Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

 

BÀI NGHIÊN CỨU -THAM KHẢO

 

Nguyễn Văn Trung- Đặt lại vấn đề Truyện Kiều hay phê b́nh phê b́nh văn học

 

 

 

Khi nghe bàn về Truyện Kiều chắc có người nói: “Lại vẫn vấn đề truyện Kiều!”. Sự kiện truyện Kiều luôn luôn giữ được tính cách thời sự không những trong phạm vi văn chương, mà c̣n cả trong phạm vi văn hoá qua các thế hệ là một bằng chứng nói lên giá trị bất hủ của một tuyệt tác, một thiên tài có sức quyến rũ mănh liệt.

 

Cũng như bất cứ tác phẩm vĩ đại nào, Truyện Kiều là một khu rừng muôn ngả, một vườn hoa muôn màu cửa mở rộng; ai nấy được tự do ra vào để khai thác, thưởng thức, mỗi người đă vào đều muốn t́m ra một lối nh́n bao quát mong lĩnh hội được vẻ đẹp toàn diện của vườn hoa, nhưng khi ra về, vẻ đẹp vẫn c̣n nguyên vẹn và người du khách đến sau cũng lại mang theo tham vọng nh́n bao quát, rốt cuộc, mỗi người thật ra cũng chỉ nh́n thấy một vài khía cạnh của chân lư toàn diện, nghĩa là đă chỉ đề nghị một lối nh́n nào đó, khám phá được một vài nét mới của vẻ đẹp muôn bề đó thôi.

 

Bây giờ tôi cũng xin làm một người du khách của vườn hoa đẹp đó. Có lẽ tôi đă đến sau nhiều người, nhưng không hề ǵ, v́ truyện Kiều vẫn c̣n đó, bất diệt; hơn nữa tôi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn những người đi trước v́ có thể lợi dụng kinh nghiệm, những lối nh́n của họ để tự t́m cho ḿnh một lối nh́n. Lối nh́n riêng biệt đó dĩ nhiên không bao hàm một giá trị phổ quát, độc nhất, v́ có lẽ nó cũng chỉ là một lối nh́n trong nhiều lối nh́n khác. Không ai có quyền bắt ai phải nh́n theo lối của ḿnh v́ cửa vườn hoa mở rộng, tự do ra vào; mỗi người phải tự tạo cho ḿnh một lối nh́n tuy có thể đề nghị với người khác để hỏi ư kiến trong tinh thần trao đổi, đối thoại.

 

Từ khi Truyện Kiều ra đời, rất nhiều nhà văn học đă tham gia tranh luận, phê b́nh, góp ư kiến một cách suy nghĩ. Người khen, kẻ chê. Phái ca tụng, phái kết án hoặc về phương diện văn chương, hay luân lư triết lư.

 

Nhưng ta tự hỏi: các bậc học giả đó nhân danh cái ǵ để phê b́nh lên án hay cổ vơ Truyện Kiều? Nói cách khác, thái độ phê b́nh của các nhà văn học đó đều bao hàm một lập trường phê b́nh, một lư thuyết phê b́nh. Vậy những lập trường phê b́nh đó có ư nghĩa ǵ, và đặt trên cơ sở nào?

 

Trả lời những câu hỏi đó tức là làm công việc phân tích, nhận định về những lối nh́n đă đề nghị về Truyện Kiều đồng thời phê b́nh văn học nói chung, v́ Truyện Kiều là nơi gặp gỡ gần đầy đủ mọi lối phê b́nh văn học. Công việc nhận định đó sẽ giúp chúng ta những yếu tố xây dựng một lối nh́n mới mẻ về truyện Kiều nói riêng và văn học nói chung.

 

*

 

Chúng ta có thể xếp tất cả những người, những nhóm đă phê b́nh Truyện Kiều vào hai loại lớn:

Phê b́nh chủ quan;

Phê b́nh khách quan.

Loại phê b́nh khách quan gồm hai khuynh hướng:

Khuynh hướng phê b́nh luân lư chia thành hai phái: phái chủ trương Kiều có luân lư; phái không.

Khuynh hướng phê b́nh khoa học chia thành những phái phê b́nh giáo khoa, phê b́nh bằng xă hội học hay tâm lư học.

Chúng ta lần lượt khảo sát qua những khuynh hướng trên.

 

Phê b́nh chủ quan

 

Gồm những người như Đào Duy Anh, Hoài Thanh… (thời trước Cách mạng tháng Tám). Theo ông Đào Duy Anh: “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng Truyện Kiều không phải v́ nó có thể làm quyển sách luân lư cho đời, mà chỉ v́ trong sách ấy Nguyễn Du đă dùng những lời văn thần diệu để rung động tâm hồn ta”. Mà cái lời văn thần diệu ấy theo ông Đào “không ai là không cảm thấy. Nhưng hiểu biết cho hết cái hay ấy là một điều rất khó, mà giải thích cho ra hết cái tinh vi uẩn khúc ấy là điều khó nữa”.

 

Hoài Thanh cũng đồng ư với ông Đào Duy Anh, nhận định: “Chất thơ bàng bạc trong truyện cần phải được cảm thấy một cách hồn nhiên. Cứ phân tích, giảng giải nó sẽ tan đi. Đến đây phải im hơi, phải nhẹ bước mới ḥng nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng thùy mị, khi tráng lệ huy hoàng”.

 

Tôi gọi khuynh hướng Đào Duy Anh, Hoài Thanh là chủ quan v́ mục đích của phê b́nh văn học không phải là đi vào tác phẩm t́m hiểu ư nghĩa, giá trị khách quan của nó, nhưng là ghi lấy những phản ứng chủ quan của người đọc với tác phẩm. Ư hướng nhận định không phải để đạt tới cái chủ quan của người khác, nhưng là đạt tới cái chủ quan của ḿnh nhờ cái chủ quan của người khác. Nói khác đi, người phê b́nh đi t́m ḿnh trong tác phẩm của người khác và giá trị tác phẩm là ở chỗ gặp gỡ giữa tác phẩm và chủ quan của ḿnh như Anatole France đă nói: “Nhà phê b́nh giỏi là người kể lể những cuộc phiêu lưu của ḷng ḿnh qua các tuyệt phẩm” (Le bon critique est ce qui raconte les aventures de son âme ân sủng milieu des chefs-d’neuvre).

 

Hoài Thanh đă không muốn cắt nghĩa Truyện Kiều, v́ Truyện Kiều không phải cuốn truyện đă được xây dựng để có thể cắt nghĩa được bằng những lư do này, lư do kia, nhưng để tạo nên nơi người đọc một cảm giác khoái lạc về tinh thần hay nghệ thuật. Cắt nghĩa một tác phẩm tức là tiêu diệt cái cốt yếu: vẻ hồn nhiên, say sưa, dịu dàng của tác phẩm.

 

Như thế, phê b́nh chủ quan bao hàm một thái độ hưởng thụ, thưởng ngoạn có tính cách tư riêng cá nhân. Do đó không c̣n phải là phê b́nh v́ chủ đích của người phê b́nh là chỉ muốn nói về ḿnh thôi.

 

Nhưng người phê b́nh chủ quan cũng nói: tác phẩm này hay, tác phẩm kia dở. Nghĩa là không tránh được căn cứ vào một nguyên tắc phê b́nh để xác định giá trị một tác phẩm. Nguyên tắc đó là: một tác phẩm hay khi nó tạo được một rung cảm, một khoái lạc nghệ thuật. Nhưng đă rơ nguyên tắc đó hoàn toàn chủ quan, v́ sự rung cảm nghệ thuật chỉ lệ thuộc vào mỗi chủ quan. Như thế không có một nền tảng khách quan để phê b́nh, v́ mỗi người tự đặt nguyên tắc cho ḿnh, có những sở thích, năng khiếu riêng, v́ có bao nhiêu người th́ có bao nhiêu lối hưởng thụ, gặp gỡ với tác phẩm.

 

Lối phê b́nh chủ quan không phải là một phê b́nh theo nghĩa thông thường của nó v́ một đằng người phê b́nh lấy chủ quan của ḿnh làm nguyên tắc và cứu cánh phê b́nh, do đó sự phê b́nh chỉ có giá trị với chính ḿnh, đằng khác sự phê b́nh đó không thể diễn tả được nhưng phải dùng trực giác mà lănh hội tác phẩm để thưởng thức, hưởng thụ bên trong thôi.

 

Phê b́nh khách quan

 

Tôi gọi là phê b́nh khách quan những khuynh hướng không lấy cái chủ quan tư riêng làm nguyên tắc và cứu cánh phê b́nh nhưng căn cứ vào những thực tại khách quan như Luân lư, Xă hội, Tâm lư để phê b́nh Truyện Kiều.

 

I. Trước hết là khuynh hướng phê b́nh luân lư

 

Ở đây hai phái chủ trương đối lập nhau. Phái khen Truyện Kiều có luân lư gồm những người như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Vũ Đ́nh Long… Theo họ, Kiều là một gương mẫu điển h́nh của luân lư đặt cơ sở trên những nhân, nghĩa, trí, tín, đáng được kính trọng, thương mến. Phái chê Truyện Kiều là vô luân lư gồm những nhà Nho nghiêm khắc như Ngô Đức kế, Huỳnh Thúc Kháng. Theo các cụ Nho “văn dĩ tải đạo”, nói cách khác, văn chương phục vụ luân lư. Vậy chỉ có một văn chương là Tứ thư Ngũ kinh hay tất cả những ǵ có tính chất Tứ thư Ngũ kinh, c̣n tiểu thuyết, thơ, không phải là văn chương và chỉ là một loại tiêu khiển phù phiếm, trống rỗng, không giá trị.

 

Trong viễn tượng đó, ông Ngô Đức Kế lên án Truyện Kiều là “ai dâm sầu oán đạo dục tăng bi”, ông Huỳnh Thúc Kháng: “Là một chuyện phong t́nh hối dâm không dùng làm sách dạy, gieo các nọc gió trăng hoa liễu trong các thiếu niên nam nữ ta”.

 

Nhưng chúng ta có thể hỏi: người nói Truyện Kiều có hay không có luân lư, nhân danh cái ǵ mà quả quyết như vậy? Căn cứ vào thứ luân lư nào để lên án hay ca tụng Truyện Kiều? Dĩ nhiên ở đây là luân lư Nho giáo. Nhưng luân lư Nho giáo có phải là luân lư phổ quát, độc nhất hay chỉ là một quan niệm về luân lư trong muôn vàn quan niệm khác? Đặt những câu hỏi đó, ta thấy những phán đoán luân lư thường bao hàm một tham vọng coi luân lư của ḿnh là luân lư nghĩa là tượng trưng cho luân lư phổ quát tuyệt đối. Nhưng đă rơ luân lư Nho giáo cũng chỉ là một quan niệm luân lư. Có thể nhiều điểm của quan niệm Nho giáo phản ảnh một giá trị phổ quát, nhưng cái ǵ trong Nho giáo là phổ quát, cái ǵ không? Lầm lẫn Nho giáo cũng như nhiều hệ thống luân lư khác đều có một nội dung phức tạp gồm những nguyên tắc trừu tượng, cả những lễ nghi, phong tục, tập quán, tất cả thành một tổng hợp, một thế giới riêng biệt.

 

Vậy khi người ta phán đoán; hành động này có hay không có luân lư, chúng ta có quyền hỏi: Anh nhân danh luân lư ǵ để phán đoán như thế? Ví dụ: Hành động đó là vô luân lư, bất hiếu v.v… Ta có thể hoài nghi giá trị của câu phán đoán đó, v́ rất có thể thái độ vô luân lư kia chỉ vô luân lư với một thứ luân lư nào đó, và chưa chắc đă là vô luân lư với luân lư khách quan, phổ quát tuyệt đối. Hơn nữa nhiều khi chính thái độ vô luân lư đó lại là một cách biểu lộ và tôn trọng luân lư đích thực; v́ rất có thể cái luân lư người ta đưa ra để kết án không phải là luân lư phổ quát đích thực, nhưng chỉ là những quy ước, tập quán, luật lệ, h́nh thức, đôi khi thiển cận, chật hẹp, lỗi thời. Vô luân lư ở đây nghĩa là không tôn trọng những luật lệ, tập quán đó. Nhưng như người ta thường nói: Luân lư đích thực bất chấp luân lư (la vraie morale se moque de la morale) nghĩa là đôi khi hành động bị gán là vô luân lư, bất kính v.v… không nhằm đả phá tinh thần luân lư như một thứ tục lệ, luân lư h́nh thức giả tạo nào đó; do đó sự vô luân lư, bất kính là một cách biểu lộ tôn trọng luân lư đích thực. Như nhà văn hào Jacob đă nói: “Nền luân lư cao nhất là một luân lư bắt đầu bằng sự bất kính hoàn toàn” (La moralité la plus haute est celle qui a pour point để départ un irrespect universel). Cũng như về tôn giáo, người có tinh thần tôn giáo đích thực gớm ghét tất cả những người đội lốt tôn giáo chỉ giữ cái đạo bề ngoài, vụ lợi, thiển cận; cho nên người thánh, như Jacques Maritain nói, là một người vô thần hoàn toàn (le saint est un athée intégral) vô thần theo nghĩa chống lại mọi h́nh thức xuyên tạc tôn giáo như một tinh thần để tỏ ḷng tôn trọng tôn giáo đích thực.

 

Vậy nếu chúng ta có quyền có những luân lư khác luân lư Nho giáo tất nhiên những phê b́nh đứng ở lập trường Nho giáo chỉ có giá trị tương đối, với những người chấp nhận luân lư đó. Trong một thế giới loài người có nhiều quan niệm khác nhau về luân lư (Phật giáo, Công giáo, Nhân bản vô thần, v.v…) và không ai đồng ư với ai về nền tảng sau cùng đời người (v́ luân lư cuối cùng phải đặt trên một siêu h́nh học, nghĩa là một quan niệm về cuộc đời và đời người), quả quyết luân lư, tôn giáo của ḿnh là tuyệt đối, độc nhất có lẽ sẽ gây nên những phản ứng khó chịu. Chúng ta không c̣n sống trong vũ trụ quan Nho giáo, thời đại mà luân lư, triết lư Nho giáo xuất hiện như một luân lư, một triết lư độc tôn, duy nhất như đạo Công giáo thời Trung cổ bên Âu châu, nhưng trong một thế giới tự do được chấp nhận nhiều triết lư, tôn giáo kỹ nghệ hoá. Sự kiện đó làm cho chúng ta thận trọng dè dặt khi phê b́nh v́ bất cứ một phán đoán nào cũng đều đặt trên một cơ sở lư thuyết (luân lư và triết lư) và ta không được quyền trước mặt người khác, quyết đoán và bó buộc công nhận lập trường của ta như là chân lư tuyệt đối. Cần nhấn mạnh rằng tôi không có ư phê b́nh Nho giáo hay từ chối có một luân lư phổ quát, nhưng tôi chỉ muốn nói: có một luân lư phổ quát nhưng rất khó xác định; nên có nhiều quan niệm khác nhau về luân lư phổ quát đó, như vậy khi phê b́nh rất khó xác định xem lời phê b́nh có phản ảnh luân lư đích thực, phổ quát hay chỉ phản ảnh một quan niệm về luân lư phổ quát, và do đó rất khó nói một hành động này là có luân lư hay vô luân lư.

 

Chúng ta c̣n không thể phê phán một hành động là có hay không có luân lư, một cách chính xác, tuyệt đối khi nghiên cứu hành động đó như thể hiện một thái độ trước một hoàn cảnh nhận định.

 

Thế nào là một hành động vô luân lư? Hành động là vô luân lư khi trái với những nguyên tắc của luân lư – ví dụ ăn trộm là trái luân lư. Nhưng định nghĩa như thế là chỉ nh́n vấn đề trong phạm vi lư thuyết, tổng quát; và ở trong phạm vi lư thuyết, chân lư đơn giản quá: ai chả công nhận ăn trộm là trái luân lư. Nhưng nếu phải xác định giá trị luân lư của một hành động (ăn trộm) trong một hoàn cảnh nhất định, vấn đề sẽ trở nên phức tạp. Tại sao tôi ăn trộm, v́ bị bóc lột, túng thiếu, thất nghiệp? Tại sao có thất nghiệp? Hoàn cảnh sinh sống của tôi thế nào? Gia đ́nh, xă hội có trách nhiệm trong hoàn cảnh đó không? Bất cứ hành động luân lư nào cũng bao hàm một ư thức và tự do. Tôi có khả năng nhận định dúng được ư nghĩa điều ḿnh làm, tôi có tự do lựa chọn và chấp nhận hay bị bó buộc lựa chọn? Trong những trường hợp nhất định (hic et nune) trong hoàn cảnh này, trong hoàn cảnh kia, con người hành động đôi khi không thấy rơ con đường đi tới, và hành động theo nhận thức bấp bênh có thể đúng có thể sai đó. Trong đời sống thật sự; trước những trường hợp cụ thể, luân lư phải trái không xuất hiện rơ ràng như ban ngày ban đêm, nhưng như tranh tối tranh sáng, phức tạp, nghi vấn (problématique). Kiều bán ḿnh chuộc cha, hy sinh chữ t́nh, bảo vệ chữ hiếu. Nhưng đó có phải là con đường duy nhất? Bảo vệ chữ Hiếu có lư; nhưng bảo vệ chữ t́nh cũng không phải là vô lư. Cho nên trong đời sống, chân lư không đơn giản nhưng phức tạp, có cái có lư trong cái vô lư và cái vô lư trong cái có lư.

 

Sự nhận định đă không thể chính xác một cách tuyệt đối, sự thực hiện bằng hành động cũng chỉ có tính cách một ván bài, một cuộc phiêu lưu, một dấn thân liều ḿnh, nghĩa là trong cái không vững chắc, cái có thể đúng, có thể sai; cái có thể thất bại, có thể thành công.

 

Trong thực tế, con người phải luôn luôn đi t́m một con đường chỉ dẫn bằng lần ṃ như trong đêm tối, và có thể sa ngă, nhầm lẫn, thất bại. Đó là thân phận con người, không có ǵ là sẵn đấy, rơ ràng, chắc chắn. Mọi sự phải đi t́m, tạo ra, khám phá ra. Đời là một phiêu lưu pha trộn may rủi, t́nh cờ, cái tốt cái xấu, mà mỗi lúc con người phải lựa chọn trong lo lắng, băn khoăn với những khả năng của ḿnh và theo những điều kiện bên ngoài. Người ta trách Kiều là gái điếm v́ đă lăn lộn trong các thanh lâu, lấy hết người này đến người kia: nh́n một cách trừu tượng, sự bất trung, dâm đăng là một điều xấu, vô luân lư. Nhưng Kiều có hoàn toàn trách nhiệm những hành động ấy không? Dĩ nhiên có thể nói Kiều trách nhiệm những hành động ấy v́ đă chấp nhận cuộc phiêu lưu khi bằng ḷng bán ḿnh. Nhưng tại sao Kiều phải bán ḿnh? Tại sao có bất công, oan trái, tại sao có những thanh lâu, những gian ác, ích kỷ? Nói cách khác, tại sao có những hoàn cảnh xấu trong đó con người phải quyết định lựa chọn? Ai gây ra những hoàn cảnh đó? Nếu cuộc đời là định mệnh, con người sẽ là tṛ chơi của số mệnh và không ai phải chịu trách nhiệm, v́ đă không có tự do hành động. Vậy cuộc đời do con người tạo ra và có cái tốt cái xấu pha trộn. Cuộc đời đó mọi người chịu trách nhiệm, không ai hoàn toàn vô tội, nhưng cũng không ai hoàn toàn có tội v́ một hành động dù tư riêng cũng một phần do những yếu tố bên ngoài gây nên đồng thời do chính người đó quyết định lựa chọn; cho nên ta trách nhiệm hành động của ta, và người khác cũng trách nhiệm hành động đó như ta trách nhiệm một phần hành động của họ. Mọi người liên đới nhau cùng hành động và tạo ra cuộc đời xấu tốt. Cuối cùng không ai hoàn toàn oan nhưng cũng không hoàn toàn có tội: như Karl Jaspers nói “Tội lỗi ở ngay tại sự chấp nhận hiện hữu, nghĩa là khởi điểm, nguồn gốc cuộc đời”. Khi ta vào đời, chấp nhận cuộc đời là như mang trong ḿnh t́nh cảm có tội rồi.

 

Những phân tích trên đưa ta đến hai nhận xét này:

 

1. Không thể phê b́nh thái độ nhất định là có hay không có luân lư bằng cách trừu tượng hoá con người toàn diện và hơn nữa trừu tượng hoá con người đó ở trong hoàn cảnh đời. Khi ông Huỳnh Thúc Kháng, ông Ngô Đức Kế phê b́nh Kiều là người dâm ô, hai ông đă không nh́n hành động của Kiều như một hành động trong một hoàn cảnh và chỉ nh́n nó một cách trừu tượng như tội dâm ô nói chung.

 

2. Không thể phê b́nh một thái độ sống thật đứng ở lập trường luân lư phổ quát trên quan điểm của một người “có bàn tay sạch” không bao giờ sai lầm, có tội, nghĩa là trên quan điểm Thượng Đế; v́ như trên đă nói, không ai hoàn toàn vô tội: con người thiết yếu liên đới nhau. Vậy thái độ nguời và người chỉ có thể là thái độ của kẻ có tội với người có tội, không thể là thái độ của người không bao giờ có tội với người có tội. Như thế chỉ Thượng Đế (nếu tầng trời tin có) mới có quyền lên án người ta. Thái độ kết án luân lư, nơi con người bao hàm một tự phụ ḿnh trong sạch, nghĩa là một giả h́nh [3] .

 

Do đó phê b́nh một hành động, một tác phẩm trên phương diện luân lư là một điều rất khó và nguy hiểm v́ ta không nắm được đầy đủ những yếu tố phức tạp quyết định hành động, thái độ đó. Nhận định đó đ̣i hỏi chúng ta một tinh thần thận trọng đến nỗi không c̣n dám lên án phê b́nh nhưng chỉ muốn t́m hiểu và thông cảm. Phúc âm có nói “không nên xét đoán v́ sẽ bị xét đoán”. Tâm lư học và siêu h́nh học hiện đại đă chứng minh chân lư đó: nghĩa là những yếu tố cấu tạo một hành động phức tạp, ẩn kín người ngoài không thể lĩnh hội được và do đó sự phán đoán chỉ có thể là sai lầm.

 

II. Khuynh hướng phê b́nh khoa học

 

Ông Nguyễn Bách Khoa trong hai cuốn khảo luận về Truyện Kiều đă tŕnh bày một quan điểm phê b́nh mệnh danh là khoa học. Ta có thể tóm lược quan điểm đó như sau: muốn hiểu một tác phẩm, phải hiểu tác giả, và muốn hiểu tác giả, phải hiểu hoàn cảnh lịch sử của tác giả. Văn chương là sản phẩm của con người; nhưng con người không phải một cá nhân trừu tượng, độc lập, nhưng là “những ảnh hưởng xă hội kết tinh lại” nghĩa là con người thuộc về một giai cấp xă hội và xung đột với những giai cấp khác. Ư thức cá nhân phản ảnh ư thức giai cấp và ư thức giai cấp phản ảnh những xung đột giữa các giai cấp trong xă hội. Văn chương bộc lộ ư thức hệ của một giai cấp.

 

Vậy muốn hiểu tác phẩm, phê b́nh văn học có nhiệm vụ:

Khảo sát ḍng họ, huyết thống tác giả, nghĩa là ảnh hưởng gia đ́nh, thị tộc nơi tác giả đó sinh trưởng, hành động.

 

Khảo sát tâm lư, nguyện vọng, vai tṛ lịch sử của giai cấp tác giả.

 

Khảo sát những ảnh hưởng do những cuộc xung đột giữa giai cấp tác giả với các giai cấp khác nơi tác giả.

Theo quan niệm khoa học đó, Truyện Kiều là một sản phẩm của con người Nguyễn Du và Nguyễn Du là sản phẩm của một thời đại. Thời đại Nguyễn Du là một thời đại suy tàn, giai cấp của Nguyễn Du là giai cấp đang suy tàn, thất bại, nên con người Nguyễn Du cũng chỉ có thể là con người suy tàn và do đó văn chương Truyện Kiều cũng phản ảnh một cái ǵ tàn tạ, sầu oán, chiến bại…

 

Tại sao gọi quan niệm trên là một quan niệm phê b́nh khoa học? Là v́ tham vọng muốn áp dụng phương pháp thực nghiệm dùng trong khoa học vật lư vào trong phạm vi văn chương. Nhưng vấn đề là ta có được phép áp dụng phương pháp khoa học vào những phạm vi không c̣n đối tượng nghiên cứu là vật chất thuần tuư không? Chúng ta biết rằng đối tượng của khoa học là sự vật, vật chất; nhà khoa học quan sát sự vật, đặt giả thuyết, thí nghiệm và chứng nghiệm, xây định luật khoa học. Nền tảng giá trị khoa học là tất định thuyết (déterminisme) nghĩa là mối tương quan thiết yếu giữa hai sự kiện (nếu có đủ điều kiện ở A tất nhiên có B. Ví dụ nếu có kim khí, nhiệt độ đủ, áp lực đủ, tất nhiên hiện tượng co giăn sẽ xảy ra). Nhà khoa học cắt nghĩa hiện tượng co giăn bằng những điều kiện, nguyên nhân của nó. Nhưng trong phạm vi văn chương nghệ thuật, một tác phẩm, một bản nhạc, một bức hoạ không c̣n phải là một sự vật thuần tuư nữa; v́ nó chứa đựng một linh hồn, một t́nh cảm, một nỗi niềm, một ư nghĩa, nghĩa là những cái không thể giản lược vào vật chất được.

 

Vậy muốn lĩnh hội một sự kiện nghệ thuật, không thể đứng ở quan điểm khoa học được. V́ thái độ khoa học là nhằm cắt nghĩa sự vật mà cắt nghĩa (expliquer), tức là giản lược điều cắt nghĩa vào cái khác nó (nhà khoa học cắt nghĩa sự kiện co giăn bằng cách tŕnh bày những sự kiện khác cấu tạo nó, đồng thời những sự kiện khác nó cắt nghĩa đầy đủ sự kiện co giăn).

 

Nhà phê b́nh khoa học cũng cắt nghĩa một tác phẩm văn chương bằng sự kiện khác nó, như bằng những yếu tố tâm lư, kinh tế, xă hội và cho rằng tác phẩm hoàn toàn chỉ là những yếu tố đó.

 

Nhưng nếu như vậy, không c̣n văn chương nữa. Cái nhầm của thái độ khoa học áp dụng trong lĩnh vực văn chương là đă không coi văn chương có một cứu cánh tự tại, tương đối biệt lập, nhưng chỉ là phản ảnh của một thực tại khác nó.

 

Vậy đă không lĩnh hội được một tác phẩm với tư cách là một tác phẩm văn nghệ.

 

Khi ta nghe một bản nhạc, nếu nghe với thái độ của nhà khoa học ta chỉ lănh hội được một tổng số âm thanh lần lượt phát hiện, mà không tiếp nhận được ư nghĩa bản nhạc đó, nghĩa là bản nhạc không c̣n phải là bản nhạc có một cơ cấu riêng, một ư nghĩa, một t́nh cảm nữa.

 

Do đó, muốn lĩnh hội một tác phẩm nghệ thuật, phải có thái độ nghệ thuật. Tôi ngắm một bức hoạ, dĩ nhiên bức hoạ đó phải có một cơ cấu riêng xác định nó là bức hoạ không phải cái bảng đen, quyển sách. Nhưng đồng thời tôi cũng phải có thái độ muốn lĩnh hội bức hoạ đó như một bức hoạ. Nếu khi nh́n bức hoạ, tôi chỉ để ư quan sát kích thước, chiều bề hay xem bức hoạ làm bằng những chất ǵ, lúc đó bức hoạ xuất hiện với tôi là một nhà toán học hay vật lư học, như một sự vật gồm những đường có thể đo lường hay một đối tượng vật lư gồm những chất nọ chất kia có thể phân tích được, và bức hoạ đă biến mất, nghĩa là đă mất cái ư nghĩa là một bức hoạ. Do đó sự vật xuất hiện trước ư hướng lĩnh hội của ta thế nào (se dévoile) là tùy theo thái độ của ta lúc đó. Ta xác định một thái độ trước sự vật và sự vật xuất hiện với ta theo thái độ đó.

 

Vậy nếu ư hướng lĩnh hội của ta khi nghiên cứu một tác phẩm văn chương, như Truyện Kiều chẳng hạn là một ư hướng khoa học, muốn cắt nghĩa bằng những yếu tố kinh tế, lịch sử, xă hội v.v… Truyện Kiều không c̣n xuất hiện (se dévoile) như một tác phẩm văn chương nữa, nhưng là một tổng hợp những yếu tố xă hội, kinh tế, lịch sử của một thời đại.

 

Như thế, muốn lĩnh hội Truyện Kiều nói riêng hay một tác phẩm văn nghệ nói chung, phải nh́n với con mắt văn nghệ, nghĩa là vào trong tác phẩm, t́m khai triển ư nghĩa của ư hướng văn nghệ sơ thủy của tác giả.

 

Nhưng ư hướng văn nghệ sơ thủy đó phát sinh từ những hoàn cảnh lịch sử, xă hội nhất định và bộc lộ bằng những phương tiện diễn tả của thời đại. Nói cách khác, không thể quan niệm một văn chương ở ngoài khía cạnh văn hoá, xă hội của nó. Ta không thể hiểu được một văn chương đồng ruộng ở giữa đời sống thị thành ồn ào. Người nghệ sĩ sáng tác bằng những tài liệu và với những phương tiện do hoàn cảnh chung quanh cung cấp cho. Nhưng không thể nói văn chương đồng ruộng là một sản phẩm của kinh tế nông nghiệp hay truyện Kiều là sản phẩm của giải đáp quan lại thoái trào suy tàn, v́ nếu hoàn cảnh tạo nên tác phẩm một cách tất yếu như trong lược đồ nhân quả khoa học (điều kiện nhiệt độ áp lực tạo nên hiện tượng co giăn) tại sao chỉ có Truyện Kiều của Nguyễn Du văn sĩ, trong bao nhiêu Nguyễn Du quan lại thoái trào khác? Việt Nam phản ảnh một phần nào hoàn cảnh v́ con người văn nghệ cũng là người ở đời với người khác trong một thời đại, nhưng hoàn cảnh chỉ là chất liệu mà nhà văn nghệ là người thợ sử dụng để xây dựng một cái ǵ. Vậy chất liệu chỉ là điều kiện cần thiết không phải điều kiện đầy đủ; v́ cái cốt yếu trong công tŕnh xây dựng một tác phẩm nghệ thuật là nhờ ở ư hướng tác tạo tự do của con người văn nghệ. Đặt vấn đề như thế, chúng ta thấy ngay ư nghĩa và giới hạn của mọi khuynh hướng khoa học hoặc nhuộm màu mác-xít hay chỉ có tính cách giáo khoa. Nhà phê b́nh khoa học sẽ khảo sát nguồn gốc, xuất xứ tác phẩm, nghiên cứu ảnh hưởng đời sống gia đ́nh, hoàn cảnh xă hội của thời đại với tác phẩm về phạm vi tư tưởng hay phạm vi nghệ thuật; khảo sát những kỹ thuật sáng tác hành văn nhằm mục đích phân loại, khuynh hướng, môn phái theo văn học sử. Nhưng những công việc đó mới dừng lại ở bên ngoài tác phẩm, chưa đi vào chính cơ cấu, ư nghĩa sâu xa, nguyên ủy của tác phẩm. Khai thác những ư nghĩa đó vượt phạm vi cắt nghĩa khoa học.

 

Nhưng thế nào là ư hướng của một tác phẩm văn chương? Ư hướng văn chương biểu lộ một cách thế ở đời (manière d’être au monde) của tác giả trong một tương quan thiết yếu với người khác. Như vậy, bất cứ tác phẩm nào cũng bao hàm một lối nh́n về cuộc đời và đời người, cũng gói ghém kín đáo những nỗi niềm tin tưởng sâu xa của tác giả. Những nỗi niềm tin tưởng đó biến thành những “đề tài ưu đăi” (thèmes privilégiés) là một tự thú của tác giả; một tự thú giăi bày cuộc phiêu lưu một đời người và ư hướng chỉ đạo bao hàm một thái độ trước thân phận con người nh́n trong viễn tượng toàn diện của nó.

 

Vậy nhiệm vụ của phê b́nh là khai triển, bày tỏ cái ẩn kín, bao hàm trong tác phẩm một cách khách quan, nghĩa là người phê b́nh phải tự xoá đi để hoà ḿnh với ư hướng sáng tác của tác giả, mong lănh hội được đúng ư nghĩa tác giả muốn nói, không phải bắt tác phẩm theo ư riêng của ḿnh.

 

Phê b́nh khoa học của Nguyễn Bách Khoa và nhiều người khác… có tính cách vơ đoán v́ đă có sẵn một hệ thống, một quan niệm về cuộc đời trước khi phê b́nh và phê b́nh tác giả theo hệ thống, quan niệm của ḿnh; hễ điểm nào trong tác phẩm hợp với hệ thống của ḿnh là có giá trị và không hợp, hay thiếu sót là không có giá trị.

 

Vậy một phê b́nh văn học vượt phê b́nh khoa học có nhiệm vụ bày tỏ lời gửi của tác giả (message) cho độc giả, ư nghĩa sự tra hỏi về cuộc đời của tác giả trong tác phẩm. Nhưng phê b́nh đó căn cứ vào đâu để xác định giá trị một tác phẩm, một lời gửi, một tra hỏi về cuộc đời của tác giả? Phê b́nh ư nghĩa hay phê b́nh triết lư này đưa đến một phê b́nh phê b́nh văn học, nghĩa là những nguyên tắc căn bản xác định giá trị lời gửi và cách biểu diễn lời gửi đó. Phê b́nh phê b́nh văn học đó gồm một phân tích thực chất của ư hướng văn nghệ, gồm một thẩm mỹ học xác định ư nghĩa và vai tṛ của những văn ảnh, những chữ và những quá tŕnh phối hợp của những văn ảnh trở thành những chữ, những chữ thành những cơ cấu, h́nh thức đặc biệt theo những định luật nhất định.

 

Như thế, có thể xác định giá trị của một tác phẩm, về h́nh thức, ở chỗ tác phẩm đó biết sử dụng khéo léo những quy ước của thẩm mỹ học và về nội dung ở tính cách “chân thật” (authenticité) lời gửi của tác giả là một “chứng nhân” trong mọi hoàn cảnh.

 

Một tác phẩm đạt tới đích khi nó tạo được một rung cảm nghệ thuật (joie esthétique) và giá trị thẩm mỹ và tính cách chân thật lời gửi chứa đựng trong tác phẩm.

 

Tác phẩm là một tiếng gọi và nó thành công khi được đáp lại, nghĩa là khi gây được một thông cảm nơi người tiếp nhận nó.

 

*

 

Tôi thiết tưởng rằng Truyện Kiều đă đạt tới mục đích đó, nghĩa là đă xứng đáng là một tác phẩm văn chương và hơn nữa là một tuyệt tác v́ hai điểm:

 

1. Nguyễn Du đă đề nghị một lối nh́n về cuộc đời như một phiêu lưu của một tự do, luôn luôn phải nhận định một hướng đi trong cái phức tạp, mơ hồ của hoàn cảnh, không biết đâu là con đường sáng, đâu là con đường bế tắc và luôn luôn phải lựa chọn trong lo lắng, xao xuyến, trước cái bấp bênh may rủi của tương lai, của t́nh cờ… Cuộc đời trong Truyện Kiều không phải là an nghỉ, thanh b́nh, thân ái, trật tự kinh hoàng nh́n nó trên lư thuyết, luân lư của nhà triết học hay nhà luân lư nhưng là một thân phận, một cái kiếp con người, long đong ba ch́m bảy nổi, không có ǵ là vững chắc, lâu dài, nhưng éo le, dễ vỡ, phức tạp, gian khổ… Truyện Kiều đă có một khả năng truyền cảm mănh liệt v́ nó động đến những khía cạnh sâu xa, bi đát của hiện hữu, của con người nhập thể và thiết thực trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta thích Truyện Kiều v́ ai cũng bắt gặp ḿnh ít nhiều trong cuộc phiêu lưu của Kiều, nghĩa là trong thân phận làm người có những lúc lo lắng, băn khoăn trước một tương lai mờ mịt; có những chán nản, uất ức trước những cái vô lư cuộc đời, có những lúc tin tưởng hy vọng muốn bám víu lấy cuộc sống v́ tha thiết tuy đôi khi chỉ là những tia hy vọng mỏng manh, hay là ảo vọng.

 

2. Nguyễn Du đă thành công trong việc sử dụng những kỹ thuật diễn tả cuộc đời như là một phiêu lưu của con người tự do đó.

 

Về nội dung, Nguyễn Du đă nói lên được những khía cạnh sâu xa phổ biến nhất của thân phận con người trong trần gian. Một tác phẩm càng phổ biến trường tồn bất hủ, nếu càng đạt được cái phổ quát. Qua truyện Kiều, chúng ta đă t́m thấy những nét điển h́nh nhất của con người định nghĩa như một dự phóng (un projet), một tự do.

 

Nhưng Nguyễn Du c̣n biết diễn tả những cái phổ biến đó bằng những phương tiện thông cảm phổ biến nhất, là những văn ảnh b́nh dân chữ nôm tầm thường. Những truyện của Tự lực Văn đoàn đă gây một thông cảm lớn lao, nhưng đều có tính cách hoàn cảnh, thời đại rơ rệt. Cốt truyện dựng trong một xă hội nhất định, phản ảnh những vấn đề, thắc mắc của thời đại và dùng những kỹ thuật riêng của xă hội, thời đại đó. Ngày nay, không c̣n những ông Án, bà Phán, cũng không c̣n những lối sống của xă hội phong kiến pha trộn trưởng giả Âu châu và con người thế hệ này đă thấy ḿnh ở ngoài một phần nào những h́nh ảnh dĩ văng đó.

 

Trái lại Truyện Kiều vẫn rất “thời sự”, rất gần chúng ta, rất gần mọi lớp người, mọi thời đại, v́ nó đă bày tỏ những cái chung của thân phận con người bằng những phương tiện chung của dân tộc; của mọi giai cấp xă hội. Trong đời sống, không có cái ǵ là tầm thường, tẻ nhật; một lá cỏ, một ánh nắng, một cử chỉ bắt tay, tất cả đều có thể chứa một nỗi niềm say sưa hay chỉ là những cái vô hồn, máy móc. T́nh yêu làm cho chúng sống động, và nghệ thuật là ở chỗ thực hiện được cái sống động đó lên.

