Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Thư Viện Quốc Gia

Tự Điển Bách Khoa VN

Ca Dao Tục Ngữ

Bảo Tàng Lịch Sử

QLVNCH

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Vatican?

RomanCatholic

Khoa HọcTV

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

 

Một người Mỹ ở Việt Nam hôm nay

 

Gửi bởi Nguyễn Lê Na

 

T2, 12/05/2014 - 13:54

 

 

Cuốn sách viết theo một lối kể chuyện, đan xen là các hồi tưởng, tái hiện, suy nghiệm, mô tả của tác giả về những ǵ liên quan đến ông và đất nước Việt Nam từ tháng 5/1969 cho đến hôm nay.

 

Tất cả những câu chuyện mà ông biết về Việt Nam, cả những cái hay và cái chưa hay của đất nước này đă hun đúc một t́nh yêu và sự gắn bó. Nó càng hấp dẫn ở chỗ là để chứng tỏ một t́nh yêu với một đất nước, tác giả lại phải để cho một gia đ́nh và quan hệ vợ chồng ngày càng rạn nứt. Ông lư giải quá tŕnh phi logic đó (đối với người Mỹ) như một thứ số phận mang tính truyền thống trong văn hoá Việt…

 

Rải tro hài cốt cựu binh Mỹ xuống sông Thu Bồn

 

Câu chuyện mà cả đại sứ Mỹ ở Việt Nam và đại sứ Việt Nam tại Mỹ cũng không giải quyết được v́ chưa có tiền lệ, chưa thấy ai yêu cầu sau chiến tranh Việt Nam. Nhưng, vượt qua những thủ tục rối rắm, cựu binh Kenneth J. Herrmann, một giáo sư đại học đă làm được.

 

Từ một nhân viên công tác xă hội ở Mỹ, Kenneth, 25 tuổi bị đưa đến chiến trường ở thung lũng Hiệp Đức (Quảng Nam) trong một năm từ 1968 đến giữa năm 1969. Những ám ảnh chiến tranh theo ông về trong từng cơn mê sảng hàng đêm ở quê nhà, như là ông chưa hề rời khỏi những cảnh tượng kinh hoàng của chiến tranh, như là ông chưa hề rời Việt Nam. Rời chiến trường Việt Nam về Mỹ, ông trải qua 2 cuộc hôn nhân, nhận nuôi 5 đứa con nuôi gốc châu Á, không dám có con riêng v́ sợ di chứng dioxin, làm chuyên gia tâm lư cho các cựu binh, chống nạn xâm hại, nạn bạo hành trẻ em và đi dạy đại học, nhưng “hội chứng Việt Nam” sau khi “Welcome home” vẫn tiếp tục dày ṿ. Người vợ sau của ông, Kathy, đă khuyên ông đi Việt Nam cùng với hai đồng đội cũ vào năm 1998. “Đây giống như là chuyến đi định mệnh”, Kenneth viết. Ông trở lại Hiệp Đức. Trong lúc quá khứ cứ giằng xé người cựu binh, th́ những người Việt Nam ông gặp lại, như Ngữ, sau chiến tranh, mặc dù đau khổ không t́m được xác mẹ sau một trận bom, mặc dù c̣n nghèo khó và bệnh tật - quá khứ chiến tranh vẫn c̣n đó - nhưng họ luôn quan tâm là lo cho tương lai 3 đứa con…

 

Sau chuyến đi đầu tiên, Kenneth đă quay lại miền Trung VN nhiều lần với một dự án đưa sinh viên Mỹ sang Đà Nẵng thực hiện các chương tŕnh du học định kỳ do đại học Sunny Brockport tổ chức để các em hiểu chiến tranh VN hơn những ǵ Hollywood đă làm trên phim ảnh và nhất là hiểu ra một nền văn hoá đặc thù Việt Nam vốn khác những ǵ chung chung về châu Á được giảng dạy ở các trường phổ thông lẫn đại học ở Mỹ.

 

Một phần trong chương tŕnh học, giáo sư Kenneth đă đưa các sinh viên Mỹ đi thăm các bà mẹ Việt Nam có người thân hy sinh trong chiến tranh, xem các phim tư liệu về thân phận những phụ nữ Việt - Mỹ có chồng con chết trận và đi viếng các nghĩa trang liệt sĩ ở các vùng quê Quế Sơn, Hiệp Đức, nơi Kenneth từng đóng quân. Ngày 19/1/2001, lần đầu tiên, Kenneth đă mang tro thiêu hài cốt của một cựu binh Mỹ là nhà văn Rick Bradshaw sang Việt Nam, rải trên các ngọn núi và thượng nguồn sông Thu Bồn ở Quảng Nam thể theo nguyện vọng của người này và yêu cầu của gia đ́nh họ. Kennth kể: “Pad Bradshaw, cựu sinh viên tốt nghiệp ở trường tôi dạy 15 năm trước, đă điện thoại và bảo chồng cô là cựu binh ở Việt Nam vừa chết v́ bệnh tim, trong một bài thơ anh ấy muốn tro của ḿnh được rải tại Việt Nam. Anh yêu đất nước này. C̣n chúng tôi th́ rất yêu anh ấy và muốn tôn trọng ư muốn cuối cùng ấy…”. Sau khi liên lạc với cả đại sứ của hai nước, Kenneth đều không được đáp ứng v́ chưa có tiền lệ. Đó là chưa kể thủ tục sẽ rất nhiêu khê và những lời bàn ra của đồng nghiệp. Cuối cùng tác giả quyết định sẽ tự tay ḿnh làm việc đó. Trước mặt Ngữ, các sinh viên Mỹ và những người địa phương ở Hiệp Đức, Kenneth rút trong túi ra một bài thơ và cái bao nhỏ đựng tro của Rick Bradshow:

 

Một mai khi tôi chết

Tôi muốn tro tàn xác thân tôi

Theo gió núi rải đi khắp cao nguyên Trung phần Việt Nam

 

Từ nơi này tâm hồn tôi

Sẽ dơi nh́n vẻ đẹp cuộc đời

Và ḍng nước của đời sẽ gột rửa tâm hồn tôi

Mang đến những thửa ruộng bậc thang

Mọc lên bên sườn đồi

Và những mảnh vườn màu mỡ được phù sa bồi đắp

 

Tôi sẽ sống ở đây măi măi

Cùng với mỗi hạt cát trong ḷng đất

Để một ngày sẽ trồi lên trong cánh cửa những đoá hoa rừng

Hoặc lớn lên trong cánh tay dang rộng của một thân cây vạm vỡ

 

Ôi lạy chúa… tôi sẽ quan sát

những ǵ đă theo tôi đến mănh đất này

đến cái nơi mà tôi không thể nào dứt bỏ ra khỏi trái tim tôi…

 

Kenneth đọc dứt bài thơ dưới ánh chiều tà và mở chiếc túi ra, bắt đầu rải tro của Rick xuống ḍng sông trong khi mọi người chung quanh đang lau nước mắt. Kenneth mô tả: “Người Việt và người Mỹ cùng chia xẻ cảm xúc khi tro của Rick hoà quyện vào sông núi Việt Nam… Đó cũng là giây phút hàn gắn khác thường từ hai phía, những người dân địa phương và gia đ́nh anh”. Cũng nơi ḍng sông này, c̣n có nhiều đồng hương của Kenneth đă ngă xuống trong chiến tranh, ông kể.

 

Thế nhưng vài tuần sau sự kiện này, khi Kenneth viết bài tường thuật lại trên các báo Mỹ, đă có nhiều cựu binh khác lên tiếng nhục mạ ông là một kẻ “phản bội lại nước Mỹ, kẻ đă làm nhục tất cả những người chiến đấu cho tự do”. “Có quá nhiều người (Mỹ) dường như không có khả năng chấp nhận hoà b́nh và sự hiểu biết” - Kenneth kết luận.

 

“Người Mỹ xấu xí” và chất độc da cam

 

Cuốn sách của Kenneth Herrmann Jr. có 8 chương và một phụ lục in lại toàn văn bài nói chuyện của tác giả trước các sinh viên và người địa phương tại một nghĩa trang liệt sĩ ở Quế Sơn. Ngoài những ǵ thuật lại trên đây, chương 4 và 5 (Vấn đề chất độc da cam và Quan điểm sống của người Việt Nam và người Mỹ xấu xí) có lẽ được tác giả đầu tư kỹ lưỡng và suy ngẫm khá lâu trước khi hạ bút.

 

“Sự đa dạng các nền văn hoá là một môn học tại các trường đại học ở Mỹ nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức cần thiết để các em có khả năng giao tiếp với nhiều dân tộc khác nhau…”, nhưng “Khi viết về VN, các giáo tŕnh đại học thường đưa ra cùng một loại tội ác dập theo khuôn mẫu mà sách tuyên bố sẽ cố gắng chấm dứt”. Và v́ vậy: “Sinh viên Mỹ chẳng được dạy ǵ về Việt Nam. Bản sắc riêng của dân tộc này dường như không được đề cập đến”. Kenneth nhận thức rằng, hiểu một nền văn hoá nào đó có thể dẫn đến việc đồng hoá với nền văn hoá ấy. Đối với Việt Nam, “đó là một lịch sử không chỉ thuần tuư bắt rễ từ 4.000 năm trước với các tên tuổi, năm tháng và sự kiện. Nó là một quá tŕnh đầy năng động và hy vọng có nguồn gốc sâu xa mà vẫn chưa hoàn toàn đạt được. Đó là một quốc gia đă học được nhiều bài học từ lịch sử và bây giờ đang làm tất cả để tránh những lỗi lầm trong quá khứ”.

 

Trong khi đó Người Mỹ xấu xí (tên tác phẩm của Eugene Burdick và W. Lederer) thường bỏ qua các bối cảnh xă hội chính trị bằng những kết luận đơn giản, đôi khi là bởi sự can thiệp vụng về của họ, cũng tựa như con trâu nước đi vào một cửa hàng bán đố sứ. Kết quả là gây ra thảm họa cho những người mà họ nghĩ là cần giúp đỡ. Mặc dù đánh giá rất cao nhiều hoạt động hiệu quả của các tổ chức xă hội quốc tế và phi chính phủ ở miền Trung VN, Kenneth vẫn đưa ra nhiều ví dụ cụ thể cho thấy tính cách nêu trên của một số đồng hương của ḿnh. Trong lúc người Việt - dù là một nạn nhân của bệnh phong, của chất độc màu da cam dai dẳng vẫn tỏ ra cảm thông, thăm hỏi tận t́nh và thực ḷng chia sẻ khi nghe đến sự kiện 11/9 ở Mỹ, th́, “người Mỹ đưa ra sự giúp đỡ được chăng hay chớ với yêu cầu hệ thống chính trị và bộ máy chính quyền VN cần phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu của người Mỹ. Điều này nói lên một cái ǵ hơn là sự nhức nhối của lương tâm khi mà nhiều chục năm qua sau khi chiến tranh kết thúc, người Mỹ vẫn mưu toan làm một điều tương tự. Nó là một cái ǵ nhắc nhớ rằng người Mỹ xấu xí vẫn tồn tại”.

 

Giáo sư Kenneth đă chứng tỏ ông quan tâm đến lịch sử bang giao Mỹ - Việt ngay từ thời Bùi Viện đến Mỹ năm 1860 cho đến nay. Rồi: “Người Mỹ bắt đầu nói nhưng vẫn chưa chịu lắng nghe”, “Nước Mỹ chỉ biết nói mà không biết lắng nghe kể từ khi chúng ta đến đây năm 1832 (Tàu hải quân Mỹ đến vịnh Đà Nẵng rồi bỏ đi thời vua Tự Đức, nhà Nguyễn). Một lần nữa chúng ta đường như định nghĩa sự chia xẻ như là được người ta nghe ḿnh chứ không phải lắng nghe người khác!”…

 

Trong mối tương quan và khác biệt ấy, giáo sư Kenneth đă dành nhiều trang viết của ḿnh để trở lại vấn đề nạn nhân chất độc màu da cam ở Việt Nam và trách nhiệm của người Mỹ như ông đă làm trong thời gian qua tại các diễn đàn và cả gởi thư cho Tổng thống lẫn Quốc hội Mỹ và đă được báo chí trong nước lẫn quốc tế đăng tải. Ông đă gặp nhiều gia đ́nh nạn nhân chất độc da cam, hỏi han giúp đỡ họ; ông đă t́m gặp nhiều nhà khoa học Việt Nam và quốc tế để nắm bắt thông tin về các kết quả nghiên cứu để đưa ra ánh sáng. “Người Việt là người giàu ḷng vị tha, họ qui t́nh huống này cho số phận hơn là đổ lỗi cho các công ty hoặc cho một chính phủ. Thậm chí họ c̣n khuyến khích công ty hoá chất DOW - từng sản xuất chất dioxin cho quân đội Mỹ - vào đầu tư ở Việt Nam…”; “Nhưng điều này không thay đổi sự thật là có hơn 1 triệu người VN chịu tác hại của chất độc màu da cam ở VN và hiện vẫn c̣n nhiều di chứng…”. Thế nhưng cũng với tính cách “người Mỹ xấu xí”, Kenneth mỉa mai: “Một chuyện nhỏ về chất độc giết người này ở Mỹ có thể làm cho chính phủ tiêu tốn hàng triệu USD để làm sạch cả vùng, vậy mà dùng cái chất độc ấy ở diện lớn và có chủ đích của người Mỹ trong chiến tranh Việt Nam th́ lại dẫn đến việc chính phủ phải bỏ ra rất nhiều tiền để phủ nhận tất cả tác hại của nó”. “Đây có phải là tội ác chiến tranh có ư nghĩa lịch sử không? - Giáo sư Kenneth đặt câu hỏi.

 

***

 

Trong lời nói đầu, tác giả nói cuốn sách là một cái nh́n về Việt Nam, có thể mang lại những lời giải đáp cần thiết cho những câu hỏi mà người Mỹ đă đưa ra trong quan hệ xây dựng chiếc cầu hữu nghị Việt - Mỹ, nhưng ông cũng khuyến cáo chiếc cầu ấy phải do người Việt Nam kiểm soát dự án và quá tŕnh thi công, cũng cần thiết có sự dấn thân dũng cảm và sự đổi mới về phía chính phủ. Nhưng bàn bạc trong cuốn sách, chúng ta cũng thấy được ông rất am hiểu đời sống văn hoá - xă hội Việt Nam (và thành phố Đà Nẵng, nơi các lớp học của ông tổ chức trong mấy năm qua) thời kỳ chuyển đổi với tất cả các truyền thống tốt đẹp (như nền tảng gia đ́nh, làng xă, văn hoá Khổng nho…) lẫn các các tệ nạn, vấn nạn của nó (như tệ tham nhũng, nghèo đói, môi trường, tệ giải quyết công việc trên bàn nhậu…). Nhưng: “Cuộc đời tôi có nhiều mối liên quan không gỡ ra được với Việt Nam từ hồi chiến tranh… Có lẽ đó là do bàn tay của số phận” - ông viết ở cuối sách.

 

T.Đ.T

 

Theo Thanh Niên

Herrmann, Kenneth J

Một người Mỹ ở Việt Nam hôm nay =

An American in Vietnam today / Kenneth J. Herrmann ;

Hồng Vân dịch. -

Trẻ, 2006. - 303 tr. ; 19 cm

 

Một người Mỹ ở VN hôm nay

 

Người "tù binh" trong ḥa b́nh ở VN

Mỹ đưa tôi đến VN lần đầu vào năm 1968. Và vợ tôi đưa tôi trở lại đây 30 năm sau. Chuyến đi này mở ra rất nhiều những vấn đề phức tạp.

 

Nó khiến tôi ĺa bỏ gia đ́nh, bạn bè và những tiện nghi có thể thấy rơ ở New York để đến với Đà Nẵng, VN với một cái nh́n từ trước rằng ḿnh khó có khả năng rời khỏi nơi mà ḿnh đă từng góp phần giết người.

 

Nỗi thống khổ của chiến tranh

 

Tôi bắt đầu chương tŕnh học theo kiểu này lần đầu tiên ở VN cho các sinh viên Mỹ vào năm 1999. Chuyến đi có tính cách cá nhân của tôi bắt đầu liên quan đến chương tŕnh gửi các sinh viên Mỹ đến ở Đà Nẵng ba hoặc bốn tháng để nghiên cứu hoặc làm một cái ǵ đó cho người nghèo. Thật ra chuyến đi này đă bắt đầu từ 30 năm trước chương tŕnh này, nó bắt đầu với việc giết chóc trong một thung lũng.

 

Cái đêm tháng 12-1968 ấy đă tượng trưng cho sự kinh hoàng không thể nào tả xiết. Thung lũng Hiệp Đức là một vùng quê rộng lớn ở phía tây nam Đà Nẵng, được bao quanh bởi những rặng núi cao nhọn hoắt, h́nh răng cưa và một ḍng sông. Trên đó có những cánh đồng trồng lúa, những nếp nhà nhỏ và một cánh rừng hoang. Những ngọn núi cao dốc đứng, nằm kề ngay cạnh thung lũng như một điều cấm đoán những chuyện đầu rơi máu chảy bởi v́ chúng bao giờ cũng toát lên một vẻ đẹp như trong thời b́nh.

 

Tôi là một người lính trong một trung đội bộ binh vào cái đêm năm 1968 ấy. Chúng tôi mất cả ngày ṛng ră hành quân từ ngôi nhà này sang túp lều khác trong thung lũng, để thu thập thông tin về sự di chuyển của quân địch. Đêm yên lặng và căng như một sợi dây đàn. Chúng tôi ngồi thành một ṿng tṛn đợi trời sáng. Không có trăng, bóng đêm dày đặc đến nỗi khó có thể nh́n được người ngồi sát bên cạnh.

 

Một vài người chợp mắt trong một giấc ngủ chập chờn đầy âu lo. Những người khác đứng gác, căng tai ra chờ đón bất cứ một sự chuyển động hay một thứ âm thanh nhỏ bé nào. Sự im lặng đột nhiên bị phá vỡ bởi một tiếng rú thành từng hồi v́ đau đớn.

 

Ai nấy nhảy dựng lên cảnh giác. Tiếng la hét kéo dài trong bóng đêm mịt mùng là của một ai đó - một ai đó như ở gần đâu đây, một người nào đó đang kinh qua các tầng địa ngục - đă làm tất cả những người lính chúng tôi kinh hoàng... Tiếng rú kéo dài trong ṿng một giờ mà tưởng chừng như vô tận, nó không hề dịu đi. Rồi sự im lặng trở lại, nhưng cơn ớn lạnh vẫn tiếp tục chạy dọc sống lưng tôi, lúc này trở nên rờn rợn bởi sự im lặng.

 

Trời hửng sáng, cả trung đội từ từ di chuyển về phía có tiếng kêu đêm qua. Từ từ chúng tôi đi xuống một địa h́nh thấp, loang lổ vết máu và thấy một người đàn ông hoặc cái c̣n lại của một con người. Một thân h́nh bầm dập trông chỉ như một cái xác. Khuôn mặt dúm dó trong một nỗi đau đông cứng lại. Anh ta trân trân nh́n chúng tôi từ trong một nỗi đau không lời nào tả được. Không ai nói tiếng nào.

 

Bằng ấy người run rẩy. Không có một câu hỏi nào đặt ra về việc anh ta là người phe nào, chiến đấu cho ai, phía bên nào đă làm cho anh ta thành như vậy và lư do tại sao. Nỗi thống khổ của người này đại diện cho chiến tranh, chứ không phải cho một lá cờ cụ thể nào.

 

Cuộc chiến vẫn tiếp tục sau cái đêm ấy với tất cả sự tàn bạo của nó. Chiến tranh, bản thân nó đă là một cái ǵ hết sức tàn bạo. Những người tôi đă giết chết - tôi nghĩ - cũng sẽ giết tôi nếu như đó là nhiệm vụ của họ. Và điều đó thật dễ dàng đối với họ. Trong thực tế tôi đă không biết điều đó lại dễ dàng như thế cho đến khi tôi quay lại nơi này mấy chục năm sau.

 

Rồi tôi khám phá ra sự lựa chọn thật sự của phía bên kia, một sự lựa chọn có ư thức - họ đă để cho tôi sống. Một cách lạ lùng nào đó, điều này đă củng cố nhận thức trong tôi rằng tôi chưa bao giờ rời khỏi VN.

 

Người phục sinh ở nơi tưởng rằng đă chết...

 

Tác giả quyển sách Một người Mỹ ở VN hôm nay (xuất bản tại Mỹ năm 2003) là Kenneth J. Herrmann, phó giáo sư Đại học bang New York (SUNY) ở Brockport, giám đốc chương tŕnh VN của Suny, từng tham chiến ở Quảng Nam - Đà Nẵng cuối những năm 1960 ác liệt.

 

Năm 1998, ông trở lại chiến trường xưa và rồi gắn bó với mảnh đất này bằng những chương tŕnh xă hội với sự tham gia của các sinh viên Suny.

 

Quyển sách kể lại sự trở về VN của một cựu binh, người nhận ra “ḿnh chưa từng rời khỏi nơi đây”...

 

Hầu hết sinh viên tham gia chương tŕnh Suny Brockport được sinh ra thật lâu sau khi thành phố này cùng những ngọn núi xanh xanh bao quanh ngoài kia và những cánh đồng đă thấm đẫm máu của những người đă chết. Phần lớn người VN hiện nay cũng ra đời sau khi chiến tranh kết thúc.

 

Bảo tàng Chứng tích chiến tranh chỉ trở nên nhộn nhịp vào lúc các em học sinh theo thầy cô đến thăm trong một buổi dă ngoại, hoặc khi có những đoàn du khách nước ngoài. Thường th́ nó rất vắng vẻ, chỉ là nơi nhắc nhở về chiến tranh trong một vài hội thảo.

 

Một quan chức cao cấp trong chính quyền thành phố đă nói với tôi: “Chúng tôi cố gắng để quá khứ lại phía sau, nhưng điều đó không phải bao giờ cũng dễ dàng. Hậu quả của chiến tranh bao quanh tất cả chúng tôi”.

 

Chương tŕnh giáo dục này không phải về chiến tranh. Nó là về một đất nước. Không phải về sự hủy diệt. Nó chính là việc xây dựng một cây cầu giữa những con người bị chia cắt bởi lịch sử. Tác động của nó lên cá nhân tôi là mở ra những cánh cửa mà từ lâu đă đóng lại.

 

Tuy vậy, nó không chỉ là một chương tŕnh học tập thuần túy. Chính người dân Đà Nẵng đă mở ra những cánh cửa ấy. Một lần tôi đi qua những cánh cửa ấy và nhận ra rằng trong khi tôi chưa bao giờ là một tù binh trong chiến tranh, tôi lại có thể là một tù binh trong ḥa b́nh ở VN. Tôi cũng không chắc là tôi có muốn được giải phóng hay không nữa. Nhưng tôi biết chắc rằng một cái ǵ đó ẩn giấu trong sự tự do thật sự có thể t́m thấy ở đây. Đó là một cuộc hành tŕnh đầy khó khăn.

 

Tiến sĩ John Perry, giám đốc chương tŕnh giáo dục quốc tế tại Suny Brockport, đă nhận lănh vai tṛ lănh đạo và dấn thân vào công việc liều lĩnh đầy sáng tạo trong khi phát triển chương tŕnh này, một hành động mà những người khác với một tŕnh độ học vấn cao có thể cho là quá liều lĩnh. Sự khoan dung của ông đối với tôi, nhiệt t́nh của ông trong việc cắt giảm các chương tŕnh học quốc tế khác để dành ưu tiên cho chương tŕnh ở VN đă nói lên một cách hùng hồn về bản thân ông và những người cộng sự.

 

Một vị lănh đạo khoa trong trường đại học của chúng tôi đă chống lại việc phát triển chương tŕnh này bằng câu nói: “Tôi không nghĩ là chúng ta nên có bất cứ chương tŕnh nào ở VN. Đó là một đất nước nghèo đói, bẩn thỉu đă giết chết hơn 58.000 người Mỹ”. John đă phớt lờ thái độ thiếu thiện chí ấy, t́m mọi cách xúc tiến chương tŕnh.

 

Chương tŕnh du học ở VN của Đại học bang New York là một khóa học ở nước ngoài đặc biệt. Sinh viên học những giáo tŕnh mang lại cho họ một hiểu biết nào đó về VN, giúp họ phát triển những kỹ năng giao tiếp với người Việt và tạo cho họ cơ hội giúp đỡ những người nghèo. Đa số sinh viên học là để biết rơ hơn về bản thân ḿnh.

 

Thật là một viễn cảnh khó tin về việc học hỏi từ những người bị bệnh hủi, những đứa trẻ lang thang trên hè phố, những người sống trong các băi rác, những người dân miền núi nghèo khổ, những người già neo đơn sống trong trại dưỡng lăo, những nạn nhân chất độc màu da cam và trẻ mồ côi. Vậy mà đấy lại là những nhà giáo dục c̣n giỏi hơn cả những giáo sư đại học.

 

Mỗi năm học có ba khóa và các nhóm sinh viên khác nhau lần lượt sang học ở VN. Cụ thể là ở Đà Nẵng, được coi là thủ phủ của miền Trung, nơi những cơ hội đầu tư về kinh tế và du lịch đôi khi bị bỏ qua.

 

Đà Nẵng đưa ra những thách thức đặc biệt đối với những người nước ngoài. Trong thời gian chiến tranh, tôi chủ yếu sống ở một vùng quê hẻo lánh và chỉ ghé qua thành phố này một cách chớp nhoáng. Trong kư ức của tôi đó là một nơi đầy rẫy những người Mỹ, nơi liên tục vang lên tiếng gầm rú của máy bay phản lực, hàng ngàn máy bay trực thăng hạ cất cánh không ngớt trên bầu trời.

 

Bây giờ nó lại trao một phần thưởng tuyệt vời cho những ai có con mắt nh́n thấy một cái ǵ khác hơn là những đường phố hẹp, chật chội, lồi lơm, một thành phố thỉnh thoảng lại bị mất điện, những cái hố ở hai bên đường, sự nghèo đói, độ ẩm cao và những cơn băo thường xuyên quét qua...

 

Thành phố này tạo ra những hiểu biết về đặc tính và sự phong phú của một nền văn hóa, truyền thống của một đất nước, nơi ḥa b́nh có được với một giá cực đắt. Nó tạo cho cuộc đời những cơ hội thay đổi cho những ai có máu phiêu lưu.

 

Nó được tạo ra cho tôi, ít hơn với tính cách của một tâm hồn thích phiêu lưu, và nhiều hơn với cảm giác rằng tôi đă chết ở một miền ven biển cách Đà Nẵng khoảng 70km về phía tây nam vào những năm cuối cùng của thập kỷ 1960, và kỳ lạ thay tôi lại sinh ra một lần nữa vào cuối thập kỷ 1990...

 

“Gần cái nơi mà tôi cảm thấy ḿnh đă chết, tôi lại phục sinh lần nữa” - người cựu chiến binh Mỹ nói điều đó một cách chân thành khi trở lại VN năm 1998. Ông gọi hành tŕnh của ḿnh là một sự trở về. Về để quên đi một nỗi ám ảnh, nhưng vùng đất nhỏ hẹp ấy cứ nhắc ông phải nhớ...

 

Trở lại “thung lũng Chết”

Tôi trở lại VN vào năm 1998 để đến cái vùng trung du cách Đà Nẵng về phía tây nam khoảng 70km. Kể từ lần trước đến nay dễ cũng cả nửa đời người.

 

Tôi quay lại VN với thái độ dè dặt. Tôi biết là tôi sợ phải đối mặt với nơi này. Kư ức của tôi tràn đầy những h́nh ảnh về những trận đánh đẫm máu, sự tuyệt vọng, nỗi nhớ nhà và một sự hủy diệt. Nên tôi hiểu việc tôi một lần nữa lại đặt chân đến VN có ư nghĩa ǵ.

 

Ngày ấy, một cô bé 10 tuổi...

 

Khi tôi trở lại Hiệp Đức, nơi tôi đă sống trọn một năm vào cái tuổi 20 ấy, tôi không hề nhận ra nó. Ba thập kỷ đă trôi qua, cây nhỏ đă mọc thành rừng rậm. Trong không trung không c̣n cái mùi của chất hóa học làm cây rụng lá (nhưng vẫn c̣n nghe thoảng mùi thối rữa trong không gian và tôi được nghe nói rằng đó là dioxin - một loại chất làm cây xanh rụng lá). Napalm và bom đạn đă cho phép thiên nhiên giấu đi sự tàn phá của chiến tranh.

 

Tôi biết đây là ngôi làng cũ khi tôi nh́n thấy ḍng sông quen thuộc, ngọn đồi nhỏ nơi tôi đă sống trong một cái hố được đắp bởi những bao cát và ống cống. Những ngọn núi bao quanh tôi là nơi máu của người VN và người Mỹ đă tưới xuống. Đây là nơi các truyền thuyết trong vùng nói rằng nó tràn ngập vong hồn của hàng ngàn người đă chết v́ tự do của Tổ quốc, và họ không được yên nghỉ dưới mồ.

 

Hiệp Đức c̣n được đề cập đến như là một “thung lũng Chết”, đó là một khu vực b́nh định giống như khu vực định cư của người da đỏ. Đội quân Mỹ đổ bộ xuống đây để ngăn cản lực lượng giải phóng khi họ vượt qua vùng núi đồi này để tấn công các thành phố ven biển cách đấy khoảng 30 dặm.

 

Tôi chỉ là một lính quân dịch. Tôi được đào tạo để điều khiển máy viễn kư radio, thế mà lại được điều về một đơn vị bộ binh không có loại máy này, và được giao nhiệm vụ điều khiển điện đàm vào ban đêm ở trung tâm chỉ huy tiểu đoàn ở một nơi gọi là LZ West. LZ West là một ngọn đồi cao khoảng 435m, đi từ đây đến phía tây Đà Nẵng phải mất hai giờ.

 

Khi chúng tôi bắt đầu b́nh định khu này, có một đơn vị gồm các kỹ sư quân đội Mỹ có nhiệm vụ làm một con đường giao thông dẫn đến vùng này. Tôi đă trải qua một đêm với họ, lọt giữa các máy bay chuyên chở binh sĩ và các máy ủi.

 

Sáng hôm sau một ông già t́m đến cùng với một người phiên dịch. Ông già kêu khóc, hấp tấp nói với giọng bấn loạn. Đứng cạnh ông là một cô bé khoảng 10 tuổi, dáng lừ đừ mệt mỏi, khuôn mặt buồn bă cứ cúi gằm xuống đất. Người phiên dịch cho tôi biết ông già là ông nội của đứa bé. Ông già muốn chúng tôi làm một việc ǵ đó.

 

Ông tố cáo rằng cháu nội ông đă bị hai tên lính Mỹ trong đơn vị của chúng tôi hăm hiếp. Tôi đặt ra vài câu hỏi với hai ông cháu thông qua người phiên dịch. Cô bé chỉ vào hai người kỹ sư trong bọn và khóc tức tưởi.

                                  

Viên đội trưởng nhóm kỹ sư quân đội đi đến hỏi xem có chuyện ǵ. Tôi kể vắn tắt cho hắn biết. Hắn nói giọng lạnh tanh:

 

- Hăy bảo chúng cút khỏi đây. Chỉ là chuyện ba láp. Chẳng ai làm ǵ con bé hết. Chúng chỉ muốn moi tiền thôi. Chúng tưởng cứ mè nheo là được tiền.

 

Người phiên dịch th́ thầm với tôi:

 

- Con bé nói rằng bọn lính đă chụp ảnh vụ hăm hiếp.

 

Tôi bảo cô bé chỉ cho tôi xem nơi sự việc xảy ra và nó dẫn chúng tôi đến một cái lều được làm bằng vải dù. Tôi đi vào lều, t́m được hai tấm ảnh chụp lấy liền cảnh hai tên súc sinh nham nhở đang hiếp đứa trẻ và đưa cho tên đội trưởng.

 

Hắn nổi cáu:

 

- Điều đó không có nghĩa ǵ hết. Tôi đă bảo anh hăy đuổi cổ chúng đi.

 

Tôi cũng đâu có vừa, tôi nổi đóa, hét vào mặt hắn:

 

- Mày nói cái quái ǵ vậy? Chúng nó đă hiếp đứa trẻ này và chụp ảnh. Tao phải sống chung với lũ mặt người dạ thú như thế ư? Mày không có cách nào lấp liếm chuyện này đâu.

 

Một tên trung sĩ quèn như tôi mà lại dám căi nhau với một đại úy, nhưng tôi cóc cần. Cuối cùng tôi bảo hắn là tôi sẽ báo cáo chuyện này lên với đại tá chỉ huy tiểu đoàn.

 

- OK - tên đại úy nói.

 

Hắn đi đến máy bộ đàm và gọi cho một ai đó. Nửa tiếng sau, một chiếc máy bay trực thăng đáp xuống cùng với hai cảnh sát quân đội lôi đi hai kẻ hăm hiếp. Tên đại úy tỏ vẻ không quan tâm, hắn quay lại làm việc khi chiếc máy bay trực thăng bay đi. Hai ông cháu tội nghiệp lủi thủi bỏ đi. Tôi thường băn khoăn tự hỏi không biết chuyện ǵ xảy ra với hai tên súc sinh đó. Nhưng điều tôi quan tâm hơn là chuyện ǵ sẽ xảy ra đối với cô bé mới 10 tuổi đầu này.

 

Người quen cũ ở VN

 

Chuyến trở về VN đầu tiên của tôi không phải là ư định của tôi. Kathy đă khuyến khích tôi làm chuyện này.

 

Cô ấy đă chứng kiến cảnh tôi nh́n thấy Việt cộng bước qua pḥng ngủ của chúng tôi, t́nh trạng bấn loạn bồn chồn và những cơn ác mộng diễn ra suốt đêm, sự đương đầu đầy giận dữ của tôi với giới quan quyền, và sự nóng nảy của tôi đối với mọi h́nh thức bất công.

 

Cô từng thấy cảnh trong lúc mơ ngủ tôi ḅ lồm cồm quanh giường để tránh đạn của kẻ thù. Cô thấy phản ứng sợ hăi của tôi vào những lần tôi thấy Việt cộng đứng ngay ở cuối chân giường khi tôi lên giường đi ngủ.

 

Cô cũng thấy sự phẫn uất của tôi trong trường hợp các phiên ṭa, các tổ chức chính phủ vi phạm quyền con người hoặc từ chối không đưa ra một sự giúp đỡ tích cực đối với những người cần giúp đỡ...

 

Cô nh́n thấy giá trị của việc tôi trở về VN bởi v́ cô yêu tôi...

 

Trở về Tân An - tên của ngôi làng ngày hôm nay - lần đầu tiên, tôi đặt ra nhiều câu hỏi đối với các quan chức địa phương trong cố gắng có được câu trả lời cho những vấn đề về những ngày tháng của tôi ở đây.

 

Có ai đă trải qua thời kỳ chiến tranh mà vẫn c̣n sống ở đây không? Có ai c̣n nhớ ǵ khi hồi hương về vùng này vào khoảng cuối những năm 1960 không?

 

Trong đám đông có một người đàn ông lên tiếng vừa cười vừa nói một điều ǵ đó với người phiên dịch. Hướng dẫn viên du lịch dẫn người đàn ông tươi cười đến chỗ tôi, giải thích rằng tên người đàn ông này là Lê Quang Ngữ.

 

Ngữ nói đă nhận ra tôi và nhớ về tôi trong những ngày tháng mà cho đến nay vẫn ám ảnh kư ức tôi. Ngữ 16 tuổi khi tôi đến VN lần đầu và là một trong những người đă đi t́m chỗ trú ẩn giữa lúc những trận đánh dữ dội đang xảy ra. Mặc dù không nhớ được một chút ǵ về anh, trong tôi vẫn tràn ngập cảm xúc như khi ta gặp lại một người thân sau bao ngày xa cách.

 

Anh đă có mặt ở đây cùng một khoảng thời gian với tôi. Anh có mặt ở đây khi những người đói ḅn mót từng hạt thóc dưới đám bùn lầy, hoặc ăn rễ cây, hoặc uống nước tanh tanh mùi bùn mà sống c̣n để mà tồn tại. Anh có mặt ở đây đúng vào giai đoạn có một cô bé bị một mảnh đạn lạc phạt vào sau gáy.

 

Tôi ẵm cô bé lên một chiếc trực thăng để mang về Đà Nẵng. Cô bé nh́n tôi, ánh nh́n đờ đẫn, nhưng lại thấu suốt tâm hồn tôi. Đó là một trong số ít lần trong chiến tranh khiến tôi bật khóc.

 

Anh ở đây khi chúng tôi chở đi cái có vẻ giống như một ḍng chảy liên tục - những đứa trẻ bị bệnh sốt rét - trên những chiếc máy bay trực thăng bay về Đà Nẵng để điều trị trước lúc quá muộn. Anh ở đây khi chúng tôi gửi một nhóm 15 người bị bệnh hủi đang trốn trong vùng này đến Đà Nẵng để chuyển đến cái làng dành riêng cho họ. Cũng là cái nơi mà tôi muốn đến để biết rơ hơn, nhiều năm sau đó.

 

Anh ở đây vào lúc mà mảnh đất này trải qua cảnh đầu rơi máu chảy và nỗi kinh hoàng trong luyện ngục không phải là chuyện chỉ xảy ra trong tưởng tượng. Anh lại ở đây khi tôi trở về 30 năm sau. Anh c̣n nhớ được tôi trong số những người lính Mỹ xâm lược là bởi cái tẩu lúc nào cũng gắn bên miệng tôi, cặp mắt kiếng và (như lời anh nói) tiếng cười ông ổng của tôi. Anh là người lịch sự nên anh đă không nhắc đến cái đầu hói của tôi.

 

Vợ anh bán đồ tạp hóa lặt vặt ở một cái quầy bên lề đường trong khu chợ Hiệp Đức. Cả hai anh chị đều rất yêu con. Gặp lại họ đối với tôi cũng là một cách nhắc nhở rằng quá khứ vẫn c̣n đó. Nhắc tôi nhớ rằng tôi chưa bao giờ rời Hiệp Đức vào năm 1969 và có lẽ tôi cũng sẽ không thể rời khỏi nơi này được. Tôi chỉ giả vờ là nó thuộc về lịch sử.

 

Lịch sử có giá trị chia sẻ với sinh viên Mỹ. Họ có thể đến thăm Ngữ để hiểu một chút ǵ đó về cuộc chiến tranh ở VN và đất nước VN. Các sinh viên Mỹ chia sẻ nỗi đau với anh khi anh miêu tả lại việc anh mất mẹ trong thời kỳ chiến tranh như thế nào.

 

- Mẹ tôi đang ở trong một bệnh viện bên kia thung lũng th́ máy bay Mỹ dội bom xuống. Chúng tôi không t́m được bất cứ mảnh xác của bà để mai táng cho tử tế. Chết mất xác là nỗi đau ghê gớm đối với người VN chúng tôi. V́ thế mà vong hồn của bà vẫn không được đầu thai cứ phải lang thang vô định trên mảnh đất này măi măi.

 

Học sinh của chúng tôi sẽ hiểu về chiến tranh nhiều hơn là Hollywood có thể cho họ biết và chắc chắn là hơn những giáo viên dạy ở cấp III...

 

Chiến tranh đă lùi lại ở phía sau lưng. Nhưng với nhiều cựu chiến binh Mỹ, tất cả những biến cố đau ḷng của những tháng năm tàn khốc ấy, một cách nào đó, đă dẫn đến những chuyện xảy ra hơn 30 năm sau. Rick Bradshaw là một sự tiếp nối như thế khi trong bài thơ cuối cùng ông muốn tro tàn của thân xác ḿnh được rải lên sông núi VN, “Và ḍng nước của trời sẽ gột rửa tâm hồn tôi...”.

 

Nghi lễ chữa lành vết thương

Ở nghĩa trang liệt sĩ Có một nghi lễ khác thường đă diễn ra vào ngày 19-1-2001 (được lặp lại vào một năm sau đó) như là một phần của chương tŕnh giáo dục.

Một viên chức chính phủ ở Hà Nội bảo với tôi rằng có một nhóm cựu chiến binh Mỹ đă từ chối không bước vào một nơi như thế. Người cán bộ đi tháp tùng nhóm du khách này yêu cầu họ bước vào một nghĩa trang liệt sĩ. Những cựu chiến binh này đă từ chối. Người hướng dẫn bảo họ với một nụ cười kiên nhẫn:

 

- Chúng ta cùng tham gia trong cuộc chiến tranh này và cùng phải chịu đau khổ về nó. Tuy vậy ở đây có một sự khác biệt. Các ông đến để giết gia đ́nh tôi. C̣n tôi chiến đấu để bảo vệ họ.

 

Chúng tôi đi xe mất khoảng hơn một tiếng, vào sâu trong núi trên những con đường gập ghềnh đầy ổ gà. Chiếc xe đầy chặt những sinh viên Mỹ và cán bộ địa phương. Cả xe im lặng khi đến gần đích, ngôi làng ở chốn rừng sâu trong thung lũng cuối cùng đă ở trước mặt chúng tôi. Chợ Quế Sơn bày bán đầy hoa quả trái cây và những quầy hàng chạp phô.

 

Nghĩa trang mà chúng tôi đi đến đă xuống cấp, nhưng ở một khía cạnh nào đó vẫn có một vẻ uy nghiêm với bức tượng các chiến sĩ giải phóng vượt lên trên những ngôi mộ ximăng sơn màu đỏ và vàng, nhưng bức tường bao quanh quét vôi màu vàng đă phai màu với cánh cổng gỉ sét. Có khoảng hơn mười ngôi mộ dăi dầu mưa nắng.

 

Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, đó chính là những ǵ c̣n lại của những người có thể đă “đón chào” tôi đến đây để rồi lại chết đi trên mảnh đất của họ 30 năm về trước. Có nhiều người chết đi mà không để lại danh tính, người ta nói rằng một số đă bị lính Mỹ chôn sống.

 

Có một cái ǵ đó thật trớ trêu khi tôi lại đến đây đặt hoa trước ngôi mộ của họ, thắp nhang trước vong hồn của họ, tưởng niệm những chiến sĩ đă chiến đấu và hi sinh cho niềm tin của họ. Tôi hồi hộp và chỉ muốn làm tiếp tục nghi lễ này. Nó có vẻ như là việc phải làm. Tôi biết không phải mọi người sẽ đồng ư với tôi và sau này tôi đă t́m ra sự thật.

 

Một số cựu chiến binh Mỹ gửi những lá thư chửi bới nặng nề tiếp sau bài báo mà tôi viết để mô tả chi tiết sự kiện này. Một cựu trung tá hải quân ở Rochester, New York đă lớn tiếng gọi tôi là “một kẻ phản bội lại nước Mỹ, kẻ đă làm nhục tất cả những người chiến đấu cho tự do”. Ông ta nói thêm: “Thật quá tồi tệ cái việc chúng ta đă không giết thêm nhiều đứa nữa trong chiến tranh”.

 

Tôi cũng không biết là liệu những lá thư căm thù kiểu này có ngang bằng với những lá thư thể hiện t́nh yêu đối với dải đất VN và con người ở đấy không. Những lá thư ấy giúp tôi hiểu rơ hơn về bản thân, về tầm quan trọng của việc để cho chiến tranh lùi lại sau lưng chúng ta. Có quá nhiều người dường như không có khả năng chấp nhận ḥa b́nh và sự hiểu biết. Cũng có quá nhiều người trong ḷng vẫn tràn ngập một sự căm hận tích lũy từ trong chiến tranh.

 

Các cán bộ địa phương cũng gia nhập đám cựu binh và các sinh viên Mỹ. Tôi cầm hoa và chúng tôi bước đi cố tỏ ra thật nghiêm trang nhưng không khỏi có phần vụng về, đến trước bức tượng ở trung tâm nghĩa trang. Nhân viên trong chương tŕnh của chúng tôi đưa cho chúng tôi mỗi người một nắm nhang để chúng tôi đốt lên.

 

Đôi tay tôi run rẩy, hai đầu gối nhũn ra khi tôi cúi xuống vái trước các ngôi mộ để tưởng niệm vong hồn của những người đă hi sinh. Tôi có thể ngửi thấy mùi xác chết trong không khí, cũng cái mùi trở nên nặng nề sau mỗi trận đụng độ giữa hai bên, cái mùi chết chóc ấy dai dẳng bám theo bạn. Sau đó là tiết mục đọc diễn văn. Bài nói chỉ diễn ra trong vài phút. Tôi đă cố không để cho tờ giấy trên tay run rẩy.

 

Sự hồi hộp làm tôi cảm thấy mệt lả. Dường như sự tĩnh lặng nơi đây đă đưa cả hai tay ra để giữ lại không khí đầy hơi ẩm và làn sương mù này. Khi tôi nói xong, sự im lặng trở nên không thể chịu đựng nổi. Cứ như thể tôi trở lại những cánh rừng trong chiến tranh, đợi một âm thanh nhỏ nhất báo hiệu cho tôi biết sự hiện diện của quân địch, trong lúc họ đang từ từ ḅ về phía tôi...

 

Những vong hồn từ trong quá khứ ám ảnh mảnh đất này và dường như đang đứng nh́n chằm chằm chúng tôi, đưa ra một lời phán quyết về những việc đă làm. Tôi gần như nghe thấy họ đang th́ thầm tán thưởng. Có thể đó chỉ là tiếng nói của lương tâm tôi.

 

Và ḍng sông Thu Bồn sẽ gột rửa tâm hồn tôi...

 

Pat Bradshaw, một cựu sinh viên đă tốt nghiệp ở trường đại học tôi dạy 15 năm về trước, gọi cho tôi. Cô hỏi chuyện về chương tŕnh du học ở VN mà tôi phụ trách. Sau khi nói chuyện được một lúc, tôi cảm thấy dường như lời của cô trở nên thiếu mạch lạc. Rồi cô nói rơ lư do thật sự của cú điện thoại.

 

- Ken ạ, tôi không biết tôi nói ra có phải là điều không ăn nhập ǵ không, nhưng anh có thể giúp đỡ gia đ́nh chúng tôi. Chồng tôi là một cựu chiến binh ở VN. Anh ấy chết mùa hè năm ngoái v́ bệnh tim. Thật sự là một cú sốc mà chúng tôi không hề lường trước. Tuy vậy anh nên biết rằng chồng tôi cũng là một nhà văn. Anh ấy đă viết một vở kịch về chiến tranh, một vài bài báo và cũng làm thơ nữa. Khi lũ nhỏ và tôi soạn mớ giấy tờ anh ấy để lại, chúng tôi đọc được một bài thơ anh đă làm. Trong bài thơ anh bày tỏ ư nguyện của ḿnh rằng sau khi chết anh muốn tro của ḿnh được rải ở VN. Anh yêu đất nước này. C̣n chúng tôi th́ rất yêu anh và muốn tôn trọng ư muốn cuối cùng ấy.

 

Cô dừng lại, hít một hơi thật sâu và nói thêm:

 

- Anh cho biết việc này có thể làm được không?

 

Khó có thể được nói ra điều này một cách nghiêm chỉnh. Tôi chưa bao giờ nghe thấy một việc như thế. Hầu hết thảo luận về các cựu chiến binh và VN chỉ liên quan đến vấn đề t́m hài cốt người Mỹ để mang về quê nhà. Chưa hề có việc nói đến chuyện mang tro của một cựu chiến binh đến rải ở VN.

 

- Pat à, chị cho tôi một khoảng thời gian để xem xét điều này. Tôi sẽ có câu trả lời sớm.

 

Những việc tiếp theo là gửi một đề nghị đến các viên chức Bộ Ngoại giao của Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội. Tôi nhận được câu trả lời là từ trước đến nay chưa hề có chính sách nào về việc này bởi v́ chưa từng có ai đưa ra một yêu cầu như thế. Tôi tham khảo cả ư kiến của Đại sứ quán VN ở Washington. H́nh như tất cả những nỗ lực này cũng chẳng dẫn đến một câu trả lời cụ thể nào cho yêu cầu của Pat.

 

Cuối cùng tôi đi đến một quyết định là đích thân tôi sẽ rải tro của Rick trong chuyến đến VN lần tới...

 

Chiếc xe chạy về phía một ngôi làng định cư cũ của Hiệp Đức, bây giờ gọi là Tân An thuộc huyện Hiệp Đức. Cơn mưa nhỏ đă trở nên nặng hạt từ đêm hôm trước và con đường đến Quế Sơn rất xấu. Đường đến Tân An c̣n xấu hơn nữa.

 

Bánh xe cứ trượt vào những ổ gà đầy nước sền sệt và nắp đậy trục bánh xe dính bê bết bùn đất, người ta phải kêu lên để hướng dẫn người tài xế lái xe qua những hố nước nguy hiểm cũng giống một điều phái viên hướng dẫn một phi công. Chiếc xe chậm chạp dừng lại trước một túp lều nhỏ giống như mọi ngôi nhà khác trong khoảng 20 ngôi nhà ở đây.

 

Từ trong một ngôi nhà nhỏ bằng gỗ như vậy, một người đàn ông độ tuổi giữa 40 tươi cười bước ra. Ông đưa tay vẫy vẫy và tôi nhảy xuống xe chạy đến chỗ anh. Chúng tôi bắt tay, ôm nhau như những người bạn cũ. Thật vậy, chúng tôi là những người bạn cũ mặc dù tôi mới chỉ gặp anh cách đây hai năm. Lê Quang Ngữ và chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc.

 

Sau đó tất cả đi về phía bờ sông. Những sinh viên người Mỹ, bạn bè tôi và cả tôi nữa vừa đi vừa trượt dài trên những bờ dốc đất đỏ nhăo nhoét, tiến về phía bờ đá của ḍng sông Thu Bồn.

 

Sự im lặng căng như sợi dây đàn. Tôi bước trên những tảng đá ch́a ra trên mặt nước rồi móc từ trong túi quần ra một túi vải nhỏ.

 

- Đây, nó đây rồi Rick - tôi th́ thầm.

 

Với đôi tay run rẩy, tôi lấy bài thơ của Rick từ túi quần bên kia. Tôi cầm bài thơ bằng cả hai tay và cất giọng đọc

 

...Nếu một ngày kia tôi chết

Tôi muốn tro tàn xác thân tôi

Theo gió núi rải đi khắp cao nguyên Việt Nam.

Từ nơi này tâm hồn tôi

Sẽ dơi nh́n vẻ đẹp cuộc đời

Và ḍng nước của trời sẽ gột rửa tâm hồn tôi

Mang đi đến những thửa ruộng bậc thang

Mọc lên bên sườn đồi

Và những mảnh vườn màu mỡ được phù sa bồi đắp...

Ôi lạy Chúa… Tôi sẽ quan sát

Những ǵ đă theo tôi đến mảnh đất này

Đến cái nơi mà tôi không thể nào dứt bỏ... ra khỏi trái tim tôi.

 

Tôi đọc xong bài thơ, mở cái túi ra và bắt đầu rải tro của Rick xuống ḍng sông.

 

- Chúa phù hộ cho người anh em của tôi. Hăy yên nghỉ đời đời!

 

Rick đă trở về cái tổ của ḿnh, nơi anh t́m thấy trong chiến tranh khốc liệt cũng là cái nơi mà tôi biết là ḿnh chưa bao giờ rời khỏi.

 

Trong hành tŕnh trở về VN của ḿnh, người cựu chiến binh Mỹ đă t́m thấy một sự thật: nhiều đứa trẻ được sinh ra sau những ǵ người Mỹ đă để lại trên mảnh đất này... Những cơn mưa màu da cam hôm qua và những tật nguyền người VN đang hứng chịu hôm nay, ông đều đă tận mắt nh́n thấy. Câu chuyện ông kể xúc động và đầy sự bất b́nh...

 

Lợi nhuận quan trọng hơn những nạn nhân vô tội

 

 

Tôi nhớ đến những chiếc máy bay trực thăng đă rải chất độc hóa học dioxin lên vùng Hiệp Đức trong những năm chiến tranh. Bây giờ nhớ lại tôi c̣n như trông thấy hai chiếc trực thăng chầm chậm bay dọc theo thung lũng.

 

Chất độc hóa học phun xuống như một trận mưa để lại một lớp cặn lắng trên cây cỏ, đất đai và những người có mặt. Nó có mùi của chất hóa học thật ra hơi giống mùi xăng nhưng ngửi thấy là lạ.

 

Tôi đă không chú ư đến điều này, mấy anh bạn đồng ngũ của tôi chỉ nhún vai với một vẻ khó chịu. Th́ nó cũng chỉ là một sự bất tiện khác trong chiến tranh giống như đàn muỗi đói, mồ hôi nhơm nhớp dưới cái nắng gay gắt và nước bùn bốc lên mùi thum thủm. Chẳng ai dành cho nó một giây suy nghĩ tại sao. Sau cùng, chẳng phải Chính phủ Mỹ đă làm việc này để giúp binh sĩ Mỹ đó sao?

 

Người Việt không phải là người Mỹ!

 

Những cựu chiến binh Mỹ ở VN có một tỉ lệ khá cao trong những người mắc bệnh ung thư, các bệnh măn tính, bệnh tiểu đường và một loạt những bệnh khác, đó là do họ nhiễm phải chất độc da cam trong khi phục vụ quân đội ở VN. Con của họ cũng bị ảnh hưởng, tỉ lệ chết non, đẻ non, nứt đốt sống và những rối loạn thể chất trong tuổi ấu thơ cao hơn những đứa trẻ có bố mẹ không nhiễm phải chất độc này. Đó cũng là mối lo ngại lớn của gia đ́nh tôi khi Kathy mang thai.

 

Ở VN, các khu vực cách xa nhau như là Biên Ḥa ở miền Nam và Quảng Nam ở miền Trung cũng là những vùng có vấn đề nghiêm trọng liên quan trực tiếp đến chất làm rụng lá cây đă rải lên đất đai và làng mạc của họ trong chiến tranh.

 

Người dân ở đây tiếp tục phải sống, họ trồng lúa và hoa màu, ăn rau trái, uống nước và sinh hoạt trên một mảnh đất bị nhiễm độc cao. Nếu một trường hợp tương tự xảy ra ở Mỹ th́ Chính phủ Mỹ sẽ phải trả giá rất đắt, phải cải tạo lại đất đai, nguồn nước, xây lại nhà cửa và bồi thường cho những nạn nhân. Công ty hóa chất Dow sẽ bị buộc phải trả giá cho những nguồn lợi mà họ đă thu được trong chiến tranh.

 

Nhưng với người Việt mọi việc lại khác. Công ty hóa chất Dow có tài liệu về những mối nguy hiểm của chất dioxin và những tác hại của nó khi bán chất hóa học này cho quân đội Mỹ để sử dụng như chất diệt cỏ và làm rụng lá trong chiến tranh.

 

Công ty này biết rơ về chất dioxin cực độc từ những năm 1940. Nhưng họ có được một món lợi lớn từ việc sản xuất hàng loạt chất độc này để rải xuống VN. Lợi nhuận, một lần nữa, quan trọng hơn những nạn nhân vô tội của những thế hệ tương lai bị ảnh hưởng bởi hành động này. Thế mà không có một món tiền nào trong những mối lợi kia dùng để sửa lại những hậu quả kinh khủng mà nước Mỹ đă phạm phải.

 

Sau khi Công ty hóa chất Dow hoàn thành một bản nghiên cứu vào năm 1969 khẳng định mối nguy hiểm của chất dioxin, nước Mỹ đă ngưng rải chất độc này ở VN trong ṿng hai năm sau đó. Không có thông tin giải thích tại sao người ta lại tiếp tục rải chất độc thêm hai năm nữa!?

 

Nỗi đau ở VN

 

Ngoài chất dioxin, tháng 7-2001, người ta đă t́m thấy một nơi cất giấu hàng tấn khí CS, một loại hóa chất cực độc khác, được giấu ở trung tâm tỉnh B́nh Định. Khi quân đội Mỹ rời khỏi đây, họ đă để lại nhiều thùng hóa chất có dung tích 50 gallon. Thái độ tắc trách này không chỉ có ở VN.

 

Tôi nhớ lại những thùng có dung tích 50 gallon đựng chất độc da cam mà chính phủ tàng trữ trong một nhà xưởng cũ nát nhưng không có biện pháp an ninh nào ở khu vực bảo tồn hoang dă Iroquois, bang New York những năm đầu thập kỷ 90.

 

Một trong những chiếc thùng này bị ṛ rỉ, chất độc ngấm xuống đất. Một phóng viên báo ở Batavie, bang New York đă viết một bài báo về chuyện này. Chính phủ vội cử ngay một đội quân đến hiện trường, chuyển tất cả chất độc da cam c̣n lại đi chỗ khác và phá hủy nhà xưởng.

 

Một chuyện nhỏ về chất độc chết người này ở Mỹ có thể làm cho chính phủ tiêu tốn hàng triệu đôla để làm sạch cả vùng.

 

Vậy mà việc cũng dùng chất độc ấy ở diện lớn và có chủ đích của người Mỹ trong chiến tranh VN th́ lại dẫn đến việc chính phủ phải bỏ ra rất nhiều tiền để phủ nhận tất cả những tác hại của nó. Đây có phải là một tội ác chiến tranh có ư nghĩa lịch sử hay không?

 

Tôi đi cùng tiến sĩ Trịnh Văn Bảo, chủ nhiệm khoa sinh hóa và gen ở Đại học Y Hà Nội, khi ông xem xét trường hợp một cậu bé 15 tuổi chỉ có một cánh tay ở Đà Nẵng. Năm cậu lên 10, những khối u ác tính mọc lên ở cánh tay phải. Cánh tay nhanh chóng có màu tím bầm và các khối u phát triển, to lên.

Phẫu thuật không làm được ǵ, các khối u lan sang vai và lưng. Cuối cùng cánh tay phải bị cắt bỏ. Cả lưng và vai của cậu phủ đầy những khối u và một lớp da màu tím sẫm. Cậu bé là con của một trong những người đă bị nhiễm chất độc da cam và chính nó đă gây nên nỗi bất hạnh của cậu.

 

Tạ Minh Tùng là một cậu bé 10 tuổi, anh của cậu là Tạ Minh Huy 11 tuổi. Cha họ là một chiến sĩ giải phóng hoạt động ở Tây nguyên trong thời gian chiến tranh. Ông tham gia chiến đấu trong vùng bị rải chất độc da cam. Hai đứa con sinh ra với những rối loạn về xương cứng, nứt đốt sống và những rối loạn khác.

 

Mỗi đứa trẻ bây giờ chỉ cao khoảng 5, 6 tấc. Chúng chỉ bập bẹ được một hoặc hai từ để nói với nhau và sống trong phạm vi một cái chiếu trải dưới sàn trong buồng ngủ với đôi chân c̣ng queo quấn quanh người. Khi tôi đến thăm, chúng nh́n tôi đăm đăm và mỉm cười. Câu chuyện của người mẹ xen lẫn với tiếng nấc nghẹn ngào. Chị nói: “Tôi chỉ không biết chuyện ǵ sẽ xảy ra trong gia đ́nh tôi nay mai. Tôi mong sao nước Mỹ quan tâm đến những đứa trẻ này”.

 

Anh Nguyễn Giao (39 tuổi) có ba đứa con gái: 20 tuổi, 17 tuổi và một bé gái lên 10. Anh nằm trên một cái chiếu, hoàn toàn không có khả năng di chuyển. Toàn thân anh phủ đầy khối u to bằng trái banh golf. Những khối u lớn hơn to bằng trái bóng đá th́ ḷi ra từ chân và ngực. Tay chân anh trông khẳng khiu giống như bộ xương. Giao là một nạn nhân khác của chất độc da cam.

 

Khi c̣n bé gia đ́nh anh sống cách một căn cứ quân sự Mỹ ở Đà Nẵng chưa đầy một hai cây số. Anh vẫn nhớ những chiếc máy bay lên thẳng rải chất độc ở vùng này. Chất độc đă giết hết cá tôm. Một hôm anh ăn khoai tây bị nhiễm chất hóa học. Một thời gian ngắn sau, những khối u nhỏ mau chóng mọc khắp người anh.

 

Nhiều người bạn anh đă chết trong ṿng vài tháng hoặc vài năm sau khi người mọc đầy khối u nhỏ. Năm 1980, những khối u lớn hơn xuất hiện. Trong ṿng 10 năm anh không thể đi lại và chịu những cơn đau toàn thân triền miên, cùng với chứng đau đầu và sốt.

 

Ba con gái của Giao cũng thấy trên người mọc lên những khối u nhỏ. Các cô đều hay bị sốt, đau đầu, hoa mắt chóng mặt và thị lực giảm sút. Trước đây không một ai trong họ nhà anh có những vấn đề tương tự như thế này. Tôi hỏi: “Anh muốn nói ǵ với những người Mỹ đă gây nên chuyện này?”. Im lặng một chút - giây phút ấy dường như kéo dài ra măi - đôi mắt u uẩn chăm chăm nh́n tôi, anh nói giọng nhẹ nhàng: “Nếu như người Mỹ có thể giúp con gái tôi, tôi chỉ hi vọng họ sẽ làm điều đó”. Anh nằm xuống trong tư thế co quắp và cái nh́n cứ dán vào tôi. Tôi buộc phải nh́n đi chỗ khác.

 

Con số các nạn nhân và hoàn cảnh khắc nghiệt mỗi người mỗi vẻ thật là một điều ǵ đáng ngạc nhiên. Ông nội trong một gia đ́nh nọ là một Việt cộng đă từng sống trong vùng bị rải chất độc hóa học, con trai ông ra đời với những khối u, cháu nội ông cũng sinh ra với những khối u. Rơ ràng đó là di chứng đă ám ảnh Việt Nam trong nhiều thế hệ. Người ta tự hỏi tại sao nó không ám ảnh lương tâm người Mỹ?

 

Và lương tâm người Mỹ

 

VN đă đấu tranh với một nỗ lực tuyệt vọng để giúp các công dân của họ. Viện trợ ngắn hạn cho bất cứ hoạt động nào của chính phủ ở VN, người ta được thông báo rằng bắt đầu từ tháng 6-2001 những nạn nhân bị nhiễm chất độc rải trong chiến tranh sẽ được hưởng một số tiền tương đương 2-23 cent mỗi ngày.

 

Trong thực tế các nạn nhân VN nhận được một số tiền ít hơn tiền mà Chính phủ Mỹ bỏ ra để chuyển qua đường bưu điện những chi phiếu trả cho các nạn nhân người Mỹ. Đó là tất cả những ǵ mà Chính phủ VN có thể làm được. Xin hăy nghĩ một chút khi lần sau bạn nh́n thấy những quảng cáo về Công ty hóa chất Dow trên tivi, và giá hàng trăm ngàn đôla trả cho mỗi quảng cáo ấy.

 

Hăy nghĩ đến 2 cent mà họ không nỡ bỏ ra để trả cho những nạn nhân của chất độc dioxin. Hăy nghĩ về phương châm của Công ty hóa chất Dow - “Sống. Và cải thiện điều kiện sống hằng ngày!” rồi hăy nghĩ đến những đứa trẻ đang hấp hối, những đứa trẻ tật nguyền, những đứa trẻ ho ra máu ở những vùng núi nghèo khổ ở VN.

 

Người Việt là những người giàu ḷng vị tha, họ quy t́nh huống này cho số phận hơn là đổ lỗi cho các công ty hoặc cho một chính phủ. Đó là bản chất của người VN. Họ thậm chí c̣n khuyến khích Công ty hóa chất Dow vào đầu tư ở VN. Nó có thể là một đối tác được hoan nghênh ngày hôm nay và ngày mai trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Điều này tất nhiên không thay đổi được sự thật là có hàng triệu người chịu tác hại của chất độc da cam ở VN. Nhiều đứa trẻ đă sinh ra sau những ǵ người Mỹ để lại nơi đây.

 

Khi rời VN vào năm 1969, anh lính quân dịch K. Herrmann đă thề rằng sẽ không bao giờ trở lại. Măi 30 năm sau, người cựu chiến binh ấy mới nhận ra ḿnh chỉ rời bỏ cuộc chiến tranh chứ chưa hề “ra khỏi” VN... Làm một người Mỹ sống giữa những người Việt ngay trên đất Việt, kinh nghiệm ấy đă làm nảy sinh nơi ông những so sánh. Và một cuốn sách cũ nhắc ông nhớ nhiều chuyện mới...

 

“Người Mỹ xấu xí”...

 

 

TT - Scott Weinhold là bạn tôi và là tùy viên văn hóa của Lănh sự quán Mỹ tại TP.HCM. Anh ấy vừa rời khỏi VN để nhận nhiệm vụ khác. Scott có lần đă chia sẻ với tôi ngay trong pḥng làm việc của anh tại TP.HCM về nỗi băn khoăn của ḿnh trước việc người Mỹ nghĩ VN là một đất nước tội phạm.

Những người rậm râu sâu mắt

 

“Một đánh giá như vậy là không đúng. Hầu hết cảnh sát ở đây không mang súng và không ai có vẻ có sở hữu một khẩu súng. Tuy vậy cũng có một vài cuộc săn đuổi bởi v́ đánh bạc bị cấm ở nhiều nơi trên đất nước này. Tôi lấy làm ngạc nhiên về việc Chính phủ VN kiểm soát vũ khí rất có hiệu quả, nhất là khi chỉ cần bước qua đường biên giới với Campuchia là có thể thấy nhiều người mang súng Movement-16 thậm chí cả AK-47 nữa”. Điều này thật kỳ lạ.

 

Tôi nhớ lại những năm 1960 ở VN súng ống đầy rẫy khắp nơi. Tổ chức NRA sẽ đáp lại rằng chính phủ cộng sản đă tước đoạt của người dân quyền được mang vũ khí. Một cái quyền như vậy không tồn tại ở phần lớn các quốc gia trên thế giới. Và kết quả là ở VN có rất ít những vụ giết người. Cái quyền được mang vũ khí ở Mỹ giải thích phần nào tỉ lệ phạm tội cao trong thế giới phát triển.

 

Việc kiểm soát và nỗi hoài nghi cũng như nỗi sợ sự bành trướng của Mỹ và các quốc gia khác là một trong những cách thức quan trọng để VN ǵn giữ cái mà trong nhiều thập kỷ qua họ phải trả giá đắt bằng máu và nước mắt để đánh đuổi ách thống trị và đàn áp của các quốc gia khác.

 

Tôi đă có lần nói chuyện trực tiếp về việc người VN kiểm soát những người khách của tôi với chủ tịch Hội Hữu nghị Đà Nẵng. Hội hữu nghị này là một đối tác của chúng tôi ở Đà Nẵng. Chúng tôi nói chuyện một cách gián tiếp về những luật lệ ở VN, việc khách nghỉ qua đêm phải đăng kư với cảnh sát và sự tin tưởng. Tôi không phạm luật, mà cũng không có khách đến thăm ở qua đêm.

 

Ông đồng ư và nói thêm rằng tôi được tin tưởng bởi tôi đă làm cho Đà Nẵng những điều mà tôi cho là có thể làm. Ông hỏi xem tôi có vui ḷng tiếp một người bạn của ông trong UBND Đà Nẵng và trở thành bạn của ông không. Tôi đồng ư dành thời gian nói chuyện với bạn ông nhưng vẫn hỏi thêm: “Thế chúng tôi sẽ vẫn bị theo dơi chứ?”. Câu trả lời là một nụ cười và một cái bắt tay. Chúng tôi hiểu nhau hơn và cười x̣a. Thế là đạt đến một sự thỏa thuận. Việc kiểm soát chấm dứt.

 

Con trâu nước đi vào cửa hàng  bán đồ sứ...

 

Có những trường hợp mà thái độ ứng xử của người Mỹ trong việc giải quyết những nhu cầu rơ ràng của người VN lại trở thành một vấn đề đối mặt với chủ quyền và an ninh quốc gia của VN - cái mà đất nước này chỉ có được bằng việc hàng triệu người phải bỏ ḿnh trong chiến tranh.

 

Phản ứng của người Mỹ thường là muốn kiểm soát hoặc nắm được những ǵ họ thấy ở VN. Điều này đôi lúc cũng giống với việc một người khách đến chơi nhà bạn lại tỏ rơ ra rằng anh ta có thể giải quyết những việc trong nhà bạn một cách tốt hơn và nhanh hơn. Kết quả điều này chỉ làm hại cho những người mà cái vị khách này muốn giúp đỡ.

 

Đọc qua cuốn Người Mỹ xấu xí sẽ nhắc nhở chúng ta điều này không phải là một hành vi mới mẻ ǵ. Người Mỹ thường bỏ qua bối cảnh xă hội và chính trị bằng những kết luận đơn giản đôi khi là bởi v́ sự can thiệp vụng về của họ cũng tựa như cái cách một con trâu nước đi vào trong một cửa hàng bán đồ sứ. Kết quả là gây ra thảm họa cho những người mà họ nghĩ là cần giúp đỡ.

 

Một ví dụ. Làng Ḥa Vân, một làng phong ở gần Đà Nẵng nằm trên một cái vịnh nhỏ trông ra biển Đông. Có khoảng 300 người sống ở làng này, nhưng chỉ có 88 người bị mắc bệnh phong, những người c̣n lại là thân nhân của họ hoặc là giáo viên, công an địa phương.

 

Dân ở đây câu cá, trồng rau và lúa để tự đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đạm bạc của ḿnh. Nụ cười và vẻ niềm nở, mừng rỡ của họ khiến những ai đến thăm họ mà lại không có khả năng nh́n thấy vẻ đẹp, sức mạnh, ḷng dũng cảm bên dưới những khuôn mặt và thể xác bị tàn phá kia phải cảm thấy bối rối.

 

Những bệnh nhân ở đây phải sống với căn bệnh c̣n kinh khủng hơn cái chết, nhưng chính nó đă dạy họ những giá trị của cuộc sống mà chỉ có một ít người ở bên ngoài làng phong này thấu hiểu được. Họ hiểu cái ǵ đă xảy ra với tôi. Họ hiểu chiến tranh và một cuộc sống ḥa b́nh c̣n phức tạp hơn nữa.

 

Tôi ở lại lâu hơn khoảng thời gian nhà chức trách cho phép và làm quen với Nguyễn Văn Xung. Người đàn ông 64 tuổi này đă bị mắc bệnh phong vào năm 1973, ông đă mất đi chóp mũi, đôi tai và các ngón tay. Xung đến ngôi làng này vào năm 1974. Bây giờ ông đem hết cái cung cách nhiệt t́nh vui vẻ của ḿnh vào thực hiện nhiệm vụ phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc. Sự quan tâm giúp đỡ đă mang chúng tôi đến đây và khiến ông và tôi gần nhau hơn. Tuy vậy đó c̣n là một cái ǵ có ư nghĩa hơn thế nữa. Đó là t́nh cảm chân thật giữa người với người.

 

Khi bọn khủng bố tấn công vào nước Mỹ tháng 9- 2001, Xung - một người mà thân h́nh bị tàn phá nặng nề bởi căn bệnh phong - đă kéo tôi ra một chỗ và nói: “Tôi cảm thấy rất buồn khi hôm nay nghe được tin về thảm họa xảy ra ở Mỹ. Ông vui ḷng chấp nhận sự thông cảm của tôi dành cho đất nước ông. Tôi hi vọng ông không mất đi một người thân nào và tôi cũng hi vọng dân tộc ông sẽ mau chóng hồi phục sau sự kiện bi thảm này”. Sự đồng cảm dành cho nước Mỹ của một bệnh nhân trong một trại phong nhỏ bé khuất nẻo là thế đấy.

 

Những người nước ngoài tốt bụng thích giúp đỡ người khác thỉnh thoảng cũng ghé thăm Ḥa Vân. Tổ chức East Meets West Foundation xây dựng một trạm xá nhỏ. World Vision xây một trong hai ngôi trường học nhỏ. Tổ chức Assembly of God của Úc cung cấp đồ dùng học tập và đồ chơi cho trường học...

 

Sinh viên chúng tôi đến thăm làng này ít nhất sáu lần một năm. Lần nào họ cũng mang theo thuốc kháng sinh, oxy già, bông băng, thức ăn, quà tặng cho nhà trường hoặc học sinh. Người thầy một lần hỏi xem chúng tôi có thể mang một chiếc cassette và băng cho 20 đứa trẻ trong trường tiểu học nhỏ bé của họ không.

 

“Tôi muốn dạy các em nhỏ ca hát, giống như hoạt động của những đứa trẻ khác ở các trường khác nhưng chúng tôi không có tiền mua cassette và băng” - người thầy giáo nói. Chúng tôi chi ra 20 USD và làm được một việc là mang âm nhạc đến cho nhà trường, họ rất vui sướng.

 

Trong lần đến thăm tháng 6-2001 ấy, chúng tôi được nhân viên y tế trong làng yêu cầu hăy xét đến việc tăng lượng thuốc cho lần tới. Anh bảo chúng tôi rằng giờ đây họ không c̣n nguồn thuốc men nào khác ngoài nguồn thuốc do sinh viên của chúng tôi cung cấp.

 

Điều này thật là đáng thất vọng, đặc biệt là từ khi những cuộc viếng thăm trở nên khó được nhà chức trách chấp nhận: có một đám người Mỹ đến thăm nơi này trước chuyến đi tháng sáu của chúng tôi ít lâu. Chính hoạt động và hành vi của họ gần như đă chấm dứt nỗ lực muốn giúp đỡ những người rất cần sự giúp đỡ của người khác.

 

Người ta báo cáo lại rằng một vị mục sư đạo Tin Lành đă bộc lộ nỗi bất b́nh trước sự giúp đỡ không tương xứng của chính quyền địa phương và đề nghị trợ giúp dân làng. Ông ta gợi ư rằng sẽ tài trợ tài chính cho cả làng, với điều kiện họ phải kiến nghị với chính phủ và tuyên bố độc lập với chính quyền địa phương.

 

Người Mỹ đưa ra một sự giúp đỡ được chăng hay chớ với yêu cầu hệ thống chính trị và bộ máy chính quyền của VN cần phải thay đổi để đáp ứng được nhu cầu của người Mỹ. Điều này nói lên một cái ǵ hơn là sự nhức nhối của lương tâm khi mà 26 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, người Mỹ vẫn mưu toan làm một điều tương tự. Nó là một cái ǵ khác nhắc nhở rằng người Mỹ xấu xí vẫn tồn tại.

 

Trở lại VN qua dải đất miền Trung, ông K. Herrmann bảo, với ông, đó là nơi tràn ngập những kư ức và những thách thức mới mẻ. “Định danh “t́nh yêu” không phải là từ quá mạnh để miêu tả cái mà tôi cảm thấy về chốn này và con người ở đây”.

 

Cũng từ t́nh yêu ấy, ông quan sát và ghi nhận.

 

VN trong mắt tôi

 

Sự tin cậy họ dành cho nhau

 

Có một quan niệm cho rằng Chính phủ VN phớt lờ những nhu cầu của nhân dân. Tin tức về tham ô hối lộ khá thông thường. Người du lịch đến VN kể về hiện tượng đút lót và hối lộ cũng không hiếm. Những lời cảnh báo tràn ngập trên các website về du lịch ở VN.

Sự thật và sự phóng đại

 

Điều kiện sống của các viên chức nhà nước tốt hơn phần đông những người nghèo. Nhiều nhà lănh đạo mặc áo vest và thắt cà vạt trong khi rất nhiều người nghèo chỉ đụp lên người những bộ đồ rách rưới.

 

Đó là một h́nh ảnh về VN và trong đó có ít nhiều sự thật. Cũng có cả sự phóng đại và tưởng tượng nữa. Tham nhũng tồn tại ở VN, nó cũng tồn tại ở New York, Chicago, Los Angeles, Paris, London và bất cứ nơi nào khác.

 

Có hai sự việc xảy ra có tính tiêu biểu. Đại bản doanh của chúng tôi nằm trên một con đường giao thông chính rất đông đúc gần sân bay. Các giáo viên của chương tŕnh và những người phụ trách sinh viên sống trong ngôi nhà này. Một chiếc xe tải chở nặng gấp đôi trọng tải cho phép dừng lại trước trụ sở của chúng tôi vào một buổi sáng nọ.

 

Cảnh sát giao thông vẫy người lái xe xuống và thương lượng tiền phạt. Tài xế xe tải trả cho anh ta số tiền tương đương với 1,35 USD. Trong một trường hợp khác, người lái xe của chương tŕnh đưa sinh viên đến TP.HCM. Trong hệ thống giao thông chằng chịt ở thành phố hơn 8 triệu dân này, anh đă đi sai đường và lọt vào một đường phố chỉ được phép lưu thông một chiều.

 

Cảnh sát thổi c̣i cho xe dừng lại. Người thi hành công vụ đưa ra mức phạt là hai thùng bia. Tài xế đưa ra số tiền vào khoảng 10,25 USD. Viên sĩ quan cảnh sát lắc đầu, như thế chưa đủ, thế là tài xế của chúng tôi bèn nói: “Tôi là dân Đà Nẵng. Ở đấy số tiền này mua được hai thùng bia”. Viên cảnh sát đáp: “Anh đang ở TP.HCM, bia ở đây đắt hơn, với lại tôi uống bia Heineken”.

 

Người lái xe bèn móc túi đưa thêm cho đủ số tiền tương đương 16,89 USD và được phép đi tiếp. Mấy tháng sau, một t́nh huống tương tự lặp lại. Lúc ấy người lái xe của chúng tôi tự hào tuyên bố rằng lần này anh chỉ phải trả có một thùng bia.

 

VN xứng đáng cho một sự kiên nhẫn

 

Herb Cochran điều hành Văn pḥng Thương mại Hoa Kỳ trong một căn pḥng nhỏ ở khách sạn New World tại TP.HCM. Nhiều người Mỹ đến đây hợp tác hoặc có văn pḥng đại diện c̣n có pḥng làm việc lớn hơn căn pḥng của Cochran. Người cựu chiến binh này tỏ ra thất vọng trước những hoạt động liên quan đến hợp tác với VN trong mấy năm qua và càng ngày càng trở nên tuyệt vọng.

 

Anh bảo với tôi rằng t́nh thế hiện tại “không tốt” chút nào. “Người ta chỉ lấy tiền ra khỏi VN. Bây giờ việc kiếm tiền tài trợ cho hoạt động văn pḥng trở nên khó khăn hơn. Tôi thường phải fax đi liên tục các yêu cầu xin tiền từ các công ty Mỹ, mà tiền cũng chẳng được gửi đến”.

 

Người Mỹ và những tập đoàn nước ngoài khác t́m kiếm khoản lợi nhuận nhanh chóng ở một quốc gia như VN có thể cho rằng một thành công lâu dài không hấp dẫn đối với họ. Điều đó đă dẫn đến động thái do dự trong việc đầu tư.

 

Chính v́ thái độ quá đa nghi mà các doanh nhân Mỹ đă bỏ qua một cách vô ư thức một quốc gia sẵn ḷng hợp tác, một quốc gia có một số lượng lớn công nhân được đào tạo lành nghề, một nguồn khoáng sản tự nhiên dồi dào, ở một khu vực trung tâm sẽ thu hút sự chú ư của vùng Đông Á và khu vực châu Á - Thái B́nh Dương. Tất cả điều này đều có sẵn cho một cuộc đầu tư, hợp tác với một quốc gia, nơi tiếng Anh nhanh chóng trở thành một ngôn ngữ thứ hai.

 

Rơ ràng hoạt động hợp tác của người Mỹ có thể xem là một cái ǵ rất phi lư cũng như những hoạt động khác của Chính phủ Mỹ trước đây, trong những công việc liên quan đến VN. Điều này sớm muộn ǵ cũng thay đổi khi các tập đoàn nhận ra rằng lợi nhuận mà họ có thể có được trong cuộc hợp tác lâu dài ở VN sẽ xứng đáng với một sự kiên nhẫn.

 

Nhưng sự kiên nhẫn ở gia đ́nh tôi th́ đă cạn kiệt. Vợ tôi vững tin rằng tôi có một cuộc t́nh nào đó. Tôi cũng bắt đầu trở nên mệt mỏi trong việc thuyết phục cô rằng điều đó là không đúng. Cuối cùng tôi cũng đành bỏ cuộc. C̣n Kathy th́ không. Sự ngoan cường dai dẳng của cô là có thể hiểu được và tôi biết điều đó. Tôi càng lúc càng co lại, trong lúc nỗ lực của tôi trong việc t́m nguồn tài trợ cho chương tŕnh càng lúc càng lên cao.

 

Vợ tôi đi đến kết luận rằng nếu tôi chưa có một người t́nh th́ tôi cũng sẵn sàng cho một cuộc t́nh. Không một điều ǵ tôi nói hoặc làm có thể thuyết phục được cô nghĩ khác đi. Lúc này nh́n lại, tôi cho rằng cô ấy đúng. Trong thời điểm này, tôi có một cuộc t́nh đối với một quốc gia. Nhưng, hăy thử giải thích với vợ bạn rằng bạn đang có một cuộc t́nh với 80 triệu người xem sao!

 

Sự liều mạng đáng có!

 

VN đă giữ lời hứa một cách kỳ diệu trong khi phấn đấu để bước vào một thiên niên kỷ mới và từng bước tiến lên, khẳng định đây sẽ là một đối tác đầy tiềm năng với các doanh nhân Hoa Kỳ, các tổ chức nhân đạo, các học viện giáo dục. Cả VN và Mỹ đều sẽ chịu thiệt tḥi nếu thiếu đi một sự hợp tác như vậy. Quan điểm của người VN trong những t́nh huống này rất thú vị và đáng chú ư.

 

Một trong những ư kiến này là của vị chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TP Đà Nẵng. Chủ tịch Nguyễn Đ́nh An gợi ư rằng hai nền văn hóa khác nhau, và lịch sử đối đầu giữa VN và Mỹ có thể là cái cầu nối qua sự tin tưởng cá nhân cùng những hành vi tích cực. Ông từng phụ trách một chương tŕnh tuyên truyền cho cộng sản trong thời gian chiến tranh trong một doanh trại sĩ quan hải quân Mỹ mà không bị phát hiện.

 

Một buổi tối trong khách sạn, ông hỏi xem các sinh viên trong chương tŕnh của chúng tôi có thích thức ăn VN không. Tôi trả lời là họ rất thích. “Tôi biết rằng họ cũng thích ăn món khoai tây chiên”, ông nói. “Vâng - tôi trả lời - nhưng món này cũng là của người VN”. Ông có vẻ bối rối, v́ thế tôi giải thích rơ hơn: “Đó là bởi v́ người VN đă rán người Pháp trong cuộc chiến và đặt tên cho món khoai tây chiên sau sự kiện này (+)”. Ông mỉm cười và nói: “À, nếu vậy th́ chúng tôi cũng đă rán cả người Mỹ”. Câu đùa hóm và chua cay phải biết nhưng không hề có ác ư.

 

Ông có ư cho rằng sự khác biệt văn hóa và những ǵ lịch sử để lại sẽ là những chướng ngại vật trên con đường phát triển mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai quốc gia nếu thiếu đi sự tin tưởng cá nhân, và điều này được minh họa bởi câu chuyện của ông về một bác sĩ trong hải quân Mỹ và một bác sĩ trong quân đội VN cộng ḥa, cùng làm việc với nhau trong thời gian chiến tranh. Người bác sĩ của chính quyền Sài G̣n thật ra là một VC nằm vùng.

 

Vị bác sĩ người Mỹ đă phát hiện ra điều đó và cả hai âm thầm làm việc với nhau, lén chăm sóc những chiến sĩ VC cũng như những người Mỹ bị thương. Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, người Mỹ này quay lại. Cả hai đă có một cuộc trùng phùng đầy xúc động, họ kể cho nhau về những việc ḿnh đă làm.

 

Sau đó người Mỹ tiếp tục cung cấp thuốc men cho bạn ḿnh để người này có dịp chăm sóc những người quen biết từ trong chiến tranh. Một số người có thể coi điều này là một cái ǵ rất nhân bản. Những người khác lại có thể coi đó là một sự phản bội. Chủ tịch An th́ xem đó là một ví dụ nổi bật về t́nh người, người giúp người v́ có nhu cầu và chỉ v́ nhu cầu mà thôi.

 

Lịch sử có thể được viết lại với một kết luận phù hợp hơn nếu nước Mỹ sẵn sàng tôn trọng quyền tự quyết VN khi trở lại VN hôm nay. Vấn đề là liệu người Mỹ có sẵn ḷng chấp nhận một sự liều mạng khi tiến vào VN - nơi rất có thể họ không có khả năng quay lưng đi.

 

Đó là một quốc gia mà không một ai có thể dễ dàng rời bỏ một khi dân tộc, đất đai và truyền thống ở đó t́m được con đường đi đến trái tim những người khách ghé chơi, tất nhiên chỉ trong trường hợp bạn cho phép điều đó xảy ra. Việc này đ̣i hỏi một cái ǵ nhiều hơn là những ấn tượng mà khách du lịch mang về nhà: VN thật sự hấp dẫn, một đất nước tươi đẹp và người dân cần cù lao động.

 

VN cũng đồng thời có chính sách dè dặt, một đất nước kém phát triển, thiếu đèn đường, bảng hiệu trên các hệ thống giao thông, thiếu những chiếc xe hơi đời mới và những chiếc tivi truyền h́nh cáp. Cần phải bắt đầu bằng một sự hiểu biết về vùng đất này và sau đó cho phép khởi đầu cho một mối quan hệ với một quốc gia.

 

Giá của nó là phải t́m ra cái mà tôi đă đề cập ở trên - một sự thay đổi trong đời. Hai bác sĩ trong thời gian chiến tranh làm tất cả với một tấm ḷng trắc ẩn, chia sẻ những kinh nghiệm và họ bỏ qua sự khác biệt về màu cờ sắc áo. Hai người này đă khám phá ra rằng t́nh thương c̣n mạnh hơn bom napalm và bom tấn.

 

Chính t́nh thương này vẫn tồn tại ở VN. Nó thay đổi con người. Nó thay đổi tất cả các qui luật. Người ta có thể sẽ không bao giờ là chính ḿnh nữa một khi đă mở rộng trái tim ḿnh đối với một VN thật sự. Đây là một sự liều mạng đúng nghĩa, một sự liều mạng đáng có.

 

KENNETH J.HERRMANN

 

HỒNG VÂN (dịch)

 

---------

 

(+) Tên tiếng Anh của món khoai tây chiên là French fries, v́ thế mà có lối chơi chữ trên.

 

 


 


 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: