Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

Duyên Anh

 

Sàig̣n ngày dài nhất

 

 

Chương 10

 

21 giờ. Tôi đứng vỉa hè Công Lư số chẵn nh́n sang nhà tôi. Đặng Xuân Côn đợi tôi trước cổng. Con đường Công Lư như con đường Hai Bà Trưng, như tất cả những con đường của Sài g̣n, cuồn cuộn sóng người. Người người, lớp lớp. Phải nói lớp lớp người, lớp lớp cờ, lớp lớp khẩu hiệu. Không phải là sự sách động ngoạn mục của cộng sản đâu. Cũng không phải là sự t́nh nguyện hoan hô cách mạng vô sản đâu. Mà chỉ là lời hăm doạ biển máu của người Mỹ vất lại, trước khi họ cuốn cờ cút chạy. Người Mỹ thí quân dân ta khá nhiều. Người Mỹ bỏ ngỏ Mậu Thân cho cộng sản tiêu diệt quân dân ta, cho những nấm mồ chôn sống tập thể ở Huế. Người Mỹ đẩy quân ta sang Hạ Lào cho một chiến trường đợi sẵn của cộng sản để quân ta thảm bại. Người Mỹ oanh kích tự do như khai phóng tự do, dân chủ xuống những vùng nông thôn khó kiểm soát an ninh. Người Mỹ thả bom CBU thí nghiệm lương tâm dân tộc Mỹ và lương tâm nhân loại. Chẳng có phản ứng ǵ? Người Mỹ dọa biển máu, tặng cộng sản một cuộc tiếp rước linh đ́nh của dân miền Nam. Và, một số người Việt Nam lư luận rằng, nhờ Mỹ dọa biển máu mà cộng sản không dám chơi biển máu. Người ta không chịu hiểu rằng thời đại của tàn sát đă cáo chung. Biển máu của Mỹ chỉ nhắm mục đích khiến chúng ta sợ hăi t́m lối thoát thân để quên hết chuyện kết đoàn chiến đấu ngăn chặn cộng sản. Và rồi, v́ sợ hăi biển máu, dân Sài g̣n cam đành ra đường phố hoan hô cộng sản. Chẳng c̣n nỗi đau đớn nào hơn nỗi đau đớn mỉm cười hoan hô cộng sản trong cảnh huống rụng rời sợ hăi. Con người có khôn lớn chút nào từ nỗi đau đớn này không nhỉ?

Tôi cố lách băng qua đường. Không c̣n chỗ cho xe đạp lưu thông nữa. Cũng không thấy bóng dáng bộ đội miền Bắc và giải phóng quân miền Nam trong người người, lớp lớp. Toàn là dân Sài g̣n. Đủ mọi thành phần. Cỏ đuôi chó và bọn nằm vùng, tay đeo băng đỏ, điều khiển an ninh, trật tự. Tôi vất vả lắm mới len tới cổng nhà ḿnh, hai chai rượu c̣n nguyên. '

- Mày đi lâu thế? Côn hỏi.

- Gặp thằng Thế Phong, ăn tô ḿ, uống chai bia. Tôi đáp.

- B́nh yên.

- B́nh yên cái ǵ?

- Chưa có dấu hiệu hỏi thăm mày.

- Đêm nay sẽ có.

Tôi nh́n hai lá cờ giấy dán trên hai cánh cổng sắt, ngao ngán:

- Ai dán cờ?

Côn thở dài:

- Cu Tư và con Ki.

Côn nói:

- Thằng Bảo và thằng Thân đang núp ở trong nhà.

Bảo và Thân là hai đứa em kết nghĩa của tôi. Bảo, thiếu úy bộ binh. Thân, trung sĩ thủy quân lục chiến. Chúng tôi vào nhà. Thảm cảnh đầu tiên trong nhà tôi lúc 21 giờ 10 phút là vợ tôi cầm lá cờ quốc gia, lá cờ vàng ba sọc đỏ đứng khóc. Tay vợ tôi run rẩy. Nàng nức nở:

- Làm sao bố?.

- Cái ǵ?

- Cái cờ.

- Em gấp lại, cất vào tủ quần áo.

- Nhỡ nó xét nhà?.

-Thế th́ em xé đi, đốt đi, liệng ra đường.

- Không được.

- Vậy gấp lại, cất đi.

Giữa lúc đó, thiếu úy Bảo từ trong buồng bước ra, ôm chặt lấy tôi:

- Em lạy anh, anh cứu em, anh cứu em...

Tôi xoa lưng người em kết nghĩa:

- Anh không cứu nổi anh, cứu em sao được.

- Vậy em trốn đâu?

- Em cứ ở đây với anh rồi cùng chết với anh.

Tôi trấn an Bảo:

- Cả nước sắp chết. Anh em ḿnh sống với ai. Có rượu đây, anh em ḿnh ngồi uống chờ chết.

Trung sĩ Thân đă ḷ ḍ ra:

- Anh nói đúng.

Tôi lắc đầu:

- Anh sai lớn. Đáng lẽ các em phải bám sát bọn tướng lănh đào ngũ mà chạy. Th́ giờ này các em đang ở đảo Guam tội nghiệp anh. Nhưng các em đă can đảm chiến đấu đến phút chót, cũng nên can đảm đến phút chết. Ai mà không sợ chết, song nếu biết ḿnh phải chết, hăy chọn thái độ chết. Đừng chết sảng.

Bảo hỏi:

- Anh nói ḿnh thoát chết?

Tôi đáp:

- Anh nói ḿnh chờ chết. Người khôn ngoan là người biết chờ đợi.

Vợ tôi đă gấp xong lá cờ. Tôi bảo nàng dọn cơm cho anh em tôi rồi đưa trẻ con vào hết trong pḥng ngủ. Gia đ́nh Đặng Xuân Côn ở lại với chúng tôi. ăn qua loa cho xong bữa, bốn chúng tôi rời bàn ăn tới xa-lông uống rượu, hút thuốc lá. Dù đă đóng chặt cửa, âm thanh hỗn loạn bên ngoài vẫn lọt vào. Chúng tôi uống Cognac không đá, không soda. Tôi đă tắt đèn để khỏi nh́n nhau. Đốm lửa đỏ đầu điếu thuốc, mỗi khi rít, chẳng đủ soi rơ khuôn mặt méo mó của từng người. Im lặng trong chúng tôi Tôi nghĩ đến Bảo. Nó không cha mẹ, không anh em như tôi. Nó t́m tôi bằng tiểu thuyết của tôi, yêu tôi như yêu nhân vật chú Nghị ở Con sáo của em tôi và ông Nghị thầy tuồng ở Mây mùa thu. Năm 1968, khi tôi viết về một ca khúc chống phản chiến Mỹ của một nhạc sĩ Mỹ, Bảo thích lắm. Bài hát thịnh hành ở Mỹ thời đó, có đoạn:

Bố yêu nước Mỹ như yêu con

Nếu con xé bỏ thẻ quân dịch

Con đă xé bỏ nước mỹ

và con đă xé bỏ t́nh yêu của bố cho con....

Năm 1971, v́ không chấp nhận thái độ phản chiến trốn lính của bọn sinh viên thân cộng, cũng bầy tṛ đốt lệnh trưng binh, Bảo bỏ ngang đại học t́nh nguyện nhập ngũ. Nó thích làm lính chiến. Bao nhiêu tuổi trẻ miền Nam đă như Bảo và đă, hôm nay, vất bỏ quân trang, quân dụng, vơ khí, chạy về nhà t́m chỗ nấp? Tôi nghĩ đến Thân. Nó kết nghĩa anh em với tôi v́ mê nhân vật Trần Đại ở Điệu ru nước mắt. Thân đăng lính thủy quân lục chiến, chọn quốc gia làm lư tưởng. Nó yêu lư tưởng quốc gia đến nỗi xâm ở cánh tay ḿnh hai chữ Sát cộng trên da thịt ḿnh. Tôi nghĩ đến những người lính hiên ngang và chung thủy của quân lực Việt Nam cộng ḥa, đă phẫn nộ buông súng, lột bỏ chiến bào chạy về nhà ḿnh như những kẻ chiến bại thê thảm. Những con người không biết sợ chết ngoài sa trường ấy, giờ này, đang ngồi núp xó nhà, rên rỉ vết thương tươi rói. Và nước mắt của mẹ họ, của vợ họ, của con họ tưới xuống vết thương làm xót xa thêm. Người ta sẽ diễn tả thế nào về những tiếng khóc, tiếng rên rỉ trong bóng tối của kẻ thua trận và thân nhân họ? Ai đă được nghe những tiếng khóc và tiếng rên rỉ đó? Chưa đủ năo ḷng, tiếng loa bên ngoài c̣n vọng vào, réo gọi, răn đe. "Ngày mai, 1 tháng 5, mọi người, mọi nhà, bất kể ai, phải tập họp ở khu phố để đi mít-tinh chào mừng cách mạng thành công"! Này người may mắn di tản trước 30-4-1975, người suy nghĩ ǵ về tiếng khóc, tiếng rên rỉ, và tiếng loa réo gọi? Này, người tướng đào ngũ trước 30-4-1975, người suy nghĩ ǵ về tiếng khóc, tiếng rên rỉ và tiếng loa réo gọi? Này, người chính khách, người nghị sĩ, người dân biểu, người trí thức khoa bảng may mắn di tản trước 30-4-1975, người suy nghĩ ǵ về tiếng khóc, tiếng rên rỉ và tiếng loa réo gọi? Vết thương vẫn c̣n tươi rói. Xin hăy để chúng tôi ngồi liếm vết thương trong cô đơn. Xin đừng rắc muối, vắt chanh xuống vết thương của chúng tôi bằng những hô hoán vô tích sự. Người ta chỉ biết chiến đấu, chỉ dám chiến đấu với điều kiện tiên quyết:

Chửa khi nào quên táo bạo

Chửa khi nào quên hát, quên đau

Những kẻ đào ngũ, đào nhiệm, chạy trốn là những kẻ chưa một lần táo bạo để quên, chưa một lần hát, chưa một lần dám thử đau đớn. Th́ chiến đấu của họ chỉ là chiến đấu giả. Tổ quốc và dân tộc Việt Nam triền miên bất hạnh đă chán chường những cuộc chiến đấu giả. Hăy chiến đấu thật? Bằng không dám th́ nên im lặng. Để tiếng khóc, tiếng rên rỉ và tiếng loa réo gọi nguyên vẹn cảm xúc và phẫn nộ.

TƯỞNG TƯỢNG RA TÂM SỰ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM XÂM TAY HAI CHỮ SÁT CỘNG

Anh ta ngồi trước bếp than. Con dao nung trong đó. Người lính Việt Nam đă lột bỏ chiến bào, quăng vũ khí, liệng quân trang xuống vỉa hè sau lệnh đầu hàng của Dương văn Minh. Anh ta trở về nhà ḿnh lúc hoàng hôn thoi thóp. Mẹ anh ta ôm anh ta khóc tức tưởi.

- Thua trận hả, con?

Người lính nghẹn ngào:

- Vâng, thua trận!.

- Rồi có sao không?

- Con chưa biết!

Người lính buồn bă, mệt mỏi. Anh ta không thể giải thích cho mẹ hiểu anh không hề thua trận, quân đội Việt Nam cộng ḥa không hề thua trận. Mỹ thua trận giả vờ. Bọn tướng lănh ngu dốt thua trận thật. Lũ thống trị tham nhũng thua trận thật. Chúng nó cút và đào ngũ, đào nhiệm cả rồi. Chỉ c̣n anh và chiến hữu anh chiến đấu tới giây phút cuối cùng. Anh đầu hàng theo lệnh của Tổng tư lệnh quân lực Dương văn Minh. V́ anh là lính tôn trọng kỷ luật. Mẹ anh an ủi anh rồi để anh một ḿnh ngồi góc pḥng ve vuốt vết thương đời.

Người lính mân mê cánh tay ḿnh. Anh ta quyết định xuống bếp nhóm than. Và nung con dao. ánh lửa soi rơ hai chữ Sát cộng trên da thịt anh. Nó nổi bật như chữ đắp. Anh nh́n hai chữ Sát cộng, ôn lại chuyện hai mươi năm...

Người Mỹ hiện diện ở Việt Nam với chiêu bài khai phóng tự đo, dân chủ cho một dân tộc kém mở mang. Đó là chiêu thức đầu tiên của ngụy quân tử Hoa-kỳ trong chính sách tân biên cương. Theo tiếng trống thúc dục của Kennedy, tuổi trẻ Việt Nam phấn khởi xây dựng đất nước ḿnh. Muốn hưởng tự do, dân chủ phải bảo vệ tự do, dân chủ. Chống cộng sản được nâng lên hàng quốc sách. Lư tưởng quốc gia là chống cộng sản. Đơn giản lắm. Ngụy quân tử Hoa-kỳ tung ra các khẩu hiệu phó thác sự nghiệp chống cộng cho Nam Việt Nam. "Nam Việt Nam là thành tŕ bảo vệ tự do của Đông Nam Á." "Nam Việt Nam là tiền đồn bảo vệ thế giới tự do"... Nghe sướng tai. Chủ tịch Liên minh á Châu chống cộng là người Việt Nam. Dân Việt Nam nức ḷng chống cộng cho Thái Lan, Mă Lai ḥa b́nh và mở mang đất nước, phát triển kinh tế. Ngụy quân tử Hoa-kỳ sát hại anh em Ngô Đ́nh Diệm để sự nghiệp chống cộng vẻ vang hơn. Quân Mỹ sang ầm ầm. Chiến tranh leo thang. Nông thôn mất gần hết. Bắc tiến xôm tụ. Bắc phạt inh ỏi. Người lính Việt Nam chỉ biết tổ quốc ḿnh, dân tộc ḿnh, không thèm hiểu âm mưu của ngụy quân tử Hoa-kỳ và đám tướng lănh thống trị cầy cáo. Noi gương người xưa xâm lên tay hai chữ Sát thát, anh ta cũng xâm lên tay hai chữ Sát cộng, thề v́ nước v́ dân tiêu diệt cộng sản để bảo vệ tự do, dân chủ và hạnh phúc cho giống ṇi. Trung thành với lư tưởng quốc gia, người lính đă xông pha vào chiến trận, coi cái chết tựa lông hồng.

Con dao đă đỏ. Người lính nhấc ra. Anh ta định đốt da thịt để tiêu hủy hai chữ Sát cộng. Nghĩ sao, anh ta lại đút con dao vào bếp. Anh ta tự hỏi: Có ông tổng thống Mỹ nào đă xâm tay hai chữ Sát cộng; có ông nghị sĩ, dân biểu diều hâu nào đă xâm tay hai chữ Sát cộng (Tôi có thể trả lời anh ta rằng không). Anh ta lại tự hỏi: Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Cao văn Viên, Đặng văn Quang, Trần Thiện Khiêm và các tướng lănh có xâm tay hai chữ Sát cộng không nhỉ? (Tôi có thể trả lời anh ta rằng không). Người lính phân vân một lúc rồi lẩm bẩm:

- Mẹ kiếp, ḿnh chống cộng thật. Chúng nó chống cộng giả vờ!

Người lính Việt Nam cộng ḥa anh dũng rút con dao đă nung đỏ ra. Anh ta nhúng con dao vào chậu nước. Tiếng xèo kéo dài. Nước sủi bọt. Anh ta đứng dậy, đứng thẳng. Anh ta mân mê hai chữ Sát cộng. Đôi mắt rực sáng, anh ta sảng khoái:

- Dẫu sao, ḿnh vẫn chống cộng, măi măi chống cộng. Ta cần cho kẻ thù nh́n rơ Sát cộng trên tay ta. truyện dài

 

Duyên Anh

Sàig̣n ngày dài nhất

 

 

Chương 11

 

22 giờ 30. Tiếng loa réo gọi tham dự mít tinh chào mừng cách mạng thành công sáng sớm mai làm rung cửa kính. Côn đề nghị bật đèn. Tôi đồng ư. ánh sáng ngập căn pḥng. Tàn thuốc lá bừa băi trên bàn xa-lông. Chúng tôi đă uống cạn chai rượu thứ nhất. Thiếu úy Bảo và trung sĩ Thân thấm mệt. Tôi dục hai thằng em kết nghĩa đi ngủ.

- Các em yên tâm, không có chết chóc ǵ cả, không có biển máu. Một nhà cách mạng chính cống đă quả quyết với anh rằng, cách mạng đại xá, đại đại xá.

- Sao lúc năy anh không chịu nói? Bảo hỏi.

- Anh thử xem em can đảm đến đâu. Tôi đáp.

Bảo và Thân đi ngủ. C̣n Côn với tôi. Chai rượu thứ hai được khui.

- Mày vừa nói gặp nhà cách mạng chính cống.

- Ừ.

- Ai đó?

- Phan Kim Thịnh.

- Thằng ấy?

- Nó chơi giép râu, nón tai bèo.

- Nó nằm vùng?

- Thứ rắn độc. ông đừng ngạc nhiên, nếu chúng ta không chết, sẽ có dịp nh́n rơ những thằng nằm vùng trong mọi lănh vực. Và chúng ta sẽ há hốc mồm.

- Tại sao?

- V́ toàn những đạo đức gia khổ hạnh và chống cộng hơn cả người chống cộng hung hăng nhất.

- Nó nói cộng sản đại xá à?

- Ừ.

- Mày tin nó?

- Tin mẹ ǵ, tôi trấn an cu Bảo.

- Tao nghĩ nó đại xá thật.

- Ông nghĩ th́ cứ nghĩ. Cộng sản nó làm ǵ, ḿnh đâu đoán nổi. Nó bảo không là có, có là không. Nó qua mặt cả thế giới.

- Long?

- Đừng hỏi thêm nữa. Uống rượu đi.

- Tao mở ti-vi nhé?

- Chớ.

- Xem nó nói ǵ chứ?

- Nó khoe nó đánh Mỹ cút, Ngụy nhào.

- BBC vậy?

- Nó tường thuật cộng sản vào Sài g̣n.

- VOA?

- Nó khen Việt cộng.

- Hay là mày với tao ra cổng ngắm nhân gian?

- Không. Ông làm ơn mở cửa cho khói thuốc tan loăng giùm.

Cửa mở. Khí thế cách mạng bên ngoài ùa vào nhà tôi "Nhân dân" ca hát, hô khẩu hiệu vang trời. "Nhân dân" không ngủ đêm nay. Họ không ngủ trong bóng tôi. Và họ khóc. Sao 30-4 dài thế? Với tôi, nó dài hơn cả đời tôi. Côn lại khép cửa. Chúng tôi uống rượu, hút thuốc chờ sáng. Đêm qua tôi đă chờ sáng. Đêm nay tôi vẫn chờ sáng. Tôi chẳng bao giờ ngu dại tin rằng cộng sản tha tôi. Ngày Chu Tử bị ám sát, tôi viết bài Nỗi cô đơn của người cầm bút đọc tại Viện âm nhạc và kịch nghệ quốc gia là tôi đă tiên đoán thân phận của tôi. Rồi tôi viết thêm bài nữa, đăng trên Sống°. Khẳng định tôi là kẻ cộng sản không tha, quốc gia không dung. Đến cuốn Tháng giêng ngon như một cặp môi gần xuất bản tháng 2-1975, tôi miệt thị cộng sản là bọn trả thù vặt và nói rơ, "đời sẽ có kẻ gọi ta là phản động." Thế th́ cộng sản phải trả thù tôi. Họ không trả thù tôi là họ thiếu lô-gích, họ hết là cộng sản. Cộng sản không tha tôi, đă đành. Nhưng tại sao quốc gia không dung tôi? Cái thứ gọi là quốc gia mà biểu tượng là Nguyễn văn Thiệu, Đặng văn Quang không được tôi xếp hạng quốc gia chân chính. Người quốc gia chân chính chưa hề nắm quyền bính tối cao. Tôi hằng coi Hà Nội như phỉ quyền, Sài g̣n như ngụy quyền. Tôi thiết tha tranh đấu để có một chính quyền trên quê hương tôi. Muốn thế, cuộc chiến đấu của tôi phải loại bỏ phỉ quyền tôi tớ của Liên xô và ngụy quyền tôi tớ của Hoa kỳ. Và đích thị tôi là kẻ cộng sản không tha, quốc gia không dung. Họa may, quốc gia chân chính sẽ dung tôi. Tôi hy vọng thế.

Nhiều bằng hữu bảo tôi là kẻ nghịch thiên. Tôi không chối căi. Tôi xác định thái độ nghịch thiên của tôi:

Thản nhiên ngước mặt ngạo trời

Trong cơn hồng thủy vẫn cười ngả nghiêng

Kể từ đời tắt lửa thiêng

Nỗi ta đối địa nghịch thiên mộng cuồng

Chém ngang độc nhất vô song

T́m ra cái lẽ vô cùng thênh thang

Hỡi ơi tai đục trần gian

Sao nghe nổi máu cung đàn băo mưa

Hỡi ơi mắt trắng cơi thừa

Sao nh́n nổi ngọc trên thơ tỏ t́nh

Chung thân can tội nghịch thiên

C̣n say cuồng mộng thản nhiên ngạo trời

Tên nghịch thiên ngồi uống rượu với bạn thơ ấu chờ sáng và chờ chết. Nó kiểm điểm nó. à, nó đă có 50 tác phẩm văn chương, 200 số báo Tuổi Ngọc, hơn 10 ngàn bài báo. Cộng sản không tha, quốc gia không dung nó nhưng đă có đứa nào bén gót nó?

- Này Côn.

- Ǵ?

- Người ta sẽ hâm mộ Con Thúy.

- Tại sao?

- V́ người ta sẽ thấy sau 30-4-75, giống hệt sau 19-8-45. Tôi đă viết về son phấn cách mạng nhạt nḥa.

- Mày nói đúng.

- Này Côn?

- Ǵ?

- Ông sẽ thoát biển máu. Tôi, có thể, sẽ thoát biển máu nhưng tù rục xương. Tôi muốn noi gương nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh.

- Sao?

- Khi tôi chết, đừng ai khóc. Cả ông nữa. Hăy cười, cười, cười?

Côn nín thinh. Giây lát, nó lảng qua chuyện khác.

- Mày biết ông Nguyễn Mạnh Côn làm quân sư cho tướng Vĩnh Lộc không?

Tôi ngạc nhiên xuưt rơi ly rượu:

- Thật à?

- Thật.

- Hèn chi Chậm bước tiên phong, muộn chiến trường. Chắc chắn, ông Vĩnh Lộc phải đợi ông Côn hút đủ cữ rồi mới hiến kế. Hóa cho nên, ông Vĩnh Lộc lên ti vi tối qua sốt ruột dữ.

Tôi nhớ cuối triều đại Ngô Đ́nh Diệm, anh Nguyễn Mạnh Côn ra ứng cử dân biểu đơn vị quận 3, Sài g̣n. Tôi cho anh ta vay tiền bán tập truyện Hoa thiên lư và đi a-lô vận động giúp anh ta. Hôm ra mắt cử tri ở trường tiểu học Chí Ḥa, anh Côn là người nói thứ nh́, sau Huỳnh Thành Vị. Tốt quá. V́ họ Huỳnh mở màn cho anh Côn. Tôi ngồi đợi anh hút no thuốc phiện rồi mới rửa mặt, đánh răng. Rồi chở Vespa, đưa anh lên địa điểm. Chúng tôi tới, cử tri về gần hết. V́ anh đến trễ, nói sau cùng?

- Ông Ngô Đ́nh Nhu xưa muốn cất nhắc ông Côn, chỉ chê tội nghiện.

- Nay ông Vĩnh Lộc xài. Vận nước đă hết. Tôi chờ chết là hợp lẽ trời.

Bèn nốc cạn ly:

- Đời nhà Thanh, dân Tầu mới hít tô phe bạo. Mừng cho Lưu Bang và mừng cho Lưu Bị. V́ Trương Lương, Tiêu Hà, Khổng Minh không đong thóc! Ông Vĩnh Lộc đồng hóa văn nghệ với quân sự. Hỏng, hỏng! Tại hạ có lời chê điểm này.

Đặng Xuân Côn dứt cuộc:

- Bây giờ, quân sư đang nằm "đong", tân Tổng tham mưu trưởng đi đâu không rơ, "nhân dân" hồ hởi phấn khởi và nhân dân ôm nhau khóc trong bóng tối.

23 giờ. Không biết mấy giờ ở Guam? Bằng hữu văn nghệ của tôi đă đến đảo Guam chưa, hay c̣n lênh đênh ngoài khơi, trên hạm đội số 7? Tôi chợt nghĩ tới những người Việt Nam yêu tự do, chấp nhận báng súng của "lính thủy đánh bộ" Mỹ, dắt díu nhau leo lên nóc ṭa đại sứ Mỹ rồi, sau 8 giờ 30, lủi thủi bước xuống, lếch thếch trở về. Những người Việt Nam thiếu may mắn di tản đang làm ǵ giờ phút này? Chắc chắn, họ đang sợ hăi, đang khóc và đang thèm được chết ngon lành. Đêm qua là đêm không ngủ của tôi. Đêm nay là đêm không ngủ của Sài g̣n, của cả miền Nam. Không ngủ ngoài đường. Không ngủ trong nhà. Hoặc dẫu ngủ, chỉ là những giấc ngủ chập chờn như tên một tác phẩm của Nhật Tiến. Trong những giấc ngủ chập chờn, con người thấy chập chờn những huyệt sâu chôn sống tập thể, những mă tấu vung chặt ngang thây, những băng đạn ria phọt suối máu... Và tôi, không ngủ để h́nh tưởng một cái cần xé chứa tảng đá và tôi ràng giây kẽm gai kín nắp liệng xuống khúc sông nào đó. Tôi chết từng giây. Tôi biết tôi chết. Tôi sặc sụa. Tôi đau đớn. Tôi giẫy dụa. Trước đó, tôi phải đứng trước đám đông phán quan y hệt tên da trắng đứng trong ṿng vây của dân da đỏ, phải tự thú ḿnh có tội với Đảng, với Cách mạng, với Nhân dân? Tôi được phép mở to mắt để nh́n đám đông phán quan của thời đại tôi Chỉ có vài tên cộng sản chính thống. C̣n rặt nhân dân bị cưỡng bức hận thù. à, trong đám nhân dân bị cưỡng bức hận thù, có vài đứa theo chủ nghĩa dậu đổ b́m leo. Những đứa này to mồm nhất, nỏ họng nhất. Chúng nó xỉa xói tôi, kết tội tôi, ném đá trúng thân thể tôi. Chúng nó vớ được cơ hội ngàn năm một thuở để tuyết hận thua kém tôi mọi mặt. Cỏ hèn vươn vai chống đại thụ. Tôi sợ hăi chứ. Nhưng không sợ hăi bọn dậu đổ b́m leo. Tôi xón đái ra quần. Tôi nghĩ những giọt nước tiểu của tôi dành cho bọn dậu đổ b́m leo ở khắp nơi trên trái đất Tôi đă tưới mát cỏ hèn. Đại thụ đă ban phước cho cỏ hèn. Hăy nhận phước ấy, cỏ hèn? Hăy nhận và đừng ân hận sự hóa kiếp. Bởi v́, cây cỏ luân hồi vẫn cỏ cây. Chỉ có con người, con người công chính và việc làm công nghĩa mới được phục sinh rạng rỡ. Và măi măi là con người.

- Long!

- Ǵ?

- Nếu ngày mai mày chưa chết?

- Th́ ngày mốt.

- Nếu không có biển máu?

- Th́ chết ṃn trong tù ngục.

- Mày chấp nhận chết ṃn?

- Tại sao?

- V́ tôi mong gặp hư vô.

- Hư vô là con mẹ ǵ?

- Là mềm bí ẩn của đời sống. Niềm bí ẩn này chỉ t́m gặp trong ngục tù, thống khổ và cô đơn.

- Mày sảng chưa?

- C̣n rất tỉnh để sợ chết, dẫu chết cách nào, kiểu nào.

- Nghĩa là mày thèm sống.

- Dĩ nhiên.

- Sống ṃn và chết ṃn?

-Tôi vừa nẩy ư tưởng mới. Tôi muốn t́m hạnh phúc trong bất hạnh.

- Mày lăng mạn.

- Luôn luôn lăng mạn. Lăng mạn đến chết.

Hai đứa tôi cụng ly. Bên ngoài, đường phố xôn xao tiếng nói, rầm rập bước chân. Tôi không c̣n tin rằng nhân dân bị cưỡng bức ra đường hoan hô cách mạng thành công nữa. Nhân dân nghèo khổ đă thật t́nh và nhiệt t́nh hoan hô cách mạng. Tội nghiệp nhân dân! Nếu họ đă đọc Con Thúy của tôi. Đừng trách móc nhân dân. Nhân dân là thế. "Bạc như dân" mà! Nhân dân oán ghét chế độ độc tài gia đ́nh trị Ngô Đ́nh Diệm và nhân dân hoan hô cách mạng 1-11-1963. Cách mạng của lũ thoán nghịch không đem lại hạnh phúc cho nhân dân trong ṿng ba tháng, nhân dân lại oán ghét và hoan hô đảo chính, chỉnh lư. Dưới chế độ quân phiệt Nguyễn văn Thiệu, tham thũng ngập ứ, thối nát tận óc, bất công đầy rẫy, đàn áp không thương xót, nhân dân thù hận và mong đợi tân cách mang. Nhân dân lại hoan hô như đă hoan hô. Và rồi, ba tháng sau thôi, nhân dân sẽ ủ ê với cách mạng vô sản. Kể từ dân tộc Việt Nam làm quen cách mạng, chưa bao giờ niềm vui kéo dài quá ba tháng. Rốt cuộc, cái dân tộc hẩm hiu này không thiết đoái hoài tương lai nữa. Tương lai tồi tệ hơn hiện tại và nghiệt ngă hơn dĩ văng.

- Long?

- Ǵ?

- Lúc mày đi mua rượu, thằng Tự chạy ngang qua cổng nhà ḿnh.

- Nó là lính thủy sao không theo tầu mà chạy?

- Phải thi hành sứ mạng đến tận 9 giờ. Vả nữa, vợ con nó c̣n nằm nhà.

- Sứ mạng ǵ?

- Gài ḿn đánh sập cầu Đồng Nai ngăn chặn xe tăng cộng sản vào Sài g̣n.

- Cầu không sập?

- Tại sao?

NHỮNG NGƯỜI LÍNH THỦY VIỆT NAM CỘNG H̉A NHÂN BẢN

Những người lính thủy được chỉ huy can đảm giao cho sứ mạng đánh sập cầu Đồng Nai trên xa lộ Biên Ḥa để ngăn chặn xe tăng cộng sản tiến vào Sài g̣n đă hoàn tất nhiệm vụ lúc 9 giờ ngày 30-4- 1975. Cả tấn TNT gài kín gầm cầu, bọc kín chân cầu. Xe tăng cộng sản từ Long Khánh ḅ vô, bị quân dân Tam Hiệp đón đánh. Trận chiến hào hùng và lăng mạn này kết thúc mau lẹ nhưng đă làm chậm bước tiến của cộng sản. Xa lộ lúc ấy, hai bên cầu Đồng Nai, nườm nượp dân chúng chạy giặc và đông đầy binh sĩ tan hàng. Dân chúng Sài g̣n chạy xuôi. Dân chúng Biên Ḥa chạy ngược. Cầu Đồng Nai nghẹt người và xe cộ. Cùng với ông già, bà lăo, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng, những anh lính thủy giữ trọng trách đánh sập cầu c̣n nh́n rơ xe tăng cộng sản, bộ đội miền Bắc. Sức công phá của TNT gài dưới cầu sẽ làm tung bay cốt sắt xi-măng, phạm vi một cây số vuông. Và dân chúng sẽ bị chết, bị thương vô kể.

Những người lính thủy quay giang dinh, lao nhanh về căn cứ. Cầu Đồng Nai không bị đánh sập. Nếu là Mỹ, cây cầu sẽ bị đánh sập. Nếu là cộng sản, cây cầu sẽ bị đánh sập Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng với Việt Nam, cây cầu không bị đánh sập. H́nh như nhận loại chưa biết chuyện này. Chúng ta thua trận, c̣n v́ t́nh thương và ḷng nhân đạo nữa.

Nguồn: Phodatron.com

Người đăng: Ct.Ly truyện dài

 

Duyên Anh

Sàig̣n ngày dài nhất

 

 

Chương 12

 

23 giờ 20. Khí thế cách mạng tăng cường độ. Nhân dân chuẩn bị mít tinh, biểu t́nh sáng mai từ đêm nay. Đường phố đă nghẹt người, tiếng loa vẫn réo gọi nhân dân đừng quên bổn phận chào mừng cách mạng thành công. Chai rượu thứ hai của chúng tôi c̣n quá nửa. Tôi khó hiểu tại sao đêm nay tôi không say, dù mệt mỏi, dù ăn ít và uống quá nhiều. Bây giờ, tôi quyết định ra phố xem diễn tiến cách mạng 30-4-75 có giống cách mạng 19-8-45.

Phải thành thật nói rằng, hai mươi năm sống ở Sài g̣n, tôi chưa hề thấy đêm nào Sài g̣n cuồng nhiệt như đêm nay. Y hệt đêm 19-8-45 ở thị xă Thái B́nh của tôi, năm tôi mười tuổi. Dân tộc Việt Nam luôn luôn khao khát cách mạng v́ luôn luôn thèm khát hạnh phúc. Chúng ta đă lạm phát cách mạng, lạm phát chủ nghĩa. Mà chúng ta vẫn thiếu hạnh phúc, thứ hạnh phúc đơn sơ đủ làm con người gần gũi con người, đủ để t́nh tự kết đan t́nh tự. Khi con người bước gần biên giới của tuyệt vọng, nó sẽ thấy áng lên từ bên kia ánh sáng hy vọng. Bởi thế, cách mạng này hư đốn, chúng ta hy vọng cách mạng khác. Cách mạng khác hư đốn, chúng ta lại hy vọng cách mạng sắp xẩy ra. Nhân dân Sài g̣n đang cuồng nhiệt đón chào cách mạng vô sản, sẽ nguội lạnh vài tháng sau. Có thể vài tuần sau. Tôi đoan quyết. V́ tôi đă kinh qua một lần cách mạng tháng 8. Cách mạng tháng 8 ở đêm 30-4 này c̣n khoác hào quang mười năm kháng chiến chống Pháp giành độc lập, được khoác thêm hào quang 20 năm chống Mỹ cứu nước.

Người ta không nh́n thấy thiên đường, dĩ nhiên. Người ta chỉ nh́n rơ trần gian, nơi người ta đang sống đọa đầy và, dù không biết địa ngục ra sao, người ta vẫn ví trần gian của người ta như địa ngục. Và người ta mơ ước thiên đường. Nếu thiên đường cộng sản, thiên đường xă hội chủ nghĩa miền Bắc Việt Nam được mặc khải như một thiên đường hoang lạnh, ở đó, con người bị tước đoạt quyền làm người, con người biến thành nô lệ thảm hại của thứ chủ nhân ông mới, điêu ngoa và bóc lột tận t́nh là Đảng, con người sống vô vọng trong đói khổ, ngu dốt, héo hắt, tàn tạ th́ chẳng ai mơ ước thiên đường cả. Mặc khải một thiên đường bánh vẽ, đồng thời, phải hiện thực cái trần gian cho nó rực rỡ ư nghĩa làm người và no đầy hạnh phúc con người khao khát. Tiếc thay, cả hai điều đều không có. Và đó là tội ác của Mỹ và đám tướng lănh thống trị cầy cáo. Kết quả là đêm nay, 30-4-75, dân Sài g̣n như những con phù du dưới ánh đèn cực mạnh của chủ nghĩa cộng sản lạc hậu. Thiên đường cộng sản sẽ được người Sài g̣n khám phá vào ngày mai. Nó sẽ rỗng tuếch, mốc meo, trơ trẽn, bịp bợm. Người ta sẽ ủ ê, cay đắng, năo nề. Và người ta lại lặng thinh ôm ấp niềm hy vọng cách mạng mới. Rồi vẫn thế. Và ngh́n năm dân tộc này sẽ tăm tối, sẽ chẳng biết hạnh phúc là cái ǵ! Thống trách ǵ đây? Chúng ta khan hiếm lănh tụ lương thiện? Hay đất nước chúng ta chỉ có lănh tụ bù nh́n, chỉ có lănh tụ thích làm tôi mọi cho ngoại bang, chỉ có những thằng hề rẻ tiền múa may tṛ yêu nước bệ rạc?

Ánh sáng của đèn Mỹ trên những trụ đèn bằng cây Mỹ đem từ Mỹ sang đă soi rơ mầu cờ vô sản đêm Sài g̣n đau thương. Tư bản và vô sản cần liên kết. Như môi và răng. Thiếu tư bản, vô sản mất đối tượng đấu tranh. Thiếu vô sản, tư bản hết chính nghĩa khai phóng tự do, dân chủ. Cho nên, tư bản không bao giờ muốn diệt vô sản và ngược lại. Hoa kỳ không thích hại Liên xô. Liên xô không thích hại Hoa kỳ. Cả hai kết hợp để hại các nước nhỏ chậm tiến. Nỗi thê lương nhất của thời đại, khốn nạn nhất của thời đại chúng ta là các nước nhỏ chậm tiến đă xâu xé nội bộ, nhân danh cả tư bản lẫn vô sản. Việt Nam là biểu tượng thê lương và khốn nạn. Hai mươi năm huynh đệ tương tàn để ngh́n năm khó ngóc đầu dậy. Bao giờ mới lấp hết hố bom Mỹ? Bao giờ rừng mới hồi sinh tan thuốc khai quang Mỹ? Bao giờ mới trả nợ hết hỏa tiễn Liên xô? Bao giờ mới hết xuất khẩu nô lệ sang Sibérie, sang Đông âu? Không bao giờ cả. Những nước chậm tiến trên thế giới măi măi phải nghèo khổ. Để sáng danh chủ nghĩa vô sản. Và để sáng danh cả chủ nghĩa tư bản. Những nước chậm tiến trên thế giới lại măi măi cần phải có chiến tranh. Để Hoa kỳ và Liên xô đọ vũ khí mới. Thế th́ ánh đèn tư bản soi rơ mầu cờ vô sản là chuyện đương nhiên. Liệu nó có soi sáng lương tri nhân loại? Liệu nó có soi sáng lương tri dân tộc Hoa kỳ?

Tiếng loa phóng thanh "giải phóng" ư nghĩ của tôi, bắt tôi trở về thực tại. Ngày mai, 1-5, c̣n là ngày Lao Động quốc tế nữa. Người Mỹ đă chọn ngày lành tháng tốt để tặng cộng sản Việt Nam. Và bài hát rất xưa lại vang vọng đêm nay:

Ngoài kia lời non nước

đang nhắc ta

mau nhắc cao giống ṇi

yêu mến muôn giống người

Ngoài kia công nhân ơi

quốc tế đang giơ tay đón chào bầy con đoàn kết

từng nhớ những phút chiến thắng

tiền phong đua tranh bao năm

lầm than đau thương trong khốn cùng

Giải phóng thống nhất đất nước

Việt Nam ra công chen vai

cùng thế giới mới sống chung

tranh đấu cuối cùng là đời sống

với giang sơn

công nhân Việt Nam chiến đấu

cùng sống tập đoàn toàn thế giới công khai

và kiến thiết xă hội ngày mai

Lúc đế quốc đang sắp tan ră dần

Ta tiền phong tiến tới

Sức chiến đấu đi xuống miền Đông Nam

Lúc đế quốc đă tàn...

Tham vọng của cộng sản Việt Nam là nuốt gọn các nước Đông Nam Á. Họ không ngần ngại bộc lộ tham vọng này. Sớm hay muộn thôi, cộng sản sẽ thôn tính Thái Lan, Mă Lai... "Tiền đồn chống cộng của Đông Nam á" đă bị san bằng. Cộng sản đă nuốt miền Nam, họ sẽ nuốt Đông Nam á. Có khi lại là điều hay. Bởi v́, lúc ấy, sự phản công của các nước Đông Nam á sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho người Việt Nam giải thoát quê hương ḿnh khỏi ách cộng sản. Nhân loại rất nên nếm mùi cộng sản. Chưa nếm mùi cộng sản, nhân loại vẫn ham... làm dáng cộng sản và tưởng rằng cộng sản là đồ trang trí cho vui mắt đời sống. Bài hát Công nhân Việt Nam dạo đầu cho cuộc mít-tinh, biểu t́nh ngày mai, 1-5, vừa chào mừng cách mạng thành công vừa chào mừng Lao Động quốc tế thành công thật hợp t́nh, hợp cảnh. Đảng cộng sản Việt Nam vẫn núp trong áo Đảng Lao Động Việt Nam. Tôi muốn bài hát bay vút sang Thái Lan, Mă Lai, Tân Gia Ba... Nhưng nó tắt ngủm, nhường cho bài Đảng Lao Động Việt Nam.

Đảng Lao Động Việt Nam

Đảng của chúng ta

v́ giai cấp cần lao

Đảng mưu giải phóng nước nhà

Đảng chúng ta là mặt trời

Hồ Chí Minh là mặt trời

d́u dắt cho muôn lớp người vùng lên...

Hai đứa tôi đến một góc phố. ở đây, một chị cán bộ giép râu được bảo vệ bởi thanh niên Cờ Đỏ đang "phổ biến" những bài ca ngợi Bác cho các em nhi đồng. Các em yêu cầu chị hát bài ca cách mạng. Chị cao giọng:

Như bao cô gái ở trên non

Cô gái sông Ba đầu búi tóc thon

Tay vót chông miệng hát không nghỉ

Như bao cô gái ở trên non

Như bao cô gái ở Tây Nguyên

Ai nhanh tay vót bằng tay em

Chim hót không hay bằng tiếng hát em

Mỗi mũi chông nhọn hoắt căm thù

Xuyên thây quân cướp nào vô đây

xuyên thây quân cướp nào vô đây

C̣n giặc Mỹ cọp beo

Khi c̣n giặc Mỹ cọp beo

Em chưa ngừng tay vót chông rào làng

Nhưng nay mai giặc chạy rồi

Tre rừng ta làm nhà làm cḥi cao

Ê, chân ta đi chưa mỏi

Trời trong xanh

Em c̣n vót chông rào làng nữa

Ê quân xâm lăng nào vô đây

Chờ bọn bay

Diệt bọn bay...

Các em nhi đồng vỗ tay hoan hô. Chị cán bộ tuyên văn giáo dục tiếp các em nhi đồng Sài g̣n những bài ngắn thù hận giặc Mỹ, thù hận đế quốc. Không có ǵ lạ cả. Tháng 7-1954, tôi đă thấy ở những góc phố thị xă quê hương tôi, các chị cán bộ tuyên văn giáo dục các em nhi đồng thù hận giặc Pháp, thù hận đế quốc, thù hận địa chủ, ca ngợi Bác Hồ, Bác Mao, ca ngợi Liên xô, Trung quốc Thù hận "trồng" từ 1954, tiếp tục "trồng" đến 1975, và vô tận, theo chủ trương "trồng người" của ông Hồ Chí Minh. Tôi biết, từ chập tối ở các góc phố, ở các khu phố, cán bộ tuyên truyền văn hóa của cộng sản đă tụ tập thiếu niên, nhi đồng để dạy những bài ca cách mạng cho rộn ràng cách mạng sáng mai. Về điểm này, cộng sản rất "nghề". Trẻ con mau thuộc bài và hăng say hát. Tôi chợt nghĩ thân phận tôi. Tôi quả là không khá. Riêng bài thơ Em bé của tôi đăng trên tạp chí Chỉ Đạo năm 1960 đă đủ gây hệ lụy cho tôi rồi.

Hôm nay em đi học

Mắt ngời ánh hào quang

Những v́ sao mới mọc

Thắp lửa rực huy hoàng

Trang vỡ ḷng thầy dậy

Đánh vẫn chữ Việt Nam

Con đi nước con đấy

Đẹp tự bốn ngh́n năm

Tay mềm tô nét viết

Xanh mướt nghĩa yêu thương

Chao ơi là tha thiết

Mộng ước gửi ngàn phương

Tiếng em mùa xuân ấm

Bài quê hương loài người

Không biên thùy ngăn cấm

Không ai khóc cuộc đời

Và măi hồn thơ ấy

Cây hạnh phúc muôn thu

Xin đừng ai nỡ dạy

Em tôi nói căm thù

Tôi đă chống chủ trương "trồng người" của ông Hồ Chí Minh, của cộng sản. Họ dạy tuổi thơ thù hận, tôi dạy tuổi thơ thương yêu. Cả đời tôi, tôi loay hoay giáo dục tuổi thơ không thù hận. Rốt cuộc, thù hận hai phía trút xuống đầu tôi. Cộng sản không tha, quốc gia không dung là vậy

Tôi muốn đi xa thêm. Nhưng chỗ nào cũng thế, Sài g̣n đêm nay. Với cộng sản là rập khuôn. Một cảnh tượng là triệu cảnh tượng. Giống nhau như khuôn đúc. Một khẩu hiệu là triệu khẩu hiệu. Không được thiếu. Không được thừa. Những kẻ thiếu sáng tạo mà cứ đ̣i "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc" nghĩ thật buồn cười.

- Về chứ Long?

- Về th́ về.

- Chẳng có ǵ khác hơn 19-8-1945.

- Giống hệt 1954.

- Thế mà nó thắng?

Đặng Xuân Côn thở dài. "Thế mà nó thắng", bốn tiếng nghe sao năo nùng, ai oán? Hai đứa tôi trở về nhà, tiếp tục cuộc rượu. "Cơi đời ngoảnh mặt quên xa tiếc", tôi không nghĩ ǵ chuyện ngoài phố, chuyện ngày mai nữa. "Ngày mai ra sao rồi hăy hay". Chúa Jésus đă dạy: "Ngày mai để cho ngày mai lo".

- Long ạ. Tao cho rằng nó đă thắng, nó không cần hủy diệt bọn nhà văn đâu.

- Ông không hiểu cộng sản. Và ông càng không hiểu hệ lụy văn chương. Văn chương nó gắn liền với tư tưởng. Con người làm văn chương tư tưởng sẽ chết nhưng văn chương tư tưởng của nó tồn tại và ảnh hưởng măi măi. Cộng sản không tha bất cứ nhà văn nào chống đối tư tưởng của họ, trừ bọn nhà văn huê t́nh, rỗng tuếch... Uống đi và đừng lo cho tôi. Tôi được sống với ông trọn hôm nay là đáng sống rồi. Nếu tôi phải ân hận là tôi chưa hề làm cho ông vui lần nào. ông hy sinh cho tôi đủ thứ mà tôi không biết nhường cho ông đứa con gái, hồi chúng ta ba đào ở Nhà Hát Tây.

- Quên chuyện ấy đi!

- Làm sao mà quên? Ông thất t́nh ngă xước máu chân! Tôi nên thanh thỏa chuyện này trước khi tôi chết hay là tôi quằn quại trong ngục tù.

- Mày sẽ gặp hư vô?

- Mong lắm.

Hai đứa tôi cụng ly. Tưởng chừng, ngày xưa c̣n bé, Vũ và Côn uống những ly xi-rô Grenadine thơm phức ở đầu cầu Bo. Chúng tôi chơi với nhau từ tiểu học trường Monguillot. Nhật đảo chính Pháp, có chúng tôi chứng kiến. Chúng tôi chứng kiến Nhật chặt đứt tay người Việt Nam đói khổ ăn cắp thóc nuôi ngựa Nhật. Chúng tôi chứng kiến Nhật treo dộng đầu người xuống, trên cây cao. Rồi chúng tôi đi đếm xác người chết đói, đi ăn mày cơm gạo cứu đói. Chúng tôi chứng kiến cách mạng 19-8. Kư ức của chúng tôi c̣n nguyên vẹn Tầu phù tước khí giới Nhật, tiêu thổ kháng chiến, chiến tranh, di cư... Và hôm nay, giải phóng Chúng tôi đă trải dài đời ḿnh theo những biến cố chập chùng của đất nước. Đă hết chưa? Côn chưa muốn hết. Nó đă dựa lưng vào ghế, mắt lim dim ngủ, tay c̣n cầm ly rượu.

Tôi không biết danh sĩ thời xưa đă mấy ai, chờ chết một ngày dài nhất đời ḿnh, một ngày dài nhất của dân tộc ḿnh, của thời đại ḿnh. H́nh như chẳng có ai. Thời của người xưa hiền như người xưa. Nên, "một ngày dài ghê" mới chỉ là "ba thu cộng lại". Thời của người xưa đơn giản như người xưa. Nên, người xưa thản nhiên chờ đợi cái chết cơ hồ đợi chờ cuộc phiêu du vào hư vô. Người xưa không bị tưởng tượng cách chết, kiểu chết tính bằng co rút của tế bào, tính bằng héo khô của mạch máu, tính bằng rời rạc của nhịp tim. Ngày dài nhất của thời đại chúng ta là hai mươi năm cộng lại. Ṛng ră hai mươi năm phiền muộn, chiến tranh, tang tóc, sinh ly, tử biệt. Chúng ta có ngày dài nhất lấy máu mà đo, đem nước mắt mà lường v́ chúng ta được Hoa kỳ khai phóng tự do, dân chủ. Ngày dài nhất của chúng ta nghẹn ngào hơn bất cứ ngày dài nhất nào của loài người, từ khai thiên lập địa. Bởi nó là ngày dài nhất báo hiệu những ngày dài nhất, những vô tận ngày dài nhất, nhục nhằn nhất, cay đắng nhất, oan khiên nhất trên quê hương chúng ta. Muốn đo lường chính xác, và muốn cực tả niềm đau, phải dùng giây kẽm gai viện trợ Mỹ mà kéo chiều dài của ngày dài nhất. Hiểu tại sao chứ? à, giây kẽm gai viện trợ Mỹ không kịp di tản sẽ rào quanh nhà tù, trại tập trung cộng sản. Danh sĩ thời xưa thiếu hẳn cảm giác hứng đ̣n ư thức hệ. Người thời xưa không thèm nh́n mỏ Con ó, không thèm ngắm móng Con Gấu. Người thời nay bất hạnh hơn, bị Con ó mổ mù mắt, bị Con Gấu cào bấy tim. Để chờ chết một ngày dài nhất.

C̣n hệ lụy văn chương của danh sĩ thời xưa thế nào? Mới chỉ nghe kiêu sĩ Cao Bá Quát lên đoạn đầu đài. Nhưng kiêu sĩ Cao Bá Quát bay đầu đâu phải tại văn chương - tư tưởng? Cái kiêu bước thêm vài bước thành cái cuồng. Cái cuồng biến thể sang ngông. Và họ Cao làm loạn tiêu sầu. Rượu chưa đủ là thế. Văn học sử chép lời giăng giối của Cao Bá Quát:

Ba hồi chuông dục: Đù cha kiếp

Một nhát gươm vung: Đéo mẹ đời

Tôi không nghĩ rằng khẩu khí của Cao Bá Quát b́nh thường vậy. Kẻ nghịch thiên Cao Bá Quát đếm xỉa chi cái kiếp, cái đời. ông đă chửi cái thế, cái thời. Theo tôi, ngạo nghễ bước lên đoạn đầu đài, Cao Bá Quát đă sang sảng:

Ba hồi chuông dục: Đù cha thế

Một nhát gươm vung: Đéo mẹ thời

Đấy mới là Cao Bá Quát. Há Ngô Thời Nhiệm chẳng đem thời thế trả miếng Đặng Trần Thường đó sao? Dẫu ǵ chăng nữa, Cao Bá Quát không hề bị bức tử v́ văn chương - tư tưởng ḿnh. Danh sĩ thời xưa hạnh phúc gấp bội danh sĩ bây giờ. Lan Khai bị nhốt vào rọ ngâm nước. Khái Hưng bị d́m dưới sông. Phan Khôi bị cô lập chết ṃn. Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An nằm tù, Nhân Văn Giai Phẩm đi cải tạo.... Tôi hiểu thân phận tôi sẽ ra sao, sắp ra sao.

Nhưng tôi bằng ḷng thân phận tôi, tự hào thân phận tôi. Tôi chống cộng sản tự nguyện. Mười lăm năm cầm bút của tôi, tôi không hề điếm nhục ngửa tay nhận tiền của Mỹ, của các chế độ Sài g̣n để làm công việc đánh đĩ văn chương - tư tưởng. Tôi chống cộng sản và v́ lư tưởng chống cộng sản, tôi chống luôn cả chính sách xấc xược của Mỹ áp đặt lên số phận dân tộc tôi, chống luôn cả tập đoàn thống trị bù nh́n và bè lũ điếu đóm, chống luôn bọn tham nhũng thối nát, bất tài, vô tướng, chống luôn đám hề chính trị rẻ tiền. Nói tóm lại, tôi chống tất cả những ǵ nuôi dưỡng cộng sản và làm sáng chính nghĩa cộng sản. Theo tôi, những bất công xă hội, những đàn áp phát-xít đă dồn dân chúng miền Nam vào con đường cùng. Dân chúng xa quốc gia, gần cộng sản là bởi lănh đạo quốc gia ngu dốt. Tôi chống cả đảng phái hèn mạt lẫn những kẻ đội lốt tôn giáo lănh đoạn chính trường. Người ta bảo tôi có lắm kẻ thù. Tôi không tin. Tôi đă viết 50 tác phẩm văn chương. Độc giả của tôi nuôi dưỡng tôi tận t́nh, cống hiến tôi đời sống vật chất dư dả. Tôi tự hào là một nhà văn chuyên nghiệp nhiều độc giả nhất nước, nhiều độc giả tuổi trẻ nhất nước. Những kẻ coi tôi là kẻ thù là những kẻ không được tôi xếp vào hạng kẻ thù của tôi Họ ở dưới kẻ thù của tôi vô số bậc. C̣n những kẻ đố kỵ tài năng của tôi, cay cú với ḷng yêu mến của độc giả của tôi dành cho tôi là những kẻ luôn luôn đứng sau tôi, xa tít tắp. Họ rất đáng tội nghiệp và cần được khích lệ như những người có triển vọng ở tương lai. Tôi cô đơn sáng tạo. cô đơn chiến đấu và cô đơn chết. Nhân danh điều thiện, người thiện chống việc ác, kẻ ác tôi chết. Tôi chưa biết cộng sản bức tử tôi kiểu nào.

Tôi bỗng có một nỗi sợ hăi mới, sợ hăi hơn cả sợ hăi chết trầm. Là cộng sản không quăng tôi vô biển máu hay bắt tôi chết ṃn trong tù ngục. Nếu cộng sản không thèm trả thù tôi, không thèm đếm xỉa đến tôi, tôi sẽ bị sống nhục nhă. V́ văn chương, tư tưởng của tôi chẳng giá trị tí nào. Và con người tôi cũng vô giá trị. Tôi sẽ cúi gầm mặt ở bất cứ nơi đâu trên trái đất. Tôi hết dám chống cộng sản, trừ khi tôi là đứa vô liêm sỉ.

Nỗi sợ hăi mới đă giúp tôi thản nhiên chờ đợi đao phủ và h́nh cụ của nó.

24 giờ rồi. Tôi đă trải qua một ngày dài nhất trong đời tôi, một ngày mà nhiều đời người không có. Văn hào Walter Scott viết: "Không ai đủ giầu để mua lại dĩ văng đích thực của ḿnh". ở đâu đó, ngoài nước Việt Nam, sẽ có một người Việt Nam tiếc rẻ: "Tôi là tỷ phú, thừa mứa tất cả, chỉ thiếu một Sài g̣n, ngày dài nhất". Và đó, bất hạnh trong hạnh phúc. Tôi đầy đủ ngày dài nhất ở Sài g̣n. Và, cũng đó, hạnh phúc trong bất hạnh.

1988

 

Phần Phụ Lục

 

NHỮNG ĐOẠN VIẾT NGẮN VỀ QUÊ HƯƠNG

(Trong vidéo Giọt Nước Mắt Cho Quê Hương)

Trung Tâm Thúy Nga Paris sản xuất

Thù hận dân tộc khởi sự từ cây cầu định mệnh này. Nước mắt quê hương bắt nguồn từ ḍng sông oan nghiệt này. Lịch sử nào cũng có những thời của chiến tranh và những thời của ḥa b́nh. Thời của chiến tranh mười năm vừa qua trên giang sơn gấm vóc Việt Nam. Nó vừa qua bằng những giọt lệ. Không phải là giọt lệ reo vui ḥa b́nh mà là giọt lệ bẽ bàng phân chia tổ quốc. Một lần huyền thoại Lạc Long Quân - âu Cơ. Một lần Thập nhị sứ quân làm đau đớn ư nghĩa đồng bào. Một lần sông Gianh buồn tủi. Và, bây giờ, sông Bến Hải ô nhục. Vẫn một ḍng sông biểu tượng của xa rời t́nh tự, của đứt khúc anh em, nhưng hôm nay, ḍng sông ngầu đỏ ư thức hệ. Thù hận dân tộc có xuất xứ rơ nét bằng ư thức hệ, bằng chủ nghĩa hoàn toàn xa lạ với dân tộc chúng ta. Th́ mặc kệ nó thôi, cái vĩnh cửu của Việt Nam là cần thiết. Tổ tiên chúng ta đă biết ngậm thống khổ, đă can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh, đă kiên nhẫn chiến đấu cho sự tồn tại vĩnh cửu của Việt Nam. Cuối cùng, sông Gianh chỉ c̣n là hồi tưởng một thời ta xa nhau, một thời t́nh yêu héo úa, một thời hạnh phúc ngẩn ngơ. Chúng ta cũng biết ngậm thống khổ, cũng biết can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh, cũng biết kiên nhẫn xây dựng lại một miền quê hương đổ vỡ sau ḥa b́nh què cụt. Để lấp sông Bến Hải. Để con người gần gũi con người. Để anh yêu em, nhớ em như ca dao đă dạy chúng ta yêu nhau, nhớ nhau. Thế th́ miền Nam thân yêu, cái nôi đời êm ái, đă ru chúng ta niềm hy vọng, đă phả vào hồn chúng ta nỗi ước mơ làm lại quê hương, làm đẹp quê hương, làm đoàn tụ quê hương, làm rực rỡ quê hương. Chúng ta tiếp nối kinh nghiệm của tiền nhân; ư chí của tiền nhân, dũng cảm của tiền nhân, vượt lên mọi thống khổ, vượt lên mọi thù hận. Để Việt Nam măi măi ngạo nghễ dưới mặt trời. Và, vậy đó sự phồn vinh bắt đầu ở miền Nam, ư nghĩa rạng ngời của đời sống bắt đầu ở miền Nam. Chúng ta sáng tạo một thời yêu thương thay đổi một thời thù hận. Chúng ta bắt ṇng súng nở hoa thơm ngát hương nhân ái. Chúng ta bắt đạn câm. Chúng ta bắt tạo hóa mỉm cười độ lượng. Rồi, như tiền nhân, bằng trái tim bồi hồi, xao xuyến những giấc mơ xanh; bằng những nốt nhạc nhẩy múa trên môi: "Việt Nam, Việt Nam nghe tự vào đời... Việt Nam không đ̣i xương máu... Tự do, công b́nh, bác ái muôn đời..." Chúng ta đă có miền Nam, nơi đồn trú của t́nh tự dân tộc, của lăng mạn dân tộc, của cao thượng dân tộc, của thi ca chan chứa t́nh người, của tiểu thuyết tràn trề nhân bản, của âm nhạc đưa hồn lên cao. Để tô thắm triết lư Rồng Tiên, để keo sơn cái c̣n vĩnh viễn của Việt Nam. Chúng ta đă quên thở dài. Chúng ta cất tiếng hát...

Buồn thay, chúng ta chưa được hát no đầy giọng ca, chưa được hát đẫy đà nốt nhạc th́ cây cầu định mệnh kia cựa quậy, ḍng sông oan nghiệt nọ nổi sóng, thứ sóng tham vọng của chủ nghĩa cộng sản xâm lược. Những giọt nước mắt Việt Nam bắt đầu ứa ra từ miền Bắc. Rồi những giọt nước mắt chẩy dài theo tuổi nhỏ quắt queo đeo trên lưng cái hiện tại ê chề miệt mài bước đường vô định, theo dân hiền bị cưỡng bức chuyên chở đau thương mà lê chân dọc lối ṃn vô vọng. Nước mắt cùng máu rướm chân không thấm vào ḷng đất quê hương. Nước mắt trên vai phụ nữ dân công gồng gánh. Nước mắt lên thác xuống ghềnh. Nước mắt nhục nhằn của thân phận Việt Nam đă làm cỏ rừng xúc động, đă làm đá suối nghẹn ngào. Họ thiếu trái tim nên họ không ái ngại đất lún. Họ thiếu con mắt nên họ không thương xót trẻ thơ vác súng đạn băng rừng, vượt núi. Và họ gây chiến tranh. Súng đă nổ. Đạn cộng sản khiến ứa máu thanh b́nh của chúng ta. Bây giờ là nước mắt miền Nam. Nước mắt của chết chóc, của thương tích, của sợ hăi. Nước mắt của mẹ già. Nước mắt của em bé. Nước mắt của tất cả. Phải làm những giọt nước mắt ngừng chẩy. Phải ngăn chặn chiến tranh. Tuổi trẻ miền Nam giă từ gia đ́nh đi lo việc cứu nước, giữ nước...

°°°

Tổ quốc gọi, tuổi trẻ lên đường. Vất bỏ lại những phù phiếm vật chất và chấp nhận cuộc đời gian nan. Bởi v́, đă là lính, đă t́nh nguyện vào nơi gió cát. Những vầng trán kiêu hănh ngẩng cao: Danh dự, Trách nhiệm, Tổ quốc Vinh quang bao giờ cũng phải trả giá bằng nhiệt t́nh và ḷng tự phụ. Nhiệt t́nh là phóng thẳng lên phía quân thù, là chỉ biết tiến không biết lùi, là chỉ biết thắng không biết bại, là thèm sống vinh và sợ chết nhục. Tự phụ là vừa chiến đấu bảo vệ non sông ngoài tiền tuyến vừa bảo vệ hạnh phúc cho đồng bào ở hậu phương.

Hăy hồn nhiên, em bé! Hăy nhẩy múa, hát ḥ, reo vui Em đừng thèm nghĩ đến chiến tranh, em bé nhé? Chiến tranh là ác quỷ. Đă có anh diệt ác quỷ. Em bé thiên thần ơi, măi măi là mắt ngọc, tóc ngọc, môi ngọc, lời ngọc, hồn ngọc. Để anh nhẹ bước chiến chinh. Người lính Việt Nam cộng ḥa tuyệt vời. Chẳng c̣n ngôn ngữ nào cao quư hơn để vinh danh lính của chúng ta, những con người biết sống, biết chiến đấu và biết chết. Hơn cả hào hùng, lính của chúng ta lăng mạn nhất loài người, chấp nhận chiến đấu cho sự sống c̣n của dân tộc và cả cho t́nh yêu của mọi người. Nói rơ rệt, lính của chúng ta chiến đấu để làm rực rỡ ư nghĩa của Cái Thật, Cái Tốt, Cái Đẹp của con người. Đó là những người lính đi chiến đấu v́ con người, v́ t́nh người, v́ đạo nghĩa Việt Nam, v́ t́nh tự Việt Nam, v́ những cái tồn tại vĩnh cửu của Việt Nam. Yên vui hậu phương, đó là mềm vui của người lính sa trường, đó là lư do chắc tay súng và ngắm đúng kẻ thù. Không có thứ huy chương nào xứng đáng cho sự hy sinh của người lính Việt Nam cộng ḥa cả. Chắc chắn, họ không chiến đấu v́ huy chương. Lư tưởng chiến đấu của họ chỉ được nh́n thấy khi chúng ta chứng kiến họ đứng giữa biên giới sống chết. Họ sống v́ cái sống của mọi người. Họ chết cũng v́ cái sống của mọi người. Người lính đă quên cả sự sống lẫn sự chết của ḿnh. Và ngay cả lúc đứng giữa biên giới của sống chết, người lính Việt Nam cộng ḥa vẫn c̣n thừa niềm xúc động để nhỏ nước mắt xót thương đồng bào ḿnh trong điêu linh, tang tóc của chinh chiến. Có lẽ, chúng ta đă vô t́nh không chịu hỏi lính của chúng ta nghĩ ǵ. Vậy th́ anh làm ơn trả lời đồng bào anh, anh đă nghĩ ǵ, người lính?

Không, anh c̣n khiêm tốn lắm, người lính Việt Nam cộng ḥa. Đề đồng bào anh nghĩ về anh, nghĩ về lính lăng mạn, hào hùng mà biểu tượng là người lính nhẩy dù Nguyễn Đ́nh Bảo. Quân sử việt Nam đă trân trọng viết bằng son thắm những trang chính xác về thiên thần mũ đỏ. Chẳng thể thiếu sót tên tuổi và chiến tích vang động đất trời của chiến sĩ dù. Hơn cả chính sử, ngoại sử, huyền sử, tiểu thuyết dă sử c̣n đưa lính mũ đỏ vào trong những lớp sương mầu thần thoại. Hăy hỏi những con chim đậu trên giây điện xem chúng có ngậm nhạc ngợi ca Nguyễn văn Đương, Nguyễn Đ́nh Bảo. Hăy hỏi kẻ thù xem họ có nghiêng ḿnh trước sự dũng cảm của những người lính dù ở lại Charlie. Cho phép tôi được nhỏ một giọt nước mắt muộn màng tưởng mộ những người lính dù đă đi vào lịch sử.

Chiến tranh là tṛ chơi thô bỉ. Không ai thích chơi tṛ chơi của chiến tranh cả. Con người sinh ra không phải để săn đuổi giết nhau. Chúng ta không chơi chiến tranh, chúng ta chiến đấu bảo vệ tổ quốc. V́ thế, nước mắt c̣n ứa ra tội nghiệp cho tuổi trẻ miền Bắc bị cộng sản tước đoạt linh hồn đích thật Việt Nam để nhồi nhét vào đầu óc họ cái lư tưởng phi nhân bản, phi dân tộc, cái lư tưởng giải phóng bịp bợm của chủ nghĩa mù, của chế độ điếc, của lănh tụ ngu. Hăy nh́n những người bộ đội "sinh Bắc, tử Nam"? Hăy nh́n họ, hăy suy nghĩ về cái chết của họ, sẽ có một lời kết án nghiêm khắc chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản cứ đẩy họ vào một chiến thắng ảo tưởng. Bộ đội miền Bắc cứ chết thảm, cứ thua nhục... Bằng súng đạn, hỏa tiễn của Liên xô, Trung quốc, cộng sản Việt Nam đă cầy nát quê hương miền Nam của người Việt Nam, đă sát hại người Việt Nam. Rơ ràng, cộng sản Việt Nam v́ cái chủ nghĩa quốc tế vô sản mà phản bội quốc gia. Chính nghĩa quốc gia thuộc về chúng ta, của chúng ta. Chính nghĩa ấy đă được người lính Việt Nam thắp sáng ở khắp chiến trường. Nơi nào người lính Cộng Ḥa đến, nơi ấy cộng sản thảm bại. Nơi nào cờ vàng chiến thắng tung bay, nơi ấy tự do, thanh b́nh, no ấm. "Việt Nam không đ̣i xương máu". Chúng ta đ̣i ḥa b́nh để xây dựng đất nước chúng ta phồn thịnh, dân tộc chúng ta hạnh phúc, thương yêu. đoàn tụ. Nhưng cộng sản điên cuồng "thề phanh thây, uống máu" chúng ta, chúng ta cần dạy dỗ họ những bài học nhân bản, để họ trở về con người đầy đủ nhân tính, để hủy diệt thú tính của họ. Chúng ta không thèm mơ ước chiến lợi phẩm tính bằng xác T-54, bằng AK, bằng B-40. Chúng ta mơ ước những cánh đồng lúa chín, những nhà máy phun khói, những chuyến tầu đến đi, những mái trường rộn ră tiếng chim non ca hót. Chúng ta không gây chiến mà chúng ta phải tham chiến. Và v́ chiến tranh, chúng ta mất mát khá nhiều. Nước mắt vẫn rơi theo máu rơi. Những giọt nước mắt cay đắng nhất vẫn là những giọt nước mắt của người vợ lính đi nhận xác chồng tử trận.

Đă bao nhiêu người vợ lính mắt đẫm lệ đi nhận xác chồng? Đă bao nhiêu người vợ lính t́m thấy xác chồng và chẳng biết xác chồng ḿnh ở đâu? Tôi lại xin được nhỏ giọt nước mắt muộn màng ngưỡng mộ chinh phụ của thời đại tôi. Và không thể nào tha thứ cho cộng sản. Chủ nghĩa hèn mạt của họ, thêm một lần, chứng tỏ sự phi dân tộc của họ. Họ đă xúc phạm đến cả những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Họ đă dẫm giép râu lên phong tục, tập quán ngàn đời của người Việt Nam. Cộng sản không khước từ một cơ hội nào để bắt máu chẩy, để đ̣i nước mắt rơi, để chém giết. Cộng sản đem chiến tranh vào thành phố. B-40 của họ đă thụt cháy bàn thờ tổ tiên của chúng ta ngày Tết. Họ đă bắn đạn AK nát phong bao mừng tuổi trẻ thơ. Đạn tội ác của cộng sản thay pháo đốt mừng xuân. Bầy thú dữ vô thành phố. Những ǵ đă xảy ra? Đi hỏi thùng rác đầu đường, thùng rác cũng phẫn nộ v́ bị găm đạn cộng sản. Đi hỏi con chó rên rỉ dưới chân cột đèn, con chó cũng phẫn nộ v́ bị găm đạn cộng sản. Đừng hỏi người. Đừng hỏi. Hăy nh́n khói bốc mù trời thành phố. Hăy nghe đạn nổ kinh hoàng. Hăy ngắm những khuôn mặt sợ hăi. Và những giọt nước mắt đêm xuân... Và rồi sẽ có một định nghĩa về những giọt nước mắt.

Đánh đâu thua đấy, càng đánh càng thua. Cộng sản đă phải trả giá chua cay cho vụ Mậu Thân đến nỗi Hồ Chí Minh phẫn mà chết. Cộng sản lại tiếp tục trả giá chua cay cho mùa hè đỏ lửa. Họ đă phiêu lưu vào chiến tranh một cách dại dột. Họ không thể ngờ họ đă phải đương đầu với anh hùng miền Nam. Mỗi người lính Cộng ḥa là một hào kiệt, một tráng sĩ... Sa lầy quân sự ở chiến trường miền Nam v́ tham vọng xâm lăng, cộng sản đă bóc lột đến giọt mồ hôi lao động cuối cùng của dân miền Bắc. "Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng", dân miền Bắc đă phải dân công thủy lợi phục vụ chế độ bạo tàn hơn cả nô lệ thời thực dân. Phẩm cách con người hầu như bị tước đoạt hết và quyền sống th́ chẳng c̣n. V́ "giải phóng miền Nam" mà dân miền Bắc đói khổ, ngu dốt, lạc hậu. Bộ đội đă mượn xuống tuổi 16? 16 tuổi phải cầm súng lao vào chỗ chết. Cái ưu việt của chủ nghĩa, cái nôi của loài người, cái đỉnh cao trí tuệ cộng sản ở những chiếc xe đạp thồ đá, thồ cây...

Nhưng mà giọt nước mắt cho Việt Nam bẽ bàng nhất, thê lương nhất th́ lại ở đây, ở ngay nước Mỹ. Những kẻ phản chiến đă để lương tri của họ ngủ vùi trong một thời mê sảng. âu châu văn minh, âu châu của công b́nh, bác ái đă nhắm mắt lại toa rập với những kẻ phản chiến một chiều. Buồn cho âu châu ấy, âu châu của trí tuệ âu châu biết phán xét đă quên trí tuệ cựu lục địa, bám gót bọn chăn ḅ Mỹ để lên án bom đạn Mỹ và giả vở không đếm xỉa hỏa tiễn Liên xô, đại bác Trung quốc. Rốt cuộc, âu châu và Hoa Kỳ đều bị đám khố rách cộng sản huyễn hoặc một cách đáng thương hại. Thế trận thay đổi bằng sự trợ giúp đắc lực của phản chiến Mỹ, báo chí Mỹ, truyền thông Mỹ và âu châu. Chúng ta khó tin sự phản tỉnh. Bởi v́, cá sấu chưa cười khi nhai nghiến con mồi. Bởi v́, nỗi khổ của dân tộc chúng ta vẫn c̣n sáng giá cho bọn làm dáng tiến bộ, làm dáng ḥa b́nh...

Nỗi khổ của dân tộc chúng ta c̣n là đường rầy oan nghiệt cho chuyến tầu hữu nghị phản phúc của nước lớn nghiến nát thô bạo. Bom Mỹ, hỏa tiễn Liên xô, đại bác Trung quốc đă tàn phá đất nước chúng ta hai mươi năm. Nhân danh ai, nhân danh cái ǵ? Lái buôn súng đạn, phù thủy chủ nghĩa đem thân phận tổ quốc chúng ta, đem xương máu dân tộc chúng ta mua bán, đổi chác? Chẳng có ǵ cao quư để nhân danh cả, ngoài quyền lợi tư bản và quyền lợi cộng sản. Những tâm hồn tư bản bần tiện, những tâm hồn cộng sản bần tiện, những tâm hồn bá quyền bần tiện, bọn đấu thầu chiến tranh lại lột lưỡi đấu thầu ḥa b́nh. Mỏ con ó cứ nhọn. Móng vuốt con gấu cứ sắc ác điểu và ác thú ôm nhau hôn, ôm nhau khiêu vũ trên băi tha ma. Cùng với sự phản phúc của tư bản, sự bẻ gẫy lương tâm của thế giới tự do, nước mắt Việt Nam ứa ra cho một chia ĺa đ̣i đoạn...

Chúng ta lại ra đi. Lần này chúng ta bỏ tổ quốc ra đi. Làm sao có thể đo được mức độ nước mắt Việt Nam tuôn rơi cho một chuyến đi năo nề? Nước mắt chia ĺa t́nh tự dân tộc, hai mươi năm trước bắt nguồn từ ḍng sông Bến Hải. Bây giờ, nó bắt nguồn từ ḍng sông nào? Có lẽ, người Việt Nam sẽ đặt cho ḍng sông ấy một cái tên. Phải, một cái tên. Để nhớ. Để kể cho con cháu nghe. Tên nó là Phản Bội. Thế th́ nước mắt chia ĺa t́nh tự dân tộc, hai mươi năm sau, bắt nguồn từ ḍng sông Phản Bội. Hai mươi năm hai lần người Việt Nam sống đời du mục, thân phận du mục của thời đại đông đầy chó sói chủ nghĩa, cá sấu ư thức hệ. Lần thứ nhất, chúng ta tỵ nạn trên quê hương chúng ta. Lần thứ hai, chúng ta tỵ nạn ở những nơi chốn nào trên trái đất? Ôi, di cư? Ôi, di tản? Di tản ê chề gấp bội di cư. Hai mươi năm, tưởng chừng mới hôm qua. Mới hôm qua 1954...

Người Mỹ nói "lịch sử đă sang trang '? Chúng ta phải hiểu họ chẳng c̣n thiết tha ǵ tới lư tưởng khai phóng tự do, dân chủ nữa. Con tḥ ḷ nào cũng có sáu mặt lương tâm. Và nó có thể thản nhiên cắn gẫy bất cứ thứ lương tâm nào không có lợi cho nó. Nh́n lại di cư 1954 để so sánh di tản 1975, chúng ta mới vỡ lẽ. Nước Pháp thua trận vẫn c̣n chinh phục được ḷng biết ơn của chúng ta, v́ họ đưa chúng ta vào Nam tử tế, họ xứng đáng văn minh và nhiều văn hóa. Nước Mỹ thua trận là thua hết. Họ thiếu văn hóa. Tinh thần trọc phú bần tiện Mỹ thể hiện rơ rệt ở cuộc di tản 1975 tại Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ ở sài g̣n. Họ cam kết bảo vệ tự do, dân chủ miền Nam, họ đem danh dự tiệp Chủng Quốc Hoa kỳ làm lời hứa. Rồi họ phản phúc. Chúng ta thật sự hiểu ḷng dạ Hoa kỳ từ lúc Gerald Ford tuyên bố: "Lịch sử đă sang trang." Sự sang trang của lịch sử hoa kỳ ngoạn mục nhất, đối với họ, là cảnh tượng người Việt Nam đi t́m tự do một ḿnh bằng thuyền gỗ lênh đênh trên đại dương. Bây giờ, thuyền nhân Việt Nam dũng cảm hơn dân tộc Mỹ, hơn loài người. Thuyền nhân Việt Nam vinh danh Tự Do cao quư Thuyền nhân Việt Nam đă mở mắt cho thế giới hoan lạc, ích kỷ bằng những giọt nước mắt khó quên của một thời đại mê sảng. Chẳng hiểu bọn phản chiến Mỹ ngu xuẩn, tôi mọi không công cho cộng sản có dám căng mắt nhận diện thuyền nhân Việt Nam ở địa danh buồn bă Poulau Bidong, Poulau Tengah, Sikew, Palawan, Song- kla... Hăy nh́n kỹ, thế giới thiển cận và trí tuệ những kẻ lên án chiến tranh Việt Nam tại âu châu, Mỹ châu và úc châu! Hăy nh́n kỹ xem những người trải dài thân phận ḿnh suốt cuộc chiến hai mươi năm có phải là những người hiếu chiến, có phải là những người gây chiến, có phải là tội phạm chiến tranh? Không, người Việt Nam đấy, người Việt Nam nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, của chủ nghĩa tư bản, của hỏa tiễn Liên xô, của bom đạn Hoa kỳ, của sự tráo trở, bịp bợm hèn mạt của các nước lớn đấy. Lư tưởng tự do dân chủ của Mỹ, lư tưởng cách mạng giải phóng của Liên xô đă bị người Việt Nam yêu quê hương ḿnh tha thiết phải bỏ quê hương, bỏ sự nghiệp ngàn đời của tổ tiên để lại mà sống kiếp lưu đầy. Và những giọt nước mắt Việt Nam lưu vong ứa ra. Những giọt ngọc Việt Nam đánh dấu mốc đường oan của nhân loại. Em yêu dấu, hăy để những giọt nước mắt Việt Nam vang vọng đất trời...

Giọt nước mắt nhục nhằn

trên xiềng gông chung thân

Giọt nước mắt đợi chờ ṃn nỗi đá ôm con

Giọt nước mắt thê lương

Giọt nước mắt quê hương

nghe buốt răng sâu, cây thù lá hờn...

Giọt nước mắt chẩy dài

theo thuyền nhân lênh đênh

Giọt nước mắt nghẹn ngào

biển ướp muối khô tim

Giọt nước mắt oan khiên

Giọt nước mốt cô đơn

ngơ ngác hỡi em quê người đảo điên

Giọt nước mắt lung linh màu nàng ngoan

hong tâm sự nát tan

mai em ḿnh lớn khôn

ôi giọt nước mắt cho những thân phận sốt se

cho những tâm hồn tái tê

cho những con người năo nề...

Giọt nước mắt tỏ t́nh thương ngàn xua hư vô

Giọt nước mất tội nghiệp c̣n thế giới hoang vu

Giọt nước mắt tâm tư

Giọt nước mắt ươm mơ

rơi xuống em ơi. xanh ngọc vàng tơ...

Phải lắm, em ạ, chúng ta chẳng cần những giọt nước mắt thế giới xót thương chúng ta. Chúng ta nhỏ nước mắt xót thương chúng ta và xót thương thế giới. Anh muốn giọt nước mắt của em, giọt nước mắt thuần khiết Việt Nam của em, nhỏ xuống làm lay động cái bóng tối u mê phủ kín lương tri của loài người. Hăy khóc, em ơi, bởi v́, những giọt nước mắt sẽ làm anh em ḿnh khônlớn, sẽ làm anh em Việt Nam ḿnh khôn lớn. Chúng ta cần thiết khôn lớn bằng những giọt nước mắt thống khổ. Để làm lại quê hương Việt Nam mai này. Chúng ta đi không phải ở lại. Chúng ta đi để về, sẽ về, phải về. Thiên đường đích thực là quê hương chúng ta, là Việt Nam yêu dấu, chỉ là Việt Nam thôi. Mọi nơi khác đều là cơi tạm và đều trống vắng. Vậy th́, anh rất sợ nước mắt không c̣n long lanh trong mắt em. Khi ấy, em đă quên nỗi khổ. Và em quên nỗi khổ, anh quên nỗi khổ, anh em ḿnh không thể trở về Việt Nam được. Thế nên, những giọt nước mắt lưu vong sẽ nhắc nhở chúng ta một thời bơ vơ trên những thiên đường lạnh buốt. Giọt nước mắt hôm qua nhỏ xuống vuốt ve nỗi khổ. Giọt nước mắt hôm nay nhỏ xuống nuôi dưỡng nỗi khổ. Chúng ta quên nỗi khổ, ta quên luôn quê hương ta, dân tộc ta. Em yêu dấu, anh muốn tâm sự:

Giả sử ngày mai em về Sài g̣n

em sẽ mang ǵ cho quê hương?

Em có c̣n ǵ cho quê hương?

sau nhiều năm biệt xứ

sau nhiều năm quá khứ nhầu úa?

Giả sử ngày mai em về Sài g̣n

Em có c̣n là em nữa không?

Em có c̣n ngọt ngào suối trong

Em c̣n thuộc ca dao,

c̣n giữ áo cho nhau thuở nào?

Sợ em đă quên mùi hoàng lan đêm xuân

quên hương cau, thông vàng, bụi phấn

Dậu hoàng cúc thu dạt dào nỗi ḿnh xưa

nhớ chăng em. thềm trưa mây mưa?

ôi giả sử ngày mai em về Sài g̣n

Em thành người xa lạ quê hương

Em thành người đường quen xóa bóng

Linh hồn em lạnh cóng

Em vừa hay đă mất Sài g̣n

Thế th́ những giọt nước mắt lưu vong sẽ soi sáng nỗi khổ Việt Nam, em ơi! Nỗi khổ ấy ở quê nhà, nỗi khổ ấy ở quê người. Nỗi khổ ấy chỉ hết khi những giọt nước mắt vỡ ra thắp rực một hạnh phúc vĩnh cửu. Đó là ngày anh em ḿnh hồi hương. Em, ngày mai sẽ đến. Anh em ḿnh về Việt Nam như loài én báo hiệu mùa xuân trên khắp đất nước. Đêm đen của chủ nghĩa cộng sản tuyệt tích. Chúng ta đă xóa nó rồi.

Tiếng khóc Việt Nam vút lên trời. Trăng ngậm ngùi. Tiếng khóc Việt Nam phóng ra biển. Biển xao xuyến. Mẹ già nằm đó. Mẹ đợi chờ định cư ṃn mỏi. Mẹ chết. Linh hồn mẹ lại vượt biển về quê hương. Đất quê hương sẽ ấm hồn mẹ. Mẹ đă đến Sài g̣n bồi hồi như đêm vĩnh biệt thành phố ấy.

Nhưng Sài g̣n ra sao? Nước mắt vẫn cần cho thành phố bất hạnh đó. Một thi sĩ viết:

Sài g̣n trong nhà gửi nỗi buồn

Ra sân, ra ngơ trống, đời trơn

Ra phường, ra phố, ra tăm tắp

Nơi những đề lao giữa núi rừng

Sài g̣n trong nhà mẹ ngóng con

Mắt sông cát lấp đă rêu cồn

Miệng thầm kinh nguyện ḷng nghi hoặc

Ôi măi cầu xin vẫn mỏi ṃn

Sài g̣n trong nhà vợ nhớ chồng

Nhớ khùng, nhớ dại, nhớ lung tung

Nhớ nhiều, nhớ măi. không quên nhớ

Buổi tối tay anh bị siết c̣ng

Sài g̣n trong nhà con đợi cha

Năm sáu mùa xuân bố vắng nhà

Bao giờ bố mới về đây bố

Con lớn khôn rồi biết xót xa

Sài g̣n trong nhà đầy ưu phiền

Rất hài hoà cảnh tượng ch́m đen

Tủ giường. bàn ghế, nồi, xoong, chảo

Cùng với người chung một nỗi niềm

Sài g̣n trong nhà vắng như tờ

Lâu lâu giọt nhỏ vọng hồn xua

Chú thạch thùng quen thôi tặc lưỡi

Và con nhện cũng chán giăng tơ

Sài g̣n trong nhà, Sài g̣n ơi

Hăy thinh không nhé, hăy trùng khơi

Hăy im lặng đến thời lên tiếng

V́ tiếng em cao vọng tuyệt vời

Sài g̣n trong nhà buồn bă, Sài g̣n ngoài phố ủ ê. Khuôn mặt chính xác của phồn vinh không giả tạo của xă hội chủ nghĩa đă phơi bày rơ rệt dưới ống kính trung thực của Tây phương. Nó là phần thưởng cao quư của những kẻ đ̣i ḥa b́nh tức khắc ở Việt Nam. Ḥa b́nh rồi đó. Ḥa b́nh lâu rồi đó. Người đổi đời sống với ma ở nghĩa địa. Người lượm từng chiếc túi ny-lông dơ bẩn rửa sạch để bán kiếm tiền mua gạo chợ đen. Ḥa b́nh rồi đó. Thù hận khởi sự, nhân quyền bị chà đạp, nhà tù mở rộng cửa lùa con người vô tội vào. Ḥa b́nh rồi đó, một ḥa b́nh rỗng tuếch, đói khổ. Thiên đường bánh vẽ cộng sản lộ nguyên h́nh. Cách mạng cai trị bằng chính sách gạo.

Ngày xưa roi điện th́ c̣n

Ngày nay roi gạo hao ṃn thịt xương

Vẫn thứ roi gạo phũ phàng đă quất nát bao tử dân miền Bắc, lại quất ê chề bao tử dân miền Nam. Ông Hồ Chí Minh hứa hẹn: "Đánh xong giặc Mỹ ta sẽ xây dựng lại bằng mười năm xưa." Chẳng phải thế đâu, chẳng bao giờ có xây dựng mà chỉ có băng hoại, băng hoại đến cả t́nh người. Con người tưởng đă được đoàn tụ trong khốn cùng, vẫn bị cưỡng bức ra đi. Lưu đầy tại quê nhà? Đi đâu? Những miền tù ngục ngụy trang kinh tế mới. Phấn cách mạng, son giải phóng đă nham nhở trên mặt hề chế độ cộng sản. Người Việt Nam lại đi, lại đói khổ, lại lếch thếch, lại bơ vơ. Và đó là định nghĩa tự do, hạnh phúc của Việt Nam dân chủ cộng ḥa biến thể Cộng ḥa xă hội chủ nghĩa Việt Nam. Những ai c̣n ảo tưởng cộng sản nữa đây? Hăy nghe dân gian lên tiếng:

Từ khi ta có Bác Hồ

Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào...

Măi mà là khó khăn, là con người oằn vai, cong lưng thay trâu ḅ trong một xă hội tô son khẩu hiệu "Xă hội cộng sản không c̣n người bóc lột người". Cái xă hội tồi tệ đó, lănh tụ ăn đặc táo và dân chúng ăn khoai ḿ, ngô, gạo hẩm ṛng ră ba chục năm và sẽ ngàn năm...

Ai sinh ra cái củ ḿ

Hỏi: Để làm ǵ? Đáp: Để mà ăn

Nước nhà măi măi khó khăn

Dân ḿnh măi măi phải ăn củ ḿ

Con người bị nô lệ hóa, bị bóc lột tận cùng sức lao động, bị đói khổ, bệnh hoạn. Vậy mà chế độ cứ trơ trẽn khoác lác "Lao động là vinh quang". Vậy mà Tố Hữu cứ nịnh hót Hồ Chí Minh:

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa của em thơ, lụa tặng già

Sữa nào tặng em thơ? Lụa nào tặng cụ già? Cụ già nằm rên rỉ trên nền đất trong căn nhà ọp ẹp vùng kinh tế mới. Em thơ vừa nhay vú mẹ vừa khóc v́ mẹ ăn khoai ḿ vú làm sao căng sữa? Đảng thay người bóc lột người. Và người lam lũ, khốn nạn gấp trăm lần người dưới ách thống trị thực dân, đế quốc. Người đă có cách mạng, vẫn lao động thi đua với trâu ḅ. Người đă bị cưỡng bức "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xă hội chủ nghĩa" tồi tệ.

Và đây là Cung Thiếu Nhi của xă hội chủ nghĩa ấy, là trường học dạy bài "trồng người" của ông Hồ Chí Minh. Ở Cung Thiếu Nhi, ở Nhà Trẻ, ở Mẫu Giáo, ở Tiểu Học cộng sản, tuổi thơ đập đá mưu sinh, đập nát hồn nhiên hoa bướm. Tuổi thơ vừa đập đá vừa hát:

Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng

Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng

Ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông

Ba mươi năm dân chủ cộng ḥa kháng chiến

đă thành công...

Kháng chiến đă thành công. Và hạnh phúc của tuổi thơ là đập đá. Em bé Sài g̣n ơi, ngưng đập đá một chút, được không? Người chị dân công phẫn nộ, quắc mắt diều hâu chống đối cộng sản bóc lột sức lao động ơi, ngưng phẫn nộ một chút, được không? Em gái Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt ơi, ngưng cấy lúa một chút được không? Cho tôi hỏi:

- Sài g̣n vui không em?

Và chúng ta đă nghe câu trả lời:

- Sài g̣n chỉ vui khi các anh về.

Các anh sẽ về. Quân ta sẽ về. Súng đạn sắp theo người về giải thoát dân tộc. Chúng ta có quyền hồi tưởng những chiến thắng Pleime, Bastogne, B́nh Long, Kontum, Quy Nhơn, Quảng Trị, Đồng Tháp... Chúng ta có quyền nghĩ tới ngày động đất niềm vui. Bởi v́, chúng ta ra đi chiến đấu cho tự do, không đi t́m tự do. Bởi v́, chúng ta ra đi ngậm thống khổ và c̣n long lanh những giọt nước mắt, không đi t́m hoan lạc và những trận cười vô nghĩa. Đau khổ làm chúng ta khôn lớn, làm hy vọng phục quốc của chúng ta mọc mầm. Nước mắt làm chúng ta không quên nhục nhằn mất nước và tưới xanh hy vọng của chúng ta. Chúng ta sẽ về như những người lính Cộng ḥa năm xưa đă về thủ đô Sài g̣n sau mỗi vinh quang chiến thắng. Vùng trời quê hương ta sẽ rộn ràng câu ca nhân ái:

Việt Nam không đ̣i xương máu

Việt Nam kêu gọi thương nhau

Việt Nam đi xây đáp yên vui dài lâu

Bấy giờ, em ơi, giọt nước mắt cho Việt Nam đoàn tụ, hạnh phúc, thương yêu...

10-1987

NHỮNG ĐOẠN VIẾT NGẮN VỀ SÀI G̉N, VỀ VIỆT NAM

(Trong vidéo Giă Biệt Sàig̣n )

Trung Tâm Thúy Nga, Paris, sản xuất

C̣n nhớ Sài g̣n không? Thành phố tóc gẫy chia ly, thành phố mắt mờ giă biệt một cuối tháng tư lạc tay thù. C̣n nhớ Sài g̣n không" Những tháng nhung xanh cũ, những ngày lụa đào xưa, thành phố ấy, Sài g̣n yêu dấu, mặt trời thắp sáng ước mơ, ánh trăng soi rơ kỷ niệm. Mỗi vỉa hè là một giải chiêm bao. Mỗi đoạn đường là một cơn hạnh phúc. Đă thấm niềm tưởng tiếc rồi đó, sau mười năm lưu lạc. Có chỗ nào tuyệt diệu hơn Sài g̣n? Thành phố ấm quanh năm. Thành phố lá tương tư nhạc gió. Những đêm mưa, bụi khói khóc hư vô. Cổ tích ướp hơi thơ. T́nh ái ngát hương thu ngh́n cũ. Sài g̣n dệt thơ làm nắng. Giữa tim hạ đă là xuân lăng đăng huyền thoại trong lối lụa Tú Xương, trên nền gấm Huyền Trân. Chỉ cần một câu vọng cổ, đă xao xuyến hồn già. Chỉ cần bước chân giao mùa, đă xanh mắt trẻ thơ, hồng môi thiếu nữ. Ơi thiếu nữ Sài g̣n, những cô gái áo dài tha thướt phố phường, những cô gái áo ngắn gọn gàng công xưởng, những cô gái đồng phục nhịp nhàng trên đường xây dựng và bảo vệ quê hương, những cô gái Việt rộn ràng tiếng trống Mê Linh, miệt mài vó ngựa Bùi thị Xuân...

Vó ngựa lại một phen tung bụi mịt mù đất nước. Chiến tranh xâm lăng từ phương Bắc tràn xuống. Như tất cả tuổi trẻ thành phố, nông thôn, những chàng trai Sài g̣n xếp bút nghiên theo việc đao cung, tạm biệt phồn hoa để dấn thân bảo vệ non sông. Mỗi tấc đất quê hương ông cha gửi lại đều kư thác bằng mồ hôi, nước mắt và máu. Th́ chiến đấu giành lại từng tấc đất lọt vào tay quân thù cũng phải đổ mồ hôi, nước mắt và máu. Tuổi trẻ Việt Nam đă kiêu hùng, vẫn kiêu hùng, măi măi kiêu hùng. Sự kiêu hùng ấy đă làm nên những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa...lại làm nên những chiến thắng B́nh Long, Kontum, Quảng Trị... Tuổi trẻ Sài g̣n đă vinh dự đóng góp xương máu cho những trang sử đấu tranh của giống ṇi...

Trái tim dân tộc đă nhiều lần rạn nứt phân chia đ̣i đoạn. Hôm nay, thêm lần nữa, trái tim dân tộc rướm máu. Những sợi máu vương đây đó. Trên nỗi đau. Trên niềm nhớ. Niềm nhớ có tên và niềm nhớ không tên. Sài g̣n là một niềm nhớ không tên. Có nhớ Sài g̣n không? Có nhớ niềm nhớ không tên, niềm nhớ ray rứt, niềm nhớ gặm nhắm thớ thịt ta từng phút, từng giây. Có nhớ cổng trường xưa anh chờ đón em về chiều thu muộn? Có nhớ con đường cũ lá me mưa xanh mướt ái ân? Sài g̣n, niềm nhớ nhung trên những vệt sọn môi, trong ánh mắt và trong hơi thở. Sài g̣n, niềm nhớ nhung trong hạnh phúc và trong đau khổ. Ở tuổi non và ở tuổi già. Ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đă qua. Ở hôm nay ta sống và ngày mai ta chết. Ở ngh́n dặm kẻ chân mây mù mịt. Ở tấc gang người cuối phố đầu phường. Ở sớm công viên ngọn cỏ ngậm sương. Ở chiều bùng binh đèn mầu phố sắc...

Từ một niềm nhớ không tên, Sài g̣n đă thành nỗi đau có tên. Hăy h́nh tưởng, Sài g̣n, người t́nh chung của ta, lạc vào tay thù. Hoa lạc tay thù có ố gương? Khi manh áo của loài chồn tinh phủ lên tên Sài g̣n, thành phố của ta bị lột da. Như chính ta bị lột da vậy. Và đó là nỗi đau mưng mủ trong mỗi trái tim chúng ta. Những con đường hoa mộng cũ, bây giờ, hằn lên những thù hận, thống khổ, thê lương, ngậm ngùi. Nụ cười hôm qua là giọt lệ hôm nay. Hy vọng hôm qua là tuyệt vọng hôm nay. Đời sống đầy rẫy những đe dọa ban ngày, những hăi hùng ban đêm. "Nếu cột đèn biết đi, cột đèn sẽ vượt biển t́m tự do". Ai đă nói giùm tâm sự cột đèn Sài g̣n? Dân tộc Việt Nam hiền ḥa và luôn luôn bất hạnh, nào ngờ, sau một đổi đời nghiệt ngă, lại hóa ra thuyền nhân khốn khổ lênh đênh trên mặt đại dương chập chùng hệ lụy. Đất đưa người ra biển. Biển dẫn người về đâu? Về đâu và sẽ ra sao tháng năm biệt xứ xanh xao phiền muộn. Đất đưa người ra biển nhưng đất không chia xẻ với người thảm cảnh phiêu lưu. Biển dẫn người về đâu, dẫn về đâu, biển cũng chẳng hiểu nổi sự đói khát, niềm sợ hăi của người ra khơi. Thế đó, nhân loại có từ nỗi đau rơ rệt tên tuổi của chúng ta một danh từ nạm vàng tủi nhục: Thuyền nhân...

Bỏ quê hương ra đi, để lại Sài g̣n héo hắt trong tay thù. C̣n nhớ Sài g̣n không? Nghĩ ǵ về Sài g̣n bây giờ? Sài g̣n bây giờ ra sao? Đừng hỏi mưa, hỏi nắng. Mưa và nắng cũng buồn bă trốn khỏi thành phố rồi. Hăy hỏi mẹ lang thang góc phố. Hăy hỏi cha thất thểu đầu đường. Hăy hỏi chị ngồi lê chợ trời. Hăy hỏi em chầu chực bán máu đỏ đong gạo đen. Son phấn hoàng hôn những vỉa hè cơm áo. Nước mắt đêm khuya những cay đắng phận người. Sài g̣n bây giờ như vậy. Đến vỏ cây già cũng bị lột đến ngọn cao. Đến muông thú Bách Thảo cũng gầy ṃn, chết đói. Vẻ kiêu sa dĩ văng là bệ rạc hiện tại. Bàn tay ngọc thiếu nữ Sài g̣n đă kềnh càng ghẻ lở v́ nước phèn thủy lợi cưỡng bức. Đôi mắt xanh em nhỏ đă trắng ră v́ khoai sắn triền miên. Sài g̣n ra đường không áo dài. Sài g̣n ra đường không cười nói, líu lo. Cúi xuống là ngục tù, trại tập trung. Nh́n lên là công an độc ác. Thời tiết Sài g̣n bây giờ ngậm đầy khắc khoải. Không khí Sài g̣n bây giờ dằng dặc ngậm ngùi. Sài g̣n bây giờ ở trong nhà với những phiền muộn, thở dài, với những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống miếng đời buồn tênh, ngao ngán...

Nhưng có phải xa Sài g̣n là lên thiên đàng hạnh phúc không? Hăy h́nh tưởng trùng dương nổi giận vô duyên cớ nuốt gọn thuyền nhân. Hăy h́nh tưởng sóng gió phũ phàng vùi dập thuyền nhân. Hăy h́nh tưởng hải tặc tàn bạo cưỡng hiếp, giết chóc thuyền nhân. Và, sau chót, hăy nh́n thật lâu, thật kỹ ngày tháng chờ đợi phát chẩn ân huệ định cư ở các trại tỵ nạn, gọi là Quán trọ trước cổng thiên đường. Hăy nh́n rơ ràng những bước chân em bé lên ba, lên năm, trên cát bỏng oan khiên quê người. Rồi sẽ hiểu tại sao "Tôi biết tôi sẽ buồn". Chừng đó ḷng hoài hương bừng bừng sống dậy, thuyền nhân ao ước một ngày về cùng Sài g̣n gấm vóc ngày xưa...

Đâu riêng ǵ Sài g̣n phá sản hôm nay. Quê hương ta, khắp nơi, đều bị phá sản, của cải và t́nh nghĩa, từ lá cờ hừng hực máu thù hận tanh hôi ngạo nghễ tung bay. Hà Nội đă rạc rài hơn ba chục năm rồi. Thiên đàng của đám người ảo tưởng và phản bội chỉ là thứ thiên đàng bánh vẽ Xă hội chủ nghĩa bước giật lùi. Không c̣n ai chết đói mà chỉ c̣n những ai đói rách triền miên. Đất ngh́n năm văn vật, người sống bằng tiêu chuẩn vật, vật và người đồng hóa, vật và người chung một tâm sự và bị bóc lột như nhau. Những kẻ khố rách đi giải phóng những kẻ áo lành. Rốt cuộc, Sài g̣n tăm tối, đoạ đầy, thê thảm ngang hàng Hà Nội. Hăy quan sát Hà Nội, thủ đô của "phẩm cách con người", "đỉnh cao trí tuệ và tiến bộ". Hăy t́m cho Hà Nội một định nghĩa chính xác về hạnh phúc. Vậy đó, những h́nh ảnh sống động và đích thực của Hà Nội và đang của Sài g̣n dưới mầu cờ kiêu ngạo ngu xuẩn và sắt máu căm hờn. Vinh hoa của Sài g̣n đă bị đẩy ra vỉa hè. Người mẹ ngồi cau mày trong nắng sớm. Người cha đứng nhăn nhó dưới mưa chiều. Gửi ǵ về cho Sài g̣n? Một an ủi, một mơ ước hay một hứa hẹn? Thành phố, cây cỏ, nắng mưa, chim muông, người vật, vỉa hè, góc quán, gửi ǵ về? Gửi ǵ về?

Gửi ǵ về cho vừa đủ một quê hương bỏ lại, một quê hương chất ngất sầu đau? Gửi ǵ về cho ruộng đồng bát ngát, cho sông nước mênh mông? Gửi ǵ về cho con kinh mới đào, cho con lạch vừa khơi? Gửi ǵ về cho bờ xa, cho băi rộng? Gửi ǵ về cho đồi thấp, cho núi cao? Gửi ǵ về cho rừng sâu, cho biển thẳm. Gửi ǵ về cho lúa vào sữa, cho heo may giải đồng? Gửi ǵ về cho hoa bưởi, hoa cau? Gửi ǵ về cho sầu riêng, măng cụt? Gửi ǵ về cho câu ḥ lan tỏa, cho điệu ru ấm nồng? Gửi ǵ về cho đường thơm t́nh tự, cho ngói đ́nh ái ân, cho nhịp cầu thương nhớ? Gửi ǵ về? Gửi ǵ về? ôi quê hương, chỉ khi khuất xa gần như vĩnh biệt, ta mới biết tương tư mùi rơm mới, mùi khói đốt đồng, mùi hoa hèn, mùi cỏ dại. Và ta mới thấy cái đơn giản nhất, cái b́nh thường nhất đều đă bùi ngùi nhất trên khói sóng hoàng hôn. Không có nơi nào đẹp hơn quê hương ta. Gửi ǵ về? Cho gửi một mơ ước trở lại.

Mơ ước trở lại thắp sáng hồi tưởng. Và bằng hồi tưởng ta về với quê hương ta. Vùng biển ta đó. Từ cao nh́n xuống. Nha Trang cát trắng với cầu Bóng huyền thoại. Rừng đồi ta đó. Đà Lạt nên thơ. Này hồ Than Thở. Nọ rừng ái ân. Ta vào trường Vơ Bị t́m lại dấu chân cũ, h́nh bóng xưa của những chàng trai "vốn gịng hào kiệt". Những chàng trai ấy, bây giờ, ở đâu. Hẳn nhiên, nhiều người đă "áo bào thay chiếu anh về đất", về tận ḷng đất Việt Nam. Để Việt Nam ngạo nghễ muôn đời Nhiều người đă ra đi, mang theo tâm sự Đặng Dung, chỉ mong sớm về giải thoát non sông kẻo chết già. Ta rời trường Vơ Bị Quốc Gia sang trường Yersin chứa chan kỷ niệm. Ngôi trường c̣n đó, buồn bă với cảnh ngộ đổi lốt thay tên. Ngôi trường tự nhiên mơ mộng, một ngày nào, học tṛ cũ về làm xôn xao dĩ văng. Hồi tưởng cho ta đôi cánh tự do bay. Một thoáng vỗ của hồi tưởng, ta đă ra công trường Ḥa B́nh của Đà Lạt mờ cao. Rồi ta lại bay qua đồi, vào thăm viện Đại Học Đà Lạt kiếm chút an ủi hiện tại hiu hắt. Và ta về, ta về cùng nắng ấm Sài g̣n. Con đ̣ đưa khách sang Thủ Thiêm. Cột cờ Thủ Ngữ khóc thầm v́ vắng bóng lá cờ vàng sọc đỏ thân yêu. Bến Bạch Đằng đó. Phố Tự Do kia. Tiếng c̣i tầu nào réo gọi chuyện viễn du. Đợt sóng nào nhắc nhở vạt hoàng hôn sông khói. ôi, Sài g̣n, một miếng Sài g̣n thôi, đă đủ ḷng ta ấm áp phương xa. Tưởng chừng hồn ta đang là đà trên Sài g̣n. Hồn ta là phố phường cũ, là dinh thự xưa. Tự nhiên, ta muốn thầm th́ với Sài g̣n: "Em, Sài g̣n ra sao? C̣n nguyên màu áo, c̣n nuôi chiêm bao, c̣n chờ đợi nhau? Em, đường thương lối nhớ, cỏ cây quá khứ, nhạc chim lời gió, nước mắt mây mưa, đă mất ǵ chưa"? Đừng, đừng mất ǵ cả, bởi v́ ta vẫn mơ một ngày về.

Hưng vong là luật chung của muôn đời. Dâu biển đă xẩy ra cho cả tư tưởng, nói chi một triều đại, một chế độ hay một chủ nghĩa. Một thi sĩ đă định nghĩa cái không bao giờ có dâu biển, không bao giờ chết:

Ai cũng chết cả rồi

Cái c̣n vĩnh viễn là người Việt Nam

Một thi sĩ khác định nghĩa thêm cái không bao giờ mất:

Me ơi, tha thiết lắm rồi

Mất ǵ không mất t́nh người Việt Nam

Người Việt Nam vĩnh viễn. T́nh Việt Nam vĩnh cửu. Đă không mất con người th́ không bao giờ mất quê hương. Và những kỷ niệm thuộc về quê hương cũng không mất. C̣n đó, Sài g̣n với Nhà Thờ Đức Bà, với Thảo Cầm Viên, với Bảo Tàng Viện, với Lăng ông Bà Chiểu. C̣n đó, Huế với bầy phượng vĩ đỏ ối mùa hè rắc rơi sắc máu trên lối Huế cổ kính, thầm lặng. C̣n đó, Huế với lăng tẩm, điện đài. C̣n đó, Huế với "dấu xưa xe ngựa" với "nền cũ lâu đài". C̣n đó, linh hồn tiền nhân bảng lảng trên lớp rêu phong, trên những thềm bậc vang bóng một thời. Hỡi tiền nhân bất hủ, có phải người không chết, người chỉ Tĩnh Tâm dưới hồ sen. Và ư nghĩa sống của người vẫn vàng thắm nhụy sen, vẫn thơm ngát hoa sen. Ta thèm rung một hồi chuông Thiên Mụ gọi về những xao xuyến Huế ở mỗi hàng cây, mỗi viên gạch, mỗi bờ tường, mỗi mái ngói, mỗi vạc đỉnh, mỗi hoa lăn của một triều đại đă khuất lấp ngậm ngùi. C̣n đó, Huế với sông Hương núi Ngự, với cầu Trường Tiền, cầu Bạch Hổ. C̣n đó, Huế với những lá đ̣ d́u nhẹ trên mặt nước b́nh yên. C̣n đó, Huế với gịng An Cựu "nắng đục mưa trong" và những con thuyền đêm đêm chở đầy trăng xuôi về Vĩ Dạ.

Sao em không về thăm thôn Vĩ

Nh́n nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá. xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió mây đường mây

Gịng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nh́n không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết t́nh ai có mặn mà

C̣n đó, Huế, c̣n nguyên đó, bờ sông với những cô nàng giặt chiếu, với những nụ cười thật đẹp, thật thơ. C̣n đó sân trường Đồng Khánh bướm trắng tung bay. C̣n đó cổng Viện Đại Học giấc mơ xanh thắm. C̣n đó, c̣n nguyên đó, khi ta về C̣n đó, Hà nội với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, với con đường Cổ Ngư thơ mộng thuở học tṛ. C̣n đó đền Quan Thánh. C̣n đó đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, hồ Gươm, tháp Rùa. C̣n đó khu Giảng Vơ Văn Miếu, chùa Một Cột. C̣n đó 36 phố phường...

C̣n quê hương Việt Nam. C̣n nguyên vẹn. Nếu ta đừng quên và đừng bao giờ đánh mất t́nh người Việt Nam, dù đi đến cuối đường oan biệt xứ. Măi măi Việt Nam. Măi măi Việt Nam...

7-1986

Duyên Anh

 

 

  1. Sài G̣n Ngày Dài Nhất

  2. Sài G̣n Ngày Dài Nhất

  3. Sài G̣n Ngày Dài Nhất

  4. Sài G̣n Ngày Dài Nhất

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Việt Thức

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

ThếGiới

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng