờ liếp ấm em che
Đời yên vui nhờ một chốn lui về
Anh thấy rơ ngọn đèn soi cuộc sống
Phóng tầm mắt anh nh́n xa trông rộng
Thế giới ơi, tôi kiêu hănh có Sài g̣n.
Nếu phải ĺa em, anh sẽ mỏi ṃn
Anh sẽ giối giăng đọc tên em từng hàng cây, con phố
Theo bước chân người anh rày đây mai đó
Mỗi chia ly mỗi gần gũi em hơn
Mỗi chia ly mỗi thơm ngát nỗi buồn
Anh mới hiểu
Sài g̣n trái tim anh, tim đất nước
Anh mới hiểu
Tại sao ḿnh yêu tổ quốc
Và tại sao ḿnh yêu dấu Sài g̣n
Em cho anh nhiều, em nhớ nổi không
Tiếng hát thê lương, điệu ru kỷ niệm
Em cho anh no tṛn sự nghiệp
Để anh đi làm đẹp cuộc đời
Sài g̣n
Tên em trên những vệt son môi
trong ánh mắt và trong hơi thở
trong hạnh phúc và trong đau khổ
ở tuổi non và ở tuổi già
ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đă qua
ở hôm nay anh sống và ngày mai anh chết
ở ngàn dặm kẻ chân mây mù mịt
ở tấc gang người cuối phố đầu phường
ở sớm công viên ngọn cỏ ngậm sương
ở chiều bùng binh đèn mầu phô sắc
ở b́nh minh nụ cười
ở hoàng hôn nước mắt
ở chốn ngoài ta
ở cơi vô thường
ở nghẹn ngào vết chém thê lương
của lịch sử trăm năm phản bội
của lịch sử làm nên bởi những tên gian dối
những tên bù nh́n yêu nước độc quyền
những tên tay sai tráo trở đảo điên
Em ngự đền đài, em là đà huyệt mộ
ở mọi nơi v́ em là thành phố
Là chứng nhân và là cả nạn nhân
Anh yêu em muốn cắn nát vai trần
Muốn gh́ chặt môi hôn bây giờ và măi măi
3.-
Sài g̣n khăn sô
Mùa xuân tím tái
Lưỡi lê đàng ngoài thù hận đàng trong
Chim hạc hồng tiếp tục trốn mùa đông
Chả thấy Hoàng Diệu nào tuẫn tiết
Anh chỉ thấy bọn tướng hèn khốn kiếp
Lột xé chiến bào, phi tang tích huân chương
Đứa tham sinh rời lủi quê hương
Đứa úy tử gục đầu chịu trói
Sài g̣n ơi, anh biết em đau nhói
Anh biết em nhục nỗi tháng Tư
Nỗi nhục ghim sâu, em vẫn thủ đô
Vẫn rực rỡ tự hào những người
Ta không bỏ em cao thượng
Ta ở lại địa ngục trần gian
và ta tự t́m lên thiên đàng hạnh phúc
Bởi v́ ta được khóc với Sài g̣n
Nước mắt ta nhỏ xuống vết thương non
Vết thương xót xa làm ta khôn lớn
Sài g̣n
Em đă cho anh hai mươi năm sung sướng
Anh phải van lơn để hứng chịu cơ cầu
Ngày mai, trong ngục tù hay phát văng rừng sâu
Anh không thẹn khi nói: Anh yêu em tha thiết
Hăy mơn nhẹ nỗi đau, đừng rên xiết
Hăy thinh không niềm bí ẩn trùng khơi
Sài g̣n ơi
măi là em nhé,
Sài g̣n ơi
Dù biển dâu có khoác áo chồn tinh
lên tên em diễm tuyệt
Măi là nắng thi ca là mưa tiểu thuyết
Dù đường xưa đầy dấu vết kên kên
Măi là em,
măi là em ngơ ngác, dịu hiền
Để anh vững hành trang xa em biệt xứ
Để anh vỗ về tương lai bằng điệu ru quá khứ
Để anh yên vui c̣n một chốn lui về
4.-
Tháng sáu mây ch́
Mưa tiễn anh đi
Mưa sướt mướt hay Sài g̣n sướt mướt
Anh đi theo nổi trôi vận nước
Anh đi theo dâu biển quê nhà
Anh hết là anh
Anh đă là ta
Cái tiểu ngă nhập vào đại ngă
Nỗi thống khổ chẳng riêng ai chịu nữa
Nó đè lên vai cả dân tộc
cả thế giới chúng ḿnh
Nó trong giọt nước mắt già và trên ngọn tóc xanh
Nó ở cuộc đời thênh thang
và ngục tù tăm tối
Nó ở ban mai kinh nguyện cầu
nửa đêm kinh sám hối
ở hồi chuông cáo phó
ở tiếng khóc chào đời
Nó gầm gừ đe dọa dài dài
Sau mỗi ḥa b́nh của chiến tranh ư thức hệ
Nó là tham lam, ích kỷ
là kiêu căng, ngu xuẩn là độc ác dối gian
Nó xui Việt Nam tàn nhẫn với Việt Nam
Và bắt nhân loại phải rời xa nhân loại
Nó đă bắt ta xa em, Sài g̣n hỡi
Nó đầy ta suối độc, rừng thiêng
Nó c̣n giả vờ giăng khẩu hiệu nhân quyền
Con ó bảo mỏ ḿnh thôi nhọn hoắt
và con gấu khoe chân ḿnh cùn nanh vuốt
Nhưng loài người vẫn bị mổ mắt, vẫn bị cấu cào
Ta th́ vẫn nằm dài trong những đề lao
Nghe nỗi nhớ Sài g̣n thơm ngát
5.-
Mùa thu nghe con cuốc cuốc
Có gần ta những buổi chiều nhung
Em đến luôn luôn, em đến rất thường
Với cỏ úa công viên, với cây khô tước vỏ
Với phấn son, lược gương vất bỏ
Với móng tay dài, ánh mắt diều hâu
Phan Đ́nh Phùng tạm trú nơi đâu
Trần Quư Cáp hộ nào chứa đó
ôi, Cần Vương trăm năm cũ
Cũng biển dâu dâu biển dưới mồ
Giải khăn sô trên vừng trán tháng Tư
Cho người chết và cho lịch sử
Cho nhiệt t́nh và cho danh dự
Cho quên trời xa cho nhớ đất gần
Em đến hoài hoài, em đến thật chăm
Với bước chân em ră rời cơi tạm
Với mũi tên găm tim xưng phổi nám
Em gọi ta về máu đỏ chiêm bao
Em gọi ta về xao xuyến dạt dào
Em có hiểu v́ sao ta ở lại
Em có hiểu v́ sao ta đóng đinh chịu tội
Sài g̣n ơi, nay mới thật yêu em
Xưa đă yêu rất mướt rất mềm
Đă tha thiết chỉ gọi là tha thiết
Chưa cuồng điên, dại rồ, mănh liệt
Vẫn ngỡ t́nh yêu khói nắng mơ hồ
Vẫn tưởng t́nh yêu bọt nước hư vô
Nên mới có bây giờ ta sám hối
Ta t́nh nguyện lưu đầy chuộc lỗi
Bởi măi rong chơi nên đánh mất Sài g̣n
Bởi trót lơ là làm héo đóa môi son
Làm suối lệ thành đại dương nước mắt
Hạnh phúc trong tay ta vừa vuột mất
Em gọi ta về hiu hắt dặm đường xa
Ta những chàng trai của Sài g̣n mở hội hôm qua
Của hôm nay đề lao, tập trung lao cải
Của Sơn La, Lai Châu, Lào Kay, Yên Bái
Của Ninh B́nh, Vĩnh Phú, Gia Trung
Của Kàtum, Thanh Nghệ, Phước Long
Của Trảng Lớn, Vườn Đào, Đồng Tháp
Của Chí Ḥa, Hàm Tân, Sa ác
Của Gia Rai, Xuyên Mộc, vân vân
Hỡi Sài g̣n, người t́nh chói lọi chân dung
Em gắng đợi ta về trong nỗi nhớ
6.-
Anh hỏi trời cao
Trời cao hớn hở
Anh chỉ đất thấp
Đất thấp mặn nồng
Có t́nh yêu, hạnh phúc nào già không
Trời đất nói hạnh phúc, t́nh yêu ngh́n năm son trẻ
Và thành phố anh yêu cũng ngh́n năm như thế
Sài g̣n ơi, em trẻ măi chẳng già
Anh sẽ về thắp sáng ngọn đèn xưa
Vẽ lại chân dung em
bản đồ giáo khoa thư địa lư
Viết tên em Sài g̣n hoa phong nhụy
Sài g̣n t́nh thơ anh
Sài g̣n ấu thơ anh
Sài g̣n mưa tâm tư
Sài g̣n nắng tâm t́nh
Sài g̣n mênh mông
Sài g̣n vời vợi
Sài g̣n rất tươi
Sài g̣n thật mới
Thế giới ơi, tôi không mất Sài g̣n
(Sa Ác, 30-4-1979)
Chương 1
Tôi nh́n đồng hồ: 0 giờ 1 phút. Ngày mới của nhân gian đă sang được 60 giây. Hoàng hôn của đời tôi khởi sự. Từ đốm lửa ở đầu điếu thuốc loé lên mỗi hơi rít đẫy đà, tôi mơ hồ thấy nỗi chết gần kề. Đao phủ và h́nh cụ của nó đang chờ tôi bên bờ biển máu. Tôi linh cảm tôi sẽ là một trong cả triệu nạn nhân bị đẩy vào cuộc tàn sát tuyết hận ghê gớm của cộng sản như người Mỹ khẳng định và như Soljenitsyne quả quyết. Tôi sợ hăi. Tôi sợ hăi vô cùng: V́ tôi chưa hiểu cộng sản sẽ dành cho những nhà văn chống đối họ cách chết nào, lối chết nào, kiểu chết nào. Khái Hưng đă bị d́m dẫy sặc dưới nước. Lan Khai đă bị nhét vô rọ liệng xuống sông. Sắp đến lượt chúng tôi. Sắp đến lượt Doăn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Như Phong... Chẳng biết những người này có nhanh chân và may mắn hơn tôi? Chẳng biết anh em nào đă ra đi, anh em nào c̣n kẹt lại? Riêng tôi, tôi tuyệt vọng di tản từ lúc cổng sắt của Pḥng thông tin Mỹ góc đường Lê Quư Đôn - Phan Đ́nh Phùng mở tung, dân Sài g̣n ùa vào đập phá cho hả giận bị đánh lừa và hôi đồ cho bơ tức. Với tôi, định mệnh an bài hồi 14 giờ, ngày 29-4-1975. Sứ thần Lan Carter không trở lại thực thi lời tâm huyết của tổng thống Gerald Ford: "Phải dành ưu tiên di tản những nhà văn, những nhà báo, những chủ bút"... Tôi nhớ Phạm Duy, trước phút chạy thục mạng, đă cố gọi giây nói khuyên tôi: "T́m lối thoát lẹ đừng tin Mỹ, bọn Mỹ chó đẻ lắm"?
Bọn Mỹ chó đẻ thật. Nó năn nỉ chúng tôi đến Usis ghi tên di tản. Nó lập danh sách, ghi rơ tên tuổi, bút hiệu, địa chỉ của chúng tôi. Nó đem danh dự của dân tộc nó quả quyết sẽ không bao giờ để chúng tôi lọt vào tay cộng sản. Chúng tôi tin nó. Và chúng tôi đă không kiếm đường khác.
Bấy giờ, ông đại sứ John Dan chưa công bố thư riêng của hoàng thân Sirit Matak sau khi cuốn cờ sao xọc rời Phnom Penh: "Sống chết đối với tôi không quan trọng. Điều quan trọng là tôi đă trót tin người Mỹ"?
Sirit Matak khước từ di tản. Nếu tôi không lưỡng lự giữa hợp pháp và bất hợp pháp, chỉ cần xỉa cho chị me Mỹ đen dưới chợ Xóm Lách mỗi đầu người ba trăm đô-la, tôi đă leo máy bay Mỹ ở phi trường Tân Sơn Nhất. Mới hay, me Mỹ giá trị hơn lời của tổng thống Gerald Ford và danh dự Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Khi tôi quán triệt tâm huyết Mỹ, đó là lúc tôi chờ đợi cái chết.
Tôi đă chưa hề tin Mỹ. Lần đầu tôi tin Mỹ và tôi e rằng không c̣n dịp để nói là lần cuối cùng. Mỹ giống hệt cộng sản. Nó bảo trắng th́ là đen. Nó bảo thắng th́ là bại. Nó bảo đồng minh th́ là đầy tớ. Nó bảo chung thủy th́ là phản phúc. Nó dọa biển máu, biển máu. Nó vẽ ra những cảnh tượng hăi hùng. Nó sáng tạo sự khiếp đảm. Nó bắt thần kinh con người phải căng thẳng. Nó khiến con người gần như mất hết phẩm cách v́ sợ chết, ôm lấy nó để nó giáng những báng súng thô bạo lên thân thể, nó đấm, nó đạp mà vẫn cam đành nhục nhă, ê chề, đau đớn cho sự sống hèn mọn ngoài biển máu quyết đoán của nó. Rồi nó thản nhiên vất cả một dân tộc lại, thoi thóp từng giây với ác mộng biển máu.
Từ khai thiên lập địa, từ có loài người, chưa có giống người nào dă man, độc ác, lạnh lùng hơn giống tư bản. Cái giống tư bản đă viện trợ thêm cho chúng tôi cảm giác rụng rời của tưởng tượng nỗi chết, cách chết, kiểu chết tính bằng co rút của tế bào tính bằng héo khô của mạch máu, tính bằng rời rạc của nhịp tim. Tư bản làm tê liệt tâm hồn con người để cộng sản kết thúc cuộc sống của con người. Hai kẻ tội đồ của nhân loại đă thông đồng một tṛ chơi khốn kiếp ở nhiều nước nhỏ trên trái đất. Hôm nay, ở nước tôi.
Để quên nỗi chết, tôi chỉ c̣n biết hồi tưởng.
Tín hiệu của ngày dài nhất trên quê hương Việt Nam khốn khổ đă phóng lên vùng trời Ban mê thuột hôm 12-3-1975. Nhưng Sài g̣n không treo cờ rũ như đă treo để tang Phước Long thất thủ hồi đầu tháng 1-1975. Thành phố ấy vẫn ăn chơi trong mọi khắc khoải, vẫn nhẩy nhót trên mọi ưu phiền, vẫn cửng cổ quyền bính và âm mưu truất phế quyền bính. Những xác chết của quân dân chất đống, những ḍng máu của quân dân chẩy dài, ở Darlac, c̣n tươi rói, chẳng làm lay động nổi cái bóng.. tối phủ kín lương tri mê sảng của giai cấp thống trị và bọn đối lập tổ quốc Người ta lạy lục xin viện trợ chống giặc. Người ta lạy lục cúp viện trợ chống giặc. Phong trào bài trừ tham nhũng chuẩn bị cuộc xuống đường vĩ đại. Cảnh sát chuẩn bi cuộc đàn áp ngoạn mục. Lần này, thầy tu Trần Hữu Thanh hạ quyết tâm phá nát con rùa tại công trường Duy Tân v́ Nguyễn văn Thiệu dấu bùa yểm sự nghiệp bảo vệ đất nước dưới mu rùa! Lịch sử đă quá xa thời đại thầy tăng dựng triều đại nhà Lư vẻ vang. Bây giờ là giai đoạn tôn giáo thay thế sự ươn hèn của đảng phái. Để múa may ít và để bị giật giây múa may nhiều. Và vô tích sự. Hoàn toàn vô tích sự. ông Trần Hữu Thanh chống ông Nguyễn văn Thiệu bằng sở nguyện của ông Trần Thiện Khiêm, bằng tài liệu của ông Trần Thiện Khiêm, bằng hậu thuẫn của ông Trần Thiện Khiêm, tham nhũng ngang cơ ông Nguyễn văn Thiệu. Nhân danh một điều ác loại trừ một điều ác. Đó là tư tưởng tranh đẩu của một số thầy tu. Và, dĩ nhiên, không có hồi chuông cáo phó nào rung lên cho Ban mê thuột, ở nhà thờ, ở nhà chùa...
Ngày Nông Dân 1975 định tổ chức thật vĩ đại ở Sài g̣n tạm hoăn. Những công tŕnh xây cất tại Sở Thú cho ngày "Người cầy có ruộng" đang ồn ào, bỗng im lặng. Một triệu số giai phẩm Cách mạng xanh ấn loát xong xuôi đành nằm vô duyên ở Bộ Canh Nông, ở Sài g̣n ấn quán, không c̣n dịp tặng nông dân tham dự đại hội. Bài ca cách mạng xanh của Phạm Duy do Thái Thanh hát chẳng kịp vang vọng những lời nhân bản: "Ruộng vườn chia nhau mà không cần đổ máu"...
Tuy nhiên, sóng ngầm chỉ mới dấy lên ở đáy ḷng giai cấp thống trị bù nh́n và tham vọng của bọn đă bị tước đoạt quyền bính bù nh́n cũ. Sóng nổi rơ rệt, không, không phải là sóng mà là những cọng rác bắt đầu nhô lên ḍng thế sự, là đám Nguyên văn Binh, Hồ Ngọc Nhuận, Lư Quư Chung... Binh ôm chặt thầy tu Trần Hữu Thanh, khuynh loát nhóm dân biểu Quốc Gia, xúi dục tạo những xáo trộn. Chung theo sát gót Dương văn Minh, chờ đợi phất cờ." Nguyễn văn Binh, cháu Tổng giám mục Sài g̣n Nguyễn văn B́nh, như cái nhân cộng sản cấy vào nhóm dân biểu đối lập Quốc Gia của những tay chống cộng sản khét tiếng Nguyễn Trọng Nho, Trần văn ân, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Văn Cung... Chính Binh đă qua mặt nhóm Quốc Gia viết thông cáo và nhân danh nhóm Quốc Gia -. Binh là chủ tich của nhóm - công khai đối lập... tổ quốc, nghĩa là xúi Mỹ cúp viện trợ cho Việt Nam.
Nhóm Quốc Gia, v́ cảm t́nh đă không tỏ thái độ ǵ cả. Những kẻ gọi là đối lập Nguyễn văn Thiệu đă quên việc lớn, chỉ nghĩ đến việc nhỏ. Đất nước mới vĩnh cửu, Nguyễn văn Thiệu nhất thời. Chỉ nghĩ tới cái nhất thời mà quên cái vĩnh cửu nên người ta hăm hở săn đuổi Nguyên văn Thiệu, người ta không thích đưa ra một đề nghị tạm xóa bỏ hận thù riêng để đối phó hận thù chung.
Dễ hiểu thôi, chính trường của miền Nam, đúng hệt lời nhận xét của Nguyễn Trọng Nho: "Không có đối lập, chẳng có thân chính quyền, chỉ rặt gà què ăn quẩn". Cần nối tiếp: "... và gia nô"?
ái chính trường đê tiện ấy, thực sự, không có đối lập đúng nghĩa. Chỉ là đối lập tổ quốc và đối lập người nguyên thủ quốc gia như đối phó kẻ thù. Bọn đối lập tổ quốc, ai cũng rơ chân tướng của chúng, là bọn cộng sản nằm vùng, là bọn thân cộng sản, là bọn đầy tự ti mặc cảm. Bọn gia nô miễn đếm xỉa.
Một vài chính khách, dân cử đối lập chân chính th́ lại thiếu thái độ chính trị. Nghĩa là chỉ biết chê sai mà không dám khen đúng, chỉ thích xa cách lấy danh mà không thích gần gũi hứng nhục v́ quyền lợi của dân tộc, v́ sự sống c̣n của tổ quốc Họ c̣n ngây thơ nữa. Muốn Nguyễn văn Thiệu té nhào nhưng họ không đủ tài năng cù nách Godfather của Thiệu.
Khi bố già Sam c̣n yêu Thiệu, đối lập là tṛ hề rẻ tiền, hơn cả tṛ hề, là sự làm dáng dân chủ cho Thiệu vững vàng thêm. Nguyễn văn Thiệu trở thành kẻ tồi tệ do Godfather Sam khích lệ, do gia nô sùng bái, một phần do đối lập chỉ mưu đồ hất ông ta mà không chịu đóng góp xây dựng cho ông ta. Bởi vậy, với riêng Thiệu, đối lập và đối nghịch nguy hiểm hơn cộng sản; với đối lập và đối nghịch, Nguyễn văn Thiệu nguy hiểm hơn cộng sản. Cái chính trường ngu xuẩn ấy khoán trắng việc đánh giặc bảo vệ tổ quốc cho quân đội. Để làm những tṛ khỉ đối lập Để làm xáo động hậu phương cả trong lúc hậu phương và tiền tuyến đều bàng hoàng chuyện mất đất.
Không một hồi chuông cáo phó nào rung lên cho Ban mê thuột, ở nhà thờ, ở nhà chùa và ở cả ḷng những kẻ đối lập phiêu lưu mà, đáng lẽ, cần phải rung lên. Cuộc chiến hai mươi năm, chưa lần nào lănh thổ nước Việt Nam cộng ḥa bị cộng sản ngoạm một miếng to thế, mầu mỡ thế. Ban mê thuột là vùng kinh tể trù mật của Cao nguyên. Một nhà phát hành sách báo ở Sài g̣n cho biết, số sách báo bán riêng tại Ban mê thuột bằng cả miền Trung cộng lại. Nhưng Ban mê thuột đă thất thủ. Và Sài g̣n không treo cờ rũ. Và Sài g̣n đă quên cả Phước Long, đă chẳng cần đặt câu hỏi: Trước thời gian Phước Long mất, có một căn cứ, một đồn bót nào bị mất?
Không, mất sáng th́ quân đội ta chiếm lại chiều, mất đêm th́ quân đội ta' chiếm lại ngày. Nửa tấc đất cũng không để lọt vào tay cộng sản. Ngay Quảng Trị khó tái chiếm mà vẫn tái chiếm. Căn cứ Tống Lê Chân heo hút biên giới mà vẫn tử thủ. Tại sao bỏ rơi Phước Long? Niềm u uẩn Phước Long tại sao không bày tỏ? Mục đích bẩn thỉu nào đă cống hiến xương máu quân dân Phước Long làm quà tặng cho "giải phóng miền Nam"?
Tất cả đều ngậm miệng, gia nô và đối lập; tướng hùng và tướng hèn.
Rồi Ban mê thuột? Tiếng nói của lương tri nào kịp thời an ủi những cái chết tội nghiệp của dân, những cái chết bi phẫn của lính? Im lặng và lạnh lùng. Sài g̣n vẫn nhẩy đầm, vẫn rượu gái, vẫn tham nhũng, vẫn làm tiền, vẫn củng cổ quyền bính, vẫn âm mưu cướp đoạt quyền bính...
Phải đợi đến ngày 17-3-1 975, ngày khởi sự "300 cây số đường máu" dọc liên tỉnh lộ số 7 về đất hứa Tuy Ḥa, nghĩa là ngày vĩnh biệt Cao Châu°, Sài g̣n mới hơi hơi xao xuyến!
0 giờ 15 phút. Trực thăng Mỹ vẫn vần vũ một góc trời Sài g̣n. Nó tiếp tục hạ cánh, cất cánh chở những người Việt Nam hạnh phúc leo lên được nóc Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ. Nghĩ cũng tội nghiệp cái hạnh phúc đó. Tư bản Mỹ đem chiến tranh sang Việt Nam và cần leo thang đúng chỉ tiêu của chính sách khai phóng tự do, dân chủ giả hiệu made in USA, họ đă nhỏ những giọt nước mắt cá sấu xuống xác chết anh em ông Ngô Đ́nh Diệm, đă dẵm những gót giầy đinh thô bỉ lên những năm b́nh yên của miền Nam.
Bằng đô-la, họ đă làm đảo tung trật tự xă hội Việt Nam, đă gây ô nhiễm đạo lư Việt Nam, đă tạo dâu biển t́nh nghĩa Việt Nam, đă dựng một giai cấp thống trị mới điếm đàng, tồi tệ, gian manh nhất trong lịch sử thực dân.
Giai cấp giá trị mới này được phép làm giàu trong chiến tranh để phục vụ guồng máy chiến tranh tư bản Mỹ. Chúng ta có các ông vua chở dầu chiến lược, vua kẽm gai, vua xây bin-đinh cho Mỹ mướn, vua giặt áo quần Mỹ... Bằng quyền bính tôi mọi, họ đă bầy ra thế trận để tướng lănh thù hận tướng lănh, đảng phái thù hận đảng phái, tôn giáo thù hận tôn giáo, con người xa lánh con người.
Và họ gọi là chống cộng sản. Và họ gọi là khai phóng dân chủ, tự do. Và họ gọi là chính sách tán biên cương xuất cảng chân thiện mỹ hai trăm năm Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Sự cao quư, sự lương thiện của đất nước, của dân tộc Lincoln đă chỉ thể hiện ở Việt Nam, ở các nước nhỏ trên thế giới qua chính sách bần tiện và gian dối của Hoa Kỳ. Suy diễn chính xác danh ngôn Fulbright: "Sài g̣n là một ổ điếm," th́ ổ điếm ấy tập trung đủ mặt Tú Bà, Sở Khanh, Khuyển Ung, Khuyển Phệ tại Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ và lũ điếm thối thống trị bù nh́n tập trung ở Dinh Độc Lập.
Cái ổ điếm Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ đă đánh đĩ dân chủ, tự do Mỹ để bành trướng chân lư kiểm tục của cộng sản. Hai chi nhánh điếm của hai đại công ty điếm Hoa Kỳ và Liên Sô khuếch trương kỹ nghệ đĩ dân chủ, đĩ cách mạng ở nước Việt Nam dưới hai bảng hiệu Chống cộng sản bảo vệ tự do, dân chủ và Chống Mỹ cứu nước.
Vi trùng tư bản và vi trùng cộng sản làm ṃn teo dân tộc Việt Nam. Vi trùng này ghê gớm hơn vi trùng giang mai, v́ là vi trùng chiến tranh tư bản chống chiến tranh cộng sản và vi trùng chiến tranh cộng sản chống chiến tranh tư bản. Dân tộc Việt Nam, một dân tộc phi cộng sản, phi tư bản, bị nhiễm cả hai thứ vi trùng chủ nghĩa.
Vi trùng cộng sản gây bệnh cách mạng giải phóng rồi biến chứng thành các bịnh khát máu, ngu dốt, nghèo khổ, thù hận, ngục tù...
Vi trùng tư bản gây bịnh dân chủ tự do giả hiệu rồi biến chứng thành các bịnh độc tài, tham nhũng, vọng ngoại, chia rẽ, tham quyền cố vị. Nhưng sự biến chứng nguy hiểm nhất của bịnh dân chủ tự do giả hiệu là hạnh phúc hứng bom đạn, hạnh phúc chết chóc, hạnh phúc hưởng thuốc khai quang và hạnh phúc di tản.
Hạnh phúc di tản, thứ hạnh phúc cuối cùng của người Mỹ ban phát cho "đồng minh chống cộng”Ơ Việt Nam, được tính thêm bằng những báng súng, những cái đạp, những cú đấm tối tăm mặt mũi. Lịch sử Hoa Kỳ sẽ không ghi những báng súng, những cái đạp, những cú đấm biểu tượng văn minh và văn hóa hai trăm năm Hiệp chủng quốc Mỹ giáng xuống thân phận Việt Nam sợ hăi cái biển máu do Mỹ tưởng tượng.
Nhưng dân tộc Việt Nam sẽ nhớ măi. Rằng, có hai cách trốn tránh biển máu thêu dệt kiểu Mỹ, một là chịu đ̣n mềm xác để leo lên được nóc Ṭa Đại Sứ Mỹ, hai là chi cho me Mỹ, bất kể đen hay trắng, 300 đô-la một đầu người?
Cùng với tiếng trực thăng vần vũ, tôi c̣n nghe cả tiếng súng nổ ở phía phi trường Tân Sơn Nhất. Cộng sản đă pháo kích vào phi trường quân sự từ mấy hôm nay. Họ chưa ngừng pháo kích. Họ muốn tấn chiếm yếu khu Tân Sơn Nhất. Lính của chúng ta vẫn chống cự.
Vào giờ này, bọn tướng lănh hèn mạt, bọn đại tá nham nhở đang tranh giành nhau chỗ ngủ, phần ăn tại đảo Guam. Có thể, nhiều đứa đang thức bảo vệ đồ tế nhuyễn, công lao ăn cắp xương máu lính của chúng, mà chúng không quên di tản theo để làm rạng rỡ thêm sự nghiệp đào ngũ.
Bọn tướng lănh đốn mạt đă vất lại Danh dự, Tổ quốc, Trách nhiệm. Nhưng lính th́ không, lính c̣n nguyên phẩm cách làm người, c̣n nguyên danh dự làm lính. Dù tướng đă đào ngũ chạy trốn, dù chỉ huy đă đào ngũ chạy trốn, lính vẫn hiên ngang bảo vệ tổ quốc, bảo vệ danh dự, và duy tŕ trách nhiệm của lính.
Không c̣n ngôn ngữ nào khốn kiếp hơn để miệt thị bọn tướng lănh đào ngũ. Cũng chẳng c̣n ngôn ngữ nào cao quư hơn đề vinh danh những người lính Việt Nam cộng ḥa biết ư nghĩa sống, ư nghĩa chiến đấu và ư nghĩa chết. Hơn cả hào hùng, lính của chúng ta lăng mạn nhất loài người, chấp nhận chiến đấu cô đơn và gục ngă âm thầm.
Súng nổ ṛn, nổ đẹp ở phía phi trường Tân Sơn Nhất. Và ở những nơi nào nữa trên quê hương tôi vào lúc bi thảm của lịch sử, vào lúc mà người lính có quyền đứng thẳng, ngẩng mặt, vất vũ khí, giă từ trận mạc?
Họ lại khước từ cái quyền đó, họ đứng thẳng, ngẩng mặt phóng nhiệt t́nh và niềm kiêu hănh của họ về hướng kẻ thù. Những người lính Việt Nam cộng ḥa đă trả lời cho thế giới một cuộc chiến bảo vệ tự do đích thực, cuộc chiến không c̣n Mỹ và tay sai của Mỹ. Cuộc chiến đấu chống cộng sản của dân tộc Việt Nam chỉ khởi sự từ những ngày cuối tháng 4-1975. Từ những ngày này, lính đă thắp sáng chính nghĩa quốc gia. Trước đó, chính nghĩa của chiến đấu bị lu mờ, bị ô nhiễm, bị ngộ nhận bởi Mỹ và đầy tớ thống trị bù nh́n của Mỹ.
Nghe súng nổ, tôi liên tưởng người lính, nhân vật bất hủ của nhà văn James Jones trong tác phẩm From here to eternity. Anh ta tạm bỏ đơn vị v́ lư do giết gă cai ngục quân lao trả thù cho bạn. Anh ta bị thương, tá túc tại nhà một vũ nữ. Biết tin quân thù xuất hiện và đồng đội anh hăng say chiến đấu, anh ta trở về đơn vị.
- Quân đội bạc đăi anh, anh tŕnh diện làm ǵ nhỉ?
- V́ tôi là lính.
V́ tôi là lính. Câu nói đầy cảm xúc và cảm khái. Lính của chúng ta đă nói thế, nếu có ai hỏi tại sao các anh c̣n chiến đấu khi bọn tướng lănh, bọn đại tá tham mưu đă đào ngũ. Tôi lại nhớ chập tối hôm qua...
Lúc ấy, trên màn ảnh nhỏ của đài Truyền H́nh Việt Nam, băng tần số 9, ông tướng Vĩnh Lộc, mà có thời chúng tôi âu yếm gọi là "vua xứ mọi" đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại. Tướng Vĩnh Lộc thay thế "đại tướng" Cao văn Viên đă đào ngũ, nắm quyền Tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam cộng ḥa.
Tướng Vĩnh Lộc c̣n ở lại với lính, với dân. Vào phút giây "sauve qui peut" này, vẫn thấy tướng Vĩnh Lộc chưa chạy, tưởng rằng ông ta xứng đáng con nhà tướng. Tôi không có kiến thức quân sự như Phạm Huấn đề thẩm định giá trị trận mạc và tài năng chỉ huy của tướng lănh, vậy xin có vài hàng thật trung thực về "vua xứ mọi", ông vua đă đối xử với tôi như một ông "vua" đối với một kiêu sĩ.
Hồi ấy, thời điểm Nguyễn văn Thiệu ra tranh cử tổng thống lần đầu, tôi đang ồn ào trên nhật báo Sống. Nhật báo này bảo trợ ấp Tân Lợi ở Rạch Giá, muốn tổ chức hai đêm đại nhạc hội tại Nha Trang và Quy Nhơn và rất muốn "vua xứ mọi" giúp đỡ tận t́nh. Chu Tử định cử Nguyễn văn Đông lên Pleiku "yết kiến" ông "vua xứ mọi", Tư lệnh vùng 2. "Tri phủ Nguyễn Hoàng Đạt, tùy viên báo chí của tướng Vĩnh Lộc ngăn cản, bảo rằng, chỉ có tôi, tướng Vĩnh Lộc mới dành cho mọi dễ dàng. Chu Tử bèn phong tôi chức "đại sứ" của "vương quốc" Sống.
Tôi hơi ngỡ ngàng v́ tôi chưa hề gặp gỡ, chuyện tṛ riêng tư với tướng Vĩnh Lộc. Thế th́ tôi cầm "quốc thư" ra đi. Đến Pleiku buổi chiều, chuẩn úy Nguyễn Trọng Nho ra phi trường đón tôi. Nho lái tôi về tư thất của quan năm Nguyễn văn Tự, hỗn danh Năm Mù, Tham mưu phó chiến tranh chính trị quân đoàn 2. Các quan đang xoa mă tước c̣m. Chỉ có Diên Nghị và Nguyễn Hoàng Đạt niềm nở thăm hỏi tôi. Quan năm chiến tranh chính trị, qua cặp kính đen của ông ta, đă nh́n tôi như nh́n một phóng viên hạng bét mà ông ta thường tiếp xúc. Kệ ông ta. Qua một đêm ở Pleiku, sáng hôm sau tôi yết kiến "vua xứ mọi". Vua có công tác khẩn phải đi Lâm Đồng, chở tôi ra phi trường, dặn ḍ: "Đừng về, đợi tôi nhé, chiều nay chúng ta mạn đàm."
Buổi chiều, tướng Vĩnh Lộc cho người mời tôi lên quân đoàn. ông tướng vừa bay nhiều giờ trên vùng trời Lâm Đồng, chưa kịp về tư thất tắm gội, thay quần áo. ông ta tiếp tôi tại văn pḥng. Có quan năm chiến tranh chính trị dự kiến. Tôi tặng ông tướng cuốn tiểu thuyết mới nhất của tôi. ông ta nói: "ông Duyên Anh lật chương thứ năm, tôi đọc cho ông nghe." Ông tướng bảo, yêu tôi nhất ở Hoa thiên lư. ông tướng thao thao chuyện văn chương của tôi. Rồi chúng tôi luận về Đông chu Tam quốc... Gần 9 giờ tối, ông tướng "xin lỗi về nghe tin tức Sài g̣n, v́ dân sự nhất định phải đuổi liên danh quân sự ra khỏi chính trường." ông tướng chỉ thị chiêu đăi tôi tại Phượng Hoàng.
Bất cứ một nhà văn nào được bất cứ một độc giả nào hiểu văn chương của ḿnh, yêu văn chương của ḿnh th́ cũng đều thích thú cả. Tôi có cảm t́nh với tướng Vĩnh Lộc từ đó. Và từ đó, ông Năm Mù yêu dấu của tôi khoái tôi ông ta mắng yêu: "Tại cậu, tớ lại phải đọc tiều thuyết của cậu để đấu với ông tướng."
V́ chống đối cố vấn Mỹ ngu xuẩn, tướng Vĩnh Lộc mất chức Tư lệnh vùng 2. ông ta sai Nguyễn Hoàng Đạt về Sài g̣n gọi tôi lên Pleiku để cho tôi nguyên cơ sở ấn loát tuần báo Cao Châu. "sợ rằng Lữ Lan sẽ phá nát" và tặng tôi 9 trăm 98 ngàn là tiền quỹ của tuần báo Cao Châu. ông tướng muốn giúp tôi xuất bản nhật báo như đă muốn giúp tôi đắc cử dân biểu thị xă Nghĩa Trang sau vụ án tṛ giết thày. Cả hai lần, tôi đều từ chối. Tôi c̣n từ chối thêm lần thứ ba là lần ông ta nắm Tổng cục Quân huấn, loay hoay t́m giải pháp hợp lệ t́nh trạng quân dịch cho tôi. ông ta bảo tôi cầm bút hữu hiệu hơn cầm súng. ít có ông tướng nào đọc nhiều tác phẩm của các nhà văn Sài g̣n và hiểu được sức mạnh của văn nghệ như tướng Vĩnh Lộc. Gọi ông ta là tướng trí thức, có lẽ không sợ lộng ngôn. Rất tiếc, giai cấp tướng lănh khá hiếm những Vĩnh Lộc. Khi ông bị biếm về trường Cao đẵng quốc pḥng, tôi có ghé thăm ông một lần.
Bây giờ, ông xuất hiện trên ti vi, nắm quyền Tổng tham mưu trưởng vào giờ thứ hai mươi lăm. ông ta có vẻ bối rối trong Nhật lệnh đọc từng câu rời ră. Sự thung dung cần thiết lúc này để gây lại phấn khởi, để lấy lại niềm tin đă thiếu hẳn ở người hùng Pleiku. Cái vẻ phẫn nộ pha lẫn chán nản của tướng Vĩnh Lộc đă làm tôi buồn bă thêm. Tôi bỏ ra sân. Nghe tiếng xích xe tăng nghiến trên mặt đường, tôi mở cổng ra xem. Một đoàn xe tăng của ta từ hướng Tân Sơn Nhất chạy vào Sài g̣n. Bất chợt, một chiếc dừng ngay trước cổng nhà tôi. Những chiếc tăng phía trước và phía sau dừng lại hết. Ngă tư Công Lư - Yên Đổ đủ một chỗ trống cho xe hơi qua lọt. Người lính xe tăng mở nắp, cầm cái búa lớn nhẩy xuống đường. Chiếc tăng bị trục trặc. B́nh tĩnh, người lính giáng những nhát búa. Chắc chắn, anh ta không nghe tướng Vĩnh Lộc hài tội tập đoàn Nguyễn văn Thiệu và kêu gọi tiếp tục chiến đấu.
Người lính ấy, biểu tượng rực rỡ và đích thực của quân đội, c̣n nguyên vẹn danh dự và trách nhiệm. Anh ta thừa hiểu bọn tướng lănh đầu sỏ đă chạy trốn hết. Bọn thống trị bù nh́n đă chạy trốn hết. Nhưng anh ta là lính, dù thoi thóp một phút chiến đấu, anh ta vẫn bảo vệ danh dự quân đội, anh ta vẫn chứng tỏ trách nhiệm của anh ta với tổ quốc, dân tộc. Người lính im lặng làm công việc của anh ta. Hẳn nhiên, anh ta không ḥ hét. Nên, anh ta vẫn c̣n đây, trước cổng nhà tôi số 225 Bis đường Công Lư, sửa xích xe tăng một cách thản nhiên. Sự thản nhiên của người lính tôi đă không t́m thấy ở tướng Vĩnh Lộc trên vô tuyến truyền h́nh.
Nếu "cái dũng của thánh nhân" đă biểu hiện rơ nét ở các ông tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Phạm văn Phú, chắc chắn, những cái chết của các ông ấy đă phục sinh một ư nghĩa chiến đấu tuyệt vời. Chỉ tiếc các ông ấy tự sát quá vội vàng, tự sát chưa đúng lúc. Cần một tướng Nguyễn Khoa Nam có đủ cái thung dung tự tại phút nguy cơ, vùng 4 đă là những chiến khu lư tưởng dẫu thất thế sau 30-4. Tuy nhiên, các ông tướng tự sát vẫn xứng đáng con nhà tướng, vẫn để lại những dấu ấn khó phai nḥa trong quân sử và trong lịch sử. ông tướng Vĩnh Lộc quên cái dũng, v́ ông pha trộn sự phẫn nộ Nguyễn văn Thiệu, Cao văn Viên và bọn tướng đào ngũ, vào sự đối phó t́nh h́nh khẩn trương. Người lính xe tăng đang sửa xe đă biết dằn sự phẫn nộ. Danh dự của anh soi sáng trách nhiệm của anh. Danh dự ấy, có soi sáng những khuôn mặt tướng tá đào ngũ trong những cái lều ở đảo Guam?
Người lính đă sửa xong xích tăng. Anh ta leo lên xe, chui xuống, đậy nắp. Đoàn xe tiếp tục chạy. Về đâu? Tôi không biết. Trở vô nhà, ông tướng Vĩnh Lộc đă đọc xong Nhật lệnh. Màn ảnh vô tuyến truyền h́nh, bây giờ, chỉ c̣n cái dấu chỉnh h́nh tưởng chừng cái h́nh bát quái và giọng hát buồn nôn của mấy cậu sinh viên tranh đấu nhai đi, gặm lại ca khúc Nối ṿng tay lớn, thỉnh thoảng bị đứt khúc bởi tiếng nói đắc thời của Lư Quư Chung, Tổng trưởng Thông tin nội các Vũ văn Mẫu? Tôi vội tắt ti vi.
0 giờ 45 phút. Súng nổ ở phi trường Tân Sơn Nhất vọng vào lấn át tiếng máy bay trực thăng lên xuống nóc Ṭa Đại Sứ Mỹ. Tôi ngồi dựa lưng ghế bành, để cả hai chân trên mặt bàn xa-lông, hút thuốc gạt tàn bừa băi. Lúc này, tôi thèm nghe nhạc Schubert. Tôi thèm nghe hồ cầm độc tấu La Jeune Fille ét la Mort của Schubert. Vợ con tôi đă ngủ. Các con tôi mệt nhoài di tản thất bại hôm qua, ngủ say sưa. Vợ tôi ngủ chập chờn. Tôi nghe rơ tiếng thở dài của vợ tôi. Trong đời sống, có những lúc vợ chồng không dám an ủi nhau. Vợ tôi đă không dám dục tôi đi ngủ, để mặc tôi đốt thuốc thâu đêm. Tôi thèm nghe Schubert diễn tả sự chết, chẳng tại v́ can đảm. Mà v́ nuôi hy vọng được chết cuống quít, chết hạnh phúc, chết gắn bó với âm thanh. Khó lắm. Cộng sản thích con người sống ṃn và, đồng thời, thích con người chết ṃn. Chúng tôi sắp chết sặc sụa trong biển máu. Có phải cái nỗi "chết đuối người trên cạn," Nguyễn Gia Thiều đă tiên liệu cho dân tộc chúng ta? Con người của thời đại chúng ta đă mắc lưới ư thức hệ và đă thay phiên nhau "chết đuối trên cạn."
Nghĩ mà ghê tởm ư thức hệ, chủ nghĩa. Dân tộc chúng ta chẳng đă một lần Thập nhị sứ quân, một lần sông Gianh đấy ư? Không thấy lịch sử viết về biển máu sau Đinh Bộ Lĩnh, sau Nguyễn Huệ thống nhất đất nước. Khi cuộc đời thôi chiến trường, con người trở về b́nh yên để xây dựng lại cái vĩnh cửu của con người. Con người quên oán hờn, con người không sợ hăi h́nh phạt trả thù của thù hận. Con người bằng ḷng cái đă chết và hoan hỉ cái đang sống. Thi sĩ Hoàng Cầm đă diễn tả chính xác cái c̣n lại của người Việt Nam sau chiến tranh:
Ai cũng chết cả rồi
Cái c̣n vĩnh viễn là người Việt Nam...
Những cái chết cho cái tồn tại vĩnh cửu của dân tộc chẳng làm thăng hoa cái sống sót nữa. Chủ nghĩa và ư thức hệ ngoại lai khốn kiếp đă phủ lên t́nh tự đích thực của Việt Nam cái bóng tối đen đặc hăi hùng. Từ đó, cuộc đời thôi chiến trường bên ngoài là để khởi sự chiến trường bên trong, thứ chiến trường phủ nhận mọi cái đă chết và đe dọa mọi cái sống sót. Và đó, chiến trường hủy diệt "cái c̣n vĩnh viễn là người Việt Nam". Đă thấy rồi, 1 triệu 500 ngàn người Việt Nam sống sót sau chiến tranh mười năm, chưa kịp dứt nụ cười đă bị tàn sát bởi cuồng phong chủ nghĩa cộng sản. Người Việt Nam bị học tập thù hận rồi say sưa thù hận để giết người Việt Nam bằng ư thức hệ mà người Việt Nam không hiểu nó là cái ǵ? Người Việt Nam đă chết thảm trong Cải Cách Ruộng Đất 1 triệu 500 ngàn mạng, trong sửa sai thêm 500 ngàn mạng. H́nh tưởng máu của hai triệu con người? Có làm nên một ḍng sông? Và ḍng sông oan nghiệt ấy bắt nguồn từ đâu, chẩy đến một mục đích nào? "Máu người dân Việt c̣n cầy cho luống cầy," Phạm Duy đă van xin máu Việt Nam chỉ đổ cho tương lai Việt Nam. Rốt cuộc, nó đă đổ cho thắm màu cờ Mác-xít, cho tham vọng đầy đoạ dân tộc, đầy đọa con người của bọn lănh tụ đê tiện. Giấc mơ b́nh dị của Việt Nam được diễn tả:
Em đă mơ ǵ em ơi?
Lúa chín hai mùa no ấm
Chồng giết giặc về em vui...
đă bị hủy diệt. Và riêng tôi, tôi ngồi đợi chết sặc sụa trong biển máu của ḥa b́nh sau chiến tranh hai mươi năm. Chưa hề thấy một dân tộc nào bất hạnh như dân tộc Việt Nam, một dân tộc sợ hăi chiến tranh, sợ hăi luôn cả ḥa b́nh. Sợ hăi mà vẫn phải chấp nhận cả hai. C̣n bất hạnh thêm là người Việt Nam không nh́n rơ trái đau khổ chín vàng trên thân phận ḿnh để hái, đề nuốt ngon chất đắng mà Thượng Đế đă ban ân sủng và phó thác cho sứ mạng tạo dựng lại loài người sống trọn vẹn t́nh nghĩa con người lư tưởng mà Thượng Đê mong muốn. Nạn nhân của chủ nghĩa, của ư thức hệ ngoại lai, xa rời t́nh tự dân tộc v́ ngu muội phiêu lưu, không chịu khôn lớn bằng thống khổ vàng mười để về nguồn, để sống như con người Việt Nam nguyên thủy, để cống hiến cho nhân loại ư nghĩa phục sinh của nỗi chết, lại tiếp tục phiêu lưu, lại chạy theo chủ nghĩa mới, ư thức hệ mới vá víu, vay mượn và rồi tranh giành khắp nơi, gấu ó khắp nơi, bé nhỏ dần mà vẫn quên truy nă bản thân ḿnh.
Không có La Jeune Fille et la Mort, tôi lại nhớ...
Mai Thảo dặn tôi rằng:
- Tôi ngồi nhà chờ ông, hễ Usis gọi, ông ghé đón tôi, chúng ta cùng đi.
Lúc này Mai Thảo đă rời Chiều Tím ở đường Vơ Tánh, về 101 Phan Đ́nh Phùng. Trọn buổi sáng hôm qua, tôi canh điện thoại. Usis không gọi. Gần trưa, Đặng Xuân Côn dục tôi:
- Cứ lên Usis xem sao. Thiên hạ chạy ầm ầm.
Tôi đồng ư. Côn chở vợ con từ Phú Nhuận lên. Chúng tôi đến đón Mai Thảo. Nhà văn lừng khừng nhất nước của tôi đă biến. Tôi nghĩ Mai Thảo ham vui đâu đó, nên quên hẹn. Về sau, do Mai Thảo kể, tôi mới biết anh ta "t́m đường cứu nước" qua ngả Nguyễn Cao Kỳ. ông Kỳ đóng vai Mạnh Thường Quân đi tản. Tân khách của ông hầu hết là văn nghệ sĩ. Mặc dù đă tuyên bố nẩy lửa tại Tân Sa Châu rằng nhất định không đi, nhưng ông ta vẫn âm mưu đi và kết nạp Giới Tứ Thôi, Ngụy Thù, Triệu Thuẫn, Hiền Điệt toan tính chuyện Trùng Nhĩ. "Quân tử nhất ngôn là quân tử dại, quân tử nói đi nói lại là quân tử khôn." ông Kỳ theo triết lư sống này. Tân khách di tản tụ tập cả bầy trong tư thất Trùng Nhĩ ở Tân Sơn Nhất. Bà Kỳ đi trước. Đài phát thanh ngoại quốc loan tin. Họ b́nh luận thêm: Tới Guam lần này không có thảm trải, và bà Kỳ bị xịt thuốc sát trùng như mọi người tỵ nạn? Bà Kỳ đi, để lại mấy cái tủ lạnh đầy nhóc thực phẩm. Tân khách vừa tiêu thụ cạn láng th́ ông Kỳ lặng lẽ ra đi. Tân khách ở lại chịu pháo kích tơi bời. May mà ống nước không trúng đạn cộng sản nên tân khách uống đỡ cầm hơi trên đường về nhà ḿnh, vừa lê bước vừa chửi rủa Trùng Nhĩ. Có lẽ tại ông Kỳ bỏ rơi Giới Tử Thôi, Ngụy Thù nên sự nghiệp phục quốc của ông nó lận đận. Thành thật chia buồn cùng ông. Mă Viện nói: "Thời loạn, bầy tôi t́m vua hiền mà pḥ chứ vua khỏi cần t́m bầy tôi." Mă Viện t́m Lưu Tú, giúp Lưu Tú diệt Vương Măng mà mở thời Đông Hán. Các tân khách t́m ông Kỳ pḥ, noi gương đám ṭng vong của Trùng Nhĩ, ông Kỳ bỏ rơi, thành thử, ông Kỳ cứ đ̣i ôm cờ phục quốc mà măi không được ôm. Do đó, đất nước vĩnh viễn không có tướng quốc kư văn thư trên bàn mă tước và trong cuộc chọi gà!
Không gặp Mai Thảo, chúng tôi lái xe đến Usis. Trịnh Viết Thành chở vợ con vừa ép lề:
-Đi nổi không, Duyên Anh?
-Nổi..
Tôi méo xệch miệng:
- Nổi lềnh bềnh...
Trịnh Viết Thành, Đặng Xuân Côn và tôi len vào sát cổng Usis khóa chặt. Đàn bà, con nít ngồi lại trong xe. Nguyễn Ngọc Bích nhận ra tôi, lớn tiếng:
-Yên chí. Đợi ông Alan Carter về.
- Ổng đâu?
- Bên ṭa Đại Sứ.
Chúng tôi lách ra, đứng chờ. Rất yên tâm, v́ nhân viên Usis c̣n nguyên con, và hai chiếc buưt vẫn đậu trong sân. Nửa tiếng đồng hồ sau, cổng Usis bị dân di tản ké đạp tung. Sứ thần Lan Carter, giám đốc Usis không bao giờ trở lại nữa. Thiên hạ đập phá và hôi đồ. Hoàng Hải Thủy dắt vợ con đến giữa cơn hỗn loạn. Bẽ bàng nhất là Nguyễn văn Liên, trưởng pḥng nhân viên của Usis. Mấy hôm trước, anh ta đă dẫn vợ con ra đi. V́ lệnh của ông già Hương cấm chỉ thanh niên trong t́nh trạng quân dịch di tản nên Liên đành bỏ một đứa con lại. Vô phi trường, anh ta thấy lên tàu bay quá dễ dàng, bèn xui vợ đóng kịch băng huyết mà trở về cứu nốt con. Bây giờ kẹt lại cả chùm.
Tôi chia tay Trịnh Viết Thành, cùng Đặng Xuân Côn phóng t́m Nguyễn Tuấn Anh ở đường Hai Bà Trưng. Tuấn Anh cho vé tàu phước thiện. Chúng tôi theo Tuấn Anh vào Chợ Lớn. Nhưng tôi đă không xuống tàu. Cả Côn luôn. Chúng tôi chào vĩnh biệt Nguyễn Tuấn Anh, trở về Sài g̣n. Tôi lái xe qua Ṭa Đại Sứ Mỹ, ngắm thảm cảnh "lính thủy đánh bộ" Hoa Kỳ đấm đá, xô đạp "đồng minh" di tản. Cay mắt quá, tôi ra bờ sông Sài g̣n nh́n mấy con tàu sắt đầy nhóc người chạy trốn cộng sản đến nỗi tàu nghiêng hẳn về một bên. Tôi đă nghĩ những con tàu này khó ra nổi cửa biển. Rồi tôi quyết định lái xe về nhà tôi. Mở cửa xe cho các con xuống, tôi mệt mỏi:
-Thôi, đành ở lại sống với cộng sản!
Nhà tôi chớp mắt, buồn bă:
- Không c̣n cách nào hả, bố?
- C̣n hai cách.
-Sao bố không tính?
-Khó tính.
-Sao?
Tôi cù không trúng nách nhà tôi:
- Thứ nhất, anh không phải là bố tổng thống Mỹ. Thứ hai, em không phải là mẹ tổng thống Mỹ?
Nhà tôi nín thinh. Các con tôi thay quần áo xong là chạy ra vỉa hè chơi. Tôi ngồi ngả lưng dài trên ghế bành hút thuốc và thở dài. Một thoáng kỷ niệm chập chờn theo khói thuốc. Năm 19 tuổi, đất nước vào Dương lịch 1954, tôi đă di cư. Thuở ấy, di cư dễ dàng, muốn vô Sài g̣n ngày nào th́ vô. Tôi rong chơi Hà Nội đến tháng 9 mới tính chuyện giang hồ. Nhờ thuộc thơ Nguyễn Bính và có chút "nhan sắc", tôi tán được vài em nữ sinh mà gia đ́nh nhất định ở lại chờ cụ Hờ về. Thế là tôi bèn thêu dệt những cuộc chia ly năo nùng. Tôi t́m em thứ nhất, đau đớn báo tin cho em biết rằng tôi sẽ vào Sài g̣n lập sự nghiệp, "ngày về xa quá người ơi", và mong mỏi "đường đời anh muốn em c̣n mơ"... Dạo đó, chưa có những bài hát lấp sông Bến Hải, trở về quê hương diệt tan giặc cộng, gặp lại em gái năm xưa nối giây t́nh tứ đứt đoạn nên tôi chi nhạc và lời Lê Trạch Lựu. Tôi vi vút: "Bao giờ anh về gần em cùng đếm này trăng này sao chia nhé em"... Em gái cảm động lắm. Tôi chi thêm thơ Hoàng Công Khanh, ví ḿnh như tráng sĩ Lê Liêm:
Thuở ấy lên đường có một thân
đường sang Hời mấy ngả phân vân
nàng mơ Đát Kỷ xô hung Trụ
ta mộng Kinh Kha diệt bạo Tần
nửa nụ cười xuân muôn tráng sĩ
ba ngh́n tân khách một giai nhân
thiếu bao đưa đón ḷng không thiếu
chỉ thiếu một người đi tiễn chân°
Em gái mủi ḷng, xin đi tiễn chân cho tôi khỏi thiếu thốn. Chúng tôi hẹn ḥ. Đưa em lên Cổ Ngư ăn bánh tôm. Dạo quanh hồ Gươm. Chui vào rạp xi-nê-ma. Rồi d́u em về gác trọ của tôi, nhờ em thu xếp hành lư lên đường. Em tiễn chân tôi đến Ṭa thị chính. Tôi nằm đây cô quạnh chờ sáng sớm ngày mai xe GMC của lính Tây đến bốc tôi sang phi trường Gia Lâm. Em gái không thể nằm bên tôi tâm sự trắng đêm. Em phải về trước chín giờ tối kẻo mẹ mắng. Lúc em gần về, tôi cảm khái:
Cầm tay anh sẽ nói
Khóc lóc mà làm chi
Hôn nhau một lần cuối
Em về đi. anh đi...
Cám ơn thi sĩ Nguyễn Bính, em gái khóc. Và tôi cầm gỡ tay em, ôm gỡ em, hôn gỡ em. Tôi lớn rồi, tôi hết "ngày xưa c̣n bé." Tôi biết yêu, biết gian dối. Em gái buồn bă ra về. Sợ em trở lại th́ vỡ nợ, tôi phải nán nằm, đốt cháy mười điếu Cotab rồi mới xách hành lư rút êm về gác trọ. Tôi chưa... lên đường. Vài hôm sau, tôi lại "bổn cũ soạn lại", gạ em thứ hai chia ly. Cho đến khi hết sạch em, không thể muối mặt "tái bản" chia ly em thứ nhất, và túi rỗng tuếch rồi, tôi mới âm thầm ra đi.
Than ôi, năm 39 tuổi, đất nước vào Dương lịch 1975, tôi phải cơng vợ con di tản và không di tản được. Bây giờ, thơ t́nh là thơ cù nhầy Phan Khôi khi vợ tôi hỏi tôi "ở với việt Cộng có làm sao không"?
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi.
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có việc ǵ cũng chẳng làm sao...
Đang ở cái thế "mă cùng đồ" th́ ông luật sư Dzu và vợ là ca sĩ Đan Thanh tới, hỏi chuyện ra đi ngả Usis. Tôi năo nề đáp: "Hỏng rồi, hỏng rồi"? Và tôi ra vỉa hè xem "nhân dân chống Mỹ cứu nước". Chiến dịch Hôi Đồ đồng khởi ngoạn mục. Các trụ sở của cơ quan thiện nguyện Mỹ, của Hội cha mẹ nuôi quốc tế, của các nhà cho Mỹ mướn, của các gia đ́nh di tản không c̣n ai trông giữ bị tấn công ào ạt. Người người, lớp lớp, dân Xóm Lách phóng lên đường Công Lư. Thoạt đầu, nhân dân "giải phóng" sữa đặc, sữa bột, đồ hộp. Rồi mùng mền, ri-đô. Rồi tủ, giường, bàn ghế. Rồi máy lạnh, tủ lạnh, bếp ga. Rồi cửa sổ, cửa kính. Trẻ già, trai gái, bô lăo, nhi đồng tham dự chiến dịch một cách quyết liệt. Rất may không xảy ra giết nhau v́ thù hận cá nhân. Tôi chứng kiến "nhân dân anh hùng" làm thịt gọn một chiếc buưt chuyên chở lính Mỹ. Chiến dịch Hôi Đồ và sự lưu thông bất chấp đèn đường chiều 29-4 là dấu hiệu rơ nét nhất của sự sụp đổ miền Nam. Kể từ 16 giờ ngày 29-4-87, Sài g̣n sống trong t́nh trạng vô chính phủ. Có một điều để tôi suy nghĩ, để tôi c̣n yêu mến dân Sài g̣n và thành phố Sài g̣n là dân nghèo Sài g̣n chỉ hôi đồ của Mỹ và những vi-la do Mỹ mướn bỏ trống. Ư thức đấu tranh giai cấp chưa thấm vào lương tri dân nghèo Sài g̣n và không bao giờ thấm nổi cả Tất cả những gia đ́nh quyền quư, giầu sang đều b́nh yên. Ngay cả những gia đ́nh tướng tá, bộ trưởng, cảnh sát hống hách cũng b́nh yên. Tinh thần dân tộc cao quư thể hiện rơ rệt ở Sài g̣n chiều 29-4. Con người, nhất là con người nghèo khổ triền miên bị áp bức, bóc lột được quyền phẫn nộ lúc này, lúc mà luật pháp quốc gia dưới chân họ. Người ta tự do trả thù, đốt nhà, cướp của, hăm hiếp, sát nhân; tự do đối với những đối tượng thù nghịch. Nhưng không một ai thèm hưởng cái tự do đó. Người ta vẫn ăm ắp lương tri và nhân tính. Và tôi nghĩ đó là bài học cho toàn thể người Việt Nam trên trái đất. Và tôi hănh diện là người Sài g̣n của chiều 29-4-1975 và măi măi. Tôi ra đi, mang theo lương tri và nhân tính của người Sài g̣n chiều 29-4. V́ nó mà tôi c̣n khao khát chiến đấu. V́ nó mà tôi biết can đảm và kiên nhẫn chịu đựng mọi nghịch cảnh oan khiên.
Nhà thơ tàn tật Huy Tưởng chống nạng đến thăm tôi xem tôi đi được hay kẹt lại. Tôi bỏ cảnh tượng hôi đồ, mời Huy Tưởng vô nhà. Mở chai Rémy Martin cuối cùng, Huy Tưởng và tôi cụng ly:
- Anh có sợ không?
-Sợ ǵ?
-Anh có nhiều điều để sợ. Tôi nhắc anh nghe một điều thôi. Anh đă thách Vơ Nguyên Giáp cho T-54 xâm nhập chiến tuyến Hải Lăng và bảo hạ sĩ Sứt đang chờ T-54 để phóng hỏa tiễn TOW. Anh nhớ chứ? Anh đă tuyên bố trên vô tuyến truyền h́nh Huế được phát lại ở Sài g̣n. Anh nhớ chứ? Chuyến bay trên phá Tam Giang của anh với Phạm Duy, Tô Thùy Yên, Trần văn ân, Nguyễn Trọng Nho...
-Uống đi, bằng hữu. Có thể là cuộc rượu cuối cùng đấy!
Tôi bốc máu Kiều Phong:
-"Sống bằng không mà chết cũng bằng không"?
Sống có thể bằng không nhưng chết khó thể bằng không. Tôi đâu phải nhân vật tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung. Alain De lon đă diễn xuất một vai thật người trong phim Deux hommes danh la ville với Jean Gabin. Khi lên máy chém, người không sợ chết đă thú nhận, thành khẩn thú nhận "Tôi sợ"! Tôi đă biết Lan Khai chết cách nào, Khái Hưng chết cách nào, làm sao tôi không sợ? Tôi sợ lắm, sợ lắm, sợ lắm...
Chương 2
Tôi vụt thức khi thấy cổ họng ḿnh khô rang. Ngó dạ quang của đồng hồ: 2 giờ 48 phút. Th́ ra tôi đă chợp mắt trong cơn sợ hăi. Thuốc lá làm họng tôi khô, lưỡi tôi khô, môi tôi khô nhưng rượu đă không làm tôi say. Rượu đủ. Đó là tên truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu. Rượu chưa đủ, không đủ khả năng trấn áp nỗi sợ biển máu của tôi. Có lẽ, thuốc phiện đủ khả năng ấy. Tôi thèm được nằm bàn đèn với Nguyễn Mạnh Côn - với Hoàng Hải Thủy th́ nhất - hút vài cặp. Thuốc phiện sẽ bắt tan loăng mọi sợ hăi. Nếu ta say, thuốc phiện giúp ta thoát thực tại ưu phiền, đưa ta lên cơi phiêu bồng lâng lâng. Thuốc phiện lâu say mà say lâu. Và hễ say, dao kề cổ vẫn tỉnh bơ, bởi chẳng c̣n ư thức nổi không gian, thời gian, nói chi sự việc quanh ḿnh. Dẫu mắt vẫn mở. Mắt mở không phải là thức. Dù mắt nhắm. Mắt nhắm không phải là ngủ. Tai vẫn nghe người nói song không biết trả lời Lư Bạch mới say rượu mà đă trở thành thi bá và chết đẹp v́ say. Thời nhà Đường, Trung Hoa chưa "sáng tạo" được dọc tẩu, đèn dầu lạc và cung cách nằm hít tô phe, nên Lư Bạch đă chưa phiêu diêu trong cơi say phù dung. Do đó, nhân loại vẫn thiếu những bài thơ trác tuyệt của thi sĩ thịnh Đường. Giá tôi được chết say thuốc phiện, tôi sẽ hoan hỉ vô cùng. Tôi sẽ vượt khỏi sợ hăi chờ chết. Hạnh phúc cho những nhà văn nào bị cộng sản đánh dấu, bị thất bại di tản, đang chong ngọn đèn dầu lạc soi tâm sự và thả tâm sự ấy theo khói thuốc phiện vào giây phút mà cái tḥng lọng thù hận đang xiết chặt dần cổ ḿnh.
Không có thuốc phiện, tôi đành đem hồi tưởng và ư nghĩ vẩn vơ ra thay thế và coi như những lời giăng dối gửi cho hư vô. Trăm năm trước tôi, Từ Diễn Đồng đă chờ sáng:
Đêm sao đêm măi tối ṃ ṃ
Đêm đến bao giờ mới sáng cho
Con trẻ u ơ chừng muốn dậy
Ông già húng hắng ngại thèm ho
Ngọn đèn giữ trộm khêu c̣n nhỏ
Tiếng chó nghi người cắn vẫn to
Làng nước ai ai đà thúc dậy
Dậy th́ lên tiếng gọi nhà nho
Dân tộc bất hạnh của chúng ta chờ sáng dài dài, chờ sáng đều đều. Đêm tối không chỉ một đời người mà từng thế kỷ. Trăm năm sau Từ Diễn Đồng, Nguyễn Sĩ Tể lại Chờ sáng. Tôi không chờ sáng. Tôi muốn đêm tối vô cùng, đừng bao giờ sáng nữa. V́ bóng tối vỡ, tôi sẽ nh́n rơ h́nh cụ của đao phủ. Tôi đang chờ chết. Làm sao anh có cảm giác đích thực của kẻ chờ chết? Người ta hằng nói về nỗi thống khổ, về nỗi sợ hăi đă kinh qua. Kinh qua chưa đủ. Cần thể nghiệm. Cho nên, có nhiều nhà văn của chúng ta ôm trái ngọt thống khổ mà không dám nuốt. Rốt cuộc, sự kinh qua thống khổ chỉ thể hiện trên những trang giấy kể khổ, tố khổ mà không soi sáng cho đời sống một ư nghĩa nào. Đây là một thiếu sót lớn trong văn nghệ của chúng ta. Sự thiếu sót đă khiến tác phẩm văn chương của chúng ta thiếu kích thước, vắng cái chiều sâu thăm thẳm. H́nh như, chúng ta cũng bằng ḷng sự thiếu sót đó. Và chúng ta đánh giá đại tác phẩm của chúng ta bằng cuốn sách nào nhiều sổ trang nhất, dầy nhất, cầm nặng tay nhất? Thế th́ lại thêm một vấn đề đặt ra. Kinh qua nỗi khổ, thể nghiệm trọn vẹn nỗi khổ mà nhiều tài năng phô diễn, xem chừng cũng vô tích sự. Tôi là kẻ thiếu tài năng phô diễn nên tôi đă không phô diễn trọn vẹn cảm giác sợ hăi chờ chết của tôi. Và tôi bắt chước Thanh Tịnh để khỏa lấp một sự bất tài: Bấy giờ tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Tôi bắt chước câu văn của Thanh Tịnh thôi. Trường hợp hồi tưởng buổi học đầu đời của Thanh Tịnh và trường hợp của tôi khác hẳn. Rơ rệt tôi là kẻ bất tài.
Súng vẫn nổ ṛn ở phía phi trường Tân Sơn Nhất. Trực thăng Hoa Kỳ vẫn vần vũ một góc trời Sài g̣n. Ở những nơi nào nữa, trên quê hương miền Nam, những người lính Cộng Ḥa đang trả lời chính quyền Mỹ, dân tộc Mỹ và thế giới rằng, họ không phải là tên bù nh́n Nguyễn văn Thiệu. Khẩu khí Nguyễn văn Thiệu là, khẩu khí một tên lính đánh mướn. Thiệu không chống cộng, Thiệu nhả ngôi vị tổng thống v́ Mỹ cúp viện trợ. Lính và sĩ quan liêm sỉ của nước Việt Nam cộng ḥa tiếp tục chiến đấu chiến đấu vào lúc "đại tướng" Cao văn Viên đă đào ngũ chạy trốn sang đảo Guam. Bây giờ tôi mới thấy tôi hèn nhát. Nếu tôi đă là lính, lúc này, tôi được chiến đấu, được chết anh dũng, chết xứng đáng. Dẫu không có quan tài, không có quốc kỳ phủ trên quan tài, không cả da ngựa bọc thây, vẫn c̣n giọt nước mắt tiếc thương của chiến hữu. V́ tôi trót hèn nhát nên tôi phải ngồi chờ chết, chờ chết nhục, chết thảm. Chợt nhớ đoàn xe tăng tối hôm qua, tôi băn khoăn không hiểu xe tăng của ta đi về đâu chặn giặc cứ điểm nào. Bên kia biên giới của tuyệt vọng là hy vọng. Câu này áng trong tôi một đốm sáng. Tôi kiếm cái radio nhỏ mở nghe tin tức xem Tân tổng tham mưu trưởng quân lực Việt Nam cộng ḥa, trung tướng Vĩnh Lộc, c̣n tuyên bố ǵ thêm không.
Đài phát thanh Quân Đội im bặt. Đài Sài g̣n chỉ léo nhéo Nối ṿng tay lớn và giọng nói no đầy đắc thời của tên dân biểu ngu dốt chủ trương giữa Lư Quư Chung. Hắn đă là Tổng trưởng Thông tin của nội các Vũ văn Mẫu. Tướng Vĩnh Lộc không c̣n tiếng nói. Ông ta đang ở đâu? Xướng ngôn viên quen thuộc của đài Sài g̣n loan tin giới nghiêm 24 trên 24 kể từ hôm nay, 30-4-1975. Giới nghiêm 24 trên 24. T́nh trạng cực kỳ nghiêm trọng rồi. Sài g̣n sẽ biến thành một Stalingrad chăng? Tôi mong thế. Để được chiến đấu và được chết đúng nghĩa một cái chết. Tắt radio. Tôi ngồi hút thuốc chờ sáng. Tôi không chờ chết nữa...
Những chuyện vừa xảy ra từ đầu tháng 4 mà tưởng chừng xa lắm rồi. Lịch sử nào cũng có những trang buồn bă và những trang chó đẻ. Những trang chó đẻ nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại tính từ ngày 12-3-1975. Và những trang này không chứa chất u ẩn cần các sử gia đời sau soi sáng. Nó phơi ra thỗn thện như những miếng thịt bầy nhầy, như xác chết muông thú nhung nhúc ṛi bọ. Hiện nguyên h́nh, hiện rơ chân tướng trên những trang sử chó đẻ là bọn thống trị tôi mọi chiếu nhất, chiếu nh́ của cái chế độ bệ rạc đệ nhị cộng ḥa. Khi máu của dân, của lính chẩy dài dọc 300 cây số liên tỉnh lộ số 7, con trâu Nguyễn văn Thiệu và con ḅ Trần Thiện Khiêm vẫn húc nhau. Đứa tham nhũng đ̣i lật đổ đứa tham nhũng. Và thầy tu Trần Hữu Thanh và "chiến hữu” đă nhân danh cái Thiện chống cái ác v́ cái ác khác. Cuộc chiến đấu của thầy tu Trần Hữu Thanh không có tên để đặt. Có vẻ, cuộc chiến đấu ấy như thể là cuộc khiêu vũ trên xác chết. Cao nguyên đă mất. Vùng đất chiến lược đă mất. Con trâu hận chủ nó và hận con ḅ đă nộp dân, dâng đất cho cộng sản. Trâu ḅ không có ḷng trắc ẩn, nên cảnh tượng hăi hùng diễn ra dọc 300 cây số đường máu chỉ là hoạt cảnh tương tự chương tŕnh tạp lục của Tùng Lâm. Và tất cả đồng ư với trâu ḅ, sự nghiệp nộp dân, dâng đất cho cộng sản của Nguyễn văn Thiệu là... di tản chiến thuật?
Người ta bỗng nhớ những cuộc rút lui chiến thuật theo "Thông cáo của Bộ tối cao chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp" vào những ngày trước 20-7-1954 và sau thất bại Điện Biên Phủ. Thoạt đầu, những tỉnh thượng du "rút lui chiến thuật" rồi các tỉnh trung du "rút lui chiến thuật" rồi các tỉnh đồng bằng "rút lui chiến thuật." Rồi mất miền Bắc. Dĩ văng đă không lay động cơn mê sảng hiện tại. Và cơn mê sảng biến chứng thành lú lấp. "Rút lui chiến thuật" 1954 không phải, không bao giờ phải là "di tản chiến thuật" 1975.
Cái chính trường của Sài g̣n hoàng hôn chỉ đủ khả năng găm vào Nguyễn văn Thiệu và triều đ́nh cầy cáo của Thiệu. Và, thê thảm lắm, sự mong muốn của Thiệu, từ chức, người ta quả quyết, là ư Mỹ. Đó là sự thật đau ḷng. Mỹ muốn Ngô Đ́nh Diệm thay thế Bảo Đại, thay thế ảnh hưởng thực dân cũ bằng thực dân mới. Bảo Đại bị truất phế. Mỹ muốn thay thế Ngô Đ́nh Diệm bằng đám tướng lănh vai u thịt bắp, vô học và ngoan ngoăn.
Ngô Đ́nh Diệm bị hạ sát. Ngô Đ́nh Diệm trưng cầu dân ư để phản bội Bảo Đại và tự biên tự diễn cách mạng nhân vị. Cách mạng nhân vị đă tiêu diệt quốc trưởng Bảo Đại và toàn ban Hội tề ấm ớ.
Đám tướng lănh thoán nghịch cũng nhân danh cách mạng tháng 11 tiêu diệt nhà Ngô và cách mạng nhân vị. Mỹ muốn thế. Mỹ muốn hết. Mỹ chỉ cần tay sai một giai đoạn nào đó, cho một mục đích nào đó. Nhưng Mỹ khoái chơi tṛ chơi dân chủ. Mỹ mở vơ đài đánh đấm độc tài. Mỹ cổ vơ.
Cả nước Việt Nam chống độc tài Ngô Đ́nh Diệm. Cả nước Việt Nam tưởng ḿnh làm cách mạng, tưởng ḿnh hạ bệ Ngô Đ́nh Diệm. Nẩy sinh một số kiêu tăng mà Thích Trí Quang là biểu tượng rơ nét. Ông thầy tu này coi miền Nam giống cái sân chùa Từ Đàm của ông. ông đă thật "thiêng liêng" những giai đoạn chống Diệm, chống Hương, chống Kỳ. ông thật sự hết thiêng khi chống Thiệu.
Ṭa Đại Sứ Mỹ đă ngó lơ, mặc ông tuyệt thực đủ 100 ngày trước Dinh Độc Lập rồi ông âm thầm về dưỡng sức tại Dưỡng đường "đỡ đẻ" của bác sĩ Nguyễn Duy Tài? Thích Trí Quang cháy từ đó. ông ta không hiểu Mỹ chỉ cần ông ta cho một mục đích nào đó, trong một giai đoạn nào đó. Nhiều kẻ đối lập Thiệu và đối lập tổ quốc cũng không hiểu, không chịu hiểu và không biết hiểu như ông thầy tu Thích Trí Quang.
Mỹ xử dụng ông Trí Quang, thỏa măn tự ái của Phật tử quá khích, giải tỏa niềm tự ti lép vế 100 năm, đồng thời, hâm nóng tự ái Chúa tử, réo gọi cái lép vế hiện thời. Giữa Trí Quang và Hoàng Quỳnh giàn trận. Hai đêm mù mịt con Phật, con Chúa giao tranh giữa Sài g̣n, thời Nguyễn Khảnh, là kết quả đẹp của Ṭa Đại Sứ Mỹ.
Đến lượt Thiên chúa giáo quá khích biểu dương lực lượng "kick-out" Cabot Lodge và "chiếm đóng" Dinh Gia Long. Tôn giáo thay thế đảng phái. Đảng phái hoàn toàn tê liệt. Mỹ lại phân tán mỏng tôn giáo.
Phật Giáo chia ra hai hệ phái ḱnh địch nhau: ấn Quang và Việt Nam quốc tự. Giấc mộng hóa đạo (hóa các đạo khác thành đạo Phật) mà văn gia Nguyễn Đức Quỳnh mớm cho ông Thích Tâm Châu bị vỡ.
Thiên chúa giáo chia ra hai lực lượng chống đối nhau: Lực lượng đại đoàn kết và Mặt trận công dân công giáo. Tṛ chơi của Mỹ đă xong. Nguyễn văn Thiệu yên ổn đóng vai bù nh́n. Và Mỹ tự do toan tính những âm mưu của Mỹ.
Những kẻ thèm quyền bính và những kẻ chống đối ảo tưởng không quán triệt cái thủ thuật dùng tay sai cho mục đích nào, trong giai đoạn nào của Mỹ nên đă đối lập hư vô, đă câu sao in mặt nước, đă cù trên mũ sắt.
Khi Mỹ c̣n cần Thiệu như một đầy tớ đắc dụng, chống đối Thiệu chỉ là sự làm dáng dân chủ giả hiệu của Mỹ ở nước nhỏ. Nhưng khi Mỹ không cần Thiệu và không cần bất cứ một tay sai nào thay thế Thiệu nữa, Mỹ muốn bỏ rơi Nam Việt Nam - v́ đến giai đoạn bỏ, bởi mục đích đă đạt - th́ người ta lại chỉ có thể hiểu rằng Mỹ sẽ bỏ Thiệu v́... ư dân bản xứ là ư trời.
Ư ấy thể hiện ở công cuộc bài trừ tham nhũng Nguyễn văn Thiệu của thầy tu Trần Hữu Thanh. Có lẽ, ông thầy tu Trần Hữu Thanh ngây thơ, ông tưởng Trần Thiện Khiêm trong sạch như "con c̣ mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao", hoặc Trần Thiện Khiêm như cánh sen, "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Ông ta "trụ tŕ" ở Ḍng Chúa Cứu Thế, đâu biết những cánh rừng thông non của tổ quốc, Trần Thiện Khiêm đă bán hết, bán rẻ cho tư bản Nhật. Riêng vụ chặt thông non, Trần Thiện Khiêm đă đáng đem ra xử tử Nếu có dịp - trước 1975, dĩ nhiên - ra Cam Ranh, thấy gốc và ngọn thông xếp núi vất lại, lái buôn Nhật chỉ mua khúc thân giữa thật ngắn, mới đếm được tội ác của Trần Thiện Khiêm. Và người tê liệt ḷng yêu nước cũng bỗng dậy ḷng yêu nước. Thầy tu Trần Hữu Thanh không nh́n thấy ǵ, nghe thấy ǵ cả. Thầy nhắm mắt bài trừ tham nhũng Nguyễn văn Thiệu nhân danh tham nhũng Trần Thiện Khiêm. Và, như những kẻ bị Thiệu loại ra khỏi chính trường, tước đoạt quyền bính, thầy tu Trần Hữu Thanh hồ hởi phấn khởi chờ đợi ngày Nguyễn văn Thiệu gửi lời "cám ơn" đồng bào°. Tất cả đă chỉ v́ Thiệu, chỉ nhằm Thiệu mà quên suy diễn: Hàng tỉ đô-la tung sang Việt Nam, không tiếc sao lại tiếc 200 triệu?
Nhưng cái chính trường vét đĩa ấy đă không suy diễn sự kiện Mỹ cúp viện trợ, đă không nhớ lại sự "rút lui chiến thuật" 1954. Nó bung ra tứ phía và tưởng c̣ sẽ béo khi nước đục. Nó rộn ràng đó đây. Nó hân hoan Mỹ cúp viện trợ cho Thiệu. Nó tưởng Mỹ cúp viện trợ cho Thiệu là đuổi Thiệu đi. Nó hy vọng tràn trề, kế vị Thiệu sẽ được Mỹ tiếp tục viện trợ và viện trợ nhiều hơn. Những người đủ tư cách trả lời những kẻ ôm ảo tưởng Mỹ viện trợ nhiều hơn là các ông tướng quân đoàn, tướng sư đoàn th́ đều im lặng. Chỉ cần một ông tướng pháo binh nói sự thật về sự giới hạn đến thê thảm đạn phản pháo. Đă đủ thức tỉnh mọi người cái thế kết đoàn tự lực ngăn giặc.
Buồn thay, đă chẳng hề ai có thẩm quyền lên tiếng về những phi vụ Mỹ yểm trợ hành quân càng ngày càng thưa từ sau ḥa ước Paris và mất hẳn và chiến cụ viện trợ nhỏ giọt bó tay quân lực Việt Nam cộng ḥa. Bầy hạc gỗ nín khe. Đám cầy cáo hưởng thụ no nê th́ hóa đui, điếc, câm.
Bởi thế, thay v́ rộn ràng một hội nghị Diên Hồng không cần Thiệu và quần thần đê tiện của Thiệu, người ta tấp nập, vội vàng chiếm thế thượng phong vào... Dinh Độc Lập ngồi lên cái ghế nô dịch của Thiệu. Ba trăm cây số đường máu oan nghiệt của quân dân "di tản chiến thuật" không làm xúc động ai. H́nh như ruồi nhặng chỉ thích đậu trên máu quánh, và kên kên chỉ thèm xác chết rữa...
Đó đây, từng nhóm thống trị bù nh́n phế thải họp bàn mưu đồ lợi dụng thời cơ phục hồi quyền bính cũ. Những khuôn mặt cá ươn của chính trường bay ra cái chợ chiều dân tộc. Và những giọng nói cú vọ lại phát ngôn lời sắt son yêu nước. ông Nguyễn Cao Kỳ là người cay cú Nguyễn văn Thiệu nhất và thèm quyền bính nhất trong đám tôm tép chợ chiều.
Thuở nắm quyền bính "độc lập, tự do" trên: không có kỳ đà tổng thống cản mũi, dưới: không có gà què quốc hội làm phiền, ông ta thường hay phát ngôn nhảm nhí bất xứng với cương vị thủ tướng. Trong chợ chiều, ông ta buông một câu chính khí:
- "Tôi không đi đâu cả. Tôi nhất định ở lại Việt Nam. Tôi đă quen ăn tương cà, canh mắm rồi. Sang Mỹ ăn bơ sữa dễ bị ỉa té re. Đứa nào sang Mỹ, đàn ông làm cu-ly đàn bà làm đĩ "!
Nhiều người rất cảm động khẩu khí Nguyễn Cao Kỳ, đinh ninh rằng ông ở lại chiến đấu, quyết xin được da ngựa bọc thây, dẫu chẳng lật lại thời thế, bảo vệ miền Nam dân chủ tự do, th́ cũng đem thân báo đền nợ nước để khỏi thẹn với tiền nhân dưới suối vàng. Xin mở một ngoặc đơn. (Rất tiếc ông Nguyễn Cao Kỳ đă ra đi.
Người ta sẽ thông cảm ông, sẽ chia xẻ với ông lời nói của cổ nhân "chấp kinh ṭng quyền", nếu ông biết ẩn thân, diện bích mà suy nghĩ một câu ngắn trong Cựu ước: "Có một thời im lặng và một thời lên tiếng".
Tại ông ham lên tiếng và lại lên tiếng nhảm, lên tiếng không đúng thời nên ông mắc khẩu nghiệp. Và bị công kích. Khi viết cuốn sách này và từ ḍng này, tôi đă thiền, nên xin ông hiểu giùm rằng, tôi không thích công kích ông nữa). Khép ngoặc đơn. Dù ghét ông Kỳ hay dù chẳng ghét ông Kỳ, rất nhiều người đă v́ khẩu khí Tân Sa Châu của Nguyễn Cao Kỳ mà ở lại, hy vọng được cùng ông Kỳ chiên đấu.
Rốt cuộc th́ đa số vào tù nghĩ là ông Nguyễn Cao Kỳ sáng giá nhất chợ chiều tôm tép, một ông tướng đă vội hạ quyết tâm:
- Lần này ông nắm quyền bính, thằng nào tŕnh văn thư cho ông kư ở bàn mạt chược, xin phép ông, tôi bắn bỏ hết!
Đó mới là sinh hoạt một cụm. Những cụm khác ra sao?
Quư vị mót làm Tổng trưởng lăng xăng như gà mót đẻ. Thiệu đổ sẽ có nội các mới. Nội các nào? Người ta đi t́m chỗ cư ngụ của Thủ tướng tương lai. Thầy tu Trần Hữu Thanh quên Chúa, nhất định phá bùa ếm dấu trong bụng con rùa đồng đen làm chân tượng đài tri ân các nước viện trợ cho Việt Nam cộng ḥa. Đất nước bất hạnh của chúng ta đă có Tổng thống tin bói toán, tử vi, lại c̣n thêm những kẻ đối lập Tổng thống tin tử vi, bói toán, ngải và bùa ếm! Phong trào của thầy tu Trần Hữu Thanh quả quyết rằng, chỉ cho chất nổ phá tung con rùa đồng đen là Nguyễn văn Thiệu... băng hà.
Sự tham quyền cố vị của Thiệu nằm ở chỗ nào đó trong bụng con rùa. Một cái bùa của cụ Diễn, chắc chán. Tôi chợt nhớ một chuyện tương tự đă xảy ra cách đây 20 năm. Một số các ông Đại Việt quan lại đă gài ḿn giật sập Chùa Một Cột° . Các ông ngu si này lư luận:
- Long mạch của cố đô nằm dưới Chùa Một Cột. Phải đánh sập chùa, bít long mạch th́ cộng sản bất yên mà quốc gia mới có cơ hội Bắc tiến giải phóng quê hương.
Cộng sản có bất yên, Bắc tiến có thực hiện nổi không, chúng ta đă được trả lời. Cái ngu hôm qua lại vẫn là cái ngu hôm nay. Dễ hiểu thôi, v́ trong phong trào của thầy tu Trần Hữu Thanh có vài ông Đại Việt? Người ta đ̣i phế bỏ một ông Tổng thống bằng cách đi phá bùa ếm!
Tôi cảm giác thời gian ngừng lại. Khi tôi mong trời vỡ sáng th́ trời không muốn vỡ sáng. Mới 4 giờ. Tiếng súng từ phi trường Tân Sơn Nhất vọng vào đă thưa thớt, nhưng tiếng phi cơ trực thăng vẫn ầm ĩ một góc trời thành phố. Tôi bật ti-vi. Màn ảnh nhỏ trắng xóa. Không có cái bất ngờ như tôi tưởng tượng. Tôi đâm ra tương tư người lính sửa xe tăng trước cửa nhà ḿnh tối qua và ông tướng Vĩnh Lộc. Tôi mở radio. Giới nghiêm 24 trên 24 kể tử 0 giờ ngày 30-4-1975. Lệnh giới nghiêm không thay đổi. Tôi tắt ngay radio để khỏi bị nghe Nối ṿng tay lớn và giọng tanh tưởi của Lư Quư Chung luận về t́nh nghĩa Trung Nam Bắc. Có vẻ như thằng ở giữa đần độn này muốn mở đường chào đón "anh em Việt cộng" của nó. Tôi nghĩ rằng đă có sự phân chia trong chế độ phù du Dương văn Minh. Quân sự chủ chiến. Dân sự chủ ḥa. Thật sự, tôi không thiết nhớ lại cái chính trường vỏ tôm Sài g̣n những ngày tháng tư. Mà tôi cứ bị nhớ. Con người khó thoát khỏi sự chi phối của chính trị, dù là chính trị cà chớn của những thằng cà chớn.
Tháng tư 1975 quả là tháng chó đẻ của 5000 năm văn hiến, là tháng chó đẻ của 1975 năm sau Công nguyên, ghi niên biểu vào lịch sử Việt Nam và cả lịch sử Hoa Kỳ. Thành quả khai phóng tự do, dân chủ của Mỹ và thành tích 7 năm chấp chính của Nguyễn văn Thiệu nằm trong tháng 4-1975.
Sự nghiệp vẻ vang của Thiệu nổi bật ở bài diễn văn từ chức và bài diễn văn từ chức rạng rỡ có một câu: "Bảo chúng tôi chống cộng sản mà không viện trợ th́ làm sao chúng tôi chống cộng được?"
Rơ là khẩu khí của tên vô lại, của thằng đánh mướn đê tiện. Nhân sinh quan của Nguyễn văn Thiệu in nổi trên xú ngôn quốc sỉ này. Lư tưởng chiến đấu của Nguyễn văn Thiệu in nổi trên xú ngôn quốc sỉ này. Chính v́ xú ngôn quốc sỉ này mà Việt cộng dám thóa mạ quân đội Việt Nam cộng ḥa anh dũng của chúng ta là lính Ngụy là bọn đánh mướn. (Tôi xin, một lần nữa, xác nhận ở đây, quân đội là của tổ quốc, của dân tộc, v́ tổ quốc, v́ dân tộc mà chiến đấu. Quân đội việt Nam cộng ḥa không phải là công cụ của bất cứ một chế độ nào, kể từ chế độ Ngô Đ́nh Diệm trở đi. Quân đội đứng trên các chế độ). Lại mở ngoặc đơn. (Kẻ vô liêm sỉ Nguyễn văn Thiệu cũng đ̣i học đ̣i danh sĩ Nhất Linh tuyên bố: Đời tôi để cho lịch sử xử? Thêm một kẻ vô liêm sỉ, thứ tiến sĩ cơm thừa canh cặn ở Dinh Độc Lập, đă b́nh giảng xú ngôn Nguyễn văn Thiệu thành một pho xú thư dầy cộm bêu riếu dân tộc). Khép ngoặc đơn. Thiệu từ chức chỉ v́ thầy Mỹ cúp tiền. Nhưng Thiệu không biết xấu hổ khi phát xú ngôn, ông ta dùng câu đó để diễu cợt những kẻ chống đối ông ta với thâm ư: Mỹ cúp tiền tao mới chịu từ chức chứ không phải tao từ chức v́ áp lực chống đối của chúng mày? Chúng ta đành ngậm ngùi đă có một vị Tổng thống nằm trong một trang nào đó của những trang lịch sử chó đẻ tháng 4-1975.
Nguyễn văn Thiệu từ chức "đột xuất" khiến Phong trào của thầy tu Trần Hữu Thanh cụt hứng. Bùa yếm của Thiệu c̣n nguyên vẹn và con rùa đen cũng c̣n nguyên. Nhưng thầy tu Trần Hữu Thanh hét đối tượng... bài trừ Nguyễn văn Thiệu nhường ngôi cho ông già gân Trần văn Hương. Nội các Nguyễn Bá Cẩn thành lập thật nhanh, nhanh đến nỗi không ai biết tên một vị Tổng trưởng nào. Nội các này cần lập nhanh để chạy trốn hợp pháp lẹ. Tổng thống Trần văn Hương đ̣i chết như một chiến sĩ, nhưng ông hạ sĩ danh dự đă không toại nguyện, ông chỉ gây khó khăn cho những người di tản với cái sắc lệnh cấm công chức, sĩ quan và thanh niên trong t́nh trạng quân dịch chạy loạn cộng sản. Dược sĩ La Thành Nghệ là nạn nhân của tổng thống Trần văn Hương. Ông ta vượt biển quá sớm, bị hải quân bắt đem về đất liền, bị ở lại và bị đi học tập cải tạo.
Vào những ngày cuối tháng 4, ông chủ Hoa Kỳ không c̣n thiết làm chủ bọn thống trị bù nh́n nữa. Ông ta... giải phóng nô lệ, thế nhưng cái chính trường Sài g̣n hèn mạt vẫn nơm nớp sợ hăi ông chủ và tưởng rằng ông chủ Hoa Kỳ thích Dương văn Minh thay thế Trần văn Hương để thực thi ḥa giải dân tộc. Lưỡng viện Quốc Hội họp. Tất cả quay về sau lưng, thấy mấy ông Mỹ ở Ṭa Đại Sứ đến dự kiến, ngỡ rằng Mỹ gây áp lực. Bèn đồng ư Dương văn Minh cái rụp. Thế là chúng ta có Tổng thống Dương văn Minh.
Tôi mở cổng ra vỉa hè, nh́n xuống cầu Công Lư, nh́n lên Dinh Độc Lập. Đường phố vắng hoe. Trời lất phất mưa. Không phải sương rây. Sẽ xảy ra chuyện ǵ những giờ sắp tới? 4 giờ 30 rồi. Tôi trở vào nhà, rất mong những người lính Sài g̣n, những sĩ quan quả cảm, những tướng lănh đầy trách nhiệm làm Sài g̣n thành một Stalingrad. Chúng ta đă có những ngày Hà Nội dân chúng đốt cháy phố phường, đục tường nhà này xuyên qua tường nhà nọ, sống với thủ đô, chết với thủ đô để trả lời kẻ thù và thế giới ḷng yêu tự do, dân chủ và ư chí chiến đấu của chúng ta. Tôi mong được chết bởi đạn quân thù khi đang chiến đấu. Tôi sẽ t́nh nguyện vác đạn. "Xin làm đôi giầy của dũng sĩ" thôi.
Tự nhiên, ḷng tôi dạt dào cảm xúc. Tôi bỗng thấy cái bài hát tôi ghét nhất trở thành hay nhất:
... Nhân dân tự vệ
Vang lên lời thề
Không để quân thù giầy xéo quê nhà ta
Từng khu phố đứng lên...
Cảm xúc, bây giờ, khiến tôi nhớ những bài báo của Trần Việt Sơn, đăng mỗi ngày, trang 2, báo Chính Luận. Những bài báo của anh Trần Việt Sơn đă bắt cả Sài g̣n lạc quan trước khí thế tiến công của cộng sản. Ng̣i bút của Trần Việt Sơn thật giá trị. Anh đă trấn an Sài g̣n khi Huế mất, Đà Nẵng mất, Quy Nhơn mất. Anh quả quyết chúng ta sắp phản công và cộng sản phải ngừng lại ở bên kia đèo Cả. Cùng với những bài báo của Trần Việt Sơn - than ôi, chỉ có một con én quả cảm và b́nh tĩnh Trần Việt Sơn và chỉ có một nhật báo Chính Luận - Nguyễn Trọng Nho bay trên vùng trời Long Khánh quan sát mặt trận với các chuyên viên quân sự, tuyên bố cùng báo chí sự bạc nhược của bộ đội miền Bắc sau hai trái bom CBU. Sài g̣n tin tưởng lại. Chúng ta c̣n vơ khí xử dụng vào phút chót. Bom CBU. Bom CBU sẽ đẩy lui tham vọng điên cuồng của cộng sản. Chính tôi cũng được kích thích mạnh bởi báo cáo của Nguyễn Trọng Nho. Tôi đă đến Cục tâm lư chiến, t́m gặp ông đại tá Cao Tiêu, đề nghị ông can thiệp với không quân chở một số nhà văn, nhà báo danh tiếng đi quan sát các mặt trận gần để về, viết báo, nói trên các đài phát thanh, truyền h́nh gây lại niềm tin tưởng. Đại tá Cao Tiêu đồng ư° . Nhưng ông đă không thực hiện. Tôi c̣n nhớ cả cái sĩ khí của một số anh em văn nghệ ở những ngày cận kề 30-4. Họ đă họp nhau tại một căn nhà ở đường Tự Do, quyết định xuất bản một tờ báo lửa. Nếu tôi nhớ lầm, xin được tha thứ: Trong số anh em văn nghệ đó có anh đang ở đây và một số c̣n kẹt lại quê hương, không tiện nêu tên. Người ta sẽ nghĩ ǵ về thái độ của kẻ sĩ lúc tổ quốc lâm nguy, và sẽ nghĩ ǵ về bọn tướng lănh đào ngũ trước buổi họp của kẻ sĩ đ̣i xuất bản báo lửa?
Trong những phút giây mà mạng sống như sợi chỉ treo mành, rất hiếm những con người c̣n dám ngẩng mặt. Những người này chung thân im lặng, đôi khi c̣n xấu hổ nếu có ai nhắc đến thái độ sống của ḿnh, dẫu để vinh tôn. Chắc chắn, thái độ sống của những người dám ngẩng mặt khi những người khác chạy trốn hay chuẩn bị cúi mặt cần phải được thắp sáng bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào. ít nhất th́ cũng để kẻ thù của chúng ta không dám mở miệng khinh bỉ chúng ta hèn mạt. V́ khan hiếm những con người dám ngẩng mặt nên chúng ta thừa những con người mê muội thèm khát quyền bính đến quên cả thế lẫn thời. Lời thóa mạ nào dành cho những kẻ trí thức bám quanh Vũ Văn Mẫu bon chen danh vọng giờ thứ 25? Những tên Tổng trưởng đê tiện của Vũ văn Mẫu rồi cũng vào tù. Và cũng muối mặt nhận ḿnh là tù nhân tư tưởng!
Tôi muốn quên hết, quên hết, quên cả những thảm cảnh đồng bào tôi di tản về đất hứa Phú Yên và bị ở lại với cộng sản; đồng bào tôi nhục nhă xuống tàu từ Đà Nẵng vào Phú Quốc, từ Đà Lạt xuống Phan Thiết. Quên để mường tượng một Sài g̣n sắp biến thành Stalingrad vài giờ nữa. Tôi chợt thấy ḿnh c̣n hạnh phúc. Hạnh phúc ước mơ chết ngon lành.
Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử
Viết Lại Lịch Sử Video
Secret Army Secret War Video
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
Con Người Bất Khuất Video
Dấu Chân Biệt Kích Video
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
The World Order Eustace Mullin
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc
The World Order Eustace Mullin
Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures
US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám
Người Việt Seatle