 

Nguyễn Du đă thành công trong việc đó. Thơ của Nguyễn Du như những bức hoạ có sức thực hiện ngay lên một khung cảnh sống và gieo vào khung cảnh sống đó một t́nh yêu, một niềm tin, hay một chua xót, thương tâm… bằng những h́nh ảnh, danh từ quen thuộc tầm thường ai cũng hiểu và lĩnh hội, đồng thời ai cũng có thể rung cảm được. Mỗi chữ đều chứa một nội dung t́nh cảm tâm lư; khi gợi lên, toàn thể nội dung đó cũng xuất hiện theo. V́ nếu chữ đó với ta là xa lạ, tất nhiên không gợi lên được nội dung t́nh cảm kia và do đó, năng lực truyền cảm của nó sẽ nghèo nàn, nhỏ bé (ví dụ những chữ, kiểu nói chỉ thông dụng trong một vùng, một giới).

 

Theo thiển ư, tôi thiết nghĩ đó là hai đặc điểm xác định giá trị Truyện Kiều là một tuyệt tác; Truyện Kiều không phải là một tác phẩm triết lư hay luân lư; có triết lư luân lư trong Truyện Kiều, nhưng đó là những thái độ, hành động không phải dưới h́nh thức một hệ thống để chứng minh cái ǵ; Nguyễn Du viết Truyện Kiều không có ư chứng minh một tư tưởng, v́ nếu có ư chứng minh, tại sao có những mâu thuẫn trong hành động của Kiều? Một quan niệm vẫn được công nhận là coi Truyện Kiều như một chứng minh thuyết định mệnh. Nhưng gần đây ông Nguyên Sa trong Sáng tạo số tháng 12/1957 đă chủ trương trái lại (Nguyễn Du trên những nẻo đường tự do) đưa ra những lập luận vững chắc chứng minh Kiều luôn luôn hành động như một tự do quyết định và lựa chọn, và nếu có định mệnh th́ chính Kiều đă chọn định mệnh: Tự do của Kiều đă đẻ ra định mệnh v́ nếu nàng không tự ư bán ḿnh chuộc cha, c̣n đâu là định mệnh.

 

Nếu xă hội Truyện Kiều là một chứng minh định mệnh, nghĩa là Kiều và tất cả những nhân vật khác chỉ là lá bài, tṛ chơi của số mệnh, không ai trách nhiệm v́ không có tự do hành động; tại sao có đền ơn báo oán, v́ những Tú bà, Hoạn Thư, Mă Giám Sinh chỉ làm những việc mà định mệnh bắt phải làm, th́ có tội ǵ? Nếu số Kiều đă phải khổ, th́ không có Tú bà này đă có Tú bà khác, tại sao lại báo oán, phạt những người sinh ra để thi hành bản án của sổ đoạn trường? Tại sao Kiều đă không lấy Kim Trọng lúc tái ngộ nếu nàng chỉ là nạn nhân của định mệnh, tại sao nàng có thể từ chối mọi thúc đẩy của số mệnh? V́ nàng đă hành động tự do, nên đă không chấp nhận đề nghị “kết tóc xe tơ” cùng Kim Trọng. Nếu chấp nhận là phủ nhận mọi hy sinh có suy tính cẩn thận trước đây của nàng, và bằng ḷng làm quân cờ của định mệnh.

 

Vậy Truyện Kiều chỉ có thể là bài thơ, cuốn truyện thuật lại cuộc đời phiêu lưu của một tự do băn khoăn lo lắng, lựa chọn trước những hoàn cảnh cuộc đời pha trộn may rủi, tốt xấu.

 

Nếu có định mệnh đi nữa, nhưng con người ư thức được sự định mệnh đó và sự ư thức đó bộc lộ con người có tự do; v́ con người vừa ở trong cái tất yếu, vừa không phải là tất yếu mới ư thức tất yếu, định mệnh; nếu con người chỉ là định mệnh, đồng hoá hoàn toàn với định mệnh như vật giới, làm sao con người biết được định mệnh? Cái khả năng biết được đó ta gọi là tự do. Rất có thể Nguyễn Du không ư thức được rơ rệt về tự do như thế, nhưng thái độ của Cụ, thái độ của Kiều luôn luôn biểu lộ những thắc mắc, lo lắng và những phản kháng, những lựa chọn bao hàm con người Nguyễn Du, nàng Kiều là những Tự do.

 

Đọc Truyện Kiều, ta không thấy không khí đạo đức của một Lục Vân Tiên hay Hoa Tiên. Sự kiện đó có nghĩa là Nguyễn Du đă không muốn áp dụng tôn chỉ “Văn chở đạo” v́ nếu Nguyễn Du có ư giảng dạy luân lư bằng văn chương, tại sao Truyện Kiều có thể gây nên những phản đối dữ dội của những người đại diện luân lư? Như thế có nghĩa là Nguyễn Du chỉ muốn kể lể một câu truyện, mô tả một cuộc đời phiêu lưu và kể như một nghệ sĩ. Tất nhiên cuộc đời ấy bao hàm những thái độ triết lư, luân lư; nhưng chúng là những thái độ sống, bao hàm trong những hành động được thực hiện dưới một h́nh thức văn chương. Chính v́ Truyện Kiều trước hết là một tác phẩm văn chương nghĩa là những ư tưởng triết lư, luân lư và những thái độ sống phức tạp mà người ta chia rẽ nhau v́ không thể xác định một cách dứt khoát, rơ ràng giá trị luân lư của những hành động cụ thể đó.

 

Nhưng dù sao, những thái độ sống đó cũng là những thái độ luân lư cần phải được xác định đúng hay sai, vô luân lư hay có luân lư.

 

Ở đây phải phân biệt hai phạm vi:

Xác định giá trị luân lư một thái độ sống trong hoàn cảnh nhất định.

 

Xác định giá trị luân lư một thái độ tổng quát, một cách khách quan.

Ví dụ việc Kiều sang chơi hát đêm bên nhà Kim Trọng. Khách quan mà xét, nghĩa là trừu tượng hoá những hoàn cảnh, thái độ đi chơi đêm với trai như thế bao giờ cũng là một thái độ nguy hiểm, không đứng đắn. Nhưng nếu xét trong trường hợp cụ thể (hic et nunc), nghĩa là xét hành động trong một hoàn cảnh, ta có thể hiểu và tha thứ, cũng như không khí thanh lâu, khách quan, sự kiện đó bao giờ cũng đều xấu; nhưng trong những hoàn cảnh cụ thể, mà những con người v́ những lư do phức tạp phải lẫn lộn trong đó, có lẽ họ không có tội, mà có thể là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh v.v…

 

Thiết tưởng phải căn cứ vào sự phân biệt trên để xác định những hành động bao hàm một thái độ luân lư của những nhân vật trong truyện Kiều, v́ nếu không sưu tranh luận sẽ cứ bế tắc măi. Người chê truyện Kiều là vô luân lư v́ đứng ở quan điểm luân lư khách quan và sự kiện tổng quát; c̣n người bênh truyện Kiều v́ đứng ở phạm vi xét đoán theo hoàn cảnh. Hai bên cùng không nhận ra khuyết điểm lập trường phê b́nh của ḿnh. Một giáo sư trong lớp nói: “Ối chà, Kiều sang chơi bên nhà Kim Trọng có tội ǵ, thanh niên bây giờ làm thế là thường”. Nói như thế là lẫn lộn phạm vi, đă biện chính một thái độ xét theo hoàn cảnh và mặc cho nó một thập giá luân lư khách quan. Nhưng thật ra, nếu giáo sư đó có con gái, chắc ông sẽ không dám cho con gái ḿnh đi tự do như thế. Thái độ đó chứng tỏ nhầm lẫn nguy hiểm hai phạm vi phê b́nh nói trên.

 

*

 

Đưa ra những nhận xét trên, tôi không có thể thanh toán vấn đề nhưng chỉ muốn đặt lại vấn đề, t́m lấy cho ḿnh một con đường đi, một lối nh́n mới bằng nỗ lực vượt những kinh nghiệm của những người đi trước. Lối nh́n đó tôi cũng không dám coi là đúng, thật ra tôi có cảm tưởng có lẽ nên nh́n như vậy và khi đề nghị, nói với người khác tôi chỉ mong khơi gợi, gây thắc mắc trong tinh thần trao đổi, đối thoại cùng nhau đi t́m những lối nh́n đời đời hoàn toàn, chính xác hơn v́ cứu cánh của vấn đề, không phải là bận tâm về việc tôi nh́n phải, anh nh́n phải, nhưng là làm thế nào lĩnh hội được nhiều khía cạnh hơn của vẻ đẹp vườn hoa.

 

Trong viễn tượng đó, t́m hiểu chân lư toàn diện, làm sao nh́n được vẻ đẹp bát ngát to lớn của tác phẩm sẽ là ư nghĩa và nền tảng mọi nỗ lực nhận định, phê b́nh của những nguồn thiện chí và yêu nghệ thuật vậy.

 

(1957)

 

[1]Câu này phỏng dịch Đường Thi: “Đồng Tước Xuân thâm toả nhị Kiều”.

[2]Thơ Khiển sầu có câu:

Sinh ca uyển chuyển tần liên tử,

Cựu khúc y hi tối năo nùng.

[3]Trong toà án, những quyết định luận phạt của quan toà không đứng ở phạm vi luân lư, nhưng ở phạm vi bảo vệ công ích thôi.

 

Nguồn: Chân dung Nguyễn Du, in tại nhà in Nam Sơn, 36 Nguyễn An Ninh, Sài G̣n. Kiếm duyệt số 401/XB ngày 08-3-1960. Bản điện tử do talawas thực hiện.

 

Nguyễn Văn Trung

 

 

THẢO LUẬN VỚI ÔNG NGUYỄN VĂN TRUNG VỀ VẤN ĐỀ "TRUYỆN KIỀU"

 

HAY LÀ PHÊ B̀NH BÀI "PHÊ B̀NH PHÊ B̀NH VĂN

 

 

 

Giữa sự khuyến khích của mọi người, Viện Văn học (Hà nội) chuẩn bị kỷ niệm 200 năm ngàỵ sinh của Nguyễn Du. Trong dịp hiếm có này, chẳng lẽ không đóng góp một chút ǵ? Là người viết ai ai đều tự hào đă thưởng thức Truyện Kiều và có ít nhiều suy nghĩ về tác phẩm vĩ đại ấy. Nhưng, vốn không phải lấy văn chương làm chuyên nghiệp, chúng tôi chỉ xin phát biểu ư kiến về phía triết lư của vấn đề được gợi ư trong bài Đặt lại vấn đề Truyện Kiều hay là phê b́nh phê b́nh văn học của ông Nguyễn Văn Trung, và phần nào trong bài Nguyễn Du trên những nẻo đường tự do của ông Trần Bích San.

 

Kết luận bài ḿnh, ông Trung viết:

 

"Đưa ra những nhận xét trên, tôi không có tham vọng thanh toán vấn đề, nhưng chỉ muốn đặt lại vấn đề, t́m lấy cho ḿnh một con đường đi, một lối nh́n mới, bằng nỗ lực vượt những kinh nghiệm của những người đi trước. Lối nh́n đó, tôi cũng không dám coi là đúng; thực ra, tôi có cảm tưởng có lẽ nên nh́n như vậy, và khi đề nghị, nói với người khác, tôi chỉ mong khêu gợi, gây thắc mắc trong tinh thần trao đổi, đối thoại, cùng nhau đi t́m những lối nh́n dần dần hoàn toàn, chính xác hơn, v́ cứu cánh của vấn đề không phải là bận tâm về việc tôi nh́n phải, anh nh́n sai, nhưng làm thế nào lănh hội được nhiều khía cạnh hơn của vẻ đẹp vườn hoa.

 

Đồng ư với ư nguyện khiêm tốn của tác giả. Và cũng chính trên tinh thần trao đổi, đối thoại mà chúng tôi viết bài này; khác chăng là ở chỗ chúng tôi muốn bằng quan điểm của chúng tôi đối chiếu với quan điểm của ông Trung, góp phần t́m biết thực chất của Truyện Kiều.

 

Chúng tôi không dám tự nhận rằng đây là quan điểm mác-xit. Xin nói rơ: đây chỉ là quan điểm của một người mác-xit. Một người mác-xit có thể tùy tŕnh độ hiểu biết của ḿnh về học thuyết Mac—Lê-nin, tùy tŕnh độ hiều biết của ḿnh về sự áp dụng học thuyết Mác — Lê-nin đề nghiên cứu một lănh vực nhất định của thế giới khách quan, mà vấp phải ít hay nhiều sai lầm, hoặc phát hiện được ít hay nhiều " hạt chân lư " mới.

 

Nói rơ hơn: ông Trung phê b́nh một sổ phương pháp phê b́nh Truyện Kiều c̣n chúng tôi chỉ phê b́nh cái phương pháp phê b́nh Truyện Kiều mà ông Trung đề nghị.

 

I/ NGUYÊN LƯ " VĂN DĨ TẢI ĐẠO " LÀ SAI HAY ĐÚNG?

 

1) Ông Trung phản đối nguyên lư «văn chở đạo», ông Nguyễn Văn Trung không tán thành ư kiến « văn phải chở đạo » mà cụ nghè Ngô đức Kế đă tŕnh bày khi cụ đấu tranh chống âm mưu của bè lũ Phạm Quỳnh, ông Trung viết :

 

Theo các Cụ Nho, «văn dĩ tải đạo », nói một cách khác, văn chương phục vụ luân lư. Vậy chỉ có một văn chương là Tứ Thư, Ngũ Kinh, hay tất cả những cái ǵ có tính chất tứ thư ngũ kinh; c̣n tiểu thuyết, thơ, không phải là văn chương mà chỉ là một loại tiêu khiển phù phiếm, trống rỗng, không có giá trị.

 

Trong viễn tượng đó, ông Ngô đức Kế lên án Truyện Kiền, cần chú ư sơ qua đến mấy điểm : thứ nhất nếu chúng tôi không lầm th́, theo nho giáo, luân lư nằm trong "Đạo ", " Đạo" rộng hơn luân lư , bởi vậy cho nên, nếu bảo «văn chở đạo » — «văn chương phục vụ luân lư », th́ điều đó là đúng nhưng chỉ đúng có một phần thôi. Thứ nh́, khi ông Trung gán cho các cụ nho cái ư quá khắt khe rằng chỉ có tứ thư, ngũ kinh hay loại ấy mới được gọi là văn chương thôi, th́, ở đây, ông Trung mở rộng cái suy diễn của ông, cho đến đỗi qua quyết rằng theo các cụ, thơ, tiểu thuyết không phải là văn mà chỉ là phiếm !

 

Té ra, nếu ông Trung nói đúng, th́ dưới mắt các nhà nho, nào Lư Bạch, Đỗ Phủ, nào Nguyễn Trăi, Hồ Xuân Hương đều bị trục xuất ra khỏi hàng ngũ các nhà vấn, tác phẩm của họ v́ không phải là cỏ tính chất tứ thư ngũ kinh clio nên không phải là « văn chương » nữa mà chỉ là thứ tiêu khiển không có giá trị! Hẳn các cụ nho có đủ chứng cứ để phàn nàn sao ông Nguyễn văn Trung suy diễn một cách quá rộng răi và chủ quan đến thế.

 

Song, điều quan trọng nhất không phải ở đoạn đă trích dẫn, mà ở đoạn sau đây. Ông Trung viết tiếp : «Đọc Truyện Kiều, ta không thấy không khi đạo đức của một Lục vân Tiên hay Hoa Tiên. Sự kiện đó có nghĩa là Nguyễn Du đă không muốn áp dụng tôn chỉ «văn chở đạo» v́ nếu Nguyễn Du có ư giảng dạy luân lư bằng văn chương, tại sao Truyện Kiều có thể gây nên những phản đối dữ dội của những người đại diện luân lư? Như thế có nghĩa là Nguyễn Du chỉ muốn kê lại câu truyện, mô tả một cuộc đời phiêu lưu, và kể như một nghệ sĩ. Tất nhiên cuộc đời bao hàm những thái độ triết lư, luân lư, nhưng chúng là những thái độ sống, bao hàm trong những hành động được thê hiện dưới một h́nh thức văn chương. Chính v́ Truyện Kiều trước hết là một tác phẩm văn chương, nghĩa là những ư tưởng triết lư, luân lư là. những thái độ sống phức tạp, mà người ta chia rẽ nhau v́ không thể xác định một cách dứt khoát, rỗ ràng giá trị luân lư của những hành động cụ thể đó “đó trước khi bàn đến tôn chỉ “ văn chở đạo”, bản thân câu hỏi ” Truyện Kiều có hay không có luân lư”, chúng tôi muốn chú ư – cũng sơ qua như  trên — đến hai điều: thứ nhất là,nếu đọc Truyện Kiều ta không thấy không khi luân lư giống như trong khi đọc Lạc Vân Tiên, điều đó không nhất thiết phải có ư nghĩa rằng tác giả Truyện Kiều không muốn áp dụng tôn chỉ« văn chở đạo", mà có thể là tác giả có ư muốn làm cho văn chương chở đạo bằng một cách khác hơn cách Nguyễn đ́nh Chiều trong Lục Vân Tiên. Thứ nh́, nếu quả Truyện Kiều có gây nên phân ứng của một số nhà nho tự hào rằng ḿnh đại diện cho luân lư, th́ Truyện Kiều cũng đă được tán dương nhiệt liệt bởi một số đông nhà nho khác ; điều ấy hoàn toàn không có ư nghĩa rằng những người tán dương Truyện Kiền và Nguyễn Du là những người chống lại luân lư, đạo đức, chống lại nguyên tắc « văn chở đạo ».

 

2) Nhà phê b́nh văn học có thể nào dựa vào nguyên lư « văn chở đạo» để phê b́nh không ? Bấy giờ chúng ta hăy xét xem một nhà phê b́nh văn học có thề nào và có nên đứng trên quan điểm «văn chở đạo» để phê b́nh một tác phẩm, một tác giả hay không? Hơn nữa, ta hăv xem một nhà văn có thể nào và có nên áp dụng nguyên lư «văn chở đạo" để sáng tác hay không, hay là chỉ cần «kể lể một câu chuyện, mô tả một cuộc đời phiêu lưu và kể như một nghệ sĩ»?

 

Đọc hết bài Đặt vấn đề Truyện Kiều của ông Trung, chúng tôi thấy ông Trung phê phán quan điểm và phương pháp cua hai cụ Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng một cách siêu h́nh — chữ siêu h́nh mà tôi dùng đây có ư nghĩa là tách rời với điều kiện lịch sử. Và tôi e, khi « đặt lại vấn đề Truyện Kiều », ông Trung hoặc không chú ư đến, hoặc không hiểu được ư nghĩa cuộc đấu tranh trên lănh vực văn học của cụ Ngô đức Kế chổng Phạm Quỳnh.

 

Trong Hữu Thanh tạp chi năm 1924, thực ra cụ Ngô đức Kế chĩa mũi nhọn của ng̣i bút không phải chủ yếu vào Truyện Kiều và Nguyễn Du mà chính là vào Phạm Quỳnh và phong trào sùng bái Truyện Kiều do bọn Ọuỳnh có ư thức gây nên, và hắn gây nên phong trào sùng bái Truyện Kiều đỏ nhằm mục đích của thực dân Pháp giao cho hắn, là đánh lạc hướng hoạt động của thanh niên Việt nam, làm mềm gan nhũn chi thanh niên, khiến thanh niên sao lăng chính tri. Hăy nhớ rằng năm 1924 là năm quả bom Phạm Hồng Thái nối là năm trước của cao trào dân tộc và dân chủ sôi nổi 1925-1926. Bài luận về « chánh học và tà thuyết"  của cụ Ngô Đức Kế — một chi sĩ vừa mới ở ngục Côn đảo về — đương thời là một cái tát nổi sao vào mặt của con chó săn biết chữ, Phạm Quỳnh, cũng là gáo « nước xối sau lưng » — theo lời cụ Huỳnh Thúc Kháng — khiến hàng chục, hàng trăm người thanh niên lúc ấy «tĩnh giác hồn mê » ; cho đến Phạm Quỳnh cũng phải bặt tiếng, không dám công nhiên tiếp tục âm mưu chính trị vừa nói trên của hắn.

 

V́ sao mà luận văn của cụ Nghè có hiệu lực như thế?

 

Theo thiển ư của chúng tôi, ấy là v́ Ngô Đức Kể tuy chia đùng tới danh từ mà chúng ta thường dùng sau này, nhưng đă bắt đầu nắm được cái nguyên tắc cơ bản là: văn học phải hữu ích cho nhân dân, văn học phải phục vụ tồ quốc ; nghệ thuật không phải vị nghệ thuật, mà nghệ thuật vị dân tộc, vị nhân sinh; nhà văn cần nhất là có chủ đề tư tưởng cao quv ấy. «Văn dĩ tải đạo», phải hiểu như thế; và hiểu như thế th́ «văn chở đạo » là một nguyên lư hết sức vững vàng. Phạm Nhan nào mà không sợ lưỡi kiếm Hưng đạo vương? Bối với Phạm Nhan tên Quỳnh th́ nguyên lư « văn chương phải phục vụ tồ quốc, phải hữu ích cho dân tộc » là lưỡi gươm của Hưng Đạo Vương đó vậy. Chớ như chiến đấu trên lănh vực khác mà quên bẵng lănh vực chính này, th́ tên Quỳnh dễ mà cuốn cờ sớm cho!

 

Hai cụ Ngô đức Kế, Huỳnh thúc Kháng có đánh giá Truyện Kiều. Chúng tôi không đồng ư với cái đánh giá ấy. Nhưng chúng tôi công nhận rằng bai cụ xuất phát từ một nguyên tắc phê phán mà chúng tôi triệt đề tán thành.; chính ḷng yêu nước chân thật của các cự dẫn dắt các cụ đến nguyên lư chính xác. Ở đây « chánh học » là chánh đạo, là chánh nghĩa, là yêu nước, là chống lại để quốc xâm lược ; c̣n «tà thuyết » là tà đạo, là phi nghĩa, là bản nước, là làm đầy tớ chủ nghĩa thực dân.

 

«Văn dĩ tải đạo», phải hiểu là văn chương có nhiệm vụ làm sáng chánh đạo, để phá tà đạo, dĩ nhiên là làm nhiệm vụ đó theo phương pháp của văn nghệ chớ không phải là theo kiều thày tu giăng giáo lư hay ông giáo giảng đạo đức.

 

Ông Trung nói sai khi ông bảo rằng cái đạo mà cự Nghè tán dương ở đây chỉ có thề là đạo Nho, đạo Không. Không hẳn như thế ! ở đây Ngô đức Kế không xuất phát từ Thư, Kinh mà xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước chấn thành. Hai cụ Ngô đức Kế, Huỳnh. thúc Kháng là những nhà nho từng biết cái cựu học hủ bại, từng đề xướng cái tân học tiến bộ- Hai cụ dĩ nhiên không thề không bị hạn chế bởi hệ thống giáo dục, bởi thời đại, bởi giai cấp mà hai cụ xuất thân. Song không thể phủ nhận rằng trong việc phê b́nh văn học, ḷng yêu nước chân thành, ḷng muốn phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, là một xuất phát điểm đúng đắn. Ngày nay, 38 năm sau bài « chánh học và tà thuyết », nguyên tắc văn học phải hữu ích cho nhân dân, văn học phải phục vụ đất nước, càng được nhiều người tán thưởng. Chỉ có những kẻ bất chính, chỉ ai theo đạo mới tránh né cái ánh sáng tung thâm ấy mà thôi.

 

Ngươi ta có thể nói « văn dĩ tải đạo » là một sản phẩm tư tưởng phong kiến, sao người mác-xít lại sử dụng, lại đồng ư.

 

Chúng tôi đồng ư với nguyên tắc «văn chở đạo », cũng như chúng tôi đồng ư với đạo đức « cần, kiệm, liêm, chính ». Chẳng những đồng ư, chúng tôi c̣n phát huy lên một tầng cao hơn, gạt những nét lạc hậu hay vướng mắc nào đó, và đem vào cho các nguyên tắc trên tất cả nội dung vô cùng phong phú của thực tiễn quần chúng được tổng kết. Chúng tôi tự hào là những người thừa kế cái tinh hoa nhất của loài người trải qua các chế độ trước. Khái niệm « đạo » — quan niệm về thế giới, xă hội và con người — xưa nay có biến đổi, và biến đổi theo hướng tiến lên, nhưng, xưa cũng như nay, văn chương không thể không làm nhiệm vụ chở đạo bằng nhiều h́nh thái thích ứng.

 

Sai lắm, khi ông Trung khẳng định một cách vu vơ rằng nếu theo tôn chỉ «văn chở đạo » th́ chỉ có Tứ Thư, Ngũ Kinh hay những ǵ cùng loại mới là văn, chỗ c̣n tiều thuyết, thơ, chỉ là những món tiêu khiển, phù phiếm, vô ích. Ai bảo tiểu thuyết, thi ca không « chở đạo » được ? Ai bảo rằng không «chở đạo » th́ mới ra tiểu thuyết và thơ ca? Hẳn Tứ Thư, Ngũ Kinh có cách « chở đạo » của nó — đó là những lời giáo huấn trực tiếp của bậc thánh hiền hồi đó, hoặc là những áng văn triết lư, chính trị của các vị tôn sư ấy. C̣n thơ ca, tiểu thuyết dĩ nhiên có cách «chở đạo» của nó — chở bằng h́nh tượng nghệ thuật, bằng cách tạo nên những cảm xúc. Như trên vừa nói, nội dung chữ « đạo » theo thời mà đổi mới. Ở đây chúng ta chưa thảo luận đến vấn đề này; nhưng dầu sao, nhà văn, nhà thơ chân chính trị cổ chí kim, bất kỳ đông tây, đều qua h́nh tượng hư cấu, xúc cảm mà nói lên những tử tưởng hữu ích cho sự tiến bộ của nhân dân, của đất nước, của loài người, tức là nói lên cái đạo vậy.

 

3) Chủ đề tư tưởngng của tác phẩm và ở nghĩa nhân đạo của tác phẩm. Trong tác phẩm nghệ thuật, văn học của ḿnh, một văn nghệ sĩ không truyền « đạo » theo kiểu một thầy giáo đứng trên bục; nhưng cả hai, thầy giáo và nhà văn mỗi người trong lănh vực và cương vị của ḿnh, đều phải có ư thức rằng minh là kỹ sư của tâm hồn ; ư thức càng cao càng tốt. Điều khó nhất, cũng là điều kiện thành công, là tác giả cần xây đựng chủ đề tư tưởng của tác phẩm, trên nền tảng của chủ đề tư tưởng đó, thu tập văn liệu, xây dựng nhân vật và h́nh tượng,v.v... Thiếu chủ đề tư tưởng tốt th́ tác phẩm sẽ không có đầu đuôi nhất quán, không có thần, không có ư vị cần thiết. Tác phẩm nghệ thuật sở đĩ vĩ đại là ở hai mặt ; nội dung rất thâm thúy và h́nh thức rất điêu luyện. Mà nội dung thâm thúy là ǵ? — Chủ yếu là ư nghĩa nhân đạo và thực chất con người. Nhà phê b́nh văn học nghệ thuật, nếu muốn nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ của ḿnh th́ không thể không chú tâm trước hết vào nội dung tư tưởng của tác phẩm, vào tác dụng của nội dung tư tưởng đó đối với người đọc, người xem ; dĩ nhiên c̣n phải đặc biệt chú ư đến h́nh thức văn chương, nghệ thuật có hay không có khả năng làm rung động ḷng người, có hay không có khả năng tạo nên mỹ cảm, tăng cường nhân cách, có hay không có góp phần giáo dục con người theo hướng tiến lên, nói một cách khác; bằng văn nghệ, « tải » đạo làm người.

 

Một tác phẩm nghệ thuật nào mà chỉ tạo ra được một "khoái lạc nghệ thuật » thôi th́ giá trị của nó không dài hơn đời sống của một đóa phù dung.

 

Nào ai bảo rằng Nguyễn Du muốn «giảng luân lư bằng văn chương » đâu ! Song, qua văn chương của Nguyễn Du trong Truyện Kiều một độc giả b́nh thường được hướng dẫn tốt sẽ thông cảm sâu sắc với tác giả mà căm ghét bất kỷ những cái ǵ là bóc lột, áp bức, bất công, và thương vêu tất cả những ai bị hắt hủi, bị chèn ép, bị chà đạp trong xă hội chia phân ra nhiều giai cấp. Nguyễn Du hẳn cỏ những hạn chế của ông. Truyện Kiền khác Lục Vân Tiên, ai mà chối căi? Song, thương kẻ bị áp bức, giết kẻ đi bóc lột, lo lắng cho thân phân con ngụ'i, chán cái chế độ bắt công gây ra hàng chuỗi điều tai họa, những cái đó là ǵ nếu không phải là vô t́nh hay cố ư « tải » một thứ đạo cao quư?

 

Cho nên, khi ông Nguyễn văn Trung bảo rằng trong Truyện Kiều Nguyễn Du « chỉ muốn kể lể một câu chuyện », mô tả một cuộc đời phiêu lưu và «kể như một nghệ sĩ". th́ liệu ông Trung có đánh giá quá thấp thi bá Tiên-điền hay không, và liệu ông Trung có bỏ mất cái phần căn bản, cái phần đáng tự hào nhất trong một tác phẩm văn chương vĩ đại như Truyện Kiều hay không? Thật đáng trách. nhà phê b́nh nào xem thường tác giả Truyện Kiền và những tác giả khác cho đến đỗi khẳng định vơ đoán rằng văn nghệ sĩ trước khi viết tác phầm không cần hay không biết lựa chọn và xây dựng một chủ đề tư tưởng, mà chỉ có khi nào tác giả « mô tả một cuộc đời phiêu lưu » th́ cuộc đời ấy mới tự nó vô t́nh « bao hàm những thái độ triết lư, luân lư». Nếu trong dư luận của công chúng, có những người tán thành, có những người phản đối chủ đề tư tưỏng của tác giả, nếu bạn đọc chia rẽ nhau trong việc đánh giá tập truyện hay đánh giá những hành động cụ thể của nhân vật trong; tập truyện, điều đó hoàn toàn không có ư nghĩa rằng tác phẩm không được tác giả quan niệm đề. bằng h́nh thức nghệ thuật, diễn đạt một chạ đề tư tưởng đă được xây dựng; trong tâm hồn ḿnh, có thể thấy bầy ong làm tổ khéo hơn một kíp thợ mộc làm nhà nào đó; nhưng thú và người khác nhau ở chỗ, trước khi xây dựng ngôi nhà, người thợ đă có kế hoạch và mục đích làm nhà trong óc, c̣n chú ong th́ không có. Văn nghệ sĩ tiến bộ thuộc vào loại tiêu biểu cho ư thức của thời đại th́ sao lại không được tự hướng dẫn bởi chủ đề tin tưởng, bởi mục đích phục vụ nhất định?

 

Nói tóm một câu, phê b́nh Nguyễn Du hay bất cứ một tác giả nào, phê b́nh Truyện Kiều hay vô luận một tác phẩm nào, nếu muốn phê b́nh một cách sâu sắc th́ không thể không bắt đầu bằng sự nghiên cứu phê phán chủ đề tư tưởng của tác giả và tác phẩm, không thể rời bỏ «quan điểm phục vụ » mà ngày nay ta gọi là văn nghệ vị nhân dân — nội dung của khái niệm văn dĩ tải đạo».

 

II/ " TRUYỆN KIỀU " VÀ ĐẠO ĐỨC, LUÂN LƯ

 

Về phần chúng tôi, nếu phải nghiên cứu và đánh giá Truyện Kiều, th́ chúng tôi không đặt lên trên hết câu hỏi : « Truyện Kiều có luân -lư hay không có luân lư ? » mà chúng tôi sẽ đặt lên trên hết câu hỏi: « Truyện Kiều"  tinh chất nhân dân, tính chất nhân đạo hay không ?». Cái này bao gồm cái kia, cái kia nằm trong cái này ; khái niệm nhân dân tính, nhân đạo tính u sắc hơn khái niệm luân lư tính, đạo đức tính ; nó cũng sát với văn học nghệ thuật hơn. Thế nhưng, ông Trung đă đi vào vấn đề « Truyện Kiều và ân lư » th́ chúng tôi theo ông trên lănh vực ấy đề thảo luận. Chúng tôi chú đến những điểm sau đây trong lập luận của ông Trung :

 

1. Cuộc đời và trách nhiệm của con người. ông Trung viết:

 

« Cuộc đời do con người tạo ra và có cái tốt cái xấu pha trộn. Cuộc đời » mọi người chịu trách nhiệm, không ai hoàn toàn vô tội, nhưng cũng không ai hoàn toàn có tội, v́ một hành động dù tư riêng cũng một phần yếu tố bên ngoài gây nên, đồng thời do chính, người đó quyết định lựa chọn ; cho nên ta trách nhiệm hành động của ta và người khác cũng trách nhiệm hành động đó, như ta trách nhiệm một phần hành động của họ. Mọi liên đới cùng hành động và tạo ra cuộc đời xấu tốt. Cuối cùng, không hoàn toàn oan, nhưng cũng không ai hoàn toàn vô tội ».

 

Bởi vậy cho nên theo ông Nguyễn văn Trung th́ : thái độ của người với người chỉ có thể là kẻ có tội với người có tội, ông thề là thái độ của người không bao giờ có tội với người có tội. Ưu thế chỉ có Thượng đế (nếu ta tin có) mới có quyền lên án người vả chăng, theo lập luận của ông Trung, phải nhân danh một luân lư phổ quát th́ mới có quyền phán đoán xem hành động này là đúng luân lư, hành động kia là trái luân lư; mà luân lư phổ quát ấy rất khó xác định, con người có nhiều quan niệm khác nhau về luân lư phổ quát, «... do đó rất khó nói hành động này là có luân lư hay vô luân lư ».

 

Nói tóm một câu, v́ những lẽ vừa kể trên, theo ông Trung, không thể phê b́nh Truyện Kiều một cách đúng đắn nếu đứng trên quan điềm luân lư.

 

Về chỗ này, rơ ràng là ông Trung được sự ủng hộ gián tiếp bởi những phê b́nh luân lư sai lầm của nhiều người trước đâỵ đă từng bênh vực công kích nàng Kiều. Lát nữa chúng ta sẽ trở lại. Bây giờ cần nói ngay rằng nếu hai người cùng quan sát một sự vật và cả hai đều có ư kiến khác nhau về sự vật ấy, một nói rằng tốt, một nói rằng xấu, điều đó hoàn toàn không có ư nghĩa rằng quan niệm tốt, xấu là vô nghĩa lư, điều đó không ngăn cấm ta lại t́m cách đánh giá xem sự vật kia là tốt hay xấu và tột xấu v́ những lẽ ǵ.

 

Hăy thảo luận trước với ông Trung về cuộc đời và trách nhiệm của con người.

 

Nếu nói một cách chung chung rằng cuộc đời bao giờ cũng có cái tốt và cái xấu pha trộn, th́ có thể gây nên một sự lẫn lộn, hiểu lầm, không phân biệt cái tiến lên với cái tŕ trệ, cái giải phóng với cái nô dịch. Tuy rằng ở mỗi chế độ xă hội đều có cái tốt cái xấu, nhưng ở chế độ này cái tốt là chủ yếu, cái xấu là thứ yếu, c̣n ở chế độ kia, cái tốt là thứ yếu mà cái xấu lại là chủ yếu. Cho nên, có thể chắc chắn rằng « đời Nghiêu Thuấn » không tái diễn ở chế độ phong kiến, tư bản được, c̣n những đề tài sáng tác như Truyện Kiều của Nguyễn Du chỉ có thể nảy sinh ở chế độ phong kiến, tư bản, chớ không làm sao quyến rũ được tác giả ở chế độ xă hội chủ nghĩa — chế độ không có giai cấp đối kháng, không có người bóc lột người. Và chở nên, người b́nh dân không cúi đầu trước cái «số mệnh » bắt buộc rằng « xă hội nào cũng có cái tốt cái xấu », « phá cái cũ, lập cái mới, cũng vô ích thôi, v́ tất cả đều là tốt xấu pha trộn » ; trái lại người b́nh dân đấu tranh cho nhân định thắng thiên, cho được dựng lên một xă hội trong đó cái tốt là căn bản, là ưu thắng, trong đó thân phận con người được ồn định hơn, được  yên vui và phát triển hơn.

 

2. Không ai có quyền lên án ai chăng? Chỉ Thượng đế mới có quyền đó chăng? Theo ông Trung, cái cuộc đời có tốt có xấu này, mọi người đều trách nhiệm; mọi người đều có tội;-không ai hoàn toàn oan, không ai hoàn toàn có tội và v́ vậy mà không ai có quyền lên án ai, chỉ có Thượng đế mới có quyền lên án người ta mà thôi !

 

Thật là một sự sai lầm thô bạo ẩn trong một cải vỏ tưởng chừng như khoan nhượng, dễ dăi, không bó buộc. Nghĩ kỹ th́ thấy rằng, trong trường hợp mà tác giả không muốn mưu đồ một sự che đậy nào đi nữa, th́ ít ra cái lư thuyết này khách quan có tác dụng tước vũ khí tư tưởng của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột. Những nông dân chân lấm tay bùn bỗng nhiên bị quân đội Mỹ—Diệm đến đốt nhà, xúc lúa, phá vườn, thịt trâu ḅ, bắt người vào « ấp chiến lược », giam giữ trong hào chông, tường đắt rào tre và dây thép gai, những nông dân đó không có quyền lên án bọn Mỹ--Diệm, bởi v́, nếu áp dụng lư thuyết của ông Trung th́ sẽ phải nghĩ rằng cả dân lẫn Mỹ—Diệm đều có tội, đều trách nhiệm như nhau về cái xấu cái tốt của xă hội, về sự thành lập ấp chiến lược này. Quần chúng công nhân bị thất nghiệp, bị đuổi ra khỏi làm, bị đuổi ra khỏi phố ở phải lang thang đi t́m không ra việc, bản thân đói rét, con cải nheo nhóc, quần chung công nhân thắt nghiệp đó không có quyền lên án giai cấp tư bản, bởi cũng như trên, nếu áp dụng lư thuyết của ông Trung, th́ người ta sẽ phải nghĩ rằng cả tư bản lẫn cồng nhân đều có tội, đều trách nhiệm như nhau !

 

Đó, lư thuyết của ông Trung dắt đến cái phi lư đó. ông Trung muốn cái ǵ đây? Tại sao lại bắt người ta nghĩ rằng một nông dân miền Nam Việt nam bị đốt nhà cũng có tội như Mỹ—Diệm đốt nhà? Tại sao người công nhân thất nghiệp cũng có tội như hạng tư bản ? Tại sao người bị bóc lột áp bức không có quvền lên án bọn áp bức bóc lột? Nàng Kiều có tội t́nh ǵ, và dẫu có tội đi nữa th́ cũng không phải là thứ tội như cái chế độ bất công đă làm cho một đóa hoa, một tài sắc, một con người sống hạnh phúc và có quyền sống hạnh phúc lại phải phiêu dạt, đau khổ đến cùng cực bằng 15 năm dài! Tại sao nàng Kiều và các độc giả xót xa cho thân phận của các nàng Kiều lại không có quyền lên án chế độ bất công và những kẻ đại diện cho chế độ bất công ấy? Tại sao phải tự tước quyền thực tế của ḿnh, giao lại cho một uy quyền tưởng tượng được gọi là Thượng đế, nhờ cậy cái ông Thượng đế tưởng tượng vu vơ đó cầm cân công lư, c̣n ḿnh, con người th́ lại phải cam chịu số phận mà không được hở môi? Rơ ràng cái lư thuyết của ông Trung về « quyền lên án » nhằm tước vũ khí của những người bị áp bức bóc lột, nhằm xóa nḥa ranh giới giữa tội phạm và nạn nhân, xóa bỏ trách nhiệm của kẻ gây ra  tội ác chớ tuyệt nhiên không phải là lư thuyết khoan nhượng, buông tha, cùng sống.

 

Ông Trung bày ra một lư thuyết lạ lùng về trách nhiệm. Ông bảo rằng ai cũng « trách nhiệm » đổi với hành động của người khác bởi v́ hành động của mỗi người một phần do yếu tố bên ngoài gây nên và một phần do chính người đó lựa chọn. Xin thưa rằng: lư thuyết của ông Trung về trách nhiệm nếu không cố ư th́ vô t́nh, gỡ trách nhiệm cho bọn cường bạo. Đành rằng vạn vật đều tương quan, tương quan không gần th́ xa với nhau ; song, không thể v́ lẽ ấy mà không xác định được trách nhiệm của kẻ này hay kẻ khác đứng trước một sự việc cụ thể. Bất kỹ yếu tố nào bên ngoài ảnh hưởng đến hành động của nó, đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa th́ nó phải mang lấy trách nhiệm hoàn toàn trước hành động đó, chớ không thể nào bảo rằng dân tộc bị xâm chiếm có trách nhiệm về cuộc xâm lăng đó. Bắt kỳ yếu tố nào bên ngoài ảnh hưởng đến, một người dân hiền lành bị sa vào tay của những đứa buôn người, những tham ô quan lại, th́ không nên đổ trách nhiệm cho người dân hiền lành đó, không nên lẫn lộn nạn nhân với người mang trách nhiệm gây nên tai nạn mặc dầu hành động của cả hai đều bị ảnh hưởng bởi rất nhiều điều kiện khách quan. Chúng tội đồng ư với ông Trung khi ông Trung bảo rằng một anh kia ăn trộm, nó ăn trộm v́ nó thất nghiệp, v́ vậy việc ăn trộm không phải hoàn toàn trách nhiệm ở người ăn trộm ; nhưng giá ông Trung hiểu rằng cần phải đầy sự t́m hiểu xa hơn nữa, cắt nghĩa v́ sao có thất nghiệp, có thất nghiệp v́ nó là con đẻ của chế độ tư bản chủ nghĩa, th́ ở đây ông Trung sẽ thấy được kê trách nhiệm hoàn toàn về mọi thứ ăn trộm ăn cướp trên đời này. Bảo rằng nàng Kiều tự do lựa chọn giữa cái bảo toàn hạnh phúc cá nhân với chàng Kim và cái bán ḿnh chuộc cha, v́ tự do lựa chọn cho nên nàng Kiều chịu trách nhiệm về cái đời 15 năm ch́m nổi của ḿnh, bảo như thế là sai ở hai điểm. Điềm thứ nhất là cái được gọi " tự do lựa chọn » kia thực tế đâu phải là tự do ? Hăy đặt ḿnh trong chế độ phong kiến đen tối, khi nhà đày một lũ sai nha ác ôn bắt trói cha mẹ, một người con, một người chị có thể nào « tự do » để lũ ác ôn diều quạ -bắt cha mẹ ḿnh đi, để rồi ḿnh chờ hạnh phúc riêng với ư trung nhân c̣n ở nơi xa xăm? c̣n như người con, người chị, trong giờ phút ấy, phải bản thân cứu gia đinh, sự lựa chọn đó mà gọi là « tự do » th́ có phải là bôi nhọ cái tự do chăng? Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề phức tạp này. Ở đây chỉ cần khẳng định lại rằng không thề hàm hồ gán trách nhiệm như nhau cho nạn nhân và sát nhân, không thề mập mờ đánh lộn bên vô tội với bên có tội, phải phân biệt dầu là gặp những trường hợp khó phân biệt.

 

3. Không phải chờ đợi một "lư luận phổ quát" siêu giai cấp đề xét đoàn. Ông Nguyễn văn Trung quen hỏi «nhân danh cái ǵ» để phê phán ? Theo ông phải nhân danh một luân lư phổ biến, mời có quyền phê phán hành động này là đúng luân lư, hành động kia là không đúng luân lư, nhưng không thề xác định được luân lư phổ biến ấy, người cho luân lư phổ biến là như thế này, người khác lại cho là thế kia, cho nên, theo ông Trung, không thể phận biệt hành động nào là đúng luân lư c̣n hành động nào là không đúng. Lập luận của ông Trung có phần gần đúng, mà phần sai th́ lại nhiều hơn. Hẳn rằng, khi xă hội loài người c̣n phân chia từng giai cấp th́ đạo đức luân lư của mỗi thời đại, mỗi giai cấp thống trị và bị trị tất nhiên có khác nhau, trái nhau. Không có một luân lư đạo đức « tiên thiên". Tuy vậy, không v́ lẽ đạo lư có tính chất giai cấp, có tính chất lịch sử mà không thể nhận xét được rằng hành động này đúng đạo lư, hành động kia sai. Nếu lư thuyết ông Trung đúng th́ phải chờ sáng lập ra đạo lư phổ biến cụ thể và hoàn chỉnh rồi mới được phán đoán hay sao ? Sự thật là chưa có một đạo lư phổ biến được toàn thể xă hội công nhận, mới được phán đoán th́ quần chúng nhân dân đă bị tước vũ khí trải qua mấy ngàn năm trong sự cần thiết phải xác định cái ǵ là cường bạo đề đánh đổ, cái ǵ là nhân đức để phù trợ. Sự thật là nhân dân bất chấp cái « luân lư phố quát » của ông Trung; nhân dân từ trăm đời đă học xác định bằng kinh nghiệm bản thân của họ cái ǵ là nhân cái ǵ là bất nhân, cái ǵ là chính cái ǵ là bất chính. Quyền lợi sống c̣n của nhân dân không cho phép họ chờ đợi cái «luân lư phổ quát » siêu giai cấp.

 

Những người mác -xit vứt bỏ luân lư giai cấp của bọn bóc lột áp bức ; cái luân lư của người mác -xít là luân lư cao quư tiêu biểu cho quyền lợi và lư tưởng của nhân loại cần lao. Xưa nay các giai cấp bóc lột nổi lên rồi tiêu diệt, các chính quyền và kẻ đầu sỏ của họ xuất hiện rồi tan đi; song, có một cái trường tồn trong lịch sử tiến hóa của loài người, ấy là quần chúng cần lao. Luân lư, nguyên tắc luân lư nhân loại được quần chúng cần lao xây dựng trong quá tŕnh đấu tranh chống áp bức xă hội, chống những thói tệ làm nhơ bẩn tính người. Nhân dân đă tạo nên những thể lệ đơn giản về luân lư và công lư cho ḿnh, những thể lệ đơn giản và tốt đẹp chủ tŕ các quan hệ giữa người với người, giữa các dân tộc. Các giai cấp thống trị thường bất chấp và phá hoại những nguyên tắc và thể lệ luân lư ấy. Chựng tôi những người mác -xít, trái lại, đề cao các nguyên tắc và thể lệ luân lư của nhân dân lao động xây dựng lên từ hàng trăm đời và bỗ sung cái luân lư ấy bằng những nguyên lư đạo đức mới của giai cấp công nhân. Chính là « nhân danh » những nguyên tắc và thể lộ của nhân dân lao động đó và theo quan điểm duy vật lịch sử chúng tôi, những người mác -xit xác định coi một hành động là đúng hay sai đạo lư, là chính hay tà, là đáng ủng hộ hay đáng phản đối. Chúng tôi nhất quyết không chịu để cái hành động ở trong cảnh tượng mờ mờ ám ám có lợi cho những kẻ áp bức. Ánh sáng của chân lư, của đạo đức cần được chiếu vào mọi nơi, kể cả bề trong của những chậu úp. Làm được tới chừng mực nào, đó là vấn đề thời gian, phương pháp và nỗ lực, chớ không thể công nhận chủ nghĩa bất khả tri đồng lơa với tội lỗi của kẻ cường bạo.

 

Như vậy, vẫn có thể đánh giá, phê phán Truyện Kiều trên quan điểm đạo lư. Lập luận của ông Trang rốt cùng lại là sự thủ tiêu đạo đức; chính đó là cái xu hướng, cái đặc tính của đạo đức học tư sản hiện đại.

 

4. Phê b́nh đạo lư một cách sai lầm, không làm mất giá trị của sự phê b́nh về mặt đạo lư. Nhưng cho đến nay, các lối phê b́nh đạo lư của những người đă từng công kích hay bênh vực nàng Kiều, thường sai lầm cho đến đỗi người ta ngờ rằng sự phê b́nh đạo lư là sai lầm. Ví như Phạm Quỳnh bênh vực nàng Kiều, tán dương nàng Kiều như sau đây: nàng Kiều là « một người đa t́nh nhưng không đắm đuối v́ t́nh, biết lấy nghĩa mà chế t́nh, thể là đúng với lư  tưởng đạo Nho » ; nàng Kiều là « một tấm gương phong t́nh tiết nghĩa cho người cả nước soi chung ». Phạm Quỳnh đứng về một khía cạnh của luân lư phong kiến đề tán dương nàng Kiều ; nói rơ hơn, Phạm Quỳnh xuất phát từ một mục đích chính trị phản động, từ một quan điểm phong kiến lạc hậu để đánh giá nội dung luân lư của Truyện Kiều; hắn cũng như Tràn trọng Kim chỉ nêu cao cái phần phong kiến lạc hậu trong Truyện Kiều, mà bịt mắt bưng tai trước những cái ǵ căn bản nhất, trước nội dung nhân đạo và tiến bộ của nó. Nếu nội dung ư nghĩa chính của Truyện Kiều là lấy nghĩa chế tinh th́ Truyện Kiều sẽ là một tập truyện tầm thường như trăm ngàn truyện tầm thường khác dẫu rằng văn chương của nó hơn xa mứ; trung b́nh. Có lẽ Phạm Quỳnh, một khách lầu xanh chính trị, « thông cảm» với khía cạnh lầu xanh thực tế của Truyện Kiều, nên va mới đi đến cái ư kiến lố bịch rằng nàng Kiều là « tấm gương cho cả nước soi chung"! Hẳn Nguyễn Du dưới suối vàng sẽ cười một cách khoái trá khi nghe trên trần thế có người cho rằng ông đă dụng ư nêu lên cho cả  nước một tấm gương « lấy nghĩa chế t́nh » !

 

 

Về phía bên kia, những người chống Phạm Quỳnh, những người đả phá Truyện Kiều về luân lư, cũng sai lầm trong phán đoán của họ. Cụ Ngô đức Kế, cụ Huỳnh thúc Kháng đều chê Truyện Kiều là phong t́nh, bối dâm, gieo nọc gió trăng hoa liễu. Nhiều bài thơ, phú trước hay sau đó đă chê Kiều là « gái tơ sớm đă ngứa nghề », « lầu xanh quen thói », « mời rượu người giết chồng ḿnh » v.v... Ở đây ông Nguyễn văn Trung nói đúng khi ông nhận thấy rằng những phán đoán vừa kể đều sai lầm ở chỗ «nh́n một cách trừu tượng » và ở chỗ không đi t́m ''tại sao bất công, oan trái, tại sao có những thanh lầu, gian ác, ích kỷ» cần nói thêm rằng cái sai lầm chính của những người đánh giá Truyện Kiều bằng sự công kích đạo đức nàng Kiều, chính là ở chỗ họ không thấy đúng nội dung ư nghĩa của Truyện Kiều không hiểu đúng  chủ đề tự tương của Nguyễn Du, không biết thông qua các hiện tượng được mô tả mà lột ra được bản chất của câu truyện. Tác giả Truyện Kiều bị hạn chế, mà những người vừa phê phán Truyện Kiều càng bị hạn chế hơn ; muốn phát biểu hết thực chất, nội dung, ư nghĩa của một tác phẩm lớn, phải nh́n nó từ một chỗ đứng thích hợp nhất, phải có một phương pháp nghiên cứu chính xác ; điều đó, đại đa số các nhà phê b́nh Truyện Kiều trước đây chưa có; v́ chưa có cho nên phê b́nh nông cạn, lệch lạc, sai lầm. Thực ra, trong lịch sử văn học thế giới, có những tác phẩm và tác giả mà thâm ư và tài nặng phải đợi hàng thế kỷ, có khi hàng chục thế kỷ mới phát hiện đầy đủ và đúng đắn ; Truyện Kiều và Nguyễn Du thuộc vào loại tác phẩm và tác gia ấy.

 

Không kể đến mặt văn chương trong đó, thi bá Tiên -điền đă đưa tiếng nói dân tộc lên một tŕnh độ hoàn chỉnh cao vọi, đưa thi ca Việt nam tới mức đẹp đẽ tuyệt vời, không kề sự phản ánh xă hội với những nét mô tả tài t́nh bằng h́nh thức văn nghệ, Truyện Kiều vô cùng thiết tha đến thân phận con người, lên án cái chế độ xấu xa đày ṿ con người thông minh tài sắc ; chính đó là nội dung đạo lư chủ yếu của Truyện Kiều. Xét cho cùng, con người là điểm xuất phát và chỗ kết thúc của mội ư chí và tấm ḷng. Hai trăm năm sau, «ba trăm năm sau » Tố Như vẫn sống với chung ta. Chúng ta không «khóc Tố Như » mà ca ngợi Tố Như chinh v́ Tố Như qua Truyện Kiều tỏ nỗi thiết tha vô hạn đến thân phận con người đáng lẽ phải được quyền sống mệt cuộc đời đầy hạnh phúc.

 

Sao trách «Kiều nhi chưa vẹn tấm ḷng vàng» mà lại không xót thương cảnh ngộ đau đớn cho quả tim non trẻ? Sao cười nàng mà không cùng xót xa nàng phải tê tái ḷng mà rót rượu hầu kẻ giết chồng ḿnh ? Những tấn kịch đời ấy, chúng ta hăy suy nghĩ lại, đă diễn ra biết bao vạn ức lần, cắt ḷng xé dạ biết bao con người bị thất thế trong xă hội bất công từ hàng ngh́n năm nay? Chúng ta thông cảm với nàng Kiều, tức là với con người thất thế nói chung trong xă hội bất công. Chúng ta chỉ nên chê trách, mạt sát những hạng thanh lâu chính trị bán ḿnh không phải v́ cha mẹ bi vu khống, bị viễn cảnh tù đày, mà bán ḿnh bán nước v́ hư danh tư lợi ; chúng ta chỉ  nên chê trách, mạt sát những  kẻ vui sướng rót rượu hầu bọn xâm lăng. Trên kia là bi kịch của cuộc đời, dưới này là tuồng phản phúc, hai cảnh trái nhau như trắng vời đen ; người b́nh dân không cằn phải lư luận giông dài, không cần đợi nhà triết học siêu h́nh quy định một nền luân lư phổ quát siêu giai cấp, người b́nh dân không cần phải có những cái ấy đề phân biệt đâu là bi kịch của cuộc đời để phân vân và đâu là tuồng phản phúc đề lên án.

 

Nói tóm một câu, phê b́nh đạo lư trên cơ sở đạo lư của nhân dân được chủ nghĩa duy vật lịch sử soi sáng, vẫn có tác dụng góp phần t́m hiểu nội dung ư nghĩa của một tác phẩm như Truyện Kiều. Lạ lùng thay, kỳ thật cũng dễ hiểu đó thôi,, trong lúc bọn thống trị phong kiến, mại bản không ngớt mồm vu cáo cộng sản vô luân lư, vô đạo đức th́ nhiều nhà tư tưởng của bọn đó lại phủ nhận khả năng phán đoán trên quan điểm đạo lư!

 

III/«MUỐN LĂNH HỘI MỘT SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT, KHÔNG THỂ ĐỨNG TRÊN QUAN ĐIỂM KHOA HỌC» ĐƯỢC SAO?

 

Sau khi phê b́nh « cách phê b́nh chủ quan » và « phê b́nh luân lư», ông Nguyễn văn Trung bước sang phê b́nh « khuynh hướng phê b́nh khoa học». Để phê b́nh khuynh hướng phê b́nh khoa học, ông Nguyễn văn Trung lấy Nguyễn Bách Khoa làm tiêu biền cho khuynh hướng ấy; hơn nữa, ông Trung tưởng đâu rằng Nguyễn Bách Khoa là mác -xít.

 

1. Nguyễn Bách Khoa không phải tiên biểu, cho lối phê b́nh khoa học càng không phải là một người mác -xit. Trước hết, xin nói rằng Nguyễn Bách Khoa không đại biểu chút nào cho khuynh hướng phê b́nh khoa học ; nhiều lắm chỉ có thề cho rằng Ngụyễn Bách. Khoa đại biểu cho khuynh hướng nhại khoa học. Kế đó, xin nói rằng những người mác-xít Việt nam không ai công nhận rằng khao luận của Nguyễn Bách Khoa về Nguyễn Du và Truyện Kiều là mác -xit hay «nhuộm màu mác -xit» ; nhiều lầm chỉ có thể nói là Nguyễn Bách Khoa xuyên tạc chủ nghĩa Mác, xuyên tạc phương pháp luận mác-xit. Công kích phương pháp phê b́nh khoa học và mác -xit bằng sự công kích những lời  phân tích, cùa Nguyễn Bach Khoa th́ chẳng khác ǵ b́nh phẩm chất gạo hạng nhất của G̣ công qua một nồi cháo lợn đă thiu mất rồi!

 

Ḱa, hăy nghe Nguyễn Bách Khoa phân tích « khoa học » về Nguyễn Du. Trước hết tác giả của quyền Nguyễn Du và Truyện Kiều (1) xét đến «huyết thống của Nguyễn Du », xem đó là yếu tố đầu tiên đề cắt nghĩa thơ cua Tố Như. Gịng nội, gịng ngoại của tiên sinh đều được Bách Khoa chú ư đến. Gịng nội ở Nghệ Tĩnh ; xứ Nghệ Tĩnh xưa được Bách Khoa xem là «một đất biên cương phân chia nước ta với nước Chàm. Bị vây ba mặt bởi núi sông và biển, nó vốn là đất hiểm, có khí tượng anh hùng. Thiên nhiên ở đó chứa chất nhiều sinh lực, nhiều thế tiến triển dồi dào. Nhưng sinh lực kia chỉ nảy nở mạnh mẽ ở núi cao rừng rậm, sóng cả muôn trùng chứ không kết tụ ở đất đai đồng ruộng ».

 

Gịng ngoại của Nguyễn Du ở Bắc ninh, Bắc ninh là « đất cua sự sống thiên nhiên, của tinh thần mẫu hệ», và Nguyễn Bách Khoa kết luận sơ bộ rằng :

 

«Cái nhựa sống tế nhị này, một đêm thù tịch liên kia, đă giao ḥa với cái nhựa sống khác đề cấu tạo nên một cơ thề lạ lùng, một bộ thần kinh lạ lùng — thi sĩ Tố Như.

 

Và:

 

"Qua di truyền tộc họ, qua ảnh hưởng quê quán, tất cả vận mệnh của đẳng cấp đă thấm vào mạch máu Nguyễn Du từ phút nằm trong bụng mẹ ».

 

Ở đây, thầy địa lư phương đông kết hợp với chủ nghĩa di truyền phương tây, thêm cái đặc điểm huyền bí là « sinh lực chỉ nẩy nở ở chỗ núi cao rừng rậm chỗ không kết tụ ở đồng ruộng » nghĩa là ở chỗ có hươu nai chớ không phải ở chỗ có người !

 

Hăy nghe Nguyễn Bách Khoa cắt nghĩa cá tính của Nguyễn Du. Theo Nguyễn Bách Khoa, cá tính của Nguyễn Du xuất phát ,từ chỗ Nguyễn Du là một người nhiều bệnh mà bệnh chỉ  là bệnh thần kinh; bệnh thần kinh là nguồn gốc thiên tài của Tố Như. ông lang Nguyễn Bách Khoa bắt mạch và đoán bệnh như sau đây :

 

«Xét Nguyễn Du th́ thấy ông có cần tạng tối ư đa cảm : đó là một thề cách của trạng thái mất thăng bằng về tinh thần nhận thấy ở sự thải quá hỗn loạn của cảm xúc, ở sự bất lực không điều ḥa được tinh cách hăng hô, mănh liệt, bền lâu, những sức phản động của thần kinh hệ đổi với những rung động ở ngoại giới ùa vào. Can tạng ấy làm Nguyễn Du lúc nào cũng lo sợ hăi hùng rồi trí tưởng tượng bị kích thích thải quá, phải làm việc cấp bách, đâm ra sảo loạn, tạo nên những viễn ảnh ghê gớm hợp với sự lo sợ kia ».

 

Quan trọng nhất là cái bệnh thần kinh của Tố Như; Nguyễn Bách Khoa tiếp:

 

«Nguyễn Du là người giàu hơn ai hết khiếu ảo giác. Điều nhận xét này tối ư quan trọng v́ nó sẽ giúp ta cắt nghĩa tất cả thiên tài và sự nghiệp văn chương của thi sĩ...

 

Một nhà y học, ông Ball định nghĩa : « Ảo giác là tri giác không đối tượng ». Đó là triệu chửng của sự ốm yếu, của trạng thái suy nhược thần kinh, ta thường gặp nỏ ở những người điên hoặc ở những người điên một nửa, hoặc ở những người có chứng tật căn tạng thần kinh ».

 

Kết luận hay ho nhất là ở những gịng sau đây trong đó Nguyễn Bách Khoa vén màn bi mật, chỉ cho độc giả thấy nguồn gốc sinh lư của thiên tài Nguyễn Du. Hăy nghe một đoạn văn có tính chất Liễu Trai chí dị :

 

« Sự thay đôi thời tiết đă kích động toàn the giác quan Nguyễn Du, kích động thần kinh hệ Nguyễn Du, kích động đến nỗi làm cho ảo năo đau đớn—đau đớn cả phần xác lẫn phần hồn.

 

Bóng tối lạnh ngắt của đêm càng cấu xẻ thêm con bệnh thằn kinh ấy. Ta có thề tưởng tượng ra một cảnh đêm thu trong một túp lều        dưới một ngọn đồi, thi sĩ đang quằn quại trên giường vi bệnh thần kinh của ḿnh.

 

Tiếng gió may thổi vù vù bên ngoài làm nghiến kèn kẹt những cành cây; giọt mưa rả rích rơi thánh thót trên tầu tiêu. Nh́n ra sân, chỉ có bóng tối dày đặc. Chung quanh, vũ trụ đang quằn quại trong một cơn hoảng hốt mê sảng.

 

Với cái khiếu nó làm cho Nguyễn Du nh́n ma quỷ trên sóng Lam giang, với cái thần kinh hệ luôn luôn rung động nó khiến Nguyễn Du thương khóc mỗi lần chạnh ḷng hoài cổ, Nguyễn Du không thể không ảo cảm đến thế giới cô hồn trong bóng tối. Xưa nay, đối với con bệnh thằn kinh, bóng tối vốn là nơi sinh hoạt của ma quỷ. Khác hẳn với người thường chỉ phỏng đoán, con bệnh lại trông thấy rơ cái sinh hoạt ấy như có thực. Con bệnh sống với ảo ảnh đó bằng tất cả giác quan và tâm hồn ḿnh—như lúc tỉnh táo ban ngày. Trong cơn khủng hoảng thần kinh kia, thi sĩ Nguyễn Du chỉ c̣n là một khi cụ ngoan ngoăn trong tay khiếu ảo giác ».

 

Nghe rơ chưa ? Nguyễn Du là người nhiều bệnh, bệnh chủ yếu là bệnh thần kinh. Nguyễn Du chỉ là khỉ cụ của ảo giác, ảo giác là trạng thái thần kinh của người điên hay của người điên một nửa. Yếu tố này—theo Nguyễn Bách Khoa—là tối ư quan trọng, v́ nó cắt nghĩa tất cả thiên tài và sự nghiệp văn chương của thi sĩ Tổ Như !

 

Đọc tới chỗ Nguyễn Du trong túp lều giữa đêm thu đày đặc bỏng tối, ta không thề không nhận thấy hết sức rơ ràng cải người có « ảo giác » dồi dào kia chính thị Nguyễn Bách Khoa chớ không phải ai đâu khác !

 

Ông lang Nguyễn Bách Khoa chẳng những t́m thấy Nguyễn Du mắc bệnh thần kinh, mà cả nàng Kiều cũng mắc bệnh thần kinh nữa:

 

« Tóm lại, Kiều là một người ốm yếu thần kinh. V́ ốm yếu, nàng đă có một căn tinh dâm đăng, trầm uất, sầu muộn, hoàng hốt, liều lĩnh, sợ hăi. Căn tinh này cộng với cái lư tưởng thấp hèn về sự sống của nàng do giáo dục gây nên, khiến nàng thành một kẻ hèn nhát, ích kỷ, vụ lợi, vụ nhân, thèm giàu sang, không chung thủy, thiếu đức độ nhân nghĩa ».

 

Vi mà Nguyễn Bách Khoa chần mạch cho bản thân ḿnh, t́m hiểu « căn tạng » của minh th́ chắc sẽ t́m thấy một chửng bệnh thần kinh làm nền tảng cho tài ba sắc sảo của ḿnh, nếu không th́ làm gi có quyền Nguyền Du và Truyện Kiều được ?

 

Phê b́nh mà làm ǵ ?

 

Mấy đoạn trích dẫn đủ chứng minh cho độc giả rằng lời phê b́nh của Nguyễn Bách Khoa không có ǵ là khoa học cả, càng không có « nhuộm màu mác -xít » ǵ cả- Đúng như lời một triết gia, duy tâm khôn ngoan c̣n dễ chịu hơn là «duy vật » ngu xuẩn ; cách phê b́nh của Nguyễn Bách Khoa là thứ "duy vật » ngu xuẩn ấy. Mục đích của chúng tôi không phải là phê b́nh Nguyễn Bách Khoa ; chúng tôi        sở dĩ phải nói đến ông lang này là v́ ông Trung xem Nguyễn Bách. Khoa như  tiêu biểu cho lối phê b́nh khoa học, đề mà phê b́nh lối phê b́nh khoa học đố và cho rằng       « muốn lănh hội một sự kiện văn nghệ không thề đứng ở quan điểm khoa học được ».

 

2. Khoa học ở đây dĩ nhiên không phải là khoa học vật lư, khoa học tự nhiên, mà là khoa học nhân văn, khoa học xă hội ông Trung lại cho rằng phê b́nh khoa học tức là «   tham vọng áp dụng phương pháp thực nghiệm dùng trong khoa học vật lư vào trong phạm vi văn chương ».

 

Không phải như thế. Hoàn toàn không phải như thế. có đời thuở nào mà người ta lại dùng phương pháp nghiên cứu vật lư đề nghiên cứu văn chương đâu mà ḥng công kích, công kích kiều đỏ khác nào bậm môi co tay đấm vào không khỉ.

 

Trước hết hăy quan niệm đại khải phương pháp phê binh khoa học trong văn chương là gi ?—Là không phải một phương pháp chủ quan tùy sở thích người phê b́nh hay tùy một số nguyên tắc do chủ quan tạo ra, mà là một phương pháp căn cứ vào những quy luật khách quan được rút ra từ sự tổng kết kinh nghiệm nghiên cứu văn học và các ngành lân cận, rút ra từ khoa học xă hội mà văn học là một bộ phân không thể phân ly. Văn chương tất nhiên không phải là vật lư học ; văn chương cũng không phai là chính trị học. Tuy vậy, nghiên cứu lănh vực vật lư, lănh vực chỉnh trị hay lănh vực văn chương của thế giỏi đều phải phù hợp với quy luật khách quan, nghĩa là không thoát ly được phương pháp khoa học. Duy điều cần yếu bậc nhất cho nhà phê b́nh văn học là nắm vững quy luật của lịch sử, quy luật của văn học và cả quy luật của sự phê b́nh văn học nữa.

 

Cái sai lầm nghiêm trọng của ông Nguyễn văn Trung là tưởng chừng đâu chi có khoa học vật lư mới là khoa học. Sự thật là, ngày nay, không phải chi cỏ những người mác -xit khẳng định sự tồn tại của khoa học xă hội, sự tồn tại của quy luật khách quan trong lịch sử và trong các ngành nghiên cứu xă hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng.; mà ngay một số càng ngày càng đông nhà trí thức tư sản cũng công nhận điều ấy. Phủ nhận sự tồn tại của khoa học xă hội, phủ nhận tính chất khoa học của sự nghiên cứu văn học, ông Nguyễn văn Trung phải chăng muốn cho trí tuệ con người thụt lùi lại hồi hai trăm năm về trước?

 

Một sai lầm nghiêm trọng khác của ông Nguyễn văn Trung được biểu lộ trong càu sau đây :

 

« Muốn lănh hội một sự kiện nghệ thuật, không thề đứng ở quan điểm khoa học được. V́ thái độ khoa học là nhằm cắt nghĩa sự vật, mà cắt nghĩa tức là giản lược điều cắt nghĩa vào cái khác nó ».

 

Tại sao nhà phê b́nh văn học không có quyền cắt nghĩa một sự kiện văn học? Không cắt nghĩa th́ làm sao mà hiều? Không hiểu th́ làm sao mà "lănh hội»? Ví dụ như sự ra đời của Truyện Kiều cách đây một thế kỷ rưỡi, và ngày nay sự chuần bị kỷ niệm 200 năm ngày sinh của tác giả Truyện Kiều, đâu là những sự kiện văn học. Tại sao, v́ lư ǵ, đụng chạm đến nguyên tắc thiêng liêng thần thánh nào mà một nhà phê b́nh văn học không được cắt nghĩa những sự kiện văn học nghệ thuật ấy? Cần cắt nghĩa lắm chớ. Hỏi ông Trung vậy chớ, nếu ông không cắt nghĩa chúng nó th́ ông lănh hội bằng cách nào nhất là khi ông phải tŕnh bày sự lănh hội của ông cho người khác nghe, ví dụ như khi ông viết bài Đặt vấn đề Truyện Kiều chẳng hạn ? Mà phàm đă cắt nghĩa th́ phải cắt nghĩa A bằng B chớ có khi nào Tại cắt nghĩa A bằng A bao giờ?

 

A = A, Nguyễn Du là Nguyễn Du, cái định lư ấy ở đây không c̣n có ư nghĩa ǵ hết. C̣n như khi ta nỏi: Nguyễn Du là thi sĩ tác giả Truyện Kiều, th́ A bằng B, và như vậy mới có ư nghĩa và ư nghĩa ấy vẫn đúng, vẫn khoa học. Cũng như thế, khi tôi nói: ông Nguyễn văn Trung là giáo sư triết học, tác giả quyền Nhận Định, tác giả bài Đặt lại vấn đề Truyện Kiều, ấy là tôi cắt nghĩa sự vật Nguyễn văn Trung, tôi « giăn lược » sự vật Nguyễn văn Trung « vào cái khác nó » ; nhưng có làm như thế tôi mới biết ông Trung, mà làm như thế là đúng ; nếu cắt nghĩa đến đó chưa đủ th́ tôi sẽ nói dài hơn, t́m hiểu sâu hơn, A bằng B, bằng C, v.v... song nhất thiết tôi phải cắt nghĩa sự vật Nguyễn văn Trung mới lănh hội nó được. Mà Nguyễn văn Trung tác giả quyền Nhận Định, tác giả bài Đặt lại vấn đề Truyện Kiều quả là một hiện tượng văn học nghệ thuật chớ không chỉ là một hiện tượng vật lư học hay sinh vật học. Vậy th́ đề "lănh hội » một hiện tượng văn học nghệ thuật, sự cắt nghĩa không những là điều có ích mà lại là điều thiết yếu nữa.

 

C̣n như, khi ông Trung bảo : nhà phê b́nh khoa học cắt nghĩa các tác phẩm văn chương « bằng yếu tố tâm lư, kinh tế, xă hội và cho rằng tác phẩm hoàn toàn chỉ là những yếu tố đó » (chỉnh ông Trung nhấn mạnh vào hai chữ chỉ là), thi ông Trung đă vượt quá sự phê b́nh để  qua mức đặt điều đặt chuyện. Bởi v́ nhà phê b́nh nếu thực phê b́nh một cách khoa học thi lại không bao giờ cho rằng «tác phẩm văn chương hoàn toàn chỉ là những yếu tố tâm lư, kinh tế, xă hội...."Một phương pháp phê b́nh chân chính khoa học tất nhiên phải chú ư đến những (tiều kiện lịch sử và văn hóa trong đó tác gia sinh sống và sáng tác ; Truyện Kiều và Nguyễn Du không thể nảy sinh ở thế kỷ thứ 10 hay ở dưới chế độ xă hội chủ nghĩa được, ít nhất là v́ lẽ rằng hồi thế kỷ thứ 10 tiếng nói và chữ viết Việt nam chưa cho phép có một áng văn tuyệt tác như Truyện Kiều, c̣n đến chế độ xă hội chủ nghĩa, những thân phận éo le của nàng Kiều không c̣n nữa. Chẳng đợi tới bây giờ, trước kia Phan huy Chú và Trương quốc Dụng đă từng có ư kiến rằng Chinh phụ ngâm phản ánh một tâm lư do t́nh trạng chiến tranh triền miên gây ra. Tác phẩm văn chương và bối cành lịch sử gắn liền nhau, đó là một sự thật cần được cắt nghĩa rơ. Nhưng, một phương pháp phê b́nh chân chính khoa học không thể dừng lại ở điều kiện lịch sử, văn hóa, v.v... bởi v́ dừng lại đó th́ chưa hiểu ǵ quan trọng về nội dung của tác phẩm, mà phái đi vào chủ đề tư tưởng, cấu tạo tác phẩm, nhân vật trong truyện, h́nh tượng nghệ thuật, đặc điểm văn chương, tác dụng của tác phẩm v.v... nghĩa là phải phê b́nh toàn diện, phê b́nh ờ những phần quan trọng nhất của tác phẩm văn chương.  

 

Ông Trung có khi nào đọc một bản phê b́nh của người Mác - xít đối với sự nghiệp văn chương ví dụ như của L. Tolstoi, H. Balzac, c. Dickens, chưa? ông Trung có khi nào xem một bản phê b́nh của người mác -xit đối với những tác phẩm văn nghệ như Hồng lâu mộng, Truyện Kiều, Tắt đèn chưa?

 

Hẳn là chưa. Nếu đă, th́ sao ông Trung lại lấy Nguyễn Bách Khoa với quyển Nguyễn Du và Truyện Kiều làm kiểu mẫu của lối phê b́nh mà ông gọi là “phê b́nh hoa học”, “nhuộm màu mác-xít”? Nếu đă th́ sao ông Trung lại bảo rằng phê b́nh khoa học “cho rằng tác phẩm hoàn toàn chỉ là những yếu tố tâm lư, kinh tế, xă hội”?

 

Nói tóm một câu, lư thuyết của ông Trung bài trừ sự cắt nghĩa, bài trừ quan điểm khoa học, cho nên nó khó tránh khỏi tiếp cận thái độ chiêm ngưỡng tôn giáo hay là trở về với xúc cảm chủ quan.

 

3. “Thái độ nghệ thuật” của ông Nguyễn văn Trung. Theo ông trung muốn lănh hội một tác phẩm nghệ thuật không thể đứng ở quan điểm khoa học mà phải có thái đọ nghệ thuật; như vậy ông Trung đem thái độ nghệ thuật đối lập với thái độ khoa học. Sự đối lập ấy là sai lầm, một phần v́ ông Trung tưởng chừng đâu thái độ khoa học chỉ ở bên ngoài tác phẩm, chỉ muốn biết đến những yếu tốt kinh tế, lịch sử, xă hội ảnh hưởng đến tác phẩm; phần khác v́ ông Trung tưởng chừng đâu hễ đi vào phê b́nh nội dung ư nghĩa của tác phẩm th́ không c̣n phải phục tùng bất cứ một quy luật khách quan nào. Thực ra, một thái độ khoa học nhất trong sự phê b́nh tác phẩm văn học, nghệ thuật, dĩ nhiên phải đi vào t́m hiểu nội dung, ư nghĩa của tác phẩm, t́m hiểu, tài ba của tác giả trong khi sáng tác; và muốn hiểu được như vậy không thể tùy tiện chủ quan của ḿnh mà phải phục tùng một số nguyên lư của mỹ học, nghĩa là phục tùng quy luật của cái đẹp, cái hay. Nói một cách khác, quan điểm khoa học trong việc nghiên cứu phê b́nh tác phẩm văn nghệ hoàn toàn không đối lập với thái độ nghệ thuật và thái độ nghệ thuật chân chính nhất tất nhiên phải phù hợp với quan điểm khoa học – khoa học đây không phải là khoa học vật lư mà là khoa học xă hội và khoa học của cái đẹp (mỹ học).

 

Khi ông Trung bảo rằng muốn lănh hội một tác phẩm nghệ thuật phải có thái độ nghệ thuật, th́ chúng tôi đồng ư thôi. Chẳng lẽ cách nghiên cứu Truyện Kiều lại giống cách lau dầu một chiếc xe đạp? Vấn đề là phải xem ông Trung cho vào cái khái niệm “thái độ nghệ thuật” của ông những nội dung, ư nghĩa nào. Nhưng, đến khi chúng ta biết rơ cái nội dung ư nghĩa đó th́ chúng ta sẽ không c̣n hoàn toàn đồng ư với ông Trung nữa. Theo ông th́:

 

a) “Thái độ nghệ thuật” nghĩa là vào trong tác phẩm “t́m khai triển ư nghĩa của ư tưởng văn nghệ sơ thủy của tác giả” – Nếu câu “ư hướng văn nghệ sơ thủy của tác giả” = “chủ đề tư tưởng” mà chúng tôi đă nói ở trên th́, về điểm thứ nhất này, có thể nhất trí với ông Trung.

 

b) “Thái độ nghệ thuật” cho rằng “nhiệm vụ của phê b́nh là khai triển, bày tỏ cái ẩn kín, bao hàm trong tác phẩm một cách khách quan”, “người phê b́nh phải tự xóa đi để hào ḿnh với ư hướng sáng tác của tác giả, mong lănh hội được đúng ư nghĩa tác giả muốn nói, không phải bắt tác phẩm theo ư riêng của ḿnh”; phê b́nh văn học “có nhiệm vụ bày tỏ lời gởi của tác giả cho độc giả”.

 

Đồng ư ở đoạn thứ nhất. Không hoàn toàn đồng ư ở hai đoạn sau. Một nhà phê b́nh tất nhiên phải nhập điệu với tác giả để hiểu đúng ư muốn nói ǵ của tác giả, nhưng ta là nhà phê b́nh chớ không phải là một người chỉ biết nói lại điều muốn nói của tác giả. Nhà phê b́nh cần phải lănh hội tư tưởng của tác giả một cách khách quan, không uốn nắn tư tưởng của tác giả theo tư tưởng riêng của ḿnh; nhưng đó mới là giai đoạn đầu của quá tŕnh phê phán. Nhà phê b́nh lại cần phải giữ tính độc lập của ḿnh, đứng trên lập trường quan điểm nhất định của ḿnh, nghĩa là không được tự xóa ḿnh, như vậy là để phát hiện những cái hay ho và tiến bộ của tác phẩm, những cái hạn chế và sai lầm của tác giả giúp bạn đọc nhận xét được tác phẩm và tác gia, cho bạn đọc phân biệt cái chính cái phụ, cái tốt cái xấu và v́ thế mà càng lănh hội được “lời gởi” của tác gia trong tác phẩm. Nói một cách khác, nhà phê b́nh phải là một người hướng dẫn. Chưa đóng vai tṛ hướng dẫn tốt th́ không ra một nhà phê b́nh. Phân tích, khen ngợi, đề cao, chỉ trích, đả phá, đều nằm trong chức năng của nhà phê b́nh văn học, chớ nhà phê b́nh văn học đâu phải chỉ “có nhiệm vụ bày tỏ lời gởi của tác giả cho độc giả” mà thôi.

 

Tỉ dụ như khi chúng ta phải phê b́nh quyển Truyện Kiều của Nguyễn Du th́, điều trước tiên là t́m hiểu “lời gởi” của Nguyễn Du cho độc giả Truyện Kiều; chúng ta phát huy lời gởi dó – nghĩa là phát huy nội dung tư tưởng của tác phẩm - ở những chỗ nó tích cực nhất, ví dụ như sự quan tâm đến thân phận con người bị áp bức, bị chèn ép, ví dụ như những cách nh́n thù ghét đối với những cái ǵ là áp bức bất công, kể cả quan lớn đại diện cho triều đ́nh vừa thắng trận, hay ví dụ như những tia sáng nhân định thắng thiên trong đêm dài định mệnh, v.v… Chúng ta cũng cần tŕnh bày một cách phê phán những phần kém tích cực hay là những phần tiêu cực nữa, ví dụ như tư tưởng định mệnh mà nhà phê b́nh tất nhiên cho là sai lầm nhưng phải hiểu v́ sao mà tác giả lúc bấy giờ không thể nào thoát được như chúng ta ngày nay. Sự thật là một tác phẩm lớn như Truyện Kiều nếu chưa phân tích kỹ, nếu độc giả lúc bấy giờ không thể nào thoát được như chúng ta ngày nay. Sự thật là một tác phẩm lớn như Truyện Kiều nếu chưa phân tích kỹ, nếu độc giả chưa được hướng dẫn, th́ sự lănh hội “lời gởi” của tác giả, tức chủ đề tư tưởng của tác phẩm, không phải dễ dàng; trái lại, bởi v́ ngoại diện thường dễ thấy hơn nội dung, độc giả không được hướng dẫn, sẽ chú trọng trước hết vào những câu hoa nguyệt phong t́nh, sẽ chú trọng trước hết vào chủ nghĩa tiền định.

 

c) Đặc điểm thứ ba của “thái độ nghệ thuật” của ông Nguyễn Văn Trung là nhận định rằng “có thể xác định giá trị của một tác phẩm, về h́nh thức, ở chỗ tác phẩm đó biết sử dụng khéo léo những quy ước của thẩm mỹ học và về nội dung, ở tính cách chân thực lời gởi của tác giả là một “chứng nhận” trong một hoàn cảnh” và, “một tác phẩm đạt tới đích khi nó tạp được một rung cảm nghệ thuật v́ giá trị thẩm mỹ và tính cách chân thực lời gởi chứa đựng trong tác phẩm”.

 

Giá trị của một tác phẩm được xác định bằng những tiêu chuẩn nào? Đó là một vấn đề lớn của thẩm mỹ học. Chúng tôi nghĩ rằng trước hết là ở nội dung, đồng thời ở h́nh thức biểu hiện nội dung ấy. Về h́nh thức, ngoài sự áp dụng các nguyên tắc mỹ học, hay cũng có thể nói là trong sự áp dụng các nguyên tắc mỹ học, để đánh giá một tác phẩm văn học lớn như cỡ Truyện Kiều, cần đánh giá công lao của tác giả trong việc làm hoàn chỉnh ngôn ngữ dân tộc, làm cho ngôn ngữ dân tộc tiến lên một tŕnh độ phong phú, chính xác, thâm thúy và điêu luyện mới.

 

Về nội dung của tác phẩm th́, đối với yêu cầu của nhân dân, của độc giả, bẳn tính chân thực của “lời gởi” của tác giả chưa đủ để xác định giá trị của một tác phẩm. Nếu chúng tôi là một nhà phê b́nh văn học, th́ thật khó cho chúng tôi phân biệt được mức “chân thực” của “lời gởi” của các tác giả của mấy quyển: Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ

 

ngâm, Lục Vân Tiên. Nhưng chắc là độc giả không trái với ư kiến của chúng tôi lầm khi chúng tôi đồng ư với nhiều người — có lẽ kể cả ông Nguyễn văn Trung nữa — rằng giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều ở mức độ cao hơn ba tác phẩm kia. Vậy th́ làm sao mà có thể khẳng định rằng tinh chân thực cùa lời gởi là cái gốc của giá trị của một tác phẩm? Một lôri gừi cua lác giả — «chứng nhận trong hoàn cảnh", như lời của ông Trung — có thể là chân thực, nhưng lại nông cạn, hay phiến diện, hay tai hại cho sự tiến bộ của con người của đất nước ; th́ trong những trường hợp đó, liệu tính chân thực ấy có làm ra giá trị của tác phẩm không? Nhất định không!

 

Cho nên khó mà đồng ư với ông Trung khi  ông nghĩ rằng một tác phẩm đạt tới đích khi nó tạo được một « rung cảm nghệ thuật » ở độc giả.

 

Nếu chỉ có thế th́ ít quả đối với yêu cầu của số đông độc giả, cũng là ít quá đối với mục đích của những nhà sáng tác. Số đông độc giả, đặc biệt là thế hệ thanh niên, đ̣i hỏi văn nghệ sĩ phải là một loại kỹ sư tâm hồn cao quư, nhă nhặn, thâm trầm, phải là những người bạn hiền, người thầy tốt. C̣n các nhà sáng tác tiến bộ thi không khỏi xem sự nghiệp văn chương của ḿnh như một cống hiến hữu ích cho nhân dân, cho đất nước, cho con người.

 

d) Điều vừa mới tŕnh bày dắt chúng ta đến đặc điểm tư tưởng của « thái độ nghệ thuật » của ông Nguyễn văn Trung:  Văn chương có một cứu cạnh tự tại. ».

 

Nói « văn chương có một cứu cạnh tự tại » khác ǵ nói « nghệ thuật vị nghệ thuật » ? Mực đích của văn chương là phục vụ lợi ích của nhân quần, là góp phần làm sáng trí sáng ḷng người, góp phần làm cho con người có ư thức về tiền đồ của nhân loại. Chúng tôi không thuộc vào phải những người máy móc xem văn chương đối với xă hội giống như h́nh người trong tấm gương ; ông Trung đừng nghi- ngờ vô ích, đừng gán ư kiến của Nguyễn Bách Khoa cho những người mác-xít. Sự thật đâu có đơn giản đến thế ? Những người mác -xít nhận định rằng văn chương phân ánh thực tại xă hội. Song phải hiểu chữ «phản ánh » ; đây không phải là chữ phản ánh dùng trong quang học, mà là chữ phản ánh dùng trong triết bọc, Mác, Ăng-ghen, Lê-nin lắm lúc cũng dùng chữ « tái tạo», tái tạo cuộc sống, tái tạo hiện thực. Nhà văn sáng tác, dầu muốn dầu không muốn đều sáng tác với chất liệu, với văn liệu mà minh thu lượm được trong thực tế xă hội và trong sách vở. Có những sự nghiệp văn chương phản ánh khá trung thực thời đại của tác giả, vi dụ như sự nghiệp văn chương của các nhà văn cận đại, nổi tiếng L. Tolstoi, H. Balzac, c. Dickens. Có tác gia phản ánh một bộ phận phản ánh một cách lờ mờ thực tế của xă hội ḿnh sống: số này đông đến kể không xiết. Nh́n chung, không tác phẩm văn chương nào không phản ánh thực tế xă hội kể cả tác phẩm của những người phản đối học thuyết duy vật lịch sử. Sự phản ánh này không phải là như h́nh tượng ở trong gương mà qua trí tuệ, tâm hồn, tưởng tượng, mơ mộng của tác giả, qua bao nhiêu thừa kế vốn tiếng văn hóa cũ, nhất là qua các h́nh thái đấu tranh tư tưởng đương thời. Hơn nữa, tác giả có thể là một nhân tài, cũng có thể là một thiên tài. Một thiên tài, ngay cả một nhân tài xuất sắc có thể để trí tưởng tượng và mơ mộng của ḿnh vượt qua thời đại ḿnh sống, mở ra cho con người những viễn ảnh sáng lạng, mà kỳ thật mơ mộng, và tưởng tượng của tác giả tiến bộ đó vẫn phù hợp với mơ mộng và tưởng tượng của nhân dân lao động hằng yêu cầu một cuộc đời tốt đẹp, cuộc đời lư tưởng cũng như mơ mộng của tác giả tiến bộ không phải là không thể không thực hiện được.

 

Chúng tôi nói mấy điều vừa nói, chẳng qua v́ muốn nhấn mạnh cho những ai cần biết rằng người mác -xit và chủ nghĩa Mác về vấn đề sáng tác văn nghệ không hề máy móc hẹp ḥi như họ tượng tượng, không hề nghĩ rằng tác giả chỉ có ghi chép, không hề phu nhận mo- mộng và thiên tài. Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều nếu không phải là một thiên tài thi cũng là một nhân tài kiệt xuất.

 

Dầu thế, làm sao mà cho rằng «văn chương có cứu cánh tự tại » được? Văn học, nghệ thuật thuộc thượng tang kiến trúc cua một cơ sở xă hội, phát triển theo sự phát triển chung của xă hội và theo những quy luật riêng cua nó; thấy được quy luật chung mà phủ nhận quy luật riêng sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nhưng, văn học và nghệ thuật, chính v́ nó là sản phẩm của con người xă hội, cho nên, xuất phát từ nhân sinh, nó phải phục vụ nhân sinh.

 

IV/VỀ Ư NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA « TRUYỆN KIỀU » : « TRUYỆN KIỀU » PHẢI CHĂNG LÀ SỰ«DIỄN TẢ CUỘC ĐỜI NHƯ LÀ MỘT PHIÊU LƯU CỦA CON NGƯỜI TỰ DO »?

 

Trở về trên chúng tôi đă thảo luận với ông Nguyễn văn Trung về những quan điểm phê binh văn học. Bây giờ, chúng tôi muốn biết ông Trung đă áp dụng quan điểm phê b́nh của ông đề xác định ư nghĩa và giá trị cua Truyện Kiều ra sao? ông Trung viết :

 

"Tôi thiết tưởng rằng Truyện Kiều đă đạt tới mục đích đó, nghĩa là xứng đáng là một tác phẩm văn chương và hơn nữa là một tuyệt tác v́ hai điểm :

 

1) Nguyễn Du đă đề nghị một lối nh́n về cuộc đời như một phiêu lưu của một tự do luôn luôn phải nhận định một lối đi trong cái phức tạp, mơ hồ của hoàn cảnh, không biết đâu là con đường sáng, đâu là con đường bế tắc và luôn luôn phải lựa chọn trong lo lắng, xao xuyến trước cái bấp bênh may rủi của tương lai, của t́nh cờ... Cuộc đời trong Truyện Kiều không phải là an nghĩ, thanh b́nh, thân ái, trật tự khi nh́n nó trên lư thuyết, luân lư cua nhà triết học hay nhà luân lư, nhưng là một thân phận, một cái kiếp con người long đong ba chim bảy nổi, không có ǵ là vững chắc lâu dài. nhưng éo le, dễ vỡ, phức tạp, gian khổ... Truyện Kiều có một khả năng truyền cảm mănh liệt! nó động đến những khía cạnh sâu xa, bi đát của hiện hữu, của con người nhân thể và thiết thực ở trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta thích truyện Kiều v́ ai cũng bắt gặp ḿnh ít nhiều trong cuộc phiêu lưu của Kiều, nghĩa là trong thân phận làm người có những lúc lo lắng băn khoăn trước một tương lai mờ mịt, có những chán nản uất ức trước những cái vô lư cuộc đời, có những lúc tin tưởng hy vọng muốn bám víu lấy cuộc sống v́ tha thiết sống tuy đôi khi chỉ là những tia hy vọng mong manh hay là ảo vọng.

 

2) Nguyễn Du đă thành công trong việc sử dụng những kỹ thuật diễn tả cuộc đời như là một phiêu lưu cha con người tự do đó.

 

Về nội đung, Nguyễn Du đă nói lên được những khía cạnh sâu xa phổ biến nhất của thân phận con người trong tràn gian. Một tác phẩm càng phổ biến trường tồn bất hủ, nếu càng đạt được cái phổ quát. Qua Truyện Kiều, chúng ta đă t́m thấy những nét điển h́nh nhất của con người định nghĩa như một dự phỏng (un projet), « một tự do ».

 

1. Thân phận con người và cuộc đời được toát ra từ Truyện Kiều. Thành thực mà nói, chúng tôi nhận thấy rằng ư kiến của ông Trung về ư nghĩa Truyện Kiều cô ghi được một sự tiến bộ đáng kể so với những ư kiến trước kia của số đông các nhà phê b́nh Truyện Kiều được ông Trung kể lại trong bài Đặt lại vấn đề Truyện Kiều. Sự tiến bộ là ở chỗ nhận thấy rằng qua Truyện Kiều, Nguyễn Du nói đến con người, đến thân phận con người, đến cuộc đời của con người.

 

Những thân phận con người là thế nào? Cuộc đời của con người là thế nào? Cụ thể, cuộc đời 15 năm lưu lạc của nàng Kiều nói lên cái ǵ về thân phận của con người nói chung? Chúng tôi và ông Trung không đồng ư ở chỗ này.

 

ông Trung nói: « Con người là một dự phỏng — un projet —» th́ câu đố nghĩa là ǵ ? Ai dự phỏng ? Dự phỏng của ai ? Ư kiến cùa ông Trung ngầm dắt đến chủ nghĩa tín ngưỡng. Nói con người là một dự phỏng, c̣n có ư nghĩa rằng đời người là một thí nghiệm của lực lượng thần bí nào, hoặc có ư nghĩa rằng đời người chỉ là một sự phiêu lưu vô hạn đầy băn khoăn, luôn luôn xao xuyến, luôn luôn tan vỡ, không thể ổn định được. Tư tưởng của ông Trung về cuộc đời và con người hoàn toàn giống với tư tưởng của một trưởng phái triết học tư sản hiện đại ở phương Tây cho rằng con người sinh ra cô độc, bị buộc phải tự do, sống trong một chuỗi dài lo sợ, cuộc đời là vô lư tuy phải sống ở đời, xưa nay đă thế, từ nay về sau vẫn thế.

 

Chúng tôi không tán thành quan điểm ấy về cuộc đời. Chúng tôi nghĩ rằng điều mà thi sĩ Tố Như muốn gởi gắm lại cho độc giả qua Truyện Kiều không phải là một quan niệm về cuộc đời như ông Trung đă tả. Đời có lư lắm chớ! Đời đang sống và có lư do để sống lắm chớ! Cuộc sống có thể có ư nghĩa v́ có mục đích chính đáng. Ư nghĩa của cuộc đời đối với một người tùy nhiều điều kiện, mà trước hết là tùy quan niệm cửa người ấy về vũ trụ, xă hội và nhân sinh, tùy h́nh bóng nhân vật anh hùng làm mẫu mực của người ấy hằng để trong tâm trí như hoa tiêu đề địa bàn trước tay lái của ḿnh. Sống để dẹp mọi nỗi bất bằng, để làm hạnh phúc cho mọi người xung quanh, sống đề làm hạnh phúc cho bản thản, sống để tạo hạnh phúc cho các thế hệ bất tận về sau. Đời có lư lắm chớ! Những điều vô lư trên đường đời không thể thủ tiêu ư nghĩa cuộc đời mà trái lại càng gián tiếp chứng minh rằng cuộc sống phải là một cuộc đấu tranh bền bỉ v́ con người. Nếu bảo đời là vô lư, đường đời muôn thuở mờ mịt, không lối thoát, tức là bảo rằng đời không đáng sống; nếu bảo đời là một phiêu lưu vô đỉnh, một dự thảo, tức là bảo đi không hướng, sống không mục đích, thuyền không biết chỗ ném neo. Nếu bảo đời không có ư nghĩa, tức là bảo rằng sống không giá trị. Như thế, chủ nghĩa bi quan trào ngập, bó tay người. Đó là một màu định mệnh tuy không lấy tên là định mệnh.

 

Những người mác -xít, trái lại, được bồi dưỡng bởi chủ nghĩa lạc quan, bởi một triết lư chiến đấu và phục vụ quyền sống hạnh phúc của con người. Những người mác-xít nghĩ rằng sở dĩ cho đến nay đời người, đời của số đông, phải ch́m nổi, éo le, long đong, gặp nhiều đổ vỡ, hẳn không phải v́ bản chất của đời người là thế. Chúng tôi cho rằng thực chất của đời người là một cuộc đấu tranh thường trực của tập thể và cá nhân chống mọi điều xấu xa, tŕ trệ, bất công trong xă hội, chống những trở lực của thiên nhiên. Xưa nay, đổ vỡ chất thành núi, nước mắt đọng thành hồ, có thực như vậy, nhưng kể chung th́ được nhiều hơn thua, trước mắt là ánh sáng chứ không phải là như đêm dày, đường đời dắt đến giải, phóng chớ đường đời không phải là một cuộc phiêu lưu vô tận. Triết lư lạc quan mở lồng ráp cánh cho con người.

 

Bây giờ chúng ta hăy xét xem Truyện Kiều có phải như ông Trung khẳng định là sự kể lể một cuộc đời phiêu lưu trên đường bế tắc đầy xao xuyến bấp bênh chăng?

 

Có như vậy, mà cũng không phải như vậy.

 

Có như vậy, bởi v́ 15 năm ấy thật gian truân biết bao? Chưa vui xum họp với chàng Kim, Kiều đă phải bán ḿnh chuộc cha, rồi từ đó thân tài sắc hết rơi vào khổ năo này lại lăn vào khổ năo khác, phiêu dạt tưởng chừng như vô hạn, tối tăm tưởng chừng như đến chết mới cùng cho, tay vừa với đến yên vui th́ yên vui liền tan vỡ như bọt nước.

 

Có như vậy, mà cũng không phải như vậy. Khác với ông Trung, chúng tôi nhận thấy Truyện Kiều là một bức tranh liên hoàn diễn tả bằng h́nh tượng nghệ thuật những nỗi bất công phức tạp của xă hội, một xă hội xấu xa khiến thân phận con người đáng lẽ phẫi đầy đủ hạnh phúc th́ lại chịu vô số những tai nạn khôn lường. Nhân vật chính trong truyện là một đàn bà, không phải một đàn ông, có lẽ điều này không phải là một sự t́nh cờ: dưới chế độ phong kiến, đàn ông vẫn bị áp bức đó, song bị áp bức nhất là đàn bà. về mặt này, Truyện Kiều là truyện của con người bị áp bức nhất dưới chế độ phong kiến. Tiếng nói của đàn bà ở sách Chinh phụ ngâm, ở sách Cung oán ngâm khúc, ở Truyện Kiều, đều là tiếng nói của nạn nhân của xă hội bất công. Vậy có thể xem Truyện Kiều như bản án bằng văn học, bằng thơ, tố cáo xă hội bất công ấy. Ví dầu Tố Như tiên sinh chưa hẳn có ư thức đầy đủ, bản án kia tự nó hiển hiện lên từ mỗi đoạn của bi kịch Thúy Kiều. V́ mang kinh luân lư phong kiến lạc hậu cho nên có người không thấy hay không chịu thấy ở chỗ nàng Kiều bán ḿnh chuộc cha một bi kịch tê tái xưa nay đă có vạn ức người tài sắc phải chịu, mà lại thấy ở đó cải tội không chung thủy với t́nh nhân? Sao lại không thấy ở chỗ nàng Kiều phải hầu rượu viên quan mặt sắt, một bi kịch càng tê tái hơn nữa, mà thấy ở đó một tội trạng của người đàn bà « vừa mới giết chồng »? Bức tranh thiên h́nh vạn trạng của xă hội bất công, Truyện Kiều cũng là bản án bằng văn học của xă hội bất công đó ; điển h́nh của thân phận con người bị dày xéo, Truyện Kiều là tiếng kêu của quyền sống, cùa ḷng nhân ái.

 

Từ Truyện Kiền cũng pbần nào toát ra cái ư chí của người khốn khổ toan ra khỏi cảnh khổ, khỏi cái mà xă hội bấy giờ thường gọi là đinh mệnh, chờ không măi cam chịu tiêu cực phục tùng định mệnh ấy. Luận về nội dung tư tưởng Truyện Kiều có người (1) nhấn mạnh và chỉ nhấn  mạnh vào «cái nghiệp », «cái nghiệp đă định đến đâu mới hết thi phải đi cho đến cùng không sao trốn được » tựa như gông xiềng trong chân trên cổ của một tội đồ bị canh gác cẩn mật. Đọc Truyện Kiều có người cho rằng Nguyễn Du đă cho đẩy ḿnh đến trước sức sáng loáng của những lưỡi thép, lưỡi gươm đa được sửa soạn, lau chùi để chờ đợi giờ hành quyết và nạn nhân đă bị trói lay bịt mắt sẵn sàng ». Cái nh́n tùy chỗ đứng. Hẳn trong Truyện Kiều, yếu tố định mệnh đóng một vai không nhỏ, đó là một điểm bạn chế không tránh khỏi của Nguyễn Du. Tuy vậy, đối với các độc giả quan tâm chẳng những đến thân phận quá khứ và hiện tại của con người mà c̣n quan tâm đến lối giải thoát th́ có thể trông thấy khá rơ là, trong Truyện Kiều, ngay ở dưới trăm chà ngh́n đạp, con người vẫn đấu tranh, khi tiêu cực khi tích cực, khi đúng khi sai, bằng cách này hay bằng cách khác, chống lại sự chà đạp ấy. Trong hoàn cảnh nhất định, th́ ngay những hành động như Kiều toan tự tử ở nhà Tú Bà hay trên sông Tiền đường, đều nên được nhà phê b́nh xem không phải như một dấu hiệu vĩnh viễn khuất phục vận mạng, mà trái lại, như là một phản ứng, một chống đối, một thái độ đấu tranh chống vận mệnh éo le khắc nghiệt mà xă hội bất công cứ chồng chất lên vai của con người đă quằn quại trong đau thương. Lối ra là đầu, lúc nào sẽ được giải thoát, đến khi nào mới sống được một cuộc đời xứng đáng với con người có tâm hồn và trí tuệ, có sắc và tài?

Chưa biết ! Nhưng cái ư muốn «nhân định thắng thiên» đă được nói lên rồi. Truyện Kiền sở dĩ chiếm được ḷng người, ngoài h́nh thức nghệ thuật tuyệt vời ra, chính v́ Truyện Kiều lên án. một cách sâu sắc nỗi bất công đối với con người.

 

Nguyễn Du thuộc tầng lớp trí thức phong kiến, sao lại quan tâm đến những điều chúng ta vừa nói bên trên? Bảo Nguyễn Du, trí thức phong kiến, nghĩa là thuộc giai cấp thống trị đương thơi, phản ánh một số những bất công của xă hội phong kiến, phản ánh một số những nguyện vọng tâm tinh của b́nh dân, có phải là trái ngược với duy vật lịch sử không? — Hẳn là không; Tây phương và Đông phương xưa nay «đă biết khá nhiều văn nhân noi tiếng tuy thuộc vào giai cấp khác, lại từng phần hay hoàn toàn đứng về phía của quần chúng, hay đă nhờ miêu tả hiện thực một cách trung thành mà khách quan trở thành văn sĩ cùa nhân dân. Chỉ có ai mắc bệnh máy  móc không chữa nổi mới nghĩ rằng tất cả thành viên của một giai cấp này phải đứng về phía này,tất cả thành viên của một giai cấp kia phảiđừng về phía kia, rằng cuối thế kỷ 18, giai cấp phong kiến và chế độ phong kiến đang suy tàn th́ Nguyễn Du nhất thiết phải suy tàn và Truyện Kiều của Nguyễn Du chỉ có thể biểu lộ lời than thở bất lực của giai cấp suy tàn, bất lực. Thứ chủ nghĩa máy móc đó rất xa với triết lư mác -xit, mà lại rất gần với một thứ định mệnh siêu h́nh. Thực ra, trong cái quan hộ xă hội phức tạp, nếu tư tưởng phong kiến đă có thời giờ sâu vào tâm trí của b́nh dân, th́ thân phận ư nguyện đấu tranh của b́nh dân không khỏi ảnh hưởng đến một số người nào trong tầng lớp phong kiến. Ngoài nghệ thuật văn chương của ông, Nguyễn Du sở dĩ vĩ đại, chính là ở chỗ nhà thơ đứng về phía của những kẻ bị áp bức trong chế độ áp bức, đừng về phía của nhân dân, phía của nhân dân thực chất là phía của con người. Chớ quên rằng, từ đầu chí cuối của Truyện Kiều, tác giả luôn luôn tỏ cảm t́nh vơi kẻ chiến bại, tác giả không hề có một đoạn văn nào tỏ sự trọng vọng đối với những kẻ lắm của nhiều quyền.

 

Dĩ nhiên, nội đung Truyện Kiều c̣n khả nhiều điều hạn chế, tiệu cực, đó cũng là hạn chế của thời đại và của tác giả. Nguyễn Du chưa hiểu nổi nguồn gốc thật sự của những bất công. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du chỉ biết thương hại người khốn khổ. Chúng ta ngày nay không hề đ̣i hỏi ở Nguyễn Du ngày nọ một sự giải thích sâu xa, một đề nghị giải quyết hay hướng giải quyết thỏa đáng cho con người bị áp bức, bị đau khổ; nhưng vấn đề đă được đặt ra và phải được giải quyết lúc nào đó trong lịch sử vô dài vô tận. Ngày nọ chưa có tiền đề, điều kiện cho sự giải phóng con người như ngày nay. Chính là ngày nay chúng ta có điều kiện đề tát cạn bể khổ, để giải quyết thỏa đáng vấn đề thân phận con người mà các Truyện Kiều cổ kim đồng tây không ngớt đặt ra : tinh chất «thời sự » của Truyện Kiều ở đó; tinh chất bất hủ của Truyện Kiều là ở bản chất nhân dân của nó.

 

2." Kiều đă tự do lựa chọn định mệnh của ḿnh?"

 

Về nội dung Truyện Kiều, ông Nguyễn văn Trung cũng có viết rằng:

 

«Một quan niệm vẫn được công nhận là coi Truyện Kiều như một chứng minh thuyết định mệnh. Nhưng gần đây ông Nguyên Sa trong Sáng tạo số tháng 12 năm 1957 đă chủ trương trái lại "Nguyễn Du trên những nẻo đường tự do" đưa ra những lập luận vững chắc chứng minh Kiều luôn luôn hành động như một tự do quyết định và lựa chọn, và nếu có định mệnh, th́ chính Kiều đă chọn định mệnh. Tự do của Kiều đă đẻ ra định, mệnh, và nếu nàng không tự ư bán ḿnh chuộc cha, c̣n đâu là định mệnh ».

 

Và:    

 

«Vậy Truyện Kiều chỉ có thể là bài thơ, cuốn truyện thuật lại cuộc đời phiêu lưu của một tự do băn khoăn lo lắng, lựa chọn trước hoàn cảnh cuộc đời pha trộn may rủi, tốt xấu ». Chúng tôi dễ đồng ư với ông Trung rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều không phải đề chứng minh thuyết định mệnh như có một số nhà phê binh đă nói. Tất nhiên thuyết mệnh có mặt trong Truyện Kiều; trong Truyện Kiều thuyết định mệnh được nêu lên rất nhiều lần cho đến đỗi nhiều nhà phê b́nh ngỡ rằng đó là nội dung tư tưởng của Truyện Kiều. Kỳ thật, mũi nhọn của bao nhiêu ai oán thống khổ không tà, không trượt trên cái định mệnh mơ hồ, mà lại ghim vào chế độ bất công. Chúng tôi muốn hiểu rằng, trong mức độ nhất định, chính Truyện Kiều là sự nguyền rủa định mệnh, là cuộc đấu tranh chống định mệnh ấy. Xét cho cùng, « định mệnh» là ǵ nếu không phải là những quan hệ ràng buộc giữa con người vói guồng máy xă hội mà con người chưa làm chủ được. Sở   « đoạn trường» là ǵ ? Thực chất, là những nỗi bất công của guồng máy xă hội đối với phân con người. Nếu hiểu như thế thi tuy rằng Truyện Kiều không nhằm chững minh thuyết định mệnh và sở đoạn trường, ta cũng không thể xem nhọ yếu tố «đoạn trường», « định mệnh», bởi v́ suốt quyển truyện, tốc giả muốn cho bạn đọc như trông thấy, như rờ đụng ở trên vai ḿnh cái gánh nặng đè nén của «đoạn trường », « định mệnh » nghĩa là chế độ xă hội bất công.

 

Ông Trung cũng như ông San nhấn mạnh vào tự do lựa chọn cho nên xem nhẹ cái ách đoạn trường mà con người cứ phải bị buộc vào trong lúc toan gỡ ra. Xem nhẹ điều ấy là làm mất một phần lớn nội dung ư nghĩa của Truyện Kiều, là làm cạn cái nguồn cảm thông sâu sắc giữa nhân vật chính trong Truyện Kiều với độc giả.

 

Bây giờ nói đến ư kiến của các ông Nguyễn văn Trung và Trần bích San về "tự do" của Thúy Kiều và Nguyễn Du.

 

Ông Trung bảo : Truyện Kiều là " một phiêu lưu của con người tự do ''. Ông San bảo:" Nguyễn Du vẫn không chịu làm một sự kiện, một tấm gương phân chiếu, ông đă tỏ dấu lo âu, ông nhảy bừa vào mảnh đất tự do".

 

Luận thuyết của hai ông bắt nguồn từ chủ nghĩa sinh tồn được một lúc thịnh hành sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tác giả quyển Tồn tại và hư vô (1) và các nhà triết học sinh tồn luận đều quan niệm cá nhân con người như một sáng tạo tự lập, cô độc, hoàn toàn tự do và chính v́ vậy mà bị bắt buộc sống một cuộc đời băn khoăn lo sợ.

 

Các ông Sa, Trung mấy làn nói có người toan "mác -xít hóa " Truyện Kiều và Nguyễn Du; các ông có dè đâu rằng người khác tự hỏi vậy các ông ấy có "sinh tồn hóa " Nguyễn Du và Truyện Kiều hay không mà khái niệm ''băn khoăn lo sợ" và " tự do lựa chọn " lại được ứng dụng có hệ thống như thế.

 

Chúng tôi đă có dịp tŕnh bày ư kiến của chúng tôi về mối quan hệ biện chứng giữa tất yếu và tự do rồi (2); ở đây chúng tôi chỉ muốn thảo luận về tự do của ư chí, tự do của cá nhân con người trong khi phải lựa chọn giữa những thái độ khác nhau về một vấn đề, chúng tôi chỉ muốn thảo luận về mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm, trong phạm vi nghiên cứu nội dung ư nghĩa Truyện Kiều.

 

Thường lệ, các nhà triết học tư sản tưởng chừng đâu hễ những người mác-xít công nhận sự tất yếu lịch sử rồi th́ họ phải tuyệt đối phủ nhận sự tự do lựa chọn, phủ nhận vai tṛ sáng tạo của cá nhân con người đối với cuộc đời của ḿnh và đối với quá tŕnh lịch sử. Đâu phải thế! Chính cá nhân những người mác -xít là tượng trưng, là điển h́nh  của  tự do lựa chọn, nghĩa là trách nhiệm được ư thức sâu sắc nhất. Ḱa hăy xem bao nhiêu chiến sĩ cách mạng tự do vứt cái an nhân nô lệ, tự do gánh công việc cứu nước mà kết quả trước mắt không tránh khỏi là xa gia đinh, bị tù tội, bị giết chóc. Đó là tự do lựa chọn, tự do quyết định sau khi đă nhận thức rơ lợi hại; trong chừng mực ấy, người chiến sĩ cách mạng góp phần tích cực tạo ra cuộc đời của bản thân ḿnh, tạo ra lịch sử.

 

Nhưng hăy xét trường hợp của nàng Kiều. Nàng Kiều có thực sự được tự do lựa chọn, tự do quyết định hay không? Nói rằng: nàng có thể cứ để cha già bị cùm, bị tù mà  chờ chàng Kim trở lại th́,  như thế nàngkhông phải 15 năm ch́m nổi; song nàng suy tính, nàng  lựa chọn giải pháp bản ḿnh chuộc cha, ấy là nàng lựa chọn một cách tự do, cho nên nàng mang trách nhiệm hoàn toàn về sự lựa chọn cái định mệnh của nàng, không phải trách ai cả, không phải oản ǵ cả! Nói như thế chẳng hỏa ra xẻ nát Truyện Kiều rồi. Trái tim; độc giả đang đập cùng nhịp với người khốn khổ. Bỗng dưng không c̣n chịu đập theo nhịp ấy nữa, v́ biết rằng chính người khốn khổ tự do lựa chọn chở có phải bị xô đẩy vào vực trầm luân đâu !

 

Nhưng nào phải như thế? Không phải rằng hễ có lựa chọn là có tự do đâu. Trường hợp trên kia, một người Việt nam có thể làm cách mạng đánh thực dân, mà cũng có thề làm quan đề huề với thực dân; người Việt nam lựa cách mạng, không lựa đề huề, v́ cách mạng là vinh, v́ đề huề là nhọc. C̣n ví như người chiến sĩ bị bắt mà phải lựa chọn giữa cái chết chém với cái chết bắn, th́ ở đây, có thể lựa chọn, nhưng có tự do ǵ? Nàng Kiều đứng trước cảnh cha bị cùm, nhà sắp nát; nàng suy nghĩ, nàng lựa chọn mà không có tự do; sự lựa chọn đó ở dưới sự áp lực của rất nhiều điều kiện vật chất và tinh thần, khiến việc bán ḿnh của nàng là một điều bất đắc dĩ nhất, đáng thương tâm nhất. Vậy th́ trách nhiệm 15 năm phiêu dạt làm sao lại để được trên vai của nàng Kiều, của một nạn nhân? Sao lại không đổ trách nhiệm ấy vào xă hội bất công khiến thân phận con người rẻ rúng, điêu linh đến cực độ ? Nếu quan niệm như ông Trung việc nàng Kiều rồi từ việc này qua việc nọ là một chuỗi tự do lựa chọn, tự do quyết định, là "phiêu lưu của một tự do ", th́ từ miệng độc giả sẽ phát ra câu " đáng kiếp " quả bất công. Nhưng không! Thúy Kiều và tất cả các nàng Kiều có được tự do lựa chọn đâu nào! Bản ḿnh là tự đo sao ? Nhào xuống Tiền đường là tự do sao? Lư thuyết kư cục của hai ông Trung và San đưa đến kết quả tất nhiên là cảnh khô ải đoạn trường trong đời người thất thế không c̣n ǵ đáng oán trách nữa !

 

Chẳng hiểu vô t́nh hay hữu ư, hai ông San và Trung đă bày ra một mưu kế khá tài t́nh để và trách nhiệm cho chế độ xă hội bất công mà gán trách nhiệm và tội lỗi ấy vào cho nạn nhân mọi sự bất công của chế độ xă hội.

 

Các luận văn đáng được chú ư của hai ông Nguyễn Văn Trung và Trần Bích San, đă gợi cho chúng tôi một số ư kiến về phương pháp phê b́nh văn học và về nội dung ư nghĩa Truyện Kiều. Những ư kiến này dĩ nhiên không thanh toán được vấn đề, chỉ mong có thể góp một vài hạt chân lư vào công tŕnh nghiên cứu chung nhân dịp Viện Văn học (Hà nội) chuẩn bị kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại vào bậc nhất của dân tộc.

TRẦN VĂN GIÀU

 

 

 

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Việt Thức

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

ThếGiới

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